Nằm mơ thấy người khác mang bầu là điềm gì? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Mùa hiếu hạnh lại đến, gợi lên cảm xúc trào dâng về mẹ cha - những người đã tạo tác ra ta, cho ta vóc hình, sự nghiệp. Dù bạn là ai, người nông phu hay bậc quyền cao chức trọng thì điểm gặp gỡ giữa chúng ta là tinh thần báo hiếu đang tuôn trào trong dòng nhiệt huyết của con tim.
Trong cung bậc tri ân và báo ân của dân tộc, Phật giáo đã từ lâu luôn trân trọng và lấy hạnh hiếu làm đầu. Sự tương phùng của tinh thần đó đã dẫn dắt nên những gương hiếu hạnh trong quá khứ cũng như hiện tại, sáng rực và ghi mãi dấu ấn với thời gian.
Không phải ngẫu nhiên, cứ đến ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, giới Phật Giáo long trọng tổ chức đại lễ Vu lan – Báo hiếu thật trang nghiêm, hoành tráng từ hình thức tổ chức cho đến nội dung mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh – văn hóa của con người. Lễ hội xuất phát từ điển tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.
“Vu Lan” là danh từ gọi tắt của “Vu Lan Bồn”, tiếng Phạn là Ullambana. “Ullam” dịch là “treo ngược” (đảo huyền), dụ cho cái khổ của người chết như bị treo ngược, cực kỳ thống khổ. Chữ “bồn” tiếng Phạn là “bana”, dịch là “cứu giúp”. Như vậy “Vu Lan Bồn” là giải cứu tội bị treo ngược.
“Báo hiếu” là sự đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Lễ Vu Lan của Phật giáo như chúng ta thấy ngày nay phát xuất từ thời Đức Phật. Bằng đại bi tâm, Đức Phật đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận không ai khác là Tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả là một trong mười vị đệ tử xuất chúng của Thế Tôn.
Khi Mục Kiền Liên vừa chứng được lục thông, liền nhớ tới mẹ mình, Tôn giả bèn dùng tuệ nhãn kiếm tìm, liền thấy mẹ đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đói khổ. Thương mẹ vô vàn, Ngài đã vận dụng thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Do tâm bà Thanh Đề còn quá san tham và ác nghiệp thọ báo còn quá nặng nề nên bà không thể dùng cơm vì bát cơm biến thành lửa. Vô cùng đau đớn, không biết dùng cách nào để cứu mẹ mình, Ngài liền về hỏi đức Thế Tôn.
Đức Phật liền dạy: "Tội lỗi của mẹ ngươi dù có dùng thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu được, duy chỉ nhờ thần lực của chúng Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, tin tấn tu hành thanh tịnh, tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hóa được nghiệp lực, mẹ ngươi mới thoát được cảnh khổ”.
Nghe vậy, Tôn giả mục Kiền Liên liền khẩn cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mời được chư Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được ?”.
Đức Phật dạy :“Ngày Vu Lan cũng là ngày Tự Tứ của chư Tăng, ông nên sắm các thứ cúng dường trong ngày Tự Tứ. Ngày đó dù các vị ở trong thiền định hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ nhân gian, cũng tập trung lại để Tự Tứ và cầu nguyện cho mẹ người được thoát khổ”.
Tôn giả thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn, và chính ngay trong ngày đó mẹ Tôn giả thoát được cảnh khổ ngạ qủy mà được sanh lên cõi trời. Tôn giả vô cùng hoan hỷ và thỉnh cầu : “Sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui, họ có được làm như con không?”.
Thế Tôn bảo rằng : “Có thể được làm như vậy trong ngày Tự tứ để cha mẹ đời này và nhiều đời được siêu độ giải thoát”.
Từ đó trong Phật giáo truyền lại một pháp thức cứu độ cho các bậc tiền nhân quá vãng siêu thoát về cảnh giới an lành, được thực hiện trong ngày Vu Lan - Tự Tứ. Vào những ngày này, dù bạn là ai, ở đâu cũng ước muốn được đến chùa để tham dự lễ Vu Lan - Báo Hiếu, thắp một nén hương lòng cầu nguyện cho cha mẹ hoặc đời này hay nhiều đời được siêu độ, còn người đang hiện hữu nhờ công đức này mà an lành hạnh phúc trong cuộc sống nhân sinh.
Kể từ khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, mùa Vu Lan trở thành truyền thống báo hiếu. Ngày nay, lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người” với bất cứ ai đang hiện hữu trên cõi đời này. Hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, nối kết ân tình nghĩa cảm giữa người còn kẻ mất là truyền thống cao đẹp trong dòng chảy văn hóa tình người của dân tộc.
Một nét đẹp trong ngày Vu lan là chương trình bông hồng cài áo. Trong buổi lễ thiêng liêng ấy, ai còn cha mẹ sẽ sung sướng được cài lên ngực áo một đoá hoa hồng, ai mất mẹ lại buồn tủi cài lên ngực đoá hồng trắng buồn thương. Thế nhưng dù còn cha mẹ hay đã mất thì mỗi người con lúc này đang dâng lên một tình cảm biết ơn mẹ cha sâu lắng, và mỗi người tâm niệm sẽ sống hết lòng với bổn phận làm con hiếu của mình.
Chúng ta hiểu vì sao mà bổn phận làm con phải biết báo hiếu ? Bất cứ ai hiện hữu trên đời, trước hết phải được mẹ mang nặng đẻ đau : “Chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi; đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn; trong khi sinh nở, gan ruột dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề” (Kinh Báo Ân).
Sanh con ra cha mẹ đã khổ nhọc, để nuôi con khôn lớn lại chịu khổ nhọc hơn, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, thậm chí vì con mà phải làm ác. Con là vàng ngọc, là giọt máu của cha mẹ chia hai, nên dẫu con thế nào cha mẹ vẫn thương con. Tình thương đó “có dừng lại chăng, chỉ hơi thở sau cùng”. (Kinh Báo Ân).
Ơn sanh thành của cha mẹ thật bao la, cao như núi và rộng như biển, cha mẹ là đôi vầng nhật nguyệt sưởi ấm và sáng soi đời con: “Mẹ còn sống gọi là mặt trời giữa trưa chói sáng, mẹ khuất bóng rồi gọi là mặt trời đã lặn”(Kinh Tâm Địa Quán).
Trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi. Hình ảnh người cha lao động cần mẫn sớm hôm, người mẹ dịu hiền chăm chút các con từng miếng ăn, giấc ngủ, đã từng và mãi mãi là những cung bậc êm đềm của bài hợp xướng gia đình. Căn bản đạo đức cũng bắt đầu từ sự giáo dục gia đình, vì cha mẹ là chuẩn mực của các con từ lúc còn thơ ấu. Mãi mãi về sau, dù ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng thấy cha mẹ là chổ dựa tinh thần vững chắc.
Có thể lúc ta thành công trong sự nghiệp hay hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi thì ta không cảm nhận rõ điều này, nhưng khi gặp cảnh ngộ không may, khi bị sống đời vùi dập tơi tả, khi hoàn toàn mất hết niềm tin đối với người chung quanh, ta mới chợt hiểu rằng, nơi một gốc trời xa yêu dấu, cha mẹ vẫn là chiếc nôi ấm cho mình ru giấc ngủ sâu, là vòng tay êm xóa tan hết nơi mình mọi buồn đau hận tủi. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của mình?
Nói về đạo hiếu, kinh điển Phật giáo đề cập đến rất nhiều, ngoài kinh Vu Lan Bồn ra, còn có một số kinh khác như kinh Nhẫn Nhục, Đại Tập, Tứ Thập Nhị Chương, A Hàm, Tăng Chi … lời lẽ rất thống thiết, sinh động, để lại dấu ấn tâm linh cho người đọc thực thi đạo sống làm người. Ngay trong bản kinh Tứ Thập Nhị Chương đã trình bày rõ quan điểm : “Phàm làm người phụng thờ qủy thần, không bằng phụng thờ cha mẹ, cha mẹ là vị thần tối thượng”. Còn kinh Đại Tập nói rằng: “Nếu ở đời không có Phật thì hãy theo phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật”.
Phụng dưỡng cha mẹ là một sứ mệnh thiêng liêng, vượt lên trách nhiệm và bổn phận. Hiếu dưỡng cha mẹ bằng cách kính thuận năm điều: “Nuôi dưỡng cha mẹ; làm đủ bổn phận con cái đối với cha mẹ; giữ gìn gia đình và truyền thốn; bảo vệ tài sản thừa tự; làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Kinh Giáo ThọThi La Ca Việt). Kính thờ cha mẹ, con cái phải làm tròn năm việc: “Phải lo sanh kế; dậy sớm lo cơm nước cho cha mẹ kịp thời; không nên làm cha mẹ thêm lo; phải nhớ ơn cha mẹ; khi cha mẹ có bệnh phải lo sợ chạy chữa kịp thời” (Kinh Lục Phương Lễ).
Dù nổ lực để tận hiếu nhưng công ơn cha mẹ vô thượng thậm thâm thật khó đáp đền. Trong kinh Tăng Chi I, Đức Phật dạy “Có hai hạng người, này các Tỷ kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến khi các người 100 tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dầu tại đấy họ có vãi đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”.
Những cách báo hiếu trên tuy xem ra cũng cao cả và không phải người con nào cũng hiểu và làm được trọn vẹn. Thế nhưng theo như những gì Đức Phật dạy thì sự báo ân như vậy vẫn chưa trả đủ công ơn cha mẹ. Công ơn cha mẹ to lớn như thế, bổn phận con cái phải làm thế nào mới tròn câu hiếu đạo?
Hiếu đạo theo Phật giáo, nếu chỉ phụng dưỡng song thân đầy đủ vật chất cùng tất cả sự cung kính thì chưa đủ để báo ân cha mẹ. Người con hiếu, ngoài hiếu dưỡng thông thường phải hướng cha mẹ trở về an trú trong chánh pháp. Kinh Tăng Chi, Phật dạy : “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, đồ ăn, tiền bạc thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ.
Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới ; đối với cha mẹ san tham, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí ; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha, là chân thật báo ân”. Khuyến hóa cha mẹ trở về chánh pháp để tránh đọa lạc là cách báo hiếu trọn vẹn, bởi “Cúng dường cha mẹ không bằng khuyên cha mẹ làm việc lành, bỏ việc ác. Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam bảo thời tuy có hiếu dưỡng cha mẹ cũng gọi là bất hiếu. Cha mẹ hung ngược, dâm dật, tà ngụy, trái đạo … người con phải hết sức ngăn cản mới gọi là hiếu” (Kinh Hiếu Tử).
Khi cha mẹ quá vãng, Phật dạy : “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngay Tăng Tự Tứ, thiết lễ cúng dường mười phương chúng Tăng, nguyện cho cha mẹ hiện đời phước thọ tăng long, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ qủy, được sanh vào trời người hưởng phước lạc vô cùng” (Kinh Vu Lan Bồn). Như vậy bổn phận con cái đối với cha mẹ thì ngoài việc dâng cúng những điều kiện về mặt vật chất là lẽ tất nhiên, thế nhưng sẽ có ý nghĩa hơn nếu như con cái biết hướng cha mẹ quy ngưỡng Tam Bảo, biết bố thí cúng dường, bỏ việc ác, làm các điều thiện.
Mặt khác vì do công lao sanh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái như trời như biển cho nên không thể lấy của cải vật chất bù đắp được. Vả lại, mọi của cải vật chất trên thế gian này đều tạm bợ, vô thường, biến hoại, không có giá trị trường cửu, do đó, nếu như khuyến khích cha mẹ có lòng tin, làm điều lành, sống theo chánh kiến, đó là hành động báo hiếu có ý nghĩa nhất. Bởi vì nếu ai thực hiện được như vậy thì cha mẹ của họ sẽ tăng phước, tăng thọ, an vui trong cuộc sống hiện tại mà đời sau cũng được thọ hưởng các quả báo tốt đẹp.
Hiếu dưỡng không chỉ báo đền ân đức cho cha mẹ mà chính người con cũng được tăng trưởng phước đức: “Cúng dường cha mẹ dù một chút ít cũng được phước đức vô lượng” (Kinh Tạp Bảo Tạng). Gia đình có con cháu hiếu thảo được Phật ca ngợi phước báu ngang hàng với Phạm thiên, xứng đáng được cúng dường. Kinh Tăng Chi, Phật dạy: “Những gia đình nào trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ , những gia đình ấy được chấp nhận ngang hàng bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”.
Chính Sakkha (Đế Thích) nhờ hiếu thảo với cha mẹ mà được phước báo thiên chủ, làm vua cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Điều này trong kinh Tương Ưng, đức Phật bảo Mahàli : “Này Mahàli, thuở xưa khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thực hành bảy cấm giới túc : hiếu dưỡng với cha mẹ, kính trọng các bậc gia trưởng … Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakkha được địa vị Thiên chủ”. Kinh Hiền Ngu, Phật dạy: “Công đức hiếu thuận cha mẹ thù thắng khôn lường, nhờ công đức này trên làm Thiên đế, dưới làm Thánh vương cho đến thành Phật, được ba cõi tôn kính đều là do phước đức này vậy”.
Nếu như con cái sống hiếu dưỡng với mẹ cha tạo phước đức vô lượng chừng nào thì bất hiếu là tội lớn nhất chừng đó. Chúng sanh phần nhiều vì nghiệp chướng che mờ tâm trí nên bất hiếu nhiều hơn hiếu thảo. Đức Phật xác định: “Điều ác nhất không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục). Giết hại cha mẹ là tội nặng nhất, rơi vào địa ngục không thể cứu chữa.
Đã có nhiều người con giàu sang phú qúy nhưng cha mẹ vẫn ở túp lều tranh, nhiều người cơm ăn áo mặc đầy tràn nhưng cha mẹ vẫn áo quần tả tơi, bươn chãi từng ngày để lo sinh kế, thậm chí đã có những người con có những hành động mất tính người như chửi mắng cha mẹ, đánh đập cha mẹ và nhan nhãn những bài báo đăng tin con cái giết cha mẹ … Thật đau lòng thay!
Cha mẹ gian lao khổ cực làm lụng nuôi đàn con khôn lớn, thế nhưng đàn con không nuôi nổi cha mẹ, bạc đãi cha mẹ. Nhân nào quả đó, rồi đến lúc những đứa con bất hiếu này lại bị con cái của họ đối xử tệ bạc lại với họ. Khi đó dù họ có hối hận cũng đã muộn rồi, chỉ còn con đường vào địa ngục đang mở cửa đón chờ họ ở phía trước.
Tóm lại, Vu Lan bồn là ngày lễ báo hiếu vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con hiếu trên thế gian này. Lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thật thiêng liêng cao cả, giúp cho con cái nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ, khơi dậy trong lòng họ một tinh thần báo hiếu đáng quý, đáng trân trọng. Người con Phật nhận thức sâu sắc lời Phật, mùa Vu Lan về càng nỗ lực tinh tấn thực hành hạnh hiếu để báo đáp thâm ân của cha mẹ.
Tứ trụ của công chúa nhỏ nước Anh sinh vào lúc 0h34 ngày 2/5
Nhìn vào bảng tứ trụ có thể thấy được cô công chúa hưởng âm đức của ông bà bố mẹ trợ giúp. Thiếu niên dễ thành danh học tập khoa bảng đỗ đạt.
AFP dẫn lời nữ chuyên gia phong thủy người Hong Kong Thierry Chow cho biết. "Nó chỉ ra rằng cô bé sẽ đem lại vận may cho gia đình. Người sinh năm Cừu thường đem lại may mắn cho gia đình."
Theo âm lịch Trung Quốc, năm 2015 gọi là Yangnian, năm Cừu hoặc năm Dê. Cừu và dê là hai từ đồng âm trong tiếng Trung Quốc.
Mak Ling-ling, nữ thầy bói người Hong Kong, dự đoán công chúa là người có thiên hướng nghệ thuật và tư tưởng phóng khoáng.
"Cô bé có tài năng nghệ thuật và không chịu gò bó. Khác với anh trai mình, người sống khép kín và kỷ luật hơn," Mak nói thêm, nhắc tới Hoàng tử George sắp được hai tuổi, sinh năm Rắn.
Tuy nhiên, cô bé có tính cách độc lập, không muốn bị quản thúc, Mak gửi lời tới Hoàng tử William. "Đó là một cô bé vui tính, không thích sống gò bó. Cô bé thích là chính mình, hơn là tuân theo những luật lệ giáo điều."
Theo bà Chow, công chúa còn là một nhà hùng biện tài ba, và sẽ mang thuận lợi tới cho cha mẹ trong nhiều khía cạnh cuộc sống cũng như công việc, sức khỏe và quan hệ.
Bà Mak cho rằng cô bé sẽ rất tự nhiên trước công chúng. "Cô bé nhìn rất bắt mắt. Ai cũng sẽ dõi theo cô, nhưng cô không sợ xuất hiện trước công chúng. Điều này sẽ có lợi cho hình ảnh hoàng gia."
Dự đoán ý trung nhân của công chúa nhỏ, bà Mak nói "Cô là người nghiêm túc trong chuyện yêu đương. Những chàng trai cao lớn, tuấn tú, yêu mến công chúa sẽ luôn xuất hiện quanh cô. Cô sẽ tìm được người phù hợp sau một vài mối tình."
Công chúa nhỏ nước Anh sinh ngày 2/5 và được đặt tên là Charlotte Elizabeth Diana. Vào thế kỷ 19, Công chúa Charlotte của xứ Wales là người thừa kế ngai vàng nhưng không may qua đời lúc sinh con năm 1817, khi 21 tuổi. Bà kết hôn với Hoàng tử Leopold của Saxe-Coburg-Saalfeld vào ngày 2/5, chính là ngày sinh của Công chúa Charlotte mới chào đời.
Công chúa đứng thứ tư theo thứ tự kế vị ngai vàng, sau ông nội - Thái tử Charles, cha - Hoàng tử William, và anh trai - Hoàng tử George.
Nguồn: Vnexpress
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
coi là Cấn Quái, phương Tây Nam trong Bát Quái được coi là Khôn Quái, tính chất của chúng là thuộc Thố, còn Quái tướng của nhà tắm là thuộc Thủy. Đem nhà tắm thuộc Thủy đặt trên Cấn Phương và Khôn Phương thuộc Thổ sẽ sinh ra bất lợi thổ khắc Thủy, vì thế đó là đại hung.
Trong phong thủy nhà ở, để nhà tắm không mang lại hung tướng, tốt nhất nên đặt ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía đông (nhìn từ trung tâm ngôi nhà), đồng thời, cần phải tránh hương tương xung với năm sinh của nam nữ chủ nhà. Nếu nhà tắm ở hướng Bắc hoặc hướng Đông Bắc thì cần chuyển nhà tắm sang phương vị khác, chì cần tránh trung tâm chính Bắc 150 (phạm vi Tý), Đông Bắc lệch về Bắc 150 (phạm vi Sửu) và trung tâm nông Bắc 150 (phạm vi Cấn) là được. Nếu tính toàn bộ nhà vệ sinh đều nằm trên hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần đặt bồn cầu lệch đi phương vị đó trên 150 là được. Nếu bồn cầu nằm trong phạm vi này thì chỉ cần dịch chuyển bồn cầu là được, không cẩn phải cải tạo là nhà tắm.
Ngoài hướng Bắc và hướng Đông Bắc ra, nhà tắm nằm trên hướng Tây Nam cùng thuộc hung tướng. Nếu cần dịch chuyển thì chỉ có thể dịch chuyển sang hướng Tây hoặc Tây Bắc. Nhà tắm nằm ở hướng Tây cũng không tốt, song chỉ cần trong nhà không có người sinh năm Dậu thì không cần phải lo lắng. Để thiết kế vẹn toàn, có thể đặt bồn cầu ở hướng Tây Bắc, cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở hướng Nam, tốt nhất chuyển sang phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc, bởi vì hướng Nam là phương vị sáng sủa, hướng Nam là Ly Quái, Ngũ hành thuộc Hòa, còn nhà tắm Ngũ hành thuộc Thủy, nhà tắm thuộc Thủy đặt ở hướng Nam thuộc Hỏa là nhà tắm đã khắc với Hỏa Địa, vì thế bất cát. Nhà tắm nếu nằm trên phương vị này thì có thể ảnh hưởng đến vận khí.
Còn một điểm nữa cũng vô cùng quan trọng, nhà vệ sinh không nên đặt ờ vị trí trung tâm nhà, nguyên nhân như sau:
Một là, dựa vào phương vị “lạc thư”, trung tâm nhà thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh, nhà tắm thuộc Thổ, nếu đem nhà vệ sinh thuộc Thủy đặt vào vị trí trung tâm thuộc thổ thì sẽ xảy ra sự tương khắc, Thổ khắc Thủy. Không những trái với đạo phong Thủy mà còn gây mất thẩm mỹ, không tạo được ấn tượng.
Hai là, nhà tắm, nhà vệ sinh đặt ở vị trí trung tâm nhà ở thì việc cấp nước và xả nước đều phải đi thông qua các phòng khác nên việc sửa chữa là vô cùng khó khăn. Nếu đường ống xả nước thải cũng đi qua các phòng khác vậy thì càng bất cát.
Ba là, trung tâm nhà cũng như trái tim con người vậy, vô cùng quan trọng, tim tạng mà tăng ô nạp uế thì còn được gọi là “cát trạch” nữa không?
Ngoài ra, dịch chuyển vị trí nhà vệ sinh tuyệt đối không được xây nó sát với thần đàn (nơi thờ cúng), nếu không thì sẽ bị biến thành hung tướng.
THĂNG TRẦM VỀ CÔNG DANH - SỰ NGHIỆP - TÀI LỘC CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ
Vận hạn từng năm
Năm Tý: Năm này nhiều tài lộc, sự nghiệp thăng tiến, quý nhân phò trợ.
Năm Sửu: Năm này gặp nhiều chuyện vui vẻ
Năm Dần: Hay phải đi xa, làm khách xứ lạ
Năm Mão: Nhà có niềm vui thêm người
Năm Thìn: Nhiều tài lộc, công việc suôn sẻ, công danh thuận lợi, có thể đề tên bảng vàng. Tuy nhiên, khi kết bạn cũng cần chú ý, tránh vòng u mê của tiểu nhân bày ra.
Năm Tị: Dễ bị bệnh tật, phá sản.
Năm Ngọ: Năm này làm nhiều điều phong lưu
Năm Mùi: Sự nghiệp thành công, tuy nhiên có sự bất bình
Năm Thân: Thích hợp kết giao tình, tránh chia cắt để khỏi đau khổ cả hai.
Năm Dậu: Là năm yên lành, cát tường đầy nhà, tiền đồ rộng mở.
Năm Tuất: Lành ít dữ nhiều, đề phòng bệnh tật
Năm Hợi: Cần chú ý đề phòng, tránh bệnh tật
Phúc lộc theo từng tháng sinh của người tuổi Tý
Sinh tháng giêng: Đây là lúc đầu xuân, là giai đoạn phú quý, chính vì vậy người sinh tháng giêng được an nhàn tuy nhiên lúc nào cũng u u mê mê, hay dựa dẫm, làm ít ăn nhiều.
Sinh tháng 2: Đây là tiết Kinh Trập. Người sinh tháng 2 hay nhút nhát, sợ sệt cả nể, cả đời sống e dè. Người này luôn nhẹ nhàng, hiền lành, được người khác yêu mến, nhưng lại không thể làm quan to được.
Sinh tháng 3: Người này sung túc đầy đủ nhưng cuối cùng vẫn chỉ là con số 0.
Sinh tháng 4: Lúc này vào tiết Lập Hạ. Người này cả đời vất vả lo toan để mưu sinh
Sinh tháng 5: Đây là vào tiết Mang Chủng. Người này vất vả bôn ba, chịu thương chịu khó, làm việc quên ăn. Người này cả đời không sợ vất vả, có thể tự mình làm nên nghiệp lớn, được sự trọng vọng của mọi người. Về già hưởng an nhàn, phúc lớn.
Sinh tháng 6: Đây là tiết Tiểu Thử, đầy dương khí, ánh sáng soi rọi, tuy nhiên lại dễ bệnh tật, thích hợp nhất sống ở khu vực gần sông nước
Sinh tháng 7: Đây là tiết Lập Thu, mùa màng tươi tốt. Cần đề phong tiểu nhân hãm hại. Không thể tùy tiện nhận đồ từ người khác. Người này có tham vọng tuy gặp thất bại, nhưng vẫn gặp lộc trời cho
Sinh tháng 8: Lúc này là tiết Bạch Lộ. Không những cuộc sống no đủ, mà phu thê hạnh phúc. Người này thông minh xuất chúng, chắp bút thành văn, trăm sự đều thành, quý nhân phò trợ. Cuối cùng sẽ có thành công vang dội, tất cả đều bình yên.
Sinh tháng 9: Đây là tiết Hàn Lộ. Con người này ưa sự ổn định, khó có thể làm to, không thích ứng với việc kết giao bạn bè, không hay giao tiếp với bên ngoài.
Sinh tháng 10: Đây là tiết Lập Đông, lúc này lương thực đều cạn, bồ thóc trống không. Người này phải đi tứ xứ kiếm ăn, cuộc sống thật là vất vả.
Sinh tháng 11: Nhập tiết Đại Tuyết, tất phải đăng gia. Con người này về muộn mới thành công.
Sinh tháng 12: Nhập tiết Tiểu Hàn. Người này về già không những đủ ăn, đủ mặc , có của ăn của để mà còn khỏe mạnh ấm no cả đời.
Ngày sinh của người tuổi Tý
Sinh ngày Tý: Làm việc luôn thuận lợi, không thua kém người khác
Sinh ngày Sửu: Tý, Sửu hợp nhau, trong nhà hòa hợp, người người hòa hợp, tất cả đều tốt đẹp.
Sinh ngày Dần: Số phải đi xa làm khách quê người
Sinh ngày Mão: Được tổ tiên phù hộ, cả đời hưởng phúc.
Sinh ngày Thìn: Người này thông minh, nhanh nhẹn hơn người, có thể ghi danh bảng vàng.
Sinh ngày Tị: Về việc ăn ở đi lại cần chú ý rất nhiều
Sinh ngày Ngọ: Tý – Ngọ chính xung, hay gặp tai ương, không được thuận lợi
Sinh ngày Mùi: Mùi, Ngọ khống chế được Thủy, tự mình tự cường
Sinh ngày Thân: Thân – Kim sinh ra Tý – Thủy là một người có hiếu, đối xử thân thiện với mọi người
Sinh ngày Dậu: Mệnh tọa đào hoa. Là một người phong lưu tài tử
Sinh ngày Tuất: Hay phải cô đơn một mình, đơn thương độc mã
Sinh Ngày Hợi: Gặp nhiều chuyện không vui.
Ảnh hưởng của giờ sinh
Sinh giờ Tý: Nên lập gia đình sớm. Sự nghiệp thuận lợi
Sinh giờ Sửu: Tốt cho nữ không tốt cho nam. Nữ có tài
Sinh giờ Dần: Tốt cho nam không tốt cho nữ. Nam thường có tài, là người phong lưu tài tử
Sinh giờ Mão: Có gan làm việc lớn, tuy không thành công nhưng cũng để lại tiếng vang cho đời.
Sinh giờ Thìn: Khó chung thủy
Sinh giờ Tị: Cẩn thận phá sản
Sinh giờ Ngọ: Hay bị điều tiếng
Sinh giờ Mùi: Lúc thành, lúc bại, giống như thủy triều vậy
Sinh giờ Thân: Cả đời thanh bạch, tuy có thất bại nhỏ nhưng vẫn có tiếng cho đời.
Sinh giờ Dậu: Con cháu vui vẻ đầy nhà
Sinh giờ Tuất: Ít gặp điều lợi, hay gặp việc không may
Sinh giờ Hợi: Đề phòng bệnh tật
THĂNG TRẦM VỀ CÔNG DANH - SỰ NGHIỆP - TÀI LỘC CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ
Vận hạn từng năm
Năm Tý: Năm này nhiều tài lộc, sự nghiệp thăng tiến, quý nhân phò trợ.
Năm Sửu: Năm này gặp nhiều chuyện vui vẻ
Năm Dần: Hay phải đi xa, làm khách xứ lạ
Năm Mão: Nhà có niềm vui thêm người
Năm Thìn: Nhiều tài lộc, công việc suôn sẻ, công danh thuận lợi, có thể đề tên bảng vàng. Tuy nhiên, khi kết bạn cũng cần chú ý, tránh vòng u mê của tiểu nhân bày ra.
Năm Tị: Dễ bị bệnh tật, phá sản.
Năm Ngọ: Năm này làm nhiều điều phong lưu
Năm Mùi: Sự nghiệp thành công, tuy nhiên có sự bất bình
Năm Thân: Thích hợp kết giao tình, tránh chia cắt để khỏi đau khổ cả hai.
Năm Dậu: Là năm yên lành, cát tường đầy nhà, tiền đồ rộng mở.
Năm Tuất: Lành ít dữ nhiều, đề phòng bệnh tật
Năm Hợi: Cần chú ý đề phòng, tránh bệnh tật
Phúc lộc theo từng tháng sinh của người tuổi Tý
Sinh tháng giêng: Đây là lúc đầu xuân, là giai đoạn phú quý, chính vì vậy người sinh tháng giêng được an nhàn tuy nhiên lúc nào cũng u u mê mê, hay dựa dẫm, làm ít ăn nhiều.
Sinh tháng 2: Đây là tiết Kinh Trập. Người sinh tháng 2 hay nhút nhát, sợ sệt cả nể, cả đời sống e dè. Người này luôn nhẹ nhàng, hiền lành, được người khác yêu mến, nhưng lại không thể làm quan to được.
Sinh tháng 3: Người này sung túc đầy đủ nhưng cuối cùng vẫn chỉ là con số 0.
Sinh tháng 4: Lúc này vào tiết Lập Hạ. Người này cả đời vất vả lo toan để mưu sinh
Sinh tháng 5: Đây là vào tiết Mang Chủng. Người này vất vả bôn ba, chịu thương chịu khó, làm việc quên ăn. Người này cả đời không sợ vất vả, có thể tự mình làm nên nghiệp lớn, được sự trọng vọng của mọi người. Về già hưởng an nhàn, phúc lớn.
Sinh tháng 6: Đây là tiết Tiểu Thử, đầy dương khí, ánh sáng soi rọi, tuy nhiên lại dễ bệnh tật, thích hợp nhất sống ở khu vực gần sông nước
Sinh tháng 7: Đây là tiết Lập Thu, mùa màng tươi tốt. Cần đề phong tiểu nhân hãm hại. Không thể tùy tiện nhận đồ từ người khác. Người này có tham vọng tuy gặp thất bại, nhưng vẫn gặp lộc trời cho
Sinh tháng 8: Lúc này là tiết Bạch Lộ. Không những cuộc sống no đủ, mà phu thê hạnh phúc. Người này thông minh xuất chúng, chắp bút thành văn, trăm sự đều thành, quý nhân phò trợ. Cuối cùng sẽ có thành công vang dội, tất cả đều bình yên.
Sinh tháng 9: Đây là tiết Hàn Lộ. Con người này ưa sự ổn định, khó có thể làm to, không thích ứng với việc kết giao bạn bè, không hay giao tiếp với bên ngoài.
Sinh tháng 10: Đây là tiết Lập Đông, lúc này lương thực đều cạn, bồ thóc trống không. Người này phải đi tứ xứ kiếm ăn, cuộc sống thật là vất vả.
Sinh tháng 11: Nhập tiết Đại Tuyết, tất phải đăng gia. Con người này về muộn mới thành công.
Sinh tháng 12: Nhập tiết Tiểu Hàn. Người này về già không những đủ ăn, đủ mặc , có của ăn của để mà còn khỏe mạnh ấm no cả đời.
Ngày sinh của người tuổi Tý
Sinh ngày Tý: Làm việc luôn thuận lợi, không thua kém người khác
Sinh ngày Sửu: Tý, Sửu hợp nhau, trong nhà hòa hợp, người người hòa hợp, tất cả đều tốt đẹp.
Sinh ngày Dần: Số phải đi xa làm khách quê người
Sinh ngày Mão: Được tổ tiên phù hộ, cả đời hưởng phúc.
Sinh ngày Thìn: Người này thông minh, nhanh nhẹn hơn người, có thể ghi danh bảng vàng.
Sinh ngày Tị: Về việc ăn ở đi lại cần chú ý rất nhiều
Sinh ngày Ngọ: Tý – Ngọ chính xung, hay gặp tai ương, không được thuận lợi
Sinh ngày Mùi: Mùi, Ngọ khống chế được Thủy, tự mình tự cường
Sinh ngày Thân: Thân – Kim sinh ra Tý – Thủy là một người có hiếu, đối xử thân thiện với mọi người
Sinh ngày Dậu: Mệnh tọa đào hoa. Là một người phong lưu tài tử
Sinh ngày Tuất: Hay phải cô đơn một mình, đơn thương độc mã
Sinh Ngày Hợi: Gặp nhiều chuyện không vui.
Ảnh hưởng của giờ sinh
Sinh giờ Tý: Nên lập gia đình sớm. Sự nghiệp thuận lợi
Sinh giờ Sửu: Tốt cho nữ không tốt cho nam. Nữ có tài
Sinh giờ Dần: Tốt cho nam không tốt cho nữ. Nam thường có tài, là người phong lưu tài tử
Sinh giờ Mão: Có gan làm việc lớn, tuy không thành công nhưng cũng để lại tiếng vang cho đời.
Sinh giờ Thìn: Khó chung thủy
Sinh giờ Tị: Cẩn thận phá sản
Sinh giờ Ngọ: Hay bị điều tiếng
Sinh giờ Mùi: Lúc thành, lúc bại, giống như thủy triều vậy
Sinh giờ Thân: Cả đời thanh bạch, tuy có thất bại nhỏ nhưng vẫn có tiếng cho đời.
Sinh giờ Dậu: Con cháu vui vẻ đầy nhà
Sinh giờ Tuất: Ít gặp điều lợi, hay gặp việc không may
Sinh giờ Hợi: Đề phòng bệnh tật
1) Khoa Tử – Vi bị Âm Dương hóa và Ngũ hành hóa
a) Về tuổi có tuổi Âm, tuổi Dương. Vì tuổi gồm 2 yếu tố Can và Chi, nên Can, Chi cũng bị Âm Dương hóa. Chẳng hạn như:
- Dương gồm 5 can: Giáp, Bính, Mậu, Danh, Nhâm, và 6 chi Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
- Âm gồm có 5 can: Ất, Đinh, Kỷ, Tây, Quý, và 6 chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
Mỗi tuổi có một hành riêng như Giáp Tý, Ất Sửu thuộc hành Kim, Bính Dần, Đinh Mão thuộc hành Hỏa v.v…
b) Ngày, tháng, giờ cũng có can, chi riêng. Ví dụ sinh vào ngày 8 tháng 8 giờ Dần thì là ngày Tân Sửu, tháng Mậu Thân, giờ Canh Dần. Như vậy, ngày sinh này cũng có cả Âm Dương Ngũ Hành pha trộn nhau.
c) Cục cũng có hành riêng. Vì mỗi hành trấn ngự một số cung và theo một phương hướng riêng, nên hành của cục cũng bị qui tắc ngũ hành chi phối.
d) Mệnh của mỗi người đóng một cung được Âm Dương hóa. Ví dụ ở cung Dần là Dương, Mão là Âm, cả 2 thuộc Mộc.
e) Chính tinh và Trợ tinh, mỗi sao có một hành riêng. Ví dụ cung Mệnh ở Dần (Dương Mộc) có Liêm Trinh (Hỏa) tọa thủ thì sẽ gặp sự chi phố của cung Dương Mộc đối với sao Hỏa này.
2) Tương quan quá ư phức tạp giữa các đối tượng của hệ thống Âm Dương Ngũ Hành
Sự kiện năm tháng ngày giờ, can, chi, mệnh, cục, chính tinh, phụ tinh và các cung bị Âm Dương và Ngũ hành chi phối đồng loạt đã gây lên một hệ thống tương quan phức tạp giữa các đối tượng. Điều này làm cho người giải đoán Tử – Vi lâm vào một mê hồn trận hầu như không có lối thoát.
Thật vậy, người ta thấy ít nhất phải có sự cân nhắc giữa các chiều hướng chi phối sau:
- Sự chi phối giữa Bản Mệnh và Cục về mặt ngũ hành.
- Sự chi phối giữa tuổi Dương, tuổi Âm đối với Mệnh ở Dương hay Âm cung.
- Sự chi phối giữa cung an Mệnh với chính tinh thủ Mệnh. Trong trường hợp chính tinh thủ Mệnh có 2 ngôi khác hành nhau, sự chi phối càng thêm phức tạp.
- Sự chi phố giữa chính tinh thủ mệnh và hành của Bản Mệnh.
- Sự chi phối giữa chính tinh và phụ tinh thủ Mệnh với hành của cung an Mệnh.
Đó là chưa kể các sự chi phối của cung Phúc Đức. Cung này được xem như rất quan trọng vì có hiệu lực chi phối trên 2 cung khác.
Nếu phải quan tâm cân nhắc tất cả các mối liên hệ chằng chịt đó, sự luận đoán chắc chắn sẽ rơi vào chỗ võ đoán, vì không có một nguyên tắc nào ưu thắng: tất cả đều có tầm quan trọng hầu như ngang nhau. Mỗi yếu tố chi phối là hàm số của yếu tố khác. Thành thử, ta có một hệ thống hàm số vô cùng phức tạp đến nỗi khó lòng tìm được một phương trình chung. Điều này làm cho khoa Tử – Vi tối nghĩa, khó hiểu, làm giảm đi giá trị của môn học này. Cho đến nay, chưa thấy sách vở nào khai phá được phương trình hàm số bách biến đó. Nếu chỉ tìm được một phương trình tổng quát thì sự luận đoán không cụ thể, làm giảm giá trị khoa bói toán.
Tuy nhiên, dù không tìm được phương trình bách biến đó, ta vẫn có thể suy diễn được vài nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc luận đoán.
a) Quan trọng nhất là qui luật Âm Dương
Theo đúng lý thuyết thì 2 khí Âm Dương là động cơ nguyên thủy phát sinh ra 4 mùa và 5 hành. Luật biến hóa của Âm Dương thế thất phải quan trọng hơn luật biến hóa của ngũ hành. Nói khác đi, luật biến hóa của ngũ hành là luật nhỏ, bị đóng khung trong qui luật Âm Dương. Điểm này có nhiều hệ luận trong khoa Tử – Vi.
- Mệnh ai tương hợp với luật Âm Dương thì lợi lộc hơn. Chẳng hạn con trai có tuổi Dương, mệnh đóng ở cung Dương, sinh vào ban ngày (thời gian ảnh hưởng của Thái Dương), được các dương tinh tọa thủ, sẽ có nhiều tương hợp thuận lý, lợi cho lá số.
- Hai sao Thái Âm và Thái Dương càng sáng sủa thì càng đắc cách. Thái Dương biểu tượng cho bên nội, cho cha, cho chồng, Thái Âm biểu tượng cho bên ngoại, cho mẹ, cho vợ. Hai sao Nhật Nguyệt mà sáng sủa thì nguyên lý Âm Dương tương thuận: đương số sẽ ảnh hưởng được dương phúc và âm phúc của 2 giòng họ, của cha và mẹ, của vợ và chồng, chưa kể ảnh hưởng tốt đẹp đến con trai, con gái. Như vậy, tác dụng của Âm Dương có tính cách di truyền khá mạnh và khá rộng. Vì vậy, quan niệm người xưa cho rằng qui tắc Âm Dương mà thuận lợi thì nhân sinh quan của đương số sẽ hương vượng. Như thế, ý niệm phúc đức nhân sinh liên hệ chặt chẽ với ý niệm tương thuận của nguyên lý Âm Dương của vũ trụ. Nhân sinh quan và vũ trụ quan liên đới mật thiết với nhau. Phần phúc đức của con người gắn liền với sự tương hợp của yếu tố Âm Dương trong vũ trụ. Có lẽ hàm số hạnh phúc nhân loại tùy thuộc vào biến số hợp vị của nguyên lý vũ trụ này.
b) Qui luật ngũ hành quan trọng nhì
Ngũ Hành là hậu quả của sự tác hóa Âm Dương, giống như cái ngọn phát sinh từ cái gốc. Do đó, qui luật ngũ hành tất phải kém quan trọng hơn qui luật Âm Dương.
Sự đi đôi của Âm Dương và Ngũ Hành được thể hiện trong hầu hết các sao, nhất là chính tinh. Ví dụ như Thái Dương là Dương tinh thuộc hành Hỏa, Phá quân là Âm tinh thuộc hành thủy, Văn Xương là Dương tinh hành Kim.
Nhưng, có một số lớn phụ tinh có ngũ hành mà lại thiếu Âm Dương. Ví dụ như Địa không, Địa kiếp không có Âm Dương mà chỉ có hành Hỏa. Chưa có tác giả nào cắt nghĩa được sự thiếu sót này. Chính sự thiếu sót này đã mâu thuẫn với lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành song đôi. Thật vậy, Ngũ Hành không tự sinh mà phải thoát thai từ Âm Dương, cho nên Ngũ Hành là phải có Âm Dương đi kèm. Không hiểu tại sao Trần Đoàn lại bỏ sót việc Âm Dương hóa một phụ tinh. Phải chăng, các tác giả hậu sinh đã bỏ sót?
Dù sao sự thiếu sót đó làm cho lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành chưa được hoàn bị. Vấn đề đặt ra là, về mặt thực dụng, sự thiếu sót đó có di lụy nào cho việc giải đoán?
Trước hết, ta thiếu yếu tố để cân nhắc tinh vi.
Thứ đến mà ta không đối chiếu được 2 loại sao có và không có Âm Dương tinh. Chung cuộc chỉ còn các xét các sao về mặt ngũ hành mà thôi, tức là phải bỏ gốc xét ngọn, dù biết đó là một thiếu sót.
Riêng về mặt ngũ hành, qui tắc chi phối giữa các sao vẫn là qui tắc lý thuyết. Qui tắc này gồm 5 điểm:
- Hai Hành kế tiếp nhau thì tương sinh.
Thứ tự kế tiếp là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Như vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc.
- Hai hành đứng cách nhau một hành thì tương khắc.
Như thế Mộc khắc Thổ, Hỏa khắc Kim, Thổ khắc Thủy, Kim khắc Mộc.
- Sự tương sinh hay tương khắc chỉ theo một chiều.*
Cụ thể là Mộc sinh Hỏa chớ hỏa không sinh Mộc, Kim khắc Mộc chứ Mộc chẳng khắc được Kim. Không khắc được dĩ nhiên không có nghĩa là sinh. Trong việc sinh khắc, co một hành tích cực (sinh, khắc) và một hành tiêu cực (được sinh, bị khắc).
- Hành sinh tiêu cực được lợi hơn
Mộc sinh Hỏa thì Hỏa được phù trợ, trong khi Mộc bị hao tán.
- Hành khắc tích cực ưu thế hơn
Kim khắc Mộc vị tất Kim phải ưu thắng, Mộc bị thiệt.
Nói theo nhãn quan Tử – Vi thì ngũ hành các sao càng tương sinh nhiều thì càng lợi cho người đó. Ngược lại, nếu có nhiều tương khắc thì càng bất lợi.
c) Tương thuận, tương nghịch giữa Âm Dương và Ngũ Hành
Qui luật sinh khắc giữa các sao về Âm Dương Ngũ Hành rất phức tạp. Càng có nhiều sao can dự, càng rắc rối. Sự sinh khắc qua lại giữa nhiều sao chắc chắn đưa đến một mê hồn trận cho người giải đoán, nhất là khi chúng ta chưa tìm được công thức phức tạp về sinh khắc.
Đây là một sự phức tạp cố hữu, không thể giản lược. Mọi nỗ lực giản dị hóa đều bao hàm nhiều sai số. Cho nên, tuy ta không tìm được công thức sinh khắc chung, chúng ta cũng sẽ không thể giản dị hóa qui luật sinh khắc. Nhưng, có thể có 4 trường hợp sinh khắc tổng quát, giản dị nhất giữa 2 sao, về mặt Âm Dương lẫn Ngũ Hành. Đó là các trường hợp:
- Thuận Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
- Nghịch Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
- Thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
- Nghịch Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
Nếu chỉ căn cứ vào đó mà đánh giá hay dở, thì trường hợp đầu tiên là lý tưởng nhất. Hai trường hợp sau lợi hại tương đương. Nhưng tác giả cho rằng trường hợp thứ 3 (thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành) tương đối tốt hơn trường hợp chót. Dự đánh giá đó căn cứ vào thứ tự ưu tiên chi phối của Âm Dương trên ưu tiên chi phối của Ngũ Hành.
Tác giả không tìm được công thức cho 3 sao trở lên.
d) Ngũ hành của chính tinh với phụ tinh
Tử – Vi học chi thành chính tinh và phụ tinh. Tính chất chính hay phụ, tự nó quyết định thứ tự quan trọng rồi: chính tinh phải xem như quan trọng hơn phụ tinh.
Vì vậy, về mặt ngũ hành, theo thiển ý hành của chính tinh phải trội yếu hơn hành của phụ tinh. Trong trường hợp có tương khắc, phải đánh giá sự hay dở theo thứ tự quan trọng đó.
Nếu 1 phụ tinh khắc hành với chính tinh, sự khắc chế này không quan trọng lắm. Nhưng, nếu 1 trong cung có quá nhiều phụ tinh khắc hành với chính tinh, thì chính diệu này bị nghịch cảnh lớn. Rất khó xác định số lượng phụ tinh trong trường hợp này.
e) Ngũ hành của các cung và sao
Cung là môi trường sinh trưởng của sao. Vì vậy, hành của cung ảnh hưởng trực tiếp đến hành của sao. Theo thiển ý, hành cung quan trọng hơn hành sao, vì làm cho hành sao tăng hay giảm giá trị. Chẳng hạn sao Hỏa đóng ở cung Thủy sẽ mất nhiều tác dụng. Ngược lại, sao Hỏa đóng cung Mộc sẽ thịnh hơn. Giữa cung và sao chỉ có tác dụng bị ảnh hưởng: không có sự chi phối ngược lại.
Nếu đi tìm một hình ảnh, thì cung ví như đất, sao ví như cây cối. Đất xấu làm cây xấy, đất tốt sinh cây tốt.
Vì vậy, hành của cung rất quan trọng và quan trọng hơn hành sao vì chi phối vào hành sao theo một chiều nhất định. Việc luận đoán Tử – Vi không nên bỏ qua yếu tố này.
Ngũ hành của cung được quy định như sau:
- Cung Mộc ở 2 ô Dần và Mão.
- Cung Hỏa ở 2 ô Tỵ và Ngọ.
- Cung Kim ở 2 ô Thân và Dậu.
- Cung Thủy ở 2 ô Hợi và Tý.
- Cung Thổ ở 4 ô Thìn, Tuất, Sửu và Mùi.
Chỉ riêng Thổ chiếm đến 4 cung và xen kẽ với các cung khác Hành.
f) Vị trí quan trọng của cung hành Thổ
Trong khi mỗi hành Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, Thổ chiếm 2 cung liền nhau thì hành Thổ chiếm 4 cung, mà vị trí ở xen kẽ 2 cung khác hành.
Sự bố trí này dường như bắt nguồn từ quan niệm cho rằng đất ở rải rắc khắp nơi và chứa đựng 4 nguyên hành khác. Theo Đổng Trọng Thư thì “Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuận. Thổ là chân tay của Trời, đức là Thổ tươi tốt không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được: cho nên có ngũ hành mà chỉ có Tứ Thời là vì Thổ kiêm cả Từ Thời”.
Bốn cung Thổ được gọi là 4 cung Mộ (hay Tứ Mô hoặc Tứ Quí) đệm ở giữa 2 hành tương sinh. Theo Nguyễn Mạnh Bào thì trong khoảng 2 hành sinh nhau lại có Tứ Quí thuộc Thổ, tức con đệm ở trong để dung hòa đều đặn, tránh những gì quá sức động mà có hại cho sự sinh tồn”.
Có tác giả dựa vào đó mà cho rằng người nào cung Mệnh an tại Tứ mộ là có thiên phước, được dành cho chỗ vừa ý, lại có tính đảm đang, thích ứng được với nhiều hoàn cảnh. Tuy nhiên, nhận định hãy còn nhiều phiến diện và tổng quát, chưa hẳn có giá trị quyết định.
g) Tương quan giữa Mệnh, chính tinh thú Mệnh và cung an Mệnh
Trên mặt ngũ hành phải đặc biệt quan tâm đến tương quan giữa 3 yếu tố quan trọng của lá số là Bản Mệnh, chính tinh thủ mệnh và cung an Mệnh. Trong 3 yếu tố này, Bản Mệnh bao giờ cũng quan trọng hơn hết.
Nếu Bản Mệnh được hưởng sự phù sinh càng nhiều thì càng đắc lợi. Qui tắc phù sinh lý tưởng nhất là:
Cung an Mệnh sinh được chính tinh thủ Mệnh, chính tinh thủ Mệnh lại sinh được Bản Mệnh. Ví dụ như cung Mệnh an tại Mão thuộc Mộc, có Thái Dương thuộc Hỏa tọa thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Nhờ vậy, Thổ mệnh được phù sinh ở 2 hệ cấp: cung an Mệnh phù sinh chính tinh, rồi chính tinh phù sinh Bản Mệnh.
Nếu có 1 tương khắc thì kém tốt, nếu có đến 2 cấp khắc thì xấu cho Bản Mệnh. Ngoài ra, nếu Bản Mệnh sinh chính tinh hay khắc chính tinh, hoặc khắc cung an Mệnh thì bất lợi cho Mệnh.
h) Tương quan giữa Bản Mệnh và Cục
Như đã trình bày Mệnh phải được Cục phù sinh thì mới tốt, bằng không, nếu Mệnh sinh Cục, nhất là Cục khắc Mệnh thì xấu, cần được cứu gỡ lại bằng Phúc tốt mới quân bình được.
Tóm lại, về ngũ hành trong Tử – Vi, một hàm số Bản Mệnh chỉ tốt khi gặp nhiều tương thuận về Âm Dương Ngũ Hành. Càng có nhiều trục trặc, độ số tốt càng giảm đi.
i) Ngũ hành của 10 can và 12 chi
Tuổi hay năm sinh của người Đông Phương được xem như sự kết hợp giữa 2 yếu tố can và chi.
Có tất cả 10 can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Có tất cả 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Như đã trình bày 10 can và 12 chi cũng bị âm dương hóa và ngũ hành hóa.
Về can, thì sự phân định Âm Dương và Ngũ Hành như sau:
Vậy, trên mặt Âm Dương Ngũ Hành của can, có sự tế phân chi tiết rõ rệt. Có tuổi Dương Mộc, có tuổi Âm Mộc, cũng có tuổi Dương Thủy và Âm Thủy. Có tác giả căn cứ vào đó mà tìm thêm ý nghĩa uẩn khúc của can trong tuổi. Chẳng hạn như cho rằng tuổi Bính là Dương Hỏa thì người tính nóng như lửa, dễ giận, dễ nguội… Nhưng, thiết tưởng lối suy diễn này chỉ vì căn cứ trên 1 yếu tố duy nhất nên ít giá trị.
Về 12 chi, ngoài sự phân định Âm Dương, Ngũ Hành khoa Tử – Vi còn định cung và định hướng, cũng như cho cả màu sắc tương ứng với ngũ hành đồng thời vị trí hóa trong hệ đồ bát quái.
Sự phân định trên đây rất đầy đủ. Nhưng, đáng tiếc là khoa Tử – Vi không nêu rõ qui tắc chi phối tinh vi đối với hàm số Âm Dương Ngũ Hành phúc tạp của Can Chi. Ví dụ người tuổi Giáp (Dương Hỏa), Tý (Dương Thủy) sẽ có vận số như thế nào căn cứ trên sự kết hợp Dương Hỏa với Dương Thủy? Tác dụng của việc định hướng ra sao đối với vận số? Quẻ Khảm có nghĩa gì đối với đương sự?
Đó là những ẩn số và những mâu thuẫn chưa có giải đáp. Trên bảng này chỉ có phương hướng là có ít nhiều tác dụng cắt nghĩa được. Như sao Thái Dung sẽ thuận vị ở các cung hướng Đông, sao Nam Đẩu lợi địa ở cung hướng Nam, Bắc đẩu ở hướng Bắc.
|
|
|
|
||||
Tý | Sửu | Dần | Mão | ||||
|
|
|
|
||||
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | ||||
|
|
|
|
||||
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Maruko (theo Pclady)
Hãy đưa ánh sáng vào mục “chú ý” ngay từ khi bạn bắt đầu có ý tưởng thiết kế ngôi nhà của mình. Trước sảnh nhà Với nhà hợp hướng với trạch chủ thì việc treo đèn ở trước sảnh của tòa nhà sẽ kích hoạt khí tốt. Còn nếu hướng nhà không hợp với trạch chủ (như hướng nhà là hưỡng ngũ quỷ hay lục sát với trạch chủ…) thì không nên tăng cường nhiều ánh sáng ở phía sảnh đại môn vì khi đó sẽ kích hoạt luôn khí xấu vào nhà. Chỉ nên dùng đèn vừa đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của trạch chủ. Màu sắc của đèn nên tương sinh với mệnh của trạch chủ. Ví dụ chủ nhà Mậu Thân – Cung Khôn – Ngũ hành Đại dịch thổ thì nên dùng đèn ánh sáng màu đỏ hoặc vàng. Ngoài ra, căn cứ vào ngoại vi tứ diện để xem xét dùng đèn lồng để khắc chế những ảnh hưởng xấu, đồng thời kích hoạt tài lộc may mắn cho gia chủ. Về vấn đề này bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia phong thủy để dùng đúng và đủ. Trong phòng khách Nên dùng ánh sáng vàng, ấm cúng để tăng cường sinh khí của trạch nhà và tăng sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình. Giữa trung tâm của trạch nhà, nên treo đèn chum có cường độ ánh sáng phù hợp nhưng cần bố trí số lượng bóng, màu sắc bóng tương sinh với trạch chủ. Trong phòng ngủ Sử dụng cường độ ánh sáng vừa phải để thích nghi với sự điều tiết bình thường của mắt. Không nên đặt đèn ở đầu giường, sẽ gây căng thẳng và ức chế thần kinh. Nếu có điều kiện, bạn có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên, kết hợp với đèn đá muối để vừa trung hòa khí xấu trong phòng vừa tạo ion có lợi cho sức khỏe. Nên tắt đèn trước khi đi ngủ, để giấc ngủ chìm trong bóng tối thực sự. Nếu trong gia đình có người già, người huyết áp cao, không ổn định, thiếu máu… thì không nên bố trí đèn Halogen vì dễ gây choáng, kích động huyết áp. Kết hợp một đèn sinh khí nhỏ đặt trong bộ tài khí đáo gia sẽ giúp giảm bớt căng thẳng, có lợi cho sức khỏe. Trong phòng tắm-vệ sinh Đây là nơi phát tán các uế khí, khí xấu, việc dùng đèn hợp mệnh kết hợp với đá phong thủy hướng thiên có thể giải trì, ngăn chặn phần lớn sự phát tán này. Trong phòng tắm nên để đèn ánh sáng màu vàng, trắng hoặc đỏ, không để màu xanh, tránh cảm giác cô quạnh, yếu ớt. Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Những câu nói hay nhất của Khổng Tử. Là nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử đã để lại cho đời nhiều câu nói có giá trị (có thể coi là bất hủ) đến muôn đời sau.
Hãy tham khảo những câu nói sau đây của Khổng Tử để suy ngẫm về cuộc sống bạn nhé.
1- Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không tật bệnh, vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh.
—-
2- Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu xa nổi dậy.
—-
3- Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
—-
4- Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai, vì không bị chông gai thì chí nguyện không kiên cường.
5- Làm việc đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng thị thường kiêu ngạo.
6- Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7- Với người đừng mong thuận chiều ý mình, vì được thuận chiều ý mình thì tất sanh tự kiêu.
8- Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đáp trả là thi ân mà có mưu tính.
9- Thấy lợi đừng nhúng tay, nhúng tay thì hắc ám tâm trí.
10- Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài. Lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai gốc làm giải thoát, lấy ma quân làm đạo bạn, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên, ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả. Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Ngày nay những người học đạo, trước hết không dấn mình vào mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại xáp tới thì không thể nào đối phó. Chánh Pháp chí thượng vì vậy mà mất cả, đáng tiếc đáng hận biết bạo.
11- Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
12- Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
13- Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
14- Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi
15- Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
16- Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
17- Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem bói tử vi 2016 của bạn nhanh, chuẩn xác |
Muốn phong thủy nhà ở tốt cũng là để chiêu tài, vượng vận, vượng bình an. Vì thế, không ít người theo đuổi những phương pháp phong thủy cát tường rất phức tạp, rắc rối và khó thực hiện. Phong thủy là bộ môn vi diệu, mênh mông, muốn hiểu tường tận, cặn kẽ phải cần quá trình lâu dài. Nên, nếu ngay lập tức muốn mang tới may mắn cho gia đình thì chỉ cần làm theo 3 lưu ý phong thủy chiêu tài dưới đây. Dễ làm, đơn giản lại vượng trạch. 1. Ánh mặt trời sung túc Phong thủy vi diệu nhưng cũng bắt nguồn từ những điều hết sức tự nhiên, quen thuộc. Nơi đâu có mặt trời, nơi đó có sinh khí, nơi đâu sáng sủa, nơi đó tốt lành. Ánh mặt trời thấu khắp các phòng ốc sẽ mang đến cát tường thụy khí, tăng cường sức khỏe của người trong nhà. Trong phong thủy học, ánh mặt trời đại biểu cho sự thịnh vượng, khỏe mạnh, phát đạt, có khỏe mạnh mới có thể chiêu tài. Vì thế, trong bố trí nhà cửa, không nên treo rèm quá dày hay thiết kế phòng quá kín. Hãy đảm bảo trong nhà lúc nào cũng có thể đón nắng, đón gió, tốt nhất là phòng nào cũng có cửa sổ. 2. Không khí lưu thông
![]() |
![]() |
cách rất đặc biệt.
|
(Ảnh minh họa) |
Ví dụ, ngũ quan (mặt, mũi, miệng, tai, lông mày) đều xấu nhưng mỗi bộ vị đều hợp với nguyên lý ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì lại trở nên tốt, đắc cách, chủ nhân là người quý hiển, tài trí phi thường... Theo cách kết hợp này, có rất nhiều quý tướng:
1. Tướng ngũ trường
Là tướng của người có đầu, mặt, tay, chân và thân người đều dài.
2. Tướng ngũ đoản
Là tướng của người có đầu, mặt, tay, chân và thân người đều ngắn.
3. Tướng ngũ lộ
Là tướng mạo bao gồm các đặc điểm: mắt lồi, mũi hếch, tai vểnh, miệng vẩu và yết hầu lộ.
4. Tướng ngũ hợp
- Thiên địa tương hợp: xương cốt ngay ngắn nhưng không có khuyết tật.
- Thiên quan tương hợp: sự hài hòa của dáng người với giọng nói và ánh mắt.
- Thiên tâm tương hợp: thần sắc thanh khiết, tâm trí linh hoạt, minh mẫn.
- Thiên cơ tương hợp: Chủ nhân là người có kiến thức uyên bác, quyết đoán, độ lượng.
- Thiên luân tương hợp: Chủ nhân là người khiêm nhường, trọng chữ tín và sống nhân nghĩa.
5. Tướng ngũ tú
Cốt tú: hàm răng chắc khỏe, đều đặn.
Nhục tú: sắc mặt hồng hào, tươi tắn.
Huyết tú: lông mày thanh nhã.
Khí tú: tiếng nói trong trẻo, âm vang.
Chất tú: ánh mắt sáng, tia mắt long lanh, thần khí êm dịu.
6. Tướng lục đại
Đầu, mặt, tai, mũi, miệng và bụng dưới đều to lớn.
6. Tướng lục tiểu
Đầu, mặt, tai, mũi, miệng và bụng dưới đều nhỏ.
(Theo Nhân tướng học toàn thư)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
1. Ngón thứ hai dài hơn ngón cái
Đặc điểm này khá phổ biến. Nghĩa là đại đa số đều có ngón chân thứ hai dài hơn ngón cái. Điều này có nghĩa số mệnh giàu sang sẽ ít khi hỏi thăm bạn, nếu có thì sẽ đến rất muộn. Tuy nhiên, cuộc sống tiền tài của bạn ở mức hạng trung, không rơi vào tình cảnh khốn khó. Sở dĩ bạn có tố chất đứng lên lãnh đạo, nhưng tùy thuộc vào vận mệnh có hợp thời hay không để thăng tiến. Bạn còn mạnh mẽ, quyết đoán nên dễ dàng nắm bắt cơ hội kiếm tiền.
![]() |
2. Ngón chân thứ hai và thứ ba cách xa nhau
Nếu sở hữu hai bàn chân với đặc điểm này, điều đó có nghĩa bạn tinh tế, tỉ mỉ, khó nắm bắt và kiểm soát cảm xúc cực kỳ xuất sắc. Hơn nữa, bạn vô cùng nhanh nhạy trong việc hiểu suy nghĩ của đối phương nên thường có chiến lược giao tiếp, ứng xử sao cho mang lại thuận lợi. Vậy nên, ngay khi có nền tảng kinh tế để kinh doanh, bạn sẽ bắt nhịp và sớm gặt hái được thành quả to lớn. Sau này, bạn còn biết cách quản lý nguồn tiền và căn cơ chuẩn xác. Vận giàu sang sẽ đến với bạn.
3. Ngón chân thứ hai đổ dồn vào ngón cái
Số bạn có thể dư giả về kinh tế, nhưng lại thua thiệt về tình cảm. Bạn thuộc nhóm những người ủy mị, yếu đuối và sống thiên về hoài niệm cũ. Thậm chí, nhiều người tỏ ra khó chịu vì bạn liên tục nhắc về chuyện đã qua. Mặt khác, nếu không vướng bận vào tình yêu, bạn làm việc rất có trách nhiệm, chín chắn, nên dễ được đề bạt vị trí quan trọng trong sự nghiêp.
4. Ngón chân út siêu nhỏ
Bạn sẽ không giàu sang về tiền bạc, mà là đại gia tình cảm. Nhờ vào vẻ trong sáng, thánh thiện và luôn thể hiện nét hồn nhiên, bạn gây thương nhớ cho rất nhiều người. Bạn được tin yêu và luôn đem lại cảm giác bình yên, thư thái cho người đối diện. Vậy nên, bạn sẽ được nhận được nhiều sự hậu thuẫn trong cuộc sống. Cho dù tiền bạc còn ít, nhưng bạn vẫn rủng rỉnh tình cảm để thấy mình hạnh phúc nhất thế gian.
Mr.Bull (theo ZB)
![]() |
Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai |
Thời gian: tổ chức vào ngày 25 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn ông Doãn Văn Tài - tổ nghề gỗ thế kỉ 16.
Nội dung: Vào ngày hội, thợ tiện ở các tỉnh kéo về rất đông. Tương truyền, dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh, có một người tên là Đoàn Tài, từ nơi khác đến truyền nghề tiện cho dân làng. Từ đó dân chúng suy tôn cụ là tổ nghề tiện Nhị Khê và lấy ngày 25-10 âm lịch hàng năm - ngày mất của cụ để tổ chức hội làng. Trước đây, các sản phẩm của Nhị Khê chủ yếu bằng gỗ và phục vụ nhu cầu sử dụng thông thường. Tuy nhiên, ngày nay, bằng sự sáng tạo và những bí quyết cổ truyền, các sản phẩm tiện của làng nghề Nhị Khê đã trở nên có độ tinh xảo, chất lượng ngày càng cao với nhiều chất liệu quý như sừng, xương, ngà... đáp ứng nhu cầu thị trường trong, ngoài nước. Trong ngày hội, dân làng có tổ chức tế tổ, cúng tế, dâng lễ vật lên tổ sư, đánh cờ, hát chèo...
1. Bày biện vật may mắn
Bạn có thể bày một số vật may mắn trong phòng ngủ hay bên giường như cây pha lê hồng, cầu pha lê hồng, đĩa thất tinh trận đồ bằng pha lê. Đây đều là những vật cát tường có khả năng trợ giúp tăng vận đào hoa, thay đổi vận khí của người dùng.
2. Treo tranh hoa mẫu đơn
Muốn chuyện tình duyên khởi sắc, FA có thể treo một bức tranh hoa mẫu đơn ở phía bên phải của phòng ngủ, hoặc đặt một chậu hoa mẫu đơn, như vậy có thể tăng sức hấp dẫn với người khác giới. Bạn nam FA có thể treo tranh hình rồng hoặc đồ trang trí hình rồng ở bên trái phòng ngủ.
![]() |
Cây pha lê, cầu pha lê, đĩa thất tinh trận đồ và tranh hoa mẫu đơn là những vật đem lại may mắn, tăng vận đào hoa. |
3. Bày đồ vật có đôi có cặp
Bạn nên bày những cặp đồ vật nhỏ trong phòng ngủ, tượng trưng cho tình cảm tốt đẹp, như một đôi chim uyên ương, một đôi ngựa đá, không nên để chúng đơn lẻ.
4. Không treo tranh ảnh người độc thân khác
Phòng ngủ của những cô gái độc thân không nên treo tranh ảnh của một cô gái hay chàng trai độc thân khác, sẽ càng thể hiện rõ sự cô đơn lẻ bóng của mình, tốt nhất là nên gỡ xuống và thay bằng ảnh đôi lứa hạnh phúc.
5. Chú ý ánh sáng trong phòng
Phòng ngủ không nên tối tăm ẩm thấp, không chỉ ảnh hưởng sức khỏe mà còn dễ hình thành tính cách cô độc, nhất là với những bạn FA. Phòng ngủ có ánh sáng êm dịu không quá chói mắt là tốt nhất cho chuyện tình cảm.
![]() |
Phòng ngủ nên gọn gàng ngăn nắp, sáng sủa. Biết vận dụng tốt phong thủy sẽ giúp bạn khá nhiều trong đường tình duyên. |
6. Đầu giường nên dựa tường
Giường trong phòng ngủ nên dựa đầu vào tường, nếu không con gái trong nhà dễ thành "gái ế", khó tìm thấy đối tượng kết hôn đáng tin cậy.
7. Kích hoạt năng lượng tình cảm
Những màu đỏ, vàng, cam có nhiều tác dụng thúc đẩy tình cảm phát triển, thể hiện năng lượng tràn đầy. Bạn có thể bày những đồ trang trí màu nóng trên bàn trong phòng ngủ để tăng sức hút cho bản thân.
8. Hóa giải môi trường xấu
Nếu phòng ngủ của bạn có nhiều khung cửa sổ, chấn song nhôm, sắt trông rất lạnh lẽo, bạn nên che rèm hoặc đặt vài chậu cây xinh xắn ở đó, như vậy có thể giúp gia tăng nét mềm mại ôn hòa trong tính tình của bạn, thuận lợi cho nhân duyên tốt đẹp xuất hiện.
Tuệ Anh (theo Diyixz)
Quan niệm của người Việt nói riêng và phương Đông nói chung cho rằng, nếu trang trí nhà hợp phong thủy thì cuộc sống gia đình sẽ hòa thuận, hạnh phúc, công việc làm ăn thuận lợi, phát tài. Đó cũng là lý do nhiều người rất quan tâm đến việc trang trí nhà hợp phong thủy theo tuổi.
Với những người tuổi Tuất, bên cạnh việc trang trí ngôi nhà với các gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ, để tăng thêm may mắn, người tuổi Tuất nên dùng thêm miếng mã não có hình thỏ hoặc mèo để làm vòng đeo tay hoặc cổ; đặt tượng voi và ngọc sẽ giúp tăng tài lộc, bình an.
![]() |
Những gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ hợp phong thủy với người tuổi Tuất |
Nếu trang trí quả cầu thủy tinh trong nhà, người tuổi Tuất nên đạt ở phía Đông Nam, không được đặt tại hướng Tây Bắc.
Nếu muốn treo tranh tranh phong thủy để mang lại may mắn, vượng tài, người tuổi Tuất nên chọn một trong những loại tranh như Mẫu đơn hoa 8 bông, mẫu đơn hoa 9 bông; hoặc có thể treo tranh hoa điểu; tranh sơn thuỷ thuộc diện bình bình chỉ có tác dụng trấn trạch an gia. Ngoài ra, người tuổi Tuất cũng có thể treo một số loại tranh phong thuỷ khác trong nhà như tranh ngựa hoặc tranh hổ.
Việc treo các loại tranh này trong nhà được cho là sẽ giúp các gia chủ tuổi Tuất ngày một vinh hiển, phú quý dài lâu, chuyển nguy thành an, thay đổi vận số, khiến cho sự nghiệp, công việc gặp trắc trở thành thuận lợi.
Lưu ý, dù các loại tranh này có thể treo ở hầu hết các không gian như phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ hay thư phòng nhưng nên treo tại hướng Đông, Đông Nam hoặc theo mệnh cung phong thuỷ của gia chủ. Tốt nhất nên nhờ một chuyên gia phong thuỷ hoặc người am hiểu tư vấn.
Những người tuổi Tuất thuộc hành Thổ, do đó thích hợp sống ở gần núi non. Cửa chính của ngôi nhà cũng nên hướng về phía Tây Bắc, Đông hoặc Nam.
Người tuổi Tuất hợp với các con số 0 và số 5, không hợp với con số 3. Trong sinh hoạt hàng ngày hay khi đặt địa điểm làm việc, những người tuổi Tuất cũng nên tránh các con số kỵ để mọi việc may mắn.
Khi trang trí nhà ở, người tuổi Tuất cũng phải lưu ý đến những màu kỵ. Vì Tuất là Dương Thổ, Mộc khắc Thổ còn Thủy khắc Hỏa, vì vậy, người tuổi Tuất sẽ không hợp với các màu như xanh lá cây (Mộc), nâu đất (Thổ), đen và xanh lam (Thủy).
Với gam màu trắng vốn thuộc Kim, người tuổi Tuất cũng có thể dùng nhưng nên hạn chế.
Cần chú ý thêm, người tuổi Tuất kị các tuổi Sửu, Mùi và Thìn, vì thế trong nhà cũng nên tránh bày các vật trang trí có hình của những con vật này.
(Theo Lao động) Trước hết nói về Tết Thanh minh với ý nghĩa là một trong 24 tiết khí trong một năm theo lịch âm dương phương Đông. Theo các nghiên cứu, nếu lấy tiết Xuân phân là thời điểm gốc (kinh độ mặt trời bằng 0) thì thời điểm bắt đầu tiết thanh minh là lúc kinh độ mặt trời bằng 15 độ. Do vậy, tiết Thanh minh thường bắt đầu từ ngày 4 hoặc 5/4 dương lịch khi kết thúc tiết xuân phân và kết thúc vào khoảng ngày 20 hoặc 21/4 khi tiết Cốc vũ bắt đầu.
Ảnh minh họa. |
Tranh vẽ cảnh Tấn Văn Công và quần thần đi thăm mộ Giới Tử Thôi. |
1. Mắt cá chân tối màu, thâm là người có địa vị, gót chân tròn đầy là người phú quý, bàn chân thô kệch thì dễ làm những việc lao động chân tay.
2. Gót chân và bàn chân đều hồng hào thì tài phú không tồi, ít nhất cũng trung phú trở lên.
3. Nam giới có bàn chân dày, nhiều thịt, độ dài các ngón chân đều nhau, mười ngón chân hồng hào thì phú quý, còn nữ giới thì phải mảnh mai, nhỏ nhắn, ít thịt lộ xương mới là tốt.
4. Nam giới có bàn chân bằng phẳng thì sự nghiệp bị hạn chế, móng chân màu vàng hoặc xanh nhạt thì mệnh nghèo khó.
5. Gót chân dày, bắp chân và đùi thon gọn là người có quyền thế, bắp chân ngắn và gót chân lớn thì hay gặp gian nan, vất vả.
6. Gót chân và đầu gối có nhiều đường vân là mệnh phú quý.
![]() |
![]() |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Riêu là âm thủy, hóa khí là phá bại, chủ về đào hoa phong lưu.
Sao Thiên Riêu tọa mệnh, chủ về đa nghi, xinh đẹp, sự cô đơn, tư tưởng sớm trưởng thành, tình cảm phong phú, đa tài đa nghệ, rất chú trọng hình thức bên ngoài, có phong cách độc đáo, thông mình lanh lợi, có khiếu hài hước, quan hệ giao tế rộng, thích giao tiếp, có sức hấp dẫn đối với người khác giới, có năng khiếu nghệ thuật. Sao Thiên Riêu nhập miếu chủ về lịch sự, phong nhã có diễm phúc, có tài nghệ được người khác yêu thích, giàu sang. Nếu đóng tại cung hợi thì học thức. Nếu rơi vào cung hãm thì chủ về đa tình, đa nghi thái quá, dễ lầm đường lạc lối, đam mê tửu sắc. Gặp phải sao ác sẽ khuynh gia bại sản, dễ vì sắc tình mà phạm tội. Đại hạn, tiểu hạn, hoặc lưu niên mà gặp nó, thì kết hôn mà không cần nghi lễ, cần đề phòng tai họa sông nước, tái hôn. Sao Thiên Riêu ở bốn cung Mão, Dậu, Tuất, Hợi là nhập miếu; ở sáu cung Thân, Tý, Thìn, Dần, Tỵ, Ngọ là bình hòa; ở hai cung Sửu, Mùi là hãm. Sao Thiên Riêu nhập miếu lại gặp cát tinh, chủ về siêu phàm thoát tục, có lợi theo các lãnh vực nghệ thuật, tạo hình, thiết kế.
Sao Thiên Riêu là sao đào hoa, dễ thay lòng đổi dạ, khó nắm bắt, nhanh nhạy thông minh, nhiều toan tính, kết bạn tình một cách nhanh chóng, phóng khoáng dạn dĩ, yêu hết mình, dám làm dám chịu, giàu sức sáng tạo, thích hợp với những ngành nghề cần phong thái; nhưng thiếu ổn định, dễ nản chí, thường không theo đuổi việc gì lâu dài.
Sao Thiên Riêu có phong cách độc đáo, rất có sức hấp dẫn đối với người khác giới, đồng thời sao Thiên Riêu cũng rất yêu bản thân mình, khao khát được người khác giới khẳng định, nhưng có lẽ cũng chỉ là tình cảm thoáng qua mà thôi.
Sao Thiên Riêu đóng tại cung thân, cung mệnh, có thể hiện tài năng trong công việc một cách dễ dàng, nghề nghiệp thường có liên quan tới người khác giới, như đóng phim, biểu diễn, quần áo, trang sức.
Nếu sao Thiên Riêu đồng cung với sao Tử Vi tại bốn cung bại Tý, Ngọ, Mão, Dậu, là cách cục "Đào hoa phạm chủ", chủ về phong lưu, cần đề phòng bệnh tật về máu. Sao Thiên Riêu đồng cung với sao Hữu Bật thì về tình yêu sẽ gặp nhiều rắc rối, không rõ ràng. Sao Thiên Riêu mà gặp các sao đào hoa như Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hàm Trì, Mộc Dục thì cần phải hết sức thận trọng chuyện sắc tình, nếu không ắt sẽ trước vui vẻ sau đau buồn.
Cung vị tam hợp của sao Thiên Riêu nếu gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Mộc Dục, chủ về chết yểu. Sao Thiên Riêu đồng cung với sao Kình Dương cũng cần đề phòng chết sớm.
Sao Thiên Riêu đồng cung với tứ sát tinh, sao Hóa Kị thì dễ tán gia bại sản vì cờ bạc, rượu chè, hoặc gặp rắc rối vì người khác giới.
Sao Thiên Riêu hợp với cung thiên di, chủ ra ngoài được quý nhân phù trợ. Sao Thiên Riêu không hợp với cung phúc đức, chủ về thân tâm vất vả bận rộn, gặp rắc rối về mặt tình cảm.
Chúc mừng những teen tuổi Dậu, Mão và Hợi được chào đón thành công sớm trên con đường sự nghiệp
Tuổi Dậu
Người tuổi Dậu nhiệt tình và có tham vọng lớn về công danh sự nghiệp. Họ nỗ lực hết mình để chinh phục được khát khao lớn lao trong cuộc đời. Ngay từ trước 20 tuổi, những dấu hiệu thành công đã manh nha xuất hiện ở con giáp này.
Có thể nói, tài vận của người tuổi Dậu sớm khởi sắc, thông thường khi đến trung vận con giáp này đã sở hữu khối tài sản “kếch xù” rồi. Hơn nữa, khi đã gặt hái được những thành công nhất định, họ lại biết cách quản lý và xem tu vi phát triển tài sản của mình. Sự nghiệp của người tuổi Dậu sẽ càng phát về hậu vận. Tuy nhiên, họ nên cẩn trọng vì dễ đặt niềm tin vào người khác. Nếu gặp người không tử tế thì dễ bị lừa gạt, mất trắng tay.
Tuổi Mão
Con giáp chăm chỉ, can đảm và đầy quyết tâm, nghị lực sống như người tuổi Mão chắc chắn sẽ gặt hái được những thành công nhất định về đường công danh. Tuy nhiên, so với người tuổi Dậu, thời điểm mà con giáp này có thể phát tài lại muộn hơn đôi chút.
Bước vào tuổi 27 hoặc 28, những dấu hiệu về cuộc sống giàu sang mới bắt đầu xuất hiện ở người tuổi Mão. Khi kiếm được tiền, họ cũng rất “biết cách hưởng thụ”, nên người ngoài dễ nhận thấy sự nghiệp của con giáp này đang trên đà phát triển hưng thịnh. Mặt khác, kiềm chế bản thân là thứ người tuổi Mão còn thiếu để đại phát. Do vậy, bạn cần phải kiên nhẫn cố gắng và đợi chờ.
Tuổi Hợi
Là con giáp sở hữu nội lực mạnh mẽ, cá tính độc lập và quyết đoán, người tuổi Hợi dễ dàng thành công hơn nếu như họ biết kiểm soát bản tính nóng vội của mình. Theo đó, năm 30 tuổi, tài vận của họ mới bắt đầu khởi sắc.
Không chỉ vậy, tính cách ôn hòa, điềm đạm, khéo léo trong các mối quan hệ càng giúp cho con giáp này nhanh “phát” hơn. Khi đời sống vật chất đã quá đầy đủ, tinh thần của người tuổi Hợi lại chẳng được thanh thản, nhẹ nhàng. Bởi lẽ họ phải suy tính các bước đi trong kinh doanh, quan hệ trên dưới.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Theo thần thoại của Đạo giáo Trung Hoa, người thầy đầu tiên, cũng là người có pháp lực, đạo hạnh cao nhất trong các thần tiên là Hồng quân lão tổ. Hồng quân lão tổ do khí hồng mông hoang sơ sinh ra, từ khi chưa có vũ trụ, chưa có thế giới vật chất, ý thức tinh thần. Hồng quân lão tổ dạy ba người học trò ưu tú.
Người đầu tiên đó là Lão tử, Tổ sư của đạo giáo, ông là một vị thần vào bậc lãnh tụ tối cao. Công việc của ông là chưởng quan nhân giáo, đảm đương những công việc về đạo đức, lễ nghĩa, tu luyện, bào chế linh đơn để kéo dài tuổi thọ. Tên hiệu đầy đủ là Thái thanh, - Đạo đức Thiên tôn, Thái thượng Lão quân. Ông có bảo bối là một chiếc vòng kim cương, một lò bào chế rất nhiều linh đơn, cưỡi một con trâu màu xanh.
Học trò thứ hai của Hồng quân lão tổ là Nguyên Thủy Thiên tôn. Người được sinh ra từ khí gốc đầu tiên của vũ trụ, là thái cực khí nguyên gốc trước khi phân chia thành lưỡng nghi âm dương. Ông là lãnh tụ của Xiển giáo. Nguyên lý của Xiển giáo quy tắc rất nghiêm ngặt. Thường chọn lọc đệ tử rất kỹ lưỡng, phải là người có phẩm chất trong sáng, căn nguyên đạo hạnh thì mới thu nạp và dạy dỗ.
Học trò của Nguyên Thủy Thiên Tôn gồm có 13 người tất cả
1. Quảng Thành Tử ở động Đào Nguyên núi Cửu Hoa
2. Hoàng Long chân nhân ở động Ma Cô núi Nhị Tiên
3. Thái Ất chân nhân ở động Kim Quang núi Càn Nguyên
4. Văn Thù Quảng Pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu núi Ngũ Long
5. Từ Hàng đạo nhân ở động Lạc Già núi Phổ Đà
6. Đạo Hành thiên tôn ở động Ngọc Ốc núi Kim Đình
7. Xích Tinh Tử ở động Vân Tiêu núi Thái Hoa
8. Cù Lưu Tôn ở động Phi Vân núi Giáp Long
9. Linh Bảo đại pháp sư ở động Nguyên Dương núi Không Động
10. Phổ Hiền đạo nhân ở động Bạch Hạc núi Cửu Cung
11. Ngọc Đỉnh chân nhân ở động Kim Hà núi Ngọc Tuyền
12. Thanh Hư Đạo Đức chân nhân ở động Tử Dương núi Thanh Phong
13. Khương Tử Nha
( Khương Tử Nha học trò thứ 13 của Nguyên Thủy Thiên Tôn tay cầm cơ tiết, tay cầm roi đả thần tiên )
Trong số những đệ tử này có một số người sau đó lĩnh hội cả Phật giáo và trở thành bồ tát: Văn Thù bồ tát, Phổ Hiền bồ tát, Cù Lưu Tôn và Từ Hàng đạo nhân (Quan Thế âm bồ tát).
Người học trò thứ 13 của ông không đắc đạo thành tiên mà phong thần, cai quản sao Thiên Cơ, thần của mưu lược, tính toán, trí tuệ, giúp đỡ và học thức.
Tôn hiệu của ngài là Ngọc Thanh, Thánh Cảnh, Đai La - Nguyên Thủy Thiên tôn. Ông tụ luyện ở cung Ngọc Hư.
Sư đệ của Nguyên Thủy Thiên tôn là Thông Thiên giáo chủ. Tôn hiệu của ngài là Thượng Thanh Linh Bảo Thiên tôn. Ông đứng đầu Triệt giáo. Tu đạo ở cung Bích Du
Linh Bảo Thiên tôn coi vạn vật chúng sinh đều bình đẳng như nhau, và ai cũng có quyền tiếp cận với đạo, nghiên cứu, học tập và tu luyện. Bởi vậy, ngài thu nạp chấp nhận truyền thụ cho tất cả mọi loài, không phân thiện ác, chẳng lựa hiền ngu. Học trò của ông chiếm một số lượng rất đông, hầu hết là các loài vật, cây cối, chim muông, ngọc đá, nhờ hút linh khí âm dương mà tu luyện thành hình người, khi được truyền đạo có thêm phép thuật.
Mặc dù chiếm một lượng lớn, nhưng về chất thì không có. Nhóm đệ tử của ông cũng chưa hẳn là đã mất hết dã tính, rất dễ gây thị phi ồn ào. Trong các phim hay truyện tiểu thuyết thần tiên còn gọi một từ đó là “yêu quái”.
Vì quan điểm về vũ trụ, đạo lý, nhân sinh và cách truyền tải đạo lý, giáo dục khác nhau nên tạo ra mâu thuẫn với Xiển giáo. Đến thời kỳ Thượng cổ, khi chính quyền Nhà Ân do Trụ vương lãnh đạo quá thối nát đến lúc sụp đổ theo quy luật tự nhiên. Nhận thấy trong trời đất tam giới còn thiếu nhiều thần linh cai quản. Ba vị Tam thanh giáo chủ cùng ngồi họp bàn lập nên bảng phong thần để giáng một số tiên chưa đủ đạo hạnh, pháp lực xuống làm thần. Thu nạp các trung thần nghĩa sỹ hi sinh vì cuộc sinh lửa loạn lạc để phong thần. Còn lại, những người phẩm hạnh cực kém thì đầy làm quỷ sứ.
Cuộc chiến tranh mà Chu Vũ Vương phát động nhằm lật đổ chính quyền Trụ Vương, là một cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ chế độ cũ. Nhưng thực ra nó cũng là sự sắp đặt của các đấng tối cao có uy lực bao trùm vũ trụ, hay là một cuộc đọ sức thi tài giữa hai bên Xiển giáo và Triệt giáo. Kết thúc bằng thắng lợi của bên Xiển giáo, Chu Vũ Vương và Khương Tử Nha. Nhưng trong thực tế, Triệt giáo đóng góp rất nhiều học trò đệ tử cho vũ trụ, như Nhị thập bát tú, Thiên binh thiên tướng, và rất nhiều các vị thần linh khác.
Xem lá số tử vi trọn đời để biết 28 ngôi sao trong Nhị thập bát tú ảnh hưởng như thế nào đến vận mệnh của bạn.
Như vậy Tam thanh là ba vị thần tối cao được thời trong Đạo giáo gồm có Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn.
Xem những truyền thuyết về các vị thần này và tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm, ta thấy được trí tưởng tượng phong phú và rực rỡ màu sắc của người Trung Hoa thời thượng cổ.
Về mặt đạo lý, triết học, nhân sinh quan thì nói lên một quy luật hết sức phổ biến trong cuộc sống, đó là hai mặt âm dương, sáng tối, trong đục, các cặp phạm trù, các mặt đối lập, mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, tất cả các vấn đề này luôn luôn đi liền với nhau và không thể tách rời, tạo thành một thể thống nhất và nó chính là động lực thúc đẩy sự tiến bộ đi lên của cuộc sống, của xã hội.
Nghiên cứu về đạo, hay suy ngẫm về thời đại Phong thần, không phải để ta mơ những giấc mơ về quá khứ, hay tâm hồn bay đến một chốn bồng lai tiên cảnh của các vị thần tiên trong miêu tả, mà nó giúp con người có được nhân sinh quan thực tiễn, luôn chấp nhận các mặt đối lập trong cuộc sống, nâng cao kỹ năng giải quyết mâu thuẫn khiến cuộc sống mỗi cá nhân nói riêng và toàn xã hội nói chung đạt tới mức độ phát triển ngày càng cao hơn, văn minh, nhân ái hơn, hướng đến chân, thiện, mỹ.
Xuất xứ là do một vài người làm, rồi bắt trước nhau, dần dần là truyền ra thành phong tục. Nguyên ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gian, thị trường toàn những vải thô bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hài nhi càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy.
Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại, dành cho em út. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |