Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Kiêng kị đối với phòng thờ, bàn thờ –

Tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ Trong các điều, nên tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ vì trong quá trình sử dụng ngưòi trong nhà có thể sơ ý sẽ làm động bàn thờ, theo phong thủy là không tốt. Trong trường họp không gian quá chật hẹp p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ

Trong các điều, nên tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ vì trong quá trình sử dụng ngưòi trong nhà có thể sơ ý sẽ làm động bàn thờ, theo phong thủy là không tốt. Trong trường họp không gian quá chật hẹp phải để tủ quần áo bên cạnh bàn thờ thì cần bố trí một khu vực khác để thay quần áo.

Phòng thờ kiêng bị ánh nắng và gió chiếu vào

Một trong những yếu tố nguy hiểm trong phép đặt bàn thờ mà ít chuyên gia phong thủy biết cũng như người dân không hề biết, đó là bàn thờ bị nắng, gió chiếu vào qua cửa sổ và cửa chính.

kieng-ki-ban-tho

Phân tích theo khoa học năng lượng phong thủy thì nắng và gió có chứa nhiều “tia khí đen” và các “xạ khí”, những tia khí xấu này có chứa nhiều dương khí mà dương khí này còn rất xấu, sẽ làm cho phòng không thể tụ được âm khí của người âm khi họ về. Do ngưòi âm muốn về được nhà con cháu thì phải đảm bảo âm khí trong phòng thờ và không bị dương khí cản trở.

Bàn thờ bị ánh nắng chiếu vào hay gió thổi vào sẽ làm cho những người trong gia đình gặp các vấn đề sau:

– Gia đình luôn bất an, vì khi thắp hương mời gia tiên về, không có ai về được, nên người âm tìm mọi cách để làm cho con cháu thay đổi lại bàn thờ, và gây khó khăn cho con cháu trong làm ăn.

– Công việc hay bị đình trệ, họp đồng hay bị hỏng, làm ăn thua lỗ và kém dần.

Những kiêng kị khác

– Không đặt bàn thờ tại nơi nóng bức, nhất là trên tum của tầng thượng hay bị nắng nóng làm cho âm khí không tụ.

– Bên trên phòng thờ (tầng trên tầng có phòng thờ) thẳng lên không được có bể nước, vì nếu có bể nước sẽ phạm Thủy Hỏa tương xung, làm cho người trong nhà ốm đau bất an.

– Không để ti vi hay máy tính trong phòng thờ, vì sẽ có nhiều từ trường làm cho sóng âm không về và tụ lại được.

– Không tự tiện kê chuyển bàn thờ, vì nếu tự tiện kê chuyển vị trí bàn thờ sẽ làm “động” bàn thờ, đây là điều không tốt trong phong thủy.

– Nếu có kê chuyển sang vị trí tốt hơn thì phải làm lễ xin chuyển và xin đài âm – dương thì mới chuyển.

– Không để bàn thờ đối diện với cửa sổ hay thẳng cửa ra vào.

– Phòng thờ không nên làm nhiều cửa, hạn chế có cửa sổ rộng trong phòng thờ.

– Không dùng điều hòa nhiệt độ trong phòng thờ.

– Không để phòng thờ trên tầng thượng có mái tôn, cửa kính hay tường kính, vì có rất nhiều xạ khí từ tường kính, cửa kính.

– Không được để nhiều đồ đạc trong phòng thờ, nhất là các đồ có góc nhọn.

– Phòng thờ mà để tại tầng 1 thì cũng không đưọc để bên trên bể nước ngầm hay bể phốt, vì cũng phạm Thủy Hỏa tương xung.

– Cửa phòng thờ không đối diện với cửa phòng khác, nhất là kiêng kị đối diện với của phòng vệ sinh.

– Không đặt bàn thờ bên dưới là lỗ thoáng hay cửa sổ.

– Không đặt bàn thờ đối diện với cửa chính và cửa sổ.

– Không đặt bàn thờ ngoài tròi.

– Bàn thờ không được dựa vào nhà vệ sinh.

– Bàn thờ không được dựa vào bếp.

– Bàn thờ không được đặt trong phòng ngủ, nhất là phòng ngủ của vợ chồng.

– Bàn thờ kiêng kị bị dầm nhà đè xuống.

– Không được để vật nhọn xung chiếu vào bàn thờ.

– Không để các linh vật thú dữ trong phòng thờ: Sư tử, hổ, chó, kỳ lân.

– Bàn thờ đại kỵ đặt ở lối đi

– Bàn thờ đại kỵ dùng gỗ đã dùng rồi.

– Bàn thờ đại kỵ đặt trên nóc tủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kị đối với phòng thờ, bàn thờ –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Màu của tết

Đỏ, hồng, vàng vốn là những màu nóng, nổi bật ít được sử dung trong nội thất. Tuy nhiên, trong những ngày tết, đây lại là những màu sắc được ưa chuộng. Với những sắc màu này, nếu biết khéo léo sử dụng, chỉ cần một chút nhấn nhá, bạn có thể làm ngôi nhà tràn đầy sắc xuân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đỏ may mắn

Đỏ may mắn cho năm mới - Ảnh: H.TR.

Chút sắc màu làm rực rỡ căn phòng - Ảnh: Home Designing

Khăn đỏ trải bàn - Ảnh: H.TR.

Màu đỏ luôn tượng trưng cho sự may mắn. Trong những ngày tết màu đỏ hiện diện khắp phố phường, trong nhà ngoài ngõ. Ở các không gian sống quan trọng trong nhà như trước cửa nhà, phòng khách, phòng sinh hoạt, bếp… chỉ cần sự hiện diện của sắc màu này là mọi thứ đều trở nên rực rỡ, không khí lễ hội như tràn ngập trong nhà.

Ngày xưa, khi dọn nhà đón nhà đón tết, người dân Việt Nam thường dùng giấy màu dán lại các bức vách trong nhà. Trong đó, phần trang trọng nhất trong nhà là bàn thờ sẽ được thay tấm giấy màu đỏ như một truyền thống.

Ngày nay, cuộc sống đã thay đổi, người ta đầu tư cho ngôi nhà nhiều hơn nhưng đôi khi không xem trọng các phong tục tập quán xưa. Trong những ngày này, nếu không có điều kiện để thay đổi màu sắc căn phòng, chỉ cần một chút màu đỏ nhấn nhá trên tường, trên chiếc salon hoặc chiếc khăn trải bàn… bạn cũng có thể gây bất ngờ, làm sống lại những căn phòng cũ kỹ.

Ngoài các vật dụng trang trí, có rất nhiều loại hoa lá, cây cảnh mang đầy sắc màu may mắn để bạn chọn trang trí trong nhà.

Hồng tươi thắm

Đào thắm cho phòng khách - Ảnh: H.TR.

Chút hồng đồng điệu trên vách, tranh và khăn trải bàn hoàn thành bức tranh đồng điệu, nồng ấm - Ảnh: Home Designing

Hồng gợi nhớ hình ảnh xác pháo, hoa đào. Trong những ngày tết, với những không gian mang tính truyền thống, màu hồng tươi thắm hiện diện trong những món đồ trang trí cũng tạo cảm giác nồng nàn, ấm áp.

Ở các vùng miền phía Bắc, sắc màu hoa đào càng cần thiết để sưởi ấm những không gian lạnh lẽo.

Vàng phú quý

Mang may mắn vào nhà - Ảnh: H.TR.

Màu vàng thể hiện sự sang trọng, phú quý - Ảnh: Home Designing

Mang nắng vào nhà - Ảnh: C.T.V.

Vàng là hình ảnh hoa mai, đồng thời cũng là sắc màu của vàng bạc, phú quý. Ở miền Nam, hình ảnh mai vàng ngày tết cũng đồng nghĩa với sự may mắn. Ngoài mai, có rất nhiều loại hoa truyền thống như cúc, vạn thọ, hướng dương… được dùng trang trí những ngày tết.

Trong những năm gần đây, các vật dụng trang trí nhà cửa ngày càng đa dạng phong phú. Những dây treo trang trí cùng những lời chúc, câu đối… rực trong sắc vàng, nhũ vàng cũng giúp các không gian sống nhà bạn như bừng sáng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu của tết

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958 Mậu Tuất –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958: Năm sinh dương lịch: 1958 - Năm sinh âm lịch: Mậu Tuất - Quẻ mệnh: Càn Kim - Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1958:

k

Năm sinh dương lịch: 1958

– Năm sinh âm lịch: Mậu Tuất

– Quẻ mệnh: Càn Kim

– Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Thiên Y); Tây Nam (Diên Niên); Tây (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1958 Mậu Tuất –

Những đồ phong thủy chiêu tài mang lại vượng khí đầy nhà

Lựa chọn đồ phong thủy chiêu tài trưng bày đúng và hợp tuổi có thể thu hút tiền bạc, mang lại may mắn, tài lộc cũng như gia tăng vượng khí, sức khỏe, tuổi thọ
Những đồ phong thủy chiêu tài mang lại vượng khí đầy nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Lichngaytot) Lựa chọn đồ phong thủy chiêu tài trưng bày đúng và hợp tuổi có thể thu hút tiền bạc, mang lại may mắn, tài lộc cũng như gia tăng vượng khí, sức khỏe, tuổi thọ cho gia chủ.


Biểu tượng cá


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh
 

Giàu sang, phú quý và may mắn là ý nghĩa của biểu tượng hình cá. Theo phong thủy, tượng cá chép, cá rồng hoặc tranh vẽ cá sẽ mang đến thịnh vượng cho văn phòng và căn nhà của bạn.  Nhiều doanh nghiệp vận dụng thêm yếu tố ngũ hành để đặt bể cá cảnh như cá vàng, cá bảy màu, cá chép gần lối đi để tăng thêm vượng khí cũng rất hiệu quả.

Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Phát tài với biểu tượng cá chép

Đồng tiền xu


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 2
 

Nhắc tới đồ phong thủy chiêu tài không thể không kể đến đồng tiền xu cổ. Những đồng tiền xu cổ của Trung Quốc có hình tròn với hình vuông chính giữa tượng trưng cho bầu trời và mặt đất.  Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp và giải trừ tai họa, tiểu nhân… Không chỉ nên treo tiền xu trong nhà, văn phòng người ta còn đặt 1 vài đồng xu vào túi xách, ví tiền, tủ khóa với mong muốn giàu sang phú quý.

Long Quy


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 3
 

Linh vật huyền thoại sinh ra từ sự kết hợp hài hòa giữa rồng và rùa.  Trưng bày đồ phong thủy chiêu tài này trong nhà có thể giúp xua tan biến cố, tiền của từ từ tăng lên một cách bền vững, sức khỏe, tuổi thọ và sự nghiệp, công danh của mỗi người trong gia đình đều rộng mở.

Tượng Phật Di Lặc


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 4
 

Phật Cười hay Phật Di Lặc được coi là biểu tượng tuyệt đối của hạnh phúc, của sự hài hòa, niềm vui vui tư lự. Bày tượng Phật đối diện với cửa chính, nhìn thẳng ra cửa nhà giúp chuyển hóa toàn bộ khí vào nhà thành năng lượng tốt.  Đặt tranh hoặc tượng Phật trong một số vị trí khác nhau của ngôi nhà hay văn phòng có tác dụng hóa giải mọi rắc rối, cãi cọ, giảm bớt căng thẳng, lo âu, gia tăng vận may tài lộc, sức khỏe và thành công. Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để rước tài lộc, đón niềm vui

Gương bát quái


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 5
 

Gương bát quái là một trong những công cụ nổi tiếng và phổ biến nhất được sử dụng trong phong thủy để bảo vệ, khắc phục, hoặc hóa giải cho các ngôi nhà có hướng xấu. Nếu được sử dụng chính xác, gương bát quái giúp ngăn chặn nhiều việc nguy hiểm, ngăn ngừa bệnh tật, tai nạn, trầm cảm,  điều tiết khí trường và từ trường trong phòng khiến tâm trạng bình tĩnh, thoải mái, điều tiết sự cân bằng của cơ thể, dần dần phục hồi sức khỏe khi bị những căn bệnh mãn tính…

Thuyền buồm đầu rồng


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 6
 

Thuyền buồm kết hợp đầu rồng tượng trưng cho gió, nước biểu tượng mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh thành công tốt đẹp và thu về nhiều lợi nhuận, tiền của. Nên đặt vật phẩm phong thủy chiêu tài này trong văn phòng, cửa hàng với đầu rồng quay vào bên trong để điều hướng dòng tiền, sự may mắn về phía bạn.

Kim tự tháp thạch anh


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 7
 

Kim tự tháp là một khối hình học đặc biệt nó có thể sản sinh ra năng lượng đặc thù và vô hình, dạng thức năng lượng huyền bí này được hình thành từ nhiều hướng và công dụng đa dạng vô cùng đặc biệt. Đá thạch anh giúp cho dòng năng lượng ổn định và giữ nguyên tính chất.

Khi sóng điện từ và tia vũ trụ xuyên qua lớp đá cùng một lúc nó đã hội tụ năng lượng cực lớn tại khoảng giữa trung tâm Kim tự tháp và ảnh hưởng đến không gian xung quanh. Dạng năng lượng này có thể giúp cho người thiếu ngủ hay mất ngủ hoặc người lao động với cường độ quá cao có thể lấy lại sức khỏe.

Voi


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 8
 

Loài voi trong tự nhiên có sức mạnh phi thường không thua gì mãnh hổ hay nhiều loài động vật thông minh khác. Theo phong thủy, bày tượng voi trong nơi ở, văn phòng sẽ giúp bình ổn công việc làm ăn, hút tài lộc, trấn yểm vận xấu, trong nhà luôn có điềm lành.

Ba vị thần Phúc - Lộc - Thọ


Nhung do phong thuy chieu tai mang lai vuong khi day nha hinh anh 9
 

Tượng ba ông Phúc - Lộc - Thọ cực kỳ phổ biến vì ba vị thần tượng trưng cho ba ước muốn từ xưa của con người là Phúc, Lộc, Thọ, là sự giàu có, quyền lực và may mắn bên cạnh cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài.

Ba ông Phúc, Lộc, Thọ luôn được đặt cạnh nhau, không bao giờ tách rời và theo thứ tự cụ thể. Bên trái luôn luôn là ông Phúc với tất cả nguồn năng lượng phước lành và may mắn. Ở giữa là ông Lộc với niềm tin về sự thành công và tài chính ổn định. Ông Thọ luôn ở bên trái, mỉm cười và ban tặng những món quà của tuổi thọ và cuộc sống yên bình.

Minh Hiếu

Chọn đúng vị trí đặt cây cảnh trong nhà để thỏa nguyện mọi mong ước Xác định vị trí đặt tủ lạnh hợp phong thủy để tránh bại vận
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đồ phong thủy chiêu tài mang lại vượng khí đầy nhà

Lễ hội ngày 9 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Mộc Cựu

Hội Làng Mộc Cựu được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng 10 âm lịch tại làng Mộc Cựu và Thức Thuốc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội ngày 9 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Mộc Cựu

Lễ hội ngày 9 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Mộc Cựu

Hội Làng Mộc Cựu

Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tháng 10 âm lịch.

Địa điểm: làng Mộc Cựu và Thức Thuốc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng là Thần Mưa.

Nội dung: Vào ngày này, người dân trong làng thường tổ chức lễ hội với phần lễ vật dùng bánh chay, bánh giầy và hoa quả để tỏ lòng biết ơn với thành hoàng làng là Thần Mưa. Sau ngày lễ đầu tiên thì phần lễ dùng xôi, lợn, rượu và rước đến xứ Ngọc Sơn làm lễ, sau đó rước về tế ở đền. Ngoài phần lễ thì làng Mộc Cựu và Thức Thốc cũng tổ chức rất nhiều trò chơi dân gian trong phần hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội ngày 9 tháng 10 âm lịch - Hội Làng Mộc Cựu

Tìm hiểu sự thật quanh giấc mơ về nữ trang

Nữ trang là vũ khí làm đẹp của phụ nữ. Người phụ nữ khoát lên mình bộ nữ trang thì họ thật lộng lẫy trở nên đẹp lạ thường và bất ngờ. Giấc mơ thấy nữ trang
Tìm hiểu sự thật quanh giấc mơ về nữ trang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mang nhiều sắc thái, ý nghĩa riêng của từng giấc mơ.

 
Tim hieu su that quanh giac mo ve nu trang hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy ăn trộm nữ trang là điềm báo phải thận trọng trong công việc làm ăn.
  Mơ thấy mình bị mất nữ trang là điềm báo sẽ gặp trở ngại. Nếu mơ tìm lại được nữ trang đó thì mức độ trở ngại sẽ giảm bớt đi.   Mơ thấy mua hoặc bán nữ trang, được nhận hay cho đi nữ trang, mơ thấy đeo dây chuyền thường là điềm may về tình cảm hay việc trong nhà.   Mơ thấy mình làm mất hay làm hỏng chiếc nhẫn là điềm may về tài chính và làm ăn buôn bán.   Mơ thấy nhặt được nhẫn hay có người tặng nhẫn là điềm sắp có tình yêu hay tình bạn mới.   Mơ thấy hoa tai là điềm xấu liên quan đến các mối quan hệ cá nhân. Coi chừng có sự rạn nứt về tình cảm do những lời đồn đại.   Mơ thấy chính mình đeo hoa tai là điềm báo về sự phát triển trong công việc nghiệp hoặc tình yêu của bản thân.   Mơ thấy vòng tay là điềm may về tình cảm hay tiền bạc. Nhưng nếu mơ thấy nó bị vỡ hay bị mất thì lại là điềm báo ngược lại.   Mơ thấy mua sắm đồ trang sức thường là điềm báo luỵ tình.   Mơ thấy đồ trang sức bằng kim cương thường là điềm báo bị sắc đẹp quyến rũ.   Mơ thấy đồ trang sức bằng bạc là điềm báo về sự viên mãn trong tình yêu.

Nếu trong giấc mơ bạn thấy mình đeo quá nhiều đồ trang sức, điều này ngụ ý là bạn đang cố gắng gây ấn tượng với mọi ngưồi trong cuộc sống hiện tại. 

Nếu bạn nằm mơ thấy một chiếc hộp đựng đồ trang sức, bạn nên giải phóng các năng lượng bên trong và thể hiện bản thân nhiều hơn, không nên kìm hãm nó.
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu sự thật quanh giấc mơ về nữ trang

Tướng phụ nữ cao số

Hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Hai cằm

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều cô gái có hai cằm nhưng đã giảm cân vì muốn xinh đẹp hơn, thậm chí còn đi phẫu thuật thẩm mỹ để bỏ hai cằm. Nhưng họ không biết rằng hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài. Những người con gái có hai cằm còn được gọi là những người có tướng giúp chồng. Nó không chỉ đem lại may mắn cho bản thân, mà còn giúp cho sự nghiệp của chồng. Những người con gái có tướng mạo như vậy thì sẽ luôn có tài vận tốt.

Trán cao, rộng và đầy

Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tài hoa và tương đối thông minh. Trán nhẵn và rộng thể hiện sự phóng khoáng, cao quý. Những người có tướng mạo thế này rất hợp với cuộc sống trong gia đình quyền quý. Họ có khả năng ứng khó với các quy tắc mà không thất lễ với những người trong gia đình. Những người con gái có tướng mạo thế này cũng rất được cánh mày râu ưa thích. Có thể nói họ là những mỹ nhân có khí chất, và rất có ưu thế trong các mối quan hệ giao tiếp.

Mắt to, mày dài, lông mi cong

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều người nói, lông mày là nơi để giao lưu tình bạn. Nếu người con gái có lông mày dài, mỏng và đôi lông mi cong thì vô cùng có khí chất. Cho dù làm bất cứ việc gì, họ cũng không dễ dàng lùi bước hoặc từ bỏ. Nếu có thêm cặp mắt to thì lại càng có sức sống hơn. Rất nhiều đàn ông chết mê chết mệt vì những người con gái vừa hấp dẫn vừa tràn đầy sức sống này. Người ta sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở bên họ. Vì thế, những người con gái này rất thuận lợi trên phương diện tình cảm.

Gò má cao vừa phải

Nếu trán và cằm đã tương đối đẹp thì cần phải phối hợp với xương gò má. Mỗi người đàn ông luôn cần một cô vợ đảm, mà hai bên gò má của người phụ nữ chính là sự động viên của người chồng. Vì thế gò má của người phụ nữ không được phép quá cao. Những người phụ nữ có hai bên má cao vừa phải sẽ là những người nội trợ đảm đang, là hậu phương vững chắc cho người chồng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.3. Gò má cao vừa phải

Ngón tay dài

tướng phụ nữ đẹp tướng phụ nữ đa tình tướng phụ nữ thích ngoại tình tướng phụ nữ phú quý tướng phụ nữ mông cong tướng phụ nữ lông mày rậm tướng phụ nữ lấy chồng giàu tướng phụ nữ giàu sang tướng phụ nữ giàu có tướng phụ nữ cao số tướng phụ nữ thế nào là người phụ nữ cao số phụ nữ mang thai sốt cao phụ nữ cao số

Rất nhiều người nói con gái có ngón tay dài thì vất vả, không có vận mệnh tốt. Thực ra không phải như vậy. Những người con gái có ngón tay dài, thon đa phần đều chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Ngón tay dài tức là giữ được tiền, có khả năng kiếm tiền rất tốt. Ấn tượng đầu tiên của mọi người đối với những cô gái này là sự thục nữ. Trong sự nghiệp, họ nhất định sẽ thuận buồm xuôi gió.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ cao số

Có hay không việc linh hồn tái sinh?

Theo Alexander Berzin - một học giả, dịch giả và giảng viên Phật giáo Tây Tạng chủ yếu về đề tài truyền thống Tây Tạng, thì việc tái sinh là có thật.
Có hay không việc linh hồn tái sinh?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Dưới đây là những câu hỏi và câu trả lời của học giả Phật giáo Alexander Berzin về vấn đề tái sinh có thật hay không?


Co hay khong viec linh hon tai sinh hinh anh 2
Ảnh minh họa

Hỏi: Ông có tin vào tái sinh hay không?

  Đáp: Tôi tin có tái sinh, nhưng phải mất một thời gian lâu tôi mới đi đến kết luận này. Sự tin tưởng về tái sinh không đến ngay lập tức. Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ. Đây là trường hợp tại nhiều nước Á châu, vì người dân đã nghe kể về những chuyện tái sinh từ lúc còn bé, nên họ tin tưởng một cách tự nhiên. Tuy nhiên, với những người như chúng tôi, lớn lên trong nền văn hóa Tây phương, thoạt tiên, điều này có vẻ thật lạ lùng. Niềm tin này không đến một cách đột ngột, với tiếng nhạc trỗi lên, cầu vồng hiện ra trên trời và ta thốt lên rằng: “Hallelujah, bây giờ thì tôi đã tin rằng có tái sinh rồi.” Sự việc thường không xảy ra như vậy.   Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh. Trước hết, tôi phải có tinh thần cởi mở để nghĩ rằng: “Tôi không thật sự hiểu tái sinh là gì.” Việc chấp nhận rằng ta không thấu hiểu về tái sinh là điều quan trọng, vì đôi khi ta có thể phủ nhận tái sinh, và điều ta phủ nhận là một ý nghĩ sai lầm về tái sinh mà chính Phật giáo cũng bác bỏ. Một người có thể nghĩ rằng, “ Tôi không tin vào tái sinh vì tôi không nghĩ là có một linh hồn có cánh bay từ thân này qua thân khác.” Phật giáo cũng đồng ý như vậy, “Chúng tôi cũng không tin vào một linh hồn có cánh bay.” Để đi đến quyết định xác tín vào tái sinh, tôi phải tìm hiểu khái niệm này trong Phật giáo và nó không giản dị cho lắm. Nó vô cùng tinh vi, như tôi đã giải thích trước đây về tâm thức và năng lượng vi tế nhất, cùng với những bản năng đi kèm theo nó.   Thế rồi tôi nghĩ mình sẽ có một ít bán tín bán nghi về tái sinh. Tạm thời, chúng ta hãy xem là có sự tái sinh. Thế thì điều gì sẽ xảy ra khi ta nhận thức sự hiện hữu của mình bằng cách này? Ta có thể thiết lập tất cả những pháp tu của Bồ Tát, ta có thể thừa nhận mọi người đã từng là mẹ của mình và nhờ vậy, cảm thấy một sự liên hệ nào đó với tất cả mọi người.   Rồi những việc xảy ra trong đời tôi cũng có thể giải thích được. Tại sao một người có quá trình đào tạo như tôi lại rất thích học tiếng Trung Hoa? Tại sao Ấn Độ lại có sức lôi cuốn đến nỗi tôi phải đến đó và tu học với những người Tây Tạng? Xét vào những sở thích của gia đình tôi và môi trường nơi tôi sinh trưởng, chúng chẳng giải thích được tại sao tôi lại thích thú vào những điều này. Tuy nhiên, khi nghĩ đến vấn đề tái sinh thì tôi thấy việc này có thể giải thích được. Tôi phải có những liên hệ với Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Tạng trong những kiếp khác, điều này khiến cho tôi có sự thích thú với những nơi này, với ngôn ngữ và văn hóa của các nước này. Tái sinh bắt đầu giải thích được nhiều điều mà tôi thắc mắc từ lâu, nhưng không thể tìm ra được câu trả lời nào khác; nếu không có nghiệp và những tiền kiếp, thì ta không thể giải thích được những gì xảy ra trong đời hiện tại của tôi. Tái sinh cũng giải thích được những giấc mơ quen thuộc cứ tái diễn trong giấc ngủ của tôi. Cứ như thế mà tôi dần dần trở nên quen thuộc với ý niệm tái sinh.   Tôi đã tu học tại Ấn Độ mười chín năm và tôi có nhiều đặc ân cũng như cơ hội để học hỏi với nhiều vị thầy rất cao tuổi, lúc họ còn tại thế. Những người này đã qua đời, đã tái sinh và hiện nay tôi lại gặp họ như những đứa trẻ. Tôi đã quen biết họ trong hai kiếp sống.
Co hay khong viec linh hon tai sinh hinh anh 2
Ảnh minh họa
Có một thời điểm nào đó trên đường tu của Phật pháp mà bạn có thể kiểm soát được những tái sinh của mình. Bạn không cần phải là một vị Phật hay một hành giả đã giải thoát, một A La Hán, thì mới làm được việc này. Tuy nhiên, bạn cần phải là một vị Bồ Tát. Bạn phải tu hành đến một trình độ cao cấp trên đường tu mật tông và có một nguyện ước mãnh liệt muốn tái sinh vào sắc tướng nào đó để có thể giúp đỡ mọi người. Có những pháp quán tưởng và phương pháp giúp bạn chuyển hóa cái chết, thân trung ấm và tái sinh. Nếu bạn đã tinh thông ở cấp độ này thì bạn có thể kiểm soát việc tái sinh của mình. Có khoảng một ngàn người Tây Tạng đạt được trình độ này và khi sau khi họ qua đời, người ta lại tìm ra được họ. Trong hệ thống Tây Tạng, những người này được gọi là tulkus. Tulku là một vị lama tái sinh, được ban danh hiệu là Rinpoche. Tuy nhiên danh hiệu Rinpoche không chỉ được dùng cho các tulku hay những vị tái sinh thôi. Nó còn được dùng cho các vị trụ trì hay cựu trụ trì của một tu viện. Không phải ai được gọi là Rinpoche cũng là một vị lama tái sinh cả.   Tôi cũng xin nêu ra một điều là chữ lama được dùng theo nhiều cách khác nhau, tùy theo từng truyền thống ở Tây Tạng. Trong một vài truyền thống, lama đề cập đến bậc thầy tâm linh rất cao cấp, ví dụ như một vị geshe – người có bằng cấp tương đương với tiến sĩ trong Phật học – hay một vị lama tái sinh. Trong vài truyền thống khác, chữ lama được dùng để gọi một vị sư trong một cộng đồng. Vị sư này đã trải qua ba năm nhập thất và đã học được một số nghi lễ. Họ đi từ làng này qua làng khác để làm lễ cúng tế cho dân làng. Vì thế, danh hiệu lama có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau.   Có khoảng một ngàn người được công nhận là lama tái sinh hoặc tulkus. Họ được nhận ra bằng những điều họ biết, hoặc qua những chỉ dấu khác như các vị vấn linh (oracle), hay từ những dấu hiệu đáng kể đã xảy ra trong môi trường. Thị giả của vị lama quá cố sẽ đi tìm vị tái sinh mới. Họ sẽ đem theo những vật dụng mà vị lama tiền thân thường dùng trong các nghi lễ và những vật sở hữu của vị ấy, cùng với các vật khác tương tự với những món vật này. Đứa trẻ phải có khả năng nhận ra những vật sở hữu của nó trong đời trước. Ví dụ như Đức Dalai Lama đương thời đã nhận ra được những người đến tìm Ngài. Ngài gọi đúng tên của từng người và bắt đầu nói chuyện với họ bằng thổ ngữ Lhasa, không phải là thổ ngữ nơi Ngài đang sinh trưởng. Những dấu hiệu như thế giúp họ nhận ra đứa bé.   Tôi rất xúc động khi gặp lại các vị thầy của tôi trong hậu thân của họ. Xúc động nhất là khi tôi gặp lại Ling Rinpoche, người đã từng làm trợ giáo của Đức Dalai Lama đương thời. Rinpoche cũng là một đại sư đứng đầu truyền thống Gelug (phái Cách-lỗ). Khi viên tịch, Ngài đã nhập định gần hai tuần lễ, mặc dù Ngài đã tắt thở và theo phương diện y khoa, Ngài được xem như đã chết. Tuy nhiên, tâm thức vi tế của Ngài vẫn lưu lại trong thân Ngài. Tâm thức vô cùng vi tế của Ngài đã an trụ trong thiền định thậm thâm. Vùng xung quanh tim Ngài vẫn còn một ít hơi ấm và Ngài đã ngồi trong tư thế tọa thiền mà cơ thể không hề bị hư hoại. Khi Ngài chấm dứt thiền định, đầu Ngài nghiêng sang một bên và một ít máu mũi chảy ra. Vào lúc đó, tâm thức Ngài đã rời khỏi nhục thân của Ngài.   Tại Dharamsala, nơi tôi sống, hiện tượng này xảy ra hai, ba hay bốn lần mỗi năm. Điều này không phải là hiếm có, mặc dù một hành giả phải đạt được trình độ tâm linh cao cấp mới làm được điều này. Khả năng này có thể đạt được.   Vị tái sinh của Ling Rinpoche được công nhận khi Ngài được một tuổi chín tháng. Thông thường thì trẻ con không được nhận diện sớm như vậy, vì khi đứa bé lớn hơn chút nữa, khoảng ba hay bốn tuổi, chúng có thể nói chuyện hay tự đưa ra vài dấu hiệu. Đứa bé được đưa về nhà, nơi vị tiền thân đã ở, và một buổi lễ rất lớn được tổ chức để chào mừng vị tái sinh. Mấy ngàn người đã đứng hai bên đường, và tôi được may mắn ở trong đám người ấy. Ai cũng mặc áo quần đặc biệt và ca hát vui vẻ. Đó là một ngày thật vui tuơi.

 

Hỏi: Đứa trẻ được nhận diện như thế nào?

  Đáp: Đứa bé được công nhận qua các vị vấn linh và môi giới, cũng như bằng khả năng tự nhận ra những vật dụng của mình từ đời trước. Ngoài ra, em bé cũng biểu tỏ một vài nét đặc trưng qua sắc tướng, ví dụ như vị tiền thân thường cầm chuỗi tràng hạt (mala) bằng hai tay, thì em bé này cũng làm y như vậy. Em còn nhận ra những người ở trong nhà của vị tiền thân nữa.   Tuy nhiên, điều thuyết phục tôi nhất là cách cư xử của chú bé trong buổi lễ. Chú bé được đưa vào trong nhà, nơi một pháp tòa đã được dựng lên gần khung cửa nhìn ra một hàng ba rất lớn và có đến hai ba ngàn người tụ tập ngoài sân. Hầu hết trẻ con dưới hai tuổi sẽ rất sợ hãi trong trường hợp này, nhưng chú bé này thì không hề biết sợ. Bé được đặt lên trên pháp tòa. Thông thường thì một đứa trẻ sẽ đòi đi xuống và khóc lóc nếu không được làm như vậy. Thế nhưng em bé này đã ngồi xếp bằng không xê dịch trong một tiếng rưỡi đồng hồ, trong khi mọi người đang làm lễ chúc thọ (long-life puja) cho em. Em chăm chú vào mọi việc đang xảy ra và không hề tỏ vẻ khó chịu giữa đám đông.
Co hay khong viec linh hon tai sinh hinh anh 2
Ảnh minh họa
Một phần của buổi lễ gồm có việc cúng dường vị lama và cầu chúc Ngài sống lâu. Đoàn người tuần tự diễu hành, mỗi người dâng lên Ngài một lễ vật như tượng Phật, kinh điển, bảo tháp nhỏ, một bộ cà sa và nhiều vật khác nữa. Khi có người dâng lễ vật, Ngài phải nhận bằng hai tay và trao lễ vật ấy cho một người đứng ở phía bên trái của Ngài. Em bé làm như vậy một cách hoàn hảo khi nhận từng lễ vật. Thật là một điều phi thường! Làm sao ai có thể dạy cho một đứa bé một tuổi chín tháng cách cư xử như vậy? Không thể nào được!   Khi buổi lễ chấm dứt, mọi người xếp hàng để được Ngài ban phước. Được một người khác bế, em bé đưa tay theo đúng cách để ban phước cho từng người một. Với sự chú tâm hoàn toàn, không hề chán nản hay mệt mỏi, em bé đã ban phước cho hai hay ba ngàn người như thế. Sau đó, Đức Dalai Lama thọ trai với em. Em bé chỉ khóc một lần duy nhất và tỏ vẻ không bằng lòng khi Đức Dalai Lama từ giã ra về. Em không muốn Ngài đi.   Thật ra, em bé này đã dùng tay ban phước cho nhiều người trước khi được công nhận là Ling Rinpoche. Em đã sống trong viện mồ côi với người anh, vì mẹ em đã từ trần không lâu, sau khi sanh em ra. Ba em rất nghèo nên đành phải gửi hai đứa con vào cô nhi viện. Em bé đã ban phước cho nhiều người trong cô nhi viện và người anh của bé, khoảng ba hay bốn tuổi, đã nói với mọi người rằng, “Em tôi rất đặc biệt. Nó là một lama, một Rinpoche. Đừng làm điều gì xấu đối với nó. Hãy đối xử với nó một cách đặc biệt.”   Những vị Ling Rinpoche tiền thân đã là sư phụ của ba vị Dalai Lama liên tiếp. Một vị là sư phụ của Đức Dalai Lama thứ mười hai, vị Ling Rinpoche kế tiếp là sư phụ của Đức Dalai Lama thứ mười ba, và vị tiếp theo là thầy của Đức Dalai Lama thứ mười bốn. Dĩ nhiên, người ta xem vị Ling Rinpoche tái sinh này là thầy của vị Dalai Lama trong kiếp tương lai.   Chứng kiến những trường hợp này tạo cho tôi nhiều ấn tượng mạnh về sự khả thi của những đời sau. Thế nên, nhờ sự suy xét, nhờ được nghe những mẫu chuyện và nhìn thấy những việc như trên, ta sẽ dần dần chấp nhận sự hiện hữu của đời sống trong quá khứ và vị lai. Bây giờ, nếu có ai hỏi tôi rằng, “ Ông có tin vào những kiếp vị lai không?”, tôi xin trả lời là, “Có, tôi tin vào những đời sau.”

 

Hỏi: Có phải các vị lama tái sinh chỉ được tìm thấy trong cộng đồng người Tây Tạng hay không?

  Đáp: Không đâu, có khoảng bảy vị đã được tìm ra ở các nước Tây phương. Một trong những vị này, Lama Osel, tái sinh của Lama Thubten Yeshe, là một em bé người Tây Ban Nha. Việc gặp gỡ Lama Osel đã thuyết phục được những người đã từng quen biết Lama Yeshe, khiến họ tin tưởng vào sự tái sinh.   Alexander Berzin Singapore 10 tháng Tám, 1988 Trích đoạn đã được duyệt lại từ Berzin, Alexander and Chodron, Thubten. Glimpse of Reality. Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.

ST.

Những câu chuyện luân hồi chưa thể lý giải (phần 1)
Khoa học hiện đại vẫn chưa thể chứng minh được việc có kiếp sau hay kiếp trước của con người hay không? Tất cả vẫn chìm trong kỳ bí với nhiều sự việc luân hồi
Những câu chuyện luân hồi chưa thể lý giải (phần 2)
Khoa học hiện đại vẫn chưa thể chứng minh được việc có kiếp sau hay kiếp trước của con người hay không? Tất cả vẫn chìm trong kỳ bí với nhiều sự việc luân hồi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có hay không việc linh hồn tái sinh?

Luận đoán vận mệnh cuộc đời qua Ngũ hành nạp âm – P1: Hành Kim

BVận mệnh con người theo ngũ hành nạp âm có điều gì đặc biệt? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về 6 nạp âm thuộc hành Kim: Hải Trung Kim, Kim Bạch Kim, Bạch Lạp Kim
Luận đoán vận mệnh cuộc đời qua Ngũ hành nạp âm – P1: Hành Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn đã biết Ngũ hành nạp âm là gì hay chưa? Vận mệnh con người theo ngũ hành nạp âm có điều gì đặc biệt? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về 6 nạp âm thuộc hành Kim: Hải Trung Kim, Kim Bạch Kim, Bạch Lạp Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim và Thoa Xuyến Kim nhé.  

1. Ngũ hành nạp âm là gì?

  Từ Giáp Tý đến Quý Hợi có 60 năm, mỗi 10 năm lại tương ứng với 10 thiên can. Như vậy, cứ 10 thì vòng tuần hoàn xoay chuyển, ta lại có chữ Giáp đứng đầu, ví dụ Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần. Ta chia làm 30 tổ Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ thì mỗi hai năm được tính làm một tổ, gọi là Lục Thập Hoa Giáp. Mỗi hành có 6 tượng tương ứng, được gọi là nạp âm.

Bạn có biết Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp là như thế nào không?


ngu hanh nap am la gi
 
  Theo đó, ta có bảng ngũ hành nạp âm Lục Thập Hoa Giáp cụ thể như sau:   Giáp Tý, Ất Sửu: Hải Trung Kim – Vàng trong biển Bính Dần, Đinh Mão: Lô Trung Hỏa – Lửa trong lò Mậu Thìn, Kỷ Tị: Đại Lâm Mộc – Gỗ trong rừng Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ Bàng Thổ - Đất ven đường Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm Phong Kim – Sắt đầu kiếm   Giáp Tuất, Ất Hợi: Sơn Đầu Hỏa – Lửa đỉnh núi Bính Tý, Đinh Sửu: Giản Hạ Thủy – Nước dưới khe Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành Đầu Thổ - Đất đầu thành Canh Thìn, Tân Tị: Bạch Lạp Kim – Vàng trong nến Nhâm Ngọ, Quý Mùi: Dương Liễu Mộc – Gỗ dương liễu   Giáp Thân, Ất Dậu: Tinh Tuyền Thủy – Nước trong giếng Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc Thượng Thổ - Đất mái nhà Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích Lịch Hỏa – Lửa sấm sét Canh Dần, Tân Mão: Tùng Bách Mộc – Gỗ tùng bách Nhâm Thìn, Quý Tị: Trường Lưu Thủy – Nước sông lớn   Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim – Vàng trong cát Bính Thân, Đinh Dậu: Sơn Hạ Hỏa – Lửa chân núi Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình Địa Mộc – Cây đất bằng Canh Tý, Tân Sửu: Bích Thượng Thổ – Đất trên vách Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạch Kim – Vàng pha bạc   Giáp Thìn, Ất Tị: Phúc Đăng Hỏa – Lửa đèn lớn Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiên Hà Thủy – Nước sông trời Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Dịch Thổ – Đất rộng lớn Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim – Vàng trang sức Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang Đố Mộc – Gỗ cây dâu   Giáp Dần, Ất Mão: Đại Khê Thủy – Nước khe lớn Bính Thìn, Đinh Tị: Sa Trung Thổ – Đất trong cát Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên Thượng Hỏa – Lửa trên trời Canh Thân, Tân Dậu: Thạch Lựu Mộc – Gỗ thạch lựu Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đại Hải Thủy – Nước biển lớn  

2. Luận xét tính cách, vận mệnh con người theo ngũ hành nạp âm Kim

  Hành Kim gồm có 6 nạp âm: Hải Trung Kim, Kim Bạch Kim, Bạch Lạp Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim và Thoa Xuyến Kim. Người có ngũ hành nạp âm khác nhau thì lại có tính cách và vận mệnh khác nhau.  

Hải Trung Kim
 

Cổ thư có viết: “Giáp Tý, Ất Sửu thì Tý thuộc Thủy, nơi hồ ao thì Thủy vượng. Trong Kim cục thì Tử trong vòng tràng sinh nằm ở cung Tý và Mộ ở Sửu là chỗ Thủy vượng. Kim vào thế “Tử Mộ” cho nên mới gọi bằng Hải Trung Kim, ví như Kim nằm trong lòng biển, khí thế bị bao tàng có danh mà vô hình, có tiếng mà không có thực, nằm sâu trong lòng biển như thai nhi nằm trong lòng mẹ.”


ngu hanh nap am Hai Trung Kim
 
  Theo đó, tính chất của Hải Trung Kim gồm hai điểm chính như sau:    Có thể đoán được tâm tưởng như không thể hiểu rõ được tâm cơ, lòng người sâu tựa biển khó bề dò được, nếu cung Mệnh có những sao thủ đoạn mà lại nằm ở nạp âm Hải Trung Kim thì quyền lực càng tăng lên gấp bội.    Có năng lực nhưng thiếu tính chủ động, không làm được việc xông xáo tranh cướp cơ hội hay lợi danh, khó có thể tự mình làm nên mà phải nhờ người tiến cử mới dễ bề phát triển. Nếu cung bản mệnh có nhiều sao yếu, do dự thiếu dứt khoát mà mệnh lại rơi vào nạp âm Hải Trung Kim thì càng thiếu quyết đoán.    Nữ mệnh Hải Trung Kim không biết cách bộc lộ tình yêu, thường đem tình cảm giấu kín trong lòng.

Mời bạn đọc thêm: Xem bói tình yêu: Tự xem nhân duyên sinh khắc qua 30 cặp mệnh nạp âm (P1)
  Nếu xét về khả năng vượt qua nghịch cảnh thì Giáp Tý phần nào đấy mạnh hơn Ất Sửu. Người sinh năm Ất Sửu thường có khuynh hướng yếu đuối và nhu nhược, an phận thủ thường hơn.  

Kim Bạch Kim

  Cổ thư có dạy: “Nhâm Dần, Quý Mão là chất Kim còn lại ở đất Tuyệt nên khí chất nhu nhược, mỏng như tơ lụa. Kim Bách Kim là chất Kim dùng để trang trí, làm đồ trang sức, nếu vào tay người tài giỏi, có nghề chạm khắc thì mới hay mới đẹp.”


ngu hanh nap am Kim Bach Kim
 
  Nhâm Dần và Quý Mão thì Dần Mão là đất vượng của Mộc, mà Mộc vượng nên Kim suy. Theo Kim cục, vòng tràng sinh có Tuyệt đóng tại Dần và Thai ở Mão. Kim vô lực nên mới gọi là Kim Bách Kim. Mộc vượng có Kim suy nên sức yếu, mỏng manh yếu đuối.   Người có mệnh nạp âm Kim Bách Kim thì cần phải học hành rèn giũa mới mong thành tài, tầm sư học đạo mới làm nên cơ nghiệp. Bởi vậy Kim Bách Kim cần Xương Khúc, Hóa Khoa hiện ở Mệnh thì mới tốt.   Nhâm Dần thì Dần Mộc bị Kim khắc nên nằm ở thế yếu, tuy bề ngoài vượng nhưng chỉ là thứ vượng thịnh của dây cung bị căng lên quá mức, thiếu sự đàn hồi linh hoạt, lại có phần cố sức nên khi ứng phó với hung vận thì khó được bền sức bằng Quý Mão.    Quý Mão cũng bị Kim khắc như Nhâm Dần nhưng Âm Mộc sức khắc chế có giới hạn mà chủ kiến của bản thân lại mạnh nên tinh thần thép, hiệu quả hơn khi chống đỡ lại hung vận.  

Bạch Lạp Kim 


Cổ thư viết: “Chất Kim của Canh Thìn và Tân Tị, theo vòng tràng sinh của Kim cục thì Dưỡng ở Thìn, Tràng sinh ở Tị, hình chất mới thành mà chưa được cứng cáp nên gọi là Bạch Lạp Kim.”




ngu hanh nap am Bach Lap Kim
 
Bạch Lạp Kim được ví như viên ngọc thô, chưa được mài giũa. Người này tinh thần phóng khoáng, suy nghĩ thuần khiết, thiếu tâm cơ. Người mệnh Bạch Lạp Kim có hai con đường để lập thân: thứ nhất là thông qua học hành, lấy kiến thức chuyên môn để hành sự. Thứ hai là bươn trải cuộc đời, góp nhặt kinh nghiệm, như viên ngọc trải qua bao đau đớn, được mài giũa sáng bóng, về sau chờ thời vận mà chuyển mệnh.   Mệnh Bạch Lạp Kim, dù mệnh có sao tốt mà vận không chịu chuyên tâm hoặc bươn trải học hỏi thì sự nghiệp sẽ chẳng đi về đâu. Canh Thìn thì Thìn là Thổ chất, có thể sinh Kim. Trong khi đó Tân Tị có Tị Hỏa sẽ nung chảy Kim. Canh Thìn hào sảng, tâm ý kiên trung hơn, còn Tân Tị mưu kế đầy mình, nhiều xảo trá hơn.  

Sa Trung Kim

  Cổ thư có dạy: “Giáp Ngọ, Ất Mùi thì Ngọ là nơi Hỏa vượng, mà Hỏa vượng thì Kim bại. Mùi là nơi Hỏa suy, Hỏa tuy có suy yếu nhưng Kim cũng không còn được thế mạnh như ban đầu nên mới gọi bằng Sa Trung Kim. Kim không đủ cứng cáp để chém, để đẩy nên người mệnh Sa Trung Kim thường không đủ mạnh mẽ, làm việc thiếu dứt khoát, dễ bỏ cuộc giữa chừng, đầu voi mà đuôi chuột. Nếu trong mệnh cung mà có thêm sao Thiên Đồng thì càng thêm yếu đuối.”


ngu hanh nap am Sa Trung Kim
 
  Sa Trung Kim cần phải có mục tiêu theo đuổi rõ ràng, sau đó không ngừng cố gắng, hết sức kiên trì để theo đuổi mục tiêu đó thì mới có thể đạt được những gì mình muốn. Giáp Ngọ thì Ngọ Hỏa khắc Kim, khiến cho Kim mất đi khí thế. Ất Mùi có Mùi Thổ sinh Kim, trợ lực cho Kim nên Ất Mùi có khả năng chống đỡ khó khăn tốt hơn, linh hoạt hơn Giáp Ngọ.  

Kiếm Phong Kim

  Cổ thư có dạy: “Nhâm Thân, Quý Dậu thì Thân Dậu là chính vị của Kim cục, nằm ở vị trí Lâm quan và Đế vượng nên Kim ở đây già cứng, đủ dũng mãnh, được ví như mũi nhọn đầu lưỡi gươm, do đó gọi là Kiếm Phong Kim. Nhâm Thân, Quý Dậu nhờ thế mà khí thế cực thịnh.”


ngu hanh nap am Kiem Phong Kim
 
  Người mệnh Kiếm Phong Kim có tài năng nổi trội, tự mình thể hiện, phát huy tài năng của bản thân, có hành động nhanh nhạy và tư tưởng sắc bén. Hồng quang tỏa chiếu khắp nơi, ánh sáng rõ ràng như sương tuyết. Người này có chí hướng cao xa, ý chí kiên định, tâm tính tàn khốc, cương nghị và mẫn tuệ.   Nếu trong mệnh có sao tốt hội chiếu, thì nạp âm Kiếm Phong Kim như hổ mọc thêm cánh, nhất là theo đường binh nghiệp hay chính trị thì càng thêm vượng phát. Ngược lại, nếu mệnh cung xuất hiện nhiều hung tinh gây tai họa thì người này tính tình càng thêm hung bạo, cứng rắn, không ai có thể lay chuyển được.   Nhâm Thân và Quý Dậu ngũ hành đều thuộc Kim nên đều cứng rắn, mạnh mẽ, có khả năng chống đỡ vượt qua hung vận tương đương nhau.  

Thoa Xuyến Kim

  Cổ thư có viết: “Canh Tuất, Tân Hợi có Kim cục đến vị trí Tuất thì lâm Suy, mà qua Hợi thì thành Bệnh. Kim mà ở vị thế Suy Bệnh thì chẳng được cứng rắn như ban đầu mà ngày càng nhuyễn nhược nên mới gọi là Thoa Xuyến Kim. Thoa là cây trâm cài tóc của phụ nữ, Xuyến là vòng đeo tay. Thoa Xuyến Kim là đồ trang sức cho phụ nữ, sự cương mãnh của Kim bị ảnh hưởng bởi nữ giới nên trở nên mềm yếu, nhu nhược. Vì thế mà cái Kim của Tuất Hợi không hiển lộ mà ẩn tàng, hình thể vỡ vụn, được bỏ vào chiếc hộp ở chốn khuê phòng.”


ngu hanh nap am Thoa Xuyen Kim
 
  Người mệnh nạp âm Thoa Xuyến Kim nếu có cát tinh Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Thiên Lương, Hồng Đào, Hóa Khoa phò trợ thì dù nam hay nữ cũng đều được tốt đẹp bội phần. Nếu Mệnh có tính thâm trầm thì càng thêm trầm lặng, dù có tài nhưng cũng không biểu lộ ra ngoài. Nếu Mệnh có phần khoe khoang thì lòng ham hư vinh càng thêm rõ rệt.   Nam giới mà mệnh Thoa Xuyến Kim thì muốn thành công phải dựa vào phái nữ, cùng vợ chung sức làm ăn thì khả năng thắng lợi sẽ cao hơn. Người này cũng thích giao du với những người nữ thích đeo nữ trang hoặc buôn bán nữ trang.
Tuệ Minh

Học thuyết âm dương ngũ hành là gì? Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 1) Giải mã vận mệnh người tuổi Tân Tỵ theo Lục Thập Hoa Giáp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận đoán vận mệnh cuộc đời qua Ngũ hành nạp âm – P1: Hành Kim

Tài lộc của người tuổi Hợi theo từng tháng (P2)

So với tháng trước, tài lộc của người tuổi Hợi trong tháng 9 (tháng Tuất) lại có chiều hướng đi xuống.
Tài lộc của người tuổi Hợi theo từng tháng (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7 (Âm lịch)

Tài lộc trong tháng Thân của người tuổi Hợi có xu hướng tốt hơn so với tháng trước. Những khó khăn, trở ngại dần được giải quyết ổn thỏa. Tuy nhiên, họ vẫn còn một số áp lực trong công việc. Người này nên cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, đồng thời tự tin vào khả năng của bản thân để đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh.

Tháng 8 (Âm lịch)

Tháng Dậu, người tuổi Hợi có nhiều tài lộc may mắn. Thu nhập từ bên trong và bên ngoài khá dồi dào, những khó khăn trong công việc không còn, họ nhận được nhiều sự trợ giúp từ người khác. Tháng này, người tuổi Hợi nên nỗ lực phấn đấu để đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Mặt khác, người này cũng nên linh hoạt, khôn khéo trong giao tiếp và cách cư xử để thu hút được nhiều đối tác hơn.

Tháng 9 (Âm lịch)

Họ gặp phải những rắc rối khó giải quyết, công việc tiến triển chậm. Tháng này, người tuổi Hợi nên “biết mình biết ta”, phát huy hết những sở trường của mình cũng như khắc phục điểm yếu để xử lý mọi việc tốt hơn. Bên cạnh đó, người này cũng cần cân bằng lại tài chính để giảm thiểu tối đa những thất thoát không đáng có. Cuối tháng, tài lộc may mắn sẽ đến với họ.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Tháng 10 (Âm lịch)

Vận thế trong tháng 10 (tháng Hợi) của người tuổi Hợi có chiếu hướng tốt lên nhanh chóng. Người này được quý nhân phù trợ nên làm việc gì cũng suôn sẻ. Kế hoạch thường được hoàn thành trước thời hạn, thu nhập tăng cao. Họ được cấp trên tín nhiệm và có nhiều ưu thế hơn so với những đồng nghiệp khác. Thời gian này, người tuổi Hợi nên cố gắng nỗ lực hơn nữa để thu lại nhiều kết quả tốt hơn trong mọi lĩnh vực.

Tháng 11 (Âm lịch)

Theo xu hướng của tháng 10, vận thế và tài lộc của người tuổi Hợi phát triển tốt trong tháng Tý. Họ có thể vượt qua được những thử thách “cam go” nhất. Mọi tồn đọng đều được giải quyết triệt để. Tháng này, người tuổi Hợi còn thu được lợi nhuận lớn từ các hợp đồng kinh doanh bên ngoài. Họ nên chọn những đối tác đáng tin cậy để hợp tác lâu dài hơn.

Tháng 12 (Âm lịch)

Đầu tháng 12 (tháng Sửu), người tuổi Hợi có nhiều tài lộc may mắn. Họ tiếp tục ký kết được những hợp đồng kinh doanh có giá trị, nguồn thu nhập ổn định, tài chính được cân bằng. Tuy nhiên, cuối tháng 12, người tuổi Hợi gặp phải một số rắc rối nhỏ trong công việc. Họ nên bình tĩnh suy xét mọi việc để giải quyết thấu đáo, tránh làm việc theo cảm tính kẻo chịu nhiều thiệt hại hơn.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Hợi theo từng tháng (P2)

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ, những hậu quả mà nó mang lại cho chính ta và những người xung quanh ta.

Là một con người thì phải biết nghĩ, biết vận dụng trí óc và quyết định công việc đúng đắn. Chứ đừng làm xong rồi mới suy nghĩ, hối hận, lúc đó thì đã quá muộn.

Có những việc không cân nhắc kỹ mà đã làm rỗi thĩ khi đó hối hận cũng không còn có ích gì nữa. Có thể bạn hối hận cả đời người vẫn chưa thể bù đắp được. Và hãy rút kinh nghiệm và triết lý cho những việc làm sai trái trước đây của mình.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng sẽ là những câu danh ngôn hay cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta suy ngẫm.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

1. Người khăng khăng muốn thấy rõ mọi thứ trước khi quyết định sẽ chẳng bao giờ quyết định. Chấp nhận cuộc sống, và bạn phải chấp nhận sự hối hận.

2. Hối hận, quả trứng chết người mà lạc thú sản sinh.

3. Vinh quang xây trên nền ích kỷ là hối hận và xấu hổ.

4. Sự hối hận sau một cuộc chiến không cần thiết rất lớn.

5. Nhiệt tình là một tật bệnh thường mắc phải của tuổi trẻ. Bên trong nhỏ một ít thuốc hối hận, bên ngoài bôi một ít thuốc cao kinh nghiệm thì sẽ trị khỏi ngay.

6. Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều thêm hối hận, im lặng là nghệ thuật lớn lao của cuộc đàm thoại.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

7. Ai cũng có sai lầm, nhưng người ít khinh suất nhất là người mau hối lỗi nhất.

8. Đừng làm gì mình sẽ thấy hối tiếc.

9. Sự hối hận ngủ ngon trong thịnh vượng nhưng gọi dậy ý thức cay đắng trong khó khăn.

10. Một người chỉ có lý do để hối tiếc khi anh ta gieo hạt và không ai gặt.

Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để rút ra những kinh nghiệm, triết lý sống cho mình nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Khi thiết kế cửa hàng cần chú ý như thế nào? –

Tục lệ của con người đối với màu sắc được thể hiện ra, không phải chỉ là một loại thưởng thức màu sắc giản đơn mà là một loại vật chứa đựng, gửi gắm trong đó tình cảm của nhân loại, phản ánh được quan niệm, tín ngưỡng của dân tộc.     Vậy l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tục lệ của con người đối với màu sắc được thể hiện ra, không phải chỉ là một loại thưởng thức màu sắc giản đơn mà là một loại vật chứa đựng, gửi gắm trong đó tình cảm của nhân loại, phản ánh được quan niệm, tín ngưỡng của dân tộc.

 

171012 thuc an nhanh 2

 

Vậy là, trong khi thiết kế màu sắc cho dáng vẻ bên ngoài cửa hàng, thì phải chú ý xem sự hài hoà của nó với quan niệm nhận thức truyền thống của con người với màu sắc, phải khiến cho con người tiếp nhận màu sắc bên ngoài kiến trúc cửa hàng. Đương nhiên, theo sự phát triển của văn hoá hiện đại, yêu cầu của con người đối với màu sắc cũng sẻ có những thay đổi.

Như vậy, một người kinh doanh cửa hàng phải chủ động đáp ứng những nhu cầu mới của con người đối với màu sắc, lấy sự tươi mới, sức sống, mỹ cảm từ màu sắc để thu hút khách hàng, đạt được mục đích kinh doanh tiêu thụ hàng hoá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi thiết kế cửa hàng cần chú ý như thế nào? –

Cơ Nhật đồng liên nữ nhân bất túc

Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng. Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở.
Cơ Nhật đồng liên nữ nhân bất túc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền . Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp.

Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên. Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão.

Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ Nhật đồng liên nữ nhân bất túc

Chuyện tử vi

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những cách có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm; mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng. 

Tránh số và giữ được tiền

Chính bản thân người viết có một lá số Tử vi dở ẹc tại cung Tài bạch. Đã chẳng có Thiên Phủ, Lộc tồn…lại đèo bòng cặp Đại hao, Tiểu hao to tổ bố. Cái đó có nghĩa là kiếm được bao nhiêu, tiêu hết bấy nhiêu.

Mấy ông thầy Tử vi đều bảo kiếm khá lắm đấy và có cái đặc biệt là hết tiền rồi lại có ngay chứ không bị thiếu. Nhưng hễ có rồi lại có chuyện mà phải tiêu đi hết. Như có nhiều thì lại gặp chuyện phải tiêu sài nhiều mà hết…

-Nhưng nếu như tôi ráng không sài thì có được không?

-Đâu có được. Có cái chuyện nó bắt phải sài. Mình cố giữ để không sài mà không được. Song hao ở mão dậu đây là “chúng thủy triều đông” kiếm tiền khá lại tiêu nhiều, tránh không khỏi.

Mà thật nghiệm ra trong chung thân cuộc đời có những cái thật đúng như những lời giải đoán.

Tiền hết lại có, và có đều đều mất việc này lại có việc khác. Cứ kiếm ăn đều đều, và chi phí đều đều chuyện cơm nước, thì chẳng có biến cố nào trong đời buộc mình phải tiêu sài. Nghĩ lại như vậy lại hóa sướng, nghĩa là đỡ lo. Còn như có được món tiền khá, là tự nhiên có việc phải sài, có khi lại tai bay vạ gió nữa. Một lần có được món tiền, cả nhà sanh đau ốm. Một lần khác kiếm được món tiền khá, sanh rắc rối chốn công môn về chuyện chánh trị, thế là tiêu hết.

Và nếu cứ như vậy thì chẳng có cách nào để dành tiền mua được căn nhà hoặc tạo được cái nhà in hay cái trường nho nhỏ. Nhưng một bữa được cụ Hoàng Hạc cho hay cái vụ cải số để có một căn nhà ở yên lành (câu chuyện đã được thuật trong kỳ trước), chúng tôi bèn về nghiền ngẫm lại lá số của mình và các con. Có đứa con gái có cung Tài bạch giữ được tiền… thế là từ đó, mỗi khi kiếm được tiền dư, ngoài số tiền ăn hàng tháng, giao hết cho nó giữ. Quả nhiên, tiền giao cho nó giữ là không bị hao hụt, không bị những biến cố đến làm mình phải tiêu tiền. Nhờ giữ được đồng tiền mà dần dần đủ sức để mua một căn nhà.

Còn cái cộng nghiệp mà không được quên…

Tôi còn nhớ cụ Hoàng Hạc trong một cuộc thảo luận chỉ cho tôi thấy cái sự quan trọng của cộng nghiệp. Một lá số Tử vi không thể là một cái sự bất di bất dịch để cứ thấy sao là đoán như vậy còn phải tham bác cho rộng rãi sang đến phụ mẫu đến vợ chồng, con cái mà luận đoán về vận mạng và hạnh phúc con người. Nếu cứ đúng theo cung mạng Thân, Tài, Điền mà luôn đoán thì e rằng sai lầm. Cái điều này cũng phù hợp phần nào với chuyện cải số;

Có một ông lắc đầu lè lưỡi mà bảo rằng số trời thật là khủng khiếp an bài ra sao là đúng như vậy, ông kể

Thuở thanh niên, tôi thương một người con gái. Hai người giao kết với nhau. Cha mẹ hai bên cũng thuận nhận. Ấy thế mà vì một biến cố thật đặc biệt, hai bên không lấy được nhau là vì người con gái bị một kẻ oai quyền bức bách phải lấy hắn. Chỉ 2 năm sau, tên oai quyền đó lăn ra chết. Thế có phải là tại số tôi sống lâu và tại số cô đó góa chồng sớm mà thành ra Trời không se duyên chăng ?

-Thưa cụ: rất có thể như vậy

-Tôi xây dựng mối duyên khác. Cũng đến lúc sắp cưới thì cô gái bị chuyện bức bách mà chắp duyên với kẻ khác. Rồi vài năm sau, cô ấy mất. Thế chẳng phải là vì tôi không có số góa vợ và cô ấy không có số sống lâu, mà Trời không se duyên.

-Nhưng thưa cụ, số Tử vi có ghi như vậy?

-Có rõ ràng. Số tôi sống lâu và không thể góa vợ sớm, đường vợ con hoàn hảo. Còn số cô thứ nhất kia thì góa chồng sớm. Và số cô thứ hai thì đúng là yểu lạ thật chứ.

-Nhưng, thưa cụ, cũng có những sự kiện khiến hai vợ chồng ăn ở được với nhau lâu dài mà hai lá số không thật sự phù hợp với nhau. Tôi có được gặp cụ Hoàng Hạc chỉ dẫn cho về cái cộng nghiệp để đoán số Tử vi. Chỉ một cung tốt cũng tốt.

Và tôi đã kể lại những vụ đoán trúng phóc của cụ Hoàng Hạc, những lá số như còn ghi trong đầu óc.

Lá số của một cụ…mà nhìn vào cung Mạng, cung Tài, cung Điền, cung Quan lộc, là trông thấy tất cả sự nghèo hèn. Ông cụ khổ cả một đời, những ông thầy tử vi không thể đoán khác.

Cụ Hoàng Hạc, cách đây hơn chục năm, đã được ông Cụ nhờ coi lá số tử vi. Cụ Hoàng Hạc thấy cung Tử tức của lá số tốt quá đã quyết đoán rằng ông Cụ không thể suốt đời nghèo khổ:

-Cụ có con tốt, làm nên và lại có biến, thì làm sao cụ khổ mãi được. Sẽ có một đứa con lo hết cho hai Cụ.

Ông cụ còn bán tín bán nghi, vì đứa con mà Cụ thương nhất mà tánh tình của nó thì còn lang bạt kỳ hồ nơi hải ngoại, chưa nên danh phận. Ấy thế mà chỉ mấy năm sau, nó bỗng về nước, làm to, rồi tậu nhà cho hai cụ ở, và chăm lo mọi chuyện cơm nước. Hai cụ chẳng cần phải lo chi hết, dù rằng không phải là hai cụ nắm quyền.

Cộng nghiệp giữa hai vợ chồng

Và rồi cụ Hoàng Hạc chỉ cho tôi về việc quyết đoán về một cuộc đời không thể nhất thiết là sang hèn giầu nghèo theo các cung Mạng Thân Tài bạch,…mà phải coi đủ 12 cung. Cung nào cũng có phần quan trọng của nó, cung nào cũng có phần ảnh hưởng lớn của nó vào cuộc đời. Dù là Mạng Thân báo trước một cuộc đời hành khất nhưng được một cung tốt, chưa chắc gì dã phải sống hành khất.

Tôi mới nói:

-Phải rồi. Như sách vốn nói, xem số đàn bà quan trọng bậc nhất là cung phu. Bởi vì đàn bà thì vốn nhờ chồng, cung phu mà tốt là tốt.

-Nhưng ngược, đàn ông cung Thê mà tốt thì cũng tốt lắm nghe.

-Ủa, như vậy sao, thưa Cụ?

-Thì tại vợ chồng cuộc đời ra sao, là phải hai số hiệp lại. Thiếu gì người nhờ vợ mà sung sướng.

-Cũng như muốn biết số con bao nhiêu, phải coi số của cả hai vợ chồng mà đoán. Người có nhiều con, người có ít con, đem cộng lại mà chia đôi.

Cụ giải thích thêm:

- Các cung khác cũng vậy. Như số người chồng thật giầu và số người vợ thật nghèo, hoặc ngược lại, thì cũng cộng lại với nhau mà chia đôi ra để được biết về tài lộc của hai vợ chồng ra sao.

trích đăng (KHHB số 3)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tử vi

Nháy mắt phải (Giật mắt phải) là điềm gì –

Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì Nháy mắt phải, nháy mắt trái là một hiện tượng rất bình thường của cơ thể. Song nếu nháy mắt phải liên tục thì bạn cần xem xét kỹ, có thể mắt bạn đang gặp vấn đề hoặc đây là điềm báo dự đoán về tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nội dung

  • 1 Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì
  • 2 Nháy mắt phải theo giờ:
    • 2.1 NHÁY MẮT PHẢI KHUNG GIỜ 23 GIỜ ĐẾN 1 GIỜ
    • 2.2 NHÁY MẮT PHẢI TỪ KHUNG GIỜ TỪ 1 GIỜ ĐẾN 3 GIỜ
    • 2.3 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 3 GIỜ ĐẾN 5 GIỜ
    • 2.4 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 5 GIỜ ĐẾN 7 GIỜ
    • 2.5 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 7 GIỜ ĐẾN 9 GIỜ
    • 2.6 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 9 GIỜ ĐẾN 11 GIỜ
    • 2.7 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 11 GIỜ ĐẾN 12 GIỜ
    • 2.8 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 13H-15 GIỜ
    • 2.9 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 15 GIỜ ĐẾN 17 GIỜ
    • 2.10 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 17 GIỜ ĐẾN 19 GIỜ
    • 2.11 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 19 GIỜ ĐẾN 21 GIỜ
    • 2.12 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 21 GIỜ ĐẾN 23 GIỜ

Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì

Nháy mắt phải, nháy mắt trái là một hiện tượng rất bình thường của cơ thể. Song nếu nháy mắt phải liên tục thì bạn cần xem xét kỹ, có thể mắt bạn đang gặp vấn đề hoặc đây là điềm báo dự đoán về tương lại. Nếu như dự đoán về tương lai thì đó là cái gì? Hãy cùng nghiên cứu những dự đoán tâm linh về hiện tượng nháy mắt phải này nhé!

210213vanhoamidu13danviet

Nháy mắt phải theo giờ:

NHÁY MẮT PHẢI KHUNG GIỜ 23 GIỜ ĐẾN 1 GIỜ

Nháy mắt phải trong khoảng thời gian này dự đoán bạn sắp có rượu thịt, ăn uống. Vì vậy, hãy lên tinh thần cho những bữa tiệc ngon – vui vẻ nhé!

Điềm báo sắp có rượu thịt ăn uống
Điềm báo sắp có rượu thịt ăn uống

NHÁY MẮT PHẢI TỪ KHUNG GIỜ TỪ 1 GIỜ ĐẾN 3 GIỜ

Có thể khoảng thời gian này bạn đang có người thân nhắc nhở, trách móc bạn hoặc chỉ cho bạn những lời khuyên hữu ích. Do đó, hãy xem thời gian này bạn và người thân nào đã lâu không gặp, thì hãy lên lịch ngay để gắn kết tình cảm thêm nhé!

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 3 GIỜ ĐẾN 5 GIỜ

Nháy mắt phải trong khoảng thời gian này rất có thể sắp có tin tốt lành từ công việc, cuộc sống. Vì vậy, hãy vui vẻ và đón nhận tin tốt lành đó.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 5 GIỜ ĐẾN 7 GIỜ

Nếu bạn nháy mắt phải liên tục trong khung giờ này, thì xin chúc mừng tài lộc có thể sẽ đến với bạn trong hôm nay.

cay-da-quy-tai-loc-phong-thuy-cdq0002

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 7 GIỜ ĐẾN 9 GIỜ

Nháy mắt trong khoảng thời gian này hãy cẩn thận lời ăn tiếng nói, đề phòng có thể liên quan đến kiện tụng. Hãy tránh xa chúng để không tốn thời gian và kinh phí của mình nhé!

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 9 GIỜ ĐẾN 11 GIỜ

Nếu như nháy mắt trong khung giờ này đề phòng có kẻ gây chuyện dễ xảy ra xô xát. Bạn nên tránh xa những chuyện này nhé!

20160104-xo-xat-do-mau-tai-chung-cu-era-town-giua-sai-gon-1

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 11 GIỜ ĐẾN 12 GIỜ

Nháy mắt phải nhiều vào khung giờ này thì cần chú ý đi lại để tránh tai nạn hoặc mất của.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 13H-15 GIỜ

Có thể công việc gì đó cần bạn giải quyết khiến hao tài một chút nhưng không đáng kể.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 15 GIỜ ĐẾN 17 GIỜ

Nếu như bạn chưa có người yêu thì đây có thể là tin mừng dành cho bạn. Có người khác giới đang  nhớ đến bạn.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 17 GIỜ ĐẾN 19 GIỜ

Đây là tin tốt lành cho bạn, sẽ có bà con ở xa tới thăm và mang đến nhiều điều bất ngờ dành cho bạn.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 19 GIỜ ĐẾN 21 GIỜ

Nếu như bạn cảm thấy mệt mỏi và muốn đi chơi một chuyến thì điềm báo nháy mắt này sẽ làm bạn hài lòng. Nó cho biết sắp có người rủ bạn đi du lịch.

download

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 21 GIỜ ĐẾN 23 GIỜ

Đến giờ nghỉ ngơi rồi mà bạn vẫn bị nháy mắt phải liên tục thì hãy cẩn thận trong những ngày sắp tới, có thể chuyện rắc rối về lời ăn tiếng nói ập tới bạn.

Máy mắt phải thường có nhiều báo hiệu xấu hơn so với nháy mắt trái. Đây là những điềm báo khi giật mắt trái.
Trên đây là những kinh nghiệm dân gian đã được nhiều người cùng đúc rút lại và chỉ mang tính tham khảo, không hoàn toàn đúng.
Tuy nhiên, xưa nay chúng ta vẫn không bao giờ dám phủ nhận các điềm báo sẽ có thể trở thành sự thật. Do đó, các bạn cũng nên cẩn thận khi có các hiện tượng xảy ra. Đây là toàn bộ thông tin chi tiết về hiện tượng nháy mắt phải

Vì sao mắt bị giật?

Nếu nhìn dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học cho rằng, nháy mắt – mắt giật giật liên tục và làm cho bạn cảm thấy khó chịu hoặc lạ, thường do các nguyên nhân sau:

  1. Căng thẳng
  2. Do dùng nhiều caffeine hoặc rượu
  3. Cơ thể thiếu hụt khoáng chất
  4. Mắt bị khô (điều này dễ tin hơn)
  5. Căng mắt
  6. Thiếu ngủ – mất ngủ
Một số nguyên nhân khác: Cũng có khi mắt bạn co giật là dấu hiệu cảnh báo của tình trạng hạ đường huyết, bệnh parkinson, hội chứng Tourette và rối loạn các chức năng thần kinh. Nếu kéo dài nhiều ngày thì phải đi khám mắt.Trên đây chỉ là những thông tin tham khảo về hiện tượng mắt phải giật liên tục. Vì chỉ là hiện tượng tâm linh nên có thể đúng hoặc không. Bạn cũng không cần phải quá lo lắng về những điềm báo xấu và chúc bạn tận hưởng trọn vẹn điềm báo vui nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nháy mắt phải (Giật mắt phải) là điềm gì –

Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo

Tháng 7 tháng của tâm linh, Rằm tháng 7 là ngày lễ Vu Lan, ngày Phật hoan hỉ hay ngày tăng tư tứ.
Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ram Thang 7 ke chuyen Le Vu Lan cua Phat giao hinh anh 2
 
Lễ Vu Lan ngày Rằm Tháng 7 gắn với tích Vu Lan báo hiếu đã quá quen thuộc với những người theo Phật, hướng Phật. Nhưng ngoài ra, ngày này còn là dịp để cử hành việc siêu độ các đời Phật, xưng là lễ Vu Lan, còn gọi là Vu Lan bồn lễ, Vu Lan bồn trai, Vu Lan bồn cung.   Duyên phận hình thành ngày lễ này là câu chuyện của Phật tử Mục Kiền Liên Tôn Giải. Ngài thấy mẹ mình bị đầy xuống địa ngục thành quỷ đói khổ sở thì không đành lòng nên thỉnh Đức Phật chỉ bày phương pháp cứu tế. Phật hướng dẫn Tôn Giải ngày 15/7 âm lịch hàng năm bày lễ cơm canh hoa quả để cung dưỡng thập phương tứ tự tăng chúng, hóa giải tai ách, giúp mẫu thân vượt qua nghiệp chướng khổ đau, được hưởng phúc lành.   “Vu Lan bồn kinh” có viết: “Phật tử là người hiếu thuận, một lòng ứng niệm cho phụ mẫu. Ngày 15/7 âm lịch hàng năm thường lấy đức hiếu sinh cha mẹ mà làm lễ Vu Lan bồn cho Phật và tăng để đền đáp công ơn dài rộng của cha mẹ”. “Phật Tổ thống kỷ” có ghi: “Trong ngày Vu Lan hãy cúng dường tam bảo để loại trừ đói khổ đớn đau”.   Tục thả đèn hoa đăng trong lễ Vu Lan bắt đầu có từ thế kỉ thứ 6, mang ý nghĩa xá độ vong linh, cúng tế tổ tiên, xua đuổi tai họa bệnh tật, khẩn cầu bình an cát tường. Từ đó về sau, nghi lễ này trở thành một phần không thể thiếu trong ngày Rằm tháng 7.
Ram Thang 7 ke chuyen Le Vu Lan cua Phat giao hinh anh 2
 
Phật giáo cũng nhấn mạnh rằng, ngày này là Vu Lan bồn trai, tức ngày tốt để trai giới thanh tịnh, tu tập hướng Phật, phúc gấp trăm lần. Một bên phụng hiền thánh, một bên tế quỷ đói, xoa dịu cái ác tôn vinh cái thiện, là ngày lễ có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.   Ở một số nơi theo Phật giáo truyền thống, ngày này sư tăng không được ra ngoài mà phải tĩnh tọa nơi yên tĩnh, chuyên tâm tu tập. Ngày rằm trăng tròn viên mãn, được coi là ngày mà trời đất giao hòa, tinh hoa phát tiết, nếu có thể tiến tu hướng Phật nhất định có kết quả ngoài mong đợi.   Không chỉ được tổ chức ở các chùa, ngày nay hầu hết mọi nhà đều tổ chức lễ cúng Rằm Tháng 7 tại gia với mong muốn vui vầy chúng sinh, nhớ ơn tổ tiên, cầu bình an cho toàn gia, xua đuổi ngạ quỷ và những linh hồn lưu vong khỏi tới quấy nhiễu.    Ngày này, Phật tử, người tín Phật cũng nên tới chùa làm lễ hoặc đọc kinh tại nhà, sẽ giúp tâm hồn rộng mở, ánh trăng soi tỏ, gần hơn với những giá trị sâu sắc và tốt lành của Phật học.
 
Ngày Song Thập cúng cơm mới Tết Hạ Nguyên Cúng rằm tháng 7 thế nào để không bị vong theo? Thực sự có ma quỷ trong tháng 7 âm lịch?
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo

Ý nghĩa phong thủy của hoa Nguyệt Quý –

Nguyệt Quý thuộc họ với Tường Vi, do hơn 15 loại Tường Vi được lai ghép ra nhiều chủng loại khác nhau. Trung Quốc cũng có hơn 600 loài hoa Nguyệt Quý này, hoa nở rất lâu, nên còn có tên là nguyệt Nguyệt hồng. Trong "Quần phương phổ" có nói Nguyệt Quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyệt Quý thuộc họ với Tường Vi, do hơn 15 loại Tường Vi được lai ghép ra nhiều chủng loại khác nhau. Trung Quốc cũng có hơn 600 loài hoa Nguyệt Quý này, hoa nở rất lâu, nên còn có tên là nguyệt Nguyệt hồng.

tải xuống

Trong “Quần phương phổ” có nói Nguyệt Quý là “giục nguyệt nhất khai, tử thời bất tuyệt”. Trong bài thơ “Nguyệt tiết hoa” của Dương Vạn Lý có viết: “Chi đáo hoa vô thập nhật hổng, tử hoa vô nhật bất xuân phong”. Nguyệt Quý vốn được trồng ở Trung Quốc, theo kể rằng: Những năm 80 của thế kỷ 18, Nguyệt Quý đã qua Ấn Độ để đến châu Âu, khi đó có chiến tranh Anh – Pháp, để cho loài hoa Nguyệt Quý do Trung Quốc nhập vào Pháp an toàn do Anh chuyển, hai bên đã đàm phán hoà bình, để bảo vệ loài hoa này.

Người dân Anh đến ngày nay đã coi nó là Quốc hoa, ở các thành phố như Thiên Tân, Thường Châu của Trung Quốc cũng đã coi Nguyệt tiết hoa là bông hoa của thành phố. Bởi vì, Nguyệt hoa bốn mùa đều nở hoa cho nên ngiười dân coi nó như sự tường thuỵ (may mắn), có ý nghĩa “tứ tiết bình an”. Nguyệt Quý và thiên trúc kết hợp lại thành ý nghĩa “tứ tiết thường xuân”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của hoa Nguyệt Quý –

Cách dọn bàn thờ để không phạm phong thủy

Trước khi dọn bàn thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên. Sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn bàn thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau đây là cách dọn bàn thờ theo phong thủy và mang lại may mắn:

don-dep-ban-tho-ngay-tet

Phần quan trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, do đây là nơi được coi là nơi linh thiêng, ngày thường không được tùy ý động chạm di chuyển mà chỉ lau chùi sạch sẽ, người xưa cho rằng nếu xê dịch sẽ làm kinh động đến chỗ của thần, thần không được an vị thì không muốn ở lại lâu, không chăm sóc cho nhà mình được. Ngày nay do thời gian có hạn hoặc một số kiêng kị không được lưu truyền trong dân gian nên không còn nhiều người biết cách dọn bàn thờ theo phong thủy và mang lại may mắn như phong tục cổ nhân.

Trước khi dọn ban thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn ban thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc. Sau đó gia chủ chuẩn bị một chiếc bàn bên trên trải vải hoặc giấy đỏ để đặt bài vị, nếu bàn thờ có đặt chung bài vị gia tiên với các thần thì phải để ra hai chỗ khác nhau, không được lẫn lộn. Đợi sau khi hương cháy hết rồi mới bắt đầu công việc.

Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Người xưa quan niệm như vậy là bất kính, mạo phạm với thần Phật, thần Phật có ngôi vị cao hơn nên dễ khiến tổ tiên bị chèn ép.

Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng, ngày nay đa phần mọi người đều rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây “tán tài”, vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rồi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên.

Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ thần phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiền vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiền vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là “ra nhỏ vào lớn”, ý là “tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ”, nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là “vào nhỏ ra lớn”, tức “tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít”.

Ngày nay có nhiều người đem tro bát hương đổ cũ ra sông, thay vào bát hương tro mới, nhưng người xưa thì dùng chiếc rổ mắt nhỏ để lọc tro cũ, lọc xong lại đổ vào bát hương chứ không đổ đi. Việc lọc tro cũng phải bắt đầu từ bát hương thờ thần phật.

Sau khi lau rửa sạch sẽ, người ta sẽ đem bài vị thần Phật và tổ tiên đặt lại chỗ cũ và công đoạn này cũng rất phức tạp. Trước hết phải chuẩn bị một chiếc lò nhỏ trong có đốt than hoa, đặt dưới bàn thờ khoảng 15 phút, sau đó đốt bảy tờ tiền vàng làm dấu hơ ở bốn hướng trên dưới trái phải, ý là dùng lửa để khai quang, làm sạch, tiền vàng chưa cháy hết thì bỏ vào lò than hoa.

Đốt tiếp bảy tờ tiền vàng làm sạch vị trí muốn đặt tượng/bài vị thần Phật và bát hương sau đó mới đặt các đồ vật vào vị trí cố định. Sau khi đặt xong thì đốt 12 que hương cắm theo thứ tự hướng thời gian, que thứ nhất cắm ở vị trí 1h, khi cắm thì đọc “niên niên thị hảo niên”, tức mỗi năm đều là năm tốt; que thứ hai cắm ở vị trí 2h, khi cắm đọc “nguyệt nguyệt thị hảo nguyệt”, tức mỗi tháng đều là tháng tốt; cây thứ ba cắm ở vị trí 3h, khi cắm đọc “nhật nhật thị hảo nhật”, tức mỗi ngày đều là ngày tốt; cây thứ tư cắm ở vị trí 4h, khi cắm đọc “thời thời vị hảo thời”, tức mỗi giờ đều là giờ tốt; cứ tuần tự như vậy cho đến thời điểm vị trí 12h. Các vị trí bài vị, bát hương của tổ tiên và bà tổ cô cũng làm như vậy.

Trên đây là tập tục của người xưa ghi chép lại trong các thư tịch cổ, những công việc tỉ mỉ khi chăm sóc bàn thờ gia tiên cũng là cách để tăng thêm phần không khí ngày Tết. Nhưng ngày nay, do cuộc sống bận rộn nên không hẳn tất cả những tập tục trên còn phù hợp dọn bàn thờ theo phong thủy. Xin nêu lại tập tục cổ nhân như một cách để bạn đọc tham khảo, thêm phần hiểu biết về phong tục tập quán của người xưa trong những ngày xuân đang tới với hi vọng mọi người sẽ gặp những may mắn mới, thành công mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách dọn bàn thờ để không phạm phong thủy

Tử Vi đầu số qua truyền thuyết dân gian –

Tử vi là gì ? Tử vi nghĩa là hoa tường vi màu đỏ thẫm (tử : màu đỏ tía – vi : tường vi hoa). Từ cổ đại giống người thuộc phía Bắc sông Hoàng Hà dùng hoa màu đỏ để chiêm bốc. Hình ảnh việc chiêm bốc ấy giống hệt như chuyện Quỷ Cốc trước khi cho Tôn Tẩ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi là gì ?

Tử vi nghĩa là hoa tường vi màu đỏ thẫm (tử : màu đỏ tía – vi : tường vi hoa). Từ cổ đại giống người thuộc phía Bắc sông Hoàng Hà dùng hoa màu đỏ để chiêm bốc. Hình ảnh việc chiêm bốc ấy giống hệt như chuyện Quỷ Cốc trước khi cho Tôn Tẩn, Bàng Quyên xuống núi vào đời tranh đấu bảo mỗi người ngắt một cành hoa tường vi đưa lên thầy. Xem hoa phân âm dương Quỷ Cốc tiên sinh đã đoán biết trước vận mạng Tôn Tẫn bị bao nhiêu năm điêu linh cùng cực đến nỗi phải giả điên, ăn cả cứt heo mới thoát khỏi tay tên phản bạn lừa thầy Bàng Quyên. Trải qua nhiều đời, Tử vi chiêm bốc chuyển thành toán mệnh phương pháp. Phương pháp này đặt Tử Vi làm tên một ngôi sao đi tiếp với 13 sao nữa là :

tl-tu-vi-2

Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Rồi chia đời người ra làm mười hai cung là các cung:

– Mệnh, Huynh đệ, Phụ mẫu, Tử tức, Quan lộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Nô bộc, Điền trạch, Phúc đức.

Mười bốn chính tinh tuân theo một cách tính có sẳn căn cứ vào giờ, ngày tháng, năm sinh mà an vào mỗi cung. Sao nào ở cung nào sẽ tiên đoán việc gì đó sẽ xảy ra cho đời người.

-Ví dụ (đơn giản) : Cung Phu thê (vợ chồng), được hai sao Thái Âm, Thái dương thì người đàn ông hay đàn bà sẽ có một hôn nhân tốt. Trái lại, nếu thấy có sao Liêm trinh ở cung Phu Thê thì sẽ bị người khác phái lừa dối.

-Ví dụ (đơn giản) : cung Tài bạch có sao Vũ Khúc tất tiền bạc rồi rào, nếu cung này gặp sao hung, hẳn nhiên sẽ vất vả nghèo khổ.

-Ví dụ (đơn giản) : Trên trần thế biết bao nhiêu bách triệu phú  ông mà vẫn sống trong cảnh u sầu. Tại vì có hung tinh nằm ở cung Phúc Đức.

Mười bốn vị chinh tinh thực ra chỉ là những ký hiệu cho một bài toán,bài toán đời người…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi đầu số qua truyền thuyết dân gian –

Phong thuỷ phòng tắm và những điều cần lưu ý

Thiết kế kiến trúc hiện đại phần lớn tập trung nhà vệ sinh và phòng tắm vào làm một gian, bởi vậy xin được đem 2 vế hợp nhất để đàm luận về phong thuỷ.Theo lý luận phong thuỷ truyền thống, đối với cát hung nghi kị của nhà vệ sinh, ngoài chỉ ra phương pháp tránh hung,thì những điều khác rất ít được nhắc đến, bởi vậy mà sinh ra rất nhiều cách nói. Rốt cuộc nhà vệ sinh nhà tắm có những điểm nào cần được chú ý?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiết kế kiến trúc hiện đại phần lớn tập trung nhà vệ sinh và phòng tắm vào làm một gian, bởi vậy xin được đem 2 vế hợp nhất để đàm luận về phong thuỷ.
Theo lý luận phong thuỷ truyền thống, đối với cát hung nghi kị của nhà vệ sinh, ngoài chỉ ra phương pháp tránh hung,thì những điều khác rất ít được nhắc đến, bởi vậy mà sinh ra rất nhiều cách nói. Rốt cuộc nhà vệ sinh nhà tắm có những điểm nào cần được chú ý?

Phong thuỷ phòng tắm và những điều cần lưu ý

Phong thuỷ phòng tắm và những điều cần lưu ý
- Nhà vệ sinh không nên nằm ở hướng Tây Nam, Đông Bắc hoặc Nam.
– Không nên đặt ở trung tâm căn nhà.
– Không nên sửa thành phòng ngủ.
– Không nên đặt ở hướng hung, nên đặt ở hướng cát.
– Địa điểm nhà vệ sinh nên ở chỗ khuất.
– Nên duy trì sạch sẽ vệ sinh.
– Nên duy trì không khí lưu thông.

Phương vị nhà vệ sinh không tốt cần cải tạo như thế nào?
Theo phong thuỷ nhà ở mà nói, hung tướng mà nhà vệ sinh dẫn đến là vô cùng nguy hại. Đặc biệt là ở hướng Bắc của nhà ở, hoặc ở hướng Đông Bắc (còn gọi là hậu quỷ môn) mà đặt nhà vệ sinh, thì sẽ dẫn đến kết quả không hay. Để cho nhà vệ sinh át được hung tướng, thì tốt nhất bạn nên đặt nó ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phương vị Đông (xét từ trung tâm của căn nhà). Đồng thời, cũng cần phải tránh phương vị xung khắc với tuổi của nam nữ chủ nhà.
Nếu như nhà vệ sinh ở hướng Bắc hoặc phương vị Đông Bắc, nhất thiết phải chuyển sang vị trí khác. Chỉ cần tránh trung tâm Bắc 15 độ (phạm vi của Tử). Hướng Đông Bắc, thì chỉ cần tránh Bắc Đông 15 độ (phạm vi của Sửu) và trung tâm Đông Bắc 15 độ (phạm vi của Cấn). Nếu như cả nhà vệ sinh đều nằm ở phương vị Bắc hay Đông Bắc, chỉ cần di dời vị trí của bồn cầu đến phương vị cách đó 15 độ là được. Nếu như bồn cầu thuộc phạm vi này, thì chỉ cần di dời bồn cầu chứ không cần xây lại nhà vệ sinh.
Ngoài phương vị Bắc, Đông Bắc, phương vị Tây Nam cho nhà vệ sinh cũng thuộc hung tướng. Nếu cần di dời, chỉ có thể dời từ hướng Tây Nam sang Tây Bắc.
Nhà vệ sinh thuộc hướng Tây cũng không tốt lắm, có điều chỉ cần không phải là người tuổi Dậu, hoặc không có phụ nữ đang chuẩn bị kết hôn thì không cần phải lo lắng. Người cầu toàn thì có thể di dời bồn cầu đến Tây Bắc (phạm vi Nhâm hoặc Quý).
Không nên có nhà vệ sinh phía Nam, ảnh hưởng đến vận khí. Nếu như có, tốt nhất dời đến phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc. Không được thiết kế nhà vệ sinh gần khu thờ cúng, không thì sẽ biến thành hung tướng.
Nhà vệ sinh không được đặt ở trung tâm căn nhà
Có 3 nguyên nhân. 1 là, theo “lạc thư” có viết thì phương vị trung tâm thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh thuộc Thuỷ, nếu đặt ở vị trí trung tâm sẽ phát sinh Thổ khắc Thuỷ. 2 là, không khí và nước ô nhiễm từ nhà vệ sinh từ trung tâm lan ra các phòng. 3 là, trung tâm của căn nhà cũng như trái tim con người, tim mà bị ô nhiễm, thì còn có thể gọi là “cát trạch” không?

Phòng ngủ cải tạo từ nhà vệ sinh cũ:
Bởi vì người đông đất chật, nhiều gia đình sửa nhà vệ sinh thành phòng ngủ. Mặc dù tiết kiệm được không gian nhưng lại phạm phải sai lầm phong thuỷ, nghiêm khắc mà nói thì không hợp vệ sinh. Nhà vệ sinh là không sạch sẽ, cần phải tránh nằm gần kề phòng ngủ, càng không thể sửa thành phòng ngủ. Như vậy căn bản không phù hợp yêu cầu vệ sinh, thuỷ hoả bất dung.
Nhà vệ sinh không nên nằm ở hướng Nam. Điều này có liên quan đến phương vị bát quái, phương Nam là Li quái, ngũ hành thuộc Hoả, còn nhà vệ sinh lại thuộc Thuỷ. Nhà vệ sinh hướng Nam, khắc chế Hoả địa, cũng như là Bát tự của người xung khắc Lưu niên Thái Tuế, bởi vậy không may mắn. Bạn có thể tham khảo thêm cách thiết kế phong thủy phòng ngủ có lợi cho sức khỏe và vận thế.

Hướng nhà không nên cùng hướng bồn cầu
Ví dụ cửa chính căn nhà hướng Nam, thế thì hướng của bồn cầu không được hướng Nam, không thì dễ sinh bệnh cho chủ nhà. Trước mắt chưa có cuộc điều tra rõ ràng về vấn đề này, nhưng tránh được thì nên tránh.

Nhà vệ sinh không nên nằm ở cuối hành lang
Nếu như nhà bạn có hành lang tương đối dài, cần chú ý sao cho nhà vệ sinh nằm ở bên cạnh hành lang chứ không được để ở cuối hành lang, nếu không phạm phải tướng đại hung, có hại cho sức khoẻ con người.

Nhà vệ sinh phải có cửa sổ, tốt nhất là đủ ánh sáng, không khí lưu thông.
Nguyên nhân rất đơn giản, nhà vệ sinh là nơi thường xuyên ẩm thấp dễ gây nên ẩm mốc, đồng thời cũng là nơi chúng ta thường dùng để tẩy rửa tạp chất và xú uế. Do vậy nhà vệ sinh nhất thiết phải có cửa sổ hoặc cửa thông gió, đủ ánh sáng và không khí lưu không để cho mùi hôi bay đi, duy trì không khí trong sạch. 

Nhà vệ sinh của biệt thự:
Thường thì khi thiết kế người ta thường nhớ đến sự phối hợp giữa các gian phòng trong cùng một tầng mà lại quên mất mối quan hệ giữa các tầng. Nếu như nhà vệ sinh nằm trên phòng ngủ thì trạch tướng vô cùng nguy hại, sức khoẻ người ở sẽ giảm sút. Theo nguyên lí “gia tướng học” Hồng Kông cổ truyền, thì nền nhà vệ sinh không được cao hơn phòng ngủ. Ngũ hành gia cho rằng, nước chảy xuống dưới, làm ẩm kết cấu bên dưới, về lâu dài phòng ngủ bị ẩm thấp, dễ phát sinh các bệnh hệ thống nội tiết. Nếu như nhất quyết phải đặt trên lầu, thì bạn nên thiết kế kéo rộng khoảng cách với phòng ngủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thuỷ phòng tắm và những điều cần lưu ý

Đoán Tiểu Hạn phải linh động

Những trường hợp : THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ và ĐÀO HỒNG nhập hạn.
Đoán Tiểu Hạn phải linh động

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất. Tôi chỉ xin khép lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên. Qua một số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẫu..... ; thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công tác ...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v.... Tôi rất đồng ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn ... Vậy đặc tính của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý nghĩa riêng của chúng nữa.

Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và thực tập mới có thể thành thạo được.

1- THIÊN HÌNH NHẬP HẠN

Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn .... trong cơ khí làm tổn thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....), đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ ! Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp.

Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng chiếu) thì khó tránh được tai nạn. Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào : búa, đục, dao, kéo .... tức là đồ nghề chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế làm sao chẳng hạnh thông.

Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình. Cũng như trường hợp các nhà Luật (như : Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư .... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra ... miễn là không gặp nhiều hung sát tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh) mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án, nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục ... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày ... khiến cho ruộng đất trở nên phì nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh, Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc .. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin ...

2- THIÊN MÃ NHẬP HẠN

Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh ... Tin tưởng như thế cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.

Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão , Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào. Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã) như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên Mã đã chuyển biến hoàn toàn :

- Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa ... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao ?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào. Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không ? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không ? Nếu đều không cả, thì gặp Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp. Và khi đó thường thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ , như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại.

Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc).

Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ ! Đó là trường hợp lá số có cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải là " hố " nặng nề không ?.

3- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN

Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là một đề tài sôi nổi và gay cấn cho nhữing người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy ... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v... Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa.

Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt, mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái ... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm, chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn , đàng hoàng, chí thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giừơng tủ, đồ đạc, xe mới ....

Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn.

Theo vietbao1623


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán Tiểu Hạn phải linh động

Hướng xuất hành đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Nhâm Tuất –

. Xông nhà năm 2016 - gia chủ tuổi Nhâm Tuất Thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới đánh dấu vận thế của con người và ngôi nhà mà họ sinh sống trong đó được coi là hoàn toàn đổi mới. Quan điểm dân gian tin rằng, người đầu tiên xông đất đầu năm
Hướng xuất hành đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Nhâm Tuất –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

. Xông nhà năm 2016 – gia chủ tuổi Nhâm Tuất

tu-vi-2013-tuoi-tuat-nam-quy-ty-2013

Thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới đánh dấu vận thế của con người và ngôi nhà mà họ sinh sống trong đó được coi là hoàn toàn đổi mới. Quan điểm dân gian tin rằng, người đầu tiên xông đất đầu năm cho ngôi nhà sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới vận mệnh và công việc làm ăn của gia đình chủ nhà trong cả năm. Bởi vậy, các bậc cao niên luôn rất cẩn thận khi lựa chọn người đầu tiên đến nhà sau giao thừa.

Có rất nhiều phương thức để lựa chọn người xông nhà, xông đất đầu năm. Tính theo Thiên Can, Địa Chi và Ngũ Hành là cách thức cơ bản và thông dụng nhất của các bậc cao niên. Xem tuổi xông nhà năm 2016, gia chủ Nhâm Tuất có thể lựa chọn những người hợp tuổi với mình sau đây, tốt nhất từ trên xuống:

Chọn người xông đất cho công việc quan trọng

Năm mới đến với những dự định mới và các công việc quan trọng cần được thực hiện trong năm như cưới hỏi, kinh doanh buôn bán, thăng quan, tiến chức, trong nhà thêm con, thêm cháu … Với những nhà Phong thủy, áp dụng triết lý về âm dương ngũ hành có thể chọn tuổi xông đất để giúp chủ nhà cầu phúc đức, cầu tài lộc, cầu quan lộc hay cầu khoa bảng:

– Chọn tuổi xông đất cầu phúc đức: giúp gia chủ năm nay thêm nhiều phúc phần. Gia đình có con cháu đã thành đạt hết, nay muốn vun đắp cây phúc để có những điều tốt đẹp, bình an thường sử dụng phương thức này.

– Chọn tuổi xông nhà cầu tài lộc: gia chủ mong muốn năm nay ài chính được tốt hơn, có của ăn, của để, kinh doanh buôn bán thuận buồm xuôi gió thường sử dụng cách này.

– Xem tuổi xông đất cầu quan lộc: gia chủ muốn vun đắp đường công danh, sự nghiệp, quan chức của mọi người trong nhà được phát triển, hưng thịnh.

– Xem tuổi xông nhà cầu khoa bảng: con cháu trong nhà năm nay liên quan đến việc thi cử, nhận chức, thăng chức.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng xuất hành đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Nhâm Tuất –

Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào? Cùng ## tìm nhiểu nhé.
Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận ra sao, hãy cùng ## tìm hiểu.


Thành công trên quan trường là điều mà mỗi người làm chính trị đều mong muốn. Nhưng không dễ dàng để chạm tới thành công, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ngoài năng lực bản thân, sự hài hòa về thiên thời, địa lợi, việc hỗ trợ về mặt tinh thần của nửa kia cũng vô cùng quan trọng.

Thế nên mới có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận rao sao, hãy cùng ## tìm hiểu.

1. Ngũ quan đoan chính, không có nét phá tướng

Tướng do tâm sinh, ngũ quan (mắt, mũi, tai, miệng, lông mày) đoan chính, không bị khuyết hãm thì tâm hồn lương thiện, trong sáng. Một chính trị gia rất cần người phụ nữ như vậy để có thể cùng kề vai sát cách trên quan trường.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh
 
Phụ nữ có ngũ quan đoan chính dễ được người khác yêu mến, tin tưởng. Công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng khá thuận lợi. Người này thông minh, lanh lợi, có phúc phận tốt, sẽ là “trợ thủ đắc lực” cho con đường quan lộc của chồng.

Cần lưu ý, trên khuôn mặt không có nét phá tướng (nốt ruồi xui xẻo, sẹo, bớt...) thì vận khí của người phụ nữ này mới không bị cản trở.

Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều”
– Nắm bắt được những tướng mặt sếp khó tính dưới đây, bạn sẽ có cách “né đòn” hữu hiệu, vừa hoàn thành công việc dễ dàng lại không bị cấp
2. Thiên đình đầy đặn


Thiên đình chính là phần trán trên khuôn mặt. Đây cũng là vị trí của cung Sự nghiệp. Thiên đình đầy đặn, sáng sủa chứng tỏ chủ nhân có tấm lòng khoan khoái, bao dung, phóng khoáng. Hơn thế, người phụ nữ này còn sở hữu trí tuệ minh mẫn, khả năng làm việc độc lập rất tốt.

Trong công việc, họ dễ dàng được lãnh đạo coi trọng, đánh giá cao và đề bạt thăng tiến. Bản thân họ cũng là trợ thủ đắc lực của cấp trên, công danh sự nghiệp gặt hái được nhiều thành công.

Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng mặt phụ nữ làm phu nhân của chính trị gia. Trong mọi trường hợp, họ sẽ là “hậu phương vững chắc” để chồng an tâm xông pha nơi “tiền tuyến”.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh 2
 
3. Mắt tròng đen tròng trắng rõ ràng


Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Phụ nữ có mắt to, lòng đen và lòng trắng rõ ràng thường có tấm lòng lương thiện, tràn đầy sức sống, làm việc ngay thẳng, minh bạch nên dễ được lòng lãnh đạo.

Trong hôn nhân, họ luôn biết cách cư xử khéo léo, vun vén cho gia đình để chồng con yên tâm phấn đấu.

4. Sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy

Mũi thể hiện tài vận, phản ánh phần nào đời sống vật chất của mỗi người. Phụ nữ có tướng mũi mà sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy thì được hưởng nhiều phúc phận về tài lộc. Đường công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng hanh thông, rộng mở.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh 3
 
Trong tình yêu, quý cô này thủy chung một lòng, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để gia đình được trong ấm ngoài êm, ông xã tập trung phấn đấu cho sự nghiệp.

5. Địa các đầy đặn

Trên khuôn mặt, Địa các chính là cằm. Cằm phản ánh vận thế ở giai đoạn hậu vận của mỗi người. Muốn biết xem về già bạn có được hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý hay không, hãy nhìn tướng cằm.

Bên cạnh đó, nữ giới có cằm đầy đặn thường có số vượng phu và vượng cả tài lộc. Họ dễ dàng lọt vào “mắt xanh” của các chính trị gia, có phúc phận làm phu nhân, luôn sánh bước cùng chồng trên quan trường.

=> Xem thêm: Nốt ruồi và ý nghĩa của các vị trí trên cơ thể

Ngân Hà

Chỉ ra tướng mặt người nghèo khó và cách thoát nghèo
Trong Nhân diện học, lông mày lộn xộn, đứt đoạn là biểu hiện của đời sống tình cảm phức tạp. Chủ nhân của tướng lông mày này thường yếu đuối, dễ bị yếu tố


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Mơ thấy mông của người khác giới: Chớ nên xem thường tình yêu –

Mơ thấy mông mình bị thương hay đau nhức, đó là dấu hiệu cho thấy có hành vi lừa gạt đang tồn tại trong những mối quan hệ thân thiết của bạn, bạn hãy cẩn thận, chớ nhẹ dạ cả tin.   Mơ thấy mông người khác giới, cảnh báo bạn không nên xem nhẹ tìn
Mơ thấy mông của người khác giới: Chớ nên xem thường tình yêu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mông của người khác giới: Chớ nên xem thường tình yêu –

Bảng “Cửu diệu tinh quân” – Chín ngôi sao hợp tuổi hằng năm –

STT Tuổi Tên sao ứng với mỗi tuổi Nam Nữ 1 10 19 28 37 46 55 64 73 82 91 La Hầu Kế Đô 2 11 20 29 38 47 56 65 74 83 92 Thổ Tú Vân Hán 3 12 21 30 39 48 57 66 75 84 93 Thuỷ Diệu Mộc Đức 4 13 22 31 40 49 58 67 76 85 94 Thái Bạch Thái Âm 5 14 23 32 41 50

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

201401153459_9_sao_cuu_tinh_nam_2014_1

STT

Tuổi

Tên sao ứng

với mỗi tuổi

Nam

Nữ

1

10

19

28

37

46

55

64

73

82

91

La Hầu

Kế Đô

2

11

20

29

38

47

56

65

74

83

92

Thổ Tú

Vân Hán

3

12

21

30

39

48

57

66

75

84

93

Thuỷ Diệu

Mộc Đức

4

13

22

31

40

49

58

67

76

85

94

Thái Bạch

Thái Âm

5

14

23

32

41

50

59

68

77

86

95

Thái Dương

Thổ Tú

6

15

24

33

42

51

60

69

78

87

96

Vân Hán

La Hầu

7

16

25

34

43

52

61

70

79

88

97

Kế Đô

Thái Dương

8

17

26

35

44

53

62

71

80

89

98

Thái Âm

Thái Bạch

9

18

27

36

45

54

63

72

81

90

99

Mộc Đức

Thủy Diệu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng “Cửu diệu tinh quân” – Chín ngôi sao hợp tuổi hằng năm –

Ý nghĩa sao Thiên Lương - Phúc tinh chủ sự hiền hòa

Cung Mệnh có Thiên Lương tọa thủ dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình thon và cao, da trắng, vẻ mặt thanh tú khôi ngô. Chủ sự hiền hòa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thiên Lương - Phúc tinh chủ sự hiền hòa

Ý nghĩa sao Thiên Lương - Phúc tinh chủ sự hiền hòa

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Âm

Hành: Mộc

Loại: Phúc Tinh, Thọ Tinh

Tên gọi tắt thường gặp: Lương

 Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 6 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí của sao Thiên Lương ở các cung:

Miếu địa ở các cung Ngọ, Thìn, Tuất.

Vượng địa ở các cung Tý, Mão, Dần, Thân.

Vượng địa ở các cung Sửu, Mùi.

Hãm địa ở các cung Dậu, Tỵ, Hợi.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo:

 Cung Mệnh có Thiên Lương tọa thủ dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình thon và cao, da trắng, vẻ mặt thanh tú khôi ngô. Ngoài ra, Thiên Lương vốn là phúc tinh cho nên bao hàm sự phúc hậu, sự hiền hòa của tướng mạo.

Tính Tình:

Sao Thiên Lương ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa: tánh tình trọng hậu, nhân từ, biết xử thế, thông minh, lý luận giỏi, trực giác thâm sâu, có nhiều cơ mưu, có óc sáng tạo viết văn, luận giải trong mọi lãnh vực, có óc khảo cứu, tham mưu, cả đời phong lưu.

Sao Thiên Lương ở cung hãm địa là cung Dậu, cũng có tánh nhân hậu, không bền chí, đời lãng đãng, thiếu sự suy xét cẩn thận, tánh khí xuề xòa, dễ nhầm lẫn.

Sao Thiên Lương ở cung hãm địa là cung Tỵ, Hợi, cũng có tánh nhân hậu, nhưng nông nổi, ít chịu ngồi yên tại chỗ, hay bay nhảy nay đây mai đó, chóng chán, hay thay đổi ý định, công việc, phong lưu khoái lạc, dễ rơi vào tứ đổ tường, tánh rộng rãi, ăn xài hoang phí, khó giữ của.

Cho dù đắc địa hay hãm địa, đặc tính nổi bật nhất của Thiên Lương là sự nhân hậu, lòng từ thiện, tính khoan hòa, chiều chuộng, nhẫn nhục, sự khôn ngoan, sự mềm mỏng khi xử thế, nết khiêm cung, hiền lành.

Do đó, Thiên Lương nói lên cốt cách từ bi, nho phong đạo cốt, tâm địa bác ái, nhân từ của nhà tu, của người hiền triết, của người chất phác, của bậc chính nhân quân tử, lấy lễ đãi người, dùng sự thành thật, khiêm cung để xử thế.

Tài Lộc Phúc Thọ:

Sao Thiên Lương đắc địa: Được hưởng phú quý lâu dài, người có văn tài lỗi lạc, thường giỏi về khoa sư phạm, có uy danh lớn, người nữ thì vượng phu ích tử. Ngoài ra, vì Thiên Lương là phúc tinh, cho nên, nếu đi với bộ sao y dược thì sẽ là bác sĩ, dược sĩ có danh tiếng, trị bệnh mát tay.

Thiên Lương hãm địa: Lận đận trong nghề nghiệp, hay đổi nghề, khó kiếm tiền. Phải tha hương lập nghiệp, xa cách gia đình.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng với sao Thiên Lương:

Sao Thiên Lương, Nhật đồng cung: Cách này được ví như mặt trời bình minh, ánh sáng ẩn tàng rực rỡ mà ôn hòa. Người có cách này được hưởng phú quý tột bậc, suốt đời hạnh thông.

Thiên Lương ở Tý, Nhật ở Ngọ hội Xương Lộc (hay Thiên Lương ở Tý chiếu Mệnh ở Ngọ, có Nhật gặp Xương Lộc): Rất thông minh, hiển đạt có danh tiếng lớn lao. Cách này càng tốt đối với 3 tuổi Đinh, Kỷ, Quý.

Sao Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần, Thân: Sự hội tụ của hai phúc tinh ở hai vị trí này rất đắc cách càng biểu lộ tính nhân hậu, từ thiện, bác ái, quân tử nói ở mục tính tình. Người có cách này sẽ không gặp tai họa nào hung hãn, được thần linh che chở, được người đời giúp đỡ. Thông thường, cách này được thêm Cơ Nguyệt hợp chiếu và là một cách phú và quý.

Sao Thiên Lương ở Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ gặp Nguyệt Linh hội chiếu: Người có nhiều tài năng, hiển đạt.

Sao Thiên Lương đắc địa gặp Văn Xương đồng cung: Người lịch duyệt khoan hòa, danh giá. Gặp Văn Khúc, ý nghĩa cũng tương tự.

Sao Thiên Lương, Hóa Lộc: Người bác ái hay đem của bố thí cho thiên hạ, hoặc dùng của vào việc thiện.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng với sao Thiên Lương:

Sao Thiên Lương, Nguyệt hãm hội chiếu: Con người giang hồ, phiêu bạt, không có định sở, tha phương lập nghiệp.

Sao Thiên Lương ở Tỵ gặp nhị Hao, sát tinh: Khó tránh nạn binh đao súng đạn.

Thiên Lương ở Tỵ, Hợi gặp Thiên Mã đồng cung: hay thay đổi chí hướng, làm việc gì cũng hay bỏ dở nửa chừng, không bền chí, không cả quyết.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Phụ Mẫu:

Sao Thiên Lương ở 4 vị trí tốt đẹp:

Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần, Thân.

Thiên Lương, Nhật ở Mão.

Thiên Lương, Thiên Cơ đồng cung.

Thiên Lương ở Tý, Ngọ thì cha mẹ nhân đức, thọ và hiển.

Ở Sửu, Mùi thì bình thường. Còn ở Tỵ, Hợi thì phụ mẫu bất hòa, chia rẽ, chia ly, không đồng cư với con cái.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Phúc Đức:

 Được hưởng phúc thọ, tránh được tai họa, có họ hàng danh giá nếu Thiên Lương ở những vị trí sau:

Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần, Thân.

Thiên Lương, Nhật ở Mão.

Thiên Lương, Thiên Cơ đồng cung.

Thiên Lương ở Tý, Ngọ.

Ở Sửu, Mùi thì trung bình, còn ở Tỵ, Hợi thì có nhiều tai họa, họ hàng ly tán, tha phương lập nghiệp; con trai bụi đời, con gái dâm dật, khắc chồng con.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Điền Trạch:

Sao Thiên Lương ở Tý, Ngọ hay đồng cung với Nhật tại Mão, với Thiên Đồng ở Dần Thân: có nhà đất, của ông bà, cha mẹ để lại, chính mình cũng tạo được thêm nhà đất.

Sao Thiên Lương ở Tỵ, Hợi: có nhà đất nhưng thường phải thay đổi nơi ăn chốn ở, phải đi làm xa, hoặc phải mua đi bán lại nhiều lần. Nếu có nhà đất của ông bà, cha mẹ để lại, sống chung đụng thì hay gặp rắc rối, tranh cạnh về chia chác, hoặc nhà đất của cha mẹ càng ngày càng kém, phải bán đi, mình cũng không ở được.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Mão: tạo dựng nhà đất trước ít sau nhiều.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Dậu: tuy có nhà đất nhưng cũng bán hết, hoặc không có nơi cư trú nhất định, tạo dựng nhà cửa khó khăn, phải đi xa, về già mới có nhà đất nhưng rất ít.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Quan Lộc:

 Thiên Lương là sao văn, thiên về quan văn, thích hợp trong ngành văn. Được quý hiển về công danh, có năng tài về sư phạm hoặc chính trị, chiến lược hoặc y dược, y khoa nếu Thiên Lương ở những vị trí sau:

Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần, Thân (rất tốt về nhiều ngành).

Thiên Lương ở Tý, Ngọ.

Thiên Lương, Thiên Cơ đồng cung (rất tốt về tham mưu, sư phạm).

Thiên Lương, Nhật ở Mão.

Ở Sửu, Mùi thì bình thường, còn ở Tỵ, Hợi thì thất thường hay thay đổi công việc, làm việc lưu động, làm việc chóng chán, bất toại chí.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Thiên Di:

 Được nhiều người kính nể, giúp đỡ hay gặp quý nhân, được bước chân vào chỗ quyền quý nếu Thiên Lương ở những vị trí sau:

Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần Thân.

Thiên Lương, Nhật ở Mão.

Thiên Lương, Thiên Cơ đồng cung.

Thiên Lương ở Tý Ngọ.

Riêng ở Sửu, Mùi thì bình thường. Còn ở Tỵ, Hợi thì lang thang và chết ở xa nhà.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Tật Ách:

 Vì là thọ tinh, cho nên Thiên Lương không có ý nghĩa bệnh lý nào. Trái lại, đây là một sao giải bệnh rất hiệu lực, như Tử Vi, Thiên Phủ, Tuần hay Triệt khi đóng ở cung Tật. Nếu gặp bệnh, thì chóng khỏi, hoặc bệnh không nặng, hoặc được danh y mát tay cứu vớt kịp thời. Sao này tượng trưng cho Phúc Đức về sức khỏe, cho dù có hãm địa cũng không đáng lo ngại. Nếu đi cùng với các sao bệnh họa khác thì Thiên Lương có tác dụng chế giải nhiều sự bất lợi của các sao đó gây nên.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Tài Bạch:

Sao Thiên Lương ở Tý Ngọ: (hay đồng cung với Nhật tại Mão, với Thiên Đồng ở Dần Thân) rất giàu, dễ giàu, ngày càng giàu.

Sao Thiên Lương ở Tỵ Hợi: Dễ kiếm tiền nhưng cũng dễ tiêu tiền, khó giữ của lại phải lưu động kiếm tiền.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Dậu: Kiếm tiền rất chật vật, sau mới khá giả.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Tử Tức:

Sao Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần Thân hay Thiên Lương ở Tý Ngọ: Đông con, có quý tử, hiếu thảo.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Mão: Đông con, khá giả.

Sao Thiên Lương, Thiên Cơ : Đông con, khá giả, có quý tử, có con riêng.

Sao Thiên Lương ở Tỵ Hợi: Ít con, sinh nhiều nuôi ít. Con ly tán, hoang đàng, bụi đời.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Dậu: muộn sinh, 3 con. Sớm sinh thì khó nuôi, khổ sở vì con.

Ý Nghĩa Thiên Lương Ở Cung Phu Thê:

Sao Thiên Lương, Thiên Đồng ở Dần Thân: Sớm gia đạo. Vợ chồng có họ hàng với nhau. Cả hai đều đẹp và giàu.

Sao Thiên Lương, Nhật ở Mão: Rất tốt đẹp về mọi mặt, cả về hạnh phúc gia đình lẫn tiền bạc công danh.

Sao Thiên Lương, Thiên Cơ đồng cung: Vợ chồng hiền lương, lấy nhau dễ dàng, có họ hàng với nhau. Có nhiều hạnh phúc gia đạo suốt kiếp. Có sách cho rằng Cơ Lương ở Phu Thê thì rất kén vợ, kén chồng và rất ghen tuông.

Sao Thiên Lương ở Tý Ngọ: Sớm gia đạo, dễ lập gia đình. Cả hai đều danh giá. Thường người hôn phối là con trưởng.

Sao Thiên Lương ở Tỵ Hợi: Dễ gặp nhau lại dễ xa nhau, vợ chồng chóng chán và hay thay đổi gia đạo.

Thiên Lương Khi Vào Các Hạn:

Nếu Thiên Lương ở vị trí tốt, không bị Tuần, Triệt sát tinh thì hạn tốt, hưng thịnh công danh tài lộc, ít bệnh tật, nếu có tai họa cũng được qua khỏi.

Nếu hãm địa thì bất lợi về sức khỏe, tiền bạc. Tại Tỵ, Hợi phải có thay đổi công việc.

 Nếu gặp sát tinh có thể phá sản, đau nặng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Lương - Phúc tinh chủ sự hiền hòa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd