Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Giải mã bí ẩn về kiểu tóc của con người

“Cái răng cái tóc là góc con người”, kiểu tóc, màu tóc sẽ tiết lộ tính cách con người của bạn. Có bao nhiêu kiểu tóc sẽ có bấy nhiêu tính cách khác nhau.
Giải mã bí ẩn về kiểu tóc của con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 “Cái răng cái tóc là góc con người”, kiểu tóc, màu tóc sẽ tiết lộ tính cách con người của bạn. Có bao nhiêu kiểu tóc sẽ có bấy nhiêu tính cách khác nhau.


► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Tóc đen: Thể hiện người biết tôn trọng, hết lòng vì mọi người và năng động.   Tóc đen và mỏng: Là người nhạy cảm nhưng biết chăm sóc bản thân.

Giai ma bi an ve kieu toc cua con nguoi hinh anh
Ảnh minh họa
  Tóc đen nhánh : Là người hay ghen tỵ   Tóc hạt dẻ: Là người trung thành và biết lắng nghe, chia sẻ.   Tóc nâu bùn : Là người bất trung, không đáng tin cậy   Tóc xám giống nhuộm : Mê vật chất, hòa đồng  nhưng cũng hay cợt nhả.   Tóc vàng mỏng và dài : Hay do dự.

Dáng xinh đón Tết chỉ nhờ thuật phong thủy
Bạn cố gắng giảm cân, thế nhưng cân nặng vẫn cứ đeo bám bạn. Ngoài nguyên nhân là do bạn giảm cân chưa đúng cách, chưa thực sự nỗ lực, còn do nguyên nhân
  Tóc vàng hoe: Kiêu căng, ngạo mạn, hay tức giận và lừa lọc.   Tóc hanh vàng: Là tuýp người hay mơ mộng hão huyền.   Tóc ánh vàng : Yếu ớt và nhút nhát.   Tóc mỏng: Là người rất nhạy cảm.   Tóc dày: Rất cứng đầu và bướng bỉnh.

Giai ma bi an ve kieu toc cua con nguoi hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Tóc mềm: Hay gây phiền phức cho người khác và rất nhát gan.   Đàn ông tóc ít và dài : Biết chăm sóc bản thân và có sở thích ăn uống. Những người này cũng rất cầu toàn, có xu hướng hiện đại và thoải mái.    Tóc dày và khô: Rất độc đoán và cứng đầu.
 
Tóc cứng và thẳng: Tham vọng và kiêu căng.   Tóc nhiều và bồng: Ngốc nghếch.   Tóc xoăn bình thường: Biết vâng lời.   Tóc xoăn tít : Bướng bỉnh.   Tóc dễ chải từ bên trái qua bên phải: Không đáng tin.   Tóc ít nhưng không mượt: Người này có sức khỏe yếu và lại ham mê vật chất.

Nguyễn Huyền (Theo Tarot)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã bí ẩn về kiểu tóc của con người

Nếu niên tinh là Nhị hắc tinh thì làm thế nào để tính Phi tinh bay đến giường? –

Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam - Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam – Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị trí cuối giường tức là vị trí Thất Xích, đây cũng không phải là vị trí tốt. Xuống giường ở vị trí Tam Bích hướng Tây Bắc cũng không được, bởi vì Tam Bích là Phi Tinh. Vị trí tốt nhất là hướng Bát Bạch Tây Nam hoặc Cửu Tử ở chính Đông.

Khi chúng ta tương đối lo lắng thường quên vị trí xuống giường, cho nên tại vị trí cấm xuống giường chúng ta nên đặt một cái chăn để nhắc nhở mình không đụng đến vị trí đó. Tại vị trí xuống giường nên đặt một bức thảm màu đỏ (nếu cần Hoả), màu xanh lam (nêu cần Thuỷ) để khi bạn bước xuống giường là giẫm ngay lên thảm, tiếp nhận Bát vận nhanh chóng.

p20

Bát vận thuộc Thổ, bên giường của Bát vận nên bày đồ vật hình rồng, chó, trâu, dê để thúc vượng Bát vận. Năm 2007 Nhị HắcPhi Tinh, năm 2008 Nhất Bạch Phi Tinh, đầu giường tại hướng chính Nam do Lục Bạch biến thành Ngũ Hoàng nên năm 2008 kỵ những vị trí xuống giường đã nêu ở trên, cần phải đổi vị trí xuống giường sang Cửu Tử hướng Đông Nam và Bát Bạch hướng chính Đông. Điều này có nghĩa là mỗi một năm, vị trí xuống giường của chúng ta là không giống nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nếu niên tinh là Nhị hắc tinh thì làm thế nào để tính Phi tinh bay đến giường? –

Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt

Móng tay hình bán nguyệt có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của bạn? Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt là gì? Bài viết dưới đây ## sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của Móng tay hình bán nguyệt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Móng tay hình bán nguyệt có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của bạn? Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt là gì? Bài viết dưới đây ## sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của Móng tay hình bán nguyệt?

Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt

Móng tay hình bán nguyệt là như thế nào?

Theo những nghiên cứu y học thì những người khỏe mạnh bình thường sẽ có móng tya màu hồng nhạt, sáng bóng và mịn màng.

Dấu hiện móng tay hình bán nguyệt hay hình nửa mặt trăng thường xuất hiện dễ nhìn thấy nhất ở móng tay cái và nhỏ dần tới nóng tay út. Những người có móng tay như thế này thường mắc chứng bệnh như dương hư hay những nhóm bệnh suy giảm chứng năng, có thể dễ bị trúng gió hoặc giảm sức đề kháng.

Vì thế, khi móng tay bạn xuất hiện hình bán nguyệt màu trắng sữa thì bạn hãy nhớ lưu ý đến sức khỏe của mình, nên đi khám tổng quát để kiểm soát được sức khỏe bản thân

Cắt móng tay sát có bị bệnh tim hay không?

Móng tay có hình bán nguyệt báo hiện tình hình sức khỏe của bạn không tốt. Nhưng một số bạn cũng thắc mắc nếu cắt móng tay sát có bị bệnh tim hay không?

Thực tế nhiều người có thỏi quen cắt móng tay sát vài đầu thịt, nhiều lúc không cẩn thận có thể dẫn đến chảy máu. Thói quen này vừa có lợi cũng vừa có hại. Bởi nếu cắt móng tay sát bạn có thể hạn chế được các vi khuẩn và bụi bặm. Tuy nhiên nhiều người cắt móng tay sát da quá có thể làm tổn thương tới các vùng da đầu ngón tay không được bảo vệ và tổn thương khi bị va chạm. Còn thắc mắc cắt móng tay sát có bị bệnh tim thì chưa được khoe học kiểm chứng, bạn hoàn toàn yên tâm.

Xem thêm:

Vị trí và ý nghĩa các gò có trên lòng bàn tay

+ Xem những đường chỉ tay chỉ xuất hiện ở người may mắn.

+ Xem chỉ tay đường con cái để biết bạn sinh con trai hay con gái

+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt

Thay đổi diện mạo, đổi luôn cả vận mệnh

Ai cũng mong muốn mình được đẹp hơn, chính vì vậy, nhiều người đã lợi dụng dao kéo để can thiệp vào diện mạo của mình.
Thay đổi diện mạo, đổi luôn cả vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuy nhiên, thay đổi diện mạo có thể khiến cho vận mệnh tốt hơn, nhưng cũng có thể vận mệnh sẽ xấu đi rất nhiều.

Trán

Vầng trán chính là “bầu trời” của khuôn mặt, vầng trán cao, rộng là vầng trán đẹp, nhưng nếu bị tóc che phủ đi thì thật đáng tiếc. Tóc mái để bằng là kiểu tóc khiến bạn trở nên trẻ hơn vài tuổi, thế nhưng nếu quan sát, chúng ta sẽ thấy những nữ doanh nhân thành đạt hoặc các nữ phu nhân đều không có ai để mái bằng. Bạn có thể để mái nhưng hãy hất chéo hoặc là hất lên, để cho “bầu trời” của khuôn mặt được thông thoáng, không bị che khuất, điều này sẽ mang lại cho người đối diện cảm nhận rằng bạn là người trí tuệ và họ sẽ có cảm giác phải nể phục, kính trọng bạn. 
 
Người có trán ngắn cũng vậy, chớ nên để “bầu trời” của khuôn mặt bị che khuất đi. Khuôn mặt thanh thoát hơn, sáng sủa hơn, dễ gây thiện cảm với người khác, chính vì vậy mà mọi việc cũng trở nên suôn sẻ, dễ đạt được thành công hơn.

Thay doi dien mao, doi luon ca van menh hinh anh
Mốt lông mày ngang, đẹp thì có đẹp nhưng không tốt

 
  Lông mày

Hiện nay, phụ nữ đang có mốt vẽ lông mày ngang, theo nhân tướng học thì đây là dáng lông mày “tối kỵ”, nhất là đối với những người phụ nữ ra ngoài đi làm, giao tiếp xã hội. Lông mày ngang chỉ người phụ nữ thuộc kiểu làng nhàng, đường công danh tiền tài bị cản trở, khó có thể thành công được. Người phụ nữ sở hữu kiểu lông mày này thì cũng có phần thông minh, khéo léo nhưng khó đạt được thành công hơn so với người có dáng lông mày cong bình thường cho dù có cố gắng tới đâu.
 
Kiểu lông mày đẹp là kiểu cong, có đuôi hơi hếch cao rồi từ từ cong xuống, kéo dài hơn con mắt. Đây chính là kiểu mà những người phụ nữ có quyền lực rất ưa chuộng. 
 
Lông mày cũng nên vẽ cao chứ không nên sát mắt, người có lông mày sát mắt thường hay bị người khác hiếp đáp, bắt nạt, bị đồng nghiệp chèn ép, không biết nhìn xa trông rộng, không bao quát được mọi việc và không đánh giá đúng vấn đề. Dù có đẹp nhưng là nét đẹp không tốt tướng!

5 tướng mặt có cát tinh che chở năm 2016
Năm mới đã tới và may mắn sẽ mỉm cười với tất cả mọi người, nhưng với những người có khuôn mặt “hơi xấu xí” một chút, thì may mắn có phần ưu ái hơn.
  Mắt

Xét về vẻ bề ngoài thì mắt 2 mí vẫn đẹp hơn mắt một mí. Hơn thế nữa, người có mắt một mí thường kém may mắn hơn người có mắt 2 mí, nhất là trên con đường công danh, sự nghiệp chính trị. Đường mí mắt – chỉ người mắt 2 mí mới có chính là đường sự nghiệp, cái rãnh mí đó để chứa đựng lợi lộc, công danh và cả hạnh phúc. Ai không có cái rãnh ấy – người mắt 1 mí thì mọi cố gắng đều bị trôi đi hết, không giữ lại được.   Người có đôi mắt trong veo, ánh mắt sáng, khi cười có đuôi mắt là người luôn gặp may mắn và sống hạnh phúc vui vẻ. Còn người mắt hơi đục, hình dáng đuôi mắt theo chiều đi xuống, có nét buồn buồn thường trắc trở trong tình duyên, thường vướng vào họa ngoại tình... thường do nghiệp chướng từ kiếp trước vận vào tướng mệnh kiếp này.
 
Mũi

Không phải mũi cao là sướng, mũi tẹt là khổ, thế nhưng cái mũi tượng trưng cho vận tài tộc, chóp mũi to là dáng mũi “đựng tiền”. Tuy nhiên, để chỉnh mũi thì bạn cần xem xét tới việc thay đổi hình dạng mũi có hợp với khuôn mặt, hợp với đôi mắt hay không, dáng mũi cũng không quan trọng bằng dáng lông mày.

Thay doi dien mao, doi luon ca van menh hinh anh 2
Chóp mũi to là dáng mũi "đựng tiền" 
Gò má

Gò má là thứ rất khó để thay đổi và bạn cũng không nên thay đổi vì đây là thứ là chúng ta tuyệt nhiên không được thay đổi trong tướng mệnh. Một số người đã cố tình can thiệp, điều này sẽ khiến cho vận trình của bản mệnh trở nên xấu đi, người này sẽ dễ gặp hoạn nạn và chết yểu.  Tùy vào các nét mặt của mỗi người mà có số sướng khổ khác nhau, tuy nhiên người mặt tròn, mặt vuông, mặt trái xoan thì sẽ có vận mệnh tốt so với người có gò má cao, góc cạnh, xương hàm bạnh to...

Môi

Người môi dày thường khỏe mạnh và sung sướng hơn người môi mỏng, môi bình thường (không dày không mỏng) thì bình thường.

Thay đổi nhân tướng, cải thiện vận trình
Tướng mạo quyết định vận mệnh cuộc đời, phản ánh tính cách, phẩm chất và thậm chí vận tài lộc của con người. Một số người cho rằng tướng mạo của một người sẽ
  Hàm răng
 
Hàm răng thể hiện số mệnh con người, những cô gái có hàm răng đều nhau, khít vào nhau thường có số sung sướng và gặp nhiều may mắn, thành công hơn những cô gái có hàm răng xấu. Hàm răng thưa thường nghèo túng cả đời, hàm răng mọc ngược vào phía trong ít khi thuận lợi trong tình duyên và công việc, hàm răng hơi vâu thường làm mọi việc không suôn sẻ, hay gặp nhiều bất trắc... Người có răng cửa đẹp thì đường sự nghiệp, học hành cũng gặp nhiều thuận lợi, bản mệnh sẽ gặp nhiều may mắn.

► Xem nốt ruồi trên mặt đoán vận mệnh chuẩn xác

Lichngaytot.com
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi diện mạo, đổi luôn cả vận mệnh

Bố trí phong thủy bàn thờ

Trong ngôi nhà truyền thống của người Việt, bàn thờ tổ tiên thường đặt tại gian chính, gian chính lại là chỗ tiếp khách nên nhiều người cho rằng hai không gian này là một.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục thờ cúng gia tiên tồn tại trong dân gian Việt Nam bao đời nay. Đây là nơi con cháu tỏ lòng hiếu thảo của mình với người đã khuất và mang lại niềm tin, chỗ dựa giúp con cháu đủ sức vươn lên trong xã hội.

Với mỗi vùng miền sẽ có những cách thờ cúng khác nhau. Do không gian thờ cúng có ý nghĩa tâm linh với gia đình nên yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống cần được đặt lên hàng đầu. Điều này sẽ giúp kết nối các thế hệ và giữ nề nếp, gia phong của gia đình.

phòng thờ đẹp

Trong ngôi nhà truyền thống của người Việt, bàn thờ tổ tiên thường đặt tại gian chính, gian chính lại là chỗ tiếp khách nên nhiều người cho rằng hai không gian này là một. Vì thế, một số nhà xây mới hiện nay vẫn có thói quen để bàn thờ ngay tại phòng khách. Tuy nhiên, nếu có không gian vẫn nên làm gian thờ riêng biệt bởi các lý do sau:

  • Thứ nhất, tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ thuộc tĩnh, không hợp với sự phô trương.
  • Thứ hai, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, hoặc dễ có gió thổi làm động bát hương.
  • Thứ ba, bàn thờ chính gian giữa, người khấn đứng quay lưng ra cửa, sẽ có cảm giác bất an, khó tập trung tư tưởng khi khấn, làm mất tính trang nghiêm.

Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt bàn thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Ví dụ, muốn đặt dưới tầng một thì bàn thờ nên nằm sát giếng trời hoặc trong khoảng thông tầng, nằm ở phía sau nhà và không lộ diện ra phòng khách. Khi đặt trên tầng, bàn thờ nên kín đáo với người ngoài và gần gũi với người trong gia đình.

Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.

Nguyên tắc chiếu sáng ở phòng thờ

  •  Phòng thờ của gia đình phải tạo được không khí trang nghiêm, ấm cúng, gần gũi tránh tạo cảm giác lạnh lẽo.
  •  Phòng thờ thường được bố trí có diện tích nhỏ, do vậy bạn nên chọn những đèn treo nhỏ cho tương xứng với phòng, tránh treo các loại đèn chùm lớn gây mất cân đối. Cần lưu ý là bố trí ánh sáng đèn không được chiếu thẳng vào người ngồi khi hành lễ cúng bái.
  •  Nếu tường sơn của phòng thờ có màu sáng thì không nên lắp nhiều bóng đèn sẽ ảnh hưởng đến tính chất trang nghiêm của nơi thờ cúng. Chỉ nên bố trí khoảng 2 đến 3 loại ánh sáng.
  •  Tường có treo tranh nên bố trí hai đèn âm tường cân xứng hai bên bức tranh.

Bày trí trên bàn thờ

Tùy theo kích thước ngôi nhà, điều kiện sinh hoạt... mà việc bày trí bàn thờ gia tiên khác nhau. Thông thường có 1 đến 3 bát hương, bát hương ở giữa thờ chung thần linh thổ địa, bát hương hai bên là thờ gia tiên và bà cô ông mãnh.

Phía trước bát hương: Ở giữa bày cái đài nhỏ, với ba chén đựng nước sạch. Hai bên là hai đĩa bày hoa quả tươi và trầu cau, hoặc tiền vàng mã.

Phía sau bát hương: Là bộ bình để hoa tươi, hương và nến. Tùy theo chất liệu mà sự bày trí cũng khác. Với đồ sứ: Bộ tam sự bao gồm bát hương, hai cây đèn (hoặc hai con hạc đội đèn), bộ ngũ sự có thêm hai bình (dựng cắm hoa tươi và để hương); bộ thất sự có thêm hai bình (đựng nước và gạo). Với đồ đồng: Tam sự có đỉnh đồng thay thế bát hương, và hai con hạc, ngũ sự có thêm hai ống hương và thất sự có thêm đôi đèn. Như vậy, bày trí của đồ đồng có tính trang trí thẩm mỹ là chính còn bày trí của đồ sứ thiên về tính thờ cúng và tâm linh hơn.

Khi bố trí bàn thờ Phật cần cao hơn và tách biệt bàn thờ gia tiên.

Bố trí hoành phi, câu đối phòng thờ

Trong không gian thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình người Việt đều dành một phần trang trọng nhất để treo những bức hoành phi, câu đối. Đây là nét văn hóa đặc sắc trong đời sống tâm linh của người dân.

Hoành phi thường được sơn son chữ vàng, có bức hoành phi hình cuốn thư. Chữ viết trên hoành phi đều tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên, ghi tụng công đức của tổ tiên, ghi lại những lời răn dạy con cháu, hoặc thể hiện ước nguyện cầu mong sự bình an, thái bình.

Hai bên bàn thờ còn có đôi câu đối. Ngoài dùng trang trí, đôi câu đối còn ghi lại những lời răn dạy con cháu những giá trị đạo đức truyền thống, ca ngợi truyền thống của dòng họ hoặc cầu mong thái bình, thịnh vượng.

Những điều kiêng kỵ với bàn thờ

  •  Ngoài những kiêng kỵ như trên, bàn thờ không đặt cạnh tường bếp đun, không dựa lưng vào nhà vệ sinh, hay không nằm dưới hay trên vệ sinh, hạn chế đặt ở ban công...
  •  Kiêng kỵ về cách cục, trong phong thủy bàn thờ được coi như kháo sơn, cần đặt ở nơi có sơn tinh đang vượng. Như năm nay chúng ta đang ở trong vận 8, bàn thờ nên đặt nơi có Cửu Tử hay Nhất Bạch đáo sơn.
  •  Kiêng kỵ về thời gian lập bàn thờ: Việc lập bàn thờ thường được tiến hành đồng thời với nhập trạch, nên việc lựa chọn thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống sau này. Ngoài thời gian phù hợp với nhập trạch, cúng tế hay hợp tuổi gia chủ, người ta còn chú ý đến thời điểm có sao Bát Bạch để hóa giải sát khí.
  •  Kiêng kỵ về người lập bàn thờ: Người xưa cho rằng phụ nữ mang thai có nhiều tạp khí, không nên động chạm vào bàn thờ hay bát hương. Hơn nữa, người bốc bát hương nên là gia chủ, chứ không nhất thiết phải nhờ người khác, cốt sao là sự thành tâm và tay chân sạch sẽ khi thực hiện.
  •  Kiêng kỵ về bố trí trên bàn thờ: Bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày, những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa. Nếu thờ gia tiên cùng Phật hay thờ mẫu, cần tách riêng bàn thờ Phật hay thờ mẫu, bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt.
  •  Kiêng kỵ về đồ lễ trên bàn thờ: Quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, hoa tươi và nước sạch. Tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Không nên để lễ mặn, hay tiền mặt lên bàn thờ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí phong thủy bàn thờ

Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Quẻ Quan Âm thứ 54 Mã Siêu truy đuổi Tào Tháo là tượng mưu cầu uổng sức, tưởng chừng sắp thành công thì lại đột ngột chuyển hướng mà không được toại nguyện
Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 54 được xây dựng trên điển cố: Mã Siêu truy Tào – hay Mã Siêu truy đuổi Tào Tháo.

Đây là quẻ hạ, thuộc cung Tý. Quẻ này là tượng mơ thấy vật báu. Những việc mưu tính dễ không thành. Cũng như mơ thấy giấc mộng đẹp, tuy đẹp nhưng không thực, dễ uổng công sức.

Điển cố quẻ Quan Âm: Mã Siêu truy Tào

Mã Siêu (176 – 222), tự Mạnh Khởi, người Mậu Lăng, Phù Phong, thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc, là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện nhà Hán.

Năm 211, Tào Tháo không nghe lời can gián, kiên quyết sai Chung Diêu và Hạ Hầu Uyên chỉ huy quân đội, muốn vượt qua Kinh Châu, vốn là lãnh địa quân phiệt của Mã Siêu, để tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung. Bọn Mã Siêu đều hoài nghi hành động này là nhằm vào mình, vì thế Mã Siêu nói với Hàn Toại rằng: “Trước đây Tư lệ Hiệu úy Chung Diêu từng sai tôi mưu hại tướng quân, người ở Quan Đông không thể tin tưởng được. Nay tôi đã từ bỏ cha mình, phụng sự tướng quân giống như cha đẻ, tướng quân cũng nên từ bỏ con của ngài, mà đối xử với tôi giống như con ruột!” Sau đó, Diêm Hạng can gián Hàn Toại, không muốn Hàn Toại liên kết với Mã Siêu, Hàn Toại đáp: “Nay các tướng không hẹn trước mà đồng lòng, thực là ý trời!”

Như vậy, Hàn Toại nhất quyết cùng đám quân phiệt Mã Siêu dấy binh chống Tào, bọn họ dẫn theo mười vạn người ngựa (bao gồm quân Hán, quân Khương và quân Hồ) tiến sát đến Đồng Quan. Tào Tháo sử dụng kế ly gián, khiến cho nội bộ quân Mã Siêu và Hàn Toái mâu thuẫn. Chiến thuật của Tào Tháo thành công, Mã Siêu bị thất bại trong cuộc chiến ở Đồng Quan. Tào Tháo thừa thắng truy kích, nhưng vì Điền Ngân, Tô Bá làm phản ờ Hà Gián, buộc phải lui binh. Do Mẫ Siêu dấy binh, nên cha của Mã Siêu là Mã Đằng cùng những người trong gia đình đã bị Tào Tháo sát hại.

Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa, cuộc chiến Đồng Quan lại được mô tả khác hẳn:

Tào Tháo dẫn quân đến Đồng Quan, Mã Siêu đã sớm dàn quân bày trận chờ sẵn. Tào Tháo thấy Mã Siêu tướng mạo tuấn tú, lại rất có uy vũ, quân Tây Lương ai ai cũng tráng kiện dũng mãnh. Tào Tháo thúc ngựa tiến lên hỏi: “Ngươi là con cháu của danh tướng nhà Hán, lại sao lại muốn tạo phản?” Mã Siêu nghiến răng mắng lớn: “Tên giặc Tào kia, ngươi uy hiếp hoàng thượng, giết cha mẹ anh em của ta, ta với ngươi không đội trời chung, hôm nay ta phải bắt được ngươi, lột da của ngươi, rút gân của ngươi!” Mắng xong, liền cầm thương xông đến đánh Tào Tháo.

Các tướng của Tào Tháo là Vu cấm, Lý Thông đều không phải là đối thủ của Mã Siêu, Mã Siêu cầm thương, lao thẳng về phía trước, quân Tây Lương ai nấy đều hăng hái xông thẳng về phía quân Tào. Tào Tháo chống cự không nổi, đại bại mà phải chạy trốn. Tào Tháo lẩn trốn giữa đội quân thất bại, Mã Siêu cưỡi trên ngựa hô lớn: “Người mặc áo bào đỏ phía trước kia là Tào Tháo! Bắt lấy hắn, đừng để hắn chạy thoát!” Quân Tây Lương ai ai cũng tranh đi bắt Tào Tháo trước. Tào Tháo sợ hãi, vội vàng cửi áo bào đỏ ra, vứt ờ bên đường. Mã Siêu lại hô lớn với quân Tây Lương: “Người có râu dài là Tào Tháo!” Tào Tháo nghe vậy, liền vội vàng lấy kiếm cắt râu đi. Lại có người hô lớn: “Người râu cắt ngắn như gốc rạ là Tào Tháo!” Tào Tháo nghe vậy, không kịp suy tính gì nữa, vội vàng tháo chạy.

Tào Tháo đang thúc ngựa tháo chạy, đột nhiên nghe thấy phía sau vọng đến tiếng vó ngựa dồn dập, quay đầu lại nhìn, thấy Mã Siêu thúc ngựa cầm thương lao đến. Nhìn thấy Mã Siêu sắp đuối đến nơi, Tào Tháo sợ quá đánh rơi cả roi ngựa, vội xuống ngựa chạy đến bên một cây đại thụ. Mã Siêu cầm thương lao đến, do quá gấp gáp nên đã đâm trượt, khiến cây thương đã đâm sâu vào thân cây đại thụ. Khi Mã Siêu đang gắng sức rút cây thương ra, Tào Tháo đã nhân cơ hội chạy xa rồi.

Mã Siêu tiếp tục cưỡi ngựa đuổi theo, lại thấy trên sườn núi có một vị đại tướng lao xuống, thì ra là Tào Hồng, Tào Hồng ra sức đánh lại Mã Siêu. Một lát sau, bọn Hạ Hầu Uyên chạy đến. Mã Siêu chỉ có một mình, thấy quân Tào người đông thế mạnh, chỉ có cách quay ngựa rút về. Tào Tháo may mắn được bảo toàn tính mạng, còn Mã Siêu thì sắp giành phần thắng lại phải thất bại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Mã Siêu Truy Tào

Hướng bếp hợp người sinh năm 1979 Kỷ Mùi –

Người sinh năm 1979 ( Kỷ Mùi) Quẻ mệnh: Chấn Mộc: Hướng bếp hợp tuổi Kỷ Mùi: - Năm sinh dương lịch: 1979 - Năm sinh âm lịch: Kỷ Mùi - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người sinh năm 1979 ( Kỷ Mùi) Quẻ mệnh: Chấn Mộc:

Hướng bếp hợp tuổi Kỷ Mùi:

12_DOOL_TT_10012_MP2_7

– Năm sinh dương lịch: 1979

– Năm sinh âm lịch: Kỷ Mùi

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1979 Kỷ Mùi –

8 phong tục kiêng kỵ kỳ quặc trên thế giới

Theo một quan niệm thời xưa, những biểu tượng "X" trên lòng bàn tay cho biết bạn sẽ có bao nhiêu con trong tương lai. Vậy, nếu ai đó có khoảng 50 dấu "X", họ sẽ sinh 50 người con?
8 phong tục kiêng kỵ kỳ quặc trên thế giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ma quỷ không thể hại người nếu đứng trong vòng tròn

Đây là quan niệm vô lý nhất của con người. Không một nghiên cứu nào chỉ rõ mối liên hệ giữa vòng tròn và ma quỷ. Tuy nhiên, nhiều người vẫn mê tín và làm theo nó tới ngày nay.

2. Nếu chụp ảnh 3 người, người ở giữa sẽ chết đầu tiên

Có kiêng chụp ảnh ba người không

Nhiều người, nhất là người châu Á, thường kiêng chụp ảnh ba vì coi đó là điềm xấu. Đôi khi, họ mang thêm gấu bông hoặc một hình nộm vào bức ảnh 3 người để cảm thấy an toàn. Tuy nhiên, chẳng ai chứng mình điều đó đúng bởi có thể trong bức ảnh này bạn đứng giữa nhưng bức ảnh kia thì vị trí trung tâm lại không thuộc về bạn.

3. Ăn nho giữa đêm sẽ đem lại may mắn

Phong tục này tồn tại ở Tây Ban Nha. Vào khoảnh khắc giao thừa, người dân nước này sẽ ăn 12 trái nho, tương đương 12 tháng may mắn. Đây chắc chắn là mẹo của những nông dân trồng nho ở Tây Ban Nha. Họ làm vậy để tăng số lượng 

4. Số chữ 'X' trong lòng bàn tay tương ứng với số con
Theo một quan niệm thời xưa, những biểu tượng "X" trên lòng bàn tay cho biết bạn sẽ có bao nhiêu con trong tương lai. Vậy, nếu ai đó có khoảng 50 dấu "X", họ sẽ sinh 50 người con? Điều kỳ lạ là ở Tại Thổ Nhĩ Kỳ, người ta tin nhai kẹo cao su vào ban đêm chính là nhai thịt người chết. Vì vậy, họ cũng không rửa mồm hay súc miệng vào thời gian đó. 

5. Tránh số 13 

13 chỉ đơn thuần là một số tự nhiên. Tuy nhiên, rất nhiều người sợ hãi và tìm mọi cách tránh nó. Thang máy ở những tòa nhà lớn không có nút số 13, bởi họ đặt nút đó thành 12A hoặc một tên khác. Ở Anh, khách sạn không có phòng bàn số 13, rạp hát không có ghế thứ 13. Ở một số nơi, người ta không bao giờ mời 13 vị khách tới một bữa tiệc. Quan niệm này xuất phát từ một truyền thuyết tôn giáo mà theo đó, Judas, kẻ phản Chúa, là vị khách thứ 13 trong bữa tiệc cuối cùng với chúa.

6. Nếu người yêu tặng dao, tình yêu đó sẽ kết thúc sớm

Một bộ phận nhân loại tin rằng nếu ai đó sẽ tặng dao cho người yêu để làm quà thay vì tặng thiệp, socola hoặc hoa thì tình yêu đó sẽ kết thúc sớm. Đây là quan niệm phi lý. Có lẽ đây là một lời nói đùa cho hành động hạ sát dã man khi cuộc sống giữa hai người yêu nhau trở thành địa ngục. Tuy nhiên, khá nhiều người tin vào quan niệm mệ tín đó.

7. Không tặng găng tay

Nhiều người quan niệm bạn không nên tặng găng tay cho người khác trừ khi bạn cũng nhận một thứ gì đó từ họ. Ngoài ra, nếu ai đó làm rơi nó và nhặt lại, họ sẽ gặp may mắn. Không ai biết rõ vì sao nhiều người quan niệm tặng găng tay sẽ đem lại xui xẻo. Niềm tin ấy có nguồn gốc từ thời Trung Cổ và được liệt vào danh sách những điều mê tín kỳ lạ nhất thế giới. 

8. Châm 3 điếu thuốc bằng một que diêm sẽ xui xẻo

Với quan niệm thảm họa sẽ ập xuống nếu con người châm 3 điếu thuốc bằng một que diêm, lợi ích duy nhất của chúng ta là tránh khỏi căn bệnh ung thư. Hút thuốc lá gây nên nhiều bệnh tật và đó là tất cả những hiểm họa. Cách tốt nhất để xui xẻo không tới là bỏ thuốc lá. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 phong tục kiêng kỵ kỳ quặc trên thế giới

SAO BẠCH HỔ - TANG MÔN TRONG TỬ VI

bạch hổ (Kim) tang môn (Mộc) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Bạch Hổ chỉ máu xương còn Tang Môn không có chỉ bộ phâ...
SAO BẠCH HỔ - TANG MÔN TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 bạch hổ (Kim) tang môn (Mộc) 


***
1. Ý nghĩa cơ thể: Bạch Hổ chỉ máu xương còn Tang Môn không có chỉ bộ phận cơ thể nào.

2. Ý nghĩa bệnh lý: Tang, Hổ là bại tinh nên báo hiệu hai loại bệnh tật:             - bệnh về tinh thần: biểu hiện bằng sự âu sầu, u buồn, ủy mị, bi quan.             - bệnh về vật chất: cụ thể là máu huyết, gân cốt như hoại huyết, áp huyết cao, đau gân, đau tim, nhức xương, tê thấp. Vì vậy, đối với phụ nữ, tình trạng khí huyết kém hay đưa đến sự đau yếu về kinh nguyệt, về tử cung, có ảnh hưởng đến sự sinh nở. Những bệnh hoạn này càng rõ rệt nếu Tang Hổ đóng ở cung Mệnh hay cung Tật dù tại đó, Tang Hổ đắc địa (ở Dần, Thân, Mão, Dậu).

3. Ý nghĩa tính tình:
a. Những ý nghĩa tốt của Tang Hổ đắc địa:             - sự can đảm, quả cảm, có nghị lực             - sự tài giỏi, quyền biến, thao lược, ứng phó được với nghịch cảnh             - khả năng xét đoán, lý luận giỏi, có tài hùng biện. Đi chung với Tấu Thư, Lưu Hà, Xương, Khúc thì khả năng hùng biện rất sắc sảo. Đó là bộ sao của quan tòa, luật sư, chính trị gia, thương thuyết gia, giáo sư, giáo sĩ.             - thích hoạt động về chính trị, cũng như có khả năng và có thể hiển đạt về võ nghiệp. Đây là bộ sao văn võ kiêm toàn, đa năng, đa hiệu.             - Riêng với phụ nữ thì người có khí phách, có ý chí mạnh như đàn ông, có tâm tính của nam giới. Đó là những người rất đặc biệt, tự tay lập nghiệp, quán xuyến cả nội trợ và ngoại giao, vừa đắc dụng trong gia đình vừa đắc dụng ngoài xã hội.
b. Những ý nghĩa xấu của Tang Hổ hãm địa:             - sự ương ngạnh, ngoan cố, cứng đầu, bướng bỉnh             - tính ưu tư, hay lo lắng, phiền muộn, cô độc             - thích chơi bời, ăn ngon mặc đẹp, hay say sưa nhậu nhẹt (nam giới)

4. Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ: Đắc địa, nam Mệnh thường hiển đạt về chính trị nếu được nhiều văn tinh hội chiếu, hiển đạt về quân sự nếu được võ tinh đi kèm. Về phúc thọ, Tang Hổ thủ Mệnh, dù đắc địa, cũng bị mồ côi sớm, có khi mới lọt lòng mẹ. Riêng phái nữ thì gia đạo, hôn nhân thường bị trắc trở, phải muộn chồng, phải cưới chạy tang nếu không thì khóc chồng, góa bụa hoặc đau khổ ưu phiền vì chồng con. Đây là hai sao bất lợi nhất cho đại gia đình (mồ côi) và tiểu gia đình (xung, khắc, ly cách)Mặt khác, vì Tang Hổ cũng bất lợi cho sinh nở nên nữ Mệnh có thể nguy hiểm tính mạng vì sinh đẻ hoặc phải đau yếu tử cung, hư thai, dù có sinh con cũng hết sức khó nuôi. Đặc biệt, nếu đi với sát tinh thì tai họa rất nhiều và ảnh hưởng đến nhiều phương diện, cụ thể như:             - khổ cực, cô độc             - khắc vợ/chồng, góa bụa, cô đơn             - bị bắt bớ, giam cầm             - bị bệnh tật trầm kha             - bị tai nạn nguy hiểm đến tính mạng             - yểu tử Phải cần sao giải mạnh mới chế giảm được bất lợi đó.

5. Ý nghĩa của tang hổ và một số sao khác:
a. Những cách tốt: Hổ Tấu: có khả năng diễn thuyết hùng hồn, lời lẽ lưu loát và khích động, có sức quyến rũ bằng ngôn ngữ rất sâu sắc. Nếu đi chung với các sao hùng biện khác như Lưu Hà, Khốc, Hư, Văn Xương, Văn Khúc thì tài hùng biện đạt mức quốc tế. Do đó, có ý nghĩa phụ nhưng không kém quan trọng là sự hiển đạt vì khoa cử (thi đỗ cao), về công danh (có chức phận lớn, được nhiều người biết tiếng), về khả năng tâm lý chiến (huy động quần chúng, vận động tinh thần).
Hổ Phi đồng cung (gọi là hổ mọc cánh): vui vẻ, nhanh nhẹn, tháo vác, cũng lợi ích cho việc thi cử, cầu danh, đạt quyền chức, may mắn nói chung.
Hổ, Cái, Long, Phượng (Tứ Linh): cũng rất hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, uy tín, khoa giáp.
Hổ Kình hay Hổ Hình đồng cung hay hợp chiếu: người có chí khí hiên ngang, có mưu lược, có tài quyền biến, rất đắc lợi về võ nghiệp và văn nghiệp.
Hổ ở Dần (hổ cư hổ vị): ví như cọp ở rừng núi, có thể vùng vẫy tung hoành như ý muốn. Có nghĩa như gặp được thời, gặp vận hội may mắn, có thể phát huy tài năng, đạt chức quyền cao. Vị trí này rất hợp với hai tuổi Giáp và Kỷ, thường lỗi lạc về võ nghiệp, lưu danh hậu thế. Rất độc với tuổi Bính, Mậu.
b. Những cách xấu: Hổ Tham : bị thú dữ cắn chết
- Tang, Hổ, Điếu, Binh (Tứ Hung): rất độc, báo hiệu cho tang tóc, tai nạn chết người, họa lớn. Nếu có Thiên Đồng thì hóa giải được. 
Tang Hổ gặp Lưu Tang, Lưu Hổ: tang tóc liên tiếp, ưu phiền rất nặng, tai họa khủng khiếp.

8. Ý nghĩa của tang hổ  ở các cung: Phần lớn có ý nghĩa xấu.
a. ở Phu Thê: Có những nghĩa hoặc một trong những ý nghĩa sau:             - cưới chạy tang             - có tang chồng hay vợ hoặc ly thân, ly hôn             - ở góa (nếu Phúc, Mệnh, Thân xấu)             - lấy vợ/chồng có tật, mù lòa, què gẫy mới tránh được hình khắc, chia ly
b. ở Bào: Thường mất anh chị  em. Tang Hổ Trực Tuế: anh chị em bất hòa Tang, Mã: anh chị em ly tán
c. ở Tử: Sẽ có một trong các ý nghĩa sau:             - khó sinh, sinh non ngày tháng             - sinh con khó nuôi             - sinh con nhưng không nuôi được             - gặp Kình, Sát: có thể không con             - gặp Không, Kiếp: sát con             - gặp Thai: sảy thai, con chết non             - gặp Không, Kiếp, Thai: có thể phá thai             - nếu thêm Hình: có mổ xẻ lúc sinh nở, con chết trong bụng mẹ, khó đẻ, phá thai.
d. ở Điền: Tang Hỏa: cháy nhà hay một phần nhà Tang, Phục, Không, Phù: vô sản Tang, Đào, Hồng: hưởng di sản của cô dì để lại
e. ở Tật: Bệnh hoạn nhiều, nhất là các bệnh kể ở mục 1.
f. ở Phúc:             - tổn thọ             - gia đình không toàn vẹn
g. ở Hạn: Có tang trong các trường hợp sau:             - Tang Mã Khốc Hư hay Tang Quả Khốc Hư             - Tang Hổ Bệnh Khách             - Gặp Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư (có nhiều tang liên tiếp, có đại tang)             - Tang, Hình, Khách             - Tang Hổ, Khốc Mã (súc vật chết vì bệnh tật)             - Tang Khách Kỵ Hình: tự ải Bị ác thú cắn nếu gặp:             - Hổ Riêu hay Hổ Đà Kỵ Nhật             - Hổ Đà Hình hay Hổ Khốc Riêu             - Hổ ở Dần, Kiếp ở Tuất Bị kiện tụng, khẩu thiệt, ốm đau nếu gặp:             - Hổ Phục             - Hổ, Tuế, Phù, Phủ Đại, Tiểu Hạn cần lưu ý xem kỹ Tang Hổ và Lưu Tang, Lưu Hổ. Nếu đồng cung thì sự hung hiểm càng nhiều.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO BẠCH HỔ - TANG MÔN TRONG TỬ VI

Chiếc váy cưới bị quỷ ám

Chiếc váy bị quỷ ám là một trong những chứng cớ khiến nhiều người nghiêng về đáp án có cho câu hỏi liệu trên đời có tồn tại ma quỷ.
Chiếc váy cưới bị quỷ ám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khoa học vẫn chưa có câu trả lời chính xác về việc ma quỷ có tồn tại hay không. Nhưng hàng ngày, hàng giờ, trên khắp hành tinh, người ta vẫn truyền tai nhau những câu chuyện rùng rợn về linh hồn, ma quỷ. Chiếc váy bị quỷ ám là một trong những chứng cớ khiến nhiều người nghiêng về đáp án có cho câu hỏi trên.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Chiec vay cuoi bi quy am hinh anh
 
Chiếc váy cưới bị quỷ ám thuộc về Anna Baker, con gái của nhà tài phiệt ngành sản xuất thép người Mỹ vào đầu thế kỷ 20 Elias Baker.    Gia đình Anna rất giàu có, cô thực sự là một nàng công chúa thời hiện đại, sống trong vinh hoa phú quý, muốn gì được nấy. Nhưng thứ mà cô gái trẻ ấy khao khát nhất thì cô không bao giờ có được, đó là tình yêu đích thực.    Anna xinh đẹp đem lòng yêu say đắm một chàng trai nghèo, làm lao động nhưng bố cô lại rất khắt khe trong việc tìm rể môn đăng hộ đối. ông tìm mọi cách chia rẽ đôi tình nhân. Mối tình bị gia đình ngăn cản khiến Anna quyết định sẽ không bao giờ kết hôn. Cô chết năm 1914, khi vẫn còn là một trinh nữ.   Cô đã không thể mặc chiếc váy cưới mà mẹ cô mua tặng trước khi mất. Chiếc váy cưới của Anna hiện được trưng bày ở nhà bảo tàng của Hội lịch sử hạt Blair, Pennsylvania.

Người ta nói những lúc không có ai, chiếc váy cưới tự đung đưa như thể có người đã mặc nó vào. Và họ tin rằng, đó là linh hồn cô gái trẻ ướm mình vào chiếc váy trong nỗi khát khao được trở thành cô dâu.
  ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiếc váy cưới bị quỷ ám

Áp dụng phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn

Bạn bận rộn mãi nhưng vẫn không có tiền thì hãy thử lưu ý những mẹo phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn, duy trì sực cân bằng, đặc biệt là khi bạn đang chìm
Áp dụng phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn bận rộn mãi nhưng vẫn không có tiền thì hãy thử lưu ý những mẹo phong thủy để thoát khỏi tình cảnh này để duy trì sự cân bằng, đặc biệt là khi bạn đang chìm trong cả “núi việc”.
Đừng hỏi vì sao bạn mãi bận rộn mà vẫn nghèo vì thực sự bạn đang vùi đầu vào công việc một cách thiếu khoa học. Những gợi ý sau đây có thể hỗ trợ bạn phần nào trong việc thực hiện lối sống mới khoa học hơn.

 
 Bất kể bạn đang độc thân hay nuôi tới ba đứa con bạn đều có thể áp dụng những mẹo phong thủy sau để cuộc sống bớt bận rộn và có thể cân bằng giữa cuộc sống gia đình lẫn công việc.  

1. Sống gọn gàng, ngăn nắp 

  Hầu hết mọi người hiểu rằng cuộc sống của họ cải thiện đáng kể khi họ ở nhà hay chỗ làm đều ngăn nắp, gọn gàng. Và điều này cũng hợp với nguyên tắc cơ bản trong phong thủy. Vì nếu để các đồ đạc lộn xộn trong nhà nghĩa là bạn đang làm chậm dòng chảy của năng lượng tích cực cần thiết cho cuộc sống. 
 
Ngăn nắp nghĩa là tăng năng lượng tích cực, vì thế, nếu giữ nhà cửa sạch sẽ, năng lượng bạn nhận được sẽ rất dồi dào và nhờ đó, bạn sẽ luôn tràn đầy sức sống, năng lượng để làm việc.    Khi đồ vật trong nhà và văn phòng ngăn nắp hơn, cuộc sống trở nên dễ dàng hơn. Hiệu quả công việc sẽ cao hơn. Vì thế, đừng biện minh rằng bạn quá bận không có thời gian dọn dẹp. Nếu cứ để mọi thứ lộn xộn bạn sẽ càng bận rộn hơn.
 
Khi nhà cửa lộn xộn bạn thường có tâm lý ngại bắt tay vào làm vì khá tốn thời gian và công sức. Bí quyết ở đây là hãy bắt đầu bằng cách lập ra một kế hoạch hành động cụ thể. Nếu không có thời gian để dọn dẹp toàn bộ căn nhà thì nên lên kế hoạch cho từng góc nhà. Điều này bao gồm việc dọn ngăn kéo, tủ quần áo, và bất kỳ đống giấy tờ, sổ sách nào. Hãy thẳng tay vứt bỏ những đồ vật mà bạn không còn sử dụng trong nhiều năm qua.
 
Bằng cách chia nhỏ việc dọn dẹp sẽ không khiến bạn cảm thấy quá tải mà vẫn đảm bảo được nhà cửa luôn sạch sẽ. Không những thế, việc dọn nhà từng chút một này còn giúp bạn được xả stress mỗi ngày.  
Ap dung phong thuy de thoat cuoc song ban ron hinh anh
 

2. Thêm yếu tố nước có tính chuyển động để cân bằng

  Cuộc sống của bạn sẽ bớt bận rộn bằng những điều rất tinh tế như là âm thanh của nước chảy. Sự hiện diện của dòng nước di chuyển giúp bạn bình tĩnh hơn và khi lắng nghe âm thanh đó, bạn cảm nhận được sự tĩnh lặng và đây là lúc bạn thoát khỏi cuộc sống bận rộn. Thư giãn với âm thanh nước chảy róc rách của hòn non bộ, tiểu cảnh hay ngắm nhìn đàn cá bơi tung tăng sẽ giúp bạn giảm stress.    Hơn nữa, những đồ vật trang trí mang yếu tố nước (hòn non bộ hoặc bể cá) là sự lựa chọn phong thủy lý tưởng cho khu vực phía Đông Nam (vị trí tượng trưng cho sự giàu có) hoặc khu vực phía Bắc (vị trí tượng trưng cho sự nghiệp) của bạn.

Đặt một chiếc ghế thoải mái gần vị trí tăng cường phong thủy này, bạn có thể nghỉ ngơi, lắng nghe tiếng nước chảy, tận hưởng cuộc sống hạnh phúc khi tiền bạc và công việc được hanh thông.
 

3. Áp dụng phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn nhờ cân bằng yếu tố thuận lợi và rủi ro

  Nếu không giữ cân bằng giữa yếu tố thuận lợi và rủi ro sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống khiến mọi thứ không chỉ bận rộn mà ngày càng trở nên tệ hơn. Bạn có thể khắc phục những yếu tố phong thủy xấu tại khu vực mất cân bằng bằng cách thêm các vật dụng thích hợp để làm giảm bớt đi ảnh hưởng tiêu cực.
 
Một số ví dụ về cách kích hoạt năng lượng tích cực hoặc làm giảm bớt đi yếu tố tiêu cực tuân theo thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc:   - Phía Nam (khu vực thuộc hành Hỏa): Thêm đèn và nến nếu đây là khu vực hỗ trợ cho mệnh của gia chủ. Nhưng nếu bạn không hợp mệnh Hỏa và muốn làm giảm bớt đi năng lượng này thì bố trí thêm đồ vật mang hành Thủy, chẳng hạn như một bức tranh có nước chạy nhẹ nhàng hay một hòn non bộ, bể cá hoặc đồ vật mang hành Thổ như đồ gốm và pha lê.
 
- Phía Đông Nam và Đông (khu vực thuộc hành Mộc): nếu chủ nhà hợp mệnh Mộc có thể kích hoạt năng lượng bằng cách thêm các yếu tố Mộc để trang trí ví trí này. Ngược lại, nếu muốn giảm yếu tố hành Mộc có thể thêm đồ kim loại (đồ vật trang trí, chân nến,... hoặc những đồ thuộc hành Hỏa như nến, đèn...
 
- Phía Tây Bắc và Tây (khu vực thuộc hành Kim): những yếu tố mang sự thuận lợi cho gia chủ hợp mệnh này là các đồ vật mệnh Kim. Ngươc lại, muốn làm giảm yếu tố không tốt này bằng cách đặt để đồ vặt có yếu tố thuộc hành Thủy hoặc hành Hỏa.
 
- Phía Bắc (khu vực thuộc hành Thủy): Nếu bạn hợp hành Thủy có thể tăng thêm yếu tố thuộc hành Thủy hoặc vẽ một con sông nhỏ chạy hướng vào phòng nhưng không có hướng chạy ra. Nếu không hợp hành này thì có thể làm giảm bớt năng lượng Thủy bằng cách thêm các đồ vật có yếu tố Mộc hoặc Thổ.
 
- Vị trí trung tâm (khu vực thuộc hành Thổ): Nếu đây là hành hỗ trợ cho mệnh của bạn thì nên thêm đồ gốm, thủ tinh hoặc các đồ vật thuộc hành Thổ khác. Nếu đây là vị trí bất lợi đối với mệnh của bạn thì thêm đồ vật thuộc hành Mộc hoặc hành Kim để làm suy yếu năng lượng của hành Thổ.    
Ap dung phong thuy de thoat cuoc song ban ron hinh anh 2
 

4. Tìm cách tăng năng lượng để luôn tràn đầy sức sống

  Nếu bạn nhiều năng lượng thì càng tăng sức sáng tạo và năng lượng tích cực để bạn đối đầu với cuộc sống bận rộn. 
 
Năng lượng tốt tức là phải đảm bảo cân bằng âm - dương. Hai nguồn năng lượng này đều cần thiết để tạo ra một sự cân bằng trong cuộc sống. Bạn có thể tạo một sự phong phú của năng lượng dương để bù đắp cho lượng năng lượng bạn đang thiếu hụt.

Một số cách để bạn tăng năng lượng tốt cho gia đình:
  - Mở cửa sổ để cho phép năng lượng tươi mới vào phòng.
 
- Nuôi con vật nhỏ để chúng thường xuyên di chuyển trong nhà cũng là cách kích thích năng lượng dương.
- Để đèn sáng tối thiểu 5 tiếng mỗi đêm.
 
- Nên bật nhạc khi bạn ở một mình.
 
- Năng lượng của trẻ em vui chơi, đùa nghịch trong nhà tạo ra năng lượng dương.
 
- Những hoạt đông vui vẻ trong nhà của bạn như tiếng cười, chơi trò chơi và tiếng trò chuyện vui vẻ với bạn bè sẽ tạo ra năng lượng dương.
- Bật quạt quay cũng là cách để tái tiếp sinh lực cho năng lượng dương trong nhà của bạn.
   
Ap dung phong thuy de thoat cuoc song ban ron hinh anh 3
 

5. Nuôi dưỡng tình yêu hài hòa bằng các biện pháp phong thủy

  Tình yêu thường bị lãng quên khi các cặp đôi có cuộc sống bận rộn. Và khi mối quan hệ bất hòa sẽ khiến bạn càng bận rộn hơn vì không chỉ lo công việc mà bạn còn giải quyết các xung đột nảy sinh. Vì thế muốn bớt bận ít nhất bạn cũng phải dành thời gian cho tình yêu của mình để vấn đề tình cảm được yên ổn.

Một số biện pháp phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn, có nhiều thời gian hơn cho tình yêu đôi lứa:

 
- Vị trí phía Tây Nam tượng trưng cho tình yêu, vì thế có thể tăng vận may tình yêu của bạn bằng cách kích hoạt các khu vực phía Tây Nam của nhà và phòng ngủ của bạn với các yếu tố và biểu tượng tình yêu.   - Nên đặt pha lê thạch anh tím trong khu vực phía Tây Nam sẽ kích hoạt sự may mắn trong tình yêu.
  
- Đặt một bức tượng gà trống bên cạnh thạch anh tím để bảo vệ chống lại sự không chung thủy - thói quen dễ gặp ở những người có lối sống bận rộn.

Bạn có thể tham khảo thêm phong thủy áp dụng cho tình yêu - hôn nhân để có cuộc sống viên mãn hơn.
 

6. Cân bằng cuộc sống nơi làm việc

  Bạn có thể khôi phục sự cân bằng cho sự nghiệp với một vài phương pháp phong thủy dưới đây:   Sức mạnh và quyền hạn: Phía Tây Bắc của văn phòng được trang trí bằng những biểu tượng của sự mạnh mẽ và quyền lực sẽ đảm bảo vị trí của bạn trong công ty thực sự bền vững.
 
Tránh tiểu nhân: Đặt một bức tượng gà trống trong khu vực phía Tây của văn phòng để chống lại những tin đồn không hay do tiểu nhân thêu dệt.
 
Sự trợ giúp: Để được hỗ trợ trong công việc bạn nên đặt một bức ảnh hoặc bức tranh của một ngọn núi phía sau ghế hoặc trong khu vực phía Đông Bắc của văn phòng. Phải đảm bảo rằng các đỉnh núi không lởm chởm và nhọn.
 
Thăng tiến: Nếu bạn đang muốn được thăng chức, nhưng làm việc với một lịch trình căng thẳng, tăng vận may của mình với một biểu tượng của sự công nhận: như tượng con ngựa ở khu vực phía Nam của văn phòng.
 
Hòn non bộ: Đảm bảo may mắn trong sự nghiệp nhờ dòng chảy của hòn non bộ sáu hoặc tám tầng. Đảm bảo rằng dòng chảy hướng vào văn phòng và trực tiếp chạy về phía bạn.
 

7. Áp dụng phong thủy để cân bằng cuộc sống cho con trẻ

  Áp dụng phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn thì không thể bỏ qua việc chăm sóc các con vì chúng ảnh hưởng phần lớn thời gian của chúng ta.

Khu vực phía Tây hỗ trợ điều chỉnh hành vi tích cực của trẻ. Bạn có thể sử dụng đồ vật, biểu tượng ở vị trí này để đảm bảo các con không bị ảnh hưởng từ một lối sống gia đình bận rộn.
  Để trẻ thông minh và may mắn hơn, bạn có thể đặt quả cầu pha lê đặt ở khu vực phía Tây của ngôi nhà, ngoài ra bạn cũng có thể đặt quả cầu ở góc phía Tây bàn học của con.
 
Đặt một bức tượng chùa bảy tầng trong khu vực phía Tây để mang lại may mắn cho việc học hành của trẻ.
Tượng Phật cười sẽ giúp duy trì sự hài hòa, hạnh phúc và cân bằng cho trẻ em khi tượng được đặt trong khu vực phía Tây ngôi nhà của bạn.
 
  HaTra


Xem phong thủy nhà bếp, chọn hướng đại cát đại lợi Mẹo phong thủy nhà cửa để tiền bạc ào ạt chạy vào túi Phong thủy nhà ở hạn chế tình trạng ngoại tình, vợ chồng nên biết

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Áp dụng phong thủy để thoát cuộc sống bận rộn

Xem tử vi hạn tháng trong năm của bạn –

Xem tử vi ,cách xem hạn tháng hay trong năm của bạn Ở những bài trước Xem Tướng Chấm Net đã trình bày cùng các bạn cách xem đại vận 10 năm trong lá số tử vi của mỗi người ,cũng như cách xem hạn năm của mỗi người dựa vào lá số. Bài này Xem Tướng Chấm Net xin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi ,cách xem hạn tháng hay trong năm của bạn

Ở những bài trước Xem Tướng Chấm Net đã trình bày cùng các bạn cách xem đại vận 10 năm trong lá số tử vi của mỗi người ,cũng như cách xem hạn năm của mỗi người dựa vào lá số.

Bài này Xem Tướng Chấm Net xin trình bày chi tiết cách xem hạn tháng theo phương pháp và quan điểm của cụ Thiên Lương :

Vận tháng, hxem-ạn tháng hay các cụ xưa thường gọi là Nguyệt vận, là vận hạn tốt xấu trong tháng, khi xem tử vi vận tháng là chúng ta tìm hiểu xem những biến cố xảy ra trong tiểu vận có xảy ra trong tháng đó không.Khi xem hạn tháng chúng ta có những nguyên tắc sau đây:

Nếu Đại vận và tiểu vận tốt, thì Nguyệt vận cũng tốt thì càng tốt thêm; Nguyệt vận có xấu cũng bớt xấu.

Nếu Đại vận và tiểu vận bị xấu mà Nguyệt vận bị xấu thì càng xấu; Nguyệt vận  tốt cũng chỉ tương đối.

tu-vi-2013

-Tính Nguyệt vận, có 2 nguyên tắc :

Xem hạn tháng ở tháng nào, tháng ấy có Can Chi gì, lấy hàng Can so với Can của năm sinh là thấy tháng ấy tốt hay xấu. Mức độ tốt xấu đại cương này đúng đến 60%, chỉ còn những chi tiết của biến cố tốt xấu là do sao mà đoán.

 Cũng vì sự tốt xấu của tháng đã được ấn định, do hàng Can của tháng, cho nên hàng Chi của tháng không thay đổi, cứ:

Tháng Giêng là tháng Dần, ở cung Dần

  2 Mão Mão
  3 Thìn Thìn
  4 Tỵ Tỵ
  5 Ngọ Ngọ
  6 Mùi Mùi
  7 Thân Thân
  8 Dậu Dậu
  9 Tuất Tuất
  10 Hợ, Hợi
  11
  12 Sửu Sửu

 

Xem các sao  cung Nguyệt vận, dể biết các chi tiết vận tốt xâu (40% còn lại).

Xem sao ở cung Nguyệt vận, phải kể cung chính và  cung tam hợp; tam hợp nhị hợp sinh cho tam hợp Nguyệt vận thì cho các sao nhị hợp, và tuỳ theo tam hợp Nguyệt vận khắc tam hợp cung xung chiếu hay bị khắc lại, mà đoạt những sao tốt hay phải chịu những sao xấu của cung xung chiếu.

Trong nhiều trường hợp mà sự tốt xấu đã rõ ràng (như Đại vận và niên vận đều báo sự thi đậu hay thăng tiến công danh, hay phát tài lộc, hay đau ốm sắp chết) có khi không cần xem sao  Nguyệt vận, chỉ cần xem tháng đó tốt hay xấu trong đại cương. Nếu là tháng tốt thì việc tốt xảy ra, nếu là tháng xấu thì việc xấu xảy ra.

Muốn biết tháng tốt hay xấu, trước hết phải biết hàng Can của tháng. Hàng Can của tháng tính như sau:

Năm vận (là năm tiêu hạn) Tháng Dần
Giáp, Kỷ Bính Dần
Ất, Canh Mậu Dần
Bính, Tân Canh Dần
Đỉnh, Nhâm Nhâm Dần
Mậu, Quý Giáp Dần

Thí dụ: Năm Kỷ Mùi, tháng Giêng là tháng Bính Dần.

Năm Canh Thân, tháng Giêng là tháng Mậu Dần.

Rồi cứ theo thứ tự hàng Can và hàng Chi mà tính các tháng kê tiếp.

Cũng như niên vận, tính các tháng tốt xâu bằng hàng Can so sánh với Can năm sinh.

 Can nguyệt vận sinh cho Can năm sinh

 Can nguyệt vận sinh cho Can năm sinh  Tốt 1
 Can năm sinh khắc Can nguyệt vận  Tốt 2
 Can nguyệt vận hoà Can năm sinh  Bình
 Can năm sinh Can nguyệt vận  Xấu vừa
 Can nguyệt vận khắc Can năm sinh  Xấu

Vấn đề tốt xấu là do hành Can (của năm vận và năm sinh so sánh với nhau). Đó là về năm về tháng, tháng tốt xấu cũng được ấn định bằng hành Can của tháng vận so với hành Can năm sinh.

Nhưng ta có thêm nguyên tắc sau này:

-Nếu là năm vận Âm, thì sự việc tốt hay xấu (tùy theo là năm tốt, xấu) thường xảy ra vào tháng âm

-Nếu là năm vận Dương thì sự việc tốt xấu (tùy theo là năm tốt, xấu) thường xảy ra vào tháng dương

-Chờ tháng một sự kiện xấu đã sẵn có, phải tìm đến tháng mà hành Can khắc được hành năm vận, nếu năm vận xấu.

-Vài kinh nghiệm xem tử vi  vận tháng của cụ Thiên lương

Câu chuyện thứ nhất:

Đương số” tuổi Kỷ Mùi bị ở tù. Đầu năm Đinh Tỵ, Cụ Thiên Lương giải đoán: “Năm nay tốt đây, tuổi Kỷ có thể về nhà được, vì Đinh Hoả sinh Kỷ Thổ”.

Hỏi: Có thể về tháng nào?

Đáp: Chưa xem lá sô”, nhưng đoán rằng sẽ về trong một tháng Âm.

Năm Đinh Tỵ, tháng Giêng là tháng Nhâm tức tháng Dương. Bao giờ các tháng 1,3,5,7,9,11 cũng là tháng Dương. Tháng Âm bao giờ cũng là tháng 2, 4, 6, 8, 10, 12.

Tuổi Kỷ Mùi đã được tự do tháng 8 năm Đinh Tỵ, đúng tháng Âm.

Câu chuyện thứ hai:

 Người con ông Cụ tuổi Nhâm gần nhà đến coi cho cha: “Cha tôi bị đau liên miên, sợ khó qua khỏi”

Năm đó là Mậu Ngọ – Mậu Thổ khắc Nhâm Thủy, ông cụ đau nặng là phải. Qua đến năm Kỷ Mùi, ông Cụ càng đau thêm.

Cụ Thiên Lương nói: “Cụ khó qua khỏi, năm Kỷ còn xấu, Kỷ cũng là Thổ, cũng khắc Nhâm Thủy. Nhưng tháng Giêng này chưa sao đâu, phải phòng tháng 2 hay tháng 4”.

Kỷ là năm Âm, việc xấu do năm báo trước thường xảy ra vào tháng Âm là tháng 2 hay 4…… Tháng 2, ông Cụ tuổi Nhâm mất

Câu chuyện thứ ba:

 Một người tuổi Mậu bị bệnh lâu ngày. Năm đó là năm Ất, Ất Mộc khắc Mậu Thổ bị bệnh là phải.

người nhà đến nhờ xem  giờ khỏi. Xem lá số tử vi người đó không yểu,  Cụ Thiên Lương bảo: Sẽ khỏi trong tháng Âm, mà vào tháng Quý, vì Mậu khắc Quý”.

Quả nhiên, tháng 6 Quý Mùi người đó khỏi bệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi hạn tháng trong năm của bạn –

Xem tướng người thành đạt –

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, … là vội vã cho ngay đó là loại tướng người phát đạt. Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, … là vội vã cho ngay đó là loại tướng người phát đạt.

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dội, Tam đình bình ổn, Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người  phát đạt.

Tướng người phát đạt

xem_tuong_khuon_mat

Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả.

Hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt.

Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc (trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).

Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già.

Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt.

Tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.

Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là :

– Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )
– Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )
– Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )
– Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm )
– Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong )

Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt.

Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm.

Ví dụ như ngũ lộ mà :

– Mắt lộ nhưng không có thần quang
– Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ
– Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng
– Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh
– Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ

Thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .

Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên.

Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt.

Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt.

Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán.

Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người thành đạt –

Trước khi chết, con người thấy những gì?

Các chuyên gia tâm lý nước Anh đã nghiên cứu trên 150 ca chết lâm sàng. Kết quả cho thấy, tất cả các đối tượng tham gia, dù ở độ tuổi khác nhau nhưng đều chung những cảm giác tương tự.
Trước khi chết, con người thấy những gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tự bản thân nghe thấy người khác tuyên bố mình đã chết

Một người trước khi chính thức từ giã cõi đời, tai của họ sẽ nghe thấy bác sĩ hoặc người nào đó bên cạnh tuyên bố mình đã chết. Đồng thời, toàn thân người đó sẽ cảm thấy sự mệt mỏi rã rời về mặt sinh lý.

2. Cảm thấy thoải mái chưa từng có

Trải nghiệm đầu tiên trước khi một người chính thức đi vào cõi vĩnh hằng, đó chính là cảm giác bình yên, thoải mãi, thư giãn chưa từng có bao giờ. Trước đó sẽ có cảm giác đau khổ, nhưng chỉ là thoáng qua. Cuối cùng, bản thân người này sẽ thấy mình đang bay bổng ở một nơi xa lạ nào đó. Những cảm giác thanh thoát, thoải mái sẽ vây quanh họ.

3. Nghe thấy âm thanh kỳ quái

Trong lúc lâm chung hoặc khi bắt đầu đi vào cõi chết, con người sẽ nghe thấy những âm thanh kỳ quái khác nhau. Người thì nghe thấy tiếng nhạc du dương, tuyệt diệu, người lại thấy những tiếng la hét, kêu gào…

32-8110-1418915576.jpg

4. Cảm giác bị kéo vào khoảng không đen tối

Khi nhắm mắt xuôi tay, con người sẽ có cảm giác như bị kéo vào khoảng không đen tối nào đó với một lực khá mạnh mà bản thân không thể kháng cự được. Nó như một chiếc hộp kín, không có không khí, ngột ngạt, khó chịu.

5. Người khác không thể nghe thấy mình nói gì

Dù có cố  gắng la hét, thét gào về tình trạng của bản thân, thì cũng không có bất cứ ai nghe thấy điều đó. Từ đó họ cảm thấy vô cùng cô đơn, sầu thảm.

6. Không ngừng thoát xác rồi lại nhập xác

Con người trước khi chính thức đi về cõi vĩnh hằng, thường có cảm giác linh hồn thoát ra khỏi thể xác rồi lại nhập xác. Cứ như vậy cho tới khi không còn cảm nhận được bất cứ điều gì.

7. Có ai đó dẫn dắt cho mình

Một người nào đó sẽ xuất hiện trong mờ ảo và dẫn dắt cho linh hồn của người chết. 

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trước khi chết, con người thấy những gì?

Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng, không chỉ với người đã khuất mà còn với gia đình, những người còn sống. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.
Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt mộ mà Hình và Thế mâu thuẫn, đại mạch không thông, phong thủy hỗn loạn thì sẽ nảy sinh hiện tượng trái với tự nhiên. An táng ở đất ấy thì thi thể không thể tiêu tan, có hại cho người đã mất và vận thế của gia đình.    Long huyệt là nơi đất tốt, có long mạch, rất thích hợp để an táng, có lợi cho người còn sống, con cháu được hưởng phúc tổ tiên. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ không giống với nam giới. Vốn “phúc đức tại mẫu”, huyệt mộ của người phụ nữ càng tốt thì gia trạch càng hưng.   Muốn táng người nữ trong nhà ở cuộc đất tốt cho âm trạch thì phải chọn nơi phong thủy thật tốt, trước thoáng rộng, sau có chỗ dựa, chín dòng nước như Cửu Long mang nước, phân cách đồi núi như đóa hoa sen nở rộ, gọi là Cửu Long tráo ngọc liên”. Nếu thiếu một dòng, thêm một dòng hay dòng nước quá mạnh đều có thể phá vỡ thế cục, không tốt.   Số 9 là số lớn nhất ở hàng đơn vị, ẩn chứa ý nghĩa chí tôn, phát âm cũng tựa như vĩnh hằng, là kí tự cát tường, may mắn. Mặt khác, dòng nước nhỏ thì không gọi là Long mà là Xà, cũng mất thế cục.   Một cuộc đất tốt để táng người nữ khác là “Lạc thần liễn”. Thế đất này chỉ hợp với táng người nữ, táng người nam thì cả gia tộc bại vong, người nam trong nhà không ốm yếu chết bệnh cũng suy đồi.   Mộ mà phía trước có một đạo nho nhỏ dẫn tới suối hoặc ao, mà con suối ấy lại là địa mạo hiểm thủy thì chính là thế huyệt tốt. Dòng nước mà suối dẫn vào tưới tắm, làm tốt tươi cho ngôi mộ, thế đất cực tốt trong phong thủy âm trạch.   Đây là thế huyệt hiếm gặp, giữa huyệt có dòng nước vĩnh viễn chảy, không lớn tới mức tràn ra, không nhỏ đến nỗi khô cạn, tụ khí. Tìm được cuộc đất tự nhiên như vậy rất thích hợp để táng người nữ trong nhà, con cháu được hưởng phúc ấm.   Trần Hồng (Theo 99166)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

13 lỗi thường gặp khi tự bài trí nội thất trong nhà

Nếu đồ nội thất không được bài trí một cách phù hợp, ngay cả những căn phòng đẹp nhất cũng mất đi vẻ đẹp vốn có.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đồ nội thất không được bài trí một cách phù hợp, ngay cả những căn phòng đẹp nhất cũng mất đi vẻ đẹp vốn có. Làm thế nào để bạn có thể chọn được một bố cục hợp lý? Nếu bạn  là người mới bắt đầu, hãy cố gắng tránh những lỗi sau đây. Nếu bạn chẳng may mắc phải những lỗi này rồi, đừng sợ bởi có những thủ thuật giúp bạn khắc phục chúng một cách dễ dàng.

1. Kê nội thất sát tường

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 1

Kê nội thất sát tường tạo cảm giác căn phòng rộng hơn. Tuy nhiên nếu bạn muốn có một căn phòng tiện để chuyện trò tán gẫu thì bạn cần phải thay đổi lại cách bố trí nội thất. Một phòng khách với ghế sopha nổi bật giữa phòng xếp gần những chiếc ghế nhỏ sẽ tạo ra một không gian vừa phải cho mọi người trò chuyện.

2. Không tính đến giới hạn không gian

Đôi khi bạn phải đối mặt với tình trạng này. Phòng khách không thể rộng thêm vài mét nữa để xếp vừa đồ nội thất bạn thích. Hãy sớm tính toán diện tích không gian mình có để lựa chọn đồ nội thất và sắp xếp cho phù hợp. Hãy tìm kiếm một vài thủ thuật sắp xếp phù hợp với căn phòng của mình.

3. Một bên giường chặn cửa sổ

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 2

Giường ngủ kê cạnh cửa sổ để nhìn xuống phố đôi khi lại dẫn đến bố cục không hài hòa. 

Hãy sửa lỗi này bằng những thủ thuật sau: Treo rèm phía đầu giường để ngăn ánh sáng trực tiếp từ sửa sổ chiếu vào. Nếu căn phòng trang trí theo phong cách hiện đại, một đầu giường có thể kê hơi thấp phù hợp với những trang trí bên cửa sổ. Bạn cũng có thể trang trí toàn bộ một bức tường với rèm vải.

4. Bố cục thiếu cân bằng

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 3

Để bố cục trở lên cân bằng bạn không nhất thiết phải sắp xếp mọi thứ đối xứng nhau hoàn toàn. 

Xếp hết đồ đạc về một phía của căn phòng cũng giống như đang chơi trò bập bênh một mình. Để bố cục trở lên cân bằng bạn không nhất thiết phải sắp xếp mọi thứ đối xứng nhau hoàn toàn. Chẳng hạn, một chiếc ghế đôi xếp đối xứng với hai chiếc ghế rời ở đầu bên kia cũng làm cho bố cục căn phòng trở lên cân đối.

5. Quên không để lối đi lại

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 4

Khi sắp xếp nội thất bạn cần tính toán làm sao để việc di chuyển trong phòng, đi ra đi vào một cách dễ dàng.

Chẳng hạn như ở phòng khách, bạn cần bố trí sao cho mọi người có thể dễ dàng đi vào chỗ ngồi mà không phải đi vòng quanh qua chiếc bàn hay người bên cạnh. Nếu căn phòng có nhiều cửa đi lại, hãy bố trí lối đi thật thông thoáng, như lối đi dẫn từ phòng bếp đến cửa phòng khách rồi ra hiên nhà chẳng hạn.

6. Tránh những đồ nội thất cỡ lớn

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 5

Bộ sopha to đùng chỉ có thể để cố định ở một nơi trong căn phòng trong khi bộ nhỏ hơn có thể sử dụng linh hoạt và thích hợp đặt ở nhiều nơi.

Một món đồ không quá khổ không có nghĩa là nó không thể được dùng cho một mục đích nào đó. Những đồ nội thất cồng kềnh sẽ chiếm hết không gian, nên đừng bỏ qua những phiên bản nhỏ gọn hơn như một chiếc ghế dài nhỏ, kệ ti vi mỏng với bàn trà nhỏ nhắn khi trang trí cho một căn phòng nhỏ. Bộ sopha to đùng chỉ có thể để cố định ở một nơi trong căn phòng trong khi bộ nhỏ hơn có thể sử dụng linh hoạt và thích hợp đặt ở nhiều nơi.

7. Không xét hết mọi tình huống

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 6

Bạn có thể thoải mái đi lại giữa giường và tủ đồ nhưng điều gì sẽ xảy ra khi bạn mở cánh tủ ra?

Bạn có thể thoải mái đi lại giữa giường và tủ đồ nhưng điều gì sẽ xảy ra khi bạn mở cánh tủ ra? Hay phải làm thế nào khi bạn muốn mở ngăn kéo lúc khách hàng vây kín xung quanh bàn? Hãy sắp xếp nội thất hợp lý để bạn có thể thoải mái mở ngăn kéo, cửa ra vào mà không cần bước tránh sang một bên

8. Chỉ nghĩ đến một chức năng

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 7

Chẳng hạn, một cặp ghế đơn có thể dùng làm ghế ngồi khi đông khách và cũng có thể di chuyển sang nơi khác và trở thành chiếc bàn tiệc cocktail nhỏ.

Khi lựa chọn và bài trí nội thất, bạn cần xem xét mọi hoạt động có thể diễn ra trong phòng khách để thiết lập kế hoạch cho phù hợp. 

9. Đèn chiếu sáng lệch tâm

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 8

Hãy tìm người có chuyên môn đến sửu chữa và lắp đặt lại đèn chùm lên phía trung tâm giữa bàn ăn.

10. Hiệu ứng sân bowling

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 9

Xếp hai chiêc ghế nhỏ dọc sau lưng sopha để tạo ra một góc nhỏ khác.

Sắp xếp nội thất trong một căn phòng dài và hẹp thường tạo ra cảm giác này. Hãy tách phòng thành các khu vực khác nhau: nơi trò chuyện với một chiếc bàn xếp dọc theo ghế sô pha để tạo ra một góc làm việc, một chiếc bàn và ghế nhỏ sau sopha để ngồi làm bài tập hay chơi game. Xếp hai chiếc ghế nhỏ dọc sau lưng sopha để tạo ra một góc nhỏ khác.

11. Nội thất bị phô phần lưng xấu

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 10

Quay phần lưng ghế về phía góc tường hoặc bạn cũng có thể sử dụng những tấm bọc ghế bắt mắt.

Chẳng có thứ gì làm căn phòng trở lên thu hút nếu gây ra ấn tượng đầu tiên xấu. Nếu điều đầu tiên bạn nhìn thấy khi bước vào căn phòng là phần lưng ghế xấu xí hãy sắp xếp lại bố cục nội thất ngay. 

12. Chọn góc nhìn tẻ nhạt

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 11

Nếu đối diện ghế sopha là một bức tường trống rỗng bạn có thể khắc phục bằng cách kê vào đó kệ sách, trưng bày các cuốn sách và phụ kiện cuốn hút hoặc một bức tranh nghệ thuật.

Vị trí ghế chính trong căn phòng có thể đạt gần cửa sổ, lò sưởi hay cánh cửa mở sang phòng khác. Nếu đối diện ghế sopha là một bức tường trống rỗng bạn có thể khắc phục bằng cách kê vào đó kệ sách, trưng bày các cuốn sách và phụ kiện cuốn hút hoặc một bức tranh nghệ thuật.

13. Chân ghế kê lên sàn nhà

 13 loi thuong gap khi tu bai tri noi that trong nha - 12

Tất cả chân ghế đều được kê lên thảm trải nhà là lý tưởng nhất.

Tất cả chân ghế đều được kê lên thảm trải nhà là lý tưởng nhất. Nếu không thể thực hiện điều này thì ít nhất những chiếc chân ghế phía trước cũng cần được đặt lên thảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 13 lỗi thường gặp khi tự bài trí nội thất trong nhà

7 dấu hiệu khiến nhà gặp vận xui

Chỉ 1 trong những dấu hiệu sau đây tồn tại trong nhà sẽ khiến gia đình bạn gặp nhiều điều không may mắn, làm giảm sự thịnh vượng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn cảm thấy không thoải mái và mệt mỏi vì cuộc sống gặp phải quá nhiều rắc rối? Bạn luôn cảm thấy mình thiếu may mắn? Vậy, đã bao giờ bạn nghĩ rằng tất cả những vấn đề này đều có liên quan đến phong thủy của ngôi nhà đang ở.

Nhà đẹp xin chỉ ra một số dấu hiệu phổ biến, được đánh giá là không tốt lành nếu xuất hiện trong nhà. Bởi vì nó có thể khiến gia đình bạn gặp nhiều điều không may mắn, làm giảm sự thịnh vượng.

Nhận biết rõ những dấu hiệu này để tạo ra những thay đổi phong thủy có lợi, giúp mang về tài lộc, thịnh vượng và sự giàu có cho gia đình!

 7 dau hieu khien nha gap van xui - 1

Phong thủy của ngôi nhà có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia chủ.

1. Mèo hoang xuất hiện trên mái nhà

Theo phong thủy, mèo hoang xuất hiện trên mái nhà có nghĩa rằng gia đình bạn sẽ có người gặp phải tai nạn hoặc tử vong. Nếu mèo hoang xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau xung quanh/trong nhà cho thấy khu vực thờ cúng tâm linh không tốt, không ổn định nên bạn cần xem xét lại càng sớm càng tốt.

2. Cá nuôi trong nhà đều bị chết

Có rất nhiều người thích nuôi cá cảnh trong nhà như một giải pháp phong thủy, nhưng phải đặc biệt chú ý đến nó. Sẽ không có vấn đề gì nếu 1 hoặc 2 con cá bị chết. Tuy nhiên, nếu tất cả cá nuôi đều bị chết thì nó báo hiệu cho sự phá sản hoặc bệnh tật. Lúc này, tốt nhất bạn không nên tiếp tục nuôi cá vì không phải ai cũng hợp và có thể nuôi cá thành công.

 7 dau hieu khien nha gap van xui - 2

Cá chết là dấu hiệu của phá sản và bệnh tật.

3. Mặt trước bàn thờ tổ tiên chếch xuống đất

Bàn thờ tổ tiên là một tín ngưỡng tâm linh truyền thống đẹp của các gia đình Việt Nam. Bạn nên chọn mua bàn thờ bằng phẳng, chắc chắn thay vì có quá nhiều đường cong, uốn lượn, vì loại bàn thờ này rất dễ trượt xuống dưới. Và nếu mặt trước của bàn thờ có xu hướng chếch xuống đất, nó đại diện cho sự thất thoát tiền bạc và của cải trong nhà.

4. Tường phòng thờ bị nứt

Các bức tường trong phòng thờ, hoặc bức tường kê bàn thờ bị nứt là một dấu hiệu rất xấu. Điều này cho thấy các thành viên trong gia đình có thể bị ốm, bệnh tật hoặc bị tai nạn. Do đó, bạn phải nhanh chóng sửa chữa các bức tưởng để duy trì sức khỏe và sự an toàn cho bản thân cũng như mọi người.

 7 dau hieu khien nha gap van xui - 3

Không gian thờ cúng phải được chăm sóc kỹ càng, chú tâm đến kiểu dáng và vị trí bàn thờ.

5. Chuột sống trong nhà

Ngôi nhà của bạn có thể thiếu vệ sinh nên lũ chuột mới tìm đến để sinh sống. Chúng sẽ mang tới sự ô uế, làm xáo trộn và gây bất an cho con người nếu ẩn náu lâu dài trong nhà. Bạn phải tiêu diệt hết lũ chuột ra khỏi không gian sống một cách nhanh chóng và dứt khoát.

6. Mạng nhện giăng khắp nhà

Thông thường, sự xuất hiện của mạng nhện nói lên rằng ngôi nhà của bạn luôn luôn bẩn thỉu, ô uế và bụi bặm. Và nếu bạn không có kế hoạch làm sạch mạng nhện quanh nhà mà chấp nhận sống chung với nó thì sẽ phải chịu đựng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.

 7 dau hieu khien nha gap van xui - 4

Giữ vệ sinh nhà cửa là cách tốt nhất để ngăn chặn sự xuất hiện của chuột, mạng nhện nhằm bảo vệ sức khỏe cho gia chủ.

7. Cây cảnh và hoa tươi bị khô héo/chết

Cây cảnh và hoa tươi là một yếu tố trang trí nhà cửa rất được con người yêu thích. Trường hợp một vài chiếc lá bị khô héo sẽ không có gì to tát khiến bạn phải bận tâm. Dù vậy, một khi toàn bộ cây cảnh và hoa tươi đều bị khô héo hoặc bị chết thì nó biểu hiện cho điều xui xẻo sắp tới, điển hình như việc kiện tụng, tranh chấp, cãi cọ.

Lúc này, bạn cần thay mới những cây và hoa bị khô héo/bị chết bằng cây mới tươi tốt. Với những ai không có nhiều thời gian cho việc chăm sóc cây cối thì hãy chọn những loại cây có sức sống mãnh liệt, dễ sống như cây dương xỉ, hoa lan ý, cây lưỡi hổ, hoa đá... để trồng tại nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 dấu hiệu khiến nhà gặp vận xui

Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

Nữ Giáp Tuất có nhiều triển vọng tốt đẹp về danh phận, cuộc sống có nhiều sung sướng và gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Tiền vận cũng hơi nhiều lo âu, buồn khổ, nhưng trung vận thì an nhàn sung sướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ mệnh Giáp Tuất sinh năm 1994, thuộc cung Cấn, mạng Sơn đầu hỏa (lửa trên núi).

 Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

Cuộc đời nữ mệnh Giáp Tuất.

Nữ Giáp Tuất có nhiều triển vọng tốt đẹp về danh phận, cuộc sống có nhiều sung sướng và gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Tiền vận cũng hơi nhiều lo âu, buồn khổ, nhưng trung vận thì an nhàn sung sướng.

Tóm lại: Tuổi Giáp Tuất có cơ hội làm sáng đẹp cuộc đời, nhiều may ít rủi, vào trung vận thuận tiện cho việc làm ăn, hay có tốt đẹp trong gia đình hạnh phúc.

Về nhân duyên của nữ mệnh Giáp Tuất.

Vấn đề tình duyên của tuổi Giáp Tuất có 3 trường hợp sau: Nếu bạn sanh vào những tháng dưới đây cuộc đời sẽ có ba lần thay đổi về tình duyên, hạnh phúc là là những bạn sinh vào tháng 3, 6, 8 10 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời của bạn có 2 lần thay đổi tình duyên hạnh phúc: 2,4, 7, 9, 11 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời bạn hưởng được hoàn toàn hạnh phúc nếu bạn sinh vào những tháng như 1, 5, 12 âm lịch.

Gia đạo công danh của nữ mệnh Giáp Tuất.

Gia đạo có phần tốt đẹp và hạnh phúc. Công danh thì chỉ ở mức bình thường.

Sự nghiệp sẽ hoàn toàn tốt đẹp sau tuổi 34. Vấn đề tiền tài sẽ dễ dàng và nhiều điều tốt đẹp từ trung vận trở đi.

Tuổi Giáp Tuất vào những năm sau đây sẽ gặp khó khăn nhất: 23, 25, 27, 31 tuổi. Vào những năm này thì bạn nên đề phòng tai nạn hay bệnh tật, có hao tài vào những năm này.

Những tuổi hạp cho việc làm ăn của nữ mệnh 1994, những nữ mệnh này cần trong sự làm ăn, không muốn thất bại về tiên bạc, bạn nên hợp tác với những tuổi sau đây: Ất Hợi, Bính Tý, Mậu Dậu thì mọi việc dự tính sẽ được hoàn toàn như ý.

Chọn tuổi kết hôn hợp với nữ mệnh sinh năm 1994

Trong việc hôn nhân hạnh phúc nếu bạn kết hôn với những tuổi sau đây thì cuộc đời bạn sẽ được sống trong sự cao sang quyền quý của cuộc đời: Ất Hợi, Bính Tý, Mậu Dần, Tân Tị, Nhâm Ngọ và Nhâm Thân. Những tuổi này rất hợp với đường tình duyên và cả tài lộc của bạn. Nếu muốn được cuộc sống cao sang quyền quý thì nên kết duyên với những người tuổi này.

Những năm sau đây thì người Giáp Tuất không nên kết hôn vì kết hôn vào những năm này thì sẽ gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 21, 23, 29, 33 tuổi.

Những tuổi đại kị trong cuộc đời của nữ mệnh 1994

Không nên hùm hạp làm ăn với những tuổi này vì nếu kết hợp với những tuổi này thì gặp phải cảnh biệt ly hay tuyệt mạng giữa cuộc đời, đó là nếu bạn kết hôn hay hợp tác làm ăn với những tuổi: Đinh Sửu, Ất Dậu, Kỷ Sửu, Tân Mạo, Quý Dậu, Đinh Mạo.

Diễn biến cuộc đời của nữ tuổi Giáp Tuất

Từ năm 18 đến năm 22 tuổi: năm 18 tuổi bạn sẽ gặp được một chuyện may mắn bất ngờ về việc công danh vào mùa đông. Đầu năm 19 tuổi, tình yêu đến với bạn  đẹp như một bài thơ nhưng cuối năm lại tan vỡ một cách đột ngột. Năm 20 tuổi là năm bạn có nhiều nỗi buồn về mọi mặt, bạn sẽ phải quyết định một việc quan trọng làm cho bạn khó nghĩ, nhưng nhờ một cuộc đi xa miễn cưỡng nhưng lại rất đẹp, được giải quyết ổn thỏa. Năm 21 tuổi, bạn sẽ gặp một sự may mắn bất ngờ về việc tình cảm. Năm 22 tuổi, năm làm lại cuộc đời của bạn. Một năm tươi đẹp mà bạn không ngờ.

Từ năm 23 đến năm 26 tuổi:

Thượng đế đã đền bù lại những nỗi đau khổ mà bạn sẽ phải gặp trong những năm trước. Suốt thời gian này bạn sẽ gặp may mắn liên miên. Tình cảm bạn được đầy đủ hạnh phúc. Công danh của bạn sẽ ở mức trung bình của xã hội. Tài lộc vào như nước. Đấy là những năm hên nhất của cuộc đời bạn. Bạn làm gì cũng sẽ thành công mĩ mãn. Bạn nên lợi dụng khoảng thời gian này mà xây dựng tương lại của cuộc đời.

Từ năm 27 đến năm 29 tuổi:

Năm 27 tuổi bạn sẽ bị một tai nạn nhỏ, hãy coi chừng,hay kỵ nhất là lửa vào mùa hè. Năm 28 tuổi bạn sẽ bị một cú lừa gạt nặng, nhưng nhờ có bị lừa gạt, của đi thay người. Nên năm 29 tuổi bạn sẽ bị đau bệnh rất nặng tưởng chết nhưng rồi sẽ qua khỏi vào cuối năm. Không những thế, cuối năm còn có hoạnh tài bất ngờ. Năm 29 tuổi kỵ đi xa, rất bất lợi.

Từ năm 30 đến năm 34 tuổi:

Suốt thời gian này chỉ vượng phát về vấn đề tình cảm; tài lộc bình thường, cuộc sống hơi bị khó khăn đôi chút, tình duyên có sự lo buồn cho bạn. Nên cẩn thận về những tình cảm, quyết định bồng bốt sẽ có hại.

Từ năm 35 tuổi đến năm 40 tuổi:

Năm 35, 36 tuổi hai năm này gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Số gặp nhiều phước lộc và có thành công trong vấn đề tài lộc lẫn tình cảm. Năm 37 và năm 38 tuổi, hai năm này việc làm ăn có nhiều tốt đẹp, cuộc sống lên cao, những năm này có rất nhiều thuận tiện cho việc đi xa hay có phát triển việc tiền bạc tốt đẹp. Năm 39 và năm 40 tuổi, hai năm này có xui xẻo, nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về cuộc sống, hai năm cuộc sống và tình cảm có nhiều đảo lộn đáng kể.

Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:

41 tuổi còn xui xẻo vào những tháng đầu năm, giữa năm và cuối năm bình thường. Năm 42 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này được tốt đẹ về phần tình cảm lẫn tài lộc, cuộc sống nhiều hay đẹp, gia đạo trở nên yên vui. Năm 44 tuổi và năm 45 tuổi hai năm này khá, việc làm ăn hay những dự tính nên thực hiện theo ý muốn thì mới có kết quả tốt.

Từ năm 46 đến năm 50 tuổi: Thời gian này tất cả mọi việc trong cuộc sống vẫn bình thường. Năm 48 tuổi bổn mạng có phần yếu kém, không nên đi xa hay giao dịch tiền bạc vào những năm này

Từ năm 51 đến năm 55 tuổi: Thời gian này việc làm ăn có phần sút kém, nên cẩn thận trong giao dịch tiền bạc, cuộc sống không mấy được nhiều tốt đẹp cho lắm, con cháu được huy hoàng và có nhiều triển vọng về quyền cao chức trọng.

Từ năm 56 đến năm 60 tuổi: Thời gian trầm lặng của cuộc sống, nên yên tĩnh và sáng suốt tạo cho gia đình một sự vui tươi hoàn toàn. Nên cẩn thận việc đi xa hay giao dịch về tiền bạc, trong thời gian này sẽ có mất mát.

Với nữ mệnh Giáp Tuất vào năm 2016 thì gặp sao Thổ Tú chiếu mệnh, bạn cần phải cúng giải hạn sao Thổ Tú vào ngày 19 âm lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

GIAI THOẠI VỀ TƯỚNG MŨI

Tướng mũi, và câu chuyện thời xưa về tướng mũi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời trước có một thanh niên danh sĩ tên là Hứa Doãn, cưới người con gái họ Nguyễn về làm vợ . Nguyễn thị vốn giòng dõi thư hương, thuở nhỏ được ăn học nên rất giỏi văn học, nhưng thân hình thật là quê kệch, xấu xí chỉ được mỗi bộ phận tuyệt đẹp là Mũi. Mũi cô này vưà đẹp lại vừa phối hợp với lưỡng quyền. Trái lại, với nhan sắc thuộc loại Chung Vô Diệm của vợ, Hứa Doãn vừa học giỏi, vừa đẹp trai, chỉ có mỗi một khuyết điểm là cái Mũi không mấy thanh nhã, vì vừa thấp lại vừa nhỏ không tương xứng với các bộ vị khác của khuôn mặt. 

 


     Thời xưa người ta thường có lệ hứa hôn ngay từ thuở lọt lòng và việc ả chồng lấy vợ cho con cái tùy thuộc hoàn toàn vào cha mẹ đôi bên. Hai họ Nguyễn và Hứa quen nhau từ lâu lắm, nhưng bên đàn trai thấy gái họ Nguyễn qúa xấu xí đã hơi chán, nên trước khi quyết định chung cuộc có nên xem ngày tốt để làm lễ thành hôn hay không đã nhờ một nhà tướng thuật nổi tiếng đến quan sát kỹ càng diện mạo cô dâu tương lai. Thầy tướng quan sát xong nói cho cha mẹ Hứa Doãn biết rằng cô con gái đó có tướng giúp đỡ, phò tá chồng một cách đắc lực cả trong lẫn ngoài. Nghe lời qủa quyết của thầy tướng, họ Hứa yên tâm cử hành hôn lễ cho đôi trẻ. 

      Theo tập quán, nam nữ thọ thọ bất thân thời đó, Hứa Doãn và Nguyễn thị chỉ biết tiếng đồn về nhau chứ chưa từng được gặp mặt hay có dịp chuyện trò. Sau khi thành hôn, Hứa Doãn thấy vợ thật là xấu xí, còn mình thì đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu, bèn tự nghĩ là con gái họ Nguyễn lấy được mình là phúc lớn lắm rồi. Nhớ lại lời thầy tướng nói là phải nhờ có cô gái xấu xí kia chăn dắt, giúp đõ mình mới mong thành đạt được, Hứa Doãn rất lấy làm hoài nghi, không biết ông ta căn cứ vào đâu mà dám nói như vậy. 

       Do đó, một hôm trong chốn phòng the, Hứa Doãn mới hỏi vợ rằng : “Tôi nghe thầy tướng nói mình có tướng dạy được chồng, mình có tin như thế không ?”. (Nguyên là chữ “Tướng” phu chi tướng có nghĩa là dẫn dắt, điều khiển chồng hầu đạt đến thành công. Nói rộng ra là chồng phải nhờ có tay vợ mới nên người) 

       Ngày xưa, vợ rất trọng chồng nên nghe chồng hỏi như vậy, Nguyễn thị tủm tỉm cười đáp rằng: 

--“Thiếp không tin rằng mình lại có tướng dạy chồng, nhưng thiếp tin chắc rằng mình là kẻ có phúc”. Hứa Doãn hỏi : “Mình có phúc gì ?” Nguyễn thị đáp: “Thiếp có cái phúc trời ban là khiến chồng”. Người chồng nghe thấy hai chữ “khiến chồng” lấy làm thắc mắc bèn hỏi : “Khiến chồng là gì ?” Vợ đáp : “Ðó là khiến cho chồng yêu mình, nể mình, khiến cho chồng phú quý vinh hoa. Một cô gái xấu xí như thiếp nếu trời không ban cho phúc đó thì làm sao sánh duyên với người tài mạo như chàng.” 

       Dẫu không biết tướng học, nhưng là kẻ lanh lợi, học thức nên nghe vợ đối đáp một cách thông minh như vậy, Hứa Doãn thấy quả nàng cũng có điểm khiến cho mình tâm phục. Tuy nhiên, vì vẫn chưa giải được nghi ngờ nên Hứa Doãn hỏi tiếp : 
-- “Mình có nghe thấy ông thầy tướng nói quý tướng của mình ở chỗ nào không ? Cái quý tướng đó có phải là ở chỗ mắt đẹp, mũi tốt không ? Có phải trời sinh ra toàn thân xấu xí là qúy tướng khiến cho chồng phải yêu chiều mình không ? Hoặc giả quý tướng đó là cái gì khác nữa chăng ?” 

    Nguyễn thị thấy rằng qua những điều chồng thắc mắc rõ ràng là chàng ta không ưng ý về dung mạo của mình nhưng không dám tỏ vẻ bất bình chỉ nhỏ nhẹ đáp lại :
-- “Thiếp có nghe thầy tướng nói, thiếp cũng tự biết là mình không được xinh đẹp nhưng thiếp có một điểm tướng rất tốt đó là Phu tinh cực tốt.” 
-- “Phu tinh ? Phu tinh của mình chính là tôi, giữa cái đó và diện mạo của mình có quan hệ gì ?” 
-- “Thầy tướng nói rằng : Mũi là cung thê của đàn ông, là cung phu, chủ về người chồng của đàn bà. Ông ta nói trong Ngũ quan của thiếp hầu hết đều không tốt, nhưng Mũi lại cực tốt, ngay thẳng, cao, mập, lỗ Mũi không lộ cho nên mới gọi là phụ tình cực tốt. Bây giờ quả là đúng. Hiện giờ chàng chẳng phải là Phụ tình của thiếp hay sao ? Sách tướng có câu : “Coi tướng đàn bà không cần coi mệnh của họ, chỉ cần coi Phụ tình của họ” cho nên muốn biết số kiếp thiếp tốt hay xấu chỉ cần coi cách đối xử của chàng đối với thiếp tốt xấu ra sao là đủ.” 

      Nghe vợ nói đến Mũi, Hứa Doãn tiện tay lấy gương soi mặt để quan sát chính khuôn mặt của mình thấy Mũi tuy khá thẳng nhưng lỗ Mũi hơi lộ và sơn căn nhỏ, thấp so với vợ thì kém xa lắm, bèn quay sang nói với vợ : 
-- “Nếu nói như mình, thì Mũi của mình mới được xem là tốt thì quả là Mũi tôi không tốt bằng Mũi của mình phải không? Như thế thì tôi cần phải nương dựa vào mình chứ gì ?” 

        Nói xong, Hứa Doãn tỏ vẻ bực dọc và không tin rằng mình tướng cách lại thua vợ vì thấy rõ là vợ xấu xí còn mình vừa đẹp trai vừa học giỏi. 

       Người vợ thấy chồng không hiểu rõ bèn tủm tỉm cười nói rằng: 
--“Thiếp thấy chàng cái gì cũng sáng suốt thế mà đối với phép xem tướng chàng có một điểm hết sức tối tăm chẳng thông minh chút nào cả !” 

    Hứa Doãn nói : 
-- “Tại sao lại tối tăm? Tôi dựa theo điều mình nói cả mà. Mình nói rằng mũi của mình tốt như thế này thế nọ, còn Mũi tôi so với Mũi mình không tốt bằng, như thế có gì gọi là không thông minh?” 

    Vợ đáp: 
--“Chàng không thông minh chính là ở điểm đó. Thiếp đã chẳng từng nói rõ là thầy tướng nói rằng Mũi của vợ chính là ngôi sao chủ về chồng, còn Mũi của chồng chính là ngôi sao chủ về vợ. Mũi thiếp cực tốt nghĩa là chồng thiếp sẽ là một văn nhân tài mạo song toàn, được hưỡng vinh hoa phú quý, còn Mũi chàng không được hoàn toàn tốt đẹp có nghĩa là cung thê của chàng không được hoàn toàn. Nói khác đi là thiếp xấu xí, vô tài. Thực tế quả là đúng như vậy, cho nên chàng đừng thắc mắc bực mình vì cả chỉ thêm vô ích.” 
      Sau lời bàn luận với vợ về tướng học, Hứa Doãn cảm thấy vợ mình không còn là một cô gái đáng chê một cách ghê gớm như trước vì Doãn thấy vợ là người thông minh, hiền thục. Hơn nữa vợ xấu là bởi cái Mũi của mình không được đẹp, cái đó là số mạng tiền định, đâu phải vô lỗi của nàng. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nghĩ như vậy, nên trong lòng không còn ấm ức và đối với vợ, mối hảo cảm ngày càng một gia tăng. Càng chung sống với nhau lâu ngày, Hứa Doãn càng thấy vợ mình quả là có tướng làm xếp mình thật. 
     Một hôm, hai vợ chồng đàm luận về việc vợ chồng hổ tương phối hợp, Hứa Doãn hỏi vợ: 
--“Ðàn bà có tứ đúc là công, dung, ngôn, hạnh. Mình tự xét xem có được mấy đức?”
     Nguyễn thị nghe hỏi biết ngay là chồng nhạo báng mình xấu xí nên đáp lại: 
--“Ðàn bà có bốn đức thì thiếp đây chỉ thiếu có một đức về dung mạo không được xinh đẹp mà thôi. Nhưng xấu đẹp là do trời xếp đặt chẳng phải cha mẹ hay bản thân muốn mà được, nên việc thiếu sót về dung mạo không phải tội lỗi của thiếp và cũng chẳng lấy thế làm nhục.” 
    Hứa Doãn nói: 
--“Ðàn bà phải có đủ tứ đức thì mới gọi là hoàn toàn. Thế mà mình thiếu mất một đức tức là chỉ được ¾ , có phải vậy không?” 
   Vợ đáp: 
--“Ðúng vậy, nhân vô thập toàn. Thiếp được tới ¾ đức tính của phụ nữ, cũng đã được kể là nhiều rồi chứ quả là không được hoàn toàn đầy đủ.” 
   Doãn nói: 
--“Nhưng mà tôi lại thích người đàn bà đẹp vì vậy cần phải có người vợ đầy đủ tứ đức mới hoàn toàn thỏa nguyện. Mình nghĩ xem, nguyện vọng của tôi như vậy có đúng không? Có nên có tư tưởng đó không?” 
    Nghe chồng nói như vậy, Nguyễn thị nhịn hết nổi, nàng nhận thấy chồng kêu ngạo, vô lễ, không còn giữ được truyền thống “tương kính như tân” của kẻ sĩ. Nàng tự nhủ, cần phải cho anh chàng kêu ngạo, háo sắc này một bài học đạo lý để anh ta bớt lố lăng, bởi thế nàng bèn đáp: 
--“Ðúng, chàng nói đúng, nghĩ đúng, nguyện vọng cũng chính đáng luôn nhưng chàng cũng nên tự xét xem mình có phải là người hoàn toàn hay, hoàn toàn tốt không đã ?” 

   Nghe vợ vặn lại, Hứa Doãn có vẻ không được vui, nhưng ý đã quyết răn chồng, Nguyễn thị giả bộ như không thấy, lại tiếp tục hỏi bồi thêm: 
--“Ðàn bà có tứ đức, thiếp tự biết mình thiếu một đức. Vậy xin phép được hỏi chàng là kẻ sĩ có cả trăm nết tốt, chẳng hay chàng có được bao nhiêu nết?” 
    Hứa Doãn vênh váo đáp ngay tức khắc: 
--“Ta đây có đủ trăm nết.” 
    Vợ hỏi thêm: 
--“Chàng cho phép thiếp hỏi thêm một câu nữa được chăng?” 

    Hứa Doãn đáp: 
--“Ðưọc lắm chứ! Mình có gì cứ việc nói ra ngay đi” 
 Lúc đó, Nguyễn thị mới thủng thỉnh nói: 
--“Trong trăm nết tốt của kẻ sĩ thì đúc độ là nết tốt đứng đầu, trong muôn ngàn nết xấu thì dâm xếp vào số một. Vậy mà giờ đây chàng nói ra miệng là rất trọng đàn bà có sắc đẹp, chứng tỏ rằng chàng là kẻ rất háo sắc. Như thế rất là tai hại cho nết tốt số một trong 100 nết rồi thì làm sao có thể nói là mình có đủ cả trăm đức tính cần thiết của kẻ sĩ ? Thiếp chỉ khuyết có phần dung mạo là phần phụ thuộc nên chỉ dám nhận là mình chỉ có ¾ đức tính đàn bà, chứ không dám nói là mình có đủ nết na. Nay chàng thiếu mất ngay cái nết số một của kẻ sĩ thì chẳng hiểu trong số 100 nết hay đó chàng còn thiếu những gì nữa ?”

    Nghe vợ nói đến đây thì Hứa Doãn chết điếng, đúng ngay như bị trời trồng, vô phưong chống chế. Từ đó hết sức nể nang vợ và gần như thần phục bà vợ vậy. 

    Theo truyền thuyết còn lưu lại thì trong lúc thầy tướng khuyên cha mẹ Hứa Doãn hãy cưới kỳ được con gái họ Nguyễn cho con trai mình, nếu muốn cho Hứa Doãn nên người, vì cô con gái đó có tướng “Tướng phu chi tướng”, nhiều bà con bên trai đều nghi hoặc cho là đứa con gái xấu xí như ma lem lấy được trai họ Hứa là có phúc rồi chứ làm gì lại mang phúc đến cho chồng. Bị gạn hỏi qúa gắt, thầy tướng buộc phải giải thích. : “Ngôi sao vợ của Hứa Doãn đã không đẹp mà cái tính Hứa Doãn lại là đứa thiếu niên háo sắc, nếu lấy một người con gái bình thường thì sau khi cưới vợ rồi sẽ không dứt được thói trăng hoa, khiến cho gia đình sinh tai tiếng hoặc mình bị mang vạ đào hoa. Nếu phối hợp với con gái họ Nguyễn là kẻ có bản lỉnh, đủ sức kềm hãm chồng, không cho sa đọa vào con đường hư hỏng thì hắn mới nên người và gia đình mới có hạnh phúc.” 

Trích "Nhân Tướng Học" của Hy Trương


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: GIAI THOẠI VỀ TƯỚNG MŨI

8 nét tướng mặt người gian xảo nịnh hót cần tránh xa

Nếu có thêm đặc điểm mắt lác hoặc ánh nhìn thâm hiểm, chứng tỏ đây là tướng mặt người gian xảo, không đáng tin cậy.
8 nét tướng mặt người gian xảo nịnh hót cần tránh xa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong thuật xem tướng mặt cho rằng, người có kiểu miệng méo, lệch, không cân xứng thì nói 10 câu, 9 câu là giả dối. Nếu có thêm đặc điểm là môi trên quá mỏng tới mức không che kín hàm răng, đây đích thị là người thích gieo rắc thị phi, vô cùng gian xảo.


1. Xương gò má và xương cằm gồ lên rõ rệt

  Những ai có tướng mặt mà xương gò má và xương cằm đều gồ lên, nhìn rất rõ ràng thường hiếu thắng, thích tranh đấu hơn thua. Thêm nữa, người này không đáng tin cậy, dễ phản bội bạn bè để trục lợi cá nhân. Vì lợi ích của bản thân, họ bất chấp tất cả để đạt được, không bao giờ giảng đạo lý.   
8 net tuong mat nguoi gian xao ninh hot can tranh xa hinh anh
 

2. Đuôi lông mày lộn xộn, mắt lác

  Xem tướng người có tướng lông mày mà phần đuôi phân tán lộn xộn, chứng tỏ tính cách kỳ quái, dễ bị kích động, làm việc cảm tính, thiếu lý trí.    Hơn thế, đặc điểm này được coi là khó tụ tài, làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, tài lộc đến rồi lại đi, cuối cùng tay trắng hoàn tay trắng.    Nếu có thêm đặc điểm mắt lác hoặc ánh nhìn thâm hiểm, chứng tỏ đây là tướng mặt người gian xảo, không đáng tin cậy. Họ có thể tiết lộ bí mật đời tư của bất kỳ ai để có lợi cho mình. Khi làm việc, hợp tác, kết bạn với người này, bạn cần hết sức thận trọng, tránh trở thành nạn nhân của những trò đấu đá, tranh giành quyền lợi.   Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt Tránh xa tướng mặt phụ nữ đi tới đâu gieo rắc tai họa tới đó

3. Mắt tam giác

  Mắt tam giác ý chỉ 2 loại sau: Một là lòng đen và lòng trắng rõ ràng nhưng ánh mắt lại không có thần, lúc nào cũng chất chứa nhiều muộn phiền. Người có kiểu mắt này làm việc gì cũng vội vàng, dễ kích động nhưng sẽ không vì lợi ích của mình mà hãm hại người khác.    Hai là lòng đen và trắng không rõ ràng, nếp nhăn ở mắt chằng chịt và có phần rủ xuống. Chủ nhân của kiểu mắt này không những tham vọng lớn, bất chấp thủ đoạn để đạt được thành công, sẵn sàng xu nịnh lúc cần thiết, trở mặt khi không thấy đối phương có giá trị.   

4. Mắt tam bạch

  Trong Nhân tướng học, mắt tam bạch hay còn gọi là mắt ba tròng, phần lớn là tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Người có kiểu mắt này dã tâm lớn, trực giác nhạy bén nhưng lúc nào cũng muốn giỏi hơn người, nên khó kết giao bằng hữu.    Hơn thế, người này làm việc gì cũng dựa trên lợi ích kinh tế để quyết định. Lúc cần thì nịnh nọt, khi thấy hết tác dụng lại có thể trở mặt ngay.  
8 net tuong mat nguoi gian xao ninh hot can tranh xa hinh anh
 

5. Mắt tứ bạch

  Cũng tương tự mắt tam bạch, nhưng mắt tứ bạch có phần tròng trắng lấn át hơn hẳn. Khi nhìn vào mắt người này, cảm giác rất sợ hãi.    Người này tuy có đầu óc linh hoạt nhưng lại xảo quyệt, bất chấp thủ đoạn để đạt được mục tiêu. Nếu hợp tác với người này, phần thua thiệt luôn thuộc về bạn. Do đó, chúng ta cần phải nhận biết tướng mắt xấu khi hợp tác làm ăn hay kết giao để tránh tai họa khôn lường xảy ra.   

6. Hốc mắt lõm sâu

  Phần hốc mắt chủ quan về âm đức và tử tức (con cháu). Người có hốc mắt lõm rất sâu thường có tâm địa độc ác, “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”.    Mắt một hay hai mí hé lộ điều bất ngờ về tình duyên 3 giây để nhận ra tướng mặt người được phúc đức bao bọc suốt đời

7. Sống mũi nghiêng vẹo, đầu mũi quặp xuống

  Sách tướng có ghi: “Tị hữu tam loan, kỳ nhân tất gian”, tức mũi mà nghiêng vẹo, chủ nhân gian xảo.    Người có kiểu mũi nghiêng vẹo hay đốt sống mũi gồ lên, cộng thêm với đầu mũi quặp xuống lúc nào cũng có dã tâm, tính toán chi li, coi mình là trên hết, hành sự hung tợn, không có tình người.   

8. Miệng méo

  Người có kiểu miệng méo, lệch, không cân xứng thì nói 10 câu, 9 câu là giả dối. Nếu có thêm đặc điểm là môi trên quá mỏng tới mức không che kín hàm răng, đây đích thị là người thích gieo rắc thị phi. Ngoài miệng thì ra vẻ nghiêm chỉnh, đứng đắn, nhưng trong thâm tâm lại đi bới móc, soi mói người khác. Xem tướng miệng biết ngay sang hèn, sướng khổ là vì thế!    Ngọc Diệp     Nhìn thấu tâm can con người qua 5 kiểu đuôi mắt
Nếu có tướng mắt mà phần đuôi mắt lõm xuống, xương lộ rõ chứng tỏ người này không giỏi thể hiện cảm xúc, thiếu sự lãng mạn, nhân duyên khác giới không tốt.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 nét tướng mặt người gian xảo nịnh hót cần tránh xa

Luận đoán số mệnh của người bát tự có Kiếp Tài

Đối với nữ mệnh thì bát tự có Kiếp Tài đại diện cho tính cách không nên chơi cùng, đặc biệt lại rất bất lợi cho chồng.
Luận đoán số mệnh của người bát tự có Kiếp Tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách cục Kiếp Tài trong bát tự là mệnh cách phức tạp, quá vượng thì cá tính kiên cường, quá nhược thì cá tính mềm yếu.


Luan doan so menh cua nguoi bat tu co Kiep Tai hinh anh 2
 

1. Nữ mệnh có Kiếp Tài trong bát tự

  Nữ mệnh có Tỷ Kiếp quá vượng thì tính giống đàn ông, mãnh mẽ, ít chịu thiệt, không dễ thỏa hiệp, thường thì đến nam giới cũng kính sợ tránh xa. Trong cuộc sống hàng ngày, nơi làm việc hoặc chốn tập thể dễ phát sinh mâu thuẫn với người khác, bị người khác lợi dụng mà lừa gạt dẫn tới tổn thất tài chính.   Cá tính mạnh nên người phụ nữ này làm người khác giới e ngại, không muốn giao lưu. Người qua lại đa phần đểu khuyết thiếu sự quyết đoán của nam tử hán đại trượng phu, người không có thành tựu sự nghiệp hoặc người thiếu trách nhiệm gia đình. Vì thế, cô gái mà bát tự có Kiếp Tài không có quá nhiều bạn bè, đối tượng theo đuổi.   Thứ hai, Tỷ Kiếp quá vượng thì khắc chế Tài tinh, khiến Tài tinh không thể sinh giúp Quan tinh mà Quan tinh đại diện cho người chồng. Quan không vượng, không phát, sự nghiệp của chồng và người chồng không thể phát triển, có thành tựu.    Tỷ Kiếp vì khắc Quan Sát tinh, Tỷ Kiếp vượng sẽ khiến hôn nhân dễ gặp người thứ ba, kết quả không phải chồng mình bị người khác cướp mất thì chính mình là người đi phá hoại gia đình khác, mệnh cục này so với cách cục Tỷ Kiếp hợp Quan lại càng hung hiểm hơn. Mệnh ấy mà không có Thực Thương hỗ trợ thì tốt nhất đường hôn nhân nên muộn.   Bát tự có Kiếp Tài gặp Thương Quan mà Quan tinh kém thì tài vận không tốt vì Kiếp Tài khắc Tài tinh, vượng Thương Quan . Bởi vậy chuyện chồng đột nhiên thất bại, công việc có ngăn trở lớn hoặc tình hình sức khỏe giảm sút, ham mê tửu sắc bài bạc, ốm chết hoặc tử vong bất ngờ, tự sát hoàn toàn có thể xảy ra.  

2. Quan hệ của Kiếp Tài và các thập thần khác

  Kiếp Tài tọa Chính Quan: vừa cát vừa hung, nữ mệnh lại chủ về hung. Thân cường thì có tài ăn nói xã giao, có thể phát đạt. Thân nhược thì làm gì cũng không thuận, bất hòa với cấp dưới, có rủi ro bệnh tật hoặc bị bãi chức. Nữ mệnh không giúp đỡ chồng, bị chồng ruồng bỏ hoặc làm khổ.   Kiếp Tài tọa Thất Sát: anh em có người chết trẻ, ốm yếu hoặc tàn tật, Kiếp Tài là dụng thì càng ứng nghiệm. vận trình bất ổn dù tài cao chí lớn cũng không được trọng dụng, có tài không gặp thời, cả đời buồn phiền.   Kiếp Tài tọa Chính Ấn: Thân nhược là phúc, Thân cường là kị. Thân yếu thì hỉ hiện ra ở giờ sinh, chiếm được lòng tin của cấp dưới, sau khi nỗ lực cũng đạt được hạnh phúc. Thân vượng thì ngoài tốt trong xấu, vì người khác mà phải chịu tổn thất, bị người xa lánh.   Kiếp Tài tọa Thiên Ấn: Thân nhược thì vô hại, Thân cường thì kém may. Thân cường cá tính mạnh, cố chấp, kích động mù quáng nên gặp nhiều ngăn trở, cuộc sống thiếu bình yên, sự nghiệp nhiều trắc trở, cuối cùng thân bại mà gia đình ly tán.
Luan doan so menh cua nguoi bat tu co Kiep Tai hinh anh 2
 
Kiếp Tài tọa Chính Tài: bất luận Thân nhược hay vượng đều không tốt, thân càng vượng thì càng hung, khắc bạn đời, gặp nhiều rủi ro bại nghiệp, cuộc đời hao tổn, khó tụ tài, vì người khác mà tổn hao.   Kiếp Tài tọa Thiên Tài: thích trêu hoa ghẹo nguyệt bên ngoài nên vì sắc dục mà chịu họa, cuộc đời hao tổn, khó tụ tài, nam mệnh có số tái hôn, vì phụ nữ mà phá sản.   Kiếp Tài tọa Thực Thần: có Thực Thần ôn hòa tiết chế bạo khí nên đây là cách cục duy nhất khá tốt, trong cương có nhu, được quý nhân nâng đỡ đề bạt, thỉnh thoảng gặp cơ hội hiếm có, vật chất đầy đủ, gia đình hạnh phúc. Nữ mệnh thì phải tới lần hôn nhân thứ hai mới hạnh phúc.   Kiếp Tài tọa Thương Quan: Kiếp Tài và Thương Quan đều không tốt, vì Kiếp Tài mà Thương Quan càng thêm mạnh, tính cách ngang tàng, vô pháp vô thiên nên thân bại danh liệt. Nữ mệnh hại chồng, khiến chồng bại vận, xích mích với xóm giềng. Nam mệnh ở trụ giờ sinh có dấu hiệu tổn thương vợ con. Nếu Kiếp Tài, Thương Quan, Nhật Nhận ở cùng một trụ trong bát tự thì hành động lỗ mãng, hữu dũng vô mưu, nói lời cay độc, là phường côn đồ lưu manh, chỉ có giết người, lao ngục, đoản mệnh, chết thảm.   Kiếp Tài tọa Kiếp Tài: nếu là Dương Nhận nhương Dương Nhận thoát ra ngoài thì tính cách hung hăng, chuyên quyền độc đoán, không kiên nể ai, hại chồng khắc vợ, thích đánh bạc, đầu cơ. Cha mẹ hoặc bạn đời nhiều bệnh tật, cuộc đời tổn hao, nhiều rủi ro xui xẻo, không có việc gì tốt.    Kiếp Tài tọa Tỷ Kiên: đây là cách cục kém may, suy nghĩ hỗn loạn, thay đổi thất thường, làm việc mâu thuẫn, mưu sự khó thành, hôn nhân gia đình trắc trở, vì bạn bè anh em mà bôn ba vất vả nhưng không nhận được hồi đáp xứng đáng.   Những cách cục ở trên ngoài đoán định chung như vậy còn phải dựa vào quan hệ biến hóa, hỉ kị để xem ảnh hưởng. Vì thế khi xem bát tự có Kiếp Tài cần xem trong tổ hợp tổng quát, xét tới tất cả các yếu tố trong lá số tử vi của người đó.
Xem tử vi cho người có Kiếp Tài trong Tứ trụ Xem bát tự - lý giải về Thập Thần Cho biết tương lai qua thập thần của Tứ trụ (phần 1) Cho biết tương lai qua thập thần của Tứ trụ (phần 2)

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận đoán số mệnh của người bát tự có Kiếp Tài

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Hỏa

Tìm hiểu những đặc điểm cơ bản về tính cách, vận mệnh của người tuổi Tỵ mệnh Hỏa tức những người sinh năm Ất Tỵ 1905, 1965...
Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người tuổi Tỵ mệnh Hỏa tức những người sinh năm Ất Tỵ 1905, 1965...  thường mang những đặc điểm tính cách, vận mệnh như thế nào ?


(Ảnh minh họa)


Người tuổi Tỵ mệnh Hỏa là những  người sinh năm Ất Tỵ 1905, 1965...

Họ ham mê quyền lực và danh vọng, thường thích kết thân, gần gũi với người quyền cao chức trọng. Khả năng chịu đựng gian khổ bền bỉ, kiên cường giúp họ có được những thành công nhất định trong sự nghiệp.

Khác với người mệnh Hỏa thuộc sinh tiêu khác, người tuổi Tỵ mệnh Hỏa không bao giờ nóng vội mà luôn bình tĩnh và khách quan khi nhìn nhận, giải quyết công việc. Giống người tuổi Tỵ mệnh Thủy, họ là người khá tiết kiệm. Việc chi tiêu của họ luôn được cân nhắc hết sức kỹ lưỡng. Đối với công việc, họ cũng thường tính toán rất kỹ, từ chi tiết đến toàn cục, từ cái lợi trước mắt đến cái lợi lâu dài. Chính vì thế họ có cơ hội thành công trong ngành tài chính hoặc bất động sản.

Nữ giới tuổi Tỵ mệnh Hỏa thường có vẻ ngoài khá xinh đẹp. Họ có cuộc sống gia đình hạnh phúc và thường không phải bận tâm nhiều về vấn đề kinh tế.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Hỏa

Xem bói tay, kiến thức cơ bản về gò lòng bàn tay của bạn |

Xem tướng bàn tay là một thuật xem tướng có từ xa xưa, có khả năng nhận diện được rất nhiều điều về số mệnh cũng như tính cách của con người. Xem tướng tay là gì? Xem bói tướng tay hay còn gọi là xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ ph
Xem bói tay, kiến thức cơ bản về gò lòng bàn tay của bạn |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tay, kiến thức cơ bản về gò lòng bàn tay của bạn |

Quý Hợi mệnh gì –

Người sinh 1983, Quý Hợi, có Ngũ hành năm sinh là Đại Hải Thuỷ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung CẤN, hành THỔ, hướng Đông Bắc, quái số 8, sao Bát Bạch, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu Đỏ,
Quý Hợi mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý Hợi mệnh gì –

Nhà ở ba hướng đều có đường bao quanh phải làm thế nào ? –

Người ở trong nhà ba mặt tiền đều có đường bao quanh sẽ luôn xảy ra chuyện. Mặc dù cùng là nhà ba mặt tiền có đường bao quanh nhưng vì phương vị không giống nhau thì điềm dữ mang đến cũng khác nhau. Thứ tự lớn nhỏ ảnh hưởng của điềm hung là: Nhà bị
Nhà ở ba hướng đều có đường bao quanh phải làm thế nào ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

20140304_1200201

bao quanh bởi ba hướng Tây, Bắc, Đông là hung nhất, sau đó đến ba phía Bắc, Tây, Nam và ba hướng Nam, Đông, Bắc, cuối cùng là ba hướng: Nam, Đông, Tây.

Nhà mặt tiền ba hướng có đường bao quanh, mức độ hung của nó không bằng vùng đất từng có người tự sát hay có chiến tranh những gia tộc sẽ thường xuyên bị ngoại thương hay đột nhiên xảy đến những chuyện nguy hại, hơn nữa hung tướng ngày càng mạnh hơn.

Chỉ cần đất rộng hơn một chút thì loại hung tướng này có thể phòng tránh được. Dưới đây là những hình trạng đối chiếu với nhà ở có đường bao quanh.

–  Nhà có đường bao quanh ở hướng Tây, Bắc, Đông. Tránh hung tướng này, ta chỉ cần sửa thành ngôi

nhà có hai mặt tiền có đường bao quanh là được, tức là sửa thành nhà góc lục giác Nếu làm như vậy, có thể phòng tránh được khí lưu từ hướng xâm nhập vào trong nhà.

Để sửa được như vậy, chủ nhà có thể trồng các loại cây lá Kim như tùng, bách, thông ở một bên đường chếch về phía Tây, hơn nữa tìm cách không sử dụng đến đường ở hướng Tây. Nếu hướng Tây có cửa thì lấp nó lại, có thể xây cửa mới ở hướng Đông, nhưng lấy phương vị mười hai địa chi của gia chủ làm nguyên tắc.

–  Nhà có đường bao quanh ở phía Bắc, Tây, Nam. Để tận dụng được đất hình lục giác ở hướng Tây

Nam, con đường ở phía Bắc trồng một dãy cây. Tốt nhất là trồng cây lá tán rộng. Nếu cửa ở phía Bắc, tốt nhất là bịt hẳn nó lại, trừ phi là phương vị sinh năm Thìn mười hai địa chi của chủ nhà, nếu không thì mở cửa ở hướng Nam.

–  Nhà có đường bao quanh ở hướng Nam, Đông, Bắc. Chủ nhà chỉ cần sửa nhà thành địa hình lục giác

Đông Nam là được. Đó là trồng một sô” cây xanh tán rộng ở đường phía Bắc. Song, cần phải tránh vị trí mười hai địa chi của gia chủ. Mở cửa hướng Đông Nam và hướng Nam đều có thể biến thành hướng cát. Nếu mở cửa phía Bắc Nam thì bịt nó lại, sửa thành cửa ở giữa từ hướng Đông đến hướng Nam thì sẽ cát lợi.

–  Nhà có đường bao quanh ở hướng Nam, Đông Tây.

Chủ nhà sửa thành đất lục giác Đông Nam sẽ được cát lợi. Để được như vậy, tại con đường hướng Tây nên trồng các loại cây lá đỏ xen kẽ với cây lá kim. Đồng thời xây một bức tường tại con đường chuẩn bị lấp.

Nếu như là đất chật hẹp mà ở ba mặt tiền bị đường vây quanh, không có cách phòng tránh, thì nên tìm cách chuyển nhà hoặc xây nhà nhiều tầng và phòng để cho thuê nhằm mượn khí của nhiều người để phòng tránh hiện tượng hung này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà ở ba hướng đều có đường bao quanh phải làm thế nào ? –

Luận giải mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh theo tử vi

Mỗi người khi sinh ra đều có bát tự riêng, ảnh hưởng đến nhiều phương diện. Gần đây, các chuyên gia đã chỉ ra mối quan hệ giữa quan điểm tình
Luận giải mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh theo tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người khi sinh ra đều có bát tự riêng, ảnh hưởng đến nhiều phương diện như: vận thế, sự nghiệp, tiền tài, hôn nhân,... Gần đây, các chuyên gia đã chỉ ra mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh, hãy cùng ## tìm hiểu thêm.

► Bói tình yêu theo ngày sinh để biết xung hợp và hóa giải

Mẹo tử vi đơn giản giúp tăng lương thành công trong năm mới Lá số tử vi của phụ nữ lấy chồng giàu sang Giải thích quan hệ hợp, xung, khắc của 12 con giáp

Luan giai moi quan he giua tinh yeu va gio sinh theo tu vi hinh anh
 
Giờ Tý (23 giờ - 1 giờ)
giờ thần đầu tiên trong 24 giờ thần của mỗi ngày, bởi vì trong số mệnh ngũ hành, giờ Tý có ngụ ý là khoảng cách của hai ngày. Vậy nên, trên phương diện tình cảm, mệnh chủ sinh vào giờ thần này luôn có tính chủ động. Tý vi Thủy, Thủy trụ đào hoa, người ra đời vào giờ thần này thường không cự tuyệt những người đến với mình, là điển hình của hình tượng đa tình.   Giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ) Giờ Sửu là thời điểm hừng đông, vạn vật vẫn còn đang say giấc. Giờ Sửu đại diện cho Thổ trong Ngũ hành, do thiếu ánh sáng trong khoảng thời gian này, nên người trụ giờ Sửu khá nội tâm trong chuyện tình cảm. Khi yêu thích người sinh ra trong giờ Sửu, bạn cần phải là người chủ động "giữ lửa", như vậy mối tình mới dài lâu.

Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu
Tình yêu viên mãn là điều mọi cô gái mong muốn, tuy nhiên những nàng giáp sau đây hay gặp trắc trở trong tình duyên, dễ lỗ cả tình lẫn tiền.

 
Giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) Đây là khoảng thời gian bắt đầu xuất hiện ánh sáng. Giờ Dần trong địa chi đại diện cho Mộc, là khí trường thuộc Dương, có xu hướng chủ động. Vậy nên, người sinh vào thời điểm này khá lạc quan và vui vẻ về vấn đề tình cảm. Theo quan điểm tình yêu và giờ sinh, khi ở bên những người này luôn có niềm vui bất ngờ   Giờ Mão (5 giờ - 7 giờ) Giờ thần Mão thuộc Thổ của Địa chi, hoa cỏ khi thấy ánh sáng sẽ phái triển sinh sôi này nở. Ngoài ra, Mão còn đại diện cho đào hoa, thuộc khí trường Chính đào hoa. Vì vậy, người sinh ra trong khoảng thời gian nầy khá thuận lợi về mặt tình duyên  
Luan giai moi quan he giua tinh yeu va gio sinh theo tu vi hinh anh 2
 
Giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) Vào giờ Thìn, mặt trời đã lên cao, ánh sáng chiếu rọi xuống mặt đất, vạn vật đều vui vẻ tiếp nhận ánh sáng. Mệnh chủ trong khoảng thời gian này trong phương diện tình cảm luôn rạng ngời, có kiến giải riêng về tình yêu, thuộc trường phái chủ động.   Giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ) Tỵ đại diện cho Hỏa trong Ngũ hành, thời điểm này nhiệt độ bắt đầu dâng cao. Vậy nên, những người trụ giờ sinh ngày rất yêu thích kiểu tình yêu "tiếng sét ái tình", "tốc chiến tốc thắng" trong tình cảm.  
Luan giai moi quan he giua tinh yeu va gio sinh theo tu vi hinh anh 3
 
Giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) Ngọ là một trong "tứ đào hoa". Đào hoa vào thời điểm giữa trưa làm con người yêu thích nhất, tuy nhiên cũng rất nguy hiểm. Vậy nên, mệnh chủ giờ Ngọ tốt nhất nên tự vấn bản thân liệu mối tình đang nhem nhóm đấy có tốt cho bản thân   Giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) Giờ Mùi thuộc Thổ khô nóng, Thổ trường mang khói, có nghĩa là gây khó khăn cho sự phát triển của thực vật. Bát tự trụ giờ thần này không chịu được sự tức giân của đổi phương do tính khí của bản thân không tốt, vậy nên cuộc tình luôn gặp trục trặc, cãi vã.   Giờ Thân (15 giờ - 17 giờ) Giờ Thân là buổi chiều trong ngày, là Ngũ hành thuộc Kim sắc nhọn, nên người có giờ sinh này có tính cách thẳng thắn. Vậy nên, khi có tình cảm với mệnh chủ giờ Thân, bạn cũng cần điềm đạm, hiền lành, nếu không dễ dẫn đến lục đục.  
Luan giai moi quan he giua tinh yeu va gio sinh theo tu vi hinh anh 4
 
Giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) Vào giờ Dậu, mặt trăng và các vị tinh tú bắt đầu xuất hiện trên bầu trời, thế nên người sinh giờ Dậu luôn hy vọng tạo ra và nhận được sự lãng mạn trong tình yêu. Khi "người thương" sinh vào giờ thần Dậu, thì mối tình đó rất đẹp và đáng trân trọng.   Giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ)  Đây là thời điểm trời tối, đại diện Thổ khí trong Ngũ hành. Tuất Thổ tàng vật, những người có giờ sinh này có tính cách tốt, chấp nhận khuyết điểm của người khác. Vậy nên, tình cảm của họ có xu hướng là sự bao dung.   Giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ) Giờ Hợi là Thủy của sông lớn, Thủy chủ lưu động. Mệnh chủ có tính cách tươi sáng, dứt khoát, hỷ nộ ái ố đều thể hiện rõ ràng. Khi tiếp xúc với họ, không cần phải lo sợ việc giấu diếm. Tương tự trên phương diện tình cảm, họ cũng rất thẳng thắn, đáng được trân trọng.
Chi Nguyễn
  Những con giáp thích hợp ăn chay để tăng vận khí Những con giáp cả đời chôn chặt mối tình đầu trong tim Con giáp nào nhớ lâu thù dai vào... điểm danh  

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh theo tử vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd