Mơ thấy ngực: Tốt đẹp như ý, tài vận hanh thông –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn niên để đón lành tránh dữ |
Bài viết của tác giả Phong Nguyễn
Mỗi khi coi Tử-vi cho ai mà thấy sao Đào Hoa cư Mạng là tôi nhớ tới một mẫu chuyện vừa sai lầm, vừa vui, vừa ấm ức. Khi tôi mới biết võ vẽ về Tử-vi, một lần có một cô khá kiều diễm nhờ tôi coi lá số của cô ta ra sao. Cô ta đưa cho tôi lá số do chính cô ta lập lấy, nhưng không biết giải đoán, vì mới chỉ học cách lập thành. Tôi hãy còn nhớ rõ mạng của cô cư Dần có Vũ Tướng đồng cung hội Long Phượng, Xương Khúc, Riêu, Y, Thái Tuế, Mộc Dục lại có thêm Đào Hoa tọa thủ tại cung Mạng. Sau khi đoán trúng là cô ta hợp về ngành Y khoa hoặc Dược khoa và được "người đẹp " khen đúng ( cô ta đã đậu bằng Dược) thì tôi lại bị cô ta chê hết mức khi tôi đoán là cô ta lãng mạng, đa tình. Cô ta quả quyết là từ khi trở thành một thiếu nữ đến lúc nhờ tôi coi số, không bao giờ cô nghĩ đến chuyện yêu đương, chứ chưa nói tới có mối tình nào và cô chỉ chuyên chú học hành cho đến khi thành Dược sĩ. Tôi lấy làm lạ và nghĩ là cô ta giấu diếm, vì thấy hình dáng kiều diễm và hơi cao của cô rất ứng vào các sao Vũ-Tướng ngộ Đào Hoa, nhất là Vũ-Tướng hợp với Mạng Thủy thì tại sao lại không ứng về tính nết. Tôi cũng hiểu rằng Vũ-Tướng là hai sao đứng đắn thì Đào-Hoa cũng chẳng có ảnh hưởng gì mạnh, nhưng tôi nghĩ rằng Đào Riêu Mộc chiếu Mệnh lại thêm Xương Khúc thì dù sao cũng phải lãng mạng một chút chứ. Do đó tuy nghi ngờ về sự phủ nhận của cô ta nhưng tôi cũng vẫn cố tìm ra lý do về phương diện Tử-vi. Trong khi tôi đang suy nghĩ thì cô ta hỏi tôi:
- Đào Hoa cư Dần là hoa nở ban mai có sương đọng nên tốt lắm phải không? Vì có ông thầy nói với tôi như vậy.
Lúc bấy giờ tôi mới giật nẩy mình chợt nhớ là Đào-Hoa có bao giờ cư Dần đâu (vì sao này chỉ có ở 4 vị trí là Tý, Ngọ, Mão, Dậu) và tự trách mình sao sơ xuất và kém cỏi như vậy. Tôi cũng tức luôn cả ông thày nào đó đã đoán hấp tấp, chẳng chịu kiểm soát lại các sao. Số sui có sự an sao lộn là vì cô ta mới học lập thành nên đã lầm cung Dần với cung Mão và cô ta còn đổ thừa là tại hai cung đó gần nhau quá.
Bây giờ tôi xin trở lại một chút lá số trên khi đã biết Đào Hoa an tại Mão thay vì tại Dần. Kể ra hồi đó tôi cũng còn non nớt thật, vì đâu có cần phải Đào Hoa tại Mệnh mới kiều diễm vì Vũ Tướng hội Khôi Việt (tôi quên không nêu 2 sao này ở đoạn trên) cũng đủ "hoa nhường nguyệt thẹn" rồi. Theo kinh nghiệm của riêng tôi nhất là khi Vũ Tướng là các chính tinh hợp mệnh. Và khi không có sao Đào-Hoa tại Mệnh nữa thì đương nhiên các sao Mộc, Riêu, Xương Khúc mất phe đảng "lẳng lơ" mà chỉ còn ứng vào việc học Dược khoa. (Tôi cũng cần mở ngoặc nói thêm là không phải cứ có bộ sao như trên là học Dược khoa hay Y khoa mà chỉ có thể nói là có khuynh hướng về ngành đó mà thôi, vì Tử-vi đâu có thể có những công thức chính xác quá như vậy. Điều này ông Ân Quang cũng có nêu ra trong KHHB rồi. Do đó, cô ta đứng đắn và học chăm là đúng, vì Vũ Khúc chủ cô đơn, Thiên Tướng chủ tư cách, thông minh, quân tử lại thêm các sao Xương Khúc, Long Phượng, còn sao Đào Hoa chạy sang cung Phụ-mẫu. Ngoài ra, tôi cũng cần nói thêm là khi sau này chuyển sang cung Phụ-Mẫu (có Thái Dương tọa thủ chủ về cha) thì thật là ứng, vì cô ta có cho biết là ông thân sinh có hai vợ.
Vì bị lầm lẫn chua cay như trên, nên từ đó mỗi lần coi Tử vi tôi luôn luôn ghi nhớ tới những vị trí giới hạn của một số sao (vì cũng có nhiều sao thay đổi vị trí suốt cả 12 cung), chứ không riêng gì sao Đào Hoa, và thường thường tôi thích tự lập lá số hơn là căn cứ vào lá số đã có sẵn của người khác nhờ coi, vì chỉ sợ không phải do người thành thạo lập ra.
Vậy các bạn mới tập coi Tử-vi nên thận trọng về điểm này, tuy rất sơ đẳng nhưng nếu lầm lẫn một chút thì đoán trật nhiều. Và cũng vì "hận" sao này cho nên mỗi khi có dịp thảo luận hoặc học hỏi về Tử-vi tôi thường hay mổ xẻ sao "đa tình " này. Do đó tôi cũng chưa chấm dứt bài này về sao Đào-Hoa mà còn nêu thêm một ít kinh nghiệm do một "cây tử vi" đã trao cho kẻ viết bài này về sao nói trên. Còn vấn đề đúng hay sai để các bạn xét đoán.
Vị này có nêu câu hỏi sau, với tôi trước khi "tán" về sao Đào Hoa:
-Trong 4 vị trí (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) của sao Đào Hoa, anh thấy sao này ở cung nào tốt nhất?
- Tôi trả lời liền là "ở Mão hay nhất" (không phải ở Dần đâu nghe!). Vì thường ai cũng biết là "hoa nở ban mai tươi đẹp". Thế mà vị đó lại mỉm cười một cách hóm hỉnh và nói rằng theo kinh nghiệm của ông, thì Đào-Hoa ở Ngọ hay hơn cả. Tôi cứ ngẩn người ra và chẳng hiểu tại sao mà vị đó lại ngược đời như vậy.
Dưới đây là ý nghĩa sao Đào-Hoa ở 4 vị trí, do vị đó nêu ra để tiện việc so sánh (tôi xin nói thêm là đây chỉ nói riêng về sao Đào-Hoa nên sự ứng nghiệm chỉ tương đối, vì còn phải chế hóa với các sao khác hoặc yếu tố khác):
1- Đào Hoa cư Dậu
Có thể nói Đào Hoa nếu cư cung Đoài (Dậu) thì xấu nhất, vì Đào Hoa thuộc Mộc, cư cung Kim tức là cung khắc sao. Hơn nữa giờ Dậu là lúc bắt đầu tối, ai còn thấy vẻ đẹp của Hoa (vì Đào Hoa tượng trưng cho hoa, tình ái, đàn bà con gái... ) và cũng vào giờ này là giờ tạm gọi là lúc gái đi ăn sương bắt đầu hoạt động. Điểm xấu nữa là cung Kim không có gì gọi là nước để nuôi dưỡng hoa, nên hoa phải mau héo. Do những điểm này, nếu ai, bất luận nam hay nữ có cách này thường phải chịu những mối tình đau thương, dù yêu nhau tha thiết vì hay bị tan vỡ, hoặc có những mối tình bất chính, loạn luân. Nếu chẳng may gặp người mạng Hỏa (tức là Đào Hoa sinh mạng) thực là xấu xa hơn nữa, khổ hơn nữa vì cuộc đời luôn luôn xảy ra như vậy. Để tóm tắt điểm xấu xa của cách này, vị đó nói một câu thật chí lý là người mà "đất chẳng dung" (vị đó ví cung là đất đứng của sao) thì làm sao mà sài nổi.
2- Đào Hoa cư Tý
Ở vào cung Tý (thủy) thì Hoa được nuôi dưỡng nên tươi mát, lâu héo. Ngoài ra, giờ Tý là lúc nửa đêm, chẳng phải là giờ hợp lý cho các cuộc ăn chơi mà chỉ là giờ đang ngủ. Vì thế ai có trường hợp này thường có nhiều mối tình đẹp, lâu dài, nhưng hơi khó (nghĩa là cũng có thể thực hiện được, sau khi bị trắc trở một hai lần) đi tới hôn nhân, vì đêm khuya sao làm lễ thành hôn được, chỉ "lả lướt" với nhau là thuận lợi. Như vậy, tuy hay mà còn gì đau khổ cho bằng yêu nhau tha thiết mà không lấy được nhau, càng nhiều mối tình càng tan nát con tim thêm. Tuy nhiên ai có cách này thường chung tình. Đó cũng là một điểm tốt về khía cạnh thực tế.
3- Đào Hoa cư Mão
Nếu ở cung Mão (cũng là cung Chấn tượng trưng cho Sấm) thuộc Mộc, tức là sao và cung tương hòa, và giờ Mão là giờ sáng sớm hoa có sương ban mai đọng nên cũng tươi mát nhưng khi mặt trời mọc là khô dần và héo đi. Ngoài ra hoa nở lúc có sấm thì cứ bị rung hoài, dễ bi tan tác. Do đó ai có trường hợp này thường được những mối tình tuy đẹp nhưng ngắn ngủi (không dài bằng nơi cư Tý được) và lại hay bị người ngoài cuộc đố kị ganh ghét, phá đám. Như vậy kể ra cũng không hay lắm.
4- Đào Hoa cư Ngọ
Cung Ngọ thuộc Hỏa, nhất là vào giữa trưa, mà Mộc (Đào Hoa) lại sinh cung nên Hỏa càng vượng càng làm hoa màu héo. Vì vậy bất luận Nam hay Nữ ở vào trường hợp này thường hay được người khác phái mê say, chạy theo mình, chiều chuộng mình, nhưng mình lại không thích kéo dài cuộc tình lâu dài mà chỉ ưa vui chơi trong khoảnh khắc (ban trưa còn gì là thơ mộng nữa, vì quá oi bức!)
Như vậy trên thực tế những người có thái độ đó dễ bị liệt vào loại sở khanh, bạc tình, nhưng đối với đương sự thì lại thơi thới hãnh diện vì có nhiều người yêu, không đau khổ về tình, vì có quan trọng hóa tình ái đâu. Vậy cái "hay" của Đào-Hoa cư Ngọ có tính cách chủ quan, ích kỷ. Tuy nhiên, tôi nghiệm thấy những người có cách này tuy có thể nói là bạc tình khi còn độc thân, nhưng sau khi kết hôn vẫn là người lo toan cho gia đình, miễn là đừng có sao Tham Lang đồng cung (nếu có Riêu lại càng hay, đừng sợ cách "Đào Riêu", theo phú vì chính cụ Hoàng Hạc có khen Riêu ở cung Ngọ như sen mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn).
Đến đây, tôi xin chấm dứt mục "Đào Hoa" và để các bạn phán đoán theo ý riêng của mình, vì về tình ái mỗi người có một quan niệm riêng (nhưng ĐÀO HOA cư Dậu nhất định là xấu rồi, các bạn dù có ngông cũng không nên ham cách này). Và tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa là các điều giải đoán trên chỉ đúng tương đối, vì còn nhiều yếu tố khác chế hóa. Ngoài ra, vì những điều này chỉ là ý kiến riêng của cá nhân chứ không do sách xưa (hoặc có thể vị này đã đọc được ở sách nào chăng) nên tôi mong ước được quý bạn bốn phương nghiên cứu về Tử-vi cho biết những nhận xét của mình, nếu có để cho mục này thêm linh động, hoành tráng thêm.
KHHB số 27
![]() |
Tuổi Hợi |
Tuổi Ất Hợi (1935, 1995)
- Ngày, giờ nên tránh: Ất Hợi, Ất Tỵ, Tân Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Tỵ
Tuổi Đinh Hợi (1947, 2007)
- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Hợi, Đinh Tỵ, Quý Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Tỵ
Tuổi Kỷ Hợi (1959)
- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Hợi, Kỷ Tỵ, Ất Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Tỵ
Tuổi Tân Hợi (1971)
- Ngày, giờ nên tránh: Tân Hợi, Tân Tỵ, Đinh Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Tỵ
Tuổi Quý Hợi (1983)
- Ngày, giờ nên tránh: Quý Hợi, Quý Tỵ, Kỷ Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt nên tránh: Kỷ Tỵ.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
Kinh thành Thăng Long xưa – Thủ đô Hà Nội nay là mảnh đất thiêng ngàn năm văn vật, nơi hội tụ, kết tinh những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời, nơi đây, còn lưu giữ những giá trị truyền thống, những di sản quý báu của dân tộc với hàng loạt các công trình kiến trúc cổ vô giá và độc đáo – Tiêu biểu phải kể đến “Thăng Long tứ Trấn”.
Thăng Long tứ trấn để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long đó là:
Thăng Long tứ trấn còn một cách hiểu khác đó là bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ vòng ngoài khi kinh thành trực tiếp bị đe dọa. Ngoài ra, vì ở gần kinh thành nên bốn trấn còn là những lực lượng có nhiệm vụ “cứu giá” và dẹp yên nội loạn khi kinh thành có biến. Đó là các trấn:
► Tham khảo thêm: Giải mã nằm mơ thấy cá, mơ thấy ma |
![]() |
Ảnh minh họa |
Chiêm bao thấy cái bụng cũng có thể là gợi ý gián tiếp rằng trong cuộc sống hiện tại bạn đang lâm vào cảnh"ăn không ngon, ngủ không yên" hoặc gặp phải những khó khăn và bạn đang muốn tống khứ những điều phiền toái ấy.
Giấc mơ về cái bụng cũng thể hiện niềm hi vọng và sự dễ bị tổn thương của bạn. Có thể bạn đang có khát vọng muốn thể hiện năng lực cũng như bộc lộ cảm xúc của chính mình.
Cái rốn trong giấc chiêm bao tượng trưng cho sự tồn tại và cái tôi của bạn. Giấc mơ này là điềm báo bạn đang cần tìm một chỗ đứng vững chắc cho riêng mình trong cuộc sống thực tại.
Tổng hợp
Theo ngũ hành, mỗi hướng đều tương ứng với một hành xác định. Vì thế để tìm cách hóa giải sát khí bạn cần biết hướng mà chúng đang nhắm vào nhà bạn, đặc biệt là vào cửa trước.
Trước hết, cần nắm được chu kỳ ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim.
Dùng la bàn để xác định hướng của nguồn sát khí đó. Khi đã xác định được hành của sát khí, bạn sẽ xác định được hành có thể làm lệch ảnh hưởng có hại của sát khí.
Bảng ngũ hành và hướng tương ứng
Hướng |
Hành |
Giải pháp |
Nam |
Hỏa |
Thủy |
Bắc |
Thủy |
Thổ |
Đông và Đông Nam |
Mộc |
Kim |
Tây và Tây Bắc |
Kim |
Hỏa |
Tây Nam và Đông Bắc |
Thổ |
Mộc |
Dựa vào bảng trên bạn có thể xác định được hành của sát khí và giải pháp tương ứng. Ví dụ:
- Khi sát khí ở hướng Nam, dùng đài phun nước để làm lệch hướng của năng lượng Hỏa.
- Khi sát khí ở hướng Bắc, dùng 1 bức tường bê tông tượng trưng cho Thổ hút hết Thủy.
- Khi sát khí ở hướng Đông hoặc Đông Nam, dùng hàng rào kim loại để làm lệch hướng năng lượng Mộc.
- Khi sát khí ở hướng Tây hoặc Tây Bắc, dùng đèn chiếu sáng để làm tan chảy năng lượng Kim.
- Khi sát khí ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, dùng hàng rào cây hoặc bờ dậu tượng trưng cho năng lượng Mộc bao phủ Thổ.
(Theo Phong thủy đem lại sức sống cho bạn)
Dân gian có câu: “Mùng 5, 14, 23, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn” ngụ ý nhắc nhở chúng ta không nên làm những việc quan trọng vào các ngày Nguyệt Kỵ. Vậy ngày Nguyệt Kỵ là ngày gì, ngày Nguyệt Kỵ năm 2017 gồm những gì? Hãy cùng ## tìm hiểu vấn đề này.
![]() |
Theo quan niệm dân gian, ngày Nguyệt Kỵ kiêng khởi sự trọng đại như kết hôn, động thổ, xuất hành... |
![]() |
Cửu cung phi tinh năm Đinh Dậu 2017 (Cửu cung phi tinh có sự thay đổi vị trí hàng năm) |
![]() |
Ảnh minh họa |
Cổ dài và linh hoạt: Người này dễ bị nhụt chí.
Cổ thẳng và gầy: Là người thích đi nói xấu người khác. Cổ cứng, gầy và lộ gân: Người này luôn muốn đổ lỗi cho người khác. Cổ dài và gầy: Là người có tính đua đòi. Cổ béo: Là người tham vọng nhưng lại cực kỳ mềm yếu và ham ăn. Cổ ngắn và to: Là người có quyền lực, song lại độc ác và rất xấu tính. Cổ nghiêng về phía bên trái và bên phải: Người này có vấn đề về thần kinh. Cổ hướng về phía trước, bên trái và bên phải: Là người phụ bạc.![]() |
Ảnh minh họa |
► Bói nốt ruồi đoán tính cách chuẩn xác |
Vào thời cổ đại, phản quang phần nhiều là do ao đầm, sông ngòi bên ngoài vật kiến trúc tạo thành thuộc về phản quang tự nhiên, có lúc không có cách nào tránh được. Khi ánh nắng lay động chiếu vào phòng thì hình thành “phản quang sát”.
Nếu là phản quang của sông ngòi chiếu vào phòng tức sản sinh ra ảnh sóng lay động không ổn định. Trên trần nhà trong phòng sẽ hình thành bóng nắng lay động, sẽ kích thích đến tinh thần con người khiến tinh thần căng thẳng. Thời gian dài con người sẽ sinh ra ảo giác khủng hoảng, đó là điềm báo trước của tai nạn.
Theo quan điểm khoa học hiện đại ngày nay, tần số từ trường sóng quang và tầng số từ trường bình thường cơ thể con người khác nhau rất lớn; đặc biệt là khi có sóng quang mãnh liệt kích thích mắt, từ trường sinh ra của nó sẽ phá hoại từ trường bình thường của cơ thể con người, tức sẽ giống như một bình phong chắn hết sinh khí của tự nhiên ngoài cửa nhà, trên cơ bản phá hoại sự ngưng tụ & đường vào của sinh khí.
Phản quang trong đô thị hiện đại có một phần lớn là do con người tạo ra thuộc về ô nhiễm quang. Đặc biệt có rất nhiều tòa nhà có kiến trúc tường bằng kính, ánh sáng phản chiếu của nó chiếu vào nhà ở đối diện, từ đó hình thành quang khúc xạ đối với các tòa nhà kiến trúc bên cạnh. Còn một số ô nhiễm ánh sáng là tầng trệt của tòa nhà dùng các loại đèn màu để làm bảng hiệu, công suất của bóng đèn làm bảng hiệu quá lớn, quá mạnh sẽ hình thành “phản quang sát”.
Nhìn trực quan, một số phản quang tường thủy tinh và đèn quảng cáo bảng hiệu đều rất mãnh liệt, nó không chỉ kích thích mắt khiến con người cảm thấy khó chịu dẫn đến tinh thần con người nôn nóng, dần dần sinh ra tâm lý tinh thần trốn chạy.
Dựa vào nghiên cứu khoa học hiện đại, có sóng quang có hại sẽ làm tổn thương đến tế bào não, tạo nên những bệnh phụ khoa ở phụ nữ như kinh nguyệt không đều. Vì thế, chọn nhà ở cần phải tránh sự xâm hại của các quang tuyến có hại.
Nếu nhà ở có phản quang mãnh liệt chiếu vào phòng, cách chữa là: dùng rèm cửa dày & có màu tối. Bản thân màu tối cũng có thể hút một phần ánh sáng phản xạ, khiến ánh sáng phản xạ chiếu vào phòng ít đi. Cũng có thể dùng kính mờ làm giảm ánh sáng phản quang chiếu vào phòng. Nhưng cách tốt nhất là đặt chậu cây cảnh ở cửa sổ làm một bình phong tự nhiên che chắn ánh sáng phản xạ, lại có thể làm đẹp môi trường nhà ở, có thể nói là một công đôi việc.
Một số vị trí đặt phòng tắm có rất nhiều vấn đề đó là phòng tắm nằm bên cạnh phía trên cửa trước hoặc cửa tầng hai. Các vị trí này đặc biệt có vấn đề:
– Phòng tắm ở hành lang phía trước, gần cửa ra vào, có thể rút hết khí trước khi chúng lưu thông trong ngôi nhà.
– Phòng tắm ở tầng hai, phía trên cửa trước, khiến khí khẩu tràn ngập năng lượng tiêu cực.
– Năng lượng hành thủy trong phòng tắm nằm phía trên phòng bếp sẽ dập tắt năng lượng hành hỏa của bếp nấu và làm cho toàn bộ phòng bếp tràn ngập năng lượng tiêu cực. Điều này có khả năng gây tổn hại sức khỏe lẫn sự thịnh vượng.
Nếu nghi ngờ phòng tắm đang ảnh hường đến các cung bát quái quan trọng, hãy sử dụng các phương pháp hóa giải đơn giản và các nguyên tắc về màu sắc theo phong thủy dưới đây để giử sức khỏe, của cải và hạnh phúc không trôi chảy xuống đường ống.
* Vấn đề: phòng tắm nằm ở một cung bát quái quan trọng (Phú quý, Danh vọng, Hôn nhân, v.v…) hoặc gần cửa trước.
Giải pháp: Treo một chiếc gương cao bằng người bên ngoài cửa phòng tắm nhằm làm chệch hướng khí sao cho nó không thoát đi; đậy kín chỗ thoát nước cửa lavabô và buồng tắm vòi hoa sen, bồn toilet khi không sừ dụng.
* Vấn đề: phòng tắm nằm giữa nhà.
Giải pháp: Sơn tường màu đỏ và để đồ vật bằng đá, pha lê hay đồ vật dạng hành thổ (bát, lọ hay tượng bằng gốm thô) ở một góc để giúp ổn định năng lượng; ngoài ra, nên treo gương bên ngoài cửa ra vào.
* Vấn đề: phòng tắm nằm trên cửa trước hay phòng bếp
Giải pháp: Treo đồ pha lê có cạnh ở giữa phòng tắm; treo gương tròn cỡ khoảng 7,5 cm trên trần, ngay trên bồn toilet để đảo ngược luồng nước (dùng băng dính hai mặt để gắn gương vào trần); đặt đồ vật dạng hành thổ ở các góc trong phòng tắm để ổn định năng lượng; bổ sung hình ảnh về chim chóc hay cây cối ở khu vực bên dưới phòng tắm để giúp nâng đỡ năng lượng ở đó lên.
– Phòng tắm là nơi tẩy rửa, vì thế, phòng tắm sạch sẽ giúp tăng cường và hỗ trợ năng lượng quan trọng này. Mặt khác, phòng tắm bẩn làm nổi bật đặc điểm tiêu cực cửa phòng này. Nếu phòng tắm nằm ở một trong các vị trí đầy thách thức đã nêu trên đây, điều đặc biệt quan trọng là phải giữ cho nó sạch bóng, gọn gàng và đủ ánh sáng.
Đông chí 2015 sẽ diễn ra vào ngày 22 tháng 12 dương lịch tức ngày 12 tháng 11 theo âm lịch.
1.Vận khí của Đông Chí ra sao ?
Đông Chí là giữa mùa Đông, là lúc mà Âm Khí thuần toàn ngập tràn vũ trụ, đánh dấu chu kỳ một năm chấm dứt để lập lại mùa Xuân cho năm mới.
Quẻ Phục
Tuy nói là mới giữa mùa Đông, nhưng sức sống của mùa Xuân năm mới đã bắt đầu manh nha ngay từ Đông Chí đây rồi. Dịch Lý tượng trưng sức sống của Đông Chí đó là quẻ PHỤC. Quẻ PHỤC trên có 5 hào ÂM, cuối cùng ở dưới có một hào DƯƠNG.
-- Năm hào ÂM tượng trưng cho thuần Âm,nghĩa là Dương Khí của năm cũ đã hết. Sinh khí của vạn vật đã tàng ẩn, không còn một sức sống gì hiển lộ ra bên ngoài. Năm hào ÂM cũng tượng trưng cho sự tàn lụng, vận hạn, hư vong, chết chóc.
-- Một hào DƯƠNG ở cuối dưới tượng trưng cho một sức sống mới vừa được manh nha khởi lập và vươn lên ngay từ lúc nầy để lập lại một mùa Xuân mới cho vạn vật.
Do đó mà Đạo Phật mới nói rằng Mùa Xuân năm mới đã bắt đầu ngay từ Đông Chí chớ không phải đợi đến lúc giữa đêm Giao thừa mới khởi lập mùa Xuân.
>>>Xem NGÀY TỐT trong năm mới 2016!!!
>>>Xem XÔNG ĐẤT trong năm mới 2016!!!
2. Vận khí đó ảnh hưởng đến vạn vật ra sao ?
Đông chí ứng về quẻ Phục. Đó là lúc mà sinh khí vũ trụ hồi phục. Trước ngày Đông Chí một chút là lúc mà vạn vật xem như đang chết cóng, tàn rụi vì mưa bão, gió giông, băng tuyết, thì đến ngày Đông Chí ở dưới lòng đất dương khí bắt đầu phục sinh để chuẩn bị cho trần gian một mùa xuân ấm áp mới, để đem lại cho muôn loài một sức sống mới.
Vận khí đó ảnh hưởng đến muôn vật, mà chúng ta dễ dàng nhận thấy qua các đối tượng như sau :
-- PHỤC đến với Thảo mộc : Đó là lúc mầm non vừa nhú ra ở nách lá, nách cành trong khi thân cây trơ trụi dường như chết. Bên ngoài tuy thấy dường như chết, nhưng mầm sống ẩn tàng bên trong đang nhú lên để ra lá non tua tủa mịn màng.
-- PHỤC đến với nhà Trồng tỉa: Đó là đầu mùa của các nhà trồng tỉa. Đây là lúc mà người ta lo ương hột, chiết cành, đào lỗ, xuống cây để đón mầm sống mới của Dương Khí đang nhô lên trong lòng đất.
-- PHỤC đến với con người: Mấy tháng qua, con người đã từng chịa đựng với mùa Hè oi bức, rồi mùa Thu ảm đạm, u trệ, ẩm ướt, lầy lội, mưa bão, gió giông, mùa Đông u ám, lạnh lẽo, cô quạnh, tàn lụi nay qua Đông Chí lại bắt đầu đón lấy bầu trời trong sáng, khô ráo, nghe như có cái gì hanh thông, nhẹ nhàng, sảng khoái, vui vẻ ở trong lòng. Mọi sinh hoạt ngoài trời đang bắt đầu nhộn nhịp như : đi đường xa, xây cất, du lịch, hội hè,….
-- PHỤC đến với Đạo gia: Đông Chí là mùa phục phát sanh cơ, là chỗ Âm Dương giao thới, là chỗ Kiền Khôn giao hội, là chỗ Long thăng Hổ giáng, là chỗ gặp gỡ của Anh Nhi Xá Nữ. Các Đạo gia nhắm ngay cơ hội đó mà hạ thủ công phu đúng lúc hầu tiếp thu sinh lực của đại vũ tụ đó mà bồi dưỡng tiểu nhân thân.
Các Đạo gia cũng nói:
-- Nhất kiếp tu vạn kiếp hưởng, Nhất thời thu liễm vạn thời xuân. Nghĩa là : tu một kiếp mà hưởng cả muôn kiếp. Hạ thủ công phu đúng lúc chỉ một thời mà hưởng cả vạn thời xuân.
Vậy, trong việc tu hành thế nào là đúng lúc, đúng chỗ, đúng phương pháp.
-- Đông Chí tháng 11 thuộc tháng TÝ. TÝ là đầu của 12 con giáp. TÝ là đầu của 12 năm. Tý là đầu của 12 ngày. TÝ là giờ đầu của 12 giờ. Cho nên mới nói "Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, tu trì vạn pháp Tý qui tông".
Nghĩa là :
Trời có 4 mùa trong năm mà XUÂN là mùa đầu, mùa quí nhất. Vì Xuân thì sinh hóa. Còn việc tu trì tuy có pháp môn, nhưng chỉ có TÝ là quí nhất. Vì TÝ là lúc trở về GỐC.
Vậy, TÝ là PHỤC, là phục phát sanh cơ, là phục mạng qui căn, là phục hồi sinh lực. Phục cũng là qui nguyên phản bổn, hay là phản bổn hoàn nguyên - Phục là trở về gốc, trở về nguồn, mà nguồn gốc đó là Nguyên Khí của con người. TÝ thuộc hành THỦY, thiên nhứt sanh THỦY - Có THỦY rồi mới có vạn vật trong tiến trình tạo thiên lập địa.
Bởi Đông Chí là PHỤC, là TÝ nó quí như vậy đó. Cho nên Đức Tôn Sư mới chọn khí tiết này làm mùa tu hàm dưỡng cho các tịnh trường.
>>>Đã có TỬ VI 2016 – Xem ngay !!!
>>>Đã có LỊCH VẠN NIÊN 2016 – Xem ngay !!!
3. Vận khí đó ảnh hưởng đến con người ra sao ?
Quẻ Phục có 6 hào bàn về sự trở về cùng Đạo Lý theo nguyên tắc tu thân của người xưa như sau: " TU THÂN DĨ ĐẠO, TU ĐẠO DĨ NHÂN". Tu thân thì dùng Đạo, Sống Đạo thì dùng Nhân. Mà Nhân nơi đây tức là Nguyên Khí trong con người.
Quẻ PHỤC là hình tượng gợi cho ta tu hành, tu luyện thân tâm để phục hồi Nguyên Khí.
Mùa Đông, cây cối tuy thấy trơ trụi bên ngoài, coi dường như chết là tại vì nó đang thu hút nhựa sống đem vào tàng chứa bên trong để chờ cuối Đông sang Xuân mới phóng phát sinh lực đó cho xanh cành rậm lá.
Theo đó, nếu thảo mộc không hút nhựa trở lại thì không thế nào trở nên tươi tốt lại được.
Con người mà cứ làm việc mãi, bất chấp giờ giấc ngày đêm để nghỉ ngơi phục sức thì không thể nào làm việc lâu bền được.
Vì vậy, mỗi người phải biết trọng ở chỗ biết phục, mà cốt ở chỗ tịnh, tịnh rồi mới có thể cảm. Vì có uống rồi mới có mở, có thở ra rồi mới có thể hít vô và ngược lại.
Mùa Đông tàng nạp là mùa PHỤC của một năm.
Đêm trường tĩnh mịch lặng lẽ là lúc PHỤC của một ngày.
Lòng dục tĩnh lãng vắng lặng là lúc PHỤC của thân tâm con người.
Phục chính là bước đầu của con đường trở lại, là đem cái Chân Khí Tiên Thiên Nguyên Sơ đã bị tiêu tán cho nó trở về gốc, gọi là PHỤC.
Thần khí con người cũng vậy, nếu cứ dùng mãi, phóng tán tiêu hao mãi mà không có lúc lo phục trở lại thì sẽ cạn, cạn thì mau già, dễ bịnh hoạn, mau chết, gọi là già háp, chết non, chết yểu, hưởng dương đó vậy.
Tiểu chân thân của con người là bộ máy nhỏ trong guồng máy lớn của vũ trụ đất trời.
Trời đã tiêu hao sinh lực Dương Khí từ tháng Năm, Quẻ Cấu. Cho đến tháng 10 Quẻ Khôn, thì phải lo thu phục trở lại để làm lại mùa Xuân mới.
Bộ máy nhỏ của con người đã bị tiêu hao từ sau mùa tu Hạ Chí (Cấu) đến tiết cuối Thu Phân (Bát) thì phải lo phục hồi trở lại vào Đông Chí (Phục) để làm lại mùa xuân mới trong tâm hồn. Đây là phép phản bổn hoàn nguyên hay là phản lão hoàn đồng đó vậy.
Guồng máy lớn ngoài trời đã phục phát sanh cơ thì bộ máy nhỏ trong nhân thân cũng phải lo tu cho phục phát sanh cơ đó là thuận thiên, mà thuận thiên thì sống còn. Nếu không làm vậy là nghịch thiên, mà nghịch thiên thì chết mất.
Tóm lại, Đông Chí ứng quẻ Phục. Phục là trên đường hồi phục những gì đã phóng tán tiêu hao.
Phục là trở về đường ngay nẻo chánh.
Phục là trở về cùng Đạo Lý – không xa rời Đạo Lý.
Phục là trở lại Thiên Tâm, Phật Tánh của mình.
Phục là trở về nội thân, bồi dưỡng nội thân.
Phục là trở về Chân Tâm, tìm kiếm Chân Tâm, bồi dưỡng Chân Tâm, phát triển Chân Tâm.
Nếu càng ngóng, nghe, ngó, nghĩ ra ngoài càng nhiều thì càng hao tán ba báu. Càng thâu Thần vào trong thì Thần an, Tâm Định, Trí huệ. Thân thể nhờ đó mà mạnh lành, an vui, hạnh phúc.
Tiết Đông Chí được trải dài 15 ngày từ 22.11 đến mùng 5 tháng chạp. Chúng ta nên khép mình trong thanh tịnh để thu liễm suốt 15 ngày đó.
Vậy nên tém vén gia sự thế nào để cho có nhiều thì giờ tiếp thu Dương khí để hàm dưỡng thân tâm. Bởi vì một năm chỉ có một lần Đông Chí – một tiết rất thích hợp để tu nhất kiếp ngộ nhứt thời – mà nhất thời đó là PHỤC vậy.
Mùa Đông Chí năm nay mà làm được chừng ấy thì cũng cho là quí lắm vậy!
(P/S: Bài viết sưu tầm. Nội dung và từ ngữ mang quan điểm của Đạo Phật ).
Ai muốn một người bạn trai toàn năng, giỏi kiếm tiền, biết nấu ăn, tinh tế và chiều chuộng? Vậy thì còn chần chừ gì nữa, hãy yêu ngay một trong số 4 chòm sao nam đa tài dưới đây nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham . Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái . Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối cho đời . Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu "Tham Lang Xương Khúc chính sự phiền hà".
Chú ý : Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa , hoặc sao phù tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa.
Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng.
1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn.
Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy.
Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền.
2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.
Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ.
Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó.
3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh.
Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa.
4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.
5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ.
6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi.
Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu.
Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể.
7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân.
Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ.
8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh.
Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả.
9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão.
Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách.
10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy.
Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh.
Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành.
II–Thế nào là thiện ?
1. Bàn luận rõ ràng về thiện.
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.
Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hòa thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.
2. Định nghĩa chữ thiện
Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư là giả.
Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng.
Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy.
Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục.
Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để nhĩ mục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận.
Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất kì xảy ra. Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ.
Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.
Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.
Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Tuy nhiên, ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng.
Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượi mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác.
Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn.
Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng.
Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy.
Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi.
Thế nào là đại và tiểu?Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.
Thế nào là khó và dễ?Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.
Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu.
Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy.
3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện
Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật.
Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa.
Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.
Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người;
chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy.
Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết.
Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư.
Thế nào là giữ lòng kính mến người?Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy.
Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy.
Thế nào là thành toàn việc thiện của người?Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi.
Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưu thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình cương trực không trọng bề ngoài, không ưu tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.
Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì lợi danh. Đối với những người còn mải mê tham danh, tham lợi, tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng.
Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy.
Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy.
Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn?Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích c
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nhìn từ góc độ phong thuỷ học nhà ở, phòng vệ sinh là nơi tích tụ nước, nếu toả ra quá nhiều khí ẩm thì sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.
Nước đọng lại là nước vẩn đục, mùi của nước đọng lại trong phòng vệ sinh bốc lên sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm tính của người sống trong nhà. Vì vậy, phòng vệ sinh nhất định phải có quạt thông gió hoặc cửa sổ để ánh nắng mặt trời và không khí có thể lọt vào, từ đó có thể đảm bảo được ánh sáng đầy đủ, không khí lưu thông, như vậy mới có thể làm khí uế và thuỷ khí thoát hơi ra ngoài, không khí mới được sạch sẽ, tinh khiết, có ích cho sức khoẻ con người.
Trong nhà ở hiện đại, phòng vệ sinh thường có thiết bị hút nước, vì thế mà vấn đề vệ sinh được cải thiện rõ rệt. Do vậy, phải thường xuyên chú ý đến việc thông gió phòng vệ sinh. Ngoài việc phải kịp thời loại bỏ những tạp chất bẩn ẩn náu trong phòng vệ sinh ra, còn phải thường xuyên dùng chất tẩy rửa khử trùng phòng vệ sinh, để tránh ô nhiễm và vi khuẩn sinh sôi.
Có một số nhà ở do bố trí không gian không hợp lý hoặc để tiết kiệm diện tích đã thiết kế phòng vệ sinh theo kiểu kín bưng, không làm cửa sổ hoặc không mở được cửa sổ, thậm chí quạt thông gió không khởi động thường xuyên, làm như vậy sẽ vô cùng bất lợi đối với sức khoẻ con người. Cho dù sử dụng chất khử mùi không khí cũng khó có thể cải thiện được chất lượng không khí.
Những năm gần đây, ở một số nơi trên cả nước thường xảy ra tình trạng ngộ độc khí ga rất nguy hiểm, vấn đề này ngoài do chất lượng của khí ga không đạt tiêu chuẩn và cách sử dụng không đúng ra, nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện thông gió phòng vệ sinh không tốt gây nên.
Nếu phòng vệ sinh không sạch sẽ hoặc ẩm ướt mà không thông gió thì sẽ có mùi hôi và mùi ẩm mốc bốc lên. Nếu bạn không muốn để khí Âm quá ẩm ướt bao phủ khắp căn phòng thì ngoài việc phải giữ gìn phòng vệ sinh sạch sẽ, thông thoáng ra, bạn còn phải suy nghĩ đến một số điểm sau đây:
Về màu sắc, có thể lựa chọn đồ vật có màu sắc tương phản với màu tường, đặc biệt nên sử dụng các màu nhạt như màu vàng chanh, xanh nước biển, màu hồng nhạt, màu ngà voi... từ đó sẽ đem lại cảm giác sạch sẽ cho phòng vệ sinh.
Về cách bài trí, có một số vị trí trong phòng vệ sinh có thể đặt xà phòng thơm hoặc khăn mặt có màu sắc vui nhộn, điều đó có thể làm cho phòng vệ sinh trở thành nơi lý tưởng, vừa trang nhã lại vừa lịch sự.
Nói chung, nếu diện tích phòng vệ sinh tương đối nhỏ, việc quét dọn không quá mất công, cho nên, bạn nhất định phải chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, khô ráo, và phải thường xuyên thông gió, làm cho không khí thoáng mát ùa vào bên trong, thổi đi những khí gây ô nhiễm cho phòng. Cho dù phòng vệ sinh có cửa sổ cũng phải thường xuyên bật quạt thông gió để tiêu trừ khí độc, đảm bảo không khí luôn sạch sẽ, khô ráo.
Về tẩy mùi, chất khử mùi toilet tuy rằng có hiệu quả, nhưng không bảo vệ môi trường, cho nên tốt nhất là chọn dùng một số loại nước hoa hoặc tinh dầu thơm. Có thể chọn các loại nước hoa hoặc tinh dầu có mùi thơm giúp cân bằng tâm lý, có loại mùi thơm còn có thể trị được chứng bệnh mất ngủ, đồng thời nó cũng làm suy yếu đi các khí độc hại trong phòng vệ sinh.
(Theo Phong thủy gia đình)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
sáng tạo ra một số cảnh quan kiến trúc là các cảnh quan nhân văn và khu vườn nhân tạo. Những cảnh quan này do tự nhiên hình thành và do con người tạo thành sẽ sản sinh những hiệu ứng vật lý, sinh lý và tâm lí đối với nhân loại.
Con người là thể hữu cơ có trình độ tự động hoá rất cao, có năng lực phản ứng đối với sự vật ngoại giới rất mạnh, kết cấu, màu sắc xung quanh cảnh quan môi trường hình thành dẫn đến sức hút, khí trường… đều sẽ ảnh hưởng quan trọng đa phương diện đến sức khỏe và phát triển sự nghiệp của con người.
Ví dụ: Những người sống trong cảnh quan môi trường dễ chịu, màu sắc hài hoà, thì sẽ cảm thấy hứng thú, thoải mái, tâm trạng thư thái, tư duy tinh tế, sáng tạo, vô cùng linh hoạt.
Trung Quốc thời cổ đại rất coi trọng đến đinh viện mỹ hoá, cũng rất coi trọng đến đinh viện phong thủy. Họ cho rằng: Kiến trúc đình viện, cây cối hoa cỏ, tổ hợp bố cục của giả sơn lưu thủy, phải phù hợp với yêu cầu của phong thủy, như vậy thì sẽ có lợi cho sức khoẻ cơ thể và tài vận sự nghiệp. Đây chính là ý thức cảnh quan môi trường bổ tố trong phong thủy học truyền thống, ví dụ như các khu vườn ở Tô Châu chính là mô hình mẫu mực của phong thủy cảnh quan môi trường nhân tạo.
Nội hàm của phong thủy học và một trong các sử mệnh chính là: Phải bổ tố chân lý của phong thủy học truyền thống, kết hợp tương bổ với cảnh quan môi trường học hiện tại: không chỉ nghiên cứu quy luật mỹ học, quy luật kiến trúc học, quy luật thực vật học của cảnh quan môi trường, mà càng phải đi sâu nghiên cứu kết cấu, phương vị, tư liệu, màu sắc, ngoại hình và các trường phái tin tức khác của cảnh quan môi trường có các tác dụng đối với tâm lí và sinh lý của con người. Từ đó tìm hiểu lựa chọn và tạo ra các quy luật và phương pháp khoa học của cảnh quan môi trường có lợi cho sức khỏe bản thân và phát triển sự nghiệp của mỗi người xung quanh.
Mèo chiêu tài hay mèo Thần Tài là vật phẩm phong thủy thường được sử dụng để thu hút vận may tiền bạc. Nhưng lựa chọn mèo thần tài thế nào để “sở cầu như tâm sở nguyện” thì chưa chắc ai cũng biết.
![]() |
![]() |
=> Xem phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Lịch ngày tốt giúp các độc giả giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
1. Chính Đông theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.
Tranh dòng sông, hồ
2. Chính Nam, Đông Nam theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
Tranh núi rừng
3. Đông Bắc theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.
Bát mã đồ
4. Bắc theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài lộc, may mắn của gia chủ.
Cửu ngư đồ
5. Tây Bắc theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.
Tranh Vạn Lý Trường Thành
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
![]() |
Phủ Tây Hồ |
![]() |
Văn Miếu Quốc Tử Giám |
![]() |
Đền Chử Đồng Tử |
► Xem ngày tốt đi lễ chùa chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
- Mũi ngắn, nhỏ nhưng không có khuyết điểm, đồng thời, tứ nhạc (trán, cằm, 2 gò má) đầy đặn thì chủ nhân vẫn gặt hái được những thành công nhất định trong sự nghiệp.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
- Mũi nhỏ, lỗ mũi to hoặc cánh mũi bên to bên nhỏ: Chủ nhân khó đạt được thành công trong sự nghiệp, tài vận kém, đặc biệt là giai đoạn trung niên và khi về già.
- Mũi nhỏ, Nhân Trung (phần ngấn rãnh ở giữa chóp mũi và môi trên) hẹp: Chủ nhân gặp nhiều sóng gió trong sự nghiệp, thất bại nhiều hơn thành công; nếu môi trên có ria thì ảnh hưởng xấu có thể được giảm đi.
- Mũi nhỏ và tẹt: Chủ nhân cả đời khó thành công trong sự nghiệp, cuộc sống nghèo khó, vất vả; hôn nhân khó có được hạnh phúc trọn vẹn; không có duyên về đường con cái.
- Mũi nhỏ, Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) thấp: Chủ nhân sinh ra vốn thường phải chịu cuộc sống vất vả, không có được sự trợ giúp của người thân. Tuy nhiên, độ xấu sẽ giảm đi nếu họ có đôi mắt sáng, có thần thái và đôi tai to.
- Mũi nhỏ, nhiều râu hoặc râu có màu đỏ hoặc mũi nhỏ, mặt to: Người này thường xung khắc với vợ.
- Mũi nhỏ, tẹt và lõm: Chủ nhân là người không có tài, tính cách nhu nhược, hay tự ti, tham lam, thô tục, xảo trá.
- Mũi nhỏ, mặt vuông: Là nữ giới thì không có lòng hiếu thuận; chồng gặp nhiều gian nan.
- Mặt to, mũi nhỏ: Là nữ giới tuy hết lòng vì công việc nhưng khó có được hạnh phúc trong hôn nhân hoặc khó được nhờ chồng về mặt kinh tế.
- Mũi nhỏ, khuôn mặt nở nang: Là nữ giới thường lấn át chồng, đời sống hôn nhân không mấy tốt đẹp; hay gây chuyện thị phi.
(Theo Tìm hiểu nhân tướng học theo Kinh Dịch)
Phòng ngủ là yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc giúp bạn tìm thấy một mối quan hệ tình yêu đẹp, cũng như nuôi dưỡng các mối quan hệ và giữ cho nó bền vững. Nếu đã quá lâu rồi bạn vẫn cô đơn, "lẻ bóng" một mình và vẫn đang trên hành trình tìm kiếm "một nửa" còn lại thì cần phải biết những mẹo phong thủy giúp thu hút tình yêu đến nhanh hơn nhé.
Tây Nam và Tây Bắc là hai góc quan trọng trong phòng ngủ thu hút tình yêu
Góc Tây Nam sẽ đại diện cho sự lãng mạn, tình yêu và hôn nhân. Khi bạn tạo được phong thủy tốt ở góc này, hôn nhân và tình yêu của bạn sẽ gặp được nhiều may mắn. Vì vậy, không mua nhà nếu góc phía Tây bị khuyết thiếu. Nó phải đẹp, thoáng mát và nhiều ánh sáng.
Đặt một ngọn đèn màu đỏ hoặc màu vàng vào góc Tây Nam phòng ngủ để thu hút tình yêu. Ảnh minh họa
Đặt một ngọn đèn màu đỏ hoặc màu vàng vào góc Tây Nam phòng ngủ của bạn. Điều này sẽ kích hoạt mạnh mẽ năng lượng của góc này. Việc bạn thường xuyên kích hoạt hoạt động ở phía Tây Nam sẽ giúp thu hút vận may trong các mối quan hệ của bạn.
Ngoài ra cần kiểm tra góc phía Tây Bắc của ngôi nhà. Phía Tây Bắc đại diện cho cha, chồng hay năng lượng nam giới. Nếu bạn muốn có một người chồng chăm sóc thì cần phải thắp sáng phía Tây Bắc này lên, đồng thời góc này của phòng phải thông thoáng và không bị lộn xộn. Đặc biệt cần phải nhớ, tuyệt đối không thiết kế phòng bếp ở phía Tấy Bắc của phòng ngủ.
Mẹo phong thủy để thu hút tình yêu
Tương tự như các yếu tố tiền bạc hay sức khỏe, trong phong thủy cũng có những nguyên tắc, những mẹo nhỏ riêng để thu hút tình yêu.
Bạn cần phải tìm ra các dấu hiệu động vật cho năm sinh của mình từ đó áp dụng mẹo phong thủy để thu hút tình yêu, sự "đào hoa của một con vật".
Đối với những người tuổi Tý, Thân, Thìn nên đặt một bức tranh hoặc tượng con gà (hoặc 7 bông hoa màu trắng trong bình hoa màu vàng) ở phía Tây của phòng ngủ sau đó chiếu sáng hoặc thắp sáng con vật này.
Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu nên đặt 9 bông hoa màu hồng ở phía Nam phòng ngủ. Ảnh minh họa
Đối với những người tuổi Mão, Mùi, Hợi nên đặt tượng hình con chuột (hoặc 1 bông hoa màu xanh hoặc tím trong một chiếc bình màu vàng, trắng hoặc bạc) ở phía Bắc của phòng ngủ và chiếu sáng hoặc thắp sáng con vật này.
Đối với những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu nên đặt một bức tranh hoặc tượng con ngựa (hoặc 9 bông hoa màu hồng hoặc đỏ trong một chiếc bình màu nâu hoặc xanh lá cây) ở phía Nam của phòng ngủ và chiếu sáng hoặc thắp sáng con vật này.
Đối với những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất nên đặt một bức tranh hoặc tượng con mèo (hoặc 3 bông hoa màu xanh hoặc tím trong chiếc bình màu xanh hoặc đen) ở phía Nam của phòng ngủ và chiếu sáng hoặc thắp sáng con vật này.
Nên nói về mệnh vận mỗi người tức vận hạn, đều được phổ biến trong âm lịch (cần xem trong các loại lịch vạn sự có ghi tên sao hoặc ngày tốt xấu) mang độ chính xác được tính bằng ngày.
Có những cách thức dùng để xem vận hạn trong ngày như sau :
A/- CÁCH XEM
Các phương pháp để tính cát hung cho bản mệnh :
1- Xét theo năm :
Lấy tuổi của bạn tính với Thiên Can hay Địa Chi trong năm hiện hành, để xét tính hóa hợp xung.
Thí dụ: tuổi Canh Ngọ gặp năm Mậu Tý :
- Về Bát Quái : tuổi Ngọ thuộc cung Ly là hành Hỏa, hợp với các quẻ Khảm, Chấn, Tốn hay vào các tháng ngày giờ Tỵ, Ngọ, Mùi, thuộc hướng Nam và nên tránh tháng ngày giờ Hợi, Tý, Sửu thuộc hướng Bắc.
- Về Ngũ Hành : Canh Ngọ vản mệnh Lộ Bàng Thổ gặp năm Mậu Tý là Tích Lịch Hỏa. Hỏa sinh Thổ, là được sinh nhập mất phần khắc, tốt.
Theo đó năm Mậu Tý có lợi cho tuổi Canh Ngọ, nhưng mưu sự thành công không lớn, do lửa sấm sét chỉ xảy ra vào đầu Hạ cuối Thu (tốt), còn Đông suy, Xuân diệt (xấu).
2- Xét theo tháng :
Tính qua Bát Quái của tuổi Canh Ngọ thuộc hành Thổ theo bản mệnh, sẽ gặp những tháng xấu vào mùa Đông là tháng 10, 11 và 12 (Hợi, Tý, Sửu) nên đề phòng. Xét về hóa hợp xung 3 tháng Hợi – Tý – Sửu :
- Tháng 10 (Quý Hợi, Thủy) Thổ khắc Thủy, Thổ gặp khắc xuất là mất phần khắc. Không xấu.
- Tháng 11 (Giáp Tý, Kim) Thổ sinh Kim, Thổ gặp sinh xuất. Xấu.
- Tháng 12 (Ất Sửu, Kim) xấu như tháng 11 Giáp Tý.
Xét Lục xung, Tứ hành xung, Tự hình với tuổi Canh Ngọ kỵ các tháng Tứ Tuyệt : Tý, Ngọ, Mão, Dậu tức tháng 2, 5, 8 và 11. Canh Ngọ còn gặp Tự hình vào tháng 5. Cát hung như sau :
- Tháng 11 (Giáp Tý, Kim) gặp khắc xuất, xấu.
- Tháng 2 (Ất Mão, Thủy) Thổ khắc Thủy, tuy gặp khắc xuất, nhưng không xấu.
- Tháng 5 (Mậu Ngọ, Hỏa) Ngọ gặp Tự hình, là Ngọ tự hình với Ngọ. Khi gặp năm tháng Tự hình phải xét đến Thiên Can, Địa Chi và Ngũ hành nạp âm giữa tuổi với năm hiện hành.
Như tuổi Canh Ngọ Lộ Bàng Thổ với tháng Mậu Ngọ Thiên Thượng Hỏa.
Về Thiên Can, Canh chỉ kỵ với Giáp. Canh (dương Kim) có Mậu (dương Thổ) sẽ hóa Kim. Lưỡng Kim thành khí là hợp mệnh. Về Địa Chi, Ngọ với Ngọ đều thuộc dương Hỏa, thuộc thế lưỡng Hỏa thành viên hợp mệnh. Về nạp âm Hỏa sinh Thổ, nên cũng rất hợp với mệnh.
Cả ba vế Thiên Can, Địa Chi, Ngũ hành nạp âm cho thấy tuổi Canh Ngọ dù găp tháng Mậu Ngọ tự hình (hay găp tuôi, găp năm)̣ vẫn tốt, không mất phần phúc.
- Tháng 8 (Tân Dậu, Mộc) Mộc khắc Thổ, gặp khắc nhập, xấu.
- Xét Lục hại : Sửu (tháng 12, Ất Sửu, Kim) hại Ngọ, vì Thổ sinh Kim, nên Ngọ gặp sinh xuất mất phần phúc.
- Xét Tứ Tuyệt : Ngọ tuyệt với Hợi (tháng 10, Quý Hợi, Thủy), Thổ khắc Thủy, Ngọ khắc xuất, không xấu.
- Xét Tam tai : như tuổi Canh Ngọ gặp tam tai tháng, ngày tại : Thân, Dậu, Tuất (tháng 7, 8 và 9) :
Tháng 7, 8 (Canh Thân, Tân Dậu thuộc Mộc) Mộc khắc Thổ, Ngọ gặp khắc nhập xấu.
Tháng 9 (Nhâm Tuất, Thủy) Thổ khắc Thủy, Ngọ gặp khắc xuất, không xấu.
- Xét Lục hợp : Ngọ hợp với Mùi (tháng 8, Tân Dâu, Môc) nhưng Mộc khắc Thổ, Ngọ gặp khắc nhập xấu, nên chuyển từ cát sang hung.
- Xét Tam hợp : Ngọ hợp với Dần, Tuất (tháng 1, tháng 9), tháng 9 như đã nói Ngọ gặp khắc xuất, còn tháng giêng (Giáp Dần, Thủy) Thổ khắc Thủy, Ngọ gặp khắc xuất nên cũng không xấu.
Các tháng còn lại là những tháng không cần lưu ý :
- Tháng 3 (Bính Thìn, Thổ) tốt. Lưỡng Thổ thành sơn
- Tháng 4 (Đinh Tỵ, Thổ) tốt. Lưỡng Thổ thành sơn.
- Tháng 6 (Kỷ Mùi, Hỏa) tốt. Hỏa sinh Thổ.
Xét theo 12 tháng, chúng ta có thể kết luận được những tháng cát hung cho bản mệnh, theo thí dụ trên với tuổi Canh Ngọ vừa được diễn giải, ta có :
- Tháng tốt : tháng 5 dù gặp Tự hình nhưng từ hung chuyển sang cát, cùng các tháng 3, 4 và 6 đi từ Thìn đến Mùi như bản mệnh (nói ở phần xét năm) là rất hợp.
- Tháng khắc mà không xấu : tháng 1, 2, 9 và 10, là những tháng không nên mưu sự hay làm những việc to lớn, đầu tư những chuyện nhỏ để chờ thời cơ. Tuy không xấu nhưng cũng không được tốt, vì chỉ là “mất phần khắc” thôi.
- Tháng xấu : tháng 7, 8, 11 và 12, làm việc gì cũng nên suy nghĩ phân tích cho kỷ, không nên đầu tư mọi viêc lớn nhỏ nào sẽ không có lợi.
3/- Xét theo ngày :
Sau các yếu tố xét về năm, tháng cho mệnh vận, để vận dụng những tháng tốt xấu xem các tinh đẩu tọa thủ trong ngày.
Ở phần này chúng tôi diễn giải cách tính hung kiết cho một ngày, và qua các thí dụ đã xuyên suốt từ trên cho tuổi Canh Ngọ lấy làm điển hình cho những tuổi khác.
Theo thí dụ : tuổi Canh Ngọ bản mệnh Lộ Bàng Thổ tức đất đường lộ, cung Ly, tính ngày Đinh Sửu trong năm Mậu Tý :
1- Theo tháng : ngày Đinh Sửu thuộc tháng giêng (Giáp Dần) năm Mậu Tý. Về tháng Dần không ảnh hưởng đến hung kiết, vì tuổi Ngọ được khắc xuất (đã diễn giải phần xét theo tháng), thêm tam hợp Dần, Ngọ, Tuất, được xem là tháng thứ kiết, do mất phần khắc, không được phần phúc.
2- Theo ngày : ngày Đinh Sửu thuộc hành Thủy (Giang Hà Thủy, nước sông dài), Thổ khắc Thủy cũng là khắc xuất với tuổi Canh Ngọ, đất đường lộ có thể cản được nước sông dài. Đồng thời Đinh Sửu thuộc cung Ly, tuổi Canh Ngọ cũng mệnh Ly, tức lưỡng Hỏa thành viên.
Theo phép coi “Ngũ mệnh đặc quái” : lửa gặp lửa sẽ bốc cháy lên to, tuy vậy nhưng không có nhiều may mắn. Có tiểu nhân rình rập ám hại (là do gặp khắc xuất mất phần khắc, nếu là sinh nhập tức được phần phúc sẽ đại cát).
Qua 2 bước trên chúng ta tính đến nhóm sao Nhị Thập Bát Tú và 12 ngày Trực.
3- Nhị Thập Bát Tú : có sao Đẩu tọa thủ, mang tính chất :Đẩu Mộc Giải (Cua, sao Mộc) tốt mọi việc.
Tác giả soạn theo bộ lịch Ngọc Hạp Thông Thư của đời nhà Nguyễn ban hành, cho rằng sao Đẩu là cát tinh (trong bộ Trạch Cát Hội Yếu của Trung Hoa lại ghi, sao Đẩu xấu mọi việc). Tuy nhiên chúng ta nên xét đến sự sinh khắc thuộc Ngũ hành.
Thí dụ tuổi Canh Ngọ mệnh Thổ gặp sao Mộc là Mộc khắc Thổ, tuổi Ngọ gặp khắc nhập tức mất phần phúc, xấu.
Những cung mệnh khác như hành Hỏa, hành Kim gặp sao Đẩu là tốt vì được sinh nhập, khắc xuất. Còn hành Thủy, hành Thổ xấu, vì gặp sinh xuất (Thủy sinh Mộc), khắc nhập (Mộc khắc Thổ).
4- 12 ngày Trực : ngày Đinh Sửu có Trực Bế, xấu mọi sự, trừ việc đắp đê, lấp rảnh. Mọi tuổi đêu không dùng được.
5- Tinh đẩu tọa thủ : trong ngày Đinh Sửu có :
Sao tốt : Thiên đức, Tuế hợp, Tục thế, Đại hồng sa, Trực tinh – Hoàng đạo Minh Đường.
Sao xấu : Địa tặc, Hoang vu, Hỏa tai, Nguyệt hư, Cô quả, Cửu thổ quỷ, Bát phong, Huyết chi, Huyết kỵ.
Ngày Đinh Sửu tức mùng 1 tháng giêng năm Mậu Tý
- Có Thủy ngấn thuộc tinh đẩu phục vụ ngành nông lâm ngư nghiệp.
- Không có những ngày : Nguyệt kỵ, Nguyệt tận, Tam nương, Dương Công kỵ nhật
- Không có các tinh đẩu như Tuế đức, Xích khẩu, Long Thần hành, Đại tiểu không vong, Sơn ngấn, Kim Thần Thất Sát, Thập Ác Đại Bại.
- Theo Tiết khí : không có Tứ Ly, Tứ Tuyệt
- Hoàng đạo, Hắc đạo : ngày Đinh Sửu có Minh đường Hoàng đạo, nên có các giờ tốt : Tý, Sửu, Mão, Ngọ, Thân, Dậu. Không có ngày giờ Hắc đạo.
- Tránh giờ Sát Chủ và Thọ Tử : Sát chủ vào giờ Dần, Thọ Tử vào giờ Ngọ.
B/- TINH ĐẨU VÀ CÔNG VIỆC
Ứng dụng các tinh đẩu tọa thủ trong ngày có ghi trong các loại lịch vạn sự, vào các việc cần làm, sẽ thấy có các nhóm tinh đẩu chủ cho một công việc mang tính cát hay hung, được liệt kê sau đây.
Như vào thời phong kiến, triều đình có 67 việc cần làm, còn dân chúng có 37 việc đáng nhớ. Nhưng nay chỉ những việc đáng quan tâm về tính cát hung dùng để chọn ngày lành tránh ngày dữ như sau :
- Chọn cát tinh : (những sao tốt mọi việc) gồm Thiên đức, Thiên đức hợp, Nguyệt đức, Nguyệt đức hợp, Tuế đức, Tuế hợp, Thiên phú, Thiên quý, Thiên ân, Thiên Thụy, Thiên thành, Thiên quan, Nguyệt ân, Ngũ Phú, Tam hợp, Ngũ hợp, Lục hợp, Hoàng ân, Cát khánh, Âm đức, Mãn đức, Thời đức, Đại hồng sa, Phúc sinh, U vi tinh, Quan nhật.
- Nhóm sao Hoàng đạo có Thanh long, Minh đường, Ngọc đường, Kim đường, Kim quỹ, Tư mệnh.
- Nhóm ngày Trực tốt gồm Trực Trừ, Trực Bình và Trực Khai.
- Nhóm Nhị thập bát tú các sao tốt gồm Phòng, Vĩ, Cơ, Đẩu, Thất, Bích, Lâu, Vị, Tất, Tỉnh, Trương, Chẩn.
- Nhóm giải hạn : Giải thần, Thiên giải, Nguyệt giải, Bất tương, Thiên quý, Minh tinh, Sát cống, Nhơn chuyên, Trực tinh (3 tinh đẩu sau gặp Thất sát, Lục tinh không gây được tác dụng giải trừ), Hoạt diệu (gặp ngày Thọ tử sẽ trở nên xấu, không dùng được).
- Tránh hung tinh : (mọi việc nên tránh) gồm Sát chủ, Thọ tử, Vãng vong, Thiên cương, Kiếp sát, Kim thần thất sát, Thập ác đại bại, Đại hao, Trùng tang, Hoang vu, Thiên lại, Thiên hỏa, Tai sát, Tiểu hồng sa, Nguyệt phá, Nguyệt hình, Băng tiêu, Cửu thổ quỷ (tinh đẩu này sẽ thành đại hung khi tọa thủ cùng ngày với Trực Kiến, Phá, Bình, Thâu, còn gặp nhiều cát tinh, nhất là những ngày Hoàng đạo không kỵ).
- Nhóm sao Hắc đạo có Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ, Câu trận, Thiên hình, Thiên lao.
- Ngày hung kỵ : Nguyệt kỵ, Nguyệt tận, Tam nương, Dương công kỵ nhật, Tứ ly, Tứ tuyệt.
- Nhóm ngày Trực có Trực Phá, Trực Nguy, Trực Bế.
- Nhóm Nhị thập bát tú : Đê, Tâm, Nữ, Hư, Nguy, Mão, Chủy, Sâm, Quỷ, Liễu, Dực.
Sau khi xét 2 nhóm Cát tinh và Hung tinh, trong từng hạng mục sau đây có những tên tinh đẩu trùng lắp vì chúng thuộc sao chủ thể cần được lưu ý. Nếu gặp nhiều hung tinh cần có nhóm sao giải hạn kềm cặp để hóa giải.
XEM NGÀY XÂY DỰNG : Bao gồm ký kết mua bất động sản, động thổ đổ móng, cất nhà, gác kèo, lợp mái hay đại trung tu nhà, khởi sự công việc mới, làm bếp, sửa lò. Những tinh đẩu chủ về xây dựng :
- Tốt : ngoài nhóm Cát tinh, thêm Thiên phú (tọa thủ cùng ngày với trực Khai rất tốt), Sinh khí, Nguyệt không, Kim quỹ, Tư mệnh, Lộc khố. Trực Thành, trực Chấp. Sao Giác, Khuê, Chủy, Sâm, Tinh (sao Tinh chỉ tốt cho sửa chữa nhà làm mái, làm bếp, dựng buồng).
– Xấu : ngoài nhóm Hung tinh, còn có Kiếp sát, Sát chủ, Thọ tử, Vãng vong, Thiên xá (nếu gặp Sinh khí không ky), Thiên hỏa, Thiên ôn, Thiên tặc, Thiên địa chuyển sát, Tam tang, Trùng tang, Trùng phục, Nguyệt phá, Nguyệt hỏa, Hỏa tai (2 tinh đẩu sau tránh làm bếp, sửa bếp, đặt lò), Nguyệt tặc, Hoang vu, Thổ phù, Thổ ôn, Thổ cấm, Lỗ ban sát, Phủ đầu dát, Lục bất thành, Ngũ hư, Hỏa tinh, Lôi công.
Trực Kiến, trực Thâu, trực Khai. Sao Cơ.
- Nhập trạch : tránh các sao Thiên tặc, Tai sát, Ly sào, Chu tước.
- Phép quyền biến : trong xây dựng có nhiều tinh đẩu thuộc hung sát tinh rất ít cát tinh, vì vậy trong tháng nếu gạn lọc chỉ được từ hai đến ba ngày tốt. Nếu chờ có ngày tốt để khởi sự e rằng sẽ hỏng việc, vì thế cổ nhân đã chế ra phép quyền biến trong xây dựng như sau:
Nếu gia chủ không được tuổi (xem tuổi qua phép Tứ Kim Lâu, Lục Hoang ốc) mà buộc phải xây dựng trong năm, nên tìm người hợp tuổi đứng ra thay thế cúng kiến làm lễ động thổ cúng thành hoàng bản địa, các cô hồn uổng tử. Khi xây dựng nhà xong, người đóng thay soạn mâm lễ tại nhà mới vái van đến thành hoàng bản địa giao lại chìa khóa nhà cho gia chủ như cho thuê nhà.
Đến năm gia chủ đã hợp tuổi xây dựng, lúc đó mới chọn ngày giờ cúng tế như lễ thú phạt với thành hoàng, thổ công, thổ địa rồi tổ chức mừng tân gia.
XEM TUỔI LỤC HOANG ỐC – TỨ KIM LÂU
- Cách xem Lục Hoang Ốc : Khởi đếm 10 tuổi âm lịch tại Nhứt kiết, 20 Nhì nghi, 30 Tam địa sát, 40 tại Tứ tấn tài, 50 tại Ngũ thọ tử và 60 tại Lục hoang ốc theo chiều thuận kim đồng hồ. Nếu tuổi lẻ, thí dụ tính tuổi 33, tính 30 ở Tam địa sát, 31 ở Tứ tấn tài, 32 ở Ngũ thọ tử và 33 ở Lục hoang ốc là xấu, phải qua 34 tuổi sẽ ̃ở cung Nhứt kiết mới tốt. Các cung Nhứt kiết, Nhì nghi, Tứ tấn tài là tốt, còn Tam địa sát, Ngũ thọ tử và Lục hoang ốc là xấu.
- Cách xem Tứ Kim Lâu : cũng tính theo chiều thuận, khởi đầu tại cung Khôn đếm là 10, Đoài là 20, Kiề̀n 30, Khảm 40, cung trung 50, cung Cấn 60… tiếp tục các cung Chấn, Tốn, Ly. Người tuổi 50 không xây dựng được vì “ngũ thập nhập cung trung” năm trời đất. Tứ Kim Lâu có 4 cung tốt là Đoài, Khảm, Chấn, Ly còn 4 cung xấu mang các tính chất như :
Người tuổi lẻ có cách tính như Lục Hoang Ốc, thí dụ tuổi 54, tính 50 ở cung trung, 51 ở cung Cấn, 52 ở cung Chấn, 53 ở cung Tốn và 54 ở cung Ly là tốt (nhưng theo Lục Hoang Ốc thì 54 lại xấu, vì 50 ở cung Ngũ thọ tử, 51 ở Lục hoang ốc, 52 ở Nhứt kiết, 53 ở Nhì nghi và 54 ở Tam địa sát). Người tuổi 54 cũng không xây dựng được.
Tuy nhiên cách tính tuổi Tứ Kim Lâu và Lục Hoang Ốc, có 8 tuổi không kỵ việc xây dựng bất cứ năm nào, là các tuổi : Tân Mùi, Nhâm Thân, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Sửu, Nhâm Dần, Kỷ Mùi và Canh Thân.
Khi phối hợp 2 cách tính Lục Hoang Ốc và Tứ Kim Lâu, nếu cả hai đều nằm trong cung tốt mới thực sự là được vận khí, tốt cho việc xây dựng hay tu tạo nhà cửa. Còn gặp một trong hai cách, chỉ vào thứ kiết.
XEM VỀ HÔN NHÂN : Gồm các lễ vấn danh, hỏi cưới, nhập gia, nhập phòng.
- Tốt : chọn ngày giờ Hoàng đạo và cát tinh cùng sao Thiên hỉ (hóa giải được Cô thần), Ích hậu, Tục thế, Yếu yên. Trực Kiến. Sao Giác, Cang.
Tìm hướng xuất hành trong hôn nhân có Hỉ thần và Tài thần, tránh hướng Hạc thần.
- Xấu : tránh những ngày Hắc đạo, tránh Hung Sát tinh và các sao Kiếp sát, Vãng vong, Ly sào, Ly sàng, Tứ Ly, Tứ tuyệt, Nguyệt yếm, Nguyệt hư, Tam tang, Trùng tang, Âm thác, Dương thác, Cô thần, Quả tú, Tứ thời Cô quả, Tai sát, Nhân cách, Ngũ hư, Xích khẩu. Sao Cơ, Khuê.
- Phép quyền biến : hai họ đã chọn ngày giờ Hoàng đạo để đón rước dâu, nhưng đường sá kẹt xe nên giờ Hoàng đạo đã bước qua, người ta dùng phép quyền biến là tạm thời cha mẹ chú rể lánh mặt cho nhà gái vào nhà trước rồi mới xuất hiện sau. Vì theo phép xã giao, cha mẹ chú rể phải có mặt đón bên nhà gái, dẫn dâu vào nhà.
XEM KHAI TRƯƠNG, CẦU TÀI : Bao gồm khởi sự việc mới, khai trương, mở cửa hàng đầu năm, gặp gỡ, ký kết hợp đồng, cầu tài lộc. Sau khi chọn sao nhóm A tránh nhóm B :
- Tốt : Thiên phú, Thiên mã, Thiên tài, Kim quỹ, Lộc khố, Địa tài, Nguyệt tài, Mẫu thương, Phúc hậu. Trực Mãn, Định, Thành, Thâu, Khai.
- Xấu : Sát chủ, Vãng vong, Thập ác đại bại, Tiểu hao, Thiên tặc, Cửu không, Đại, Tiểu không vong, Lục bất thành, Nguyệt hư, Xích khẩu, Hắc đạo Chu Tước. Trực Chấp.
XEM HƯỚNG XUẤT HÀNH, HAY MUỐN THAY ĐỔI : Bao gồm ngày đầu năm, đi thực hiện công việc mới, đi xa, muốn thay đổi, di chuyển. Chọn nhóm Cát tinh tránh nhóm Sát tinh cùng các tinh đẩu khác :
- Tôt : Thiên mã, Dịch mã, Nguyệt tài, Phổ hộ, Mẫu thương. Trực Kiến.
– Xấu : Vãng vong, Kiếp sát, Địa tặc, Nguyệt yếm, Hoàng sa, Ngũ quỹ, Cửu không, Âm thác, Dương thác, Ly sào, Đại, Tiểu không vong, Quan nhật, Tiểu hao, Thất sát, Hà khôi (nếu đi về đường sông biển), Thập ác đại bại, Dương công kỵ nhật. Trực Chấp, trực Thâu.
- Phép quyền biến : dùng thuật “Tứ tung ngũ hoành”, khi muốn đi xa nhưng ngặt nỗi ngày xuất hành lại quá xấu, chọn hướng không có đường đi. Người muốn xuất hành phải đứng ở giữa cửa nhà, chắt lưỡi đúng 36 lần, rồi dùng ngón tay trỏ vạch 4 đường dọc, tiếp theo là 5 đường ngang, miệng khấn vái xin đi gặp may mắn, và bước đi thẳng không ngoái cổ lại.
XEM NGÀY AN TÁNG, CẢI TÁNG : Bao gồm tẩn liệm, động quan, hạ huyệt, bốc mả, sửa chữa mồ mả. Khi di quan nên chọn ngày giờ Hoàng đạo, hướng Hỉ thần, Tài thần, tránh hướng Hạc thần và ngày giờ Hắc đạo.
- Tốt : Nhóm cát tinh, cùng Thiên phú, Tư mệnh, Kính tâm. Sao Quỷ.
- Xấu : các sao Hắc đạo Bạch Hổ, Huyền Vũ, Câu Trận, Thiên hình, Thiên lao, cùng Thọ tử, Sát chủ, Kiếp Sát, Tam Tang, Trùng Phục, Trùng Tang, Tứ thời Đại Mộ, Thổ Ôn, Thiên Tặc, Địa Tặc, Thổ Phù, Nguyệt Kiên, Thổ Cấm, Ngũ Hư, Nguyệt Sát, Quỷ Khốc, Âm thác, Dương thác. Trực Khai, trực Thâu. Sao Giác, Cang, Khuê, Tỉnh.
– Phép quyền biến : chỉ sử dụng từ sau tiết Đại Hàn 5 ngày, là chôn cất không cần xem ngày chọn giờ tẩn liệm, động quan và hạ huyệt, vì các vị thổ thần đang bận rộn đón Xuân (sắp vào tiết Lập Xuân) cũng như đang lo thủ tục tống cựu nghinh tân.
Từ ngày 23 đến trưa 30 tháng chạp cũng không cần coi ngày giờ, đồng thời theo phong tục tập quán cũng không để người chết nằm trong nhà khi bước qua năm mới đưa đi chôn. Phép quyền biến này được gọi là Thừa loạn mai táng.
Còn phép Thừa hung mai táng, như ngày giờ động quan, di quan hay còn gọi ngày phát dẫn, quan trọng như xem ngày giờ Hoàng đạo để đón dâu. Là lúc người chết bị vận đen (chết do tai nạn, chết oan), một là đem xác đến tang nghi quán, hai để xác ngoài đầu hè. Rồi dùng cách quyền biến Thừa hung mai táng trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 ngày, không cần chọn ngày giờ, dù là ngày có Kim thần thất sát tọa thủ, vẫn di quan hạ huyệt, rồi chờ đến tiết Thanh Minh đến đắp mả và làm lễ tạ tội tại mộ. Tức “lấy độc trị độc” trừ vận đen không theo đuổi người sống, và người sống không còn bị ám ảnh bởi người chết.
XEM NGÀY TẾ LỄ, CHỮA BỆNH : Bao gồm cúng tế cầu phúc, cầu an, cầu con, giải hạn, chữa bệnh cả về sửa tướng, sửa sắc đẹp. Trong nhóm Cát tinh có nhiều tinh đẩu mang tính giải trừ tai ương tật ách, nhưng các sao chủ gồm Thiên xá, Thánh tâm, Giải thần, Phổ hộ, Bất tương, Sát cống, Trực tinh, Nhân chuyên. Trực Mãn. Sao Cang.
Nên tránh gặp các sao hung như Thiên ôn, Thổ ôn, Thần cách,Tội chí, Quỷ khốc và Trực Định.
XEM NGÀY VÀO ĐƠN KIỆN THƯA, TRANH CHẤP : Bao gồm vào đơn thưa kiện, tranh chấp phân chia, ly hôn (thuộc các án dân sự). Ngoài các Cát tinh mang tính giải hạn, nên tránh các ngày Hắc đạo là Chu tước, Huyên vũ cùng Nguyệt đức hợp, Sát chủ, Vãng vong, Thập ác Đại bại, Tội chí, Thần cách, Thiên hình, Thiên lao, Xích khẩu, Thổ Ôn. Trực Định.
XEM NGÀY ĐI MUA VẬT DỤNG :
Trong các cách đáng quan tâm là việc tìm ngày để đi mua vật dụng phục vụ đời sống nhằm mưu cầu tài lộc. Tuy nhiên dù ngày có các Cát tinh phù hợp, nhưng bản mệnh khắc với Can Chi ngày hiện hành tức gặp khắc nhập, sinh xuất mất phần phúc, việc mua vật dụng sẽ không như các tính chất được nói sau đây :
- Mua bóp, mua tủ, xe cộ : là hai thứ dùng chứa tiền, giữ tiền, mong cho tiền đẻ thêm tiền. Ngoài các ngày giờ Hoàng đạo, đi hướng Tài thần, cần có ngày Kim quỹ, Lộc khố đi cùng Thiên phú hay Thiên quý, Yếu yên, thêm ngày Trực Khai, trực Mãn sẽ tốt đẹp. Nên tránh ngày Sát chủ, Thiên tặc, Địa tặc (có thể bị trộm cướp viếng).
Ngoài việc mua bóp, mua tủ dùng chứa đựng tiền bạc, xe cộ là một động sản cần thiết dùng làm phương tiên di chuyên lo công việc làm ra tiền. Nên ngoài những tinh đẩu kể trên tìm thêm sao Thiên mã, Dịch mã là 2 tinh đẩu chủ về đường đi và sự thay đổi may mắn.
- Mua giường: là thứ vật dụng cần thiết cho hôn nhân và cầu con. Chọn ngày giờ Hoàng đạo đi hướng Hỉ thần, tìm sao Thiên hỉ, Kính tâm, Ích hậu. Trực Mãn, trực Kiến. Tránh Sát chủ, Thiên ôn, Thổ ôn, Lỗ ban sát, Hoang vu, Quỷ khốc, Âm thác, Dương thác, Tứ thời Cô quả hay Cô thần, Quả tú, Tứ ly, Tứ tuyệt. Ngày sao Khuê, sao Cơ.
- Mua bếp: tối kỵ mua ngày mùng 1 và 25 mỗi tháng, các ngày Dương công kỵ nhật, Nguyệt kỵ, Nguyệt tận, Tam nương, Sát chủ, Thiên hỏa, Nguyệt hỏa, Lỗ ban sát. Tìm ngày Trực Thành, trực Khai, sao Tinh cùng Thiên quý, Thiên phú, Yếu yên,o Địa tài, Nguyệt tài, Nguyệt không và Phục đoan.
XEM VỀ NÔNG LÂM NGƯ NGHIỆP : Những tinh đẩu trực tiếp với các nghề nông lâm ngư nghiệp không nhiều, vì tính cát hung đã thể hiện trong các tinh đẩu hàng ngày. Có một số tinh đẩu mang tính chất đặc thù, như :
– Gieo trồng : tốt khi có thêm Sinh khí và sao Mão, xấu với Địa hỏa, Khô tiêu, Ngũ hư.
– Làm chuồng cho gia súc : tốt vào ngày Nguyệt tài, xấu gặp Sát chủ, Thiên ôn. Còn chọn ngày thả gia súc đi rông, kỵ ngày Phi liêm đại sát.
– Thiến mổ xỏ mũi gia súc : kỵ các sao Đao chiêm sát, Huyết chi, Huyết kỵ.
– Trừ sâu bọ: có ngày Phục đoan.
– Đào ao, đào giếng : nuôi cá, lấy nước kỵ các sao Thổ ôn, Địa tặc.
– Làm men, làm nước chấm : những thứ vùng nông thôn thường tự sản xuất, như làm men lên rượu, làm nước tương, vùng biển làm nghề nước mắm, hay những loại nước chấm lên men như mắm tôm, mắm cá kỵ gặp ngày Thủy ngấn.
- Ra sông ra biển : theo nghề chài lưới, đánh bắt cá hay du lịch trên sông biển, kỵ các ngày Long thần hành, Hà khôi, Bát phong, Diệt môn.
- Săn băn, đốn củi : tốt với ngày Thọ Tử nhưng xấu với sao Sơn ngân.
XEM VỀ MÀU SẮC : Mỗi tuổi hợp với một màu, cụ thể như :
Người thuộc Đông trạch (Khảm, Ky, Chấn, Tốn thuộc Cung Phi) : – Khảm : hợp màu đen (hay xanh đen) – Ly : Đỏ tía (màu đỏ + xanh), màu hồng đậm – Chấn : Các màu xanh - Tốn : các màu xanh nhạt, sáng trắng.
Người Tây trạch (Đoài, Kiền, Cấn, Khôn thuộc Cung Phi) : – Đoài : màu trắng (hay các màu vàng nhạt) – Kiền : Đỏ đậm (màu đỏ + đen), hồng nhạt, trắng – Cấn : các màu vàng – Khôn : màu vàng và đen.
Về tuổi Cung Phi chúng tôi sẽ có bài viết riêng.
Như người Đông trạch, hay người Tây trạch cùng đồng mệnh, có thể sử dụng màu sắc lẫn nhau, nhưng có 4 yếu tố chính sẽ làm ảnh hưởng đến tài lộc, mang các độ số cao thấp khác nhau :
- Cung Sinh Khí : thượng kiết gồm các cung :
Đông trạch : người cung Khảm hợp với Tốn, cung Chấn hợp với Ly, cung Tốn hợp với Khảm và cung Ly hợp với Chấn.
Tây trạch : người cung Kiền hợp với Đoài, cung Cấn hợp với Khôn, cung Khôn hợp với Cấn và cung Đoài hợp với Kiền.
Thí dụ : người cung Ly hợp với đỏ tía, cung Sinh khí của Ly là Chấn, có thể chọn thêm màu xanh sẽ thích hợp hơn.
- Cung Phục Vì : kiết tại chính cung, như Khảm tại Khảm, Đoài tại Đoài v.v…
Thí dụ : người cung Khảm hợp màu đen, khi sử dụng màu đen chỉ thuộc kiếtkhông được thượng kiết.
– Cung Phúc đức : thứ kiết, gồm các cung :
Đông trạch : Tốn (của Chấn), Ly (của Khảm), Khảm (của Ly) và Chấn (của Tốn).
Tây trạch : Khôn (của Kiền), Đoài (của Cấn), Kiền (của Khôn) và Cấn (của Đoài).
Thí dụ : người cung Khôn hợp với màu vàng và đen, sử dụng thêm màu đỏ đậm (của Kiền) hay trắng (của Đoài) sẽ hóa Khôn thuộc cung Phúc đức, chỉ thuộc thứ kiết không được kiết hay thượng kiết.
- Cung Thiên y : thứ kiết, gồm các cung :
Đông trạch : Chấn (của Khảm), Khảm (của Chấn), Ly (của Tốn) và Tốn (của Ly).
Tây trạch : Cấn (của Kiền), Kiền (của Cấn), Đoài (của Khôn) và Khôn (của Đoài).
Thí dụ : theo như cung Phúc đức.
Người Cung phi Đông trạch không sử dụng màu sắc của người có Cung phi Tây trạch, sẽ khắc kỵ gây tổn tài, hại của. Do các cung Tây trạch Kiền, Cấn, Khôn, Đoài khắc với người Đông trạch. Người Tây trạch cũng không nên sử dụng màu sắc của người Đông trạch là Khảm, Chấn, Tốn, Ly vì sẽ gặp Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát và Họa hại.
Thí dụ: người cung Ly (hợp màu đỏ tía) sử dụng màu của Khôn là đen sẽ gặp Lục sát, màu trắng của Đoài gặp Ngũ Quỷ, màu đỏ đậm, hồng nhạt của Kiền gặp Tuyệt mệnh hay màu vàng của Cấn gặp Họa hại.
KHÔI VIỆT
Lược trích từ thienviet.wordpress.com.