Mơ thấy quan tài –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Cây sung có tên khoa học là Ficus Macleilandii “Alii”. Đây là loại cây thân gỗ thường được làm cây cảnh vì rất được ưa chuộng do có thể tạo hình thành nhiều thế bonsai đẹp. Tuy dễ chăm sóc hơn so với các họ si nhưng cây sung cũng có thể bị rụng lá khi chuyển sang môi trường sống mới.
![]() |
Cây sung rất quen thuộc với người dân Việt Nam, rất có ý nghĩa trong phong thủy và văn hóa tâm linh người Việt |
Quả sung, thực chất là hoa, hay còn gọi là quả giả. Nhìn bên ngoài quả sung giống như một đế hoa khép kín, còn bên trong mọc tủa tủa những cánh hoa nhỏ li ti bao kín lại thành khối hình tròn, rất giống quả thông thường. Hoa sung lớn dần, vỏ bên ngoài từ màu xanh chuyển sang màu đỏ thẫm, chín rồi sau đó rụng rất nhanh.
Sung là loài cây được nhiều người chơi cây yêu chuộng vì cây có dáng thế rất đẹp, dễ tạo hình. Hơn nữa, sung cũng là loài cây có sức sinh trưởng tốt, dễ chăm sóc. Theo dân gian, tên "sung" mang ý nghĩa tượng trưng cho sự sung túc, viên mãn, tròn đầy, do đó người Việt không chỉ thích trồng sung trang trí vườn nhà mà còn bày quả sung trên bàn thờ ngày Tết. Theo phong thủy, cây sung có dáng đẹp, sức sống tốt, quả sung mọc ra từ thân, tròn, căng, đẹp mắt có ý nghĩa thu hút tiền tài, mang lại điều may mắn, sung túc.
Cùng với đào, mai, cúc...cây sung không thể thiếu trong ngày Tết truyền thống của nhiều gia đình Việt. Những người chơi cây cảnh còn xếp sung đứng đầu trong bộ tam đa, là biểu tượng của Phúc (sung) cùng với Lộc (lộc vừng) và Thọ (vạn tuế).
(Theo VietQ)Mầu sắc còn mang đặc trưng sắc thái của các tầng lớp xã hội khác nhau: Thí dụ mầu vàng là của vua, từ các quan đại thần cho đến thường dân, cấm không ai được mặc quần áo hoặc xây dựng nhà cửa màu vàng. Mầu tím là sắc phục của các quan đại thần. Mầu điều, mầu đỏ dành riêng để tế thần và làm sắc phục cho các cụ thượng thọ. Mầu nâu sòng là của cửa Thiền dành cho những kẻ quy y Phật tổ, cũng như mầu đen là sắc phục của linh mục đạo Ky-Tô. Mầu xanh là của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình, của học trò chưa đậu đạt:
Trong bài thơ La-sơn phu-tử Nguyễn Thiếp gửi Tiến sĩ Nguyễn Khản có câu:
Quân kim bào hốt trung triều sĩ,
Cố ngã lâm tuyền khâm thượng thanh....
(Có nghĩa là: Nay ngài đã là khanh tướng trong triều, mà còn nhớ đến bạn học ngày xưa áo vẫn xanh). "áo vẫn xanh" tức là chưa hiển đạt, vẫn còn là bộ quần áo của người hàn sĩ. Mầu đào tức mầu hoa đào là của các nàng ca sĩ, cho nên mới có danh từ "Hát ả đào".
Mầu đen, mầu nâu là trang phục rẻ tiền nhất của quần chúng nông dân. Mầu xanh nhập nội từ đất nước Trung hoa sau giải phóng gọi là xanh công nhân.
ở Việt Nam, từ xưa tới nay, mầu đỏ, màu vàng, màu hồng, dùng trong trướng đối chỉ dành để chúc tụng, khao lão, mừng rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng mầu trắng, mầu xanh, mầu đen, mầu tím.... không hiểu vì sao, gần đây nhan nhản ở các cửa hàng, trướng điếu (lễ tang) cùng dùng mầu đỏ, mầu vàng rực rỡ, phải chăng các cụ già chết là đáng mừng, không cần phải an ủi, lưu luyến, nên chẳng cần dùng mầu đen, trắng, xanh, tím như ngày xưa.
Vì thế mới xẩy ra câu chuyện oái oăm: Có người đi mừng ông ban 70 tuổi lại mua một bức trướng điếu mầu đỏ thêu 4 chữ vàng "Tiên cảnh nhàn du", có khác gì chúc cho bạn mình mau chết để chóng được lên dạo chơi trên cảnh Bồng Lai. Nguyên "Tiên cảnh nhàn du", (Nghĩa là thanh nhàm dạo chơi trên cảnh tiên) là để an ủi người mới mất từ nay hết nợ trần gian lên hưởng cảnh tiên.
![]() |
Tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không? Hợi thích những đồ ăn ngon, thích tán tỉnh. Những việc rất đơn giản như được ngủ trong 1 chiếc giường thoải mái, hay được đi tắm hơi cũng dễ làm cho Hợi cảm thấy vui vẻ. Thân thì chơi bời và cầu kì hơn Hợi. Sở thích của người tuổi Thân không phải ở nhà mà là đến những bữa tiệc lớn, vui nhộn nơi họ có thể tự do vui đùa. Trong khi Hợi quan niệm gia đình và bạn thân là những thứ quan trọng nhất thì Thân lại đặt sự vui vẻ lên hàng đầu.
Khi yêu nhau, với bản tính ham chơi, người tuổi Thân sẽ tiêu tốn phần lớn thời gian để thuyết phục Hợi đi chơi đó đây. Là người có nhiều ham muốn về “chuyện ấy” nhưng Thân lại không thích trải qua hàng giờ trên giường ngủ. Đôi lúc Thân sẽ cảm thấy chán việc cố gắng thay đổi Hợi và muốn bỏ ra ngoài chơi cho thoải mái. Khi đó, Hợi sẽ phải chấp nhận sự thật vì bản tính của Thân là như vậy. Tốt nhất, Hợi nên rộng lượng và chấp nhận nếu muốn cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng dễ khiến Hợi trở thành người dễ dãi.Trong làm ăn kinh doanh, nếu biết kết hợp sức mạnh của nhau, Thân và Hợi sẽ xây dựng được sự nghiệp vững chắc và thịnh vượng. Thân thích lãnh đạo, thường là người đại diện cho công ty đi giao thiệp với khách hàng, thuyết phục mọi người vì có kinh nghiệm và khá bạo dạn. Hợi làm việc chăm chỉ theo sự chỉ dẫn của người khác. Tuy nhiên, Hợi cần biết cách để giúp Thân tránh khỏi những rủi ro không đáng có.
(Theo Zing)
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Vân Cốc thiền sư chỉ dẫn cho ta cách thức lập một cuốn sổ ghi công và tội, dặn ta hàng ngày phải ghi thật rõ ràng những điều mình đã làm, dù thiện hay ác đều phải ghi lại, thiện ghi bên cột thiện, và ác ghi vào cột ác để so sánh xem thiện nhiều hay ác nhiều mà tu sửa, ngoài ra lại bảo ta nên niệm chú Chuẩn Đề nhờ Phật gia bị thì những điều cầu nguyện ắt sẽ được ứng nghiệm.
Thiền sư còn bảo ta những người chuyên vẽ bùa chú thường nói nếu không được mật truyền thì họa bùa không linh ắt bị quỷ thần cười chê. Chỗ bí quyết đó là khi cất bút họa, trước hết phải dứt bỏ hết mọi sự trần duyên không được khởi một ý niệm nào để cho tâm thực thanh tịnh rồi mới bắt đầu đặt bút họa một điểm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi cứ tự nhiên vô tư lự tiếp tục huy bút từng điểm, từng điểm một họa thành lá bùa, như vậy thì bùa mới được linh nghiệm. Phàm muốn cầu lập mệnh đều cần phải giữ tâm cho được thanh tịnh không chút loạn tưởng vọng niệm, kính cẩn cầu nguyện thì mới được cảm thông linh ứng.
Bàn về việc lập mệnh, Mạnh phu tử trong thiên Tận Tâm có viết: Yểu và thọ chỉ là một chẳng phải hai, tức thọ yểu chẳng có khác nhau, mà nếu phân biệt cho thọ yểu là hai, thì khi không khởi một động niệm nào, tựa như lúc con người mới sinh chưa có ý niệm gì, chưa có tâm phân biệt thì đâu biết thế nào là yểu, là thọ. Xét cho cùng về việc lập mệnh thì phong và khiêm (tức được mùa mất mùa, ý nói giàu nghèo), cùng và thông, thọ và yểu đều chẳng phải là hai, chẳng khác nhau, thì nhiên hậu mới nên lập các mệnh bần phú, quý tiện, sinh và tử, bởi lẽ số thọ mà làm những điều bất nhân, thất đức thì thọ sẽ bị giảm thành yểu và trái lại số yểu mà biết tu nhân tích đức thì được tăng thọ.
Con người ta ở thế gian lấy việc thọ yểu, sống chết làm tối quan trọng, nên chỉ nói tới yểu thọ để mà bao gồm cả các sự thuận nghịch khác như phong khiêm, cùng và thông vậy.
Cho đến việc tu thân phải biết chờ đợi, không phải chỉ ngày một ngày hai mà vận mệnh được cải tạo ngay mà cần có thời gian để cố gắng tinh tiến tu hành, tích công lũy đức, thành tâm nguyện cầu thì sự việc mới có hiệu quả.
Nói tu thân là bao gồm cả tâm lẫn ý, nếu trong quá khứ có nhiều hành động bại hoại, ý tưởng xấu xa thì phải trừ bỏ ngay, còn nói tới chờ đợi thì cứ một mực tu nhân tích đức chẳng nên loạn tưởng nghĩ tới nghĩ lui hay nhen nhúm một chút hi vọng nhỏ nhoi nào trong thân tâm mà hóa ra vọng niệm, cần phải diệt bỏ ngay. Đạt được mức độ đó có thể nói là đã tới chỗ tự tính biểu lộ, tâm thực thanh tịnh không chút động niệm của cảnh giới tiên thiên, đó là chân chính thực học.
Người còn chưa đạt được vô tâm, chưa được nhất tâm bất loạn, còn chấp trước vọng niệm, chỉ nên trì chú Chuẩn Đề, liên tục niệm đừng để gián đoạn, cũng không cần đếm số, niệm sao cho được thuần thục, niệm mà hóa không niệm, tự mình cũng không hay là mình đang niệm chú nữa, đến chỗ không khởi một niệm đầu nào cả thì mới linh ứng.
Tên hiệu của ta trước là Học Hải, ngay ngày đó đổi lại là Liễu Phàm, bởi sau khi hiểu biết đạo lý của việc lập mệnh, ta muốn dứt bỏ các kiến giải phàm tục, lột bỏ lớp vỏ phàm phu đi. Từ đó trở đi ta suốt ngày để ý cẩn thận đề cao cảnh giác không giống như trước kia chỉ hồ đồ tùy tiện phóng túng, ngày lại qua ngày mê hoặc không biết tự kiềm chế giác ngộ. Đến nay sau khi hiểu biết rằng vận mệnh có thể cải biến được, tự nhiên ta có cảm giác dè dặt úy kính, ở nơi phòng tối chẳng ai hay ta cũng thường sợ đắc tội với thiên địa quỷ thần hằng xuất hiện ở nơi chái phía Tây Bắc, và có ai oán ghét ta, muốn hủy báng ta, ta cứ điềm nhiên dung thứ, chịu đựng, bỏ qua chẳng hề để ý tới.
Đến năm sau, bộ Lễ mở kỳ khảo thí, Khổng tiên sinh đoán ta được xếp vào hàng thứ ba nào dè ở nơi trường thi mùa thu ấy, ta trúng cử đệ nhất hạng, lời đoán của Khổng tiên sinh đã không được ứng nghiệm. Tuy nhiên, ta tự kiểm thảo thấy sự thi hành các việc đạo nghĩa chưa được thuần thục tự nhiên, mà còn nhiều sai trái khuyết điểm; hoặc khi thấy việc thiện mà không mạnh dạn làm ngay, hoặc muốn cứu giúp người mà trong tâm thường ngần ngại không quyết định nên hay không nên giúp; hoặc thân muốn gắng sức làm điều thiện mà miệng còn nhiều lời nói đến sự lỗi lầm của người làm họ bất mãn để bụng; hoặc lúc tỉnh thì hăng hái, nhưng khi say lại phóng túng không tự chủ được, vì vậy sợ rằng việc thiện làm ra không đủ bù đắp lại lỗi lầm, và ngày lại ngày để thời gian trôi qua một cách uổng phí.
Từ lúc ta phát nguyện vào năm Kỷ Tị cho mãi tới năm Kỷ Mão, mười năm có dư thời ba ngàn điều thiện mới làm xong. Lúc đó ta cùng Lý Tiệm Ấn tiên sinh từ quận ngoại nhập nội chưa kịp đem công đức trên hồi hướng. Sang năm sau là năm Canh Thìn từ Kinh trở về phương nam, mới thỉnh Tính Không và Huệ Không, hai vị pháp sư làm lễ hồi hướng tại Đông tháp thiền đường. Sau đó bèn phát nguyện cầu sinh con và cũng hứa làm ba ngàn điều thiện. Năm Tân Tị sinh con tên là Thiên Khởi.
Mỗi khi ta làm một việc gì thì tùy tiện lấy bút ghi lại, mẹ con không biết viết thì khi làm điều gì bèn liền đó lấy bút lông ngỗng khuyên một vòng son vào tờ lịch của ngày hôm đó; hoặc có khi thí thực cho người nghèo, hoặc là mua phóng sinh, mỗi ngày kể có hơn mười khuyên. Đến tháng tám năm Quý Mùi, số ba ngàn điều thiện đã làm đầy đủ, lại thỉnh các vị Tính Không tề tựu tại gia làm lễ hồi hướng công đức. Vào ngày 13 tháng chín cùng năm, ta lại bắt đầu phát nguyện cầu đỗ tiến sĩ và hứa làm mười ngàn điều thiện. Năm Bính Tuất thì trúng cử và được bổ làm tri huyện huyện Bảo Đề.
Khi nhậm chức ở huyện, ta dự bị làm sẵn một cuốn sổ nhỏ có nhiều ô vuông trống gọi là một thiên trị tâm, mục đích để sửa các điều lỗi lầm mà tu tâm. Mỗi buổi sáng khi bắt đầu thăng đường thì gia nhân mang sổ ra cho nha dịch để lên án thư, ta tỉ mỉ ghi lại các điều thiện hay ác trong khi xử án, hoặc xử lý công việc ở huyện. Buổi chiều tối thiết lập bàn hương án ở ngay sân huyện và noi gương ngự sử Triệu Duyệt Đạo, ta đem tất cả các việc làm hàng ngày dâng hương cáo trình thượng thiên, và nếu có điều sai trái, lầm lỗi thì thành tâm phát lồ sám hối.
Mẹ con thấy làm được ít điều quá, thời chau mày lo lắng mà nói rằng: Trước đây ở nhà, thiếp còn có thể giúp được nên vì vậy mà số ba ngàn điều thiện phát nguyện mới chóng hoàn thành. Nay ở trong nha, thiếp không giúp được gì cả mà lại nguyện làm những một vạn điều , thì biết đến bao giờ mới được viên mãn.
Đêm hôm đó, ta bỗng nằm mộng thấy một vị thần nhân, bèn trình bày duyên cớ khó làm xong 10 ngàn điều thiện đã nguyện hứa, thì thần nhân bảo chỉ cần một việc giảm tiền thuế là vạn sự sẽ hoàn thành đầy đủ.
Ta thấy ruộng ở Bảo Đề này mỗi mẫu nạp tô hai phân ba ly bảy hào thì quá cao, nên nghĩ có thể xin giảm xuống tới một phân bốn ly sáu hào; thiết tưởng việc này có thể thi hành được, nhưng trong lòng còn hoang mang hồ nghi không hiểu thần minh có thấu rõ việc ta xin giảm tô hay không, và làm sao chỉ làm một điều thiện lại có thể tương đương với vạn điều được, thì vừa may có thiền sư Thích Huyền Dư từ Ngũ Đài Sơn tới, ta đem những lời thần nhân báo mộng hỏi thiền sư có thể tin được như thế không?
Thiền sư bảo làm việc thiện mà tâm khẩn thiết chí thành thì một điều có thể sánh bằng vạn điều, huống hồ lại giảm tô cho cả một huyện, toàn dân đều được hưởng ân huệ thì một điều đó cũng đáng bằng 10 ngàn điều vậy.
Ta bèn quyên góp lương bổng để thiền sư trở về Ngũ Đài Sơn trai tăng một vạn người và đem công đức ấy hồi hướng hộ cho. Khổng tiên sinh đoán là năm 53 tuổi ta gặp tai ách, ta chưa từng cầu xin tăng thọ, mà năm đó lại vô sự, và nay thì ta đã 68 tuổi rồi.
Kinh Thư có nói thiên mệnh hay định mệnh khó tin, mệnh con người ta chẳng nhất định phải cứ thường như thế mãi, lại nói mệnh trời thì vô thường không ở mãi với một ai cả, những lời trên đâu phải dối trá.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Tướng tai dễ nhận biết và phân biệt hơn các tướng khác trên khuôn mặt. Xem tướng tai thường để ý tới khí sắc, màu da, dáng tai, lỗ tai, độ dày, mỏng của tai.
Đối với vấn đề này, Quách Lâm Tông có nói: “Tai tượng trưng cho bậc quân vương, lông mày tượng trưng cho đám bề tôi. Quân vương nên cao là tốt mà bề tôi lấy thấp là tốt. Người mà có đỉnh tai cao hơn so với lông mày chủ thông minh, không chỉ có tài năng văn chương siêu việt mà còn được hưởng phú quý phúc lộc”.
Trong Vạn kim tướng có nói: “Tai tốt nhất là đỉnh tai phải cao hơn lông mày một tấc, như thế sẽ được phú quý cả đời”. Lại nói: “Người có tai bạnh ra, có thể nổi danh tứ phương”.
Tông Tể Khưu cũng cho rằng: “Người có đỉnh tai và bộ vị Nhật giác tề chỉnh chủ đại quý”.
Hứa Phụ cũng từng nói: “Người có tai đoan chính, Nhật giác tề chỉnh, cả đời ít bệnh, tựa như uống thuốc trường sinh bất tử vậy, tuổi thọ rất cao, học thức cũng sâu rộng, là người trí tuệ”.
Trong Quảng giám tập có nói: “Đứng từ góc độ của tai mà nói, không phải sự to nhỏ của tai quyết định đến sự giàu nghèo quý tiện của con người mà trước tiên phải xem xét khí sắc của tai. Nếu khí sắc của tai tươi mới, trắng bóng là tướng thượng đẳng. Tai của Âu Dương Tu trắng tựa bôi phấn, cho nên sau này ông được nổi danh thiên hạ”.
Trong Đại thống phú có chép: “Khí sắc của tai mà trắng hơn so với khí sắc của mặt, người đó sẽ nổi danh thiên hạ”. Một người có tai trắng bóng, tất là người trung thành đôn hậu. Thịt ở tai màu hồng nhuận, chủ về tài lộc hanh thông Hồng nhuận là chỉ màu sắc của Thùy châu tươi sáng lại bóng. Người có tướng tai này cả đời được hưởng tài lộc, khi làm việc đều được như ý muốn. Phú quý này là phú quý tự nhiên do trời ban cho.
Trong Đại thống phú có nói: “Người có đỉnh tai cao quá lông mày có số mệnh trường thọ, người có tai đầy đặn sắc hồng là người phú quý; người có vành tai rõ ràng là người thông minh tài trí”.
Trong Đại thanh thần giám nói: “Khi đứng trước mặt một người nhưng lại không thấy tai của người đó. Tai sát đầu lại có Thùy châu tựa như sắc mặt hồng bóng, người đó sẽ có sự nghiệp hưng vượng, phú quý, cả đời sẽ có vận số tốt. Khi 15 tuổi, có thể kế thừa được phúc ấm của cha mẹ, trở thành người giàu có”.
Thuật xem bói tướng cho rằng người mà trong tai có lông tơ, tuổi thọ rất cao. Quách Lâm Tông từng nói rằng: “Tuổi thọ của người nào mà có thể vượt qua được trăm tuổi? Trong lỗ tai có lông tơ, tóc trắng một nửa trắng nửa đen, cổ có 2 ngấn người này sẽ rất thọ”.
Tướng tai nhọn nhỏ, tức có tai tựa như tai khỉ. Người như thế đa phần cô quả. Người có tai thẳng như mũi tên chủ về cả đời bần tiện, bất kể là nam hay nữ, khi 15 tuổi sẽ gặp chuyện phá hại. Sau khi trưởng thành sẽ trở nên bần tiện, cô quả. Trong Ngủ tổng quy có nói: “Tai lật vành chủ cả đời vất vả, người có tai thẳng như mũi tên sẽ có ít tiền của lại thiếu lương thực”. Lại nói: “Người có 2 tai đều nhọn thì tài vận không tốt”.
Quách Lâm Tông nói rằng: “Tai trái là Kim tinh, tai phải là Mộc tinh. Người có khí sắc ở tai tươi sáng, ổn định là mệnh quý hiển. Người có dáng tai thô, lại có khí sắc màu xanh đen, khô kiệt cả đời phải bôn ba, không được ở yên một chỗ”.
Tông Tề Khưu nói rằng: “Bì thô thanh hắc tẩu dị hương” tức là tai có da thô ráp, màu xanh đen, chủ tha hương kiếm sông.
Trong Quảng giám tập có nói: “Người có vành tai xanh lại đen, như thế thận chẳng giữ được lâu, chủ đoản mệnh”.
Hình trạng của tai phiêu bồng, tức hình trạng của nó tựa như cỏ bồng, cỏ bồng là một loài thực vật sống ở vùng trungnguyên, cũng được gọi là bồng tử, cành lá của nó tựa như cành lá của cây liễu, vòng quanh uốn khúc, mọc lại thành khóm. Khóm cỏ bồng tựa tròn như quả bóng, thẳng mà có nhiều nhánh, cỏ bồng khi vào mùa thu thì khô héo, bị gió thổi đi. Nếu bị gió đông thổi đi, cỏ bồng chạy nối dài về hướng Tây. Nếu bất ngờ có gió Tây thổi, nó lại cuồn cuộn bay về phía Đông. Người có màu sắc tai xanh lại đen, khô tựa như hình trạng của cỏ bồng cả đời sẽ phải bôn ba bên ngoài chẳng được ở yên ổn một chỗ.
Sách xem bói tướng xưa chỉ ra rằng Mệnh môn là lỗ tai. Lỗ tai hẹp, thậm chí ngón tay út nhỏ nhất cũng chẳng cho vào được chủ về người ngu muội lại đoản mệnh, không có trí tuệ.
Trong Động trung kinh có nói: “Lỗ tai hẹp, tựa như lỗ trên cây kim, gia đình nghèo khổ”.
Trong Thái thanh thần giám có chép: “Lỗ tai đen tựa mực, tuổi thọ khó dài lâu. Người có tai mỏng, cuộc sống nghèo khổ, trong khoảng từ 1 đến 15 tuổi sẽ khắc hại tổ tiên. Sau khi trưởng thành sẽ nghèo khổ, cô quả, tuổi thọ ngắn”.
Trong Thái thanh thần giám có nói: “Vành ngoài của tai gọi là thành, vành trong gọi là quách, thành vòng quanh quách là tướng tốt lành, quách vòng quanh thành là tướng xấu”.
Trong Kim kính kinh có chép: “Tai mà không có vành bên trong, chủ phá bại”. Cũng chính là nói, người có vành tai không rõ ràng chủ tài sản bị thất tán, cô độc, nghèo khổ.
Trong Đại thống phú có nói: “Người có tai mỏng tựa như tờ giấy, chủ cuộc sống nghèo khổ, tuổi thọ ngắn”.
Trong Ngủ tổng quy nói: “Thành mà bao quanh quách thì không có vấn đề gì, nhưng quách mà bao quanh thành là tướng không tốt lành”.
Trong thuật xem bói tướng: Người mà có tai lệch, thấp lõm chủ cả đời phá hoại tiêu tán.
Trong Vạn kim tướng nói: “Người có tai trái khiếm khuyết sẽ gây tổn thương cho cha,người có tai phải khiếm khuyết sẽ gây tổn thương cho mẹ. Người có cả 2 tai đều khiếm khuyết sẽ gây tổn thương cho cả cha mẹ. Người mà có các bộ vị trên tai đoan chính, tai không thấp so với lông mày, như thế sẽ không khắc hại cha mẹ, không phải rời bỏ quê hương”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Xây nhà ở giữa bốn con đường giao nhau (ngã tư), tình huống này cũng hiếm thấy. Theo cổ nhân thì nhà như thế bị bốn bên xung xạ, có họa sát thương, còn xét từ quan điểm hiện đại, ngôi nhà ở vị trí như vậy đúng là không an toàn, dễ xảy ra tai nạn giao thông, ảnh hưởng tới sự an toàn của ngôi nhà. Tại địa điểm như thế không nên xây nhà hay cửa hàng
Còn nhà ở gần đường cái về lâu dài cũng không tốt: An toàn giao thông không được đảm bảo, tiếng ồn và bụi bặm... ảnh hưởng đến sức khoẻ. Nói chung, ở bên đường cái, chỉ nên xây khách sạn, nhà hàng, cửa hàng hoặc trạm xăng... là thích hợp hơn cả, chứ không nên xây nhà ở.
Kiêng xây nhà trên mảnh đất hình tam giác
![]() |
![]() |
► Mời các bạn: Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ |
![]() |
► Mời các bạn: Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |
Mơ thấy bạn đang sử dụng cái búa nói chung tượng trưng cho sự cương quyết, dứt khoát trong việc quyết định cho tương lai, cuộc sống của mình. Tuy nhiên, thấy một cái búa chuyên dùng để đóng đinh trong giấc mơ lại tượng trưng cho sức mạnh, sự dẻo dai, kiên cường. Ngoài ra, nó còn biểu tượng cho sự tăng trưởng và xây dựng trong công việc của bạn.
Theo Bí ẩn điềm chiêm bao
Hành: ThổLoại: Phúc TinhĐặc Tính: May mắn, tốt lành, gặp quý nhân giúp đỡ.Tên gọi tắt thường gặp: Quý
Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Ân Quang và Thiên Quý. Gọi tắt là bộ Quang Quý.
Ý Nghĩa Thiên Quý Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Thiên Quý thủ hay chiếu mệnh:
Xã hội này vốn là tài nguyên thì ít và nhân khẩu thì đông, phải có cách khôn khéo tận dụng mới mong bản thân được hưởng lợi. Chính vì vậy mà sinh ra những người nguyện ném đá giấu tay, lợi dụng người khác để hoàn thành mục đích của mình. Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Mời các bạn xem sao hạn, xem tuổi xông đất 2017 để mang lại may mắn cho gia chủ |
Chém Nhan Lương giữa vạn quân
Sức chiến đấu mạnh mẽ của Quan Vân Trường là điều đã được cả lịch sử và tín ngưỡng Trung Quốc ghi nhận.
Tuy vậy, năng lực thực của ông trong lịch sử có khác biệt rất lớn so với những thông tin được chuyển tải trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác giả triều Minh La Quán Trung.
"Tam Quốc diễn nghĩa" hồi 25 có đoạn tả Quan Vũ chém Nhan Lương - "Quan Công nhảy lên ngựa, cầm Thanh Long Đao phi xuống núi, xông thẳng vào thế trận của địch.
Quân Hà Bắc bị rẽ đôi như sóng nước. Quan Công xông thẳng vào Nhan Lương.
Nhan Lương thấy Quan Công lao tới, đang định cất tiếng hỏi thì ngựa Xích Thố đã tới trước mắt.
Nhan Lương không kịp trở tay, bị Vân Trường vung đao đâm ngã xuống ngựa, cắt lấy thủ cấp treo lên cương ngựa.
Quan Công thu đao rút về, như vào chỗ không người".
Màn Quan Vũ trảm Nhan Lương trong "Tam Quốc diễn nghĩa" được đánh giá là giống như một trận "lôi đài tỷ võ dân gian" hơn là một trận chiến.
Các tướng chủ yếu so tài võ nghệ, đao pháp, thương pháp, thậm chí là dùng chiêu "xa luân chiến" để đánh Nhan Lương.
Phía quân Tào Tháo lần lượt cử ra Tống Hiến và Ngụy Tục - các cựu tướng của Lữ Bố. Hiến và Tục bị Lương diệt xong, lại đến Từ Hoảng.
Từ Hoảng là dũng tướng, mà cũng chỉ đánh với Nhan Lương 20 hiệp đã thua chạy.
Cuối cùng mới đến Quan Vân Trường ra trận "tỏa sáng", một đao chém bay đầu Lương.
Quan Vân Trường chém đầu Nhan Lương giữa vạn quân "như vào chỗ không người".
Sức mạnh thực của Quan Vũ?
Cả trận Bạch Mã giữa hai quân Tào Tháo - Viên Thiệu trong "Tam Quốc diễn nghĩa" được mô tả thành các trận đơn đấu của chư tướng, chứ không thể hiện được sắc thái quân sự.
Trong khi đó, "Tam Quốc Chí - Thục thư - Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện" của sử gia Trần Thọ cũng ghi lại sự kiện Quan Công chém Nhan Lương.
"(Quan) Vũ thấy (Nhan) Lương, bèn thúc ngựa đâm Lương giữa vạn quân, chém đầu Lương.
Chư tướng của (Viên) Thiệu không thể ngăn cản, để Vũ phá vây Bạch Mã.
Tào Công (Tào Tháo) lập tức phong Vũ làm Hán Thọ Đình Hầu".
Trên thực tế, trận Bạch Mã giữa lực lượng Tào Tháo và Viên Thiệu hoàn toàn không đơn giản là mô hình đơn đả độc đấu - tướng chọi tướng - như tiểu thuyết mô tả, mà là cuộc tác chiến quân đội quy mô lớn.
Nhân vật Nhan Lương trong lịch sử không xuất hiện trong vai trò một "võ lâm cao thủ", mà là một tướng chỉ huy quân sự.
Dù sử sách Trung Quốc có ghi chép rằng Nhan Lương "kiêu dũng", song nhiệm vụ của Lương càng thiên về chỉ huy tập kích, bày binh bố trận, vây thành và công thành.
Chiến dịch Bạch Mã là một cuộc chiến theo mô hình tập kích - chi viện, cuối cùng diễn biến thành cuộc đối đầu trực diện giữa 2 phe.
Tình thế đương thời vốn không cho phép Tào Tháo năm lần bảy lượt cử các đại tướng ra thách đấu với Nhan Lương, mà bản thân Lương cũng không hao phí thời gian chỉ để... khoe khoang võ nghệ.
Về phía quân Tào, Quan Vũ là một trong những quan chỉ huy của quân chi viện, mục tiêu rõ ràng không phải tham chiến để tỷ võ cùng Nhan Lương, mà là đột phá phòng tuyến quân sự do Lương chỉ huy.
Dựa trên ghi chép của Trần Thọ trong "Tam Quốc Chí" có thể thấy, Quan Vũ đã nhìn thấy tư lệnh Nhan Lương trong cuộc hỗn chiến và quyết đoán đưa ra quyết định tấn công "sở chỉ huy" của địch.
Vì vậy mới có màn Quan Công đơn thương độc mã xông vào trận địch. Trong quá trình này, nhiệm vụ "chuyên môn" của Quan Vân Trường vô cùng phức tạp.
Dù Trần Thọ không tả kỹ tình hình lúc đó, nhưng bên cạnh việc cần vượt qua nhiều lớp phòng ngự của trọng binh, Quan Vũ còn phải tự bảo vệ bản thân trước đội cung nỏ binh của phe Viên Thiệu.
Thực tế lịch sử cho thấy năng lực tác chiến quân sự và kỹ năng cá nhân của Quan Vũ còn đáng gờm hơn nhiều so với những gì "Tam Quốc diễn nghĩa" mô tả về ông.
Điểm vượt trội của Quan Công là chỉ dựa vào năng lực chiến đấu cá thể, trong điều kiện không có "hỏa pháo" yểm trợ, thậm chí không có cả quân nghi binh, ông không chỉ lọt vào tận "sở chỉ huy" địch, mà còn chém được quan chỉ huy Nhan Lương.
Ngoài ra, ngựa của Quan Vân Trường vào thời điểm đó không phải Xích Thố, bởi theo sử liệu để lại, Xích Thố đã chết từ trước đó rất lâu.
Quân đội của Nhan Lương chắc chắn cũng không yếu kém trong lĩnh vực phòng ngự. Khi Quan Vũ phát động tấn công nhằm vào họ, tiền tuyến sẽ gửi về cảnh báo cho Nhan Lương.
Như vậy, có thể thấy rõ bối cảnh cuộc đột kích của Quan Vũ: đối phương có "vạn quân", tác chiến hợp lý và luôn ở vào thế thượng phong cho tới thời điểm đó, đủ thấy màn độc diễn của Quan Công xứng đáng là "tuyệt phẩm".
Từ điểm này có thể xác định, năng lực chiến đấu thực tế của Quan Vũ trong lịch sử còn "nguy hiểm" hơn những gì tiểu thuyết mô tả.
Việc Tào Tháo lập tức phong Hầu cho Quan Vũ, do đó cũng không có gì khó hiểu.
Kỳ thực, trong lịch sử Tam Quốc, những sự kiện như trên cực hiếm xuất hiện.
Hệ thống phòng ngự của các lực lượng quân đội tất nhiên không phải để "làm cảnh", và nếu không phải là Quan Công trong tình huống đó mà là một viên tướng khác, thì chắc hẳn đã vong mạng dưới loạn tiễn ngay từ đầu.
Việc Quan Công đơn thương độc mã đột phá vòng vây chém Nhan Lương có thể coi là kỳ tích anh hùng, gần như không có khả năng tái hiện.
theo Trí Thức Trẻ
1- Số làm mệnh phụ, 2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ, 3- Hại cha mẹ,4- Không người phục dịch
1- Số làm mệnh phụ,
2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ,
3- Hại cha mẹ,
4- Không người phục dịch,
5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít,
6- Hại người thân,
7, 15, 19, 27.37-Hại chồng,
8- Chết xa nhà,
9- Bị chồng phụ tình bỏ rơi,
10- Sanh khó.
11- Có tài lộc,
12- Chồng thường xa nhà,
13, 17- Vượng phu ích tử,
14- Số có “thiên la địa võng” giăng coi chừng tù tội,
16- Tay làm hàm nhai,
18- Được nhờ con,
20- Sống thọ.
21- Bị cướp giật nhiều lần,
22- Gặp nhiều việc tốt,
23- Tính lăn loàn,
24- Sanh ít con,
25- Mới sinh ra thường hay bệnh,
26- Mọi việc thất bại,
28- Số sát phu, tình duyên lận đận,
29- Hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ anh chị em,
30- Biết nhường nhịn chồng con.
31- Có tư tưởng tự tử,
32- Hay ganh tỵ với kẻ khác,
33, 41- Đề phòng tai nạn đường sông nước,
34- Có số sinh đôi, sinh ba,
35- Có hư thai,
36- Tai tiếng thị phi,
38- Đày đọa đầy tớ vì ghen tuông,
39- Gặp tai nạn tại nhà,
40- Hay bệnh hoạn,
42- Sát Phu và 43- Khôn vặt.
Địa điểm các nốt ruồi mọc còn rất nhiều nơi trên thân thể, các sách cổ tướng học có ghi :
– Lưu Bang (nhà tiền Hán) có đến 72 nốt ruồi đen mọc nơi đùi trái, nên từ kẻ thất học trở thành Hoàng đế nước Trung Hoa sau thời kỳ Tần Thủy Hoàng.
– Tướng An Lộc Sơn thời nhà Đường, dưới lòng bàn chân đều có nốt ruồi đen. Trở thành tướng tài nhưng cũng lụy vì tình mà chết dưới chân Dương Quý Phi.
– Võ Tắc Thiên hậu Chu, người phụ nữ đầu tiên của nước Trung Hoa, nắm giang sơn xã tắc trong nhiều năm dài là nhờ có 7 nốt ruồi son mọc bên sườn trái (có sách nói bên vú trái).
Có một số nốt ruồi mọc nhưng trong sách tướng pháp ít không nói đến, tuy vậy các nhà tướng số vẫn đưa ra những lời giải thích :
Nốt ruồi mọc ở Cao Quảng số hại cha mẹ; ở Phụ giác, Kiếp môn, Hổ giác chủ về chết trận, chết vì gươm đao, tên bay đạn lạc; ở Biên địa, Xích dương, Ngư vĩ chủ về chết đường chết chợ; ở Sơn lâm, Thanh lộ đi đường bị súc vật làm tổn hại thân thể; ở Thái dương chủ về số có chồng hay vợ chung thủy, giàu sang; ở Phu tòa, Thuê tòa chồng hay vợ chết sớm; ở Trưởng nam, trung nam và thứ nam cha mẹ khắc con trưởng, con thứ; ở Kim quỹ gặp tán gia bại sản; ở Thượng mộ mất chức quyền; ở Học đường là người thất học; ở Mạng môn chủ về hỏa tai đề phòng cháy nổ v.v…
iáo, nghệ thuật, ngoại giao, nhãn khoa, ngoại khoa, sản khoa…
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 87 được xây dựng trên điển cố: Giảo Kim thám Địa Huyệt hay Giảo Kim xem huyệt đất.
Thử quái đào sa kiến kim nhân xừ hiểm cảnh chi tượng. Phàm sự hữu quý nhân chi triệu dã.
Quẻ trung bình thuộc cung Thân. Tượng này là muốn xẻ đá tìm ngọc, đào cát đãi vàng thì phải bỏ công sức lớn, tuy nhiên đây là việc hao tâm tổn sức trong lúc này.
Giảo Kim tức Trình Giảo Kim (589 – 665), là người Đông A, Tế Châu. Trình Giảo Kim gia nhập quân Ngõa Cương, đầu quân cho Vương Thế Sung, sau lại đầu hàng nhà Đường. Năm Trinh Quán thứ 17 (tức năm 643), Đường Thái Tông phong cho ông làm Lư Quốc Công, là một trong số hai mươi bốn vị công thần của Lăng Yên các.
Câu chuyện “Giảo Kim xem huyệt địa” bắt nguồn từ tác phẩm “Tùy Đường diễn nghĩa“.
Các hảo hán của trại Ngõa Cương mờ yến tiệc trong phủ nguyên soái, trong lúc đang ăn uống, bỗng nhiên nghe một tiếng vang động, chỉ thấy trong phòng luyện võ nứt ra một địa huyệt lớn. Địa huyệt đen ngòm, không biết là sâu bao nhiêu. Quân sư Từ Mậu Công nói: “Hãy lấy ba mươi bảy tấm giấy, ba mươi sáu tấm viết “bất khứ” (không đi), một tấm viết chữ “khứ” (đi), người nào bốc được tấm giấy có chữ “khứ” thì đi xuống!” Mọi người đều cho là có lý. Không may, Trình giảo Kim lại rút được tấm giấy có chữ “khứ”. Trình Giảo Kim giở trò: “Tôi không biết chữ, các anh lừa tôi nên mới bảo là tôi bắt được chữ “khứ”.
Mậu Công nói: “Bất khứ” là hai chữ, còn “khứ” là một chữ, lẽ nào ngươi không biết?”
Trình Giảo Kim nhìn những người khác đều là hai chữ, chỉ có mình lại là một chữ, liền kéo Vưu Tuấn Đạt nói: “Này anh trai, đều là do anh hại tôi. Lúc đó tôi làm nghề bán củi, anh lại lôi tôi làm đông đảng để cướp Vương Cương, phản Sơn Đông. Nay phải xuống địa ngục lạnh giá, chắc rằng khó mà sống sót, tôi và anh có quan hệ thân thiết, còn mẹ già mong anh sớm chiều chăm sóc!”
Vưu Tuấn Đạt nói: “Người anh em, cậu nói gì thế? Cậu cứ xuống đi, đảm bảo không có vấn đề gì đâu!”
Trình Giảo Kim không biết làm sao, đành mang theo cây búa lớn, ngồi vào trong chiếc sọt, để mọi người thả xuống dưới huyệt, chẳng bao lâu thì tới đáy. Trình Giảo Kim trèo ra khỏi sọt, cầm bủa trên tay, nhưng tối om không nhìn thấy tia sáng nào, cứ sờ tay mà đi, đi qua hai khúc quanh, bỗng thấy phía trước có luồng ánh sáng, Trình Giảo Kim cho rằng đó là yêu quái gì đó, liền chạy lên phía trước, bố xuống một búa, chỉ nghe một tiếng rầm, thì ra đó là hai cánh cửa bằng đá.
Trình Giảo Kim đi vào trong cửa đá, chỉ thấy phía trên cũng có bầu trời, bên dưới là một dòng sông lớn, ở giữa có một cây cầu đá. Đi qua cây cầu, lại là ba gian đại điện, nhưng không có người nào. Trình Giảo Kim tiến vào giữa đại sảnh, chỉ thấy trên bàn có bày một chiếc mũ bằng vàng có hai cánh hướng lên, một bộ long bào màu vàng, một dây đai bằng ngọc bích, một đôi giày “vô ưu”. Trình Giảo Kim nhìn thấy, rất lấy làm lạ, liền bỏ chiếc khăn vải tía trên đầu đi, đội chiếc mũ bằng vàng có hai cánh lên đầu, mặc bộ long bào màu vàng vào người, thắt dây đai bằng ngọc bích, tháo giầy da, đi đôi giày vô ưu. Lại thấy ờ bên bàn có một chiếc hộp quý, mở ra xem thì thấy có một viên ngọc khuê màu đen, một tờ giấy có chữ viết, nhưng Giảo Kim lại không biết đọc. Liền cất chiếc hộp vào trong bụng, đi ra đại sảnh.
Trình Giảo Kim vừa ra khỏi cửa đá, cánh cửa đá lại kêu rầm một cái, đóng lại như cũ. Giảo Kim sợ quá, vội vàng ngồi vào trong chiếc sọt, lắc mạnh sợi dây. Những người phía trên vội vàng kéo Giảo Kim lên, ra khỏi địa huyệt.
Trình Giảo Kim vừa mới ra khỏi chiếc sọt, lại nghe ầm một tiếng lớn, địa huyệt liền đóng chặt lại. Trình Giảo Kim nói: “Đúng là tạo hóa kỳ diệu, chậm một chút là bị chôn sống rồi!” Mọi người thấy Giảo Kim ăn mặc như vậy, đều cảm thấy kỳ lạ. Trình Giảo Kim kể lại tỉ mỉ sự việc, lấy chiếc hộp quý ra cho Từ Mậu Công xem. Mậu Công cầm tờ giấy đoc, chỉ thấy trên đó viết rằng:
“Trình Giảo Kim trọng nghĩa dấy binh, làm Hỗn Thế Ma Vương ba năm, nhiễu loạn thiên hạ”.
Nội dung
Ngũ hành tồn tại mối quan hệ tương sinh tương khắc.
Quy luật ngũ hành tương sinh: “Sinh”, bao hàm ý nghĩa tư sinh, trợ trưởng. Trong Ngũ hành có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau, dựa vào nhau để tồn tại, quan hệ này được gọi là “tương sinh”. Quy luật tương sinh trong Ngũ hành là: Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy: sự tuần hoàn đời này qua đời kia không bao giờ kết thúc. Chúng có tác dụng thúc đẩy nhau phát triển.
Trong tương sinh Ngũ hành, bất kỳ một hành nào cùng đều có sự liên hệ hai mặt “sinh tôi”, “tôi sinh”, cũng chính là quan hệ mẫu tử. Lấy Thủy làm ví dụ: “sinh tôi” của Thủy là Kim, tức Kim chính là mẹ của Thủy: “tôi sinh” của Thủy là Mộc, tức Mộc là con của Thủy, từ đó cứ tiếp tục suy ra tương tự.
Nguyên lý ngũ hành tương sinh
Quy luật tương khắc: “khắc”, bao hàm ý nghĩa chế ngự, thắng. Trong Ngũ hành có quan hệ chế ước lẫn nhau, khắc phục lẫn nhau. Loại quan hệ này được gọi là “tương khắc”. Quy luật tương khắc Ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, sự chế ước lẫn nhau như vậy, không có tuần hoàn, không ngừng.
Quan hệ tương khắc trong trường hợp thông thường, cũng là một lực lượng duy trì cân bằng. Nếu tương khắc Ngũ hành quá lớn thì sẽ gây thương tổn rồi sinh ra những biến hoá bất thường. Trong tương khắc Ngũ hành, bất kỳ một hành nào cũng đều có quan hệ “khắc tôi” và “tôi khắc”, cũng chính là quan hệ “thắng” và “bất thắng”. Lấy ví dụ hành Mộc: “khắc tôi” là Kim, “tôi khắc” là Thổ, vậy thì, Thổ chính là hành mà Mộc “thắng”. Kim chính là hành mà Mộc “bất thắng”, còn lại suy ra tương tự. Trong tương khắc Ngũ hành, cũng giống như tương sinh là không thể tồn tại độc lập. Trong tương khắc cũng cần phải có tương sinh bên trong nó, nếu không thì vạn vật sẽ không thể có sinh khí.
Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.
Hội Đền Hai Bà Trưng (Hội Đền Đồng Nhân)
Thời gian: Tổ chức từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: Đền Đồng Nhân, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn của 2 vị anh hùng Trưng Trắc và Trưng Nhị (khời nghĩa chóng Bắc thuộc dành quyền tự chủ cho đất nước).
Nội dung: Ngày khai hội của đền Hai Bà Trưng là ngày mùng 3 (chính hội là ngày 5) có lễ tắm tượng, mở cửa hậu cung, tế và múa đèn. Trong ngày hội, có lễ rước thánh giá cử hành uy nghi từ đền ra sông Hồng để tắm tượng. sau đó rước tượng hai Bà trở về đền. Phần lễ có nhiều tiết mục đặc sắc vui tươi, nhất là điệu múa đèn thờ. Điệu múa đèn có từ 10-12 cô gái trẻ đẹp ăn mặc sặc sỡ, mỗi cô gái cầm 2 ngọn đèn. Điệu múa uyển chuyển theo nhịp trống cơm bập bùng làm náo nức lòng người. Trong lễ hội còn có nhiều trò chơi vô cùng thú vị.
Tình yêu và cuộc sống hôn nhân của người tuổi Tý nhóm máu A những nét riêng đáng trân trọng. Những người này sống khá nội tâm, ít nói và rụt rè. Bởi vậy tình yêu của họ cũng thể hiện sự thầm lặng nhưng lại rất dịu dàng và thánh thiện.
![]() |
Sau khi kết hôn, nữ giới tuổi Tý thuộc nhóm máu này sẽ trở thành những người phụ nữ đảm đang, chiều chồng, thương con hết mực.
Bản thân những người này luôn ý thức xây dựng nền móng vững chắc cho cuộc sống tương lai. Họ luôn sát cánh bên người bạn đời chung tay trong mọi công việc.
Các bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
Xưa đó chính là 3 việc lớn mà mỗi nguời đàn ông Việt cần phải đặt ra cho bản thân để đạt được thành công. Ở Việt Nam hiện nay, việc tổ chức đám cưới thường được diễn ra theo hai nghi thức, cổ truyền hoặc hiện đại. Nghi thức cổ truyền hiện không phổ biến ở các thành phố lớn do tính rườm rà và nhiều thủ tục lãng phí. Ngược lại, lễ cưới theo phong cách hiện đại ngày càng được sử dụng nhiều do tính đơn giản, gọn nhẹ. Tuy nhiên, các phong tục tập quán tốt đẹp từ nghi thức cổ truyền vẫn được giữ lại và bảo tồn trong lễ cưới hiện đại.
Lễ tráp ăn hỏi đặc trưng của người Việt
Trước khi tổ chức thành hôn cho đôi trai gái, người ta thường có Lễ dạm ngõ và Lễ ăn hỏi. Dạm ngõ không phải là một lễ quan trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Chức năng cơ bản của lễ này đơn giản chỉ là một phép ứng xử giúp hai gia đình có thể hiểu biết cụ thể về nhau hơn để từ đó tiến tới quyết định tiến tới hôn nhân hay không. Sau khi hai bên đã thống nhất với nhau về các yếu tố trên thì sẽ tiến tới tổ chức Lễ Ăn hỏi vào dịp “ngày lành tháng tốt”. Có thể nói, đây là sự thông báo chính thức về sự hứa giá thú của hai gia đình. Cũng gần tương tự về mặt chức năng của Lễ Đính hôn, trong giai đoạn này, có thể nói cô gái đã trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi.
Lì xì trả duyên – một lễ nghi trong phong tục ăn hỏi của người Việt Nam
Thông thường, ở Việt Nam, việc đăng ký kết hôn để được công nhận là vợ chồng trước pháp luật thường diễn ra trước khi tổ chức đám cưới. Mặc dù vậy, trong tâm thức người Việt, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới là thời điểm mà họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức công nhận đôi trai gái là vợ chồng.
Lễ rước dâu
Tiệc cưới thường được tổ chức ở nhà hàng (hoặc khách sạn) là buổi tiệc mà gia đình tổ chức để mời người thân chung vui trong lễ ra mắt của cô dâu, chú rể. Như đã nói ở trên, chính vì tầm quan trọng của lễ thành hôn nên tiệc cưới thường được tổ chức rất trang trọng.
Cúng lễ gia tiên
Sau tiệc cưới, cô dâu chú rể trở về nhà chồng làm lễ cúng gia tiên, gặp mặt họ hàng, thân nhân bên nhà gái và nhà chú rể. Sau thủ tục này, cô dâu chính thức trở thành vợ của chú rể và là thành viên trong gia đình.
Toàn cảnh một phòng cưới được tổ chức theo phong cách hiện đại
Như tất cả các nước trên thế giới, lễ cưới ở Việt Nam có ý nghĩa rất thiêng liêng, có tầm quan trọng chỉ diễn ra một lần trong một đời người. Đầu tiên, gia đình hai bên sẽ tổ chức một lễ nhỏ đơn giản là lễ xin dâu với mục đích là gia đình chàng trai đem lễ vật đến nhà gái để xin phép được rước cô dâu về nhà chồng. Lễ rước dâu ở Việt Nam thông thường bao gồm khoảng hai chục người nhà trai với sự hiện diện của đại diện nhà trai, bố chú rể, chú rể và bạn bè.
Thời tiết xấu sẽ làm cho con người ta khó chịu, cơ thể mất cân bằng, làm việc kém minh mẫn và hiệu quả. Trái lại nếu thời tiết thuận lợi sẽ làm cho cơ thể khoẻ mạnh, trí não hưng phấn và là tiền đề cho công việc trôi trảy, hiệu quả lao động cao. Nếu việc chọn ngày giờ theo Âm lịch là sai thì chắc nó đã không thể tồn tại cho đến ngày nay trải qua mấy nghìn năm xã hội Nông nghiệp.
Trong Thiên Văn học hiện đại cũng chỉ ra rằng vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm giữa các thiên hà, làm phát sinh những bức xạ, những tia vũ trụ mà ảnh hưởng của nó đến trái đất là rất lớn, chi phối đời sống của sinh vật nói chung và con người nói riêng. Vì vậy tránh ngày xấu cũng chính là trành những thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển. Nói rộng ra, việc sử dụng lý thuyết Âm Dương Ngũ hành hợp lý trong Âm lịch nhằm chọn ra thời điểm tốt tránh thời điểm xấu là việc vô cùng cần thiết. Muốn thành công phải hội tụ cả ba yếu tố Thiên thời - Địa lợi - Nhân hoà mà Thiên thời là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo làm việc thành công, cải thiện đời sống con người.
Việc chọn ngày tốt phải sử dụng đúng lý thuyết Âm Dương Ngũ hành trong Âm lịch tức hệ lịch mã hoá thời gian theo hệ quy chiếu Can Chi. Tránh những hủ tục chọn ngày lạc hậu, mê tín dị đoan thường thêu dệt trong dân gian, không những không mang lại kết quả gì mà trái lại gây tâm lý hoang mang, làm lỡ mất thời điểm tốt cần thực hiện công việc.
Ứng dụng chọn ngày tốt xấu
Những điều cần tránh khi chọn ngày để làm những việc lớn :
- Ngày có can chi trùng với can chi tuổi của người cần xem. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dùng ngày Đinh Tỵ
- Ngày có can trùng với can tuổi của người cần xem, còn chi xung với chi tuổi. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dùng ngày Đinh Hợi (Chính xung rất độc).
- Ngày có can xung với can tuổi của người cần xem, còn chi trùng với chi tuổi hoặc chi xung của tuổi. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dùng ngày Quý Tỵ hoặc Quý Hợi.
- Ngày Nguyệt Kỵ : Mồng 5, 14, 23 hàng tháng. Tổng các số trong 3 ngày trên là 5, 5 tượng trưng cho sao Ngũ Hoàng Thổ ở trung cung rất tối kỵ cho mọi việc.
- Ngày Tam Nương : Thượng tuần là ngày mùng 3, mùng 7. Trung tuần là ngày 13,18. Hạ tuần là ngày 22,27.
Không nên kiêng những ngày này vì truyện kể có một bà gì ghẻ đi cưới vợ cho con chồng, lựa trúng ngày Tam Nương để hại con ghẻ. Nào ngờ khi đám cưới lại gặp đúng lúc vua Càn Long đi ngang qua nên bỗng dưng hoá tốt. Vì vậy chúng ta không nên kiêng kỵ ngày này, nên chăng chỉ kiêng cho những vị đứng đầu đất nước.
- Ngày Thọ Tử :
- Ngày Chi khắc Can (Đại hung) : Canh Ngọ, Bính Tí, Mậu, Dần, Tân Tỵ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Quý Sửu, Nhâm Tuất.
- Ngày Ngũ Ly (Đại Hung) : Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Thân, Ất Dậu, Mậu Thân, Kỷ Dậu
- Ngày Can khắc Chi (Tiểu Hung) : Ất Sửu, Giáp Tuất, Nhâm Ngọ, Mậu Tí, Canh Dần, Tân Mão, Quý Tỵ, Ất Mùi, Đinh Dậu, Kỷ Hợi, Giáp Thìn.
Những yếu tố của ngày tốt - Chủ yếu căn cứ theo yếu tố Ngũ Hành của ngày sau đây :
- Ngày Can sinh Chi (Đại Cát) : có vai trò rất quan trọng khi tiến hành đại sự : Đinh Sửu, Bính Tuất, Ất Tỵ, Đinh Mùi, Giáp Ngọ, Mậu Thân, Chanh Tí, Nhâm Dần, Kỷ Dậu, Tân Hợi, Quý Mão, Bính Thìn.
- Ngày Chi sinh Can (Tiểu Cát) : cũng là những ngày tốt : Giáp Tí, Bính Dần, Đinh Mão, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Thìn, Tân Sửu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tí, Mậu Ngọ.
- Ngày Thiên Giải :
+ Từ Lập xuân đến trước Lập Hạ : Nhâm Dần, Quý Mão
+ Từ Lập Hạ đến trước Lập Thu : Ất Tỵ, Giáp Ngọ
+ Từ Lập Thu đến trước Lập Đông : Mậu Thân, Kỷ Dậu
+ Từ Lập Đông đến trước Lập Xuân : Canh Tí, Tân Hợi
Ngoài ra cần chú ý kết hợp với các yếu tố sau để cân nhắc sự tốt xấu của ngày cần xem :
1. Bảng 28 vị tinh tú quản ngày chi phối cát hung : Nên tra trong lịch vạn niên Dịch Học2. Theo 12 chỉ trực : Ngày Dần đầu tiên của tháng Giêng là trực Kiến, rối theo thứ tự an trực Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Thành, Thu, Khai, Bế.
3. Theo Lục Diệu :
Tháng 1, 7 : Ngày 1 là Tốc Hỉ : Tốt vừa, sáng tốt chiều xấu, cần làm nhanh
Tháng 2,8 : Ngày 1 là Lưu Liên : Hung , mọi việc khó thành
Tháng 3, 9: Ngày 1 là Tiểu Cát : Cát, mọi việc tốt lành, ít trở ngại
Tháng 4, 10: Ngày 1 là Không Vong : Hung, mọi việc bất thành
Tháng 5, 11: Ngày 1 là Đại An : Cát, mọi việc đều yên tâm hành sự
Tháng 6, 12: Ngày 1 là Xích Khẩu : Hung, đề phòng miệng lưỡi, cãi vã.
Rồi theo thứ tự 1 Đại An, 2 Lưu Liên, 3 Tốc Hỉ, 4Xích Khẩu, 5 Tiểu Cát, 6 Không Vong tiếp theo các ngày trong tháng.
4. Theo vòng Hoàng Đạo :
Bảng giờ Hoàng Đạo trong ngày, ngày Hoàng Đạo trong tháng
5. Các ngày Sát chủ cũng không nên làm việc lớn :
Bảng các ngày Sát chủ trong tháng :
Hung Niên và Tam Tai: Phàm từ xưa đến nay, cứ đến năm tuổi là người ta tránh sự cưới hỏi trong năm này, tránh dựng vợ gả chồng vì cho là bị ở lứa tuổi Hung niên. Đúng ra năm 20 tuổi thì chẳng có gì là xung kỵ cả, có điều xét đoán thì năm 20 tuổi cưới vợ thì sớm lắm.
Do đó người ta bày ra cách kéo dài thời gian qua tuổi 20 để thuận tiện, ngoại trừ tam tai và đại hạn mà nhiều sách đã chứng minh là đúng.
Tam Tai: Kỵ cất nhà hoặc cưới gả
- Tuổi Thân - Tý - Thìn thì tam tai nên tránh các năm Dần - Mẹo - Thìn
- Tuổi Dần - Ngọ - Tuất thì tránh tam tai ở các năm Thân - Dậu - Tuất
- Tuổi Sửu - Tỵ - Dậu thì tránh tam tai tại các năm Tỵ - Ngọ - Mùi
- Tuổi Hợi - Mão - Mùi thì tránh tam tai tại các năm Tỵ - Ngọ - Mùi
Theo lịch sách cổ truyền chứng minh là đúng là hễ vào tuổi nào gặp tam tai không những cất nhà mà cả cưới gả cũng là chuyện xấu. Nên các bạn nên tránh vào những năm hung niên nói trên dù muốn dù không thì cũng đỡ đi được phần nào.
Ngày Nguyệt Kỵ: Kỵ xuất hành hoặc khai trương vào các ngày mùng năm(5), mười bốn(14) và hai mươi ba.
Ngày Tam Nương: Tránh mở cửa hàng khai trương vào các ngày mùng 3, mùng 7, 13 và ngày 22
Giờ sát chủ:
Tháng Giêng Tháng Hai Tháng Ba Tháng Tư Tháng Năm Tháng Sáu Tháng Bảy Tháng Tám Tháng Chín Tháng Mười Tháng Mười Một Tháng Mười Hai |
Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ Giờ sát chủ |
Giờ Dần - Tý Giờ Tỵ Giờ Thân Giờ Thìn Giờ Dậu Giờ Mẹo Giờ Dần - Tý Giờ Tỵ Giờ Thân Giờ Thìn Giờ Dậu Giờ Mẹo |
1. Lấy tay nghịch tóc
Bạn vui buồn thất thường, dễ đa sầu đa cảm, hay trầm trọng hóa vấn đề. Khi người khác ở bên bạn, họ luôn phải thận trọng trong từng lời nói, vì sợ bạn phật lòng, không vừa ý.
2. Để tay lên miệng
Bạn rất để tâm tới việc người khác nghĩ gì về mình, luôn cho rằng có ai đó đang nhìn mình, sống nhạy cảm với thế giới xung quanh.
3. Nghịch đồ phụ kiện
Bạn hay suy tư, làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điểm yếu của bạn là dễ chán, không kiên trì nên nhiều khi bỏ dở giữa chừng.
![]() |
4. Khoanh tay
Bạn có xu hướng sống nội tâm, không thích thể hiện tình cảm và có chút thiếu tự tin, luôn trong tư thế phòng thủ. Bên cạnh đó, bạn còn được biết đến là người có suy nghĩ độc đáo, logic và lập trường vững chắc.
5. Vừa nói vừa cười
Bạn đi đến đâu, mang tới tiếng cười và sự vẻ đến đó. Bất cứ ai ở bên bạn đều cảm thấy yên bình, dễ chịu. Có thể nói, bạn thuộc tuýp người thích mang niềm vui tới cho mọi người, nhưng lại ngại chia sẻ chuyện riêng tư của mình cho người khác.
6. Luôn phải dựa vào vật gì đó
Bạn bề ngoài mạnh mẽ, cứng rắn, luôn tỏ ra vô tư, vui vẻ. Thực chất, nội tâm bạn rất sâu sắc, nhạy cảm và hay dỗi.
7. Rung chân
Maruko
![]() |