Để cái tên không mang lại rắc rối, bất lợi cho cả cuộc đời của con, bố mẹ nên ghi nhớ 15 điều cần tránh khi đặt tên cho con dưới đây.
Chọn cho con một cái tên đẹp, bố mẹ cũng đừng quên kiểm tra những kiêng kỵ cần nhớ trong việc đặt tên cho con để đảm bảo bé có cái tên an toàn, phù hợp:
1. Không nên đặt tên cho con theo trào lưu. Cái gì là mốt cũng sẽ rất nhanh lỗi mốt.
2. Không nên đặt tên cho con theo tên người nổi tiếng. Người nổi tiếng rất hay đi kèm với scandal. Hãy coi chừng kẻo tên con sẽ trùng với tên một người... tai tiếng.
3. Không nên đặt tên con khó gọi, chỉ cùng một loại thanh âm, tạo cảm giác nặng nề, trúc trắc. Chẳng hạn: Đỗ Vũ Mỹ, Tạ Thị Hiện,...
4. Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt. Ngoài ra, đặt tên khó đoán giới tính còn dễ gây nhầm lẫn khi làm giấy tờ hay tham dự các cuộc thi.
5. Không nên đặt các tên mà nếu nói lái sẽ ra nghĩa xấu. Chẳng hạn như Tiến Tùng là Túng Tiền.
6. Không nên đặt tên mà nếu viết tắt các chữ cái đầu sẽ ra nghĩa xấu.
7. Không nên đặt tên quá cực đoan, tuyệt đối như Vô Địch, Mỹ Nữ,..., dễ gây áp lực cho con nếu đứa trẻ lớn lên không được như cái tên của mình, dễ khiến trẻ bị trêu chọc hoặc gây ấn tượng tiêu cực với người khác.
8. Không nên đặt tên con cái trùng với tên ông bà tổ tiên hay người có vai vế lớn hơn. Đây là một đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
9. Không nên đặt tên con theo thời cuộc chính trị, mang màu sắc chính trị.
10. Tránh đặt tên con mang ý nghĩa thô tục, xấu xí, tù túng. Đã qua rồi thời kì ông bà ta thích đặt tên con thật “xấu” cho “dễ nuôi”. Ngày nay, một cái tên đẹp cũng góp phần lớn vào thành công trong ấn tượng giao tiếp, xưng hô và quan hệ hàng ngày.
11. Không nên dùng những từ ngữ ít dùng, quá xa lạ, khó hiểu.
12. Không nên đặt tên con khi viết không dấu sẽ thành nghĩa xấu.
13. Tránh tên Tây hóa. Nếu bé không mang quốc tịch nước ngoài hay có liên quan đến việc sinh sống ở nước ngoài thì cha mẹ nên theo đúng truyền thống Việt Nam, chọn cho con một cái tên thuần Việt.
14. Tránh những cái tên vô nghĩa.
15. Tránh những cái tên có có từ đồng âm hoặc ngữ âm nghe không hay, đa âm, đa nghĩa.
(nguyên tác “Mệnh vận đích khoa học quan”, trang 186-195, sách “Tùng khoa học quan điểm khán tử vi đẩu số”, Hứa Hưng Trí, nxb Thời Báo Văn Hóa, Đài Bắc, 1995).
LỜI ĐẦU: Tiến sĩ Hứa Hưng Trí người huyện Cao Hùng, Đài Loan, sinh năm 1934, du học Mỹ và Nhật Bản, tốt nghiệp tiến sĩ dược khoa. Là giáo sư dược, đồng thời là chuyên gia nổi tiếng của Đài Loan về dược liệu và các vấn đề kỹ thuật.
Mặc dầu thuộc giới khoa bảng được huấn luyện trong môi trường khoa học tân tiến, tiến sĩ Trí lại nghiên cứu Tử Vi (dĩ nhiên bằng nhãn quan khoa học) và đạt nhiều thành tựu đáng kể. Bài dưới đây của ông vì thế không chỉ đơn thuần là chỉ trích, mà còn có tính điều chỉnh, sửa sai nhằm giúp khoa tử vi có chỗ đứng khoa học vững chắc hơn.
Để tránh những hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra, dịch giả xin chú thích tại chỗ hai điểm sau:
Thứ nhất: Bài này là quan điểm của tiến sĩ Hứa Hưng Trí. Cá nhân dịch giả mặc dù đồng ý trên đại thể nhưng cũng có nhiều điểm bất đồng. Viết rõ thế để nhấn mạnh rằng bài này được đăng không phải vì dịch giả muốn xiển dương quan điểm của tiến sĩ Hứa Hưng Trí, mà chỉ cốt giúp độc giả biết thêm một quan điểm của giới khoa học ở Đài Loan, nơi mà khoa tử vi vừa trải qua một giai đoạn trăm hoa đua nở kéo dài hơn 20 năm.
Thứ hai, về danh từ “người Trung quốc” xuất hiện vài lần trong bài này. Tình hình chính trị của Đài Loan những năm gần đây rất phức tạp. Có một số khá lớn người Đài Loan không xem mình là người Trung Hoa (mà là người Đài Loan, bản xứ hoặc hậu duệ của người Mân Việt, tức một chi của Bách Việt cổ). Quan điểm này dẫn đến phong trào đòi Đài Loan độc lập và mối họa bị hoa Lục xâm lăng. Để tránh né phần nào hoàn cảnh nóng bỏng này, tiêu chuẩn của chính phủ Đài Loan cũng như giới truyền thông (trong đó có sách báo) là cường điệu ba chữ “người Trung quốc”. Ngắn gọn, khi thấy một người Đài Loan xưng mình là “người Trung quốc” trước công chúng hoặc trên giấy mực, ta đừng vội cho rằng họ nói thật lòng mình.
MỘT
Hai chữ “mệnh vận” trong miệng người Trung quốc thật ra là một danh từ cổ cực kỳ trừu tượng, khó mà định nghĩa rõ ràng.
Thông thường, hơn nửa cho rằng (mệnh vận) do đời trước chủ định, diễn trình hoàn toàn có tính bị động chẳng thể cưỡng lại được; ta vừa sinh ra đã bị an bài trong quỹ đạo của đời sống, không có sự chọn lựa, trượt đi trên con đường độc đạo ngoài sự điều khiển của bản thân, cho đến tận điểm cuối cùng là sự chết, rồi lại đợi khi tiếp tục luân hồi.
Nhận định sai lầm này chẳng qua là một nhân sinh quan ngu xuẩn (chú 1) do tinh tượng mệnh quan của thời cổ đại (chú 2) kết hợp với tôn giáo huyễn hư tạo thành.
Tiến sĩ Lý Ước Sắt (chú 3) cho rằng, trong các hệ tư tưởng cổ đại của Trung quốc thì nho gia và đạo gia tiếp thụ thế giới tương đối có lý tính, còn Phật giáo và đạo giáo (chú 4) thì ức chế sự phát triển của khoa học đông phương. Tạm chưa luận lời phê bình của Lý tiến sĩ là đúng hay sai; ta không thể phủ nhận trong thời cổ đại với sinh hoạt bất an, nơi nơi dẫy đầy tật bệnh tử vong thống khổ sợ hãi, tôn giáo đã cho người dân dưới các chế độ chính trị hà khắc một nguồn hy vọng, một nơi ký thác. Đồng thời ta cũng không thể hoàn toàn bỏ qua tác dụng là khiến người ta trốn chạy thế giới, gây ra ý niệm tiêu cực không dám đối diện thực tế; rốt ráo dẫn đến sự lạc hậu về khoa học.
Trong xã hội quốc tế hiện đại hóa, chúng ta thấy rõ các địa khu càng mê tín thì khoa học càng lạc hậu, xã hội càng nghèo khó, quốc gia càng biến động loạn lạc. Nếu bình thản kiểm thảo đời sống con người, các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến hóa của “tinh thần”, “nhục thể”, và “vật chất” đại ước có thể phân làm ba loại chính:
1. Điều kiện khởi từ ta: Bao quát các điều kiện có tính tiên thiên như tinh thần, tâm lý, nhục thể do thiên phú bẩm sinh, di truyền v.v… và các điều kiện có tính hậu thiên như học tập, nỗ lực, học lực, công việc, kinh nghiệm, cùng với khả năng thích ứng hoàn cảnh v.v…
2. Điều kiện quan hệ nhân tế: Trong thì có lục thân, dòng tộc, gia đình; ngoài thì có điều kiện liên hệ xã hội như bạn học, bạn bè, bạn làm việc, cấp trên, cấp dưới, khách hàng v.v…
3. Điều kiện hoàn cảnh xã hội, hệ thống bên ngoài: Các quy phạm của chế độ như thời đại, tập tục xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị, kinh tế v.v… ảnh hưởng đến vấn đề cơm áo đi lại, và điều kiện hơn thắng kém thua.
“Mệnh” là khái niệm mang nặng tính tiên thiên của những điều kiện “khởi từ ta”: Thân ta không do ta quyết định, mọi điều kiện bất bình đẳng đã có từ lúc ta sinh ra… “Vận” diễn tả sự phát huy, tiêu trưởng biến hóa của điều kiện tiên thiên, là tiết tấu hoặc hình sóng của những ưu điểm hiện rõ hoặc khuyết điểm bạo lộ, những nhân tố chủ yếu tùy mỗi giai đoạn thời gian biến hóa ảnh hưởng đến ý nguyện, tâm thái của cá nhân.
Mười hai cung Tử Vi chưa lường đến các điều kiện hậu thiên “khởi từ ta” như ý hướng thăng cao, nỗ lực, chọn lựa đường hướng v.v… cũng không có công năng trù tính các điều kiện thời đại, hoàn cảnh. Muốn hiểu rõ đời sống của một người, đầu tiên phải biết phối hợp các điều kiện tiên thiên và hậu thiên, biến chúng thành điều kiện cá nhân xem ra sao đã; sau đó lại phải xét xem cá nhân với các điều kiện ngoại tại như thời đại, hoàn cảnh v.v… hợp nhau thế nào, phát sinh những tình huống nào. Ấy bởi vì tiêu chuẩn giá trị vốn tùy theo hoàn cảnh mà khác nhau, điều kiện hơn được kém thua cũng theo đó mà biến hóa. Hai người tư chất giống nhau có thể vì đường đi định bởi ý nguyện, nỗ lực khác nhau mà gặp may mắn hoặc bất hạnh khác nhau; cũng có thể vì hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau mà thành tựu cao thấp khác nhau.
Con người hiện đại không thể không nhận biết sự thật cực kỳ trọng yếu là “Con người là sinh vật của hoàn cảnh”. Điều kiện cá nhân như hạt giống, hoàn cảnh như đất đai khí hậu. Trong hoàn cảnh tốt đẹp cho sự phát triển học thuật ở Hoa Kỳ, các Hoa kiều với tư chất đặc biệt đã có bốn vị được giải Nobel. Chẳng ai dám nói nếu ở lại Đài Loan họ cũng thành tựu tương tự. Sinh hoạt trong cảnh học thuật èo uột của xã hội “quan lớn học vấn cũng lớn” nhất định có nhiều người thông minh tài trí chẳng thua gì bốn vị kể trên nhưng vì thiếu hoàn cảnh nghiên cứu tốt đẹp nên rốt cuộc mai một; đây cũng ví như trong thế kỷ 20 mang hạt lê đến Ả Rập Saudi mà trồng, tuyệt đối chẳng thể kỳ vọng khai hoa kết trái cho được.
HAI
Tìm hiểu mệnh vận chẳng qua là nỗ lực “tri kỷ” (biết ta), với mục đích là phối hợp với “tri bỉ” (hiểu rõ những điều kiện ngoại tại “không phải ta”) để chọn lựa và quyết định con đường thích hợp nhất. Bói toán (chú 5) truyền thống đã diễn giải sai quan hệ này, ru ngủ thường dân, gây ra tai hại hết sức to lớn cho sức sống của dân tộc. Lỗi lầm này không thể tiếp tục dung dưỡng mãi được. Tệ hại nhất là những trò “cải mệnh”, “cải vận” của bói toán. Một số thuật sĩ giang hồ lợi dụng tâm lý bất an, sợ hãi của dân chúng, và nhược điểm của con người là không chịu nhọc công mà muốn được hưởng quả, đặt ra chuyện hối lộ quỷ thần để cải vận. Hành vi tệ hại này một khi tích lũy, bói toán trở thành một loại sinh hoạt hạ tiện xa rời kiến thức hiện đại, không thể không nói là một lỗi sai đáng nhục.
Mệnh vận chẳng qua là điều kiện nội tại của một cá nhân, lực không mạnh bằng điều kiện quần thể của xã hội. Điều kiện quần thể của xã hội lại không mạnh bằng lực tự nhiên của phép tắc khoa học. Xã hội tiến bộ, sự chọn lựa đa dạng hóa, chế độ phép tắc xác định rõ ràng, nghĩa chung của xã hội mở rộng; trong hoàn cảnh khách quan đó mà ỷ lại vào thủ thuật bất thường “quậy nước mò cá” thì khả năng thành công càng ngày càng giảm. Cho nên, chỉ khi nào điều kiện trong ngoài phối hợp tốt đẹp, cát hung trong việc đoán mệnh mới có ý nghĩa. Như một em bé thiên tư thông huệ được thầy giỏi chỉ dạy, gia đình tài bồi, thêm hoàn cảnh xã hội giúp cho thi triển, thì mới có thể sáng tạo bùng vỡ; lại như một nhân viên công chức trừ phi lạm dụng đặc quyền phạm pháp tham ô không kể, khi đến tài vận chẳng thể nào có “tài” gì để phát, tài vận thêm tốt cũng chỉ là chuyện nói chơi thôi; (lại như) một vị học giả kiên trì nghiên cứu, gặp cung tài hóa ba Kỵ (chú 6) thì có “tài” gì để mà phá?
Trong đời sống hiện thực, tuyệt nhiên không có chuyện giản dị là “vào hạn tốt nhất định tốt, vào hạn xấu nhất định xấu”. Trong xã hội Đài Loan bảo thủ khép kín, năng lực của một người không quan trọng bằng quan hệ giao tế; muốn thăng chức đầu tiên phải nói đến quan hệ, kế đó mới đến năng lực. Một phần của quan hệ đến từ yếu tố tiên thiên (như con nhà gia thế chẳng hạn), một phần đến từ yếu tố hậu thiên do ta kinh doanh; nhưng trừ phi cố gắng tu trì, biến cải tâm thái, không nhiều thì ít cũng bị yếu tố tiên thiên lấn áp.
BA
Trong xã hội khác nhau, hoàn cảnh sinh tồn khác nhau, cách định giá mệnh cách tốt xấu cũng có nặng nhẹ khác nhau, đó chính là cái lý “thích ứng sinh tồn, hơn thắng kém thua”. Hiểu rõ thực tế ấy thì mới đào sâu được cái lợi ích tích cực của mệnh vận, chứ không phải là dùng mệnh vận làm nguồn an ủi, trốn chạy cái cảm giác thất bại. Có một số sinh viên đại học nghiên khảo tử vi chủ trương đặt giá trị của mệnh lý vào tầng diện tiêu cực, coi quan điểm cho rằng số mệnh không cưỡng được như một loại tôn giáo tín ngưỡng dựa trên tâm lý bình thường. Tôi thấy đây chẳng phải là điều hay, phản lại e là tăng cái nguy của họa ngu dân.
Cách cải vận chân chính là gặp điều kiện ứng với hoàn cảnh bất lợi thì dùng phép tắc khoa học, suy luận tri thức và công phu cá nhân để giảm thiểu những cảm tính, tâm thái khuyết hãm, bất lợi đến tự chính ta; cơ bản là điều chỉnh lực điểm của điều kiện chủ quan đến từ ta, rồi lại tái điều chỉnh cho đến khi điều hòa với hoàn cảnh bất khả kháng. Bởi thế, cải vận chẳng phải là chuyện nhẹ nhàng dễ làm, càng không phải là chuyện hối lộ các quỷ thần có tiếng huyền diệu; mà là đi thuyền trên giòng nước ngược, là nỗ lực phản lại cái ý đến từ ta, và khắc phục cái xung động của cảm tính, thêm vào với việc vận dụng tri thức khoa học và hoàn cảnh xã hội để tự giúp ta phát triển.
Người Trung quốc rất trọng “quý nhân”. Họ bị hấp dẫn hơn hết bởi tình tiết “anh hùng cứu mỹ nhân” trong ca, kịch, sách, tiểu thuyết, theo công thức “mưa đúng lúc”, giữa lúc hiểm nguy đột nhiên quý nhân xuất hiện. Thanh Thiên đại nhân một lúc thành kẻ chịu hàm oan, không người giúp đỡ, ký thác tâm linh… Muốn thâm cứu mệnh học, không thể để rơi vào loại bệnh thái kỳ cục này.
Người Trung quốc cũng rất thích nói đến “duyên phận”. “Duyên” căn bản là ngôn ngữ tôn giáo nhưng đã thấm sâu vào cái ý niệm trừu tượng đầy tính bị động, không-thể-cưỡng-lại-hoàn-cảnh của họ. Hơn nghìn năm nay, quan điểm này đã thấm sâu vào mô thức suy nghĩ, thành một cách trốn thoát khỏi trách nhiệm: Sinh ly tử biệt thì nói là duyên tận, hôn nhân thành bại tất (nói) là do tiền thế chi phối.
Người bạn tôi có cô con gái đã ba mươi tuổi chưa lập gia đình. Cha mẹ mười phần nóng nẩy, muốn biết khi nào mới gả con đi được. Sau khi phân tích ra týp tâm lý của tiểu thư (chú 7), tôi phát hiện cô là người cẩn thận, nội hướng lại nghiêm túc. Tôi bảo với người bạn rằng, giả như chờ quý thiên kim (chú tự đi tìm đối tượng, đợi lương duyên, rất có thể sẽ lỡ hết thời xuân. Như quả muốn tính chuyện hôn nhân, cha mẹ phải tích cực động viên thân bằng quyến thuộc giới thiệu đối tượng, tạo cơ hội cho con gái mình, cho con mình được tiếp xúc nhiều, có nhiều sự lựa chọn. Riêng bản thân cô con gái cũng cần biết khuyết điểm của mình, chú ý lựa chọn người phù hợp, không thể quá phần khó tính.
Đây chỉ là chuyện thường thức đơn giản, (vậy mà) vợ chồng người bạn tôi nghe qua như nằm mộng bừng tỉnh dậy, cám ơn tôi liền ba bốn bận. Hiện trạng loại này khiến ta cảm khái, tự hỏi những huyền thoại (chú 9) truyền thống đã hại bao nhiêu người Trung quốc rồi!
BỐN
Tóm lại, trong ba điều kiện lớn ảnh hưởng đến đời người đã trình bày ở trên, mệnh vận mặc dù có tùy cá nhân mà khác biệt, song không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Cho nên, lấy tất cả những tế ngộ của đời người quy về mệnh vận là một loại chạy trốn hiện thực, một hành động co rụt lìa xa thường thức.
Nhiều trường hợp tế ngộ, có một số cái nhân khởi từ ta hoặc cái nhân dính líu đến ta đóng vai trò quan trọng thì thuộc phạm trù tham thảo của mệnh vận. Nhưng cũng có chẳng ít trường hợp tế ngộ do nguyên nhân ở ngoài ta (vượt quá ta) tạo thành, thì chẳng thể nào dùng mệnh vận mà nghị luận được.
“Mệnh vận” và “tao ngộ” tuyệt nhiên không phải là hai từ đồng nghĩa; sự phân biệt này hết sức quan trọng. Người xưa vì không biết mà cuồng vọng, vọng tưởng; giảng ra rằng đời sống nhất luật là quan hệ nhân quả; như có người sinh ra đã lắm bệnh, khiến gia đình hao hết gia tài, rồi chết đi ở tuổi ấu thơ; người xưa bảo “Đó là chủ nợ kiếp trước, kiếp này lại đòi nợ!” Ai mà biết chuyện kiếp trước? Ước đoán quá nhiều cốt cho phù hợp với thần thoại chẳng phải là văn hóa lành mạnh. Thiên tai nhân họa chẳng phải mệnh vận, có người bị chết, có người được cứu, nhất định nguyên nhân chẳng phải là điều kiện đến từ ta hết cả, mà còn có một phần do xác xuất, ngẫu nhiên nữa. Mệnh vận rốt ráo chỉ là những điều kiện cá nhân bao hàm trong 12 cung tử vi mà thôi, không hơn và không kém.
Hình vuông lớn bằng bốn cung ở giữa lá số (ứng với) cái lớn của “thái nguyên thuật”, “thái” ám chỉ cấp tuyệt đối, thuộc điều kiện ngoại tại ngoài tầm tay của ta (chú 10); cộng với giáo dục, cảnh ngộ là những yếu tố hậu thiên. Lý này phải được tôn trọng, không thể tùy ý thổi phồng thành sai hỏng, tạo ra sự siêu việt vô lý. Lên lớp, đi thi rõ ràng là cạnh tranh dựa vào trí lực và nỗ lực tích lũy lâu năm; giải quần vợt rõ ràng là loại tỉ thí đòi hỏi công trình tập luyện dài lâu về kỹ thuật cũng như thể lực; tưởng rằng có thể mang lý tiêu trưởng của lưu niên ra dự đoán thắng thua là tự căn bản đã rời xa cái phép tắc của kinh nghiệm là “phải có nhân trước rồi mới bàn đến quả”.
Không chịu nhìn thẳng vào cái giới hạn của mệnh vận, lầm lẫn cho rằng mệnh vận quyết định tất cả; tìm hiểu mệnh vận như thế thì biến thành một người đầu óc chất phác giải đáp một câu đố khó, so với chuyện chơi xổ số ở Đài Loan nào có khác gì (xem thêm phần chú thích của tác giả ở cuối bài).
Một người bạn nghiệp dư (chú 11) trình độ đại học bảo tôi rằng những lý luận mà tôi đề ra đều đúng, các xã hội dân chủ pháp trị quả như thế, nhưng mà nhiều lá số ông đã xem qua lại chẳng hoàn toàn như thế, bởi vì nhiều hoàn cảnh thực tế không tuân theo diễn biến thường tình, có khi ở chỗ không bảng mà đưa bảng ra -tức là làm ngược- lại thành ra có kết quả. Vì vậy ông hoài nghi, chẳng biết đoán mệnh có thuộc loại thuật dự đoán không dựa trên lý lẽ hay không. Tôi thì chẳng thấy như vậy. Thuật đoán mệnh đáng tin cậy tất phải có căn cứ và phương pháp, tuyệt chẳng thể đoán loạn xạ như người đánh bạc. Xã hội có một số sự kiện dị thường, đó là do những chuyện kỳ cục phát triển mà thành, như theo pháp luật lẽ ra bị xử thua, nhờ tặng hồng bao (chú 12) mà được xử thắng, đó chỉ là luật thường của hoàn cảnh, chẳng thể coi là việc không lường được. Ở một số quốc gia lạc hậu, giết người “có lý do” có thể được miễn tội, với các xã hội văn minh đây quả là chuyện kỳ cục, nhưng ở các quốc gia ấy lại là chuyện thường tình.
Luận mệnh phải suy tư tận lẽ về hiệu ứng của các nhân tố này, bởi chúng và 12 cung tử vi là hai loại dữ kiện khác nhau, thiên vạn không thể trộn vào nhau thành một chuyện. Những việc mà 12 cung tử vi diễn tả toàn thuộc về điều kiện cá nhân, và thiên về các hình loại bẩm sinh, chỉ là tín hiệu về các hình loại có tính lịch sử đã được biết rồi. Nếu muốn căn cứ vào đó mà đoán con người trong một hoàn cảnh nào đó, trong một cảnh ngộ hoặc thất bại nào đó sẽ phản ứng ra sao, qua một diễn trình lịch duyệt, tập luyện sẽ thành tựu thế nào thì tất phải nghiên khảo xem các nhân tố nội ngoại hỗ ứng ra sao, lại phải thêm ý nguyện, nỗ lực cá nhân vào mà cân nhắc định lượng; những yếu tố này tuyệt chẳng đơn thuần nằm hết trong mệnh lý. Phép luận này đòi hỏi học thức cao thâm, kinh nghiệm dạn dày, lịch duyệt quảng đại, bác học tinh thông nhân tình thế thái mới mong làm nổi. Lời bàn thống hợp cũng chỉ là một tấm địa đồ dùng để tham khảo, không thể bảo đảm nhất định phải ra như vậy.
Đời sống con người là một kết quả của nhiều biến số kết hợp chồng chéo phức tạp với nhau. Những gì chúng ta lấy hết sức bình sinh ra tìm hiểu được chẳng qua chỉ là những phần hiện ra ngoài, những mạch thô sơ chính yếu mà thôi. Tuyệt đối chẳng thế nào nắm vững các tình tiết li ti. (Thế nhưng) Lấy kinh nghiệm ấy làm kim chỉ nam cho đời sống, nói chung vẫn hơn kẻ mù mò mẫm rất nhiều. Giá trị của việc tìm hiểu mệnh lý chính là như vậy.
Đối với sự kiện mệnh lý không chính xác lắm, chỉ có thể họa cho ta những nét chấm phá các bạn trẻ chắc chắn cảm thấy vô cùng thất vọng. Chúng ta khát vọng một phép dự đoán tương lai có tính khẳng định, rõ ràng mà lại chính xác. Khoa học hiện đại không thỏa mãn được khát vọng ấy. Phép đoán mệnh truyền thống mạnh miệng bảo đảm là thỏa mãn được, nên (các bạn ấy) mới nguyện ý tin tưởng mệnh vận. (Thiết nghĩ các bạn ấy) cần phải điều chỉnh tâm lý này lại cho phù hợp với tri thức trưởng thành. Thế gian vốn có rất nhiều sự thật chúng ta không thích mà chẳng thể nào thay đổi được./ &n bsp;
Hứa Hưng Trí, 1995
VDTT phỏng dịch
5 tháng 8, 2005
Phần chú thích của tác giả Hứa Hưng Trí
Nếu chỉ đơn thuần dựa vào mệnh vận cá nhân mà xác định được thành bại; rõ hơn nếu sự thành bại trong sự nghiệp, việc sống chết của con người đều do mệnh vận quyết định mà không cần biết đến yếu tố khách quan nào khác, thì ta có thể tiến hành một cuộc thí nghiệm phản chứng. Chúng ta kiếm một người có mệnh cách vinh hoa phú quý, tại lưu niên có ba Lộc giao trì (chú 6), rồi bảo người ấy nằm trên đường rầy xem thử có bị xe lửa cán chết không. Nếu cán không chết thì quả đúng là vận tốt xe lửa cán không chết. Tôi dám lấy hết tài sản đánh cuộc với bất cứ ai là người ấy sẽ bị cán dẹp vụn, máu thịt bầy nhầy.
Đài Loan có câu tục ngữ “tiền không có hai đồng không kêu”, mọi hiện tượng muốn phát sinh tối thiểu phải có nội nhân tố và ngoại nhân tố; toán học gọi là điều kiện cần và điều kiện đủ. Mệnh vận là nội nhân tố, điều kiện khách quan và phép tắc khoa học là ngoại nhân tố. Ngoại nhân tố mạnh hơn nội nhân tố nhiều (người xưa nói là “hình thế mạnh hơn người”, dân Đài Loan thì nói “chiếm được địa vị tốt thì thắng Đổng chưởng pháp”). Cho nên chỉ có nội nhân tố không thể xem là tất nhiên được. Thành công tương đối khó khăn là vì nội ngoại nhân tố phải phối hợp hoàn mỹ. Thất bại tương đối giản dị vì chỉ cần -hoặc nội nhân tố hoặc ngoại nhân tố- một trong hai có vấn đề. Chẳng hạn như muốn xe hơi chạy được tất nhiên công năng của mỗi bộ phận đều phải ở trong tình trạng chính thường; nhưng muốn chạy không nổi chỉ cần tháo bỏ vít lửa hoặc gỡ một bánh mang đi là xe phải dừng ngay. Ngoại nhân tố vượt quá sức của cá nhân, chẳng thể khống chế hoặc đối kháng. Chúng ta chỉ có thể nắm vững và khống chế được nội nhân tố. Phương sách là hiểu rõ và điều chỉnh nội nhân tố, rồi phối hợp với ngoại nhân tố mà tranh thủ cơ hội, giảm thiểu tai hại. Nhận rõ được quan hệ này thì nghiên cứu mệnh vận mới có giá trị./
VDTT phỏng dịch
Phần chú thích của dịch giả
Lời phê bình này khá nặng nề. Dịch giả không đồng ý, nhưng quyết định giữ nguyên ý để độc giả rộng đường luận xét.
“Tinh tượng mệnh quan” rất khó dịch xuôi, đại khái là khái niệm về số mệnh khởi từ những hiện tượng thiên văn mà người xưa quan sát thấy và cho là có liên hệ mật thiết với đời sống.
Tác giả Hứa Hưng Trí cũng không chú thích nên dịch giả không rõ tiến sĩ Lý Ước Sắt là nhân vật nào.
Tiến sĩ Lý Ước Sắt có vẻ phân biệt đạo gia và đạo giáo, không hiểu dựa trên cơ sở nào. Người Việt ta nói chung đều coi là một, thuộc hệ suy tư Lão Trang cả.
Nguyên văn là “Túc mệnh”; rất khó dịch. Hai chữ “bói toán” chỉ là phỏng dịch mà thôi.
Đây là cách xem dựa trên lưu tứ hóa khá thông dụng ở Đài Loan. Như sinh năm Giáp ở Tuất có Thái Dương hóa Kỵ, khi đại hạn vào Tuất thì Thái Dương bị thêm đại hạn Kỵ, trong đại hạn ấy lưu niên vào năm Giáp tất lưu niên hóa Lộc cũng ứng vào Thái Dương, là thêm một Kỵ nữa, thành ba Kỵ (nguyên thủy, đại hạn, lưu niên). “Ba Lộc giao trì” là ba sao hóa Lộc cùng cung hoặc xung chiếu.
Cách phân tích này nói chung phối hợp hai phái phân tâm của Adler và Jung. Ở Hoa Kỳ được xử dụng khá nhiều để nhận định cá tính con người.
Con gái người ta, mình tỏ ý trọng thì gọi là “quý thiên kim”. “Quý thiên kim” đây tức cô gái 30 tuổi đã đề cập ở trên.
Tác giả dùng chữ “mê tư” là chữ phiên âm có nghĩa của danh từ Anh ngữ “myth”. Myth nghĩa là huyền thoại nên đây chỉ dịch là “huyền thoại”.
Đoạn này ngắn nhưng rất khó hiểu. Dịch giả không chắc đã dịch đúng nghĩa mong muốn của tác giả. Âm Hán Việt nguyên văn là “Tại mệnh bàn cách thức trung ương đích đại tứ phương cách – ‘Thái nguyên thuật’ đích đại ‘Thái’ đích tuyệt đối hạng”. (Vì ở phần khác của sách ông Trí cho rằng Tử Vi được gợi ý từ thuật Thái Nguyên, một phép tính đại số do toán học gia Chu Thế Kiệt đời Nam Tống nghĩ ra) dịch giả phỏng đoán ý của ông Trí là: Hình vuông lớn ở giữa lá số tử vi vì lớn bằng 4 cung nên phải ứng với những yếu tố tối quan trọng, nhưng cung này tử vi không an sao, có nghĩa đây là yếu tố quan trọng mà khoa tử vi không biết nổi.
“Bạn nghiệp dư” đây ắt hẳn là bạn nghiên cứu tử vi. Vì có nghề nghiệp khác, nên tử vi chỉ là “nghiệp dư” thôi (tác giả, tức tiến sĩ Hứa Hưng Trí, cũng thế).
“Hồng bao” nguyên là bao giấy đỏ đựng tiền lì xì, ở Đài Loan khi tặng tiền người ta cũng hay dùng phong bì đỏ, nên “tặng hồng bao” là tiếng lóng thông dụng, ám chỉ việc hối lộ.
Thật khó có sự sợ hãi nào khủng khiếp hơn, khi một người mẹ dứt ruột đẻ tới 10 đứa con, con trai đẹp như tượng, con gái đẹp như hoa, đều bỗng nhiên lần lượt điên khùng. Nhiều thầy địa lý, thầy cúng, thầy phong thủy, thậm chí cả thiền sư có tiếng tìm đến ngôi nhà này để trấn yểm, rồi phải bỏ của chạy lấy người vì lực bất tòng tâm.
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT2016 mới nhất nhé!
Thật khó có sự sợ hãi nào khủng khiếp hơn, khi một người mẹ dứt ruột đẻ tới 10 đứa con, con trai đẹp như tượng, con gái đẹp như hoa, đều bỗng nhiên lần lượt điên khùng.
Nhiều thầy địa lý, thầy cúng, thầy phong thủy, thậm chí cả thiền sư có tiếng tìm đến ngôi nhà này để trấn yểm, rồi phải bỏ của chạy lấy người vì lực bất tòng tâm. Đi qua ngôi nhà đó, hàng xóm ai cũng kinh hãi rảo bước thật nhanh.
Không rộng như ngôi nhà trên nhưng ngôi nhà trong ngõ 239, đường Đà Nẵng (Quận Ngô Quyền, TP. Hải Phòng) lại gây xôn xao dư luận bởi những người sống trong ngôi nhà này lần lượt hóa điên.
1./ Cuộc đời oan nghiệt của người phụ nữa bất hạnh.
Bà Nguyễn Thị Nở sinh năm 1945, đúng vào năm cả nước chết đói, chết như ngả rạ. Nhà không có gì ăn, cả làng chết đói, thế mà cô bé Nở vẫn sống. Sau này, bố mẹ bảo Nở là người giời, không có gì ăn suốt một tuần mà không chết, mà cứ khóc oe oe. Bà Nở bảo, đời bà là vậy, sinh ra, đã đói, đã khổ rồi. "Nếu tôi chết đói luôn khi đó, thì tôi và chục con người không phải khổ đến thế này" Bà khổ nào nói.
Bà Nở đang ngồi trò chuyện (ảnh internet)
Bà Nở quê ở xã Cộng Hiền (Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Năm 19 tuổi, bà gặp ông Phạm Văn Phong, trai Hà Nội, nhà ở Giảng Võ hẳn hoi. Ông là trai Hà Nội, nhưng nghề nghiệp là bốc vác xi măng ở Nhà máy xi măng Hải Phòng. Bà Nở cũng làm bốc vác xi măng. Hai kẻ nghèo hèn gặp nhau, nên vợ nên chồng.
Khi được hỏi "Gia đình nhà hai bác, có ai bị tâm thần không?". Bà Nở ngẫm một lát mới nhớ ra rằng, ông ngoại bà bị tâm thần, còn bên chồng thì có anh trai của chồng bị tâm thần. Chẳng biết có mối liên hệ gì không, nhưng bà Nở không tâm thần, ông Phong lại càng bình thường, thế mà đẻ ra tới 10 đứa con tâm thần. Thật là khó tưởng tượng.
Đầu tiên là 3 người con gái đẹp như tranh vẽ của ông bà, là Phạm Thị Thái (SN 1965), Phạm Thị Dung (SN 1971) và Phạm Thị Cúc (SN 1973) đến tuổi 20 chuẩn bị lấy chồng, thì đều tự dưng lơ đơ, man mát. Dù chưa tâm thần hẳn, nhưng thi thoảng có biểu hiện khác người. Rồi bỗng dưng 3 cô con gái này lần lượt mất tích. Người thì bảo bị lừa bán sang Trung Quốc, người thì bảo bị tâm thần bỏ đi lang thang, rồi chết đường chết chợ, giờ không biết ở phương trời nào, bao nhiêu năm rồi, không thấy tin tức gì cả.
Trong số 7 cô con gái, thì có hai cô lấy được tấm chồng, đó là Phạm Thị Lan (SN 1968) và Phạm Thị Tâm (SN 1969). 18 tuổi, chị Lan đã có biểu hiện đơ đơ của người mắc chứng tâm thần. Chồng Lan lại là tay cờ bạc khét tiếng, ra tù vào tội không biết bao nhiêu lần. Hồi đẻ đứa con đầu, ông chồng vẫn đang ngồi tù. Đau buồn nên bệnh tâm thần của Lan càng nặng hơn. Khi cậu con còn đang bú mẹ, thi thoảng Lan lại cởi trần cởi truồng bế con trốn nhà đi lang thang giữa mùa đông giá rét. Khi sinh đứa con thứ hai được 4 tháng tuổi, thì chị… điên hẳn, đập phá tanh bành nhà cửa, gia đình đã phải đưa chị vào trại tâm thần ở Vĩnh Bảo. Từ khi vào trại, Lan không tỉnh táo lại được nữa. Có lẽ Lan phải chung thân với trại tâm thần.
Còn chị Tâm là con thứ 4, hồi chưa lấy chồng cũng hơi chập chập, thi thoảng lại bỏ đi, nhưng đang đi tự dưng sực tỉnh, tự hỏi đường về nhà. Người chồng đầu tiên của chị là trai Hà Nội hẳn hoi. Tuy nhiên, anh này lại là con nghiện nặng, cứ đói thuốc lại nhè vợ ra đánh. Chồng chết, chị đi bước nữa với người đàn ông ở Bắc Giang. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, chị lại lấy nhầm ông nghiện. Ở với anh này được vài năm, sống chả khác gì địa ngục, anh ta sốc thuốc chết chị mới nhẹ nợ. Người chồng thứ 3 của chị không nghiện ngập, nhưng lại có tính trăng hoa. Mấy năm trước anh ta bỏ nhà theo gái, bỏ mặc mẹ con chị Tâm. Mới ngoài 40 tuổi, chị Tâm đã qua 3 đời chồng, đẻ 6 lần, nhưng chết 2 con, chỉ còn 4. Tuy nhiên, một cậu con của chị học bố, nghiện nặng, lại bị AIDS, đang nằm chờ chết. Một cô con gái mới 15 tuổi đã theo giai, rồi mang bầu, phải giấu giếm sinh con. Hiện chị Tâm đi làm phu hồ, xách vữa cùng đội thợ để nuôi 2 đứa con đang tuổi ăn tuổi học và một ông con nằm chờ chết.
Khi người con điên nặng nhất được đưa vào trại, thì vợ chồng bà Nở đỡ vất vả hơn. Vợ chồng bà cùng hai cậu con trai là Phạm Văn Đức (sinh năm 1978), Phạm Văn Hậu (sinh năm 1979) và cô út Phạm Thị Bích (sinh năm 1983) cùng mưu sinh kiếm sống. Thời điểm cách đây hơn 10 năm, 3 người con út này của bà Nở vẫn còn bình thường như bao thanh niên khác, cũng biết làm thuê làm mướn kiếm sống. Tai họa lại ập đến. Bà Nở nhớ lại: “Hôm đó, tôi đang nấu nướng dưới bếp thì cái Hoa (Phạm Thị Hoa – SN 1976) hét toáng lên: Bố chết rồi, bố chết rồi. Tôi chạy lên, thì thấy ông ấy ngừng thở, sùi bọt mép, mắt trợn ngược. Tôi vuốt mắt cho ông ấy bảo: Ông sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mấy đứa còn lại không bị điên khùng nữa, để tôi đỡ vất vả.
Trước đó, cái Hoa vẫn bình thường, đi bán hoa quả kiếm sống. Nhưng nó chứng kiến bố chết, nó khóc lóc, hét toáng lên, rồi mất trí luôn chú ạ. Sau đó nó nằm bẹp trong nhà, không ăn không uống gì cả, người chỉ còn bộ xương. Lúc tỉnh dậy, ăn được, thì suốt ngày hò hét, chửi bới. Nó ở nhà 3 năm thì tôi gửi vào trại Vĩnh Bảo. Đến giờ chưa có ngày nào nó tỉnh táo”.
Bà Nở ngước nhìn bàn thờ lạnh lẽo khói hương. Trên ấy có tấm ảnh một chàng trai đẹp ngời ngời. Đó là Phạm Văn Đức – người con thứ 8 mới chết được 3 năm nay. Theo bà Nở, Đức là đứa con khôn lanh, bình thường nhất của bà, là niềm hy vọng của bà cũng như cả gia đình lúc bà về già. Thế mà…
Hồi đang học phổ thông trung học, Đức đi bơm xe kiếm tiền phụ giúp gia đình. Chẳng rõ mâu thuẫn thế nào, mấy thanh niên đầu gấu cầm cái bơm ném xuống sông Hạ Lý. Tiếc của, Đức nhảy xuống sông mò bơm. Một thằng đứng ở trên bờ cầm hòn đá to bằng quả bưởi ném trúng đầu Đức. Đức bất tỉnh trong bệnh viện mất mấy ngày, vết rách phải khâu tới 8 mũi. Bà Nở tìm đến gia đình kia hòng bắt đền, nhưng gia cảnh cũng nghèo chẳng kém gì nhà bà.
Sau khi ra viện, Đức suốt ngày kêu đau đầu, chóng mặt, không đi học được nữa. Thi thoảng Đức lại lăn quay giãy đành đạch, sùi bọt mép. Càng ngày Đức càng gầy còm, xanh xao. Đức mất trí, rồi điên khùng nặng, phải đưa vào trại tâm thần. Vào trại, có lúc Đức uống cạn cả chai nước lau nhà vệ sinh khiến viêm ruột nặng, chữa mãi không khỏi. Có lúc lên cơn, đau đớn, Đức mài mẩu sắt rạch nát cả mặt mũi, cơ thể.
Và, trong một lần tỉnh táo nhất, Đức cởi áo, xoắn thành sợi thừng, vắt lên cửa sổ thắt cổ chết. Trại gọi bà Nở đến nhận xác con về chôn, nhưng bà nuốt nước mắt bảo: “Nhà không có gì bán được để mua quan tài, cũng chẳng có đất mà chôn. Các bác thương tình thì mai táng cho cháu nó; đời này, kiếp này, tôi mãi đội ơn các bác”. Trại mua tấm ván, rồi cho xe bò chở xác Đức ra nghĩa địa chôn. Hôm đó, bà Nở cũng đến xem họ chôn con mình, chẳng có kèn trống, chẳng có gì làm ma cả. Nhưng đến nay bà Nở cũng mới chỉ có đôi lần đi viếng được mộ con, đó là hôm Đức được chôn và lần giỗ đầu. Giờ khu nghĩa địa hoang cỏ mọc um tùm, bà cũng không nhớ nổi con mình nằm ở chỗ nào nữa.
Sau khi người con thứ 8 treo cổ tự tử trong trại tâm thần, thì đến lượt cậu con trai thứ 9 là Phạm Văn Hậu nổi điên. Đức thì bị đám côn đồ ném đá vào đầu, còn Hậu bị bọn cướp đánh vỡ đầu. Hồi đó, Hậu vào TPHCM làm thuê. Cuối năm, về quê ăn tết, đang ra bến xe thì bị cướp sạch, lại đánh trúng đầu. Người dân đưa Hậu vào viện, nhưng không có tiền, không có người thân thích, điều trị không tốt, nên bị nhiễm trùng, vết thương lở loét, bốc mùi. Về nhà, Hậu kêu đau đầu, rồi nổi cơn điên.
Một lần, cơn điên lên đỉnh điểm, Hậu đập phá nhà cửa tanh bành, không ai ngăn nổi. Đập phá chán thì Hậu phóng hỏa đốt nhà. Đúng lúc đó, cô con gái út Phạm Thị Bích – vốn đang tỉnh táo – cũng đột nhiên nổi điên, reo hò cổ vũ hành động đốt nhà của ông anh trai. Bữa đó công an đến bắt Hậu nhốt ở đồn, rồi đưa vào trại tâm thần. Ở một thời gian, được điều trị tích cực, nên Hậu dần tỉnh táo.
Thời gian sau, Hậu được về. Hậu tìm vào TPHCM làm thuê làm mướn, nghe đâu lúc làm ở nhà máy gỗ, lúc làm hàn xì. Hậu đi biền biệt mấy năm nay, không thấy tin tức gì về cho mẹ.
Vậy là từ một đai gia đình với 10 người con mà cuối cũng không còn một ai hẳn hoi. Nguyên nhân do đâu?
2./ Nguyên nhân là do ngôi nhà "điên" này bị "ma ám"
Chủ nhân của ngôi nhà "điên", bà Nở bảo, nguyên nhân đàn con đông đúc của bà bị tâm thần tất thảy không phải vì có mối liên hệ với ông ngoại bà và anh trai chồng, mà có nguyên nhân rất "mê tín dị đoan", từ cái ngôi nhà "ma ám".
Theo lời bà Nở, xưa kia, ngôi nhà gia đình bà ở là của một anh lái tàu biển rất giàu có. Anh ta mua ngôi nhà này cho vợ ở và thi thoảng về thăm vợ mỗi chuyến cập bến Hải Phòng. Mỗi lần về, anh ta lại mang về một nắm vàng, vợ đựng đầy ống bơ. Hai vợ chồng vàng đeo lủng liểng khắp người.
Thế nhưng, một ngày, hai vợ chồng anh này nổi điên. Lúc tỉnh táo, anh ta đã gọi vợ chồng bà đến, bán cho với giá bằng nửa tháng công bốc vác xi măng. Hai vợ chồng nghèo, tự dưng vớ được ngôi nhà rẻ như cho, nên vui lắm. Sau đó vợ chồng anh này đi đâu, sống chết thế nào thì chẳng ai rõ.
Chẳng biết lời đồn có đúng hay không, hay nặng nợ truyền kiếp, nhưng số phận gia đình bà Nở lại cay nghiệt đến vậy. Bà mê tín dị đoan, rước không biết bao nhiêu thầy cúng về. Tuy nhiên, thầy cúng thì cứ cúng, những đứa con đẹp đẽ thì cứ lần lượt điên khùng, không gì kìm hãm được. Mấy ông thầy cúng chả chế ngự được cái sự điền rồ triền miên trong ngôi nhà này, thì đổ cho "đất nghịch", đổ cho người Trung Quốc xưa kia "yểm bùa"... Họ còn bảo, nếu họ đuổi tà ma trong nhà, thì họ sẽ bị tà ma... ăn thịt!
Trong cơn cùng quẫn, thầy phán sao, bà nghe vậy. Thế là suốt mấy ngày liền, bà lầm rầm hương khói, những mong tai ương tạm tha cho ngôi nhà đã có quá nhiều niềm đau ấy. Thế nhưng, tất cả chỉ là công dã tràng. Số hẩm hiu của bà chẳng phép nhiệm mầu nào thay đổi được
Thôi thì đủ cả thứ đồn đại, đủ cả thứ dị đoan trong ngôi nhà ma ám này. Kết cục thì hồi đầu năm, túng quá, bà Nở tính bán căn nhà để có tiền nuôi con, chữa bệnh cho con, rồi mẹ con ra gầm cầu Bính, Cầu Niệm, Cầu Rào, hay cái gầm cầu nào ở cũng được, ở với bọn nghiện cũng được. Nhưng khốn nỗi, gọi mãi mới có người đến mua. Anh ta tính giá 200 ngàn một mét vuông, miếng đất của bà tổng cộng 60 mét vuông, vậy vị chi là 12 triệu đồng.
Cầm 12 triệu đồng thì làm được gì chứ, đủ cho một đứa nằm viện nửa tháng là cùng. Trong khi, những ngôi nhà bên cạnh, họ bán vài trăm triệu, thậm chí tiền tỉ. Ấy vậy mà, đã từng có một vị khách nữa đến trả ngôi nhà giữa TP. Hải Phòng của bà 5 triệu đồng. Sao người ta đang tâm thế nhỉ? Nghĩ vậy, bà không bán nữa, mà mẹ con lặng lẽ sống qua ngày, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo, lủi thủi giữa thành phố phồn hoa này.
Tài sản duy nhất của bà bây giờ là mấy cuốn sổ chứng nhận các con bà bị bệnh tâm thần. Bà bảo, nhờ mấy cuốn sổ ấy mà con bà được nhà nước trợ cấp. Số tiền trợ cấp ấy tuy ít ỏi, nhưng cũng giúp bà vơi bớt gánh lo toan. Tuy vậy, mấy năm nay, thấy lưng mỏi, chân đau, bà biết, bà chẳng còn sống được bao lâu nữa. Khi về với bên kia thế giới, với bà thì coi như trút hết muộn phiền, nhưng bà lo cho các con của mình lắm. Không biết chúng sẽ bấu víu vào đâu khi lơ ngơ trên cõi đời này.
Ngôi nhà đáng giá tiền tỷ bỗng dưng hiu quạnh, bị người đời xa lánh bởi lời đồn mà ám. Những con bà tại sao lại bỗng dưng lần lượt phát điên cũng không ai giải thích được. Ngôi nhà thì trống vắng, xiêu vẹo, ọp ẹp héo hắt vì 10 người con hóa điên. Tất cả đều được đổ lỗi cho một thế lực siêu nhiên đáng sợ là ma ám.
Để làm rõ những bí ẩn trong ngôi nhà "điên" bị “ma ám” ở Hải Phòng này, một số nhà phong thủy "cao tay" ở khắp nơi đã xuống Hải Phòng. Sau khi trao tiền, quà giúp đỡ cho gia đình bà Nở, họ đã tiến hành đo đạc, vẽ lại phong thủy mảnh đất, ngôi nhà, sử dụng con lắc cùng các thiết bị đo đạc để xác định tia đất. Họ cũng xác định được chỗ giường nằm trong nhà bà Nở có tia đất độc hại. Tuy nhiên, không biết việc xử lý, hóa giải ngôi nhà này như thế nào nhưng đến bây giờ ngôi nhà này vẫn lạnh lẽo, vắng lặng với rất nhiều câu chuyện ghê người bí ẩn.
Chỉ có 3 trong số 12 con giáp có vận may toàn diện về cả sự nghiệp, sức khỏe và tình duyên trong năm Ất Mùi này thôi.
1. Tuổi Ngọ
Trong năm Mùi, người tuổi Ngọ sẽ có vận thế tốt nhất, mọi việc đều thuận lợi, như ý. Đặc biệt sẽ có quý nhân phù trợ để giúp họ gặt hái được nhiều thành công trên các phương diện của cuộc sống.
Về công việc, sự nghiệp, sẽ có nhiều người giúp đỡ, có nhiều khả năng được thăng chức hoặc điều động vị trí làm việc tốt hơn… Tiền bạc, tài chính đều rất tốt, tài khoản ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, khi muốn đầu tư, bạn cần phải thận trọng, tránh bị người khác lợi dụng.
Về tình cảm, nếu còn FA, bạn cần nắm bắt cơ hội để chủ động bày tỏ tình cảm. Đặc biệt là con gái tuổi Mùi, vận đào hoa sẽ nở rộ trong năm nay. Nhất định, bạn sẽ tìm được ý chung nhân của đời mình. Nếu đã có “gấu”, tình cảm hai bên thêm mặn nồng và có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.
2. Tuổi Mão
Nằm trong mối quan hệ tam hợp, vận thế người tuổi Mão trong năm Mùi sẽ vô cùng tốt đẹp, mang tới nhiều vận may hiếm thấy hơn nữa cho con giáp này.
Về sự nghiệp, những việc còn dang dở trước kia, trong năm 2015 sẽ hoàn thành với thành công rất cao. Trong năm nay, người tuổi Mão nên kinh doanh hoặc đầu tư vào lĩnh vực nào đó, chắc chắn sẽ phát triển không ngừng.
Về tình cảm, không sớm thì muộn, bạn sẽ kết thúc kiếp FA và tìm cho mình chàng bạch mã hoàng tử đã chờ đợi từ bấy lâu nay. Nếu đã có người yêu, hai bạn sẽ có những chuyến du lịch bên nhau thú vị và tình yêu ngày càng sâu đậm.
3. Tuổi Dần
Trong năm Mùi, vận thế người tuổi Dần sẽ như diều gặp gió, đã tốt lại còn tốt hơn.
Về sự nghiệp, người tuổi Dần không ngừng thăng tiến và được nhiều sự trợ giúp của quý nhân. Nhiều khả năng, bạn sẽ trở thành lãnh đạo hoặc trưởng nhóm nào đó. Tiền bạc bình thường trong 6 tháng đầu năm nhưng lại vô cùng phát đạt vào nửa cuối năm.
Về tình duyên, vận đào hoa khá tốt, nhưng phần lớn người tuổi Dần đều bỏ lỡ hoặc không biết cách nắm bắt cơ hội. Bạn cần chủ động và dành nhiều thời gian hơn cho đối phương. Hạn chế tối đa những lời nói lạnh lùng khiến nửa kia hiểu nhầm, dễ dẫn tới mâu thuẫn.
Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
của đối phương. Nên nhớ rằng, chỉ có sự quan tâm thật lòng mới giúp bạn thấu hiểu tâm hồn và con người họ.
Hãy kiên trì, dũng cảm, đồng thời biết cách tận dụng không khí ngập tràn tình yêu của ngày lễ tình nhân để bày tỏ tấm lòng của mình với người cầm tinh con rắn.
Chinh phục nam giới tuổi Tỵ
Hãy cố gắng để chàng cảm thấy rằng trong mắt bạn, chàng là người vô cùng quan trọng. Với bản tính cẩn thận và sự nhạy cảm, chàng tuổi Tỵ khao khát một tình yêu chân thành. Chàng cũng đủ thông minh, tinh nhạy để nhận ra sự khôn vặt hay giả dối trong tình cảm của đối phương.
Chinh phục nữ giới tuổi Tỵ
Muốn chinh phục nàng tuổi Tỵ, bạn cần cố gắng phá tan sự lạnh lùng bề ngoài của nàng. Mặc dù việc tiếp cận nàng không phải là dễ dàng nhưng bạn hãy kiên trì. Trước hết, bạn cần cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa 2 bên. Đây chính là điểm khởi đầu quan trọng để có được tình yêu tốt đẹp.
Nếu màu đen thể hiện sự bí ẩn, niềm say mê thì màu đỏ cho thấy dũng khí và sự lãng mạn. 1. Màu đỏ - Lửa Màu của niềm đam mê, dũng khí, lãng mạn. Theo phong thủy, màu đỏ là màu mang yếu tố lửa, đồng thời cũng là sắc màu mạnh nhất. Người Trung Quốc qua
Nếu màu đen thể hiện sự bí ẩn, niềm say mê thì màu đỏ cho thấy dũng khí và sự lãng mạn.
1. Màu đỏ – Lửa
Màu của niềm đam mê, dũng khí, lãng mạn. Theo phong thủy, màu đỏ là màu mang yếu tố lửa, đồng thời cũng là sắc màu mạnh nhất. Người Trung Quốc quan niệm màu đỏ là màu của may mắn và hạnh phúc. Nó là màu sắc của hôn nhân ở Ấn Độ. Đó là màu biểu tượng của tình yêu, sự lãng mạn, lòng can đảm và niềm đam mê ở phương Tây. Màu đỏ rực rỡ này sẽ mang đến cho căn nhà bạn nguồn năng lượng của niềm vui, nguồn hứng khởi và khơi dậy niềm đam mê mạnh mẽ.
2. Màu vàng – Lửa/Đất
Màu của nắng, hạnh phúc, bổ dưỡng. Màu vàng là màu của ánh nắng mặt trời, của sự tươi vui và làm bừng sáng lên góc phòng, căn nhà và văn phòng làm việc của bạn. Vì là sắc màu của lửa, màu vàng đem lại sự ấm cúng, do đó rất hữu ích khi được sử dụng trong nhà bếp hay phòng trẻ em. Nếu có ý định trang hoàng lại ngôi nhà, bạn có thể sử dụng sắc vàng đậm nhạt khác nhau để tạo niềm vui cho chính gia đình mình.
3. Màu xanh dương – Nước
Màu của sự điềm tĩnh, yên tĩnh, hòa bình. Màu xanh là sắc màu tuyệt vời trong phong thủy. Từ bầu trời thiên thanh đến nền nước lấp lánh ở đại dương, màu xanh luôn mang đến cho bạn cảm giác thanh bình, nhẹ nhàng. Cũng theo phong thủy, màu xanh dương sẽ phát huy tối đa nguồn lực nếu được sử dụng trong bát quái tại ngôi nhà của bạn, như sơn màu xanh ở hướng đông (phù trợ cho sức khỏe), hướng đông nam (tiền tài) và hướng bắc (cơ nghiệp).
4. Màu xanh lá – Gỗ
Màu của sự sinh sôi nảy nở, sức khỏe dồi dào. Màu xanh lá cây theo phong thủy là màu đại diện của sự đổi mới, năng lượng mới và sự tái tạo. Đây được xem là màu rất có lợi cho sức khỏe vì nó có khả năng tạo trạng thái cân bằng cho toàn bộ cơ thể. Nếu có ý định sử dụng màu xanh lá trong căn nhà, gia chủ nên thêm một màu sắc khác để phát huy tối đa nguồn năng lượng tốt mà sắc màu này mang lại.
5. Màu vàng cam – Lửa
Màu của sự tự tin, quảng giao, xã hội. Nếu bạn cho rằng màu đỏ là quá mạnh khi sử dụng trong căn nhà hoặc văn phòng thì hãy dùng màu cam để thay thế. Màu cam thường được gọi là màu “xã hội” vì nó tạo ra năng lượng phong thủy cần thiết để thúc đẩy các cuộc hội thoại thêm phần sinh động và tạo ra sinh khí mới cho ngôi nhà của bạn. Màu cam còn gợi bạn nhớ đến những giấc mơ mùa hè sôi động cùng những đốm sáng phát ra từ bếp lửa ấm áp.
6. Màu tím – Lửa
Màu của hoàng gia, quý tộc, huyền bí. Theo các thầy phong thủy, vì mang tính chất tác động rất lớn nên màu tím nên được sử dụng trong chừng mực. Sắc màu này chỉ nên xuất hiện trong các họa tiết nhỏ, đơn giản như gối, viền rèm cửa, thảm. Phòng chữa bệnh hoặc phòng thiền định nên sử dụng màu tím nhiều hơn một chút để phát huy các nguồn lực tối đa.
7. Màu hồng – Lửa
Màu của sự trang trọng, êm ái, yêu đương. Màu hồng là màu sắc khơi gợi đến tình yêu trong sáng đầy mơ mộng, nó được xem là sắc màu hoàn hảo cho mọi không gian ngôi nhà bạn. Sắc hồng phớt nhẹ nhàng của nó có khả năng xoa dịu mọi cơn nóng giận, lấy lại bình tĩnh và cảm giác yêu thương. Gia chủ có thể sử dụng màu hồng từ phòng ngủ đến phòng là ủi, giặt đồ đều được.
8. Màu xám – Kim loại
Màu của sự rõ ràng, khách quan, trung lập. Nhiều người thường nghĩ rằng, màu xám như mang đến sự ảm đạm, buồn chán, thiếu sức sống. Tuy nhiên, trong phong thủy và nghệ thuật, màu xám có thể được sử dụng trong mọi không gian ngôi nhà bạn. Hơn nữa, nó khá sang trọng trong các thiết kế đồ nội thất thông minh. Trong bát quái, sắc xám sẽ thu hút năng lượng tốt nếu được sử dụng ở hướng tây (tăng sức sáng tạo), hướng tây bắc (tăng lòng bác ái), hướng bắc (phù trợ cơ đồ).
9. Màu đen – Nước
Màu của sự bí ẩn, bất tận, niềm say mê. Là màu sắc của đêm huyền bí, của đại dương sâu thẳm, của vũ trụ bao la, màu đen mang đến nguồn sức mạnh vô biên, không gian bất tận và cả niềm say mê không ngừng. Cũng như màu tím, màu đen nên được sử dụng trong các họa tiết nhỏ, đơn giản. Không nên sử dụng màu đen trong phòng ngủ và phòng của trẻ con.
10. Màu trắng – Kim loại
Màu của sự ngây thơ, tươi sáng, khởi đầu mới. Có thể nói, màu trắng tinh khiết là màu được khá nhiều người ưa dùng trong tường nhà, văn phòng và các công trình công cộng khác. Sắc màu nhẹ dịu này có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với các màu mang yếu tố lửa và nước khác như đỏ, cam, tím, đen.
11. Màu nâu – Gỗ
Màu sắc của sức mạnh, nền tảng, ổn định. Gần đây, theo phong thủy, màu nâu đang dần được nhiều người sử dụng. Với khả năng nuôi dưỡng nguồn năng lượng tốt, ấm áp, màu nâu được sử dụng rộng rãi trong bát quái, bổ trợ nguồn khí tốt ở hướng đông (sức khỏe), hướng đông nam (tiền của), hướng nam (danh vọng).
Mỗi người đều hy vọng nhận được sự tôn trọng của người khác, cũng như hy vọng nhận được sự tôn trọng của quỷ thần. Rốt cuộc ai xứng được nhận vinh dự này?
Mỗi người đều hy vọng nhận được sự tôn trọng của người khác, cũng hy vọng nhận được sự tôn trọng của quỷ Thần. Rốt cuộc là những người như thế nào mới xứng đáng nhận được sự vinh hạnh đặc biệt này đây? “Duyệt vi thảo đường bút kí” có đề cập đến mấy loại người, chúng ta hãy đọc thử, xem xem có ở trong số đó hay không.
“Duyệt vi thảo đường kí” có ghi chép rằng, viên ngoại Cố Đức Mậu nói ông ta là minh vương của Đông Nhạc, những lời mà ông ta nói cũng rất có đạo lý. Trước đây ở nhà Cầu Văn Đạt, ông ấy nói rằng:
“Trong địa phủ rất xem trọng những bậc trung trinh liệt nữ, nhưng cũng có phân thành đẳng cấp. Hoặc vì tình cảm trai gái, hoặc vì gia sản nhà chồng kếch xù, nên có phần lưu luyến mà không tái giá, là thuộc hạ đẳng; có nảy sinh cảm tình với người khác nhưng có thể dùng lễ nghĩa để mà khắc chế bản thân, là thuộc trung đẳng; lòng như giếng khô, không nảy sinh những cơn sóng cảm tình, không tham luyến vinh hoa phú quý, đói rét cũng không màng, cũng không so tính thiệt hơn, là thuộc thượng đẳng.
Những người như vậy trong nghìn người cũng không dễ có được một người. Nếu là người như vậy, quỷ Thần cũng sinh tâm kính ngưỡng. Một ngày kia, trong địa phủ truyền rằng có một tiết phụ đã đến, Diêm Vương thần thái nghiêm trang cùng với các âm quan đều ăn mặc chỉnh tề, đứng dậy nghênh đón. Chỉ thấy một bà cụ già dáng vẻ rất mệt mỏi đi đến, chân bà dường như đang bước lên bậc thang. Mỗi bước một cao hơn, đợi đến khi bước đến Diêm Vương điện, bỗng từ nóc điện đi lên, không biết đã đi đâu rồi. Diêm Vương kinh ngạc nói: ‘Người này đã thăng thiên rồi, không ở trong cõi ma quỷ của chúng ta nữa’”.
Cố Đức Mậu lại nói: “Hiền thần cũng chia làm ba đẳng, những người sợ chế độ pháp luật là thuộc vào hạ đẳng, yêu thanh danh khí tiết là thuộc về trung đẳng, lòng trung với triều đình, chỉ một lòng vì nước vì dân, không màng họa phúc vinh nhục là thuộc hàng thượng đẳng”.
Ông ấy còn nói: “Địa phủ vốn rất căm ghét những kẻ vì cầu danh cầu lợi mà tranh mà đấu, cho rằng kết thảy mọi tội ác trên thế gian đều từ đây mà sinh ra. Vậy nên luôn khiến cho loại người này không được như ý muốn, khiến cho cái được của họ chẳng bằng với cái mất. Lòng người càng xảo trá, thì an bài của quỷ Thần cũng càng tinh xảo”.
Lại nói: “Chế độ pháp lệnh nơi âm gian cũng giống như phẩm hạnh khí tiết của của các bậc Thánh hiền vậy, luôn có thiện ý giúp đỡ người khác. Quân tử vì cố chấp phiến diện của bản thân mà tổn hại sự việc nào đó, cũng sẽ bị ghi chép lại làm thành khuyết điểm; tiểu nhân có một chuyện gì mà làm có lợi cho người khác, cũng phải dùng chút thiện báo để báo đáp y. Con người thế gian vốn không hiểu được đạo lý này, vậy nên luôn luôn hoài nghi nhân quả báo ứng có những lúc không ứng nghiệm”.
Những chuyện được đề cập ở trên, có lẽ không được tường tận rõ ràng cho lắm, nhưng cũng đủ để cho chúng ta thức tỉnh, biết nên làm người như thế nào rồi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Từ xa xưa, việc chọn lựa đối tưởng kết hôn luôn được các bậc cha mẹ, thậm chí những người trẻ tuổi quan tâm. Bởi vì, đây cũng xem như là yếu tố giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và viên mãn về sau. Nếu bạn đã có hoặc chưa có đối tượng, hãy cùng tham khảo để tìm được ý trung nhân hợp tuổi và có hạnh phúc trọn vẹn trong năm nay nhé!.
1. Tuổi Tý và tuổi Thìn
Chuyện tình cảm của cặp con giáp này trong năm Bính Thân khá chật vật và bất ổn. Đặc biệt những cặp đôi có sự cách biệt về tuổi tác khá lớn đã khiến họ khó giữ hòa khí hơn. Tuy nhiên, với năm Đinh Dậu 2017 này, tình yêu của họ sẽ chuyển sang trang mới. Nếu như cặp đôi này đi đến hôn nhân thì quả là một định sáng suốt. Khi về chung một nhà, tình cảm của họ sẽ được nâng đến tầm cao mới, thậm chí sẽ nồng nàn như thời mới yêu.
Ảnh Internet
2. Tuổi Thân & tuổi Tý
Năm vừa qua chính là năm tuổi của các cá nhân tuổi Thân nên họ như vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần, nằm chờ hồi sức vậy. Vì vậy, khi bước sang năm Đinh Dậu, vận mệnh của tuổi Thân sẽ có bước chuyển biến mới, đặc biệt là chuyện tình cảm. Nếu những cô nàng, anh chàng tuổi Thân có người yêu tuổi Tý thì hãy mau mau nghĩ đến chuyện kết hôn trong năm nay nhé. Các bạn nhất định sẽ hạnh phúc khi "về chung một nhà" và xây dựng tổ ấm hạnh phúc về sau.
3.Tuổi Dần & tuổi Ngọ
Trong năm 2017 này, tuổi Dần sẽ phải đón nhận trọng trách lớn trong công việc. Dù vậy nhưng mọi thứ rồi cũng suôn sẻ, đâu vào đấy nên con giáp này cũng đừng quá lo lắng. Mà thay vào đó, chuyện hôn nhân trong năm nay sẽ rất tốt đối với tuổi Dần. Sẽ tuyệt vời hơn nữa nếu, cô, cậu tuổi Dần kết hôn với những người tuổi Ngọ thì chắc chắn hai bạn sẽ có hạnh phúc tuyệt vời. Không những thế khi về chung một nhà, cả sự nghiệp lẫn tiền tài của cả hai sẽ phất lên như diều gặp gió.
Ảnh Internet
4. Tuổi Mão & tuổi Hợi
Vỗn dĩ hai con giáp này nằm trong "tam hạp", tức về cơ bản nếu kết hợp với nhau đã tốt rồi, nay còn tính chuyện hôn nhân thì không gì hợp hơn nữa. Cả hai con giáp đều là những người trân trọng giá trị gia đình, sống tình cảm, và nếu kết hôn năm 2017 thì vô cùng tuyệt vời. Kể cả rằng tuổi tác có cách nhau xa đến mấy (như Quý Hợi 1983 và Quý Mão 1963 chẳng hạn), vẫn có thể có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc nếu cả hai cùng biết chia sẻ, quan tâm lẫn nhau. Điều đặc biệt, năm 2017 này lại là năm tình yêu bùng cháy đối với hai con giáp này, nếu như cả 2 vẫn còn độc thân thì hãy nhanh chóng tìm bạn đời tuổi này để có được hạnh phúc viên mãn nhé!
Giấc ngủ là một trong những cách thức nghỉ ngơi vô cùng quan trọng đối với sức khỏe của con người. Học nhà Phật 4 lưu ý khi ngủ dưới đây sẽ bạn có những giấc ngủ chất lượng.
1. Ngủ trước giờ Tý (23h)Phật giáo dưỡng sinh cho rằng ngủ là việc lớn quan trọng nhất của con người. Thức khuya ngủ muộn trong thời gian dài có thể ảnh hưởng tới gan, thận, khí huyết trong người không thông, thân thể mệt mỏi, sắc mặt tiều tụy, tinh thần trì trệ. Dù có bổ sung thực phẩm dinh dưỡng, tập luyện thể dục thể thao cũng không thể cứu vãn được hậu quả do thiếu ngủ hoặc giấc ngủ không tốt gây ra. Vì vậy, tốt nhất là ngủ trước 11 giời tối để bảo toàn thân thể.2. Trước khi ngủ tĩnh tâm, không suy nghĩ“Coi như thân này không có gì, hoặc như đang chìm trong nước, trước hòa tan ngón chân, rồi đến bàn chân, đùi, cuối cùng hóa thành hư ảo, tự nhiên ngủ”. Đây là trạng thái tinh thần lý tưởng để đi vào giấc ngủ trong sách thiện y của nhà Phật. Tâm sinh tướng, Tướng đẹp quyết định bởi Tâm Tướng mạo con người không phải từ khi sinh ra đã định như vậy, mà qua thời gian, qua cách sống, cách đối nhân xử thế, tướng mạo sẽ thay đổi. Một trong những nguyên nhân gây mất ngủ là do trong đầu có tạp niệm. Lúc này, vì suy nghĩ nhiều nên trằn trọc, hao tâm tổn sức, khó đi vào giấc ngủ. Biện pháp tốt nhất là ngồi dậy, nhắm mắt, thở đều, loại bỏ ý niệm ra khỏi đầu rồi từ từ nằm xuống ngủ tiếp. “Trước ngủ tâm, sau ngủ mắt”, chính là đạo lý về giấc ngủ của Phật giáo. 3. Nên có giấc ngủ ngắn hoặc tĩnh tọa dưỡng thần vào buổi trưaThời gian buổi trưa theo nhà Phật là từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều. Nên có một giấc ngủ kéo dài khoảng 20 phút để trí óc và thân thể nghỉ ngơi. Nếu điều kiện hữu hạn thì có thể tĩnh tọa một lúc, nhắm mắt dưỡng thần. Lúc chính Ngọ (12 giờ) chỉ cần nhắm mắt ngủ thực sự 3 phút thì cũng tương đương với ngủ hai giờ đồng hồ.
4. Không ngủ dậy quá muộnDù là mùa đông thì thời điểm rời giường không nên quá 6 giờ sáng, mùa xuân hạ thu thì nên dậy lúc 5 giờ. Đối với dưỡng sinh, sáng sớm rất có lợi cho sự trao đổi chất trong cơ thể người. Sáng sớm là thời điểm thải độc ra ngoài và những cơ quan như trực tràng, tiêu hóa hoạt động rất tốt. Nên nếu dậy muộn thì khả năng hoạt động của những bộ phận trên dễ bị giảm sút, không có lợi cho sức khỏe.Tâm Lan Xem Clip Phúc báo và Quả báo
Đồi mồi là loài vật không mấy quen thuộc nhưng lại được xưng tụng là “hoàng kim đáy biển”, có tác dụng phong thủy cực kì tốt. Cùng tìm hiểu về loài linh thú cát tường này nhé!
Đồi mồi là một loại động vật bò sát sinh sống tại các vùng biển nhiệt đới. Tuổi thọ của loài lên tới 1500 năm, trên lưng có 13 khối hình thù khác nhau, phân thành 3 hàng nên còn có tên gọi là “thập tam lân” hay “trường thọ quy”. Vẩy của đồi mồi rất quý hiếm, trong suốt, hoa văn rõ ràng xinh đẹp, ánh sáng nhu hòa, là một trong những vật báu hiếm có khó tìm, hàm lượng nguyên tố rất cao, là của quý nơi đại dương, rất được ưa chuộng để làm vật trang sức.Không chỉ có giá trị về thẩm mĩ, vật chất, đồi mồi còn là linh thú cát tường, mang trong mình những biểu tượng tốt đẹp, cao quý, có lợi đối với chủ nhân. Trong quan niệm của người phương Đông, đồi mồi là biểu tượng của trường thọ, trừ tà hưởng phúc, hoàng thất quý tộc, phú hào. Nếu đeo vật phẩm phong thủy đồi mồi bên người thì tránh được sương gió phong hàn, làm thuốc có thể thanh nhiệt giải độc, đặc trị phong thấp. Từ xưa đến nay, dân gian đều lưu truyền rộng rãi về tác dụng phong thủy của đồi mồi. Người yếu nhược, có bệnh nhẹ mà mang theo bên mình thì thân thế tốt lên, khí sắc hồng hào. Thế nên mới có câu “mang kim mang ngân không bằng mang thập tam kì lân”.
Đeo trang sức đồi mồi bên mình trong thời gian dài thì khí huyết tương thông, càng đeo càng ngời sáng, có thể trừ tà, điều tiết huyết áp, thông thấu khí huyết, trừ phong thấp, diều tiết nội tiết, rất có lợi cho sức khỏe, đặc biệt là người lớn tuổi. Không chỉ hóa sát, vượng vận mà linh thú cát tường đồi mồi còn có tác dụng chiêu tài. Bởi đây là thần thú, tuy nhỏ bé nhưng có thể sánh ngang với đại bàng trên trời,, kỳ lân dưới đất, bên trong hung mãnh vô địch, người kinh doanh mang bên mình có thể chỉ dẫn tài lộ, tăng thêm may mắn, thu về thành công, càng đeo lâu công dụng càng phát tác, có phú quý mệnh theo đến cửa.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
Sư tử trong phong thủyGương Bát quái và công dụng7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình anTrình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Gia Cát Lượng xưa nay nổi tiếng với việc nhìn người. Dưới đây là 7 tiêu chí về cách chọn hiền tài của ông, được các nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội Trung Quốc phân tích và đúc rút.
Hỏi họ về điều phải lẽ trái để xem chí hướng của họ.
Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý chí, lập trường của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải lẽ trái hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên định về lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.
Chí hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng thì không thể làm nên việc lớn. Bởi vậy, biết rõ được chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí của họ. Không chỉ Trung Quốc, tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà quân sự nổi tiếng đều có chí hướng ngay từ khi tuổi còn nhỏ.
Sự khác biệt giữa những người thành công và những người thất bại không phải là ở sức mạnh, kiến thức hay sự hiểu biết, mà chính là ở ý chí.
2/ BIẾN
Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn họ vào thế đường cùng để xem khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của họ.
“Biến” ở đây là chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, người có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào thế đường cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng, biết mở cho mình con đường sống.
3/ THỨC
Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham khảo những mưu kế, sách lược của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những kiến thức của đối phương.
4/ DŨNG
Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy, khó khăn để đánh giá sự dũng cảm của đối phương.
Khi lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó khăn gian nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh thần dũng cảm vô cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng nhưng khắc phục 10 hay 100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con người phải có tinh thần dũng cảm vô song.
Một nhà triết học người Đức từng nói:
“Chỉ có con người nào đã từng trải qua sự giày vò của địa ngục thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên đường”.
5/ TÍNH
Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say để đánh giá tính tình, thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì vỏ đại não bị tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được những hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối phương.
6/ LIÊM
Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng lộc, thậm chí hứa giao cho trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham lam của họ.
Bản tính của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất là những người làm quan và giữ trọng trách lớn. Thực tế cũng cho thấy, cổ kim đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của tiền tài danh vọng thường là những quan thanh liêm, được lòng dân và góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.
7/ TÍN
Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so với thực tế làm việc ra sao, từ đó đánh giá chữ “Tín” của họ.
Gia Cát Lượng cho rằng một người chỉ biết nói suông không đi đôi với việc làm, là người không có chữ tín. Một đất nước mà không có chữ tín với các nước thì không thể hưng thịnh, một người không có chữ tín với mọi người thì không thể lập nghiệp.
– Tết Trung Thu 2016 rơi vào tháng Đinh Dậu. Trong khi đó, Mão Dậu tứ hành xung, vận trình của người tuổi Mão gặp khá nhiều biến động, viễn cảnh không mấy lạc quan. Nhân cơ hội này, bạn nên sắp xếp một chuyến du lịch nhằm dưỡng sức và giải tỏa tâm lý. Phương vị tốt lành cho việc xuất hành là hướng Tây Bắc và chính Nam.
► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất
Tuổi Tý
Trong dịp Tết Trung Thu này, nếu xuất hành đi xa hay đi du lịch, người tuổi Tý nên tránh đi về hướng chính Nam kẻo sẽ gặp phải xui xẻo bất ngờ. Tốt nhất nên đi về hướng Tây hoặc Bắc. Đây là hai phương vị cát lợi, hứa hẹn mang tới hành trình bình an và nhiều niềm vui cho bạn.
Tuổi Sửu
Trừ hướng chính Nam, Trung Thu 2016 này, người tuổi Sửu có thể chọn bất kỳ hướng xuất hành nào cũng được. Hướng chính Nam không hợp với bản mệnh, rất có thể sẽ mang tới điềm hung họa, nên tránh vẫn tốt hơn.
Tuổi Dần
Với người tuổi Dần, đi du lịch hay công tác về hướng Tây hoặc Tây Nam là điều nên tránh trong dịp Tết Trung Thu này. Bạn có thể chọn cho mình hướng Tây Bắc, mọi lộ trình đều bình an.
Tuổi Mão
Trung Thu 2016 rơi vào tháng Đinh Dậu. Trong khi đó, Mão Dậu tứ hành xung, vận trình của người tuổi Mão gặp khá nhiều biến động, viễn cảnh không mấy lạc quan.Nhân cơ hội này, bạn nên sắp xếp một chuyến du lịch nhằm dưỡng sức và giải tỏa tâm lý. Phương vị tốt lành cho việc xuất hành là hướng Tây Bắc và chính Nam. Quý cô tuổi nào khiến các chàng đã yêu không bao giờ buông tay?12 con giáp đừng bắt Pokemon, hãy bắt hạnh phúc ngay trước mặtNàng giáp kết hôn càng lâu càng hạnh phúc
Tuổi Thìn
Phương vị cát lành nhất cho người tuổi Thìn xuất hành trong dịp rằm tháng 8 là chính Tây. Nên hạn chế lui tới hướng gây bất lợi, Đông và Tây Bắc.
Tuổi Tỵ
Nếu lên kế hoạch đi chơi xa, du lịch dài ngày trong dịp Trung Thu, tuổi Tỵ nên chọn hướng chính Tây để xuất hành, sẽ gặp nhiều cát lợi. Tránh đi về hướng Tây Bắc hoặc Đông Bắc nhé.
Tuổi Ngọ
Người tuổi Ngọ mang ngũ hành mệnh cách thuộc Hỏa, mà hướng Đông lại là hướng sinh cát, có lợi cho bạn nếu như xuất hành về phương vị này. Ngoài ra, hướng Tây cũng cát lợi, có thể lựa chọn. Chỉ cần trành hướng Bắc là ổn.
Tuổi Mùi
Dịp Tết Trung thu này, tuổi Mùi nên tránh xuất hành về hướng Bắc, hướng phạm kị, có thể gặp xui xẻo. Phương vị tốt nhất cho bản mệnh là Nam và Tây.
Tuổi Thân
Với những ai đã lên kế hoạch “xách ba lô lên và đi”, chỉ cần tránh hướng bất lợi Đông và Đông Bắc là được, còn các phương vị khác có thể tự do lui tới.
Tuổi Dậu
Phương vị có thể gây ra điều bất lợi với người tuổi Dậu trong dịp Trung Thu năm nay chính là Đông và Tây Bắc. Vì thế, bạn có thể xuất hành về hướng Đông Nam hoặc chính Bắc để vạn sự hanh thông hơn.
Tuổi Tuất
Người tuổi Tuất trong Tết Trung Thu nên xuất hành về hướng Nam trong mùa trăng tròn tháng 8. Phương vị cát lợi này sẽ mang tới nhiều điềm cát lành. Lưu ý, hạn chế đi về hướng Đông và Tây để tránh gặp hung họa.
Tuổi Hợi
Hướng chính Đông có lợi cho việc xuất hành của người tuổi Hợi trong dịp này. Vì thế, nếu có ý định đi du lịch, bạn nên chọn địa điểm nào nằm ở phương vị này sẽ càng có lợi cho vận thế của mình. Đồng thời, hạn chế đi về hướng Đông Nam hoặc Tây Nam, tránh gặp điều bất lợi.An NhiênTrung Thu 2016, vận trình 12 con giáp có biến động gì lớn? Trong dịp tết Trung Thu 2016, người tuổi Tý đón nhận khá nhiều tin vui. Thời điểm trước ngày rằm, vận đào hoa vượng, thúc đẩy tình cảm dạt dào, tình yêu lứa Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Có xem sơ đồ gia phả toàn họ mới biết được: Mình thuộc đời thứ mấy, đời trên mình là những ai, mình thuộc chi nào, nhánh nào, bằng vai với mình trong họ là những ai? Có sơ đồ gia phải mới phân biệt được thế thứ trong họ mỗi người tự xác định được quan hệ trong nội tộc mà xưng hô cho đúng, chú ra chú, bác ra bác, anh ra anh, em ra em v.v.... Xưng hô trong nội tộc khác với xưng hô ngoài xã hội, để khỏi mang tiếng "Cá mè một lứa".
Ngoài xã hội dựa theo tuổi tác và chức vụ địa vị, trong gia tộc dựa theo thế thứ, nhưng khi giao thiệp với từng cá nhân cụ thể lại phải kết hợp theo cách xưng hô ngoài xã hội theo quan hệ tuổi tác. Có thể đúng theo huyết thống thì anh A phải gọi tôi bằng ông chú, nhưng tôi cũng gọi anh A bằng bác, vì anh A đã là người tuổi cao, gọi bằng cháu bất tiện và bất lịch sự. Tôi gọi anh A bằng bác đó là gọi thay cho cháu chắt tôi, mặc dầu tôi ít tuổi hơn anh nhưng về thế thứ ngang với ông nội anh A. Tuy nhiên nếu ít tuổi quá mà gọi bằng ông cũng bất tiện, có khi phải hạ xuống một bậc mà gọi bằng chú mới thân mật.
Trong khi chúng tôi biên soạn gia phả có người bà con trong họ thắc mắc: Gia phả có nhầm lẫn gì giữa các chi trong họ ta hay không? Tại sao anh X. Còn ít tuổi hơn cháu nội tôi, mà tôi lại phải gọi anh X. bằng ông.
Xin trả lời: đó là hiện tượng phổ biến không có gì đặc biệt. Ngay trong một gia đình anh cả đã có con, mà chú út chưa ra đời: hiện tượng "Em bú chị dâu, cháu bú bà" là chuyện bình thường trong xã hội cũ, chỉ mới qua hai đời đã có sự chênh lệch 1 đời, vậy thì trong họ hàng qua nhiều đời, chênh lệch dăm ba đời không có gì là lạ.
ở nông thôn còn mối quan hệ giây mơ rễ má chằng chịt qua giữa thông gia, giữa bà con nội ngoại, nên cách xưng hô lại càng phức tạp, thông thường thì vợ chồng thống nhất cách xưng hô với ông chú bà bác bên nội bên ngoại như nhau, nhưng cũng có trường hợp do quan hệ huyết thống thân sơ khác nhau chồng gọi bằng em, vợ gọi bằng bác hay ngược lại. Nhưng dầu sao "Máu thoảng còn hơn nước lã", gọi nhau theo quan hệ gia tộc vẫn thân mật hơn gọi theo quan hệ xã hội.
Mỗi người đều có một Mệnh (mạng) riêng của mình chứa đựng sinh lực của bản thân trong đó, bệnh có thể chữa được nhưng vận mệnh thì không.
► Mời các bạn xem Tử vi 2017, Lịch 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com
Ảnh minh họa
Khi được sinh ra từ một giai đoạn nào đó – suy hay vượng – của cha mẹ sẽ tạo ra cho người con một cái vỏ để sẵn sàng chứa đựng nhận thức, chứa đựng sinh lực của người con đó. Rồi qua thực tiễn học tập, rèn luyện, giao tiếp, người ta tiếp thu những kiến thức sống, với tính năng động của hoạt động ý thức mà chỉ con người mới có, con người vận dụng nó làm vốn sống cho mình. Cái khuôn mệnh của người nào to sẽ chứa được nhiều kiến thức hơn, khuôn mệnh của ai nhỏ thì sự thành đạt cũng chỉ dừng ở một chừng mực nhất định. Người xưa có câu “Chữa được bệnh, không chữa được mệnh” là vì vậy.
Quy tắc Hợp - Khắc - Hình - Hại của Thiên can và Địa chi
Tứ trụ là 4 điều kiện về thời gian để nhận biết về vận mệnh của một con người, đó là năm sinh (cầm tinh con gì – theo tuổi âm lịch), tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh.Các quy tắc hợp – khắc – hình – hại của thiên can và địa chi là xem xét trong phạm vi tứ trụ của một con người (chứ không phải người này với người kia là hợp hay khắc !).
Âm dương và ngũ hành của Thiên can
Có 10 thiên can: Giáp - Ất - Bính - Đinh- Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý Can dương: GIÁP – BÍNH – MẬU – CANH – NHÂM Can âm: ẤT – ĐINH – KỶ – TÂN – QUÝ Ngũ hành của thiên can:GIÁP – ẤT thuộc MỘC. MẬU – KỶ thuộc THỔ. BÍNH – ĐINH thuộc HOẢ. CANH – TÂN thuộc KIM. NHÂM – QUÝ thuộc THUỶ.
Âm dương và ngũ hành của địa chi12 địa chi: TÝ – SỬU – DẦN – MÃO – THÌN – TỊ – NGỌ – MÙI – THÂN – DẬU – TUẤT – HỢIChi dương: TÝ – DẦN – THÌN – NGỌ – THÂN – TUẤT Chi âm: SỬU – MÃO – TỊ – MÙI – DẬU – HỢI Ngũ hành của 12 địa chi:DẦN – MÃO thuộc MỘCTỊ – NGỌ thuộc HOẢTHÌN – TUẤT – SỬU – MÙI thuộc THỔHỢI – TÝ thuộc THUỶTHÂN – DẬU thuộc KIMQUY TẮC SINH – KHẮC CỦA CANTrong tứ trụ, xem ngũ hành của các can (can năm, can tháng, can ngày và can giờ sinh) để biết sinh hay khắc.Nếu khắc tức là người có tứ trụ đó hay gặp những chuyện không may trong cuộc sống, gọi là HUNG; nếu sinh tức là hay gặp may mắn, dễ thành đạt trong cuộc sống, gọi là CÁT.Sự “tương sinh” giữa hai can bên cạnh nhau có lực mạnh hơn hai can cách nhau (Thí dụ: can năm sinh can tháng, can tháng sinh can năm hay can tháng sinh can ngày, can ngày sinh can giờ, hay can ngày sinh can tháng, can giờ sinh can ngày là sự tương sinh của hai can bên cạnh nhau, còn như can năm sinh can ngày hay can năm sinh can giờ, can tháng sinh can giờ hay can ngày sinh can năm là sự tương sinh của hai can cách nhau vì có một can ở giữa). Khi có sự tương sinh, can sinh thì khí bị giảm, mà can được sinh thì khí sẽ mạnh thêm.Khắc cách can mà can ở giữa hóa khắc thì không còn gọi là khắc nữa. (Ví dụ: can Bính HỎA khắc can Canh Kim, nhưng ở giữa có can thuộc THỔ sẽ là cho Bính Hỏa “xì hơi” (yếu đi để sinh THỔ), sau đó THỔ lại sinh Kim, như vậy là liên tục sinh, không còn là khắc nữa. Trong khi có “tương khắc”, cả hai can đều bị tổn thương, can bị khắc tổn thương nhiều hơn can khắc.Trong khắc có hợp cũng không còn là khắc nữa (Thí dụ: Bính HỎA khắc Canh KIM, nhưng trong Tứ trụ có can Tân, mà Bính – Tân hợp thành THỦY, mà THỦY thì khắc HỎA, do đó Bính HỎA khắc không khắc nổi Canh KIM nữa).
Thiên can hợp hóa:
– Lấy can ngày làm chủ – can tháng hoặc can giờ (hai can kế bên) là hợp, còn chi tháng nếu là ngũ hành giống nhau thì mới gọi là hợp hóa.– Can của năm và tháng cùng hợp, chi của năm cùng ngũ hành nên được hóa (thí dụ: Năm Canh, tháng Ất hợp thành KIM, chi năm là Thân Kim – hợp hóa).– Can ngày hợp với can tháng, hoặc can ngày hợp với can giờ, chi tháng không hóa, nhưng ngũ hành mà nó hóa ở trong ba chi còn lại hợp thành cục hoặc hội cục thì cũng có thể nói đến sự hợp hóa (thí dụ : Ngày Canh, tháng Ất hợp thành KIM, chi tháng không phải tháng Thân hoặc tháng Dậu nhưng 3 chi của Năm – Ngày – Giờ hợp thành Thân – Tý – Thìn hoặc Thân – Dậu – Tuất thì sự hợp đó có hóa)
Ngũ hợp của thiên can hóa ngũ hành:
Giáp hợp với Kỷ hóa thành THỔ Ất hợp với Canh hóa thành KIM Bính hợp với Tân hóa thành THỦY Đinh hợp với Nhâm hóa thành MỘC Mậu hợp với Quý hóa thành HỎA (*) Giáp hợp Kỷ hóa THỔ: Là sự hợp trung chính. Chủ về yên phận thủ thường, trọng chữ tín. (Nhưng nếu trong mệnh cục không có THỔ mà có “thất sát” thì người đó thiếu tình nghĩa, gian giảo nhiều, không biết liêm sỉ, tính thô thiển).1. Can ngày Giáp hợp Kỷ:Nếu gặp Ất MỘC (các can còn lại có Ất) thì thê tài ngầm hao tổn.Nếu gặp Đinh HỎA (các can còn lại có Đinh) thì được lộc cũng như không.Nếu gặp Tân KIM (các can còn lại có Tân) thì cao sang, nhà cao cửa rộng.Nếu gặp Mậu THỔ (các can còn lại có Mậu) thì nhà cửa lộng lẫy, giàu sang.Nếu gặp Quý THỦY (các can còn lại có Quý) thì cuộc đời dần dần hạnh phúc.Nếu gặp Canh KIM (các can còn lại có Canh) thì nhà hưng thịnh.Nếu gặp Bính HỎA (các can còn lại có Bính) thì hưởng lộc dồi dào. (*) ẤT hợp Canh hóa KIM: Đó là sự hợp chủ về nhân nghĩa. Người đó cương nhu đều có, trọng nhân nghĩa. (Nhưng nếu trong Tứ trụ có “thiên quan” hoặc vận kém (sinh vào năm TUYỆT của cha mẹ) thì tính tình cố chấp, không nhân nghĩa).2. Can ngày Ất hợp Canh (can ngày là Ất, các can còn lại có Canh):Nếu gặp Bính HỎA thì cuộc sống khó khăn.Nếu gặp Nhâm THỦY thì vinh hoa.Nếu gặp Đinh HỎA thì cuộc sống vui vẻ, tươi đẹp như mùa xuân.Nếu gặp Kỷ THỔ thì vàng bạc đầy nhà.Nếu gặp Tân KIM thì cuộc đời như cỏ mùa thu gặp sương gió.Nếu gặp Giáp MỘC thì lúa gạo đầy kho. 3. Can ngày Canh hợp Ất:Nếu gặp KIM (Canh , Tân) thì sẽ bị hao mòn dần.Nếu gặp Bính HỎA thì ốm đau.Nếu gặp Đinh HỎA thì như rồng gặp mây.Nếu gặp Quý THỦY thì ruộng vườn trôi nỏi và sống thọ.Nếu gặp Nhâm THỦY thì tài lộc ngày càng tiến.Nếu gặp Mậu THỔ thì không giàu sang cũng sẽ nổi tiếng. (*) Bính hợp Tân hóa THỦY: Là sự hợp uy nghiêm, trí lực dồi dào. (Nhưng nếu trong Tứ trụ có “thất sát” hoặc vận kém – sinh vào năm TUYỆT của cha mẹ – thì tính tình thô bạo, vô tình vô nghĩa).4. Can ngày Bính hợp Tân:Nếu gặp Mậu THỔ thì công thành, danh toại.Nếu gặp Ất MỘC thì quyền cao chức trọng.Nếu gặp Quý THỦY và Kỷ THỔ thì cửa nhà khang trang, giầu có nổi tiếng.Nếu gặp Nhâm THỦY và Thìn THỔ thì tai họa, đại bại. 5. Can ngày Tân hợp Bính:Nếu gặp Mậu THỔ, Canh KIM thì công thành danh toại.(*) Đinh hợp nhâm hóa MỘC: Là sự hợp chủ về nhân nghĩa, người như thế có tính hiền từ và tuổi thọ cao. (Ở phụ nữ nếu trong mệnh có “Thủy cục” vượng quá làm “xì hơi” Mộc thì đó là sự hợp dâm loạn. Nếu sinh vào năm TUYỆT của cha mẹ thì phá nhà vì tửu sắc).6. Can ngày Đinh hợp Nhâm:Nếu gặp Bính HỎA thì hàng năm nhàn nhã.Nếu gặp Tân KIM thì hay gặp may mắn, phú quý, song toàn.Nếu gặp Mậu THỔ thì cuộc sống an nhàn.Nếu gặp Quý THỦY thì lẻ loi nơi chân trời góc biển.Nếu gặp Ất MỘC thì cả đời không có tài lộc.Nếu gặp Canh KIM thì cuộc đời không có danh vọng.Nếu gặp Giáp MỘC thì tài lộc dồi dào, chức phận thanh cao.Nếu gặp Kỷ THỔ thì công danh thành đạt, tài lộc dồi dào. 7. Can ngày Nhâm hợp Đinh:Nếu gặp Giáp MỘC thì thường hay thất bại.Nếu gặp Tân KIM thì điền trang bát ngát.Nếu gặp Bính HỎA thì trở thành anh hùng hào kiệt.Nếu gặp Quý THỦY thì buôn bán vất vả.Nếu gặp Kỷ THỔ thì có chức có quyền.Nếu gặp Mậu THỔ thì bồng bềnh trôi nổi.Nếu gặp Canh KIM thì mọi việc không thành.Nếu gặp Ất MỘC thì dễ bị chết yểu. (*) Mậu hợp Quý hóa HỎA : Đó là sự hợp vô tình, giống như người diện mạo tuấn tú nhưng trong lòng không có tình nghĩa. Nếu là nam giới thì hay lang thang chơi bời, nhưng nếu là nữ giới thì lại dễ lấy được chồng đẹp trai, tuấn tú. 8. Can ngày Mậu hợp Quý:Nếu gặp Ất MỘC thì cuối đời có thể thành đạt.Nếu gặp Nhâm THỦY thì tự lập làm giàu.Nếu gặp Bính HỎA thì khó nhọc mà không có phúc lộc.Nếu gặp Canh KIM thì mọi việc thường dễ dàng suôn sẻ.Nếu gặp Kỷ THỔ thì vợ con bị tổn hại.Nếu gặp Tân KIM thì là người thông minh, nhiều mưu lược. 9. Can ngày Quý hợp Mậu:Nếu gặp Bính TÂN thì cuộc đời nhiều thành đạt, mà cũng nhiều thất bại.Nếu gặp Giáp MỘC thì suốt đời vất vả, lao tâm, lao lực.Nếu gặp Đinh HỎA thì kho tàng đầy ắp.Nếu gặp Canh KIM thì nhiều ruộng vườn, của cải.Nếu gặp Ất MỘC thì quyền cao chức trọng.Nếu gặp Nhâm THỦY thì tài lộc song toàn.Nếu gặp Tân KIM thì tài lộc lúc được, lúc mất.Nếu gặp Kỷ THỔ thì tiền đồ học hành thăng tiến. Thiên can một âm hợp một dương mà hóa ra ngũ hành, từ đó có thể nhận biết sự mạnh – yếu – vượng – suy của mệnh, nó có vai trò quan trọng làm tăng thêm sự sinh phù hay khắc chế cho nhật nguyên (hay một bản mệnh nào đó).
Địa chi hợp hóa:
(*) Lục hợp của địa chi hóa ngũ hành:Tý hợp với Sửu thành THỔNgọ hợp với Mùi thành THỔDần hợp với Hợi thành MỘCMão hợp với Tuất thành HỎAThìn hợp với Dậu thành KIMTị hợp với Thân thành THỦY (*) Địa chi tam hợp hóa thành ngũ hành:Thân – Tý – Thìn hợp thành Thủy cục.Hợi – Mão – Mùi hợp thành Mộc cục.Dần – Ngọ – Tuất hợp thành Hỏa cục.Tị – Dậu – Sửu hợp thành Kim cục. Khi giữa các địa chi trong tứ trụ có lục hợp hoặc tam hợp cục là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát.Hợp cục là Cát thần thì tốt. Hợp cục là Hung thần thì xấu.Nếu Can thì KHẮC nhưng Chi lại SINH thì tuy gặp Hung nhưng được cứu. Nếu Can thì SINH nhưng Chi lại KHẮC thì là trước tốt, sau xấu.NHỮNG QUY TẮC XUNG – HÌNH – HẠI CỦA ĐỊA CHI Trong tứ hành xung:Tý – Ngọ và Tị – Hợi là sự xung khắc của Thủy – HỏaDần – Thân và Mão – Dậu là sự xung khắc của Kim – MộcThìn – Tuất – Sửu – Mùi giống nhau về ngũ hành nên chỉ nói xung, không nói khắc.Tý hình Mão, Mão hình Tý – là hình phạt vô lễ.Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Tị – là hình phạt do đặc quyền đặc lợi dẫn đến.Thìn – Ngọ – Dậu – Hợi hình phạt lẫn nhau là tự hình. VẬN của mỗi người là sự chuyển động của Mệnh trong quá trình sống. Trong suốt quá trình đó Mệnh của con người chịu tác động của rất nhiều quy luật tâm sinh lý, nhiều khi có cả sự tác động của các quy luật tự nhiên.Tứ trụ là MỆNH, hay từ Bát Quái để tìm ra MỆNH, còn vận trình là VẬN. Mệnh và Vận hợp lại là VẬN MỆNH cả cuộc đời một con người.Mệnh và Vận kết hợp với nhau sẽ biết được Cát – Hung – Họa – Phúc. Mệnh và Vận như thuyền với nước, gắn chặt với nhau. Nước có thể chở thuyền đi, cũng có thể lật thuyền.Mệnh của ai đó có thể có được nhiều cung tốt, nhưng người đó sinh vào năm TUYỆT của cha mẹ thì dù VẬN tốt đến mấy thì VẬN MỆNH cũng không khá hơn được, người đó vẫn có thể bệnh tật hoặc công danh sự nghiệp không ra sao, rồi tuổi thọ cũng sẽ bị ảnh hưởng (đoản thọ).
Có 2 quy luật sinh tồn của con người mà người xưa đã tìm ra đó là VÒNG TRÀNG SINH và THẬP BÁT CỤC.
Trong khoa học hiện đại có một cách tính vận hạn là dựa vào NHỊP SINH HỌC.Nhịp sinh học (tiếng Anh : biorhythm) là một chu trình giả thiết về tình trạng sức khỏe, năng lực sinh lý, cảm xúc, hoặc trí thông minh của mỗi cá nhân.(*) Ba đường nhịp sinh học chính là:SỨC KHỎE: Có chu kỳ 23 ngày (theo dõi tình trạng thể chất và sức khỏe).TÌNH CẢM: Có chu kỳ 28 ngày (theo dõi năng lượng ổn định và tích cực của tinh thần, cách nhìn về cuộc sống cũng như năng lực cảm thông và xây dựng mối quan hệ với người khác).TRÍ TUỆ: Có 33 ngày (bằng lời nói, bằng khả năng tính toán, khả năng tưởng tượng, khả năng sáng tạo cũng như năng lực để áp dụng lý trí phân tích thế giới xung quanh).(*) Bốn đường nhịp sinh học phụ là:Trực giác: Đường này có chu kỳ 38 ngày và nó ảnh hưởng đến nhận thức, linh cảm, bản năng và “giác quan thứ sáu”.Thẩm mỹ: Đường này có chu kỳ 43 ngày và nó mô tả sự quan tâm đến cái đẹp và sự hài hòa.Nhận thức: Đường này có chu kỳ 48 ngày và nó thể hiện khả năng cảm nhận được cá tính riêng.Tinh thần: Đường này có chu kỳ 53 ngày và nó mô tả sự ổn định bên trong và thái độ thoải mái của bạn.Muốn tính vận hạn của một người bằng nhịp sinh học phải biết ngày sinh, sau đó lập biểu đồ (đồ thị theo hình sin), những điểm gặp nhau của nhiều chu kỳ là điểm xấu, ngày hôm đó dễ gặp những chuyện không may, đặc biệt xấu về sức khỏe.Nắm vững những quy luật đó người ta có thể tự hiểu biết về mình và dự báo cho mình những thời kỳ tốt xấu về công việc, về tình cảm và về sức khỏe. Hiểu biết là cơ sở cho lòng tin và nghị lực sống một cách có ý nghĩa nhất trong cuộc sống hiện đại.ST.
Khám phá bí mật sinh ra gặp toàn may mắn của người tuổi MùiRước dâu tuổi Thân, cả nhà chồng nhận vinh hoaHọa tiểu nhân quấy phá 4 con giáp trong năm 2017 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Tuyết (##)
Trong vấn đề chọn phương hướng cho nhà cửa hay phần mộ thì có 2 cách thông thường là chọn chính hướng sao cho được cuộc “Vượng Sơn, Vượng Hướng”, hoặc chọn kiêm hướng để dùng Thế Quái hầu đem vượng khí tới tọa-hướng. Ưu điểm của 2 cách này là sẽ giúp cho tài, đinh của 1 căn nhà được vượng phát nhanh chóng, nếu chọn thời điểm xây nhà, lập mộ đúng lúc thì có phát, Đó là tháng 1 và tháng 2 âm lịch.
Nhưng khuyết điểm của nó là thời gian hưng vượng lại rất ngắn ngủi, đa số chỉ phát trong khoảng 1 vận (tức 20 năm) mà thôi. Nếu muốn tiếp tục phát thì thường là cứ sau 1 vận phải tu sửa lại nhà cửa hay phần mộ, kẻo nếu không thì tai họa sẽ ập tới như trường hợp Liêu kim Tinh (tức Liêu công) thời Tống.
Liêu kim Tinh xuất thân hàn vi, phải đi ở cho nhà của 1 đại quan là Trương minh Thúc. Vợ của họ Trương là con gái của Ngô cảnh Loan, 1 danh sư Phong thủy thời đó, thấy Liêu công thông minh, tướng mạo khôi vĩ mà phải chịu cảnh cơ cực, nên mới đem những bí lục của phụ thân truyền cho. Sau khi học xong, vì quá nghèo, Liêu công bèn tìm địa huyệt đắc “Vượng sơn, vượng hướng” mà cải táng mồ mả cho tổ tiên. Từ đó, gia đình ông đinh, tài đều vượng phát, danh tiếng nổi như cồn, được dân chúng vùng đó coi như 1 vị thánh, ngày nào cũng mời ông đi xem Phong thủy. Chuyện này đến tai 1 gia đình thế phiệt, họ liền mời ông về, dùng lễ thượng khách mà hậu đãi, chỉ mong ông tìm cho họ những cuộc đất tốt. Trong 18 năm trời, Liêu công đã tìm được 74 cuộc đất quý. Lúc đó cũng đã gần hết thời hạn vượng phát mồ mả của tổ tiên mình, nên Liêu công mới muốn xin về để tìm đất tu sửa hay cải táng lại. Nhưng nhà kia tham lam, cứ nhất quyết giữ ông ở lại thêm 4 năm nữa mới cho về. Khi ông về đến nơi thì đại họa đã xảy ra, tất cả các con đều đã chết, chỉ còn bà vợ già và 2 đứa cháu nhỏ. Liêu công vì quá đau buồn nên từ đó sinh bệnh rồi chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Nói như vậy không phải là mọi cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” đến khi thất vận đều sẽ bị tai họa thảm khốc như thế, mà điều đó còn tùy thuộc vào địa hình và Phi tinh của từng địa huyệt. Nhưng nó cho thấy khuyết điểm của cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” là không được lâu dài, và vì vậy những nhà Phong thủy sau này đã tìm kiếm những cách cục khác có khả năng bảo đảm sự vượng phát của 1 gia đình lâu dài hơn cuộc “Vượng sơn, vượng hướng”. Một trong những cách cuộc đó là tình huống “HỢP THẬP”.
Nói “Hợp Thập” là khi trong các vận-sơn-hướng tinh, có 2 trong 3 số đó cộng với nhau (hợp) thành 10 (thập). Có 2 tình thế “Hợp Thập” xảy ra giữa Vận, Sơn và Hướng tinh như sau:
1/ Vận tinh và Sơn tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 9-1-3, thì vận tinh 9 + Sơn tinh 1 = 10, nên đó là tình huống “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Sơn tinh.
2/ Vận tinh và Hướng tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 8-6-2. Vì Vận tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên là sự “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Hướng tinh.
Cả 2 trường hợp kể trên đều đòi hỏi tất cả các cung phải có sự “Hợp Thập” thì mới có hiệu lực. Những trường hợp này còn được gọi là “toàn bàn Hợp thập”. Nếu trong trạch bàn chỉ có sự “Hợp Thập” ở 1, 2 cung thì không đáng kể lắm. - Thí dụ 1: Nhà tọa TÝ, hướng NGỌ (tức 180 độ), nhập trạch trong vận 7.
Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Sơn tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh. - Thí dụ 2: Nhà tọa NGỌ hướng TÝ (tức 0 độ), nhập trạch trong vận 7.
Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Hướng tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.
Có tất cả 12 tình huống toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh với Sơn tinh, cũng như 12 tình huống Hợp thập giữa Vận tinh với Hướng tinh như sau:
Ngoài hai tình huống Hợp thập giữa Vận-Sơn-Hướng tinh như ở trên thì còn một tình huống Hợp thập đặc biệt khác. Đó là khi trong một trạch bàn, Sơn tinh của một cung cộng với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Trường hợp này cũng đòi hỏi Sơn tinh của tất cả 8 cung (tức chỉ trừ Sơn tinh tại trung cung) đều phải “hợp” với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Sơn và Hướng tinh.
- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta thấy:
- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10; - Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10. - Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10. - Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10. - Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10. - Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10. - Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10. - Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.
Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.
Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.
TÁC DỤNG CỦA HỢP THẬP
Hợp thập tức là dùng Thập số (số 10) để thông với Ngũ Hoàng ở trung cung mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm - Dương, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “tượng trưng cho sự thần diệu, sự thần diệu dùng số để biểu hiện, một Âm, một Dương là đạo vậy. Hai khí giao cảm mà hóa sinh vạn vật, sinh sinh không ngừng, biến hóa vô tận...công dụng của Hợp thập đều ghi cho sức của Mậu-Kỷ, khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”.
Cho nên nơi nào có Hợp thập là có thể làm cho thông khí (còn gọi là Thông quái), toàn bàn đắc Hợp thập tức có thể làm cho thông khí hết 8 cung, khiến cho toàn cục đang suy (vì không đắc vượng khí tới tọa-hướng) lại chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc song toàn.
Tuy nhiên,không phải tất cả mọi nhà đắc cách Hợp thập đều có thể xử dụng được nó, mà phải kết hợp với loan đầu mới có thể vượng phát được, còn nếu không thì cũng chỉ tầm thường hoặc suy bại mà thôi.
Một số người cho rằng những nhà có sự Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh thì sẽ vượng về nhân đinh, nếu có Vận tinh với Hướng tinh Hợp thập thì sẽ phát về tài lộc. Điều này có lẽ chỉ là sự suy diễn theo quan điểm “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc” mà ra. Nhưng họ không để ý rằng 1 khi đã có tình huống Hợp thập (bất kể giữa Vận tinh với Sơn hay Hướng tinh) thì toàn bàn đã thông khí được với trung cung (tức Thiên tâm), 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại. Chính vì vậy mà Thẩm trúc Nhưng mới nói ”khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”, chứ không chỉ thuần 1 vấn đề là vượng đinh hay vượng tài không được.
Sau cùng, ngoài những cách Hợp thập của Phi tinh đã nêu trên thì còn có cách Hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này thì nếu lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa-hướng của căn nhà (hay mộ huyệt) để tạo thành 1 đường thẳng, nhà lại nằm tại trung tâm của thế đất để lấy Thiên tâm, tức địa thế 2 bên đã được phân ra đồng đều thì cũng là cách Hợp thập theo địa hình. Tuy nhiên cách này đòi hỏi tọa-hướng của căn nhà cũng phải đắc vượng khí của Sơn-Hướng tinh, tức là trong thực chất cũng chỉ là 1 trường hợp “Vượng sơn, vượng hướng” mà thôi. Nhưng do hình cục đắc “Thiên tâm thập đạo” nên lúc đương vận có thể phát mạnh hơn những cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” bình thường, mà đến lúc thất vận cũng không đến nỗi suy tàn nhanh chóng. Nhưng muốn đắc cách Hợp thập theo hình cục thì nhà cũng phải lập tọa-hướng theo đơn hướng, chứ không thể dùng kiêm hướng. Nếu kiêm hướng ắt thế Thiên tâm thập đạo sẽ bị phá bể mà phát sinh ra nhiều hung họa. Cho nên chẳng thà là lập theo nguyên tắc “Vượng sơn, vượng hướng” như bình thường, hoặc dùng phương pháp Thế quái, chứ đừng quá tham lam chọn cách Hợp thập để chuốc lấy nhiều tai họa sau này.
Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên tướng tài về hành chính, còn Thiên Cơ tài về tham mưu. Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại. Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái. Tướng đi với Hoa Cái, Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ. Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo. - Cùng với Tử Vi tại Thìn Tuất- Cùng với Liêm Trinh ở Ngọ Tí- Với Vũ Khúc ở Dần Thân- Một mình ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu Về Tử Vi Thiên Tướng xin xem luận về sao Tử Vi.Về Thiên Tướng Liêm Trinh xin xem luận về sao Liêm TrinhVề sao Thiên Tướng Vũ Khúc xin xem luận về sao Vũ Khúc Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu. Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công, đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả. Thiên Tướng Sửu Mùi đường vợ con phiền não. Số nữ tự lo lấy thân không có phận được nhờ chồng. Thiên Tướng ở Tỵ với Hợi đứng một mình, cung xung chiếu là Vũ Khúc Phá Quân, nếu gặp các phụ tinh đẹp đẽ thì tay trắng dựng nên cơ đồ. Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu, nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên Hình. Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc, ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng. Có câu phú: “Tỵ Hợi Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa. Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến. Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ, ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi. Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai) Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu Thuyền mà phá hỏng đời mình) Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung "Thiên Tướng Tuần Triệt trước miềnKhi lâm trận địa đầu liền phân thây" Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng chú ý: a. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo dựng cuộc đời an định) b. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng, không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”) Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”. Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn. Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng. Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn. Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn” chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm hiệp. Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình. Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa khí của Đà La là Kị. Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa, dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ thủ phận không nên đua chen mới yên. Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt. Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách. Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ là chuyện rắc rối. Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ, dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị thiếp chi lưu”. Xin xem thảo thêm những câu phú về sao Thiên Tướng: - Thiên Tướng tối hỉ cư Thê vị(Nam mạng có Thiên Tướng đồng Thê cung tất gặp người vợ đảm lược quán xuyến) - Tướng ngộ Cái Đào Khúc Mộc thuần tước dâm phong, hạn ngộ Cơ Riêu vô phu tự giải cố miên(số nữ Thiên Tướng gặp Hoa Cái Đào Hoa Mộc Dục Văn Khúc thì nhan sắc xinh đẹp nhưng dâm đãng, vận gặp Thiên Cơ Thiên Riêu đêm nằm thao thức tơ tưởng chuyện gái trai như con chim chìa vôi đến ngày động đực) - Tướng Liêm tại Ngọ, Khoa Hình Quyền củng, Hàn Tín đạt cao võ thượng chi công(Mệnh lập Ngọ Liêm Tướng thủ hội Khoa Hình Quyền như Hàn Tín xưa đăng đàn bái tướng lập võ công oanh liệt). - Tí Ngọ Tướng Liêm phùng Phụ Bật thái y đắc thế(Mệnh đóng Tí hay Ngọ Liêm Tướng thủ được Tả Hữu thì làm thầy thuốc giỏi). - Thiên Tướng Tử Vi Thân phùng Phá, kiêm ngộ Vượng Tuần đa mưu yếm trá(Thiên Tướng Tử Vi thủ Mệnh Thân, Phá Quân mà gặp Tuần Không, Đế Vượng là con người lắm mưu lắm thủ đoạn và gian hùng) - Thiên Tướng Tử Vi Tuất Thìn khởi năng đạt công danh chi chí(Thìn Tuất an Mệnh Tử Vi Thiên Tướng thủ không gặp thêm cát tinh thì khó nên danh phận với đời). - Ấn mang liệt vị phong hầu,Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung(Cung Mệnh có Thiên Tướng Phong Cáo thì công danh địa vị cao) - Thiên Tướng Không Kiếp cư quanCông danh chẳng được tân toan nhiều bề(Thiên Tướng gặp Không Kiếp ở Quan Lộc, công danh chịu lắm khó khăn cay đắng thăng trầm gian nan) - Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọaCửa mận đào có gã tình nhân(Mệnh Thiên Tướng gặp Hóa Lộc chiếu hay Hóa Lộc đứng cùng thì dễ quyến rũ đàn bà con gái, cũng thường là số đa thê) "Tướng miếu hoặc hãm gặp ngayTuần Triệt án ngữ thân nay khó toànHoặc bị súng đạn đao gươmHoặc lâm tai nạn thương đó mà" Cung quan Tướng đóng xem quaHễ bị Tuần Triệt khó mà rạng danh "Tướng Hồng số gái yên vuiChồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dàoNếu gặp Khúc Cái Mộc ĐàoVẫn là phúc trọng tính âu đa tình" Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tọa lạc trên đồi Linh Quy phía đông của bán đảo Sơn Trà, thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt là một trong ba ngôi chùa cũng có tên gọi là Linh Ứng tại thành phố Đà Nẵng:
Linh ứng Non Nước – nằm trên hòn Thủy của 1 trong 5 ngọn núi Ngũ Hành Sơn.
Linh Ứng Bà Nà, nằm trên chót vót núi cao của địa danh du lịch nghỉ mát “Đà Lạt của miền Trung”
Và Linh ứng Bãi Bụt. Linh Ứng Tự Bãi Bụt là ngôi chùa lớn nhất, mới nhất và đẹp nhất trong 3 ngôi chùa. Ngôi chùa này có tượng Quan Thế Âm được xem là lớn nhất của Đông Nam Á.
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tựa lưng vào đỉnh Sơn Trà vững chãi, mặt nhìn ra biển Đông bao la, xa xa bên tả là đảo Cù lao Chàm án ngự, phía hữu là ngọn Hải Vân ngăn che với dòng Hàn giang hiền hòa thơ mộng.
Sơn Trà còn là nơi giao hòa giữa biển trời với núi sông trong khoảng không trầm lặng, với tiếng vỗ rì rầm của biển cả và lời kể về một câu chuyện thuở xưa: “Vào thời vua Minh Mạng, dân chài ven biển nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát, bằng lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu người vượt vòng trầm luân, kể từ đó sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn, từ đó nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian.”
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hiện được xem là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Đà Nẵng cả về quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật. Ngôi chùa mang một phong cách hiện đại kết hợp với tính truyền thống vốn có của chùa chiền Việt Nam, với mái ngói uốn cong có hình rồng, những trụ cột vững chắc được bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo.
Gian chính điện Tam Bảo và gian Nhà Tổ (bên trong một mặt đặt tôn tượng Đạt Ma Tổ Sư, một mặt đặt tôn tượng Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi) nối cách nhau một khoảng sân, có mái ngói che chắn. Sát gian Nhà Tổ là hai gian nhà khách mới xây, trong đó có một gian được bố trí theo cạnh chữ U.
Ngay khoảng sân áp lưng gian Chính điện, nhìn hướng Nhà Tổ là một “vườn tượng Phật” nhỏ với tôn tượng Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn bằng đồng, còn lại là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, tôn tượng Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn tượng Đức Phật Di Lặc, tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ trông thật đẹp. Nơi gian Chính điện Tam Bảo uy nghiêm thanh tịnh, chính giữa là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, bên phải là tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và bên trái là tôn tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Sảnh trước gian chính điện, một bên là tôn tượng Diện Nhiên Vương Bồ Tát, bên kia đặt tôn tượng Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát. Thẳng hướng chính điện là “Vườn La Hán” nhìn ra biển, nơi đặt tôn tượng 18 vị La Hán được tạc bằng đá trắng nguyên khối. Toàn bộ mái chùa và các gác mái, thay vì lợp ngói đỏ, sơn màu nâu hoặc đỏ nâu, đều phủ một màu xanh trúc dịu mát.
Vườn la hán
Các gian liền nhau, đều có kiến trúc mái tầng, nhưng được sắp đặt rất khoa học, thoáng đãng nhưng không quá loãng, gần nhau nhưng không san sát tới mức vướng tầm mắt. Dù ở không gian nào, bên trong hay ngoài trời, không khí vẫn trong lành, mát dịu. Bên ngoài, khi có ánh nắng mặt trời, các khoảng sân đều được lấp đầy ánh nắng, nếu đứng từ trong nhìn ra, như nơi gian nhà khách sát Nhà Tổ chẳng hạn, bạn sẽ thấy một thảm nắng vàng lung linh, từng làn gió biển mát rượi xa đưa thật khoan khoái…
Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Phật Quan Thế Âm được xem là cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m, tương đương tòa nhà 30 tầng). Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ như rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa. Trên mão tượng Quan Âm có tượng Phật Tổ cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”.
, đồng thời cũng là nơi ngoạn cảnh của du khách bốn phương, một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của thành phố Đà Nẵng, là nơi hội tụ linh khí đất trời và lòng người.
Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong mỗi gia đình thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên, vì thế, luôn là một không gian quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của con người.
Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ. Do đó, khi đặt bàn thờ, bạn phải tránh các điều kiêng kỵ sau:
Bàn thờ đặt ở nơi thanh tịnh và tôn nghiêm
- Không đặt bàn thờ sát nhà tắm. Bởi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm.
- Không đặt bàn thờ ở lối đi lại. Nếu đặt ở lối đi lại ồn ào sẽ làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ cúng. Như vậy, gia đình sẽ ít có may mắn và tài lộc.
- Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ:hướng Đông Bắc, hướng Tây Nam. (Không đặt bàn thờ hướng Đông Bắc nhìn Tây Nam hoặc ngược lại).
- Không đặt bàn thờ ở hướng Đông, Đông Nam nhìn hướng Tây.
- Không đặt bàn thờ trên nóc tủ.
- Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ.
- Bàn thờ Thần và Phật có thể để chung, song không nên để bát hương sát nhau.
- Bàn thờ tổ tiên không nên đặt ở trung tâm nhà, vì sợ hung. Thay vào đó, bàn thờ Phật có thể đặt ở trung tâm nhà.
- Bàn thờ tổ tiên và bàn thờ Phật không nên đặt đối nhau trong 1 gian phòng.
- Không nên treo ảnh người quá cố cao hơn bàn thờ
Bàn thờ phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp nhang. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bàn thờ hướng trực tiếp ra cửa chính. Tượng thần thánh hoặc vật thể thiêng liêng phải đặt trên bàn kệ cao. Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
Vị trí lập phòng thờ - tủ thờ hợp phong thủy
Từ tâm thức đến cách thức bài trí nhà cửa, người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng luôn đặt nơi thờ cúng tại vị trí trang trọng nhất.Trong nhà ở dân gian, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách, là một xếp đặt quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống vốn có hàng hiên và sân vườn bao bọc chung quanh.
Trong phong thủy, bàn thờ cần phải "tọa cát hướng cát" tức là nằm ở vị trí tốt và nhìn ra hướng tốt so với tuổi của gia chủ. Phía sau bàn thờ cần phải là tường vững chãi, không được dựa vào tường kính hoặc cửa sổ... Việc đặt bàn thờ đối diện cửa ra vào nếu thỏa mãn về phương vị và hướng thì là một cách bố trí tốt về phong thủy.
Trong giải pháp thiết kế kiến trúc dành cho những căn nhà phố hiện nay, kiến trúc sư thường bố trí bàn thờ đặt trong một phòng riêng, tầng trên cùng của ngôi nhà (tầng trên cùng thường là tầng thượng - tầng tum gồm: phòng thờ, phòng giặt + sân phơi). Vị trí này không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng… mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.
Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, phía trên bàn thờ là nóc nhà và bầu trời, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên… để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên.
Đối với bàn thờ thần tài và ông địa, nên đặt ngay tại lối vào chính và ở dưới đất vì việc thắp nhang, nhất là nhang thơm, có tác dụng xua đuổi không khí ẩm ướt, côn trùng vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối (là khoảng thời gian chuyển tiếp Âm Dương, ánh sáng nhá nhem, vi khuẩn nhiều và độ ẩm tăng), đồng thời theo tín ngưỡng dân gian thì làm như như vậy sẽ “nghinh tiếp thần tài” được trực tiếp hơn.
Bàn thờ Thiên hầu như để lộ thiên hoàn toàn, có thể đơn giản là một bệ đá, đến cầu kỳ hơn là một trang thờ có mái. Sân thượng hoặc ban công trước là nơi phù hợp đặt bàn Thiên, cũng là một điểm thắp nhang để xua đuổi âm khí, tạo thêm nét ấm áp cho sinh hoạt trong ngôi nhà Việt.
Thiết kế tủ thờ - bàn thờ phù hợp
Trong phòng thờ, hệ thống tủ - bàn thờ phải có quy mô và hình thức tương xứng để tạo nên sự trang nghiêm cho không gian đặc biệt này.
Kích thước tủ thờ không nên quá to gây cảm giác hoành tráng nhưng cũng không nên “lọt thỏm”, nhỏ bé trong phòng. Nếu bàn thờ được đặt tại các không gian khác như phòng sinh hoạt chung, phòng khách… thì tủ thờ cần được thiết kế phù hợp về tỉ lệ với kích thước phòng và tương quan với các đồ nội thất khác.
Một góc thờ cúng trang trọng mang hơi hướng truyền thống
Ở những không gian này, tủ, bàn thờ nên được thiết kế đơn giản, tránh cầu kỳ lạc lõng hay gây cảm giác nặng nề e sợ. Bàn thờ phải tạo được sự tôn nghiêm nhưng vẫn phải mang lại cảm giác gần gũi với các thành viên trong gia đình và các sinh hoạt chung khác.
Vật liệu và màu sắc của tủ - bàn thờ cúng cũng phải phù hợp, nên sử dụng các màu trầm, tổt nhất là màu gỗ nâu sậm. Các chi tiết kiến trúc - nội thất (lát sàn, trần, chiếu sáng…), các vật dụng, đồ thờ (bát nhang, đèn nến, lọ hoa…) nên bày theo lối cân đối.
Ở các căn hộ chung cư, trong trường hợp tủ thờ để ở phòng chức năng nào đó hay không gian chung, thì có thể dùng hình thức tủ thờ kết hợp với tủ trang trí, tủ ngăn phòng, tủ bày đồ lưu niệm…
Một số điều cần lưu ý trong phong thủy phòng thờ
Khi thiết kế hay bài trí, sắp đặt cho không gian thờ cúng bạn phải lưu ý tránh đặt bàn thờ gần luồng hút gió mạnh, gây “động” và có thể thổi tàn lửa nhang ra chỗ khác gây cháy. Mặt bàn thờ nên đặt một tấm kính để đảm bảo an toàn tránh lửa bén. Tuyệt đối không được đặt bàn thờ bên dưới phòng vệ sinh, phòng trẻ em chơi đùa… làm giảm tính tôn nghiêm.
Không gian đặt bàn thờ phải đủ thông thoáng. Không nên đặt bàn thờ cao quá gây khó khăn cho việc thờ cúng, cũng không nên đặt thấp quá thiếu trang nghiêm. Trong các trường hợp bàn thờ treo hay tủ thờ cao, phải đảm bảo khoảng cách tới trần không quá gần, tránh quẩn khói và gây ám vàng trần. Để khắc phục trường hợp này, bạn có thể gắn một tấm kính phía trên trần.
Ánh sáng trong phòng thờ và trên bàn thờ không nên sử dụng ánh sáng trắng mà nên sử dụng ánh sáng vàng, có cảm giác ấm cúng; nguồn sáng gián tiếp, tránh gây chói. Bạn có thể dùng đèn hắt tường, những bóng đèn nhót, đèn thờ… Bố trí chiếu sáng nên đăng đối theo 2 bên bàn thờ; kiểu dáng, chất liệu của đèn cũng cần phù hợp với tủ thờ và không gian chung, tránh quá màu mè, lòe loẹt…
(Theo Xzone) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Đặc trưng của huyền quan là tính trưng bày, tính thực dụng, tính chỉ dẫn khéo léo. Chung quy lại huyền quan có những phương pháp thiết kế chủ đạo sau đây.
Đặc trưng của huyền quan là tính trưng bày, tính thực dụng, tính chỉ dẫn khéo léo. Chung quy lại huyền quan có những phương pháp thiết kế chủ đạo sau đây:
- Dùng tủ thấp ngăn cách: Đặt một chiếc tủ thấp phù hợp với chiều cao của căn nhà trong một không gian nhỏ để đựng những vật nhỏ, đồ đạc lặt vặt. Cách này có tác dụng phân chia không gian.
- Dùng gương chiếu sáng: Dùng một tấm gương đứng đặt ở góc huyền quan vừa có tác dụng phân chia không gian vừa tạo thêm không gian ảo lại có thể tiết kiệm khoảng không.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa)
- Thiết kết hàng rào bao quanh: Chủ yếu là dùng những tấm rèm có tông màu khác với hoa văn trang trí để làm vách ngăn, nó có tác dụng tạo khoảng không lại có thể phân chia không gian.
- Hình thức nửa mở nửa đóng: Che lấp toàn bộ phần dưới vách ngăn ở góc huyền quan.
- Phối hợp đèn trên trần và đèn dưới đất: Phương pháp này đa số dùng cho những góc huyền quan tương đối ngay ngắn, vuông vắn.
- Lựa chọn phương pháp thực dụng: Trang trí điểm xuyết, thiết kế sao cho có thể lợi dụng được tối đa chức năng của huyền quan.
- Thiết kế theo hình tạo thế dẫn dắt chuyển tiếp: Khi thiết kế huyền quan, nhìn mô hình ngôi nhà, diện tích ngôi nhà rồi sáng tạo ra thế đặt huyền quan.
- Sử dụng khéo léo bức bình phong làm bờ phân cách: Khi thiết kế góc huyền quan đôi khi phải dùng đến bức bình phong để phân chia khu vực.
- Thiết kế huyền quan hoa lệ, đa dạng, đa phong cách: Đối với những ngôi nhà có không gian tương đối lớn, góc huyền quan cũng được rộng rãi, có thể trang trí theo nhiều hướng, nhiều phong cách, lộng lẫy một chút.
- Huyền quan thông thoáng, không gian mở rộng: Với những căn nhà không gian nhỏ, góc huyền quan cũng khiêm tốn thì nên sử dụng phương pháp thiết kế thông thoáng để tránh gây cảm giác bí bách, chật hẹp về không gian.
(Theo 500 câu hỏi đáp phong thủy về trang trí đồ vật trong ngôi nhà của bạn)
Bạn là nam, sinh vào năm Bính Thìn và muốn biết tử vi trọn đời của mình như thế nào, giờ thì hãy cùng tử vi số xem tử vi trọn đời tuổi Bính Thìn nam của mình thế nào nhé: Nam Mạng – Bính Thìn Sanh năm: 1916, 1976 và 2036 Cung CHẤN. Trực KIÊN Mạng SA
Thạch anh trắng là một trong số 6 loại đá thạch anh chính được sử dụng trong y học và phong thủy hiện nay. Vậy theo phong thủy, đá thạch anh trắng có những tác dụng gì? Thạch anh trắng là gì Thạch anh trắng (pha lê) được biết đến như là “bậc thầy chữ
Thạch anh trắng là một trong số 6 loại đá thạch anh chính được sử dụng trong y học và phong thủy hiện nay. Vậy theo phong thủy, đá thạch anh trắng có những tác dụng gì?
Nội dung
1 Thạch anh trắng là gì
2 Ý nghĩa của đá Thạch anh trắng
2.1 Ý nghĩa đá thạch anh trắng đối với sức khỏe
2.2 Ý nghĩa Thạch anh trắng trong phong thủy
3 Sử dụng Thạch anh trắng
Thạch anh trắng là gì
Thạch anh trắng (pha lê) được biết đến như là “bậc thầy chữa lành” và nó có khả năng khuếch đại năng lượng và ý nghĩ, cũng như tác động của các tinh thể khác.
Là một trong những loại tinh thể thạch anh phổ biến nhất, thạch anh trắng có thể được tìm thấy ở tất cả các châu lục, dù vậy rất nhiều viên thạch anh trắng có tần số rung động rất cao. Chúng cộng hưởng mạnh mẽ với luân xa thứ tám, thường được gọi là luân xa ngôi sao linh hồn.
Ý nghĩa của đá Thạch anh trắng
Ý nghĩa đá thạch anh trắng đối với sức khỏe
Theo y học Do có cấu tạo về vật chất và địa chất đặc biệt nên thạch anh trắng đươc cho là cản trở bớt một số từ trường tác động lên cơ thể, tốt cho sức khỏe. Ngoài ra đá thạch anh trắng cũng được cho là có thể thúc đẩy hoạt động của não bộ và tăng cường mức độ tập trung cho trí não.
Sử dụng một cách thông minh, những sắc trắng này được coi là “lưới lọc”, nó lọc các khí bệnh và từ trường âm trong cơ thể, do đó, nó đặc biệt tốt cho sức khoẻ. Kích thích các chức năng hoạt động của não và tăng cường mức độ tập trung; ứng dụng tuyệt vời cho sự trầm tư mặc tưởng, tạo ra trạng thái cân bằng cho tâm hồn. Khi tình trạng sức khoẻ không được tốt, có thể thường xuyên cầm hai thỏi thạch anh trắng rồi ngồi, đầu nhọn ở trong tay trái hướng vào trong, đầu nhọn trong tay phải hướng ra ngoài, như vậy sẽ có tác dụng lọc tuần hoàn. Điều này giải thích vì sao dây chuyền đá thạch anh ngày càng được yêu thích dù giá có đắt!
Ý nghĩa Thạch anh trắng trong phong thủy
Đối với phong thủy, đá thạch anh trắng như một lá bùa hộ mệnh, người gặp vận rủi, người bị rất nhiều phiền toái giày vò, có thể cầm thạch anh trắng rồi ngồi thiền, như vậy có thể cải thiện được từ trường của bản thân, cũng là cải thiện vận mệnh của mình.
Bởi vậy mà khi sử dụng dây chuyền ở trước ngực hay vòng tay hoặc quả cầu thạch anh trắng có thể hóa giải được những vận xui xẻo , giúp kích thích năng lượng, trừ tà khí xấu , tạo sinh khí tốt, tài vận hanh thông, giúp chủ nhân tập trung công việc, giảm thiểu mệt mỏi.
Những bạn phải đi vào những nơi có từ trường xấu như bệnh viện, bệnh xá, nhà xác, nhà tang lễ, những nơi công cộng, có thể đeo thạch anh trắng hoặc bỏ vào trong túi áo, túi quần, ít nhiều đều có tác dụng ngăn ngừa được tà khí xâm nhập vào cơ thể. Nếu có thạch anh trắng hình trụ, hình hồ lô nhỏ, hoặc hình kim tự tháp, thì có thể đặt nó ở bên trong kính chắn gió của xe, có thể có tác dụng ngăn chặn sát khí, hoá giải xung đột, ngăn ngừa tai nạn xe cộ và các sự cố bất thường.
Có thể nói , đá thạch anh trắng phong thủy có tác dụng rất tốt đối với chúng ta, nó không chỉ là những món đồ trang sức thông thường dùng để làm đẹp mà còn có nhiều công dụng khác trong cuộc sống, giúp con người tránh được những vận rủi ro và bệnh tật.
Sử dụng Thạch anh trắng
– Đeo mặt dây chuyền thạch anh trắng trước ngực để có từ trường cân bằng nhất, nó bảo vệ sự bình an, làm lá bùa hộ mệnh đem lại bình an tốt nhất.
– Mặt Thạch anh trắng được sự dụng để làm dịu hay tan biến các căng thẳng giảm trầm uất và chữa trị các bệnh có tính chất dương.
– Với những người bạn khi ngồi thiền mà tâm bất an không tập trung, tinh thần phân tán có thể cầm quả cầu thạch anh trắng áp sát nơi Đan điền ở bụng dưới da tác dụng giúp tập trung tinh thần để chuyên tâm hơn.
– Đeo vòng tay thạch anh trắng trên tay có thể tăng từ trường ý thức, được dùng để cầu phúc cầu nguyện rất tốt.
– Đem Thạch anh trắng đặt vào phương tài lộc làm cho khí vượng, có tác dụng sinh tài sinh lộc.
– Đặt Thạch anh trắng phía sau bên phải của chủ quản để giúp củng cố uy danh, cấp dưới chấp hành mệnh lệnh tuyệt đối không dám chậm chạp ỷ lại.
– Đặt Quả cầu thạch anh trắng có kích thước phù hợp bày trên bàn làm việc hoặc đặt quanh máy vi tính, truyền hình, lò vi sóng và các đồ điện khác để giảm nhẹ độ phóng xạ bảo vệ cơ thể con người tránh nhiễm xạ.
– Đối với những góc nhỏ bên ngoài nhà có thể đặt thạch anh trắng ở những vị trí đối xứng nhau, để hoá giải sát trạch.
– Trong nhà khi có cửa đối cửa có thể để thạch anh trắng làm tuyến nối giữa hai cửa để hoá giải xung khắc.
Là một phụ tinh. Sao thứ 2 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Phân loại theo tính chất là Tùy Tinh.
Ý Nghĩa Của Sao Lực Sĩ:
Tướng Mạo: Lực Sĩ là sao võ cách, chỉ sức lực, sức mạnh thể chất và uy lực về võ. Lực Sĩ ở Mệnh là người có sức vóc, khỏe mạnh, ăn uống khỏe, thân hình vạm vỡ.
Tính Tình: Nhanh nhẹn, can đảm, mạnh bạo.
Khả năng ăn nhậu vượt bậc Nếu đi với Thiên Trù thì là người ăn khỏe, thích ăn uống, tiệc tùng. Nếu thêm Hóa Lộc thì càng sành về ăn uống, thích ăn, ăn ngon, ăn nhiều, tìm lạc thú trong sự ăn uống.
Có uy quyền, uy lực, hay giúp đỡ người khác
Những Bộ Sao Tốt khi đi chung với sao Lực Sĩ:
Lực, Mã: chỉ tài năng tổ chức và sức khỏe vật chất, bộ sao cần thiết của võ tướng, vừa có dũng, vừa có mưu.
Lực, Hình hay Hổ: người có chí khí sắt đá
Những Bộ Sao Xấu khi đi chung với sao Lực Sĩ:
Lực Kình: Kình là phá tinh đi với sao Lực Sĩ làm mất hiệu lực của Lực. Có nghĩa bóng là có tài năng công lao nhưng không được sử dụng, ban thưởng; bất mãn.
Lực, Tuần, Triệt: đau ốm, mất sức.
Lực, Binh, Hình: trộm đạo, người dùng sức khỏe làm việc phi pháp và thường có tòng phạm.
Nói chung, gặp nhiều sao tốt, Sao Lực Sĩ sẽ làm tốt thêm, đem lại may mắn một cách nhanh chóng. Ngược lại, nếu gặp sao xấu thì tác họa xấu và nhanh.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.
Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.
Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…
Sắm lễ cúng Ban Công đồng
Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.
– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có). Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.
– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.
Hạ lễ cúng Ban Công đồng
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.
Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Văn Khấn lễ Ban Công đồng
Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương
– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế
– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu
– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh
– Con lạy Tứ phủ Khâm sai
– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu
– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
– Con lạy quan Chầu gia.
Hương tử con là:……………………
Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn
Ngụ tại:……………………………….
Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!
Tết Trung Thu là dịp vui chơi thoải mái, tiệc tùng linh đình cùng người thân, bạn bè. Nhưng hiếm có ai lại cao hứng như 4 chòm sao dưới đây, quẩy quên trời đất
Tết Trung Thu là dịp vui chơi thoải mái, tiệc tùng linh đình cùng người thân, bạn bè. Nhưng hiếm có ai lại cao hứng như 4 chòm sao dưới đây, quẩy quên trời đất luôn.
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất
Thiên Bình
Chòm sao Thiên Bình thích Tết Trung Thu vô cùng luôn, được diện quần áo đẹp này, được ăn ngon uống say, ca múa hát hò lại còn gặp gỡ hàn huyên, trò chuyện cùng bao nhiêu người nữa. Thiên Bình là chòm sao thích tiệc tùng để phát triển các mối quan hệ cá nhân nên đây là một dịp rất tốt, giúp ích cả về sau này. Vừa có thể vui vẻ lại vừa có lợi, đúng là đầu tư đúng hướng, một vốn bốn lời rồi còn gì.
Nhân Mã
Chòm sao ham chơi như Nhân Mã thì Tết Trung Thu là một lý do vô cùng hợp lý để lôi kéo đồng bọn tụ tập làm một chuyến dã ngoại ăn mừng. Tất nhiên là bình thường thì hứng lên là Mã Mã đi thôi nhưng Trung Thu thì cảnh đẹp vô cùng, trăng sáng, bạn hiền, đúng là ngập tràn ý thơ luôn. Mà lấy cớ đi chơi lễ thì cũng dễ dàng được phụ huynh phê duyệt hơn nữa chứ, tiện cả đôi đường, Nhân mã đúng là khôn ngoan.
Kim Ngưu
Còn gì tuyệt vời hơn khi Kim Ngưu có thể tận dụng dịp Tết Trung Thu để thưởng thức những món ăn thơm ngon, đặc biệt là bánh trung thu. Chòm sao này cực mê ăn uống, lại phải ăn ngon cơ, mà bánh trung thu dịp này là ngon nhất rồi, còn có cốm, có hoa quả đúng mùa nữa chứ. Quan trọng nhất là ăn trong không khí tưng bừng hội hè và cùng những người thân yêu lúc nào cũng ngon miệng hơn hẳn. Thảo nào mà Kim Ngưu phấn khích thế.
Song Ngư
Song Ngư thích nhất lễ tết, vì có quà lại còn được vui chơi. Dịp này nhất định họ sẽ cùng người yêu trải qua không khí lãng mạn, ngọt ngào như mật, cùng ngắm trăng tâm sự và trao nhau những lời tình tự. Chắc hẳn trong lòng Ngư nhi đã điểm qua không ít phương án rồi, chỉ còn chờ đến giờ là hành động thôi. Chúc Song Ngư có một mùa Trung Thu thật hạnh phúc và đáng nhớ bên người thương nhé. Bó tay với 4 chòm sao trở nên điên cuồng vì tìnhTop 4 chòm sao coi trọng sĩ diện đến mù quángBóc mẽ 4 chòm sao chơi chiêu để không phải nói lời chia tayTrình Trình
Người tuổi Mão thông minh, khôn khéo ngầm từ bên trong nên rất khó đoán nội tâm họ đang suy tính điều gì. Khả năng thích ứng của con giáp này siêu cao thủ, có thể tùy cơ ứng biến nhanh nhạy, sắc sảo.
Trước mặt mọi người họ không bao giờ để lộ yếu điểm của mình. Dù trong tình huống cấp bách nhất, họ vẫn giả nai hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Do đó, người tuổi Mão xứng đáng đứng ngôi đầu bảng.
No2: Tuổi Thân
Là con giáp thuộc hàng tinh ranh nhất trong 12 con giáp, cộng với sự hiểu biết sâu rộng nên người tuổi Thân biết cách ăn nói và hành động khéo léo sao cho bản thân được hưởng lợi ích nhiều nhất.
Họ biết cách giả nai sao cho thật bài bản làm hài lòng mọi người. Một phần là để che giấu suy nghĩ nội tâm của mình, phần khác để chiếm được cảm tình và sự tin tưởng của mọi người.
No3: Tuổi Tý
"Ngụy trang" đã trở thành thói quen của con giáp này từ khi mới được sinh ra. Người tuổi Tý thích ẩn mình trong thế giới của riêng họ để gây dựng hình tượng bí ẩn và có phần lạnh lùng. Họ cố chấp, ngang bướng bảo vệ bí mật của bản thân, nhưng lại thích "săm soi" người khác và lấy đó là thú tiêu khiển, giảm stress.
Vậy nên, khi nghe người tuổi Tý nói chuyện, bạn chỉ nên tin một nửa thôi nhé, nửa còn lại bạn phải tự thân vận động, tìm hiểu rõ ngọn nguồn sự việc để có kết quả chính xác nhất.
Mr.Bull
Con số mang lại điều tốt lành cho 12 con giáp
1 và 6 là số may mắn của người tuổi Hợi, Tý; 5 và 0 là số may mắn của người tuổi Tuất, Thìn...