Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời) –

Đại vận Đại vận trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Trong lá số tử vi đại vận được ghi rõ mang các con số ở góc phải trên cùng của mỗi cung Thí dụ: Đại vận ở cungThê số 22, là Đại vận trong thời gian từ 22 đến 31 tu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại vận

Đại vận trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Trong lá số tử vi đại vận được ghi rõ mang các con số ở góc phải trên cùng của mỗi cung

Thí dụ: Đại vận ở cungThê số 22, là Đại vận trong thời gian từ 22 đến 31 tuổi.

Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời.Đại vận mà khá thì cũng như có cài gốc khá,tiểu vận có kém cũng được khá theo và tiểu vận mà khá thi lại càng khá nhiều.

Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tÍnh vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.

Các yếu tố để tính Đại vận trong tử vi gồm có Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Thời.

clip_image001_2

1- Thiên Thời

Được Thiên Thời là được vận tốt, nói chung, và không kể đến chi tiết. Người được Thiên Thời tốt thì được ăn trên ngồi trước, người người quý mến, dù gặp trường hợp xấu vẫn hơn người đồng cảnh. (Thí dụ như gặp Thiên Thời mà phải ở tù thời cũng là tù cha, tù chú, anh em cung phụng, cai tù nể sợ) và mọi việc làm đều được hanh thông.

Muốn rõ Thiên Thời tốt xấu, phải đem hành của tam  Đai vân so sánh với hành của tam hớp tuổi (hành của tam hợp tuổi tức là mình).

Thí du: Cung Đại vận ở Thân, thì tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc ‘Thủy. Tam hợp tuổi của người tuổi Mùi là Hợi Mão Mùi, thuộc Mộc. Tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, nên ta gọi là sinh nhập.

Sau đây là các trường hợp của Thiên Thời:

– Tốt 1: tam hợp Đại vận cùng hành với tam hợp tuổi (tức là trường hợp cung Đại vận nằm trong tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ và có Tứ Linh: Long, Phượng, Hổ, Cái). Đây là Đại vận tốt bậc nhất trong đời.

– Tốt 2: tam hợp Đại vận bị tam hợp khắc (tức là mình khắc ra hay là khắc xuất) vì mình khắc ra được, cho nên minh thắng được hòan cảnh, bằng sự phấn đấu.

Thí du: Tuổi Thân, thuộc Thân, Tý, Thìn, hành Thủy. Gặp Đại vận ở Tuất, là tam hợp Dần Ngọ Tuất, thuộc Hỏa. Mình khắc được Đại vận, tức là mình đạt được những thành quả bằng sự phấn đấu.

– Xấu nhẹ: tam hợp Đại vận được sinh do tam hợp tuổi (tức là tam hợp tuổi bị sinh

xuất). Trường hợp này, đương số gặp những khó khăn, phải chịu mệt nhọc mới có thành quả, hoặc phải thất bại trước sau mới thành, hoặc thất bại luôn phải chờ dịp khác.

Nhưng người tuổi Hợi, tam hợp Hợi, Mão, Mùi, hành Mộc. Hành Mộc sinh cho Đại vận (sinh xuất) khi Đại vận đến một trong 3 cung Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.

– Xấu vừa: tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, tức là tam hợp gốc được sinh nhập, ở thế này, có dễ có khó, có thành có bại, tốt xấú đều lãnh đủ: Càng ăn nên làm ra càng gặp xấu, suy tán đến độ mất nghiệp, mất việc làm, mất tàì sản (vì gặp Thiên Không).

Như tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi (Mộc) đến Đại vận ,Thân và được tam hợp Thân Tý Thìn thuộc Thủy sinh cho, làm ăn tốt nhưng rồi tan vỡ cả!

– Xấu nặng: tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi, tức là trường hợp mình bị khắc nhập, ơ thế này, đương sế gặp nhiều khó khăn làm ăn không tiến, thua thiệt, thất bại, hay gặp nạn.

Như người tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, bị tam hợp Đại vận ở Dậu khắc, vì tam hợp Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim. Phải gặp những cái tốt khác mới gỡ được thế kẹt.

Bạn có thể xem thêm phần 2 tại : xem đại vận, đại hạn 10 năm trong lá số tử vi P2

Xem Tướng Chấm Net chúc mọi người năm mới an khang thịnh vượng !


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời) –

Mệnh lâm hiểm tọa Đà Vũ Xương Linh

Vũ Khúc ở cung dương (hoặc gặp Tham Lang ở Sửu Mùi ) Văn Xương tương đối đẹp, nhưng vì cả hai sao cùng thuộc Kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm . Đà Linh là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà thuộc Kim, Linh thuộc Hỏa nhưng có mang thêm tính Kim . Cái đẹp mong manh gặp tính sát âm hàn đã xấu, cả bốn sao lại đều mang tính sát của Kim nên trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn to lớn.
Mệnh lâm hiểm tọa Đà Vũ Xương Linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở cung âm Vũ Phá, Vũ Tham, Vũ Sát vốn đã không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa .

(Phú để lại có câu "Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà" nghĩa là đến hạn Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là quá nhiều khó khăn không thể nào giải quyết nổi, chỉ còn cách là tự tử cho xong).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh lâm hiểm tọa Đà Vũ Xương Linh

Nhị, lộc cùng nguyên thân ứng kì

Bát tự trung mỗ chữ tại lưu niên( Đại vận) trungxuất hiện hoặc thấy ngoài lộc thần cùng nguyên thân, thì này năm(Vận) nên phát sinh cùng đáng chữ có liên quan chuyện tình, lưu niên(Đại vận) trung đáng chữ sinh ra cái dạng gì đích tác dụng, nhân tiệngiống như nguyên cục trung đáng chữ phát sinh đích tác dụng giốngnhau. Cái này kêu là này chữ tại lưu niên( Đại vận) đích ứng kì.(Chú: Thấy lộc đại biểu nguyên thân, thấy nguyên thần đại biểu lộc,này điều có ưu tiên tính chất).
Nhị, lộc  cùng nguyên thân ứng kì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khôn: Mậu nhâm giáp bính

Thân tuất tử dần

Này tạo lấy tử vi phu cung, thân vi phu tinh, thân tử hợp cục, vốn là phu đến phu cung ý. Kết hôn thời gian ứng tại nhâm thân năm, này năm vốn là phu tinh thân xuất hiện, củng nhập phu cung đích ứng kì. Làm đại vận đến kỷ mùi vận đích mùi vận thời, mùi mặc tử, thân sinh tử, phu cung bị hại, trượng phu nhân tiện không cách nào sinh. Hôn nhân làm xuất hiện vấn đề, ứng kì làm tại bính tử năm, tử năm thời phu cung tử thủy tại lưu niên xuất hiện thấy hại.

Nhàn chú: Thiên can giáp ất bính mậu đinh kỷ canh tân

           Dần mão  tị   ngọ  thân dậu 

thìn thú sửu mùi bốn khố không nguyên thân

Khôn: Canh tân tân quý

Dần tị dậu tị

Này tạo lộc thần bị lưỡng tị hỏa khắc phá hư, thực thần quý thủy tại cục trung rất trọng yếu, hành bính tử vận chi tử vận, tương đương với quý rơi vào địa chi, nguyên lai quý chịu thiên can canh tân chi sinh, đến địa chi sẽ không pháp chịu sinh rồi( Dậu kim tự thân chịu khắc, không cách nào sinh tử thủy), bị tị tuyệt, dần tiết, đến nhâm ngọ năm, một xung tử thủy, thực thần bị phá hư, mệnh chủ bị kẻ bắt cóc sát hại.( Chú: Hại ngã thực thần, tử không có ở đây gối đầu thượng, xung hại đồng luận)

Khôn: Tân ất quý mậu

Hợi mùi hợi ngọ

Hành kỷ hợi vận, kỷ vi ngọ chi nguyên thân, ngọ trung chi kỷ hợp phu cung hợi trung giáp, làm phu xem, bây giờ đại vận trung hư thấu, liền bất lợi hôn nhân, phu hữu danh vô thật rồi, phu không để ý nhà nháo ly hôn.

Càn: Đinh giáp mậu giáp

Dậu thìn thìn dần

Đại vận: Quý mão  nhâm dần  tân sửu canh tử kỷ hợi

Này tạo mậu thổ trường sinh tại dần, sát làm tài xem. Bởi vì không có ấn, có ấn đương quyền xem. Phía trước tam trụ cũng phế đi.(. Người này vốn là Tân Gia Pha người, hành tử vận dẫn ra thìn trung chi thủy sinh trợ giúp dần mộc, phát tài, đinh sửu năm phát đích lớn nhất, một năm giàu to rồi1000 vạn, thừa số sửu kết hợp hợp động tử thủy,( Nếu là thiên địa hợp, thì vi hợp bán), này năm chính trực kim tan ra gió lốc, hắn đem USD đổi thành mã đến tây á tệ, mua rồi đại lượng đích thổ địa, kim tan ra gió lốc một qua, tức phát; đến kỷ vận hợp bán giáp mộc bất lợi, kiếp hợp tài, phá tài chi tượng, hợp rồi [hai người/cái] giáp, giảm bớt một nửa. Này vận phá một nửa đích gia sản. Này vận trung nhất hung chi năm phần vốn là giáp thân năm, này năm giáp hư thấu, chẳng khác dần mộc hư rồi, bị kỷ hợp bán, là chỉ người khác đoạt rồi hắn đích tài, mà dần thân xung phá mộc cây, đem bát tự sở dụng gì đó toàn bộ phá hủy. Nguyên nhân đầu tư sai lầm, tổn hại tài nghiêm trọng, vẫn bồi đến bính tuất năm, tổn thất700 vạn. Hợi vận luận cát, phỏng chừng đến lúc đó khẳng định phát tài, nguyên nhân hợi vận kỷ thổ không vận động rồi, vi thể rồi, tỏ vẻ cùng người hợp tác rồi, không có nghĩa là phá tài. Thìn dậu hợp không làm công, tỏ vẻ hôn nhân phá hủy, phu thê cung song hiện, hợp rồi thương quan, hợp nhất hạ nhiều một lần, cố có4 lần hôn nhân, đồng thời, thổ nhật chính cùng chi đồng, tổn hại tài thương thê. Cũng cũng làm dậu làm tổ sản( Thương làm tài, mang ấn), hợp rồi tỉ kiên, tỏ vẻ huynh đem tổ sản đích một hơn phân nửa toàn bộ cầm đi, chính mình chỉ lấy một ít bộ phận. Loại này tổ hợp vốn là một cỗ một cỗ đến tài, cố bất thiện vu kinh doanh xí nghiệp, không có đảng, trông nom không được người. Môn hộ tố công, một bực như nhau là làm mậu dịch, người không thể hơn nhiều. Cũng có thể tố sao làm.( Chú: Mậu nhật chủ kiến giáp dần thời đích tổ hợp luận cát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần, cho nên lúc này giáp không thể mậu, khác tổ hợp thì không phải, như mậu nhật chủ kiến ất giờ Mẹo, luận hung. Mậu nhật chủ xứng giáp dần thời, chỉ cần hành thủy vận trợ giúp khởi dần mộc nhân tiện phát tài, trái lại, nếu phá hủy dần mộc thì phá tài.)

Nhàn chú: Mậu sợ chính quan không sợ thất sát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần. Bính tử năm phát tài, đinh sửu năm lấy200 vạn USD mua mà, tiện nghi, kim tan ra gió lốc sau khi lên chức giá trị mấy lần, phát đại tài.

Càn: Ất ất mậu giáp  giáp quý nhâm tân canh

Tị dậu tử dần  thân mùi ngọ tị thìn

Vốn là một ức vạn phú ông, có [hai người/cái] triệu tư sản, tài thống quan rồi. Tẩu ngọ vận phát. Tân tị vận đích tân vận còn có thể, nhưng tị vận mặc dần, khẳng định bất hảo. Ngọ vận xung tử, hợp dần, tố công lớn rồi. Dần sinh rồi ngọ, sao làm, thêm xung tử, phát tài, tòng tố công thượng giải thích. Tố luồng phiếu lập nghiệp đích, [một người/cái] đại hộ, theo trang kiếm tiền. Dậu nguyên thần bị chế cũng không được chế, ngọ vận vốn là tỉ kiếp cùng quan sát tới lấy tài.( Chú: Tư liệu thượng không có)

Nhàn chú: Ngọ vận cho mượn khứ 4000 vạn, hỏi có thể trở về không? Ngọ tăng mạnh rồi kỷ đích lực lượng chế dậu, tử, thêm ngọ là dần trung vật. Dụng ngọ( Kỷ thổ) tỉ kiếp tố công, sao luồng!

Càn: Ất kỷ giáp canh  mậu đinh bính ất giáp

Tị mão tuất ngọ  dần sửu tử hợi thú

Này tạo nguyên cục thành hỏa cùng táo thổ xu thế, thời thượng canh kim vi tối kỵ, nguyên cục không có chế. Hành tử vận, hỏa thổ có công, phát tài mấy ngàn vạn. Ất hợi vận ất canh hợp, vi tỉ kiếp hợp quan đoạt tài ý, tất có người muốn xâm chiếm ngoài tài sản. Quả nhiên này bước vận đích giáp thân năm, ất dậu năm khởi tài sản quan tòa. Thân năm canh kim đến vị, ất năm ất canh hợp đến vị, vốn là vi ứng kì.( Chú: Nhập mộ vốn là năng lượng đích tập trung cùng thăng hoa, nhưng giáp tuất nhật chủ khẳng định khống chế không được tuất thổ. May mắn mão tuất hợp, giáp kỷ hợp, rất rõ ràng vốn là cùng người hợp tác, kinh doanh phòng địa sản. Canh không có chế vốn là tối kỵ thần, nên khắc nhật chủ à. Ất canh xa hợp, canh nhân tiện động rồi, động rồi sẽ khắc giáp, hình thành rồi ất canh liên hợp khắc nhật chủ chi tượng, này hợp lại là xấu rồi. Trên thực tế cũng là cùng hắn hợp hỏa đích người cùng công nhà liên thủ đối phó hắn, nguyên nhân hắn hẹp hòi, giáp kỷ hợp rồi tài mà. Canh tử vận, xung ngọ, ngọ hỏa tố công rồi, quá. Ất hợi vận, ất mộc một thấu, sẽ không tốt lắm. [ba người/cái] quan tòa ứng kì: Canh thìn năm, ất canh hợp, vốn là nguyên nhân gây ra năm, giáp thân năm, chính mình ngồi canh đến vị, tố tụng, ất dậu năm, canh lâm đế vượng, xung hợp, hai năm quan tòa. Bính tuất năm trân khắc canh thân kim, ứng có thể thắng tố. Lão bà nhiều, tị ngọ tuất kỷ đều là. Đại lão bà năm ngoái( Ất dậu năm) đã chết, tuất vi đại lão bà, nguyên nhân ngồi thê cung được chính vị rồi, tị không phải đại lão bà, điểm này phải chú ý. Dậu tuất hại, bệnh tim tái phát mà chết. Bản thân thì vi cao huyết áp, giáp vi đầu, hỏa vượng nên hướng trên đầu tẩu, cố vi cao huyết áp, cao huyết chi ... bệnh.)

Nhàn chú: Hỏa nhập thú khố, mão thú hợp tố công, tố phòng địa sản đích. Giáp thú vi xi măng đồng, dựa vào mão thú hợp, kiếp tài hợp tài, làm cho phòng sản, ức vạn phú ông! Hợp hỏa, mão vi người khác! Tị ngọ nhập mộ không nhiều lắm dụng, mão thú hợp vốn là khắc. Tẩu tử vận hảo, thú vi lão tử, ngọ vi nhân, ngọ chế rồi tử thủy, thực thương có công, vốn đồ vô dụng, bây giờ hữu dụng rồi. Con mình giúp lão tử đem sự tình cấp làm! Đến ất vận, ất đến( Kiếp tài vi ấn, hợp bọn người) ất canh hợp, canh làm quan phương, canh thìn năm khởi quan tòa, giáp thân năm đánh, ất dậu năm cũng đánh, bính thú xem có thể thắng hay không.( Hợp bọn người đem luồng chuyển cho người khác, đến chỉnh hắn) canh vi lớn nhất đích bệnh! Ất dậu năm tang thê, thú vi đại lão bà, tị vi tiểu lão bà! Hỏa thổ rất vượng rồi, mão thú hợp chính là khống chế thú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhị, lộc cùng nguyên thân ứng kì

Màu sắc phòng bếp –

Màu của phòng bếp có thể theo sở thích cá nhân người sử dụng. Thông thường, màu nhạt và sáng sủa làm cho phòng bếp vốn chật hẹp trở nên thoáng hơn; màu sắc có độ thuần nhất thấp sẽ tạo cảm giác ấm áp, thân thiện, hài hoà; màu sắc ấm áp làm cho không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu của phòng bếp có thể theo sở thích cá nhân người sử dụng. Thông thường, màu nhạt và sáng sủa làm cho phòng bếp vốn chật hẹp trở nên thoáng hơn; màu sắc có độ thuần nhất thấp sẽ tạo cảm giác ấm áp, thân thiện, hài hoà; màu sắc ấm áp làm cho không gian bếp ấm cúng, làm tăng độ thèm ăn.

Màu của trần và tường phòng bếp có thể dùng gam màu sáng, nền nhà bên dưới tường bảo vệ nên làm bằng vật liệu có màu tối một chút, như vậy sẽ tạo cảm giác ổn định.

20140416155841-image007

Bếp hướng Bắc có thể trang trí bằng gam màu ấm áp để làm tăng độ ấm cúng; bếp hướng Đông đú ánh sáng thì dùng màu lạnh một chút đề giảm bớt độ nóng.

Sử dụng khéo léo màu trang trí cho bếp có thể tạo ra không gian thoáng rộng, hài hoà hợp lý. Phòng bếp quá cao có thể điều chỉnh dùng màu đậm hơn tạo cảm giác giảm độ cao; phòng bếp quá nhỏ dùng màu sáng, điều chỉnh màu nhạt hơn tạo cảm giác thoáng rộng, thoải mái. Bếp có đủ ánh sáng có thể trang trí bằng gam màu dịu mát nhằm làm giầm nóng nực vào mùa hè.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc phòng bếp –

Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

Người tuổi Sửu thờ Phật nào? 12 con giáp có 12 thủ hộ thần, trong đó Hư Không Tạng Bồ Tát bảo hộ cho người tuổi Sửu tránh khỏi tai ương khổ nạn.
Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Sửu

  Người tuổi Sửu tính cách chăm chỉ cần mẫn, nhẫn nhục chịu khó. Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ người không có tâm, điều này cực kì đúng với con giáp này. Chỉ cần có thể nỗ lực thì họ sẽ nỗ lực, chỉ cần có thể cố gắng thì họ sẽ cố gắng. Tính tình chân thật, bất luận là đối xử với ai đều hết mực chân thành song lại không giỏi nói chuyện.    Tuổi Sửu cũng có khó khăn là tuy muốn phát triển nhưng thường không gặp may mắn, nhiều khi hữu dũng vô mưu nên không thành việc lớn. Quật cường can đảm mà thiếu khéo léo, có nhiều tình huống xử lý chưa tốt dẫn tới thất bại.    Bản mệnh Phật của mỗi con giáp là thủ hộ thần có tác dụng bảo vệ và tăng cường vận trình, đi theo người đó suốt đời không thay đổi. Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Sửu? Chính là Hư Không Tạng Bồ Tát, có thể bổ sung khuyết điểm, thúc đẩy năng lực giúp con giáp này tiến lên.
tuoi Suu tho Phat nao
 
Xem thêm bài viết Tìm hiểu về các vị Phật bản mệnh phù hộ độ trì cho 12 con giáp
 
Đeo Hư Không Tạng bản mệnh Phật còn giúp tuổi Sửu đả thông tư tưởng, thăng chức thuận lợi, khôn khéo nhã nhặn, rất có lợi với phát triển sự nghiệp, rộng đường tương lai.    Người tuổi Sửu sinh năm 1949, 1961, 1973, 1985, 1997, 2009 đều có thể thỉnh bản mệnh Phật về dùng, công hiệu như nhau, không có gì khác biệt. Bản mệnh Phật đi theo chủ nhân một đời một kiếp, bất kể phương diện nào, sự nghiệp hay tình cảm, tài vận đều sẽ có cầu tất ứng, trợ giúp tốt nhất.  

2. Tác dụng của bản mệnh Phật trong năm 2017

  Vận trình năm 2017 của người tuổi Sửu nhờ tam hợp với chi năm mà có nhiều điểm sáng, ít khó khăn.   Sự nghiệp tăng lên rõ rệt, quan hệ xã giao hài hòa, hiệu suất làm việc cao. Nhưng cây to đón gió lớn, cẩn thận tiểu nhân quấy phá, gây khó dễ khiến bản thân bị cấp trên phê bình.   Phương diện tình cảm khá ổn, người độc thân có khả năng tìm thấy nửa kia hợp ý. Tuy rằng đào hoa không nhiều nhưng gặp đúng người đúng thời điểm nên cơ hội vẫn sáng rõ như ban ngày.   Sức khỏe của người tuổi Sửu vững vàng, chú ý hạn chế hải sản tươi sống, một phần là do ăn kiêng để giảm nguy cơ bệnh tật, phần khác là đồ ăn chưa chín có thể gây ra các bệnh đau bụng, tả, nghiêm trọng hơn là ngộ độc cấp tính.   Tài vận năm nay khiến tuổi Sửu hài lòng, Chính Tài ổn định, Thiên Tài cũng không thiếu. Người này có năng lực quản lý tài sản rất mạnh nhưng lại quá mức tiết kiệm khiến bạn bè không thoải mái, nên chi tiêu hợp lý hơn, chỗ nào cần tiêu tiền thì hãy tiêu tiền.  

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật

  Việc đáng lưu ý nhất khi thỉnh bản mệnh Phật về đeo là cần khai quang điểm nhãn cho vật phẩm phong thủy này để phát huy toàn diện linh lực, gia trì pháp lực. Khi chọn mua hãy chọn thật kĩ càng, ưu tiên vật phẩm được chế tác tỉ mỉ bằng các chất liệu tốt để sử dụng lâu dài.  
Xem thêm bài viết 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
 
Mang bản mệnh Phật Hư Không Tạng Bồ Tát bên mình phải có tâm thành kính, hướng thiện, làm nhiều việc thiện. Thỉnh Phật mà suy nghĩ đen tối, tư tưởng u ám, làm nhiều chuyện trái đạo đức pháp luật thì không Phật nào chứng cho.
Vi Phat nao do menh cho nguoi tuoi Suu
 
Thường ngày khi vận động mạnh hoặc trong trường hợp đặc biệt nên lấy bản mệnh Phật xuống, bảo quản ở nơi an toàn kín đáo, tránh va chạm, tránh để người khác đụng vào. Dây đeo bản mệnh Phật hỏng hóc hãy sớm thay thế, bản mệnh Phật càng đeo lâu linh lực càng mạnh, có sự tương thông với chủ nhân.    Tuổi Sửu thờ Phật nào? Hư Không Tạng Bồ Tát có thể hóa giải những khó khăn vất vả của tuổi Sửu, tăng cường nhân duyên, cải thiện khiếm khuyết về tính cách. Có thể chịu khó chịu khổ, chăm chỉ cần cù là nhân tố thành công nhưng nếu muốn trở thành người kiệt xuất, lãnh đạo thì càng cần nâng cao vận trình, thỉnh bản mệnh Phật tăng phúc tăng may về dùng. 
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Dần Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Mão Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Ngọ
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

Trả lời mẫu 2

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
Trả lời mẫu 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
(CHO PHẦN ĐẶT CÂU HỎI "Chu Dịch hỏi đáp")

Vì lí do riêng tư, nên Tên họ trong các bài viết dưới đây đã được Ban Quản Trị thay đổi.

Câu Hỏi 11: Xin cho biết công việc làm năm 2006 có thuận tiện hay không ? Nghề nghiệp kỷ sư. Xin cám ơn.

LUẬN GIẢI:
Vận Khí Tổng Kết Năm Bính Tuất:
Công Việc:                  Có biến động xấu. Qua khỏi.
Tháng xảy ra:              Tháng 3, 7 & 9. Lưu ý hai tháng: Tháng 3 & 9.
Ba Ngày Lưu ý Trong Ba Tháng 3, 7,& 9:
Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn.
Ngày Nguy Hiểm Trong Năm:
Có: Ngày Nhâm Tuất (Không tiến hành các nhu cầu về tình cảm, việc lớn, việc quan trọng)
Tình Cảm:                   Tốt với bạn bè, người thân.
Sức Khỏe:                   Tốt.
Tai Nạn:                      Không có.
Giải theo quẻ dịch:
Hô hào các bạn đề phòng.
Lo lắng răn sợ vì kẻ kia muốn nhận chìm thuyền của ta..

Giải thích:
Xảy ra sự việc tranh chấp, cáo giác, đố kỵ.
Sự tranh chấp khởi sự ngấm ngầm mang tính mưu mô, gài bẫy.
Bản thân ta có điểm yếu, họ nắm được và đánh vào điểm yếu ấy.
Họ đánh. Ta chống đỡ được. Có hao tổn cho ta.
Lo lắng, răn sợ cho ta và báo động đến bạn bè, thân quen biết mà phòng bị.

Kết luận:
Trong năm 2006, công việc có những diễn tiến xấu xảy ra trong ba tháng: tháng 3, tháng 7 và tháng 9. Ở các ngày Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn trong ba tháng ấy. Riêng ngày Nhâm Thìn cần phải lưu ý cho cả năm Bính Tuất.

Diễn tiến xấu xảy ra do sự ganh ghét, đố kỵ nơi ta làm việc mà ngấm ngầm cáo giác lên trên.

Các diễn biến như: Cất nhắc lên cao, đặc biệt được ưu ái không xảy ra trong năm nay.

Câu hỏi 12: tôi sinh ngày 10/10/1985 7h 45p sáng. tôi quen 1 ng sinh 24/01/1984 7h15p sáng tôi muốn biết ng đó có thương tôi thật lòng hay ko và chúng tôi có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc hay ko? cám ơn

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:

Tiểu quá 1 + Thuần Chấn 3: bay xa có họa lớn.
Bản mệnh vận khí: Lữ + Tấn 3: Được nhiều người tin.
Bản mệnh ngày sinh: Quải + Quải (5): Hai lần quyết liệt.
Vận khí năm Bính Tuất 2006: Li 1 + Tấn 3: Nhiều người theo.

Giải thích:
“Yêu nhau lắm, cắn nhau đau” Câu này đúng với trường hợp cô Lan Anh.
Không có tình yêu đơn phương trong cuộc tình này, tuy nhiên, ở hai người là quá giống nhau.
Nên khi tính đến chuyện xa hơn sẽ là bất hạnh cho cả hai người.
Năm nay, năm Bính Tuất 2006, cô Lan Anh được yêu, được yêu nhiều, và có nhiều người mang lòng yêu thương cô Lan Anh.

Cô Lan Anh từ nơi bản thân mang sự quyến rũ, hấp dẫn không cưỡng được với những chàng trai biết đến cô. Điều này khiến cho đời sống tình cảm nơi cô Lan Anh thật sôi động.
Có một điểm “Đen” nơi bản mệnh có liên quan đến sự sôi động nói trên:
Nhẹ thì tan nát một mối tình sâu đậm. Nặng là trải qua hai đời chồng.

Kết luận:
Người bạn trai đó yêu cô Lan Anh thật lòng.
Nhưng khi đến với nhau thì sau đó sẽ là nổi bất hạnh lớn của hai người.
Cô Lan Anh cần phải định trước cho các bước đi sắp đến, cùng với một tâm ý sẵn sàng cho những điều đáng tiếc sẽ xảy ra ở mối tình này…
Sự tan vỡ của một mối tình sâu đậm trong cuộc đời tình ái là tốt hơn,
hay chấp nhận sự hiện diện của hai người đàn ông trong cuộc đời đàn bà sau này ?
Khi chọn chấp nhận sự tan vỡ, người cô Lan Anh lấy làm chồng sau này, chỉ có một.


Câu hỏi 13: Tôi tên Hùng Minh, sẽ nhận công việc làm tại công ty mới. Xin cho biết công việc làm mới có khả quan, lâu bền hay không? (ghi chú:hiện tại là Quality Engineer, việc mới là Quality Engineering Manager)

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Con heo tuy gầy yếu nhưng có ngày nó nhảy nhót lung tung.
Hòa thuận mà gây chấn động. Có nguy cơ. Cứ tránh lên gò cao, rồi sẽ được.
Nhún nhường vì mắc nhiều lỗi.
Vì hớ hênh mà ta bị hại. Tin kẻ tiểu nhân sẽ tiêu mòn.

Giải thích:
Anh Hùng Minh với công việc mới sẽ mắc khá nhiều lỗi trong thời gian đầu.
Để giảm thiểu khả năng bị tổn hại do chỉ trích, khi bước qua công ty mới, anh cần:
Khiêm tốn, nhã nhặn với đồng nghiệp lẫn nhân viên dưới quyền, và
né tránh các cô gái trẻ.

Kết luận:
Việc làm nơi công ty mới là khả quan và khá ổn định.
Anh Hùng Minh cần chú ý hai điều ở giai đoạn mới về:
Khiêm tốn & né tránh các cô gái trẻ.

Câu hỏi 14: Tôi đang làm chủ một cửa tiệm giặt ủi (dry cleaners), và tiệm do người em bên vợ trông coi. Xin cho biết tiệm có thể phát triển hơn trong thời gian tới hay không? Nếu không, tôi dự dịnh sẽ bán. Vậy có bán dược dễ dàng không?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Mắc lối và phải sửa lỗi nhiều lần mà được phần khiêm tốn.
Giải tán đi thì vui vẻ nhưng có phần hao mòn.

Giải thích:
Thu nhập cửa tiệm dry cleaners trong thời gian tới
mang tính khiêm tốn và có nhiều lúc cần phải bù đắp vào.
Khi cô Mỹ Linh bán đi vào thời điểm hiện nay,
thì sẽ bán được, nhưng giá sang nhượng sẽ rất thấp.
Cô hãy đợi đến đầu tháng 6, tháng 9, hoặc tháng 12 thì rao giá.
Giá bán sẽ tốt hơn.

Kết luận:
Thu nhập từ dry cleaners khống mấy khả quan, thậm chí rất khiêm tốn.
Khi cô bán, hãy chọn đầu tháng 6, tháng 9, tháng 12 âm lịch thì rao bán.

Câu hỏi 15: Làm nghề Địa ốc có được không ?

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Khôn 4: biết giữ của cải.
Phệ hạp 4: biết quan sát, nhận xét, phân tích tốt.
Tiết 4: biết tiết kiệm.
Tụng 2: hiểu biết luật lệ tốt.
Cổ 5 + Tiểu súc: tích trữ nhà cũ, được khen.

Giải thích:
Cô Lan Khanh có đầy đủ những đức tính để có thể
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc.
Nên mua bán nhà đã qua sử dụng.

Kết luận:
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc sẽ đem lại lợi nhuận tốt.
Cô Lan Khanh hãy gói gọn hoạt động mua bán của mình
trong phạm vi nhà đất đã qua sử dụng.

Câu hỏi 16: Hãng tôi sẻ có 1 cải tổ (restructuring), tức là sẻ có người bị đuổi. Tôi là trong nhửng người mới được nhận vô. Tôi muốn biết mình sẻ mất việt hay không. Tôi muốn biết hướng trước để lo, vì không có ai để nương tựa về vấn đề tài trợ. Xin giúp dùm gấp.

Giải theo quẻ dịch:
Khuê 4: Ở thời cô độc, nếu tìm được người chí thành thì nên theo.
Giải thích:
Cô Lê Hồng Loan sẽ bị mất việc.

Kết luận:
Trong cuộc cải tổ của Hãng sắp tới,
Cô Lê Hồng Loan có trong danh sách cải tổ.
Cô Lê Hồng Loan sẽ không còn làm nơi hãng này nữa.

Câu hỏi 17: Tôi tên là Nguyễn Minh Hoàng sinh ngày 30/01/1985 vào lúc 11h45. Tôi xin được hỏi về con đường học vấn của cả đời tôi. Khi nào tôi sẽ tốt nghiệp.

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:
Khuê (4): Chống đối mà cô lập.
Sư (6): Thắng trận vẻ vang.

Mậu Tí (2008): Sơn Lôi Di (2) + Hỏa Trạch Khuê (4).

Giải thích:
Mong muốn điều chi, theo đuổi sẽ đạt được.
Con đường học vấn kéo dài.
Tính cách thẳng và mạnh mẽ như con nhà lính, nên đi theo đường binh nghiệp, công pháp, tư pháp là thích hợp hơn cả.
Sự nghiệp rất tốt.
Định luật bù trừ được thể hiện rất rõ trong trường hợp này, tình cảm thể hiện hơi thô, khô lạnh.

Kết luận:
Tốt nghiệp là điều chắc chắn.
Không dừng ở tốt nghiệp đại học, Nguyễn Minh Hoàng muốn rằng sẽ đi xa hơn nữa.
Việc đi xa hơn nữa trên con đường học vấn, Nguyễn Minh Hoàng thực hiện được.
Năm Mậu Tí (2008) sẽ tốt nghiệp.

Câu hỏi 18: Tu thang 7 den thang 12, 2006 nay toi co len chuc hay thay doi viec lam khong? Neu co, thi thang nao?

Trả lời:
Năm Bính Tuất, cô Tiểu Lan lên chức.
Tháng 7 âm lịch (Bính Thân) , cô Tiểu Lan sẽ nhận quyết định.

Lưu ý: Năm nay nhuần hai tháng 7 âm lịch.


Câu hỏi 19: tôi đang bán nhà và sẽ mua căn nhà khác vậy tôi muốn biết khi nào tôi có thể bán và mua được nhà và công việc làm của tôi có gì thay đổi tốt xấu thế nào

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Trạch hỏa cách + Gia nhân: Muốn thay đổi nhà cửa.
Gia nhân + Cách: Đổi được nhà.
Gia nhân 1: Phòng ngừa ngay từ khi có nhà.
Phong Hỏa Gia Nhân (4): làm giàu thịnh cho nhà.

Giải thích:
Anh Phạm Quốc Kha sẽ bán được nhà trong năm nay.
Tuy nhiên, việc mua bán nhà hiện nay anh Quốc Kha nên tính toán kỹ.
Do là nếu bán được thì phải đến tháng 9 dương lịch, anh mới mua được nhà mới.
Công việc làm sau này chỉ có tốt lên.

Kết luận:
Công việc làm anh Phạm Quốc Kha không có điều chi phải lo lắng.
Việc nhà cửa, nên tính toán sao cho việc di chuyển không bị: Bán đã xong mà nhà mua chưa đến.

Câu hỏi 20: khỏang giữa tháng 7 này tui muốn về Vn, liệu viêc thi cử có suông sẻ, đậu để về được k, cái khả năng tui về Vn thang 7 tới có thể được k?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Ly: sáng + Minh Di: tối mù mù.
Vị tế: chưa xong.

Giải thích:
Sẽ vượt qua được kỳ thi cử.
Tuy nhiên, chưa thể về Việt Nam vào tháng 7ss.

Kết luận:
Kỳ thi không quá khó khăn.
Cô Lan Anh rồi sẽ qua.
Tuy nhiên, ý định về Việt Nam trong tháng 7 của cô Lan Anh là chưa thể.

Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI ("Chu Dịch hỏi đáp")


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời mẫu 2

Các lễ hội ngày 14 tháng 2 Âm Lịch - Hội Làng Bát Tràng

Các lễ hội ngày 14 tháng 2 Âm Lịch gồm có Hội Làng Bát Tràng,Hội Làng Trung Kính,Hội Đình Bảng, Hội Đền Quan Lớn Thần Tranh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 14 tháng 2 Âm Lịch - Hội Làng Bát Tràng

Các lễ hội ngày 14 tháng 2 Âm Lịch - Hội Làng Bát Tràng

1.Hội Làng Trung Kính

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: thôn Trung Kính, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh quốc vương Đại Thần - Hùng Công, tên thật là Hùng Nộn (thời vua Hùng).

Nội dung: Hội làng Trung Kính có cả phần lễ và phần hội. Phần lễ cúng lợn giống đen tuyền; phần hội có các hoạt động như: hát ca trù, vật, bắt vịt trong ao, đi cầu treo, tổ tôm điếm, thi thổi cơm.

2.Hội Làng Bát Tràng

Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 16 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Đình làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Hán Cao Tổ và Lữ Hậu, Cai O Minh Chính tự Đại Vương, phan đại tướng, Hồ Quốc Thần, Bạch Mã thần.

Nội dung: Hội làng Bát Tràng gồm có lễ rước nước, tắm bài vị, rước bài vị ra đình tế. Lễ dâng thành hoàng là một con trâu tơ béo, thui vàng, đặt cả con lên một chiếc bàn lớn, kèm theo sáu mâm cỗ và 4 mâm xôi. Sau khi lễ xong, phẩm vật được hạ xuống cho cả họ hưởng lộc. Ngoài ra hội còn có cuộc thi sáng tác ca trù để dùng làm hát thờ.

3. Hội Đình Bảng

Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 15 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Đình làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Núi, Thần Nước, Thần Trồng Trọt và sáu nhân thần có công dựng lại làng sau cuộc tàn phá quân Minh.

Nội dung: Lễ hội Đình Bảng có các hoạt đồng nhằm tế thần; các trò chơi dân gian gồm có: đấu vật, chọi gà.

4. Hội Đền Quan Lớn Thần Tranh

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm:Thị Trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh thần sông.

Nội dung: Hội đền quan lớn Thần Tranh thường diễn ra trên đồng, lễ hầu bóng, hát chầu văn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 14 tháng 2 Âm Lịch - Hội Làng Bát Tràng

Quan điểm phong thủy cho phòng làm việc bình thường –

Cửa chính lớn mà đối thẳng với cửa trong văn phòng chính là sự xung khí phong thủy, dòng khí chảy dễ chạy thẳng vào, dễ dẫn đến những việc nhân sự miệng lười không hay, cần thiết khi tiến hành cách ly phải cân nhắc kỹ. Tất nhiên là không thể vừa bước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vào cửa lớn liền đối thẳng với cửa nhà vệ sinh.

phonglamviecdep2

Văn phòng của ỏng chủ nhất định phải là một gian phòng độc lập, không thể mở rộng không gian, bởi vì nghiệp vụ của công ty nhất định phải có tính cơ mật, không thể đưa thêm những tấm bình phong, trong các căn phòng của ông chủ và chủ quản, nên thích hợp và nhỏ một chút củng được, không thể to quá mà không phù hợp. Thông thường những kiến trúc công trình toà nhà văn phòng bên các đường phố đều có kỵ lầu, chính vì vậy mà ở tầng hai cần phải có không gian là nơi có kỵ lầu, các phòng ở trên kỵ lầu không thể làm phòng quyết sách của các nhà chủ quản, chỉ có thể làm các phòng dùng có các nhân viên, bởi vì những kỵ lầu phía dưới các trần nhà, là nơi người đi lại rất nhiêu, dòng khí hỗn loạn, khí trường cũng thường bị nhũng nhiễu.

Chính vì vậy mà trên tầng không thể làm nơi quyết sách được, ngoài ra có không ít những tiểu thương nhân còn lấy tầng dưới làm những cửa hàng, tầng hai làm nơi ở. Lúc này cần chú ý, nhà vệ sinh ở tầng hai không thể đặt ở tầng có phòng hàm việc của ông chủ, các bàn đón tiếp và thần vị đặt ở trên.

Thông thường trong một căn phòng, trên nguyên tắc phân chia bố trí các phòng, phải phối hợp “long biên” và “hổ biên”, cũng chính là nội bộ bên trong của văn phòng, có sự phân chia bên trái liền phải, một nửa bên thuộc long nên đặt phòng làm việc của ỏng chủ, phòng nghiệp vụ, phòng tài vụ; những phòng khác thì đặt ở bên hổ: mỗi vị trí của của văn phòng cần xem xét, tốt nhất là đặt ở bên động long biên, sự nghiệp mới có thể hưng thịnh phát đạt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan điểm phong thủy cho phòng làm việc bình thường –

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mùi năm 2014 –

Dậu/Mùi - Có thể tốt cho cả hai Dậu và Mùi có quá nhiều điểm chung và nhiều thứ để tôn trọng ở nhau. Cả hai đều có đầu óc kinh doanh vững vàng, sức sáng tạo lớn và là con người hành động. Nhưng họ quá nghiêm túc và thiếu tính hài hước. Hai con giáp n
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mùi năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mùi năm 2014 –

Ẩn nghĩa phía sau giấc mơ thấy bóng tối rập rình

Bóng tối xuất hiện đồng nghĩa với sẽ mang đến nỗi buồn, bế tắc của con người trong cuộc sống. Vậy nằm mơ thấy bóng tối có thực sự đáng sợ đến như vậy không?
Ẩn nghĩa phía sau giấc mơ thấy bóng tối rập rình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xưa đến nay, bóng tối xuất hiện đồng nghĩa với sẽ mang đến nỗi buồn, sự bất an, nỗi sợ hãi hay là những điều xấu xa đau khổ, bế tắc của con người trong cuộc sống. Vậy nằm mơ thấy bóng tối có thực sự đáng sợ đến như vậy không?   Khi giải mã giấc mơ người ta thấy bóng tối xuất hiện phổ biến trong những giấc mơ. Nó tượng trưng cho sự xa lạ, không rõ ràng, sự tối tăm và thường đề cập đến sự thất bại trong việc kết nối với thế giới nội tâm của bạn hay bất cứ nỗ lực tinh thần nào. Tuy nhiên, không phải giấc mơ nào liên quan đến bóng tối cũng đều đáng sợ như vậy.


An nghia phia sau giac mo thay bong toi rap rinh
 
 


Mơ thấy mình ở trong bóng tối

  Theo giải mã giấc mơ, nếu bạn mơ thấy bóng tối hoàn toàn, thì giấc mơ này tượng trưng cho việc bạn đang nhầm lẫn về phương hướng và cần thiết phải xem xét lại những hành động của bản thân. Thông điệp mà nó gửi tới là bạn cần nhìn nhận vấn đề ở một góc độ khác, vượt ra khỏi những gì bạn đang thực sự tin tưởng, để tìm ra giải pháp tối ưu nhất. 
 
Nếu bạn nằm mơ thấy mình ở trong bóng tối hay nơi tối tăm, điều này báo trước sự thất bại trong một số công việc mà bạn đang cố gắng. Nó cũng ám chỉ đến cảm giác chán nản, sự sợ hãi, thiếu tin tưởng và ẩn chứa nguy hiểm.
 
Nếu trong giấc mơ, bạn thấy mình đang ngồi ở trong một góc tối, điều này biểu thị cảm xúc của sự thất vọng và thiếu kiểm soát trong việc đưa ra các quyết định, có thể ở hiện tại bạn đang cảm thấy bị mắc kẹt và bị dồn vào chân tường.
 
Tuy nhiên, nếu bạn nằm mơ thấy mặt trời xuyên qua bóng tối, điều này báo hiệu bạn sẽ vượt qua những thất bại. Nếu bạn có cảm giác an toàn trong bóng tối, điều này ngụ ý rằng bạn cần phải nhận ra hạnh phúc ngay trong sự giản đơn của cuộc sống.

Giai ma giac mo - mo thay minh trong bong toi
 

Mơ thấy bóng tối dày đặc bủa vây xung quanh bạn
 

Bóng tối dày, không thể xuyên thủng là một biểu tượng của sự tổn thương, đau đớn cả về thể chất và tinh thần. Nó ám chỉ rằng bạn đã mất liên hệ với bản chất chung của sự vật và thế giới xung quanh, đồng thời, bạn cũng đang gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống.
 

Mơ thấy nhật thực hoặc nguyệt thực
 

Giấc mơ của bạn có sự xuất hiện nhật thực hay nguyệt thực - bóng tối đột ngột buông xuống là một điềm báo rằng người mà bạn biết có thể bị mắc bệnh bệnh nan y hoặc gặp tai nạn. 
 
Giấc mơ sẽ tích cực nếu bạn tìm cách thoát khỏi bóng tối. Nếu bạn mơ thấy mình từ bóng tối bước ra ánh sáng, có nghĩa là bạn sẽ thoát khỏi nguy hiểm. Nó cũng đề cập đến thực tế là bạn có thể có một cuộc sống lãng mạn, thành công.
 

Mơ thấy bóng tối đang dần xuất hiện và đến gần bạn
 

Giai ma giac mo - mo thay bong toi bua vay
 
Giấc mơ về bóng tối đang bủa vây, đang đến gần bạn là điềm báo về sự thất bại trong công việc. Bóng tối tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm, gian ác, cái chết và nỗi sợ hãi của con người. Nếu bình minh xuất hiện sau bóng tối, bạn sẽ vượt qua những thất bại này. 
 
Nếu bạn cảm thấy an toàn trong bóng tối, thì giấc mơ của bạn cho thấy rằng bạn không quan tâm đến điều bất lợi sẽ xuất hiện trong cuộc sống của mình. Nói cách khác, phương châm sống của bạn là: "ngu si hưởng thái bình."
 

Mơ thấy mình bị lạc hoặc mất hút trong bóng tối
 

Giấc mơ rằng bạn đang bị lạc trong bóng tối gợi lên cảm giác thất vọng, trầm cảm và không chắc chắn. Nằm mơ thấy bị lạc trong bóng tối và chỉ có duy nhất một tia sáng dẫn lối ra là lúc khó khăn nhất hãy nhờ sự giúp đỡ của bạn bè. 
 
Nằm mơ thấy mình bị mất hút vào bóng tối, bạn cảm thấy không an toàn, tinh thần suy sụp, tuyệt vọng vì bản thân đang vướng phải rắc rối nào đó mà chưa thể buông bỏ. Theo đó, bạn nên tự lấy lại tinh thần, nhanh chóng tạo ra niềm vui, xua tan cảm giác chán nản hiện tại, đồng thời sống đời an vui với 5 điều Phật dạy cách từ bỏ sân hận.
 

Mơ không tìm thấy ai hoặc có một người không rõ ràng xuất hiện trong bóng tối
 

Nếu trong giấc mơ của bạn, bạn không thể tìm thấy ai đó trong bóng tối, bạn có xu hướng để cho cảm xúc lấn áp bạn và để mất ý nghĩa thông thường. Điều này là lời nhắc nhở bạn cần phải bình tĩnh và kiểm soát cảm xúc của bản thân. 
 
Nếu giấc mơ của bạn có một người không rõ ràng xuất hiện trong bóng tối thì bạn đang trải qua nỗi sợ hãi đánh thức cuộc sống của mình. Bạn cần phải dũng cảm đối mặt và vượt qua nó.

Giai ma giac mo - mo thay ai do trong bong toi
 

Một số khía cạnh khác về giấc mơ liên quan đến bóng tối
 

Trong giấc mơ, nếu bạn nhìn thấy ai đó trong bóng tối có nghĩa là bạn nên giữ bình tĩnh trong xung đột.
 
Nếu bạn mơ thấy bóng tối trong hang động, điều này thể hiện nỗi buồn.
 
Nếu bạn sợ bóng tối, bạn sẽ có một cuộc sống và tình yêu hạnh phúc. 
 
Mơ thấy bóng tối trong đường hầm cho thấy khả năng bạn sẽ phải vượt qua những thử thách về tinh thần.
 
Nếu bạn mơ thấy mình lò dò đi trong bóng tối, điều này ám chỉ về sự thiếu thông tin để bạn có thể đưa ra quyết định nào đó một cách rõ ràng.

Bạn hãy thận trọng trong suy tính, không nên nóng vội.
 
Nếu bạn mơ thấy mình đang mò mẫm trong bóng tối, điều này cho thấy bạn chưa đủ sáng suốt để có thể đưa ra quyết định rõ ràng. Đây là lời nhắc nhở bạn cần phải cẩn trọng và không được vội vàng với những quyết định hay sự lựa chọn của mình.
 
Nếu bạn mơ thấy mình thích ngắm bóng tối, đó là một dấu hiệu cho thấy bạn thích đối mặt với khó khăn và thử thách.
 
Tuy nhiên, nếu bạn xoay chuyển được ánh sáng trong bóng tối, giấc mơ dự đoán được khả năng vượt qua những trở ngại. Nếu bạn mơ thấy cuối nơi có bóng tối xuất hiện ánh sáng lóe lên thì điều này nói lên rằng bạn đã tìm thấy cho mình một điểm tựa, một hướng đi mới trong tương lai. Bạn không nên quá lo lắng về những điều đang diễn ra, bởi dù có thế nào bạn vẫn nên tận hưởng những gì mà mình đã cố gắng để đạt được trong thời gian qua.

Trái ngược khi mơ thấy bóng tối, giấc mơ về ánh sáng mang ý nghĩa tốt lành.
  Thủy Nguyễn   6 giấc mơ báo hiệu tình yêu sắp đến Giải mã giấc mơ về lông mi, lông mày
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ẩn nghĩa phía sau giấc mơ thấy bóng tối rập rình

Vận mệnh người tuổi Sửu theo tháng sinh âm lịch

Tùy theo tháng sinh âm lịch mà vận mệnh người tuổi Sửu lại có những điểm khác biệt. Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá vận mệnh của con giáp này theo tháng sinh
Vận mệnh người tuổi Sửu theo tháng sinh âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Sửu chăm chỉ cần cù, lại thật thà lương thiện. Song tùy theo tháng sinh âm lịch mà vận mệnh người tuổi Sửu lại có những điểm khác biệt. Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật vận mệnh người tuổi Sửu theo từng tháng sinh nhé.   Theo tử vi, tháng sinh ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách cũng như cuộc đời con người. Người tuổi Sửu vốn được biết đến là những người chăm chỉ cần cù, tâm địa thiện lương. Người sinh năm con Trâu là những người có trách nhiệm cao, có sức chịu đựng hơn người, cũng kiên trì và có ý chí vững vàng. Họ không giỏi thể hiện tình cảm, lại bảo thủ nên thường muốn thể hiện bằng cách gián tiếp.

van menh nguoi tuoi Suu theo thang sinh am lich
 
  Tuy nhiên mỗi một tháng sinh lại khiến cho cuộc đời của con giáp này đi theo những hướng khác nhau. Hôm nay, chúng ta hãy tìm hiểu xem tháng sinh âm lịch có tác động gì đến cuộc đời con người, đặc biệt là với người tuổi Sửu. Lịch ngày tốt sẽ tiết lộ với các bạn vận mệnh của người tuổi Sửu theo tháng sinh âm lịch, cùng theo dõi nhé.   Bạn có thể xem ngày tháng năm sinh âm lịch của mình qua công cụ Đổi ngày âm dương trên Lịch ngày tốt.  

1. Người tuổi Sửu sinh tháng Giêng (tháng 1 âm lịch)


thang 1 am
 
Tháng Giêng rơi vào tiết Tân Xuân. Người tuổi Sửu mà sinh vào tháng Giêng, khi xuân sang thì có nhiều cơ hội để phát triển trong tương lai. Tuy tiền vận gặp nhiều trắc trở, khó khăn nhưng ngày sau nhờ nỗ lực và tài năng của bản thân thì sẽ giành được nhiều thành công, tài lộc đủ đầy, sung túc giàu sang.   Tháng Giêng cũng là thời điểm Tết đến xuân về nên người này cũng được hưởng nhiều phúc khí, là người có quyền lực trong tay. Những vất vả của tiền vận sẽ biến mất vào trung vận, vận khí chuyển đổi, hóa hung thành cát, hậu vận an nhàn hưởng phúc tuổi già. Tuy nhiên người này không được hưởng nhiều phúc tổ tông, phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình, trải qua nhiều vất vả khổ sở trên con đường lập nghiệp.  

2. Người tuổi Sửu sinh tháng 2 âm lịch

thang 2 am
 
Tháng 2 âm lịch là tiết Kinh Trập. Người tuổi Sửu sinh tháng này có cá tính mạnh, tự lập tự cường, dũng cảm gan dạ, có quyền uy. Tuy nhiên họ cần người dẫn dắt mình trên đường đời, nếu không sẽ giống như anh hùng không gặp thời, khó có thể phát huy hết năng lực. Cuộc đời họ trải qua nhiều điều xui rủi, gặp chuyện buồn phiền.   Họ là những người có tài có trí, lại dám nghĩ dám làm, không sợ hãi trước bất cứ điều gì. Ước mơ của họ là có thể một tay làm nên cơ nghiệp, gây dựng sự nghiệp khiến bao người phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên do nhiều yếu tố mà họ phải trải qua nhiều khó khăn vất vả, thất bại nhiều lần trước khi có được thành công.   Người tuổi Sửu sinh tháng 2 âm lịch có một khuyết điểm chí mạng, đó là hành sự lỗ mãng, thiếu xem xét cẩn trọng trước khi làm, chỉ dựa vào dũng khí của mình để hành động, ngang ngạnh cố chấp không chịu nghe lời khuyên can của mọi người. Chính vì thế mà cuộc đời họ luôn gặp phải nhiều điều không được như ý, chịu nhiều gian nan vất vả, ước vọng không thành, lý tưởng hóa thành bong bóng xà phòng.   Bạn nên sửa ngay khuyết điểm này, tu tâm dưỡng tính. Làm bất cứ chuyện gì cũng phải xem thời thế, suy tính kĩ càng, không nên cố chấp, một mình một ý. Ngàn vạn lời có thể không nghe nhưng không thể bỏ qua dù chỉ là một lời góp ý. Có như vậy bạn mới có thể giảm bớt trở ngại trên con đường đến với thành công, tạo dựng sự nghiệp như mình mong muốn.  

3. Người tuổi Sửu sinh tháng 3 âm lịch

thang 3 am
 
Người sinh năm Sửu vào tháng 3 âm lịch là đương tiết Thanh Minh, trời đất đổi màu tươi sáng. Người này tính tình phóng khoáng, tự do tự tại, có năng lực và khả năng thích nghi tốt nên tới đâu cũng có thể dừng chân lập nghiệp. Họ là người độc lập, không thích bị người khác gò ép, quản lý. Sự nghiệp tuy có nhiều phong ba bão táp nhưng cuối cùng vẫn có thể thực hiện được ước mơ. Kinh tế ổn định, tiền bạc dư dôi.   Sinh vào tháng 3 âm lịch, những chú Trâu này có cuộc sống tiêu dao, an lạc, cả đời không phải lo chuyện cơm ăn áo mặc. Họ là người có địa vị trong xã hội, được mọi người kính trọng, có thể sẽ trở thành tầng lớp giàu có, thượng lưu.   Thông minh đĩnh ngộ, phong thái tiêu dao, hiểu sâu biết rộng, họ sống thoải mái và biết cách tận hưởng cuộc sống. Nên dựa vào tài trí của mình để đi theo các ngành thiên về nghiên cứu. Tuy trong cuộc đời không ít những đợt sóng ngầm nhưng họ khá may mắn nên đi đâu cũng được quý nhân giúp đỡ, hóa hung thành cát. Hậu vận cực tốt, gia đạo an yên, sung túc giàu có, con cháu đầy đàn.   Có thể nói vận mệnh người tuổi Sửu sinh tháng 3 âm lịch khá tốt, có số an nhàn, có phúc khí ngập tràn, tuy trong đời không có thành công rực rỡ nổi bật, nhưng nếu biết đủ, bạn sẽ thấy cuộc sống rất tiêu dao tự tại.   

4. Người tuổi Sửu sinh tháng 4 âm lịch

thang 4 am
 
Tháng 4 âm lịch rơi vào tiết Lập Hạ. Người tuổi Sửu sinh vào tháng này tuy có khát khao lập nghiệp nhưng lại không gặp đúng thời đúng thế nên khó có được thành công. Cuộc đời trải qua nhiều vất vả, phải lăn lộn ngược xuôi, đi lại khắp chốn, gian lao đủ cả nhưng tài lộc khó thành. Bị người khác o ép trói buộc, không có được tự do.   Người tuổi Sửu sinh tháng 4 âm lịch có số vất vả, không được nghỉ ngơi mà phải làm việc luôn chân luôn tay. Vận khí bình thường, hay phải chịu chỉ đạo, sai phái của người khác, không được tự do hành động hay làm theo ý mình mà luôn bị hạn chế.   Đường tài lộc không có gì nổi bật, chỉ đủ ăn đủ mặc chứ không có nhiều khoản tiết kiệm để dành. Trong xã hội không có địa vị cao, đa phần phải rời xa quê hương để lập nghiệp. Người này nên chú ý đầu tư vào con đường học hành, làm giàu tri thức của mình hoặc học lấy một nghề nào đó thật thành thục thì sẽ có thể cải thiện số mệnh. Chỉ cần chăm chỉ cần cù thì tuy “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” nhưng vẫn có thể “nhân định thắng thiên”.

Mời bạn xem thêm Tuổi Sửu hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân.
 

5. Người tuổi Sửu sinh tháng 5 âm lịch

thang 5 am
 
Tháng 5 âm lịch rơi vào tiết Mang Chủng, người tuổi Sửu sinh tháng này sức khỏe không được tốt, hay ốm đau bệnh tật. Cuộc sống khó khăn, làm chuyện gì cũng nhiều trở ngại ngáng đường, tinh thần mỏi mệt. Nên chú ý tu dưỡng tâm tính, đừng nên hành động bốc đồng.   Sinh vào tháng 5 âm lịch, vận mệnh người tuổi Sửu không được tốt lắm, song được nhiều người quý mến bởi tính cách trung hậu lương thiện, thành thực chân tình. Họ thường phải xa quê hương để mưu sinh lập nghiệp song tiền bạc kiếm được cũng không nhiều.    Họ không nhờ cậy được nhiều vào gia đình, cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm, phải tự lực cánh sinh chứ không được ai giúp đỡ. Tuy nhiên, phúc khí vẫn còn nên người tuổi Sửu sinh tháng 5 âm lịch vẫn an ổn sống đến hết đời. Hãy suy nghĩ lạc quan, tin rằng chỉ cần có mục tiêu thực tế, không ngừng phấn đấu để đạt được mục tiêu đó thì chắc chắn cuộc đời bạn sẽ có thêm rất nhiều ý nghĩa.  

6. Người tuổi Sửu sinh tháng 6 âm lịch

thang 6am
 
Tháng 6 âm lịch rơi vào tiết Tiểu Thử. Người tuổi Sửu sinh tháng này dung mạo đẹp đẽ, tài năng xuất chúng, nhân cách cao sang được nhiều người ngưỡng mộ. Nửa đời hạnh phúc, nửa đời khổ sở. Thời vận chắc chắn sẽ tới, có quý nhân nâng đỡ, sự nghiệp thành công như ý.   Người sinh năm Sửu lại trúng vào tháng 6 âm lịch tuy không được hưởng phúc hương hỏa tổ tiên, cũng không được người thân giúp đỡ, nhưng bản thân họ là người thông minh tài trí, xuất sắc hơn người nên có thể tự mình làm nên cơ nghiệp.

Tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào, bạn biết chưa?
  Tiền vận trải qua nhiều khó khăn vất vả, trung vận dần phát đạt hơn, tới năm 60 tuổi thì cơ bản có thể hưởng phúc tuổi già. Cuộc đời cát nhiều hung ít, lại được quý nhân phù trợ, nâng đỡ nên không phải chịu vận hạn gì quá lớn.   Có điều trong đời người này không có số nắm quyền. Trí tuệ hơn người, có tài văn chương, học hành giỏi giang, phẩm chất tốt, tâm địa thiện lương, biết giữ chữ tín… Họ có nhiều bạn bè, cũng có phúc khí quý nhân, những năm tháng tuổi già được hưởng nhiều phúc lộc, tiêu dao tự tại.  

7. Người tuổi Sửu sinh tháng 7 âm lịch

thang 7 am
 
Tháng 7 âm lịch rơi vào tiết Lập Thu. Người tuổi Sửu sinh tháng này sự nghiệp thành công lẫy lừng, được hưởng nhiều phúc khí, gặp nhiều may mắn, tài lộc dồi dào, gia đình sung túc. Hoạn lộ hanh thông, tiền vận được phúc tinh cao chiếu, tuổi già được hưởng lộc con hiền cháu thảo.   Người tuổi Sửu sinh tháng 7 âm lịch là người có tính độc lập. Họ là người có khí chất bất phàm, thông minh đĩnh ngộ, vừa được hưởng phúc lộc tổ tiên, lại vừa được gia đình nâng đỡ, ủng hộ rất nhiều.   Cuộc đời người này khá sung túc đủ đầy, không phải trải qua sóng gió thăng trầm gì quá lớn, tài lộc ùn ùn kéo tới không ngừng, số vượng tài vượng lộc. Tuổi già càng phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn, vui vầy cùng con cháu, phúc khí cực vượng.  

8. Người tuổi Sửu sinh tháng 8 âm lịch

thang 8 am
 
Tháng 8 âm lịch rơi vào tiết Bạch Lộ. Người tuổi Sửu sinh tháng này gặp nhiều khó khăn trong công việc, song lại được hưởng nhiều phúc lộc từ hương hỏa tổ tiên để lại. Chỉ cần có ý chí và cố gắng không ngừng thì chắc chắn sẽ giành được thành công như ý. Họ là người tài nghệ tinh thông, có duyên ăn nói, biết tiến biết lùi, ứng xử khéo léo, tương lai là người sự nghiệp thành công, đức cao vọng trọng.   Người sinh tháng 8 âm lịch năm Sửu có sức khỏe rất tốt, phúc khí vượng, cuộc đời ít phải trải qua hiểm nguy, cũng không có nạn kiện cáo, lao tù. Họ là người thông minh lanh lợi, giỏi ứng biến linh hoạt, danh lợi đủ đầy, con cháu đầy đàn.   Trong công việc, họ là người giàu tính sáng tạo, thường đưa ra những ý tưởng độc đáo, có thể trở thành người lãnh đạo, nắm quyền lực trong tay. Về già, họ là người có địa vị trong xã hội, được người người nể trọng.   Có điều, trên con đường sự nghiệp, người này đôi khi sẽ gặp phải những điều ngáng trở chứ không được thuận lợi suôn sẻ tất cả. Tuy có lúc nản lòng thối chí nhưng họ nhanh chóng lấy lại tinh thần, nhờ đó mà gây dựng cơ nghiệp cho mình.   Có thể nói vận mệnh người tuổi Sửu sinh tháng 8 âm lịch khá tốt, tài lộc dồi dào, tuy nhiên họ có phần không tự thỏa mãn với bản thân nên luôn luôn cố gắng không ngừng để thể hiện giá trị của bản thân.  

9. Người tuổi Sửu sinh tháng 9 âm lịch

thang 9 am
 
Tháng 9 âm lịch rơi vào tiết Hàn Lộ. Người tuổi Sửu sinh tháng này tuy xuất thân bần hàn, điểm xuất phát thấp hơn mọi người nhưng lại có ý chí kiên cường, tất thành đại sự. Họ là người thông minh mưu trí, có tài lãnh đạo, chuyện cơm ăn áo mặc cả đời không cần phải lo lắng. Thời vận an hòa, mọi sự như ý cát tường, cuộc đời hạnh phúc lâu dài.   Người tuổi Sửu sinh tháng 8 âm lịch là người có ý chí, ham học hỏi. Họ cần cù chăm chỉ, học hành giỏi giang. Trí tuệ hơn người, lại dũng cảm kiên cường. Trên con đường sự nghiệp, có thể nói họ giành được những điều mình mong đợi, vạn sự như ý, được quý nhân phù trợ và nâng đỡ rất nhiều.   Họ là những người nắm quyền lực trong tay, có những bước thăng tiến rất cao, không bị kẻ tiểu nhân chơi xấu, cũng không bị bó buộc bởi gánh nặng gia đình, luôn sẵn sàng tiến bước bất cứ lúc nào. Họ có ý chí phấn đấu và luôn cố gắng không ngừng để gây dựng sự nghiệp, nhờ đó giành được nhiều thành công vang dội.  

10. Người tuổi Sửu sinh tháng 10 âm lịch

thang 10 am
 
Tháng 10 âm lịch rơi vào tiết Lập Đông. Người tuổi Sửu sinh tháng này có suy nghĩ độc lập, hành động thoải mái tự nhiên. Họ trải qua nhiều sóng gió cuộc đời, chịu nhiều vất vả nhưng cuối cùng thì sự nghiệp vô cùng vượng phát, tài lộc dồi dào, con đường học vấn cũng rất hanh thông.   Xem vận mệnh người tuổi Sửu sinh tháng 10 âm lịch, tiền vận chịu nhiều vất vả, xuất thân cơ hàn, không được hưởng phúc lộc tổ tiên. Họ phải tự thân vận động, không được nhờ cậy gì về gia đình mà hoàn toàn tay trắng lập nghiệp.   Tuy nhiên, đến trung vận, vượng khí phát, sự nghiệp bắt đầu có nhiều bước tiến triển tích cực, dần giành được nhiều thành tựu, có sự thăng tiến đáng kể. Tư duy nhanh nhạy giúp họ khá nhiều trong công việc, họ làm việc lý trí và quyết đoán, có khả năng làm việc độc lập tốt, cũng có khả năng sáng tạo cao.   Người này có đầu óc kinh doanh khá tốt, rất hợp đi theo con đường kinh doanh buôn bán, tài lộc cực vượng, không lo chuyện cơm ăn áo mặc. Tuổi già phúc thọ song toàn, hưởng lộc an nhàn.  

11. Người tuổi Sửu sinh tháng 11 âm lịch

thang 11 am
 
Tháng 11 âm lịch rơi vào tiết Đại Tuyết. Người tuổi Sửu sinh vào tháng này được hưởng lộc từ tổ nghiệp, song gặp nhiều tai họa trong đời, chịu khổ cực khó ai bằng, thiếu thốn đủ bề. Mưu sự không thuận, cũng không có nhiều tri âm tri kỉ, có chuyện buồn không nơi giãi bày, công danh sự nghiệp cũng chỉ bình thường, không có nhiều thành tựu. An ủi duy nhất là sức khỏe tốt, tuy nhiều chuyện xảy ra nhưng cuộc đời được bình an.   Người sinh tháng 11 âm lịch năm Sửu vận mệnh thế nào? Có thể nói họ có số khá vất vả, trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống, cũng không may mắn được quý nhân phù trợ, hiếm khi nhờ được ai giúp đỡ.   Cuộc sống gia đình kém thuận hòa, cần khéo léo giữ gìn hòa khí và hạnh phúc gia đình. Con cái cần chú ý bảo ban nuôi dạy, cho con được hưởng tình yêu thương và sự quan tâm của mẹ cha. Tuy nhiên người này vẫn có ý chí rất kiên cường, thất bại không làm họ nản lòng mà ngược lại, họ càng cố gắng hơn gấp bội lần. Ý chí là điều rất quan trọng, có thể khiến cho vận mệnh cuộc đời thay đổi.  

12. Người tuổi Sửu sinh tháng Chạp (tháng 12 âm lịch)

thang chap
 
Tháng 12 âm lịch rơi vào tiết Tiểu Hàn. Người tuổi Sửu sinh tháng này tài lộc khó tụ, công danh kém bề nổi trội, sự nghiệp gặp nhiều khó khăn trắc trở. Tuy nhiên hậu vận khá tốt, được an hưởng phúc tuổi già, con cháu đủ đầy, hiếu thuận ngoan ngoãn.   Người tuổi Sửu sinh tháng 12 âm lịch tuy cuộc đời không mấy giàu sang song học hành giỏi gian tấn tới, có ý chí kiên cường và vững vàng hơn nhiều người. Họ có tham vọng, hoài bão cao xa, có điều gặp nhiều thứ ngáng trở nên khó lòng thành công, chỉ cần có ý chí và quyết tâm thì chắc chắn sau cơn mưa trời lại sáng.   Hậu vận phúc khí đủ đầy, được hưởng phúc lộc đất trời, con cháu trong nhà yêu thương hòa thuận. Tuy kinh tế không mấy khá giả nhưng phẩm cách con người tuyệt vời, không vì tiền bạc mà khiến cho cuộc sống trở nên tồi tệ, biết tìm niềm vui từ những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống.    Hy Vũ

Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Sửu Bí mật vận mệnh cuộc đời người sinh năm Quý Sửu 1973 Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu Xem hướng nhà theo tuổi: Người tuổi Sửu nên và không nên làm nhà theo hướng nào?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Sửu theo tháng sinh âm lịch

Nguyên tắc luận đoán một lá số tử vi

Các nguyên tắc không thể bỏ qua khi luận đoán một lá số trong tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên tắc luận đoán một lá số tử vi

Nguyên tắc luận đoán một lá số tử vi

Nguyên tắc luận đoán một lá số tử vi bao gồm:

Muốn giải đoán một lá số, cần phải:

1. Cần xét các yếu tố về năm, tháng, ngày, giờ sinh, để biết tánh chánh yếu của cuộc

đời.

2. Vị trí Mệnh và Thân tại cung Âm hay Dương, tại 1 cung của Tứ Sinh, Tứ Chính

hay Tứ Mộ và so với cung nhị hợp, để biết một số tánh chất khác của đương số.

3. Vị trí Mệnh và Thân trong 3 vòng Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh để biết về tư

cách, hạnh phúc, nếp sống của đương số.

4. Đại cương Đại Vận để biết đại cương trọn cuộc đời, những thời kỳ lên xuống.

Đến đây, là đủ nắm trọn được cuộc đời trong những nét chính và rất đúng, nhưng

trước đó cũng phải xét xem giờ sinh có đúng vì thường thường người ta hay lầm lẫn

về giờ sinh. Vì thế, đúng lúc và với những giải đoán đầu tiên, phải lấy các giải đoán

ấy để kiểm điểm giờ sinh.

5. Sau đó, giải đoán về các thể kết hợp của sao. Phải biết hành của sao, vị trí tốt xấu

của sao, ảnh hưởng của sao đỗi với mạng đương số. Và lần lượt xét đến các chi

tiết về Mệnh, Thân của đương số bằng cách nhìn các sao ở Mệnh, Thân, Phúc

Đức. Sự cần yếu là làm sao nhìn ra các sao đó, cho nên chúng tôi xin ghi thành

những phần trọng yếu để quý bạn có thể nhận thấy ngay, kể từ những nhận xét đầu 

đã có là phải thấy trước những thế sao để tìm ra. Cũng có những hướng dẫn để

tìm.

Các chương trong phần này là:

a) Các bộ Chính Tinh: Các thể kết hợp.

- Công danh, sự nghiệp, thế đứng ở đời.

- Bản chất đàng hoàng hay gian xảo.

- Tính tình.

b) Mạng Vô Chính Diệu:

c) Các Trung Tinh mạnh

- Tứ Linh.

- Hồng, Đào, Thiên Không.

- Mã.

- Khôi, Việt.

- Tam Hoá.

- Xương Khúc, Phụ, Cáo.

- Đẩu Quân.

d) Các Hung Tinh mạnh.

- Không Kiếp.

- Kình Đà.

- Linh Hoả.

- Thiên Không, Kiếp Sát, Lưu Hà.

- Phá Toái.

- Hình Riêu.

- Cô Quả, Khốc Hư, Tang Điếu.

- Kỵ.

- Thương, Sứ.

- La, Võng.

e) Các sao Phúc Lộc.

- Tứ Đức.

- Lộc Tồn, Hoá Lộc.

- Lưu Niên Văn Tinh.

- Thiên Trù.

f) Các sao Cản Phá, Che Đỡ. 

- Tuần, Triệt.

- Quan Phúc, Khôi Việt.

- Khoa.

- Tài Thọ.

- Giải Thần, Thiên Giải, Địa Giải.

Sau khi nắm hết phần này, quý bạn có thể thấy rõ mọi điều trên lá số, đồng thời

làm quen với cách lập luận Âm Dương và Sinh Khắc chế hoá giữa các hành để thêm các

chi tiết cho việc giải đoán.

Các phần kế sẽ nói về các cung trên lá số và vận hạn (Đại Vận, Tiểu Vận, Nguyệt

Vận).

Chương II

YẾU TỐ VỀ NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH

I – GIẢI ĐOÁN VỀ CAN CHI CỦA NĂM SINH

Hàng Can của năm sinh là cái gốc của vận mạng, hàng Chi là cành là ngọn. Thế

cho nên tuỳ theo sự giao hành giữa gốc và cành, ngọn, tức là giữa Can và Chi, ta có ngay

giải đoán đầu tiên về một nét chính của vận mạng tuỳ theo Can và Chi sinh khắc nhau

như thế nào.

Biết rằng hành của Can là:

- Giáp, Ất Mộc

- Bính, Đinh Hoả

- Mậu, Kỷ Thổ

- Canh, Tân Kim

- Nhâm, Quý Thuỷ

Và hành của Chi là:

- Hợi, Tí Thuỷ

- Dần, Mão Mộc

- Tí , Ngọ Hoả

- Thân, Dậu Kim

- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Thổ

Ta chỉ cần so sánh hai hàng của Can và Chi năm sinh là giải đoán được:

Tốt 1 – Can sinh Chi

 Tức là gốc sinh ngọn, thuận lý của gốc rễ hạnh phúc sinh cho thân thế, thì con

người có thực lực, đời có nhiều thành công dễ dàng. 

Tốt 2 – Can hoà Chi (cùng hành)

Con người có thực lực, thực tài, những thành công là do thực lực của mình .

Tốt 3 – Chi sinh Can (sinh gốc, có sự nghịch thường, nhưng cũng là sinh).

Người này có những thành công bất ngờ do sự may mắn lạ thường, mà không phải

do thực lực của mình.

Xấu vừa – Can khắc Chi

Vì cái gốc vận mạng khắc cái thân thế, cho nên trong đời có những trở lực.

Xấu – Chi khắc Can ( đến cái khắc cũng là khắc nghịch)

Trong đời gặp những nghịch cảnh, có khi chua cay, mộng khó đạt thành.

Thí dụ:

1) Tuổi Giáp Dần: Giáp là Mộc, Dần là Mộc, Can Chi hoà nhau. Vậy là người

có thực lực (tuy nhiên thành công trong đời hay không, đạt ý nguyện hay

không lại do yếu tố khác).

2) Tuổi Giáp Ngọ: Giáp là Mộc, Ngọ là Hoả, Can sinh Chi. Vậy là tốt nhất,

đời nhiều thành công dễ dàng do thực tài của mình...

3) Tuổi Giáp Tuất: Giáp là Mộc, Tuất là Thổ, Can khắc Chi, đời gặp nhiều trở

lực làm ngăn trở công việc

4) Tuổi Quý Mùi: Quý là Thuỷ, Mùi là Thổ, Chi khắc Can, đời gặp nhiều

nghịch cảnh chua cay.

5) Tuổi Ất Hợi: Hợi là Thuỷ, Ất là Mộc, Chi sinh Can, đời gặp nhiều may

mắn lạ thường nhưng không phải do tài mình.(2)

Chú ý: Đây là một yếu tố tương đối ghi một nét rất đại cương về cuộc đời, không

có nghĩa là sang hèn: Một người công nhân nghèo hèn có thể có Can sinh Chi, vì ở đời

gặp thuận tiện dễ thành công do tài ba của mình. Ngược lại, có người có địa vị cao cả

nhưng hay gặp nghịch cảnh, trở lực. Nhưng trong thất bại mà vẫn giữ địa vị cao của

mình. Ở người nếu bản chất của số là nghèo, thì cái may bất thường có đến rồi cũng qua

đi và cái nghèo lại trở về. 

Dẫu sao, nét này cũng chỉ là tương đối.

Trích theo tử vi Giảng Minh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc luận đoán một lá số tử vi

Xem tướng móng tay theo Đông y –

Đông y cho rằng khi cơ thể bị bệnh thì móng tay sẽ thay đổi. Điều này phù hợp với quan điểm “thường biến” và “đột biến” tướng pháp về móng tay. Móng tay thay đổi bất thường về hình dạng, màu sắc, cấu trúc khi cơ thể mắc một số bệnh. Ví dụ: - Vết trắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đông y cho rằng khi cơ thể bị bệnh thì móng tay sẽ thay đổi. Điều này phù hợp với quan điểm “thường biến” và “đột biến” tướng pháp về móng tay.
Móng tay thay đổi bất thường về hình dạng, màu sắc, cấu trúc khi cơ thể mắc một số bệnh. Ví dụ:

ptg00831901

– Vết trắng: Cơ thể thiếu kẽm, bệnh gan hoặc thận.
– Móng giòn dễ gãy: Cơ thể thiếu sắt, móng sẽ phẳng hoặc cong vểnh lên bệnh ở thận.
– Móng vàng: Bệnh phế quản mạn tính.
– Móng trắng đục: Bệnh sơ gan.
– Móng tay xanh: Cơ thể nhiễm độc đồng hay kim loại bạc.
– Móng tay bị bong da ở cuống móng: Bệnh cường tuyến giáp.
– Móng bị phình to ra do bệnh tim phổi. Vì thiếu oxy đã lâu.

Mặt khác móng tay bị “đột biến” do đang dùng lâu ngày các thuốc. Móng biến sang màu xanh vàng: Thuốc sốt rét.
– Móng có vệt trắng chạy ngang: Thuốc ức chế tăng sinh.
– Móng có màu nâu: Thuốc tetracilin…

Như vậy khi hình dạng móng do bệnh ngũ tạng, do nấm móng hay do thuốc thì phải lưu ý về mặt tướng pháp để xét tính cách con người. Ví dụ:

– Móng hình tam giác cụt: Dấu hiệu người nóng nảy, hay gây sự và bản tính cô” chấp.
– Móng tay hình thang (dưới to trên đầu nhỏ): Dấu hiệu óc tưởng tượng quá thái (bệnh hoang tưởng).

Nếu dưới nhỏ trên to: Tính kín đáo, dè dặt, cứng cỏi và tự trọng cao.

– Móng cứng: Tính nóng.
– Móng quắp: Tính ích kỷ, tham lam, ganh tỵ.
– Móng đục màu, dày, bề ngang rộng: Tính nghi kỵ, xảo quyệt.
– Móng hồng: Tính nóng nảy, hăng hái.
– Móng bóng láng: Tư cách lịch sự, thanh nhã.
Như vậy xem tướng móng tay cần thận trọng lắm mới được. Ta cứ xem trên móng khi biết chắc chắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng móng tay theo Đông y –

Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu rất kỵ trong việc an táng.
Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu, rất kỵ trong việc an táng.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

1. Nhất tiện, bát phong xúy huyệt: Bát phong là gió từ 8 hướng thổi vào huyệt làm khí tiêu tán.

2. Nhị tiện, Chu Tước tiêu sách: là gò Chu Tước trước mộ vô tình, không triều bái, không nhảy múa.

3. Tam tiện, Thanh Long phi khứ: chỉ gò Thanh Long không ôm huyệt mộ có thế bay đi.

4. Tứ tiện, Thủy Khẩu phân lưu: nước ở cửa sông chảy đi không bao huyệt mộ.

5. Ngũ tiện, bãi đầu kiều vĩ: Bãi đầu là chỉ các núi không hướng về huyệt mộ; kiều vĩ là cong đuôi, ý chỉ dòng nước chảy đi không bao bọc huyệt mộ.

6. Lục tiện, tiền hậu xuyên phong: Tiền hậu chỉ gò Chu Tước, gò Huyền Vũ nhỏ và thấp hoặc không có gió thổi tản khí huyệt mộ.

7. Thất tiện, sơn phi thủy tẩu: chỉ núi không triều, nước không ôm huyệt.

8. Bát tiện, tả hữu giai không: không có gò Thanh Long, gò Bạch Hổ.

9. Cửu tiện, sơn băng thủy liệt: núi đổ, nước cạn.

10. Thập tiện, hữu chủ vô khách: Hữu chủ là có huyệt mộ; vô khách là không có án sơn, triều sơn.

(Theo Bí ẩn thi vận)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Văn hóa dùng đũa trong ẩm thực Việt Nam và một số nước châu Á

Đũa là món đồ dùng thân thuộc trong đời sống ẩm thực của nhiều nước Châu Á, tuy vậy, ở các quốc gia khác nhau, đũa lại có những nét riêng trong cách sử dụng và những quan niệm văn hóa khác biệt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đũa ra đời từ khoảng năm 1800 trước Công nguyên, thoạt tiên, những đôi đũa có kích thước lớn, dùng để nấu ăn là chính, đến khoảng năm 200 trước Công nguyên, đũa bắt đầu trở thành món đồ dùng phổ biến trong các bữa ăn của người phương Đông.

Ở Việt Nam, văn hóa dùng đũa còn thể hiện sự quan tâm, chia sẻ một cách tinh tế. Khởi đầu bữa ăn, đặc biệt là trong những bữa cỗ truyền thống, trước khi gắp đồ cho chính mình, người ta dùng đôi đũa còn sạch để gắp đồ ăn mời “một vòng” quanh mâm.

Trong suốt bữa ăn, khi muốn tiếp đồ cho người khác, thường theo phép lịch sự, người ta phải đảo đầu đũa để gắp bằng đầu còn lại.

Văn hóa dùng đũa của người Việt không quá khắt khe, trẻ nhỏ thường chỉ bắt đầu học cách dùng đũa khi đã lên 5-6 tuổi.

Nếu ở nhiều quốc gia Á Đông, hành động chống thẳng đôi đũa trong bát cơm bị coi là điềm gở, gắn liền với hình ảnh… bát cơm cúng, thì người Việt Nam, ngoài ra, còn kiêng không gõ đũa vào nhau, không gõ đũa vào bát hay bất cứ thứ gì khác, để tạo nên tiếng động.

Trong văn hóa dân gian, người Việt Nam tin rằng việc gõ đũa bát trong bữa ăn sẽ khiến ma đói tìm tới quấy nhiễu, thêm vào đó, người Việt cũng đề cao phép lịch sự rằng khi ăn không được tạo nên tiếng “động bát động đũa” ồn ào hay tiếng nhai tóp tép…

Đũa ở miền bắc Việt Nam thường được làm từ tre, đũa ở miền nam thường được làm từ gỗ dừa. Đũa truyền thống Việt Nam có thân tròn và để mộc, không sơn quét, trang trí, đầu đũa cũng thường không để quá nhỏ.

Ở Nhật Bản, người ta sử dụng đũa cho hầu hết tất cả các món ăn bởi thường các món Nhật đã được xắt nhỏ từ khâu chuẩn bị, nấu nướng. Thêm vào đó, người Nhật lại thường xuyên ăn cá và việc dùng đũa giúp họ có thể loại bỏ xương cá một cách dễ dàng hơn.

Nhiều nhà hàng ẩm thực truyền thống của Nhật Bản chỉ phục vụ đũa trong bữa ăn (bên cạnh thìa được mang ra để dùng cho món súp hoặc món tráng miệng), vì vậy, nếu một thực khách phương Tây hoàn toàn không biết dùng đũa, họ sẽ gặp khó khăn khi dùng bữa tại nhà hàng truyền thống của Nhật.

Đối với người Nhật, việc thể hiện sự trân trọng đối với bữa ăn mà mình được phục vụ là một phép lịch sự, vì vậy, khi cảm thấy đã no và không muốn được tiếp thêm đồ ăn nữa, thực khách am hiểu văn hóa Nhật nên vẫn giữ nguyên đôi đũa giữa ngón cái và ngón trỏ rồi nói “gochisosama” (bữa ăn rất ngon, xin cảm ơn).

Ngoài ra, đối với văn hóa Nhật, việc ăn uống xì xụp không phải là bất lịch sự mà là thể hiện sự tán thưởng đối với tài nghệ nấu nướng của người thết đãi bữa ăn.

Trong văn hóa Nhật, đôi đũa không chỉ là món đồ dùng, đó còn có thể là tác phẩm nghệ thuật. Thường các gia đình ở Nhật đều sở hữu những bộ đũa quý khảm trai hoặc thếp vàng. Những bộ đũa sơn mài được sơn vẽ cầu kỳ với hình ảnh con chim sếu hoặc những cành anh đào cũng rất phổ biến.

Ở Hàn Quốc, đôi đũa của người Hàn thường dẹt và làm từ kim loại. Người Hàn Quốc trong bữa ăn thường không bao giờ cầm bát đĩa lên, mà chỉ dùng đũa, thìa để gắp, múc. Họ cũng không cầm thìa và đũa trong cùng một bàn tay. Khi muốn gắp đồ từ bát đĩa đựng thức ăn chung, họ phải đảm bảo đôi đũa của mình thật sạch sẽ, không bị dính cơm hay đồ ăn.

Ở Thái Lan, dù người Thái cũng thường dùng đũa trong bữa ăn, nhưng cho tới giờ, khi nền văn hóa Đông - Tây đã giao thoa rất sâu rộng ở Thái, người dân nơi đây thực tế lại đang sử dụng dao nĩa nhiều hơn cả đũa.

Khi ăn cơm và các món mì, người ta vẫn dùng đũa, nhưng trong các bữa ăn, người Thái giờ cũng dùng thìa khá nhiều.

Trong khi có nhiều người vẫn dùng đũa để gắp và ăn bằng đũa, thì cũng có nhiều người Thái giờ chỉ dùng đũa để gắp đồ, đưa vào bát và sau đó sẽ dùng thìa để ăn. Đũa dùng phổ biến nhất ở Thái là loại đũa gỗ dùng một lần rồi bỏ đi hoặc những đôi đũa nhựa.

Ở Trung Quốc, đũa được dùng rất phổ biến. Văn hóa dùng đũa của người Trung Quốc cũng khá cởi mở, không có nhiều câu nệ, quy tắc. Điều kiêng kỵ lớn nhất là người ta không bao giờ dựng đũa thẳng đứng trong bát cơm bởi hình ảnh này gợi nhắc tới bát cơm cũng, vốn bị cho là điềm gở của sự chết chóc.

Theo Dântrí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn hóa dùng đũa trong ẩm thực Việt Nam và một số nước châu Á

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Giữ tâm trong sạch sẽ được phúc báo

Một tấm lòng trong sạch sẽ không thể bị vấy bẩn trong bất kì tình huống nào để không thẹn với đất trời, không thể vì danh lợi mà giả nhân giả nghĩa
Giữ tâm trong sạch sẽ được phúc báo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một tấm lòng trong sạch sẽ không thể bị vấy bẩn dù trong bất kì tình huống nào, ôm giữ thiện lương để không thẹn với đất trời, chứ tuyệt không thể vì danh lợi mà giả nhân giả nghĩa.

Ngày xưa, có một thư sinh gia cảnh nghèo nàn mang theo một tiểu đồng lên kinh thành ứng thí. Trên đường đi, chàng bỗng thấy một thanh niên nằm bất tỉnh bên đường, bèn tiến đến xem tình hình thế nào thì phát hiện người này đã đột nhiên phát bệnh và qua đời.

Người thư sinh mở tay nải người thanh niên mang theo người, bên trong chỉ có vài quyển sách và 10 nén vàng. Tiểu đồng thấy bốn bề vắng vẻ lại cũng trông thấy số tiền kia, mới khuyên chàng lấy chúng làm của riêng, đi rồi thì chẳng ai biết.

Vừa nghe xong chàng thư sinh liền nghiêm mặt nói: “Đã làm người thì không được làm chuyện trái với lương tâm, ta sao có thể làm chuyện như thế”.

Người thư sinh quyết định sau khi hoàn tất việc thi cử sẽ đi tìm người nhà của chàng trai trẻ kia, vì thế chàng lấy ra 1 nén vàng, rồi sai tiểu đồng đi mua một cỗ quan tài và chôn cất người đó cùng với những tiền vật của anh ta.

Lạ lùng thay! Khi thư sinh vừa đến kinh thành, một con tuấn mã màu trắng cứ kè kè bám theo, đuổi thế nào cũng không đi. Thư sinh vô cùng kinh ngạc, cảm thấy bên trong ắt có nguyên do, liền lên ngựa mặc kệ nó chạy băng băng đi. Con ngựa trắng đến một cánh cổng lớn nơi bốn bề vắng vẻ thì dừng lại. Sau khi nói chuyện qua lại với người chủ nhà, chàng mới hiểu rõ ngọn ngành.

Thì ra người thanh niên anh gặp trên đường chính là công tử nhà này, phụ thân anh ta từng làm quan nhất phẩm triều đình, con ngựa trắng kia là vật cưỡi của anh. Người nhà đang lo lắng vì không tìm ra vị công tử này. Thư sinh nghe qua, mới nói cho họ biết rằng vị công tử đã qua đời rồi chỉ nơi chôn cất người và tiền. Người nhà họ theo sự chỉ dẫn đã tìm ra, quả nhiên tiền vật vẫn còn đủ.

Phụ thân của vị công tử này vì cảm mến ân đức của thư sinh, lại thêm phần yêu thích phẩm hạnh của chàng, liền viết thư tiến cử lên Hoàng thượng. Về sau, chàng lên đến chức Tể tướng trong triều.

Đây quả là một tấm lòng chính trực! Có thể trước mắt bao nhiêu người, rất nhiều người sẽ không nổi niệm đầu tham lam, hay ít nhất cũng chế ước được.Thế nhưng ở chỗ không người biết mà vẫn giữ được tâm như vậy thì mới đáng là trân quý. Sự thật là trời xanh có mắt! Việc làm chính trực của thư sinh chẳng phải đã nói lên tất cả?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giữ tâm trong sạch sẽ được phúc báo

Mẹo hóa giải bất hòa giữa Thìn và Tuất

Người tuổi Thìn và tuổi Tuất vốn không hợp nhau. Cả 2 đều không thấy được sự hấp dẫn của nhau. Thìn mãnh liệt và bốc đồng, không hợp với bản tính thích chê
Mẹo hóa giải bất hòa giữa Thìn và Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thìn và tuổi Tuất vốn không hợp nhau. Cả 2 đều không thấy được sự hấp dẫn của nhau. Thìn mãnh liệt và bốc đồng, không hợp với bản tính thích chê bai, giễu cợt của Tuất. Những cuộc đối thoại giữa họ dễ dẫn đến bực bội và nổi nóng.

tieu nhan
 
Theo vòng tử vi, Thìn và Tuất là 2 con giáp trực tiếp đối đầu với mũi tên độc của nhau, vì vậy chúng xung khắc nhau. Tuất coi thường tư tưởng và ý kiến của Thìn. Và tất nhiên, Thìn không thể nào bằng lòng trước sự bất hợp tác của Tuất. Sự kết hợp này là điển hình cho xung đột về tính cách. Giữa 2 người ít có sự cảm thông, những giận dữ, bất hòa dễ làm cho cả 2 bị tổn thương.

Thìn và Tuất đều thuộc dương, sự vượt trội về năng lượng dương làm nổi bật sự bất hòa giữa họ. Đồng thời, bản chất hung hăng của 2 người ngày càng lộ rõ. Nếu giờ sinh không làm dịu bớt tâm tính của họ, rất có thể họ sẽ phải chia tay.

Theo tử vi, hôn nhân giữa người tuổi Thìn - mệnh Hỏa và người tuổi Tuất - mệnh Kim, sẽ không được hạnh phúc. Bên cạnh đó, quan hệ giữa người tuổi Thìn - mệnh Mộc và người tuổi Tuất mệnh Kim, cũng mang lại điều không may cho cả 2. Tuổi Thìn bị suy yếu, tuổi Tuất bị tiêu hao. Nói chung, tuổi Thìn và tuổi Tuất không nên kết hợp với nhau.

Muốn biết tuổi Thìn và tuổi Tuất hợp với tuổi nào, mời bạn đọc thêm:
Các cặp đôi con giáp hợp tuổi nhau trong tình yêu hôn nhân.

Biện pháp hóa giải bất hòa giữa Thìn và Tuất

Đối với trường hợp đã lấy nhau, giải pháp để giảm bớt xung đột là đặt 1 bình nước ở hướng la bàn tương ứng với con giáp Thìn - hướng Đông Đông Nam.

Ngoài ra, cũng có thể đặt biểu tượng thuộc hành Thủy ở gần cổng, với ý nghĩa nước sẽ chứa hết sự giận dữ và bất hạnh của 2 người.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo hóa giải bất hòa giữa Thìn và Tuất

Phân tích sao Thiên phủ trong lá số Tử vi

Trong tử vi Thiên phủ là sao thứ nhất trong chòm Nam đẩu,giải trừ tai ách,kéo dài tuổi thọ. Thiên phủ là kho chứa của trời,bao gồm đủ cả trí tuệ và tài năng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi sao Thiên phủ là ngôi sao thứ nhất trong chòm Nam đẩu, hóa khí là lệnh, có khả năng giải trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ. 'Có thể hạn chế hung tính của Dương nhẫn Đà la; hóa Hỏa Linh thành phúc. Kỵ lạc Không vong chủ về không cát lợi, là mệnh nghèo khổ.

Thiên phủ, Vũ khúc đồng cung dù tọa ở cung nào cũng đều cát lợi. Nhưng không thể có Địa kiếp, Địa không hoặc lạc Không vong sẽ thành hung họa.Thiên phủ thêm sát tinh, mệnh nam không thực lòng trong tình cảm,do đó nữ giới trước hôn nhân cần xem xét kỹ lưỡng, tránh hối hận.

Trong tử vi đẩu số Thiên phủ là kho chứa của trời, lại đứng đầu các sao trong chòm Nam Đẩu, bao gồm đủ cả trí tuệ và tài năng, có thể điều khiển chỉ huy người khác, không thích bị người khác quản chế mình. Có năng lực lãnh đạo, nhưng lại khá bảo thủ, thiếu sáng tạo và thường chỉ biết thuận theo nếp cũ. Có khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi trường xung quanh, nhưng có phần thiếu tính độc lập. Chỉ phát triển tuần tự từng bước trong điều kiện ổn định, thường an phận, nên sao này hợp với nữ mệnh hơn.

  • Nếu lá số tử vi có sao Thiên phủ và sao Tử vi  đồng cùng tại mệnh ở Dần-Thân, hoặc  Tị- Hợi (cung Sinh) hội chiếu cung Mệnh, là cách Tử Phủ đồng cung, là người chủ về một đời giầu có.

 Nếu lá số tử vi có sao Thiên phủ, hoặc sao Tử vi miếu vượng, đóng tại cung mệnh, cung vị tam phương tứ chính có cát tinh hội chiếu, là cách Tử Phủ triều viên,  là người chủ về bổng lộc cực hậu. 

- Nếu lá số tử vi có sao Thiên phủ ở cung mệnh tại Tuất, Thìn, không bị sát tinh xung phá, là cách "Thiên phủ triều viên", cũng là mệnh giầu sang phú quý. 

- Nếu lá số tử vi có sao Thiên phủ (hoặc Thiên tướng) trấn tại cung mệnh, sao Thiên tướng (hoặc Thiên phủ) nằm tại cung Tài bạch hội chiếu, không bị sát tinh xung phá, là cách "Phủ Tướng triều viên", là người chủ về phú quý song toàn. 

- Nếu lá số tử vi có sao Thiên phủ trấn mệnh tại cung Sửu, Mùi, nhập miếu, lại có Thái âm và Thái dương kèm hai bên, là cách Nhật Nguyệt giáp mệnh  là người chủ về một đời giầu có. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích sao Thiên phủ trong lá số Tử vi

Đặt tên theo con số

Dùng con số để đặt tên được ví như sợi chỉ xâu chuỗi những viên ngọc lại, tạo nên cái tên hoạt bát, sinh động.
Đặt tên theo con số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Họ tên mang hình tượng về con số có thể tạo nên hiệu quả bất ngờ. Con số có những ưu thế nhất định, có sức biểu cảm lớn mà các từ khác không thể phát huy được.

Thông thường, việc sử dụng con số để đặt tên là thông qua cách gọi Hán Việt của các số từ 1 đến 10. Đó là: nhất, nhị (lưỡng, song), tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập.

Dat ten theo con so hinh anh
Con số như sợi chỉ xâu chuỗi viên ngọc lại, tạo cái tên hoạt bát, sinh động

Người ta thường có thói quen sử dụng con số một cách riêng biệt. Ví dụ như các từ Nhất và Thập thường mang ý nghĩa hoàn thiện, viên mãn. Thập có nghĩa là nhiều, Nhất có nghĩa là vị trí số một. Bên cạnh đó, Nhị và Tứ - thường có ý nghĩa là những cặp đôi tương xứng; Ngũ, Thất và Bát - mang ý nghĩa là đa dạng.

Tên gọi theo chứa từ Nhất: Văn Nhất, Thống Nhất, Như Nhất, Nhất Minh, Nhất Dạ, Nhất Dũng, Nhất Huy...

Tên gọi theo từ Nhị (Song, Lưỡng): Nhị Hà, Nhị Mai, Bích Nhị, Ngọc Nhị...; Song Phương, Song Tâm, Song Giang, Song Hà, Song Long... ; Lưỡng Hà, Lưỡng Minh, Lưỡng Ngọc, Lưỡng Hải...

Tên gọi theo từ Tam: Tam Thanh, Tam Đa, Tam Vịnh...

Tên gọi theo từ Tứ: Tứ Hải, Tứ Đức, Minh Tứ, Hồng Tứ...

Tên gọi theo theo từ Ngũ: Ngũ Sơn, Ngũ Hùng, Ngũ Hoàng, Ngũ Hải, Ngũ Tùng...

Các từ Lục, Thất, Bát, Cửu thường ít được dùng đặt tên người nhưng nó cũng hàm chứa ý nghĩa riêng.

Tên gọi theo từ Thập: Hoàng Thập, Hồ Thập, Minh Thập, Hùng Thập...

Dù mỗi con số đều biểu đạt ý nghĩa nhất định nhưng để tạo nên một tên gọi ấn tượng cần có sự kết hợp hài hòa với họ và tên đệm, tạo nên tổng thể cả họ tên. Ví dụ các họ tên hay như: Lý Tứ Quang, Nguyễn Tường Tam, Vương Cửu Tư, Nguyễn Nhất Đơn, Tôn Ngũ Chính, Nguyễn Hữu Đỉnh, Trương Đại Thiên, Hộ Vạn Xuân, Hà Vạn Tường...

Theo Tìm hiểu khoa học về tên gọi

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên theo con số

Tính trùng tang –

Dân gian Á Đông xưa rất quan tâm đến nghi thức an táng cho người vừa mới mất. Người xưa cho rằng người ruột thịt vừa mất có ảnh hưởng tốt, xấu tới những người thân cùng huyết thống đang sống. Do vậy, họ có nhiều nghi thức tế lễ, an táng cho người mới
Tính trùng tang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính trùng tang –

Chọn hướng treo tranh phong thủy trong nhà –

Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ. Củ thể như thế nào? Tại sao lại chọn hướng theo bát quái đồ? Chúng ta cùng dọc bài viết dưới đây để biết được hướng treo tranh phong thủy nhé! Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ. Củ thể như thế nào? Tại sao lại chọn hướng theo bát quái đồ? Chúng ta cùng dọc bài viết dưới đây để biết được hướng treo tranh phong thủy nhé!

tranh-son-thuy-huu-tinh

Nội dung

  • 1 Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia đạo
    • 1.1 Hướng chính đông và hướng đông nam
    • 1.2 Hướng chính nam
    • 1.3 Hướng Đông Bắc, Tây Nam
    • 1.4 Hướng chính Bắc
    • 1.5 Hướng Tây Bắc, Hướng chính Tây

Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia đạo

Hướng chính đông và hướng đông nam

Hướng chính Đông và Đông-nam, theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.

Hướng chính nam

Hướng chính Nam, theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

Hướng Đông Bắc, Tây Nam

Hướng Đông-bắc và Tây-nam, theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.

Hướng chính Bắc

Hướng chính Bắc, theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài vận của gia chủ.

Hướng Tây Bắc, Hướng chính Tây

Hướng Tây-bắc và hướng chính Tây, theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng treo tranh phong thủy trong nhà –

Những khái niệm cơ bản của địa lý Loan đầu

Dưới đây là những khái niệm cơ bản của địa lý Loan đầu, bởi nó là nền tảng cho quá trình phân tích yếu tố Loan đầu trong phong thủy Huyền không.
Những khái niệm cơ bản của địa lý Loan đầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những khái niệm cơ bản của địa lý Loan đầu, bởi nó là nền tảng cho quá trình phân tích yếu tố Loan đầu trong phong thủy Huyền không với quang cảnh môi trường cuộc sống hiện đại ngày nay đang thay đổi hàng ngày hàng giờ.       


► ## cung cấp công cụ xem thước lỗ ban online chuẩn xác

Nhung khai niem co ban cua dia ly Loan dau hinh anh
 
Phong thủy Loan đầu là phép tầm long, xem hình thể đất đai lồi lõm, đốn khởi, hay nói  rõ hơn là phép tìm “huyệt kết” (tức là nơi dừng tụ lại của long mạch). Sau đó phải phân tích xem ”huyệt kết” ấy là thế đất lớn hay thế đất nhỏ (tức đại cuộc hay tiểu cuộc), đâu là Thái tổ sơn, Thiếu tổ sơn, đâu là Huyền Vũ – Thanh Long – Bạch Hổ – Án Sa – Minh đường, Thủy khẩu, thế Long sinh hay tử, cường hay nhược.  
                                 
Đại cuộc: là đại thế của cuộc đất mà bên trong nó có nhiều tiểu cuộc đất.
 
Thái tổ sơn: là cội nguồn của sơn mạch được phân ra các nhánh Tổ sơn hoặc Thiếu tổ sơn ở nơi khác, chính những Thiếu tổ sơn này dẫn mạch khí vào huyệt kết.          
       
Long mạch: là mạch của đất chạy trên mặt đất trong đó có khí mạch (ví như cành cây trong đó có nhựa cây). Long mạch có thể đi cao như những dãy đồi núi trùng điệp và cũng có thể đi rất thấp trên mặt ruộng .
 
Nước do long mạch chảy ra lại chạy theo nuôi dưỡng và hộ vệ long, những chỗ có nước tụ có khí là Minh đường và có khí là hộ Tống thủy (nước dẫn long).                
Long nhập thủ: long mạch chạy băng qua rừng núi, đồng bằng khi đến một điểm nào đó nhập thủ là kết huyệt ở đó. Long nhập thủ là Thiếu tổ long.    
                    
Huyệt tràng: là một khu đất có huyệt kết trong địa lý Loan đầu.         
                                             
Huyền Vũ: là thế đất phía sau huyệt kết trước khi đến huyệt kết (tức phía sau lưng nhà).  
                                                                                            
Thanh Long: là thế đất bên trái của huyệt kết mọc ra ôm chầu vào huyệt.    
      
Bạch Hổ: là thế đất bên phải huyệt mọc ra ôm chầu vào huyệt.    
                      
Án: là thớ đất nổi lên trước mặt huyệt, hộ đỡ cho huyệt. Án với huyệt như bàn làm việc trước mặt người ngồi.                                                                                       Sa: là các gò đống, chứng ứng nổi lên, hiện ra xung quanh huyệt cả trước lẫn sau.                                                                                                               Thủy khẩu: là nơi nước đến và nơi nước đi tại Minh Đường.      
                          
Minh Đường: là nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng khí mạch của huyệt kết.
 
Long sinh: là long mạch sống động, ta quan sát và cảm nhận được nó bò ngoằn ngoèo, quay đầu, vẫy đuôi như con lươn con rắn sống đang bò.       Long tử: long mạch nằm ngay đơ, đuồn đuỗn như con lươn con cá chết.
 
Long cường: long mạch nổi lên to lớn, hùng vĩ uy nghi.      
                               
Long nhược trong địa lý Loan đầu: long mạch nhỏ nhắn, dài, sắc thái thư thả ung dung.   ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những khái niệm cơ bản của địa lý Loan đầu

Tướng mặt không ai muốn

Tướng lục xung, lục hại thường phải bôn ba vất vả, làm việc gì cũng thất bại, gia đình bất hòa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng lục xung: Bôn ba vất vả, làm việc gì cũng thất bại

bon-ba

Người sắc mặt u tối, làm việc sai lầm, vợ con xa lánh hoặc là xa rời người thân.

Người có lông mày tán loạn, quan hệ với họ hàng không được thân thiết.

Người mà khóe miệng hướng xuống thường hay lợi dụng người khác.

Người răng thưa, không hòa thuận với anh em họ hàng.

Người mà Ngũ tinh không hướng về Thiên đình (giữa trán), là người bôn ba vất vả, đến già cũng không được thành tựu.

Lông mày rối loạn, đó là biểu hiện của người lăng loàn, người nhà từng trải qua sinh ly tử biệt, mưu cầu công việc đều không thành công.

Tướng lục hại: Gia đình bất hòa, trong lòng không kiên định

Người có mũi nhọn, răng khấp khểnh thường gia đình không hòa thuận, không được tổ tiên phù giúp.

Lông mày dài, sống mũi lồi chủ về người sống xa cha mẹ anh em, không an phận.

Nếu lại là người to béo chủ vô tình vô nghĩa, không tin tưởng được; nếu là phụ nữ thì sống cô đơn một mình .

Tướng cướp giật hại người: Tính tình cổ quái, hại người hại mình

Xương mày cao là tướng người khô khan, quan hệ với vợ con không hòa hợp, đối với họ hàng cũng không thân thiết, tính tình hay thay đổi.

Mũi nhọn, khắc hại vợ con, lòng dạ ác độc, sống cô đơn một mình.

Mắt thâm lại không có da thịt là người gian trá, hay vơ vét lấy của cải của người khác, ít tuổi đã vất vả mưu sinh nhưng không giúp đỡ được cha mẹ, anh em ly tán, nhà nghèo, đoản mệnh.

Yết hầu lộ khắc hại vợ con, vận mệnh không bền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt không ai muốn

Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Phong thủy văn phòng tốt có thể mang tới rất nhiều may mắn, thuận lợi trong sự nghiệp. Treo tranh có ý nghĩa tốt đẹp như lời chúc, lời cầu may.
Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy văn phòng tốt có thể mang tới rất nhiều may mắn, thuận lợi trong sự nghiệp. Vì thế, người ta thường treo tranh có ý nghĩa tốt đẹp như lời chúc, lời cầu may, hi vọng vào tương lai. Song chọn tranh phải hợp ngành hợp nghề, treo tranh phải đúng phương đúng hướng mới cát lợi.

  Treo tranh để cải thiện, tăng cường phong thủy văn phòng rất có lợi. nếu chọn được tranh chuẩn, phù hợp thì không chỉ đẹp phong thủy mà còn tăng tính thẩm mĩ, lợi cả cả đôi đường.  

1. Văn phòng công ty sản xuất

  Văn phòng của lãnh đạo công ty sản xuất nên treo tranh Tam dương khai thái, bát mã, mã đáo thành công ở góc Tây Nam. Điều này sẽ mang tới may mắn, tăng cường năng lực sản xuất của xí nghiệp, thúc đẩy cải tiến đổi với và bảo đảm an toàn sản xuất.
Treo tranh hop nghe, phong thuy van phong tot dep ruc ro hinh anh
 

2. Văn phòng công ty quảng cáo, tuyên truyền

  Đối với phong thủy văn phòng theo ngành quảng cáo, tuyên truyền, truyền thông thì nên treo tranh hoa, sẽ cực kì cát lợi. Phía Đông Nam bày tranh hoa mai, hoa cúc, hoa lan hay cây trúc có thể tăng cường vị trí, địa vị, danh tiếng của công ty trong giới và mang tới lợi nhuận cao hơn.  

3. Văn phòng công ty thiết kế

  Các công ty làm ngành thiết kế thì hướng Tây Bắc văn phòng bày tranh phong cảnh: băng phong, tuyết sơn, trời xanh mây trắng hay sông núi ao hồ. Có thể tăng cường khả năng sáng tạo, năng lực tư duy, khiến công ty có những bước đột phá mới mẻ, nhiều linh cảm, cảm hứng trong công việc.  

4. Văn phòng công ty tài chính

  Tranh cửu ngư treo ở chính Bắc văn phòng sẽ giúp các công ty theo đuổi lĩnh vực tài chính gặp nhiều thuận lợi, tài chính lưu thông, hàng năm lợi nhuận tăng vọt. Ngoài ra, có thể bày thêm bát tụ bảo hoặc thỏi vàng ròng, với ngụ ý chiêu tài tiến lộc.  

5. Văn phòng tổng giám đốc, chủ tịch

  Hướng Tây Bắc và hướng chính Nam là hai phương vị đại diện cho quyền lực, sự phát triển và tăng tiến. Chính Nam yêu cầu có bức tranh mặt nước rộng lớn như ao hồ sông suối hoặc tranh danh nhân, người nổi tiếng. Như vậy thì tài vận và năng lực của công ty sẽ có định hướng phát triển lâu dài. Hướng Tây Bắc treo tranh núi băng, trời tuyết để tăng cường năng lực lãnh đạo, nhắc nhở lãnh đạo luôn cân nhắc toàn diện vấn đề. 
 
Treo tranh hop nghe, phong thuy van phong tot dep ruc ro hinh anh
 
Ngoài ra, phong thủy văn phòng cần lưu ý tới sự kết hợp hài hòa giữa tranh phong thủy và mệnh của lãnh đạo, nên chọn tương sinh, tránh tương khắc. Đồng thời lưu ý toàn thể không gian, treo tranh vừa phải, thoáng mắt, chớ biến văn phòng thành phòng hội họa.
► Mời các bạn xem Tử vi 2017, Lịch 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com

Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách Chỉ rõ 5 loại tranh tổn hại phong thủy khi treo trong phòng ngủ 4 bức tranh phong thủy vượng vận nên treo ngay trong nhà
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Dấu hiệu thành công, phú quý trong lòng bàn tay

Ai có nốt ruồi ở tâm lòng bàn tay hẳn là người có tài lãnh đạo, tài vận cực thịnh vượng, có thể dựa vào năng lực bản thân đạt được nhiều của cải.
Dấu hiệu thành công, phú quý trong lòng bàn tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đường sự nghiệp (đường định mệnh), đường thành công (đường thái dương) kéo dài, thẳng và rõ ràng

Người sở hữu cả đường sự nghiệp và đường thành công dài, rõ ràng thì có vận khí cực kỳ tốt. Cho dù có làm gì, chỉ cần kiên định, họ chắc chắn sẽ thành công rực rỡ. 

Nhiều người chỉ có đường sự nghiệp chứ không có đường thành công, nghĩa là họ tham vọng lớn trong sự nghiệp và rất nỗ lực, nhưng hay gặp khó khăn, không dễ thành công.

Những người chỉ có đường thành công mà không có đường sự nghiệp nghĩa là họ không gặt hái được thành tựu to lớn trong sự nghiệp, nhưng cuộc sống lại khá giả, nhiều phúc khí.

Untitled-1-4990-1404540742.jpg

2. Đường Trí đạo sâu và rõ ràng

Người có đường Trí đạo sâu và rõ ràng thường làm việc gì cũng toàn tâm toàn lực, có khứu giác nhạy bén của một thợ săn. Chỉ cần xác định được con mồi, họ nhất định sẽ dùng mọi cách để có được nó. Chính vì vậy, họ rất dễ đạt được thành công.

Nếu đường Trí đạo xuất phát từ đường Sinh đạo phát triển dài, rõ và đậm thì trong sự nghiệp cũng như cuộc sống, họ sẽ tràn đầy tự tin, đam mê. Họ sẽ nỗ lực kiếm tiền để có được cuộc sống tốt đẹp.

3. Các gò trên bàn tay nổi cao đầy đặn, trung tâm lòng bàn tay lõm

Người có bốn gò nằm ở gốc bốn ngón tay là gò Mộc Tinh, gò Thổ Tinh, gò Thái Dương và gò Thủy Tinh đều nổi cao đầy đặn, lòng bàn tay lõm xuống, cả bàn tay hồng hào thì có tầm nhìn xa trông rộng, dũng cảm, có thể chịu đựng gian khổ, có năng lực đảm đương những trọng trách lớn. Trong sự nghiệp có thể đạt thành công rực rỡ.

1-1755-1403489383-2403-1404540742.jpg

4. Gò Mộc Tinh có đường phấn đấu

Đường phấn đấu là đường chỉ từ đường Sinh Đạo hoặc Trí đạo đi thẳng lên gò Mộc Tinh. Người sở hữu đường này có khát khao chiến thắng và tham vọng vươn lên mạnh mẽ. Trong bất cứ việc gì cũng không muốn trở thành người đi sau, rất kiêu ngạo và tự tin. Nếu đường phấn đấu vừa dài vừa rõ thì là người có thể dựa vào chính sức mình để tiến thân trong sự nghiệp. Nếu những đường chỉ khác trên tay cũng tốt thì người này có thể dễ dàng đạt được những thành tựu nhất đinh trong sự nghiệp.

Xem tiếp

Kunie

00-1403489294-362x0-7585-1404540742.jpg

Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu thành công, phú quý trong lòng bàn tay

Sinh tài vượng vị và tài thần nên đặt ở đâu? –

1. Sinh tài vượng vị Trong phong thủy có nhiều phương pháp tìm tài vị. Một quan điểm cho rằng, góc chếch của cửa chính; hai là cho rằng tài vị ở vị trí khi phi tinh có tam bạch đông, tức là Nhất bạch Lục bạch và Bát bạch; ba là cho rằng, từ năm 1984

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sinh tài vượng vị

Trong phong thủy có nhiều phương pháp tìm tài vị. Một quan điểm cho rằng, góc chếch của cửa chính; hai là cho rằng tài vị ở vị trí khi phi tinh có tam bạch đông, tức là Nhất bạch Lục bạch và Bát bạch; ba là cho rằng, từ năm 1984 đến năm 2003 thuộc vận 7 của hạ nguyên, trong 20 năm này, tài vị vượng khi nằm ở phương Tây Bắc.

1357437533_612674

2. Tài vị ngũ dĩ

–  Tài vị nên sáng sủa không nên u ám, sáng sủa là sinh khí dồi dào. Chính vì vậy tài vị có ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu vào, điều này rất có lợi cho sinh vượng vị.

–  Tài vị nên “sinh”, từ “sinh” ở đây là chỉ sinh khí, sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà nên đặt ở nơi tài vị những thực vật cây xanh quanh năm, đặc biệt là những cây lá to hoặc lá dày như cây cao su hoặc là cây thiết thụ của Braxin đều rất thích hợp; nhưng cũng cần lưu ý. những cây thực vật này phải dùng đất bùn để trồng, nếu mà dùng nước để nuôi dưỡng là không nên. Tài vị không nên trồng những loại cây như xương rồng có gai, nếu không thì sẽ từ “lợn lành biến thành lợn què”.

–   Tài vị nên đặt gần chỗ ngồi: tài vị là nơi tụ khí tài lộc của Căn nhà, chính vì vậy nên sử dụng. Ví dụ như đặt ghê salon ở gần tài vị, khi mọi người trong nhà ngồi trong đó nghỉ ngơi nói chuyện, có thể nhiễm nhiều tài khí bên trong đó, tự nhiên sẽ làm cho căn nhà trở nên lộn xộn. Ngoài ra, nếu đặt bàn ăn ở nơi gần tài vị cũng thích hợp, bởi vì điều này sẽ khiến cho mọi người tốt hơn.

–  Tài vị nên đặt gần chỗ nằm: hầu như một phần ba thời gian trong ngày của con người là dành cho việc ngủ, chính vì vậy mà cát hung của vị trí ngủ có ảnh hưởng rất lớn. Nếu vị tri ngủ đặt ở tài vị, ngủ ở chỗ đó hàng ngày tích luỹ, tự sẽ thấy có lợi cho tài vận. Có một số người hiểu lầm rằng giường ngủ là vật gia dụng nặng, có thể dễ tài vị không sinh tài, nhưng quả thực đó là làm lãng phí tài vị mà thôi.

Tài vị nên ở vị trí tốt: tài vị ở những nơi khi ngưng tụ, nếu ở đó đặt những vật cát tường, như tam tinh Phúc Lộc Thọ hoặc là những tượng Văn Vũ thần tài, thi sẽ càng thêm cát lợi, có tác dụng rất lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh tài vượng vị và tài thần nên đặt ở đâu? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd