Xem tướng chân mày –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Bên cạnh đó, họ còn có khả năng ăn nói hoạt bát. Giao lưu, kết nối mọi người là sở trường của họ. Nếu hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao chắc chắn họ sẽ thu được những thành công lớn.
Ngoài ra, những người này có sức vóc dẻo dai và phản xạ nhanh, khéo léo trong các công việc có liên quan đến hoạt động hình thể. Vì vậy, diễn viên múa, xiếc, vũ công cũng đều rất phù hợp để họ lựa chọn.
Một ưu điểm dễ nhận thấy ở người tuổi Thân nữa là sự nhạy cảm, tinh tế và có óc tưởng tượng, quan sát tốt. Bất kỳ sự việc nào trong cuộc sống cũng đều gợi sự tò mò đối với họ. Nếu trở thành nhà văn họ sẽ có nhiều cơ hội trở nên nổi tiếng.
Tuy nhiên, nhược điểm của họ là luôn thích dẫn đầu và thích người khác phải phục tùng mình. Nếu không sửa được tính xấu này thì họ dễ bị người khác ghét bỏ, xa lánh và khó có được những cộng sự tốt.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
Để tiết kiệm không gian hoặc khuếch đại không gian, nhiều người ngăn cách không gian phía dưới đỉnh mái nhà thành một phòng mới, gọi là gác xép, thường dùng làm phòng ngủ hoặc phòng chứa đồ. Nhưng thực tế, gác xép tuy không đóng vai trò quá quan trọng trong kiến trúc ngôi nhà, nhưng cũng có phong thủy riêng, nếu trang trí sai, vẫn gây ảnh hưởng đến gia đình.
Cấm kị 1: Độ dốc lớn
Vị trí gác xép có hạn, mái nhà cũng trở nên thấp hơn. Như vậy, không khí sẽ không vận hành thuận lợi như ban đầu, vào mùa mưa, mùa hạ sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn. Cho nên, để đạt được hiệu quả tụ khí, độ dốc của gác xép nên nhỏ một chút.
Cấm kị 2: Xà ngang chèn ép
Gác xép thông thường có mái nghiêng. Nếu mái chỉn chu có trật tự thì không sao, nhưng nếu kết cấu mái hỗn loạn thì cần điều chỉnh lại, hồi phục độ chỉn chu của nó. Đồng thời, cũng cần tránh tình trạng xà ngang chèn ép. Xà ngang chèn ép trên đỉnh là điều đại kị trong phong thủy. Nếu như một người ở trong môi trường như thế lâu dài, sẽ dễ hao tài tốn của.
Cấm kị 3: Không mở cửa sổ
Cần mở cửa sổ để đảm bảo gác xép đủ ánh sáng và thông gió, bởi vì chỉ có ánh sáng chan hòa và không khí lưu thông mới có thể đuổi vận không may đi, khiến tinh thần con người phấn chấn. Ngoài ra, màu sắc tổng thể khi trang trí gác xép cũng nên lấy màu ấm hoặc màu nhạt làm chủ đạo bởi gác xép vốn dĩ thấp, nếu như dùng màu quá đậm và trầm sẽ đem đến cảm giác u ám.
Màu sắc tổng thể khi trang trí gác xép cũng nên lấy màu ấm hoặc màu nhạt làm chủ đạo bởi gác xép vốn dĩ thấp, nên như dùng màu quá đậm và trầm sẽ đem đến cảm giác u ám.
Cấm kị 4: Dùng gác xép làm phòng ngủ
Do vị trí và môi trường bất lợi, hao năng khá lớn, đồng thời muốn nạp khí cũng khó, nên chúng ta có thể suy xét đến việc biến gác xép thành thư phòng, phòng tập luyện, phòng chứa đồ, chứ không nên dùng làm phòng ngủ.
Cấm kị 5: Cầu thang thẳng
Phong thủy gác xép có tốt không, chủ yếu là xem tụ khí. Cầu thang nối với gác xép dùng để vận chuyển khí trường, cho nên khi thiết kế cần chắc chắn, thường không dùng cầu thang thẳng. Điều này là để tránh tài khí, vận khí do trực xung mà đi xuống. Cầu thang nối với gác xép nên dùng xoắn ốc, hoặc có chỗ vòng để giữ khí.
Trên cơ thể phụ nữ có những nốt ruồi mà mỗi vị trí nó sẽ thể hiện hoặc thậm chí là cảnh báo một thông điệp nào đó về tài vận, sự may mắn hay rủi ro. Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về nốt ruồi phú quý của phụ nữ. Cùng Phong thủy số xem bạn có những nốt ruồi như thế nào nhé.
Người phụ nữ có nốt ruồi ở gần miệng cho thấy họ có phúc lộc từ chồng và nhà chồng rất lớn. Cuộc sống hôn nhân sẽ luôn hạnh phúc và không phải lo lắng nhiều. Nhưng sự phú quý của nó còn phụ thuộc vào vị trí gần hay xa miệng. Nếu càng gần miệng thì càng hưởng nhiều phúc lộc từ nhà chồng và ngược lại. Ngoài ra, Nốt ruồi phú quý của phụ nữ này còn báo hiệu rằng họ không cần phải suy nghĩ đến chuyện ăn mặc. Vì số của họ sẽ được hưởng lộc cả đời, giàu sang, phú quý.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ mà nhiều người biết và dễ nhận thấy. Nó báo hiệu chủ nhân của nó là người thông minh, duyên dáng đặc biệt là trong kinh doanh rất khéo léo, làm ăn phát đạt. Ngoài ra họ còn có thêm sự may mắn khi có nốt ruồi mọc ở tai nữa.
Nữ giới sở hữu nốt ruồi ở mũi cho thấy họ là người thông minh, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Do đó nó cũng có thể được xem là Nốt ruồi phú quý của phụ nữ. Trong chuyện tình cảm, họ là người được nhiều người yêu thương, theo đuổi. Tuy nhiên, họ lại thường không lý trí, dễ lựa chọn sai lầm. Khi họ quyết định kết hôn nghĩa là họ đã chính chắn và có thể làm cho cuộc sống hôn nhân được viên mãn.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ mà hiếm ai có được, và cũng rất khó để phát hiện ra vì nó nằm trong tóc nhiều người không để ý. Nhưng bạn có biết rằng, nếu nữ giới có nốt ruồi trong tóc nghĩa là cả đời không phải lo toàn đến việc cơm ăn áo mặc, giàu sang phú quý cả đời.
Trán là vị trí cao, thể hiện cho quyền lực, địa vị trong xã hội. Nếu phụ nữ có nốt ruồi ở trán sẽ càng tăng thêm vận khí cho chủ nhân. Nó thể hiện cho sự may mắn, tài lộc sẽ đến. Đồng thời, chủ nhân cũng sẽ có địa vị cao trong xã hội, dễ dàng vượt qua các khó khăn trong cuộc sống.
Nếu có nốt ruồi ở má phải thì người phụ nữ đó sẽ có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Bởi họ là những người phụ nữ biết chịu đựng, hết lòng vì chồng con, hi sinh cho chồng con, không mấy khi tin vào sự may rủi nên họ hài lòng với những gì mà họ có.
Nốt ruồi phú quý của phụ nữ còn là khi nó nằm bên má trái. Lúc ban đầu, bạn có thể gặp nhiều khó khăn, vất vả đúng như câu nói Vạn sự khởi đầu nan. Nhưng sau đó, bằng nghị lực, khả năng của mình bạn có thể vượt qua và gây dựng mọi thành công trên đôi tay của mình.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ và cả nam giới. Nó thể hiện cho người đó giàu có về điền trạch nghĩa là ruộng đất, nhà cửa, bất động sản. Từ đó mà cuộc sống trở nên giàu có, không phải lo lắng cái ăn cái mặc.
Ngoài ra, họ còn được hưởng phúc đức từ tổ tiên để lại, làm tiền để vững chắc cho kinh tế sau này.
Trên đây là 7 Nốt ruồi phú quý của phụ nữ mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy. Cùng đối chiếu xem bạn có nốt ruồi nào trong các vị trí trên không nào. Nếu có thì chúc mừng bạn, vì bạn có thể có một tài vận tốt, phú quý và giàu sang rồi đấy!
Những bài viết liên quan:
+ 7 nốt nốt ruồi giàu sang phú quý trên cơ thể phụ nữ
+ “Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông
+ Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?
+ Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh
Chùa Thiên Mụ còn có tên gọi là chùa Linh Mụ. Đây là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, xã Hương Long cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Đã từ lâu, chùa Thiên Mụ nổi tiếng với 108 tiếng chuông. Hòa với phong cảnh thiên nhiên của sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền…, chùa Thiên Mụ, ngôi chùa nổi tiếng nhất đất cố đô đã đi vào tâm thức của bao người dân, tô đẹp, gắn bó và là một bộ phận không thể tách rời của người dân xứ Huế.
Tương truyền, Năm Tân Sửu (1601) Đoan Quốc Vương Nguyễn Hoàng nhân đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, khi đặt chân đến nơi đây thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ, trước cuốn nước trường giang.
Cảnh trí tuyệt đẹp trong bụng lấy làm thích thú bèn leo lên trên đồi cao ngắm nhìn bốn phía xung quanh, chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi, tìm hỏi người sở tại được họ tâu rằng: Núi này rất linh thiêng, đời nhà Đường có viên tướng là Cao Biền từng đi khắp đất nước ta xem những nơi nào có vượng khí linh thiêng thì cắt yểm đi. Cao Biền thấy trên núi này có khí thiêng bèn cho đào phía sau chân núi để cắt long mạch khiến cho về sau linh thiêng không tụ được…
Người dân địa phương nằm chiêm bao thường thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi nơi chùa tọa lạc ngày nay nói: Rồi sẽ có ngày chân một vị Chúa đến lập chùa ở đây để tụ khí cho bền long mạch, giúp nước Nam hùng mạnh. Hễ nói xong là bà biến mất. Sau khi vào trấn Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng một lần đi qua, nghe nói cả mừng, tự cho mình là chân Chúa, sai người cất dựng chùa, viết biển đề chữ Thiên Mụ Tự (Chùa Thiên Mụ).
Trước mặt chùa là khúc quanh rất hữu tình của dòng Hương Giang. Khuôn viên chùa được chia thành hai khu vực, khu vực trước cửa Nghi Môn gồm các công trình kiến trúc như: bến thuyền đúc bê tông có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây xát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện, sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vời vợi, hai bên đình có hai lầu bia hình tứ giác, lui về phía trong có hai lầu hình lục giác một lầu để bia và một lầu để chuông. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của Thiên Mụ, là một địa điểm không thể bỏ qua với mỗi du khách khi tới Huế.
Chùa không có nhiều tượng Phật như các chùa khác. Nhìn tổng quan, khuôn viên chùa như một cung điện, dinh thự của các bậc vua chúa, quan lại xứ Huế ngày xưa. Vãn cảnh chùa, du khách như đang đi vào không gian của trăm năm, thanh tịnh và thơ mộng. Khách bước qua khỏi cổng chùa đã thấy lòng lắng lại, tĩnh tâm, bỏ lại đằng sau những phiền muộn, lo âu…
Trong phạm vi chùa Thiên Mụ đâu đâu cũng toát lên một chút thơ, một chút mộng của xứ Huế. Mỗi công trình, kiến trúc dù được xây dựng dưới triều đại nào cũng đều thể hiện sự tín ngưỡng, trang trọng và hài hòa với những công trình trước đó.
Dù không phải là người tín ngưỡng, bước chân vào không gian này, khách như đi vào lối thơ. Kiến trúc hòa quyện với thiên nhiên như những cung bậc của thi ca. Người yêu thiên nhiên, đứng ở nơi này có thể sáng tác vài vần thơ. Một tiếng chuông trong vắt, một âm thanh đục của tiếng gỗ phát ra từ chiếc mõ nơi chánh điện cũng làm cho du khách như đang đi giữa không gian của Phật pháp.
Biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ là Tháp Phước Duyên. Đây là một Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi).
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Thiên mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Vua Thiệu Trị liệt cảnh chùa Thiên Mụ vào một trong số 20 thắng cảnh của đất thần kinh trong bài thơ đề là “Thiên Mụ chung thanh”.
Ngôi chùa hiện nay là một trong 16 công trình nằm trong danh mục Di sản văn hóa thế giới (1993) của quần thể di tích Huế. Ngày 28 – 8 – 2003, chùa đã khởi công trùng tu với kinh phí khoảng 15 tỷ đồng do Nhà nước cấp.
Đến với Thiên Mụ, du khách phật tử không khỏi cảm kích trước vẻ đẹp thiên nhiên, trước công trình đời xưa để lại với ngọn tháp hùng vĩ đứng soi mình trên dòng Hương Giang duyên dáng. Nơi đây, sớm chiều tiếng chuông chùa ngân vang vọng cùng với khói hương ngào ngạt tỏa ra giữa thanh không vắng lặng, đã hấp dẫn và say đắm biết bao lòng người xứ Huế, và du khách bốn phương. Tiếng chuông chùa Thiên mụ từ bao đời đã đi vào ca dao, để lại nỗi nhớ nhung trong lòng người xứ Huế và bạn bè gần xa thiết tha với Huế.
![]() |
Ảnh minh họa |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ |
Tranh thủ những ngày đầu năm mới, bạn và gia đình nên cùng nhau đi những ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng sau để cầu may mắn, an lành cho cả năm gặp nhiều may mắn. Đền Bà Chúa Kho, phủ Tây Hồ, chùa Hương, Bái Đính, Yên Tử… là những ngôi đền, chùa cầu may, cầu tài lộc linh thiêng ngày đầu năm.
Phủ Tây Hồ được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống những đình chùa ở Hà Nội. Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm Hà Nội thì đều đến thắp hương cầu phúc ở Phủ Tây Hồ để hi vọng một năm may mắn và an lành. Phủ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây.
Ở ngay đầu làng có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu (Thánh Mẹ).
Hàng năm cứ sau thời khắc giao thừa, khách hành hươngvề đây rất đông, vừa đi lễ Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn, vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Hồ Tây.
Theo dân gian truyền miệng thì, những người đi lễ đầu năm đến đền Bà Chúa Kho để vay tiền làm ăn kinh doanh trong năm mới để có được một năm kiếm thật nhiều tiền và kinh doanh thuận lợi. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp ai cũng cố vào được cửa Bà. Bằng mọi giá, mọi cách, họ phải khấn vái và đặt lễ được trước… mặt Bà. Có vậy Bà mới cho lộc, mới mở kho xuất tiền cho vay.
Mọi người lên lễ Bà Chúa Kho để vay tiền hoặc xin “lộc rơi lộc vãi”. Vay thì thủ tục khá rắc rối, phải qua nhiều ban bệ. Đa số mọi người lên xin lộc rơi lộc vãi nhưng năm nào cũng lên tạ lễ Bà đã phù hộ cho.
Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giới kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lễ bà Chúa kho, cầu mong một năm mới an lạc thịnh vượng và hạnh phúc.
Sở dĩ đền có tên là Bà Chúa Kho bởi đây chính là nơi tưởng niệm người phụ nữ Việt Nam đã có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã mất trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.
Cứ ngày 14 tháng riêng âm lịch hàng năm, Nam Định tổ chức lễ khai ấn Đền Trần, nơi thờ các vị vua đời Trần. Dù chỉ đêm 14 tháng Giêng mới khai ấn đền Trần nhưng mới mùng 7, mùng 8 Tết, phủ Thiên Trường Nam Định đã tấp nập du khách thắp hương, vãn cảnh đầu xuân.
Đền Trần là công trình thờ tự có từ lâu đời, thờ 14 vị vua triều Trần. Thế nên, dù Đền Trần có hơn hai chục ngày lễ nhưng Lễ khai ấn là đại lễ được mong đợi nhất trong năm. Theo tương truyền, ấn chỉ linh thiêng khi được lấy đúng vào 23 – 24h của ngày 14 tháng giêng. Vì vậy hàng vạn, hàng triệu người khắp nơi đổ về Đền Trần chen chúc, xô đẩy nhau cũng chỉ mong xin được ấn vào thời khắc thiêng liêng ấy.
Để xin được ấn vua ban lúc nửa đêm, người ta phải xếp hàng, xin thẻ từ trước đó rất lâu, hoặc đến thời điểm khai ấn.
Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám những ngày đầu năm khách ra vào nườm nượp cả trong nước cũng như nước ngoài. Khách chủ yếu là học sinh hi vọng sang năm mới chuyện học tập sẽ được suôn sẻ và thuận lợi. Sáng mồng Một đi xin chữ thánh hiền, lòng người như phơi phới và thanh tao, cả người cho lẫn người xin. Nhiều bậc cha mẹ cùng con cái ríu rít tới xin chữ.
Ấy vậy nên, các thầy đồ lấy bao nhiêu tiền một chữ, ai nấy đều vui vẻ rút hầu bao, không mặc cả thêm bớt như đi mua sắm món hàng hóa thông thường.
Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp 4 phương lại nô nứctrẩy hội chùa Hương diễn ra vào ngày mùng 6 tháng giêng và kéo dài đến tháng 3 Âm lịch. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Đền Trình Chùa Hương là nơi du khách không thể bỏ qua khi đến khu quần thể này. Đền Trình hay còn gọi là Ngũ Nhạc Linh Từ, là ngôi đền nhỏ nằm ngay bên phải của dòng Suối Yến, cách bến đò khoảng 500m, thuộc tuyến du lịch chính đi vào chùa Thiên Trù và động Hương Tích. Qua nhiều đời truyền lại, xa xưa đây chỉ là một ngôi đền nhỏ, thờ vị thần tướng đã có công đánh giặc Ân phù vua Hùng Huy Vương nhưng vô cùng linh thiêng. Hằng năm có rất nhiều du khách đến tham quan, cầu lộc, cầu may.
Chùa Bái Đính được biết đến như một nơi cầu may đầu năm yêu thích của nhiều người. Khi đi làm lễ cầu may đầu năm tại ngôi chùa này nhiều doanh nhân thường kết hợp với việc đi du lịch tại khu danh thắng Tràng An.
Nhung ngoi den, chua cau tai loc linh thieng dau nam moi-Hinh-2
Chùa Bái Đính hiện đang nắm giữ rất nhiều kỷ lục: tượng phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, tượng phật Di lặc bằng đồng lớn nhất, chuông đồng lớn nhất, chùa rộng nhất Việt Nam, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam, chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam, chùa có số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam…
Chùa Yên Tử nằm trên ngọn núi Yên Tử, độ cao 1.068m, thuộc huyện Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Dưới thời vua Trần Nhân Tông vào khoảng thế kỷ XIII nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo của Việt Nam do vua Trần Nhân Tông sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên, với pháp danh là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.
Ngày nay, chùa Yên Tử trở thành địa chỉ hành hương của nhiều Phật tử và những người theo tín ngưỡng đạo Phật, dịp đầu xuân năm mới du khách về đây để vãn cảnh và cầu may.
1. Dáng đi hình chữ (V) hai đầu bàn chân hướng ra 2 phía, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc văn nghệ.
► Mời các bạn tham khảo thêm: Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Táng Kinh có viết: “An táng phải dựa vào sinh khí”. Điều này có nghĩa là phải an táng người chết vào mảnh đất có sinh khí. Mảnh đất tụ được sinh khí thì ấm, không thì sẽ lạnh.
Mảnh đất cất mộ nếu phù hợp 4 nguyên tắc sau thì sẽ gọi là huyệt cát: “Long chân”, “Huyệt đích”, “Sa bao”, “Thủy bọc”.
Long chân: Chỉ mạch núi có sinh khí lưu động. Sinh khí trong đất là vô hình nhưng có thể biết được. Cổ nhân có câu: “Long mạch thật thì huyệt thật, long mạch giả thì huyệt giả. Xem hình thế của gò đất có thể biết được long mạch, tìm được long mạch”.
Huyệt đích: Chỉ việc tìm đúng “huyệt kết” sinh khí chảy không nhất thiết tạo thành huyệt kết tức huyệt tụ được sinh khí, không làm tản sinh khí.
Sa bao: Chỉ núi ở gần huyệt địa. Huyệt mộ được gò, núi bao bọc thì khí tụ.
Thủy bọc: Chỉ dòng nước, hồ ao, sông ngòi hoặc biển cả. Nếu trước huyệt mộ có dòng nước chảy từ từ làm khí không tản thì tốt. Kinh táng có câu: “Phép trong phong thủy được thủy là thứ nhất, tàng phong là thứ hai”.
Dân ta có câu: ''Nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chạy rông, nhất Nông, nhì Sĩ''. Điều đó chứng tỏ Nông nghiệp là lãnh vực quan yếu trong xã hội VN. Từ xưa tới nay, 70, 80% dân sô` người Việt sống về nghề nông, lam lũ! Nhà nông quanh năm vất vả với ruộng đồng, nương khoai! Do đó, Tết chính là dịp được nghỉ ngơi, thư thả.
Để đón Tết, người VN chuẩn bị rất công phu, chu đáo. Ở thành thị, có thể là xa hoa, đài các, nhưng ở thôn quê, đặc biệt là ngày xưa thì êm ả, ấm cúng. Người ta lo lắng, bồn chồn, nhiều gia đình dành dụm cả năm, sau khi đã thanh thỏa nợ nần, cũng mong sao còn một chút...lo Tết. Lỡi Tết ...chính là mối ưu tư lớn nhất của nhiều gia đình (nghèo khó) ở thôn quê. Vay nợ, chịu ơn người ta suốt năm, nay ...Tết là dịp, phải...đền ơn, đáp nghĩa thế nào?
Những gia đình giầu có thì ngay từ đầu tháng chap đã chẻ lạt, gom củi nấu bánh chưng, gói giò. Người ta bắt đầu mua đủ thứ...Gạo nếp, lá dong, thịt heo, hành tỏi. Bắt đầu o bế những chậu Cúc, chậu Trà, Quất, Hải đường, Mai vàng hay Bích đào (chỉ có hoa đỏ, không có quả).v.v. Sao cho kịp nở đúng vào ngày Tết. Một số người còn nặn sẵn 3 ông 'Đầu rau', béo mập, oai phong. để thay thế những ông bị bể đầu, vỡ mặt! Hàng phe, hàng giáp thì định ngày hội họp, chia cỗ, chia phần theo lệ làng: Đinh, Tráng, Lão Bà, Lão Ông. Những gia đình không khá giả lắm thì chung nhau 'đụng lợn' để có tí thịt, làm nhân bánh chưng hay gói giò, làm ...cỗ Tết. Nơi đình làng, ông Thủ Từ đã bắt đầu lau chùi đồ thờ, mua sắm vàng, mã cùng cờ xí, trống, chiêng, chuẩn bị cho Lễ hội có toàn dân tham dự. Nhiều làng xóm còn có tục thi chọi trâu, đấu vật, đánh cờ (người) hay trò chơi muá rối (hình nỗm cử động bằng dây do người điều khiển) trên mặt hồ, mặt ao, cũng hào hứng lắm.
Tết VN còn có nhiều tục lệ đáng ghi:
- Tiễn Ông Táo... Ông Táo phải về Trời để báo cáo Thiên Tào, Ngọc Đế, tất cả những gì đã xảy ra ở Trần gian trong năm qua, ông về Trời vào ngày 23 tháng chap. Ông là người cai quản 'Bếp' trong mỗi gia đình. Lễ tiễn ông là mâm quả cùng với con cá chép (còn sống, thả trong chậu nước, hoặc bằng giấy) làm phương tiện cho ông bay về Trời cho lẹ, cho oai.
- Chơ Tết... .. Ta có câu ...Vui như...chợ Tết. Ngày Tết càng gần thì 'Chợ Tết' càng tưng bừng, náo nhiệt. Những 'Phiên chợ' của tháng cuối năm như nhộn nhịp hơn nhiều, có nơi chỉ tổ chức duy nhất một lần trong tháng. (Miền Trung châu Bắc Việt có 'Phiên Chợ Huyện' là nổi tiếng của Tỉnh Thái Bình, họp vào ngày 29 Tết). Một số người mua thường chờ đến chợ phiên mới mua sắm đủ thứ, họ biết chắc...cái gì cũng sẽ có và...thế nào cũng rẻ hơn, vì... ai cũng mong bán cho hết, tránh bị ám ảnh bởi......''ì ẩm'' cuối năm! Xui lắm!! Ai ghiền bói toán, xem tranh hay có cái thú coi các cụ Đồ bán chữ.v.v.v. Cứ đến 'Chợ Phiên' là có tất cả.
- Cây Nêu... Chiều ngày 30 tháng chap là thời gian chót cho những nhà muốn dựng 'Nêu'. Đó là một cây tre, chặt từ gốc, cố giữ nguyên ngọn, trên đầu ngọn tre, treo một cái mũ (nhỏ), một xấp giấy vàng, vài cái khánh bằng đất nung, lủng lẳng trên không, gío thổi, khánh đụng vào nhau, kêu leng keng, ai nghe, biết ngay là nhà có chủ. Những nhà không dựng nêu, họ thường buộc lá cây (dừa, dứa) ngoài ngõ, có nhà rắc vôi bột, hình cái cung, ngay trườc sân, ai đến, nhìn thấy hình cung, đừng vô nếu không quen biết, cả ma qủi cũng chẳng dám vô. Nhớ một điều: Phải hạ Nêu trong ngày mồng 7 Tết, không..thì xui tàn mạng!
- Giao thừa... Dựng Nêu xong thì chuẩn bị đón Giao thừa.(Thời điểm trao cái cũ, nhận cái mới). Đêm này còn được gọi là 'Đêm Trừ tịch' (Trừ là thải, là bỏ, tịch là đêm tối). Lễ giao thừa được tổ chức khá long trọng tại tư gia, Đình làng hay Miếu, Am, Đền, Chùa. Giờ phút giao thừa rất là ồn áo, náo nhiệt, chuông trống inh ỏi, pháo nổ vang trời. Nơi Đền, Chùa thì khói nhang nghi ngút, trai thanh, nữ tú, lui tới tấp nập. Các Giáo đường thì chuông trống vang dội, với Lễ nửa đêm, tràn ngập Tín hữu, cất cao những lời ca trầm bổng, nguyện cầu cho Thế giới bình an, Nhân loại Hạnh Phúc..
--Xuất hành... Lễ giao thừa xong, nhiều người rủ nhau đến Chùa, Miếu để xin xâm, hái lộc. Xuất hành là chuyện rất quan trọng, nên người ta phải chọn...Hướng và Giờ xuất hành cho cẩn thận. Giờ...lúc ra đi phải hợp với giờ, với sao của người xuất hành, không được...kỵ, không được khắc. Nếu chẳng may...kỵ, khắc, đã không hên, còn...xui!
--Xông nhà... Xuất hành quan trọng thế nào thì xông nhà cũng quan trọng không kém. Những gia đình đông con, thường chọn đứa con nào...hiền lành, khôn ngoan, tốt...Viá nhất (...Vía là gì? Vía là cái Linh của mỗi người, Nam giới có 7 Linh, Nữ giới có tới 9 Linh lận - Nhiều người hay nói...Sợ hết viá...), để nó là người xông nhà trước nhất. Nếu không ưng ý đứa con nào thì nhờ bạn bè hay người hàng xóm cũng được, để họ mang sự may mắn đến cho gia đình.
--Kiêng cữ... Tết là dịp phải kiêng kỹ nhất. Thận trọng từng lời nói, cử chỉ. Tránh cau có, gắt gỏng hay la lối, giận hờn. Tránh nói con...khỉ (nhất là năm nay lại là năm...Khỉ), con hùm, con beo! Đừng đánh vỡ bát chén, đặc biệt nhà nào có người hút thuốc lào thì chớ làm đổ nước điếu...Xui vô cùng! Tránh mặc áo trắng, sợ có tang và điều sau đây, có lẽ nhiều người dễ mắc phải...Đó là phải kiêng hốt rác. Cố kiêng quét nhà trong ba ngày Tết, lỡ mà có nhiều rác thì dồn tạm vào một xó nào đó, chờ hết động thổ (3 ngày), hãy hốt đổ đi, không thì...xui cả năm đấy!
Tết Nguyên Đán là Tết trọng nhất trong năm, Đây là dịp người ta tụ họp lại cùng nhau sau một năm dài lưu lạc. ''Dù ai buôn bán đâu đâu, nhớ 3 ngày tết, rủ nhau mà về''. Tết cũng là dịp ăn uống thả dàn, vui chơi thỏa thích, đánh cờ, đánh bạc, cá ngựa, lôtô, xổ số lấy hên, ai cũng muốn thử tài, thử vận. Nhất là trẻ con, xin qúi vị đừng quên ...lì xì cho chúng, ít cũng được, miễn là có, không thì chúng.. tủi lắm!!!
Đền Lý Bát Đế nằm tại xóm Thượng, làng Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây hàng năm sẽ tổ chức một lễ hội hoành tráng kéo dài 3 ngày bắt đầu từ ngày 14-16 tháng 3 âm lịch. Tuy ngôi đền này không có phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ nhưng lại lưu lại nhiều nét văn hóa cổ kính, độc đáo.
Đền Lý Bát Đế hay còn có tên gọi khác là Đền Đô hay Cổ Pháp điện là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý:
Đền nằm cách thủ đô Hà Nội gần 20 km về phía Bắc, thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nên còn gọi là đền Cổ Pháp (Cổ Pháp Điện). Năm 1991, Đền Lý Bát Đế công nhận là di tích lịch sử – văn hóa.
Từ xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng “tam cổ”: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp”. Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng Cổ Pháp được cho là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm.
Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng Ba năm Canh Ngọ 1030 bởi Lý Thái Tông khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm thứ hai niên hiệu Hoàng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm 1602), khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, quân Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền. Đến năm 1989, đền đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ.
Đền Đô rộng 31.250 m², với hơn 20 hạng mục công trình, chia thành: nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện. Chính điện gồm trước tiên là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Sau cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.
Trong nội thành còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có nhà bia, nơi đặt “Cổ Pháp Điện Tạo Bi” (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Khu ngoại thất đền Đô gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền Lý Bát Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc “năm đồng vàng” và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay.
Nhà văn chỉ ba gian chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có công lớn giúp nhà Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng), v.v…
Lễ hội Đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009), ban “Chiếu dời đô”. Đây là ngày hội lớn mang tính quốc gia, thu hút hàng vạn khách hành hương thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó còn là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Mơ thấy dùng lược chải đầu, cuộc sống sẽ hạnh phúc ấm no.
Mơ thấy tóc người khác mọc dài là bạn đang có chuyện buồn chán chưa giải quyết được và muốn ở một mình.
Nếu mơ thấy tóc dài màu trắng, bạn sắp gặp phải chuyện buồn. Trong khi đó, mơ thấy tóc ngắn, có thể gặp đen đủi một thời gian ngắn.
Nếu con gái mơ thấy tóc mình mọc dài ra, là dấu hiệu cho thấy tình cảm tốt, hai người yêu thương nhau, hạnh phúc dài lâu. Nhưng mơ thấy rụng tóc, cắt tóc, là điểm báo bạn có thể chia tay. Bạn gái mơ mình bị ai túm tóc lôi đi, thì có thể bạn phải rời xa người mình yêu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Về khoa Tử vi, có cả ngàn chuyện lý thú, kể ra hoài hoài không sao hết được. Trong những câu chuyện lý thú, lại có những kinh nghiệm ly kỳ, làm đề tài thảo luận cho những vị mê Tử vi. Vì Tử vi là một khoa rất khó, bao la, đòi hỏi những kinh nghiệm cả mấy chục năm đối với những người say sưa nhất, cho nên chúng tôi đã thỉnh các vị tài ba nhất về Tử vi để nêu lên đây những câu chuyện về Tử vi để cống hiến quý vị.
Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây có thường xuyên trong mỗi số báo, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những “cách” có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến gia giảm, mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng.
Bởi thế, chủ đích của chúng tôi là nhân những câu chuyện, nêu lên một số những kinh nghiệm để làm đề tài thảo luận và trao đổi sự am hiểu giữa các quý vị, cũng như góp thêm kinh nghiệm với những vị đương theo dõi Tử vi, đương thích Tử vi.
Với những bạn đọc chưa biết Tử vi, xin cứ đọc những câu chuyện sau đây xuất hiện hàng tuần để tìm những hứng thú và để thích Tử vi. Rồi một thời gian sau, chúng tôi sẽ xin trình bày với quý vị các cách lấy số Tử vi (phép lập thành, phép tính nhẩm và nhanh) cùng với các phép giải đoán (đã được hệ thống hóa)
CỤ HOÀNG HẠC.
Tôi lấy một thí dụ: tôi có coi cho một anh bạn buôn bán làm ăn. Tôi bảo: đúng vì “Tài đa hóa Quỉ” nghĩa là cầu tài mà ứng trên mặt quẻ, toàn là hào tài và tài hào thái vượng, tôi bảo coi chừng tiền vô như vậy…thì sẽ phải trái lại bị họa ương. Anh bạn tôi (hiện là một kỹ sư) không nghe. Anh ấy bảo với tôi rằng: “công việc này là việc làm của kẻ khác, nhưng mình chỉ “hùn” miệng thôi, nếu thành công thì mình ăn chia, còn thất bại thì thôi. Nhưng mà anh ta về bàn với chị vợ. Chị vợ bảo: “Ối, anh dị đoan, tôi xin xâm trên Lăng Ông, ông thầy đoán nói là Đại tài mà. Để đó cho tôi, sắp tiền chia đây.
Vợ chồng ông kỹ sư không tin
Anh chồng thì hơi tin và lo sợ vì tôi miệng ăn mắm ăn muối nói “ẩu” nhưng rồi có khi trúng bất tử, và anh ta đã được nhiều lần chứng kiến việc ấy. Nhưng khi anh ta nghe vợ nói, thì cũng tin: Biết đâu “lạc quẻ”?
Vì thấy số bạc ngon lành quá, dại gì nghi ngờ, cứ tin xăm ở Lãng Ông là phải. Chẳng bao lâu, anh lãnh một số tiền lời, chạy lại cho tôi hay, như cố ý bảo tôi rằng tôi đã coi sai. Hai vợ chồng lấy tiền ấy mua xe hơi, xe kéo cho mướn, khai thác cả số tiền, vì trong bụng cũng ngán là “đồng tiền” ấy nó hóa “quỷ” như lời tôi dã nói. Nhưng một hôm vợ anh chạy hơ hải lại tôi cho hay rằng chồng chị đã bị bắt.
Người vợ ông bạn kỹ sư (nay đương đóng một chức vụ khá lớn) chay hơ hải đến tôi:
- Anh ơi! Nhà tôi bị công an mời, rồi giam luôn. Bây giờ làm sao đây?
- Thì cứ ở tù một thời gian đi. Rồi sẽ được thả, chứ có sao?
Chi ấy la to:
- Anh cứ diễu hoài. Tôi lo gần muốn chết rồi đây.
- Thì biết làm sao? Tôi đã bảo rằng “tài đa hóa quỷ”, vì công việc đã đến mức hoàn thành rồi, trái cây chín muồi thì rụng. Luật “nhân quả” đã kết rồi thì rụng. Ông trời xuống cũng không làm gì được.
- Nói vậy thì nhà tôi phải bị ngồi tù à? Họ cho mời rồi giữ lại điều tra, chứ chưa có giấy tống giam.
- Tôi không biết. Chỉ biết là anh bị “Quỉ” động, nhưng Quỉ là quỉ Câu Trận thì bị lính bắt và bị quản thúc cho nên nói là giữ lại để điều tra, thì cũng là một lối giam chứ gì nữa, nghĩa là mất tự do, dù là tạm.
- Bây giờ làm sao?
- Thì tiền.
- Nghĩa là gì?
- Nghĩa là lấy cái “tài” bị hóa “Quỉ” kia vụt nó ra khỏi nhà thì êm.
Chồng ông kỹ sư trả quả
- Làm sao vụt ra?
- Bây giờ tiền bạc mà hai ông bà đã lãnh về, đã tiêu xài bao nhiêu rồi.
- Chúng tôi lãnh 500.000 đồng.
- Rồi xài hết bao nhiêu?
- Chúng tôi “tậu nhà” và mua một mớ xe kéo cho mướn.
- Vậy hãy bán cái nhà ấy và xe kéo kia và lấy đem nạp cho các ông bắt chồng chị…À quên dặn, đã ăn xài cho bản thân là bao nhiêu trong số tiền ấy.
- Tụi tôi tiệc tùng khai trương nhà mới và ăn xài lối vài vạn bạc thôi.
- Thì cũng chạy vay bợ một số tương đương ấy để “lo” thì mới tiêu tai.
- Trời ơi, tôi bây giờ không còn một đồng trong nhà. Bán cả thảy cũng không không sao đủ, vì bán gấp ai thèm mua giá cao.
- Liệu lấy. Hễ hai ông bà làm sao cho tiêu hết số bạc thì mới hết nạn, bằng không thì chả làm gì cả. Phải chịu nợ rồi, là để trả lại cái “bất lương” và cũng là cái mà số mình không được quyền hưởng. Sở dĩ được hưởng là nhờ thủ đoạn, thì nên trả bằng hai. Nghĩa là chịu khó “ăn gạo lức” một thời gian.
Bà vợ kỹ sư về nhà toan tính lo lót nhưng cũng không xong. Chồng à bị giam mãi…Tức quá bà chạy lại tôi:
- Tôi bán tuốt hết rồi! Sao lại chẳng ra được?
- Nếu chưa ra là vì chưa chả dứt bởi còn trả liền lời nữa.
- Nói thật với anh. Tôi đã cậy trạng sư lãnh ra, nhưng chưa trả tiền vì khất nợ, khi nào nhà tôi ra, chúng tôi sẽ còn trả cho trạng sư nữa.
- Vậy thì đi vay và trả tiền cho trạng sư đi.
- Không! Trạng sư này là bạn thân của nhà tôi.
- Không được, phải đem tiền trả lập tức! Cãi tôi thì ông anh ráng ngồi khám chờ cho bà vợ “thương” đến và hy sinh thêm một chút nữa. Bằng tiếc tiền, cãi tôi, thì xin chị đừng phiền nhé, xin chị đừng đến tôi nữa làm gì. Trước đây chị đã bảo với chồng chị rằng tôi nói ẩu. Thôi chị đi về đi, để nằm nhà chờ ông “trả quả”.
Cách tuần sau, anh kỹ sư của tôi được trả tự do, hai vợ chồng đến cảm ơn tôi.
Tôi bảo:
- Có gì cảm ơn!
………..(bị mất trang)
…anh nhất là Đào Hồng đây lại gặp Kỵ, tôi xin lỗi nói và anh cũng thông cảm cho đừng giận: anh đi tu rồi bỏ đàn bà cho ai? Đây 3 điểm là nghiệp anh nặng lắm”. Thứ nhất, cung phối có Tả Hữu chiếu, nhất là có Hóa Kỵ chánh chiếu, việc vợ chồng đủ mệt cho anh. Huống chi Thân Hồng, Đào ngộ Kỵ…thì là kẻ mê dâm…
Đó là điều khó nhất gần như nan giải.
Điểm thứ hai: Mạng anh là mạng vô chánh diệu thì đầu não bất định mà tâm tư cũng không định hướng. Thứ ba: mạng ngộ “Phục binh, Kiếp sát” cùng “Thiên Di” lại bị Tướng quân ngộ Triệt, thì tôi e anh khó thoát các nạn bị ám sát vì anh đa mưu quá. Anh bị cả hai định mạng đau đớn và khó gỡ, nhất là “gian hùng” dù lắm khi anh muốn chạy trốn nó, nhưng rồi anh cũng bị cái “định mạng bên trong” (destinee interieure) là tâm tính anh nó càng làm cho anh dễ sa vào oan nghiệt càng ngày càng tăng. Anh không nên đi tu một mình mà phải kiếm một hoàn cảnh thanh cao trong sạch, gần các bạn tốt để cùng hưởng một thứ Cộng nghiệp (tức là nghiệp chung) của một tu viện, chứ không nên vào những chỗ tên gọi là tu viện mà thích làm chính trị chứ không phải để tu. Như vậy, may ra có giảm được chút nào cái oan nghiệt của anh chăng?
Nhưng anh nên để ý kỹ rằng tiểu hạn năm Ngọ sắp tới hạn ngộ Trúc la lại Mạng vô chánh diệu Đào Hồng Suy Tuyệt. Đào Hồng của anh gặp Mộ, Tuyệt tức là “nô lệ chi địa”…”e tánh mạng nan toàn”…Anh bạn tôi buồn thiu. Ngồi một hồi đứng dậy ra về, nói:
- Tôi đi tu!
Định mạng
Việc đã qua, cách mấy năm thì bỗng một hôm người trong thân của anh đến cho tôi hay: anh ấy ra ngoài Trung và vào một ngôi chùa tu nhưng mới vừa nghe tin bị đạn lạc chết.
Các anh em trong xóm nghe tôi nói xong, hỏi:
- Ai vậy?
- Bí mật nghề nghiệp. Xin cho tôi không nói ra: “từ giã biệt luận”. Nói xong là anh đi tu, nhưng anh không mặc áo cà sao, anh chỉ quyết tâm sửa “số” thôi, chị vợ của anh đâu có cho anh cạo đầu. Thoe anh là một nhà trí thức đã từng phú quí hết sức vì mạng anh là “phú quí khả kỳ” nhưng anh có gan bỏ tất cả phú quý ấy (anh có một biệt thự, có một chiếc xe hơi Hòa Kỳ lộng lẫy, nhất là có một cô vợ nhỏ “đẹp người” nữa, nhưng nếu anh bị tù tội còn đỡ, vì chỉ có 3 cái thứ họa, một là “đau nặng”, hai là bị “ở tù”, 3 là “chết”.
Người ta “sức mấy” mà chống lại với số mạng một khi cái Nghiệp mình nó nặng như thế? Các bạn nghe lời kể chuyện bèn người nào người nấy không ăn nói gì với ai nữa và dường như mỗi người đeo đuổi theo một ý tướng gì…mông lung.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử vi không ít.
Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1. Sinh bất phùng thời :
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )
2. Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :
- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )
- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3. Đời là bể khổ : Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...
4. Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”
Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5. Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :
– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?
6. Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7. Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8. Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9. Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10. Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)
Tinh, Diệu, Thần
Tử Vi không phải là một khoa chiêm tinh thuần túy. Vẫn biết rằng khi tính Tử Vi phải xét đến trên một trăm vị sao, nhưng cũng còn phải xét đến các yếu tố khác như Âm Dương, Bát Quái, Ngũ Hành sinh khắc... Vì thế, có thể quan niệm Tử Vi là một "Vũ trụ luận".
Luận về sự tương quan của tất cả các yếu tố trong vũ trụ ảnh hưởng đến con người. Các vị "sao" chỉ là một trong nhiều yếu tố. Vì vậy mà trong Tử Vi, có một số tên gọi không phải để chỉ vào một "ông sao" nào.
Thí dụ như: Thiếu Âm, Thiếu Dương là để chỉ về một khí lực trong vũ trụ trong Tứ tượng (Thái Âm, Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Âm tiêu Dương trưởng) chứ nào có phải để chỉ vào một "ông sao" Thiếu Dương, Thiếu Âm.
Lại thí dụ như: Thanh Long, không phải là tên gọi một "ông sao" Thanh Long, mà để chỉ về một khí vận, khí lực chung của một chòm sao, tính cách của khí vận ấy được đặt tên là Thanh Long. Ví như trong Tử Vi Tây Phương, Hải Sư không phải là một "ông sao" Hải Sư. Mà đó là cái khí lực khí vận của một chòm sao. Khí vận, khí lực ấy được đặt tên là Hải Sư, chứ nào có một ông sao Hải Sư.
Từ nhiều năm nay tôi đã gắng công sưu tầm tài liệu để lập một bản "Thiên Đồ" gồm đầy đủ các vị sao để so sánh với các tên gọi trong Tử Vi. Các tài liệu mà tôi thu thập được, tuy chưa đầy đủ cho lắm, nhưng khả dĩ giúp tôi tin chắc rằng có nhiều tên gọi trong Tử Vi không dùng để chỉ một "ông sao" nào. Tử Vi không phải là khoa chiêm tinh thuần túy. Khoa này còn luận cả về những yếu tố khác, nhưng tinh lực khí vận khác trong vũ trụ có ảnh hưởng đến con người.
Tôi cũng có thói quen sưu tầm những lá số Tử Vi đã được lập thành, và luận đoán bởi các bậc túc nho thuộc thế hệ trước, hoặc tìm cách liên lạc với các bậc nho học uyên thâm Tử Vi để thu thập các quan điểm các nhau. Do đó, tôi được biết một quan niệm về Tinh, Diệu, và Thần
Chữ "Tinh" là để gọi đích danh vị sao ấy. Thí dụ như: sao Tham Lang, Cự Môn...
Chữ "Diệu" là để chỉ riêng về một khía cạnh, một phương diện của vị sao ấy. Thí dụ như ngôi sao Phục Vị ở trên trời chỉ là một, chiếu xuống đến chúng ta, lại thành ra hai ảnh hưởng khác nhau một chút, đó là Tả Phụ và Hữu Bật. Cũng như Kình, Đà là hai khí lực, luôn luôn ở quanh Lộc Tồn.
Chữ "Diệu" chỉ để nói về một khía cạnh, một phương diện, một phần ảnh hưởng của vị sao. Có thể ví như cùng là một nguồn sáng từ mặt trời qua một lăng kính, chúng ta thấy có bảy màu khác nhau: màu tìm, màu chàm, màu xanh, màu xanh lá cây, màu vàng, da cam, đỏ. Nhìn vào chỗ này ta thấy màu xanh, nhìn vào chỗ khác, ta lại thấy màu đỏ. Xanh và đỏ tuy khác nhau, nhưng xét về nguồn gốc thì vẫn là một. Vì vậy, ở trên trời có một ngôi sao Phục Vị mà đến quả đất chúng ta thì có hai "Diệu" Tả Phụ và Hữu Bật. Cũng như ở trên trời, ánh sáng mặt trời chỉ là một, mà qua đám mây, hoặc qua một đám mưa, chúng ta có thể thấy nhiều màu sắc khác nhau, có khi phân ra đến bảy màu.
Do những yếu tố trợ lực, những sự chuyển biến tương tự mà bộ Tứ Hóa (Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ) là "Diệu" chứ không phải là "Tinh" hay "Thần". Với thiên can Mậu thì Tham Lang có thêm một sự chuyển động về Lộc (Hóa Lộc, chuyển động này đưa đến kết quả tốt hay xấu cò tùy sự kết hợp với các yếu tố khác). Với thiên can Mậu thì Thái Âm có thêm một sự chuyển động về Quyền. Chứ không phải là hễ gặp tuổi Mậu thì "ông sao" Hóa Lộc di chuyển đến ở chung với ông Tham Lang, còn "ông sao" Hóa Quyền thì dọn nhà đến ở chung với... bà Thái Âm.
Khi đã định rõ sự khác biệt giữa Tinh và Diệu, khi đã có một quan niệm rõ về Tứ Hóa thuộc loại Hóa "Diệu", lúc ấy mới hiểu được một cách luận đoán tỷ mỷ về sự khắc hợp.
Bàn về sự khắc hợp giữa vợ chồng cha con
Mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Lấy thiên can tuổi ủa người vợ, tính xem bộ Lộc Tồn, Kình Đà, Khôi Việt, Tuần Triệt, Tứ Hóa nằm vào những cung nào trong lá số người chồng. Tuy là hợp nhau nhưng cũng không ai được thập phần hoàn hảo. Lợi nhiều về điểm này thì có sự sút giảm chút ít về cung khác. Thí dụ mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Cung Tài trong lá số người chồng có Lộc Tồn. Do ảnh hưởng của Thiên Can tuổi người vợ lại được thêm Hóa Lộc chiếu vào cung Tài, thì sự hợp này sẽ có thêm tiền tài... cứ như thế mà kết hợp các "sao" để gia giảm các cung khác.
Thí dụ cụ thể: người chồng tuổi Canh Tuất, sinh tháng 6, ngày 4, giờ Dậu, người vợ tuổi Nhâm Tý.
Canh Tuất thuộc Thoa Xuyến Kim, Nhâm Tý thuộc Tang Đỗ Mộc thấy có sự tương khác dù là khắc ít. Cung Thê của người chồng có Đồng Lương Lộc Mã, gặp Không Kiếp đắc địa, có Tang Điếu Hư Khốc, Hóa Kị. Người vợ tuổi Nhâm thì sao Thiên Lương ở cung Thê người chồng có thêm ảnh hưởng của Hóa Lộc (Hóa "Diệu"). Hai vợ chồng lục đục với nhau suốt đời, nhưng vẫn ăn nên làm ra, có sự nghiệp vững vàng cho đến lúc chết. Trong cái khắc vẫn có khi có điểm lợi.
Phương pháp luận đoán này của Cụ tôi, và một số người nghiên cứu Tử Vi trước kia vẫn áp dụng, thấy rất thâm thúy. Tuy nhiên, cần có một tâm hồn quảng đại và cần có quan niệm rõ ràng rằng Thiên Can của người hôn phối chỉ tạo nên ảnh hưởng tương đối, chứ không tạo nên ảnh hưởng quyết định. Lá số của mình vẫn có ảnh hưởng chính yếu. Đừng vì thấy Thiên Can của người hôn phối tạo nên Triệt ở Mệnh Thân của mình mà đi đến những ý nghĩ cố chấp, những thành kiến thất đức. Trong cái khắc vẫn có những điểm lợi về những phương diện khác. Dù có gặp sự khắc thì cũng tìm biết được điểm lợi những phương diện nào để phát triển thêm. Tôi sẽ viết thêm về cách luận đoán này để bạn có thể tìm nguồn an ủi, nhìn thấy rằng trong cái khắc vẫn có điểm tốt, điểm lợi, do đó sẽ tránh được những ý nghĩa hẹp hòi.
Trong bài này, tôi hãy xin nói về Tinh, Diệu, Thần.
Chữ Thần là nói chung về Thần khí do nhiều ngôi sao hợp lại, hoặc là chỉ về một khí lực trong vũ trụ chứ không phải là chỉ riêng một ngôi sao nào. Thí dụ như Thanh Long không phải là một "ông sao" mà là khí lực của một chòm sao. HOặc như là Thần khí, trong quẻ Dịch, chúng ta có Nhật Thần, đây là Thần khí của cái ngày đó, chứ không phải nói về một ông sao nào.
Vòng Tràng Sinh cũng gọi là Thập nhị Thần, là mười hai khí lực, thần khí, chứ không phải là mười hai ông Thần. Riêng về vòng Tràng Sinh tôi xin nói thêm ở đoạn sau bài này.
Tinh, Diệu, Thần tuy ba mà một, tuy một mà ba. Vì thế tôi phải lấy tên của bài này là "Sao không phải là Sao". Xét về tác dụng, thì cả ba đều có ảnh hưởng đến vận mệnh con người nên gọi chung là "sao" cho tiện. Xét về căn nguyên thì có khác nhau. Xét về căn nguyên sẽ có cái lợi là đưa người nghiên cứu đến chỗ lý giải có ý thức, có quan niệm mạch lạc về các phương hướng, vai trò, các yếu tố trong một lá số. Chứ không phải chỉ đoán đúng một vài tiểu tiết nhờ thuộc lòng một số công thức, hoặc đung đâu đoán đó, rồi nhờ "ông ứng" vẫn tiên tri như Thần.
Tôi quan niệm rằng tư tưởng hướng dẫn hành động. Xem Tử Vi thì cần có một quan niệm rõ rệt về công dụng, về giá trị của Tử Vi: nó là cái khoa gì, dùng nó trong trường hợp nào cái tên gọi trong Tử Vi là cái ngụ ý gì...
Sở dĩ người xưa xem Tử Vi chỉ nói một câu mà đúng chung thân cuộc đời, là nhờ có một tinh thần diễn dịch rộng rãi, một quan niệm thâm thúy về các tên gọi trong Tử Vi. Chứ không phải là chỉ dựa vào công thức, thấy Song Hao hãm thì nói là hao tài, thấy Song Lộc thì đoán là có tài lộc. Việc này quý bạn nào mới nhập môn Tử Vi cũng có thể đoán được.
Trong cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" xuất bản tại Đài Bắc, tác giả có nói rằng Tinh, Diệu, Thần, tuy ba mà một, đó là xét về tác dụng. Xét về căn nguyên, chúng ta sẽ có một sự diễn dịch thâm thúy hơn.
Cũng trong cuốn này, tác giả có kể đến Thập cửu chính diệu, đó là: Tử Cơ Dương Vũ Đồng Liêm Phủ Âm Tham Cự Tướng Lương Sát Phá Tả Hữu Xương Khúc và Tồn.
Xin quý bạn Tử Vi đừng vội hoang mang trước quan niệm này. Tôi không đề cao cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" như một "Thần Thư" làm tiêu chuẩn để đi tìm chân lý Tử Vi. Tôi chỉ muốn dẫn chứng rằng Tử Vi không phải chỉ gồm có một số công thức giản dị, mà còn có nhiều sự diễn dịch sâu xa của nhiều học giả lý số khác nhau. Điều cần thiết là một sự bình tâm nhẫn nại tìm hiểu các quan iệm rồi từ các quan niệm ấy, chúng ta sẽ tiến đến việc nghiên cứu Tử Vi một cách có ý thức chứ không phải chỉ vội vã áp dụng các công thức một cách nông cạn. Từ quan niệm "Mệnh vô chính diệu dĩ Mệnh vi chủ, đối tinh vi Tân" đến quan niệm Mệnh vô chính diệu, có hung tinh sát tinh nổi bật, đến quan niệm Mệnh có chính tinh mà bị khắc hãm quá, vai trò của chính tinh bị suy yếu, lu mờ, nên ví như vô chính diệu, phải xét đến các phù trợ tin khác, có biết bao nhiêu quan niệm tế nhị, mà người nghiên cứu cần tìm hiểu thêm. Không thể vội cố chấp vào cuốn sách này, hay công thức nọ.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí - số 35
Đại để những dự triệu biết trước các việc cát hung đã nẩy mầm ngay ở nơi tâm khi dấy khởi động niệm và phát xuất ra ngoài tứ chi, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc chỉ tham đồ cho riêng mình thường gặp họa. Người trần con mắt phàm nhãn quang bị che lấp nên không thấy được mà cho rằng họa phúc chưa nhất định hình thành thì không thể suy đoán trước được.
Một người có lòng chí cực thành thật là tương hợp với lòng trời, nên chỉ cần quan sát xem họ làm những điều thiện hay bất thiện thì đủ biết trước được là họ sẽ gặp phúc hay họa tới.
II– Nền tảng của việc sửa lỗi
1. Lòng xấu hổ
Ngày nay, muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều thứ nhất cần phải biết tri sỉ, biết tự hổ thẹn. Nên biết rằng các bậc thánh hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta sao lại chịu thân tàn hủ bại. Đó là tự mình đắm say ngũ dục lục trần, nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa mà cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một ngày càng sa đọa vào vòng cầm thú mà chẳng tự biết.
Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự sỉ, biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi.
2.Lòng úy kính
Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Thiên địa quỷ thần khó mà có thể khi dễ, lỗi của chúng ta tuy ẩn nhẹm, kín đáo người đời không biết mà thiên địa quỷ thần đều có thể soi xét thấu rõ, nặng ắt sẽ giáng trăm điều tai ương, nhẹ ắt sẽ giảm phúc được hưởng. Chúng ta há chẳng đáng nên sợ hay sao!
Không những chỉ có vậy, ở những nơi thanh nhàn vắng vẻ chỉ riêng có độc một thân một mình cũng đều là bị quỷ thần giám sát, che đậy thật khéo mà thần minh cũng đã sớm thấu rõ đến tận gan phổi của mình, vậy nên khó mà có thể tự lừa dối lấy mình mãi mãi được; một khi bị người đời phát hiện sự dối trá che đậy giấu nhẹm của mình thì lúc đó thân phận mình chẳng đáng giá lấy một đồng xu. Vậy há không nên e dè úy kính hay sao!
Không những chỉ như vậy, khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều có thể sám hối cải sửa. Người xưa một đời làm ác, lúc gần lìa đất xa trời, phát một niệm thiện, thành tâm hối lỗi, bèn được an lành từ giã cõi đời, nên nói là chỉ một niệm dũng mãnh thật chí thành đủ để tẩy sạch được trăm năm tội ác, cũng tỷ như một hang cốc tối tăm hàng ngàn năm bỗng có một ngọn đèn chiếu rọi tới thì ngàn năm tăm tối đó đều bị tiêu trừ, cho nên không cần biết là tội đã phạm từ lâu nay, hay mới phạm gần đây, chỉ có phát tâm cải sửa mới là điều quý.
Bất quá cõi trần là vô thường không nhất định, thân huyết nhục dễ bị hủy hoại , nếu cứ cho là làm lỗi có thể sửa được mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó mới muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng e dè sợ sệt hay sao!
3. Lòng dũng mãnh
Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi, đa số là vì phóng túng biết lỗi đấy mà bỏ đấy nên bị thoái hậu, thụt đầu lùi lại không đường tiến. Chúng ta cần phải phấn khởi, dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình không chờ đợi, không trù trừ hoài nghi nữa.
Lỗi nhỏ ví như cái gai đâm vào thịt phải mau chóng rút bỏ ra. Lỗi lớn tựa như rắn độc cắn vào ngón tay, cần phải quyết tâm chặt bỏ ngay không chút ngần ngừ do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ phong lôi trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy.
Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan.
III – Phương pháp sửa lỗi
1.Theo sự tướng
Tuy nhiên tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự việc như thế gọi là theo sự thực xảy ra mà cải sửa vậy.
Ngày nay phạm lỗi, ngày mai cố sửa, cứ theo sự việc xảy ra ở bên ngoài mà miễn cưỡng kiềm chế lấy mình để khỏi phạm nữa, thực là trăm phần khó vì chung cục bệnh căn vẫn tồn tại, bởi nay ở bên đông hết tội, mai tội lại nẩy sinh ra ở bên tây, cứu cánh không phải là đường lối hợp đạo lý, không trừ sạch được hết tội lỗi.
2.Theo lý cải sửa
Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết hãy nên biết rành rẽ đạo lý đã; như tội lỗi ở chỗ sát sinh thì nên tự nghĩ rằng thượng đế hiếu sinh, chúng vật đều luyến ái mạng sống, giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao ta có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nhiêu nỗi thống khổ đau đớn thấu nhập cốt tủy. Chúng ta sát hại chúng để nuôi dưỡng mình, để có la liệt những thứ cao lương mỹ vị miếng ngon vật quý, nhưng khi nuốt trôi khỏi cổ rồi thì giống như không, chẳng có gì nữa. Mà dùng rau đậu, canh dưa cũng đủ no đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình nữa.
Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống y như chúng ta; vả lại chúng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao làm cho chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạnh chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi.
Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm nỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân.
Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận.
Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa.
Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ.
3.Theo tâm địa
Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao!
Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không.
Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy.
4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi
Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có bạn tốt thường nhắc nhở để tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm.
Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ cừu thù mà hồi tâm chuyển ý vui vẻ không còn oán hận nữa, hoặc mộng thấy thở ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển.
Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó.
Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa.
Người mà tội ác quá sâu nặng sẽ thấy chứng nghiệm ngay; hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chỉ trong chớp mắt liền quên không nhớ nữa, hoặc chẳng có sự gì cả mà phiền não lo lắng; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường ngượng ngùng e thẹn mất tinh thần; hoặc nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý mà chẳng hoan hỷ vui vẻ ưu nghe; hoặc làm ơn lại bị oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc phấn khởi tinh thần dứt bỏ lỗi lầm cũ để mưu việc tự tu sửa canh tân, mong rằng đừng nên tự mình lại lừa dối mình.
Tết Trung thu hay còn gọi là Tết trông trăng là ngày tết của trẻ em. Đây là ngày lễ cổ truyền dân tộc, diễn ra vào ngày rằm tháng 8 âm lịch hàng năm. Tết Trung thu là một trong những ngày lễ lớn, là ngày tết của trẻ em theo truyền thống dân gian. Các bé rất mong đợi đến ngày này bởi được người lớn dành cho biết bao món quà, lại được chơi nhiều trò chơi thú vị.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Sao Thiên tướng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm ấn tinh (sao ấn). Bản thân ấn có thể thiện mà cũng có thể ác. Thiện hay Ác là do người cầm ấn đi theo về bên nào. Ví như cái ấn trên pháp đường, có thể khiến cho người ta thăng quan phát tài, cốt nhục đoàn tụ, mà cũng có thể khiến cho người ta phải chịu hình phạt, gia phá nhà tan. Thiện ác khác nhau là do người cầm ấn dùng nó mà phân biệt.
Nói về sao Thiên tướng, ý nghĩa của sao Thiên tướng đúng là ý tứ "tương trợ", là địa vị tể tướng hoặc quân sư. Nghĩa vụ duy nhất của một vị tể tướng hoặc quân sư, là trung thành với chủ nhân, vì chủ nhân của mình mà tham mưu, lấy sự lợi hại của chủ nhân để tính toán mưu sự. Cho nên, chủ nhân thiện thì giúp cho chủ nhân làm thiện, chủ nhân ác thì giúp cho chủ nhân làm ác.
Do đó, tác phong của sao Thiên tướng là gặp tốt đẹp thì càng thêm tốt đẹp, gặp hung ác thì càng hung ác. Nó ở trong mệnh bàn 12 cung, chúng ta sẽ vô phương chỉ định nó, rốt cuộc, là sao cát tường hay là sao ác sát hay là sao hung. Nó là thiện hay là ác, đó là tùy theo các tinh diệu khác mà nó gặp, hoặc vây chiếu, và hoàn cảnh toàn thể mà thay đổi.
Cho nên, sao Thiên tướng đến Mệnh cung hay Thân cung, tả hữu có sao Hóa Lộc và sao Thiên lương giáp cung phù trì, sẽ là cách "Tài ấm giáp ấn", chủ về phú quý vinh hoa, hưởng thụ vui vẻ. Sao Thiên tướng hãm ở mệnh cung hoặc Thân cung, có sao Hóa Kị và sao Kình dương giáp cung, gọi là cách "Hình kị giáp ấn", chủ về người gặp phải tai họa lao ngục, kèm có sự tình "hình khắc thương tổn" phát sinh.
1. Thiên tướng ở cung Mệnh viên
Sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng hoặc hơi kèm sắc vàng. Khuôn mặt hình vuông hoặc kèm hơi tròn. Dáng vóc người trung bình, cũng có người béo mập.
Tính tình khoan hậu, thái độ rộng rãi, động tác ổn trọng, có lòng chính nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình có thể rút đao tương trợ. Sùng thượng tín ngưỡng tôn giáo, thích tu hành, tình cảm dễ xung động. Đối với bất cứ ai gặp cảnh ngộ khó khăn, hay không lành, đều sinh lòng cảm thông.Thiên tướng rất ưa các cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, Thiên quý, Ân quang, Thiên đức, Giải thần, Thiên vu hội chiếu. Nếu lại gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, và Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về có địa vị cực phẩm, làm tướng lĩnh, cột trụ quốc gia, lãnh đạo trong xã hội, vừa phú vừa quý. Nếu sao Thiên tướng đồng độ với sao Tử vi và Lộc tồn, thì chủ về người có thiên kiến, hoặc có chủ kiến cực mạnh, thích tranh quyền, đồng thời cũng dễ bị tiểu nhân khuynh đảo. Có các sao Vũ khúc, Liêm trinh và Tham lang, Thiên tài, Phượng các hội chiếu, chủ về người thông minh hiếu học, nhiều tài nghệ. Nếu lại có Kình dương, Đà la hội chiếu, ở hãm địa, thì chủ về người lấy kỹ thuật, hay nghệ thuật làm sinh kế. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc và Lộc tồn thì lấy kỹ năng chuyên môn hay nghệ thuật để khởi nghiệp. Nếu có các sát tinh ác diệu Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về hình khắc hoặc bản thân tàn tật. Nếu có các tinh diệu Vũ khúc, Phá quân, Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Đà la, Thiên mã, Hóa Lộc vậy chiếu, chủ về người lúc thành lúc bại, chợt lên chợt xuống. Thành công thì tăng thêm nhà cửa ruộng đất, hiếm có trên đời. Thất bại thì tai họa lao ngục, tiểu nhân bao quanh, hình thương khắc hại. Đây là cách "trong cát có hung", "trong hung có cát", chợt tốt chợt xấu thay đổi bất thường.
Người nữ có sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người thông minh, thận trọng, có chí khí trượng phu. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên mã hội chiếu, là mệnh phu nhân, vượng phu ích tử, phú quý song toàn. Nếu có Văn xương, Văn khúc, Hóa Kị, Kình dương hội chiếu, chủ về cô độc, nên xuất gia tu hành, hoặc làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức hôn lễ, nếu không sẽ hình khắc phân ly.
Sao Thiên tướng đến lưu niên, đại hạn, tam phương tứ chính có các Cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, và Lộc tồn, Thiên phủ hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào, quyền cao chức trọng, kết hôn sinh con trai, danh lợi đều có. Nếu có sao Phá quân, Vũ khúc, hoặc Thất sát, Kình dương, Đà la hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại cãi vã", kiện tụng, tiểu nhân ám hại, khuynh gia phá sản, nếu gặp thêm các Sát tinh Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hư hội chiếu, chủ về hình khắc trùng trùng, hơn nữa bản thân có lúc còn cảm nhận thấy trống rỗng, có ý đồ tự sát. Không có tinh diệu Cát tường hóa giải sẽ chủ về tai họa tử vong.
2. Thiên tướng ở cung Huynh đệ
Sao Thiên tướng đến cung Huynh đệ, thùa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về có năm anh chị em trở lên. Có sao Tử vi đồng độ chủ về có ba anh chị em trở lên, anh em ưa tỏ ra cao cường. Có Vũ khúc hoặc Liêm trinh đồng độ, chủ về có hai anh chị em, chủ về ý kiến không hợp nhau. Có Vũ khúc, Phá quân vây chiếu, thêm Tả phụ, Hữu bật, thì anh em tuy nhiều, song có hình khắc thương tổn, hoặc anh chị em khác mẹ, và có em nhỏ cách xa nhau nhiều tuổi. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, lục thân không nhờ cậy được. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, cũng chủ về cô độc. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn đồng độ, chủ về anh em phát đạt, có địa vị, có tiền tài.
3. Thiên tướng ở cung Thê (Phu)
Sao Thiên tướng đến cung Thê, chủ về được vợ thông minh hiền thục, giỏi chăm lo gia đình, dụng mạo mĩ lệ. Nên lấy vợ lớn tuổi, hoặc thân càng thêm thân. Có Tử vi cùng đến, chủ về vợ có chí cao, có kế hoạch, nên chậm lấy vợ. Có Vũ khúc đồng độ, chủ về có tai nạn thương tổn, hoặc khẩu qua lời lại, ý kiến bất hợp. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về hình khắc phân ly, hoặc trước khi kết hôn đã từng giải trừ hôn ước với người khác, hoặc gặp trở ngại rất nhiều trước khi kết hôn, dây dưa kéo dài mới khỏi hình khắc, nếu không sẽ chủ về hai ba vợ. Có Liêm trinh đồng độ, không hình khắc, thêm Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, là có kết quả hôn nhân mĩ mãn, hoặc nhờ vợ mà được tiền tài. Có Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn xương, Văn khúc, Thiên tài hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại", bất hòa, hoặc nhiều bệnh nhiều lo. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về hình khắc phân ly cô độc.
4. Thiên tướng ở cung Tử nữ
Sao Thiên tướng đến cung Tử nữ, được tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, và sao Thiên phủ hội chiếu, chủ về có năm con trở lên. Có Tử vi đồng độ, chủ về con chí cao và tính khí quật cường, ba con trở lên. Có Liêm trinh đồng độ thì hai con. Có Vũ khúc đồng độ cũng hai con. Khi Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về hình khắc, nên chậm có con thì tốt hơn. Con trưởng hoặc thai đầu bị sinh non, hỏng thai hoặc tổn thương, nên có con gái trước con trai sau, hoặc cho làm con thừa tự của gia đình khác trước, nếu không đều là vợ kế, vợ lẻ sinh con. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, nếu đồng thời có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về hai ba thai trước có tổn thương, nên để vợ kế, vợ lẻ sinh con, nhưng thai đầu tiên của vợ kế, vợ lẻ vẫn xảy ra tình trạng bị tổn thương hoặc sinh non.
5. Thiên tướng ở cung Tài bạch
Sao Thiên tướng đến cung Tài bạch, thừa vượng hoặc nhập miếu, gặp sao Thiên phủ, có Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, chủ về nguồn tiền tài dư dật, giữ gìn được. Đồng độ với sao Liêm trinh, theo thương nghiệp thì đúng với sở trường, tất nhiên có thể phát. Có Tử vi đồng độ, chủ về có tiền của bất ngờ, nhờ vậy mà đột nhiên giầu có. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về nhờ kỹ năng chuyên môn, hoặc nghệ thuật mà được tài lợi. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về tiền tài lúc được lúc mất, lúc thành lúc bại, hoặc phá gia bại sản của tổ tiên trước rồi sau mới có thành tựu. Gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về tài đến tài đi, hoặc giờ Dần ăn giờ Mão đong, ít có dành dụm. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về vì tiền tài mà gây tranh chấp, khuynh gia phá sản, hoặc dẫn đến tai họa lao ngục. Không có cát hóa chủ về nguy hiểm đến sinh mạng.
6. Thiên tướng ở cung Tật bệnh
Sao Thiên tướng đến cung Tật bệnh, có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về phá tướng hoặc trên mặt có sẹo. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về tức ngực khí trướng, da bị nhọt do thấp khí. Đồng độ với Liêm trinh, chủ về bị bệnh tiểu đường, bàng quang, hoặc sỏi thận. Nếu lại có Hồng loan, Hàm trì hội chiếu, chủ về bị bệnh giang mai, hoặc thủ dâm, di tinh. Cùng gặp các sao Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, chủ về thân thể hư nhược suy tổn, con cái bị bệnh về kinh Tỳ. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về các chứng phong thấp, đau xương, hoặc phải động tới phẫu thuật, và chủ về tim loạn nhịp hoặc Tâm tạng suy ngược, chân tay vô lực cử động bất tiện. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên nguyệt hội chiếu, chủ về cảm mạo nôn mửa, hoặc chứng thấp nhọt ngoài da.
7. Thiên tướng ở cung Thiên di
Sao Thiên tướng đến cung Thiên di, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và các sao Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về có quý nhân dìu dắt, có cơ hội đặc biệt, được nhiều người ủng hộ, địa vị đã cao mà còn có thể đại phát, chủ về được người ngoại quốc xem trọng. Đồng độ cung sao Tử vi, chủ về địa vị cao, được người kinh trọng ngưỡng mộ. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về bên ngoài được tiền tài bất ngờ, hoặc danh lợi đều có. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về tính tình cương nghị, ra ngoài có thành có bại, thiếu duyên với người. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Kiếp sát hội chiếu, chủ về ra ngoài bị phá hao, một đời nhiều sóng gió, trắc trở. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về ra ngoài cô độc, ít được người giúp, hoặc dễ gặp tai họa, hay bị tiểu nhân hãm hại.
8. Thiên tướng ở cung Giao hữu
Sao Thiên tướng đến cung Giao hữu, hội chiếu tam cát hóa Khoa Quyền Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, chủ về giao du rộng, hơn nữa còn có nhiều trợ lực, hoặc nhờ có bạn bè mà nên nhà nên cửa, và được thủ hạ trung thành. Đồng độ với Tử vi, chủ về được loại bạn đáng nể hoặc có lòng chính nghĩa. Đồng độ với Vũ khúc, chủ về quan hệ với loại người bất nghĩa mà nhiều tranh giành. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về chơi bời quan hệ với nhóm người làm ơn mắc oán, hoặc vì bạn bè mà phá tài. Có Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bạn bè "có cũng như không", nhiều phá hao, hoặc bị chịu lỗi, bị mang tiếng, bị vạ lây thay cho bạn. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về giao du phần nhiều toàn ăn hại, nhiều tranh giành bất hòa, hoặc bị thủ hạ trộm cắp hoặc hãm hại.
9. Thiên tướng ở cung Sự nghiệp
Sao Thiên tướng đến cung Sự nghiệp, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Quyền, Lộc, Khoa, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, chủ về là người nhân vật quan trọng của quốc gia, người nổi tiếng trong xã hội, thương gia cự phách trong giới kinh doanh, đã phú còn quý, vừa văn vừa võ. Tam phương tứ chính mà không có Sát diệu, thì đều là người mưu tính phát triển ở trên vũ đài chính trị. Đồng độ với sao Tử vi, chủ về người tiến thân trong chính giới. Đồng độ cùng sao Vũ khúc, chủ về lập công ở biên cương. Đồng độ cùng sao Liêm trinh, chủ về người tham dự việc binh, rong ruổi trên chiến trường. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về có thành có bại, lúc được lúc mất. Có Không Kiếp hội chiếu, thì nên khởi nghiệp từ kỹ năng nghệ thuật, hoặc sáng lập công xưởng sản xuất, nếu không sẽ chủ về thất bại phá hao, đầu cơ thì khuynh gia bại sản. Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về sự nghiệp nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thay đổi, trong thuận lợi sẽ gặp nhiều nghịch cảnh, hơn nữa còn chủ về quan tai thị phi. Trong chính giới, hay giới quân sự, có thể đột nhiên bị bãi chức, cách chức, ở trong thương giới đột nhiên bị tình huống phá sản, hay bị kiện tụng điên đảo.
10. Thiên tướng ở cung Điền trạch
Sao Thiên tướng đến cung Điền trạch, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc hội chiếu, hoặc có Lộc tồn đồng độ, chủ về sản nghiệp to lớn. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về trung niên tăng thêm ruộng đất, nhà cửa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về gia tài bị phá hao. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về gia sản của Tổ tiên dần dần bị lụn bại. Có sao Hóa Kị chủ về gia trạch không yên ổn, nhiều bệnh tật, nhiều tai họa, nhiều "lời qua tiếng lại". Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về gia nghiệp phá tán (gia rồi đến nghiệp, nên nói gia nghiệp), hoặc vì sản nghiệp gây ra tai họa, tranh chấp, thị phi, kiện tụng.
11. Thiên tướng ở cung Phúc đức
Sao Thiên tướng đến cung Phúc đức, luôn có sao Thiên phủ hội chiếu, và gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật ở tam phương tứ chính, chủ về hưởng thụ hạnh phúc, phú quý trường thọ. Gặp sao Hóa Kị chủ về nhiều tư lự, tinh thần bất an. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về bôn ba, tinh thần mệt mỏi. Có Không Kiếp đồng độ, chủ về nhiều ảo tưởng mà ít thực hiện, phúc bạc. Có tứ Sát hội chiếu thì vô phúc, không ổn định, nhiều việc không thể đạt tới mục đích, nhiều rắc rối.
12. Thiên tướng ở cung Phụ mẫu
Sao Thiên tướng đến cung Phụ mẫu, thừa vượng hoặc nhập miếu, chủ về không có hình khắc. Có Vũ khúc đồng độ chủ về có hình khắc. Có sao Hóa Kị thì nhiều bệnh tật, nhiều tai họa. Có Liêm trinh đồng độ cũng chủ về có hình khắc. Đồng độ với tứ Sát hoặc tứ Sát hội chiếu, chủ về thủa nhỏ bị hình khắc. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Giải thần, Thiên đức, Thiên vu thì không có hình khắc.
Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com
Khi bắt đầu khám phá hay sử dụng không gian, màu sắc có nhiều tác động trực tiếp tới thị giác. Trong nhà ở, việc chọn lựa màu sắc thường dựa trên nhiều yếu tố và tiêu chuẩn nhưng điều quan trọng nhất là phải phù hợp với tính cách, cảm xúc và sở thích của người dùng. Đặc biệt, đối với người Á Đông, còn tính toán màu sắc ngôi nhà dựa trên quy luật Ngũ hành tương khắc, tương sinh theo quan niệm phong thủy.
Chủ nhà mệnh Thổ trên 40 tuổi nên sử dụng khhông gian nội thất này
Theo phong thủy, màu sắc sẽ hình thành nên những trường năng lượng tác động tới môi trường nhà ở và các thành viên trong gia đình. Vì thế, chọn màu sắc phù hợp có thể giúp hài hòa, cân bằng nguồn năng lượng âm dương, phát huy điều tốt và hạn chế những bất lợi từ môi trường tới cuộc sống con người.
Hành Thổ tượng trưng cho trái đất, có tính cân bằng và trung tâm. Hành Thổ cũng là biểu tượng, nguồn gốc của việc nuôi dưỡng, ươm trồng và phát triển, giúp hướng tới nguồn cội, vững chải của sự sống. Vì thế, năng lượng từ hành Thổ mang sự vững chải, người có mệnh Thổ thường có tính cách điềm đạm, ôn hòa, sâu sắc và thận trọng. Sự kiên nhẫn, thủy chung, bền bỉ và trung thành cũng là những tính cách nổi bật của người mệnh Thổ.
Gia chủ mệnh Thổ nên chọn màu bản mệnh như cam đất, nâu, nâu đất
hoặc màu tím, đỏ, hồng của mệnh hỏa
Theo đó, gia chủ mệnh Thổ nên lựa chọn màu sắc căn nhà như sau:
- Chọn màu tím, hồng, đỏ của mệnh Hỏa vì Hỏa sinh Thổ (theo nguyên tắc tương sinh với bản mệnh).
- Chọn màu bản mệnh của Thổ gồm cam đất, nâu, nâu đất.
- Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc bởi Mộc khắc Thổ (theo nguyên tắc tương khắc với bản mệnh).
Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc vì Mộc khắc Thổ
Ngoài việc lựa chọn màu sắc, gia chủ mệnh Thổ nên chú ý tới phong cách thiết kế của căn nhà và vật liệu sử dụng trong nhà. Phong cách thiết kế thô mộc, truyền thống hoặc thô mộc hiện đại (modern brutalism, modern rustic) phù hợp hơn cả. Các gam màu trung tính nóng như nâu nhạt, cam nhạt, xám nâu, vàng nhạt, vừa được người Việt Nam ưa chuộng vừa ăn ý với không gian theo mệnh Thổ. Chúng được dùng khá nhiều trên các sàn, mảng tường, trần, gắn với sự mộc mạc, ấm cúng và mang đến cảm giác sạch sẽ. Đặc biệt, màu nâu đậm chỉ nên nhấn vào một vài vị trí nhỏ như ghế sofa, một mảng tường đặc biệt, gối, thảm, bộ bàn ghế ăn hoặc các vật dụng trang trí.
Người mệnh Thổ hợp với không gian nội thất dành cho thường khá mộc mạc, đơn giản, ít phá cách, không cầu kỳ và được bài trí gọn gàng, ngăn nắp, tự nhiên. Không gian hướng tới sự thoải mái, tiện nghi và tiện dụng cho người dùng, ưu tiên yếu tố công năng. Vật liệu đá, đất, gạch, sỏi, bê tông, sành sứ thường phù hợp với không gian này, chất mộc mạc có khả năng kết nối ngôi nhà với môi trường thiên nhiên.
(Theo Vnexpress)
Hành: Thủy
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Thương đau, khóc buồn, ưu phiền
Tên gọi tắt thường gặp: Khốc
Là một sao phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Thiên Khốc và Thiên Hư. Gọi tắt là Khốc Hư. Một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Đắc địa: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Sửu, Mùi.
Hãm địa: Dần, Thìn, Tỵ, Thân, Tuất, Hợi.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Thiên Khốc là sao ưu tư, âu sầu, cho nên thủ Mệnh thì da xanh, mắt có quầng đen, diện mạo buồn tẻ, mặt thiếu khí sắc, mắt kém thần, hay trông xuống, không trông xa.
Tính Tình: Là bại tinh và là sao âu sầu, Thiên Khốc có nghĩa:
U buồn, ủy mị hay phiền muộn, đa sầu.
Bi quan, yếm thế.
Hay đãng trí, nghĩ đây quên đó.
Hay hốt hoảng hoang mang.
Ăn nói sai ngoa.
Thiên Khốc tượng trưng cho nước mắt, lo buồn, xui xẻo. Chỉ riêng ở hai vị trí Tý và Ngọ thì có nghĩa tốt.
Có chí lớn.
Có văn tài lỗi lạc, nhất là tài hùng biện, nói năng đanh thép, hùng hồn.
Có khiếu hoạt động chính trị.
Ý nghĩa này càng rõ rệt hơn nếu đi kèm với cát tinh.
Phúc Thọ Tai Họa:
Sao Thiên Khốc ở cung hãm địa thì chủ sự khốn khổ, đau buồn trong tâm hồn, sự xui xẻo dưới nhiều hình thức và sự yểu.
Sao Thiên Khốc ở tại Thìn, Tuất thì hay mắc nạn và vắn số.
Đi cùng với Kiếp, Phù, Khách, Cự, Nhật thì suốt đời bi ai, lúc nào cũng đau buồn, than khóc, tiếc thương vì bệnh tật, vì tang tóc.
Thiên Khốc, Thiên Hình, Thiên Mã: Rất hiển đạt về võ nghiệp, nếu đồng cung ở Dần thì càng uy danh.
Thiên Khốc, Thiên Hư, Thất Sát hay Phá Quân đắc địa đồng cung: Có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục vì uy và tài.
Thiên Khốc, Hóa Quyền: có tiếng tăm.
Thiên Khốc, Kình Dương, Tuế, Điếu Khách: Tang tóc liên miên, từ lúc lọt lòng mẹ.
Thiên Khốc, Địa Kiếp, Thiên Phù, Điếu Khách, Cự Môn, Nhật: Suốt đời đau khổ.
Thiên Khốc, Điếu Khách, Thiên Mã (Mã Khốc Khách): Gọi là Tuấn mã tức là ngựa hay gặp người cưỡi giỏi, ám chỉ sự thao lược, chinh chiến dũng mãnh, lập công lớn hay gặp thời vận may mắn.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ vất vả.
Cha mẹ hay có sự hoang mang, hay lo buồn.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Phúc Đức:
Giảm thọ.
Đời hay gặp sự trắc trở.
Họ hàng thường phải nhờ vả mình.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Điền Trạch:
Tạo dựng nhà cửa khó khăn buổi ban đầu.
Hay có mối mọt, hoặc đồ đạc tầm thường.
Ý Nghĩa Thiên Khốc Ở Cung Quan Lộc:
Công danh hay có sự trắc trở ở buổi ban đầu, sau có tiếng tăm.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Nô Bộc:
Bè bạn thưa thớt.
Người giúp việc nay ở mai đi, không làm việc lâu bền, hay oán trách mình.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài làm ăn trước khó sau dễ.
Giao thiệp hay gặp chuyện phiền lòng, xích mích, cãi cọ lôi thôi.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Tật Ách:
Dễ bị bệnh lao tổn, đau mũi họng, hoặc da không được tốt, hay hốt hoảng, hoang mang, thần kinh không ổn định.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Tài Bạch:
Khó kiếm tiền, hay lo âu vì tiền bạc, hao tài.
Nếu ở Tý Ngọ thì trước nghèo sau giàu.
Ý Nghĩa Thiên Khốc Ở Cung Tử Tức:
Sinh con khó nuôi, sinh nhiều nuôi ít.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Phu Thê:
Chậm duyên nợ.
Xa nhau rồi mới lấy nhau được.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu.
Vợ chồng hay bất hòa.
Vợ chồng xung khắc nếu có thêm Kình hay Đà.
Ý Nghĩa sao Thiên Khốc Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em xa cách, ít có sự chung đụng.
Thiên Khốc Khi Vào Các Hạn:
Chỉ đắc lợi nếu đắc địa, nhưng chỉ thịnh trong 5 năm sau (nếu là đại hạn) hay nửa năm sau (nếu là tiểu hạn) mà thôi.
Gặp Tang Môn: Có tang chế, hoặc gặp phải chuyện buồn thấm thía hoặc vì tang khó hoặc vì tình phụ.
Thời gian: tổ chức vào ngày 3 tháng 7 âm lịch.
Địa điểm: thôn Ngọc Lịch, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba vị đại vương Thành hoàng làng: Lâm Lang, Linh Lang, Ngọc Luyện, có tài đánh giặc thời Hùng Vương.
Nội dung: trong ngày lễ hội người dân Ngọc Lịch mỗ trâu để tế lễ các vị thành hoàng làng.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác |
CHUNG: Theo Tử vi 2016, bản mệnh Dần bước vào năm 2016 cần chuẩn bị tâm lí đón tiếp một vận trình vất vả, khó khăn nhất vì rơi vào cục diện Dần Thân tương xung, trong đó vận Phạm Thái Tuế của bản mệnh ảnh hưởng cực lớn. Tuy vậy, vận mệnh tốt đẹp hay không phụ thuộc khá nhiều vào cá tính, sự quyết tâm của từng người bởi có lúc trong năm xung Thái Tuế lại thúc đẩy vận khí cho một số người. Bất luận vận trình của bản mệnh ra sao, có thể tận dụng hỉ sự để đuổi tà. Nếu trong năm nay bạn có 3 việc lớn như thành thân, thêm con cháu hoặc khởi nghiệp thì có thể giảm bớt hung vận từ Thái Tuế. Ngoài ra, trong năm nay có cát tinh đi vào cung mệnh, nếu cố gắng hết sức cũng gặt hái được thành công. Đây có thể coi là một năm lao động cật lực của bản mệnh.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Kim Thiền, Ngọc Thiền
Chữ Thiền này là chữ Thiền trong bộ Trùng của chữ Hán, có ý nghĩa là “con ve”. Vậy Kim Thiền là biểu tượng con ve bằng đồng, còn Ngọc Thiền là biểu tượng con ve bằng ngọc.
Ve phát ra âm thanh rất lớn, và liên miên, nên ve cũng là biểu tượng của sự Miên Miên Bất Tận. Công dụng của việc đặt biểu tượng này trong nhà là giúp trẻ tiến bộ trong học tập, không ngừng phấn đấu, luôn giành vị trí cao trong trường lớp. Với trẻ nhỏ có thể tìm Ngọc Thiền cho các bé đeo, có thể giúp các bé trở nên siêng năng cần mẫn, và có chí hướng hơn.
Treo tranh có hình tượng cò trắng
Âm Hán con cò là “lộ” đồng âm với “con đường”. Chính vì vậy, tranh vẽ một con cò trắng đậu trên lá sen là “nhất lộ liên khoa”, nghĩa là thành đạt trên đường khoa cử. Còn vẽ 2 con cò trắng đậu trên lá sen là “lộ lộ thanh liêm”, một hình ảnh cao sang thuần khiết. Do vậy nhà nào muốn có câu khoa cử thành đạt, xưa thường treo tranh cò trắng đỗ trên hoa hay lá sen.
Tháp Văn Xương
Tháp Văn Xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía Nam tính Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao 36m, chân tháp cao 8,101, đường kính bên trong rộng 2,6m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch chồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.
Ngoài ra, ngưòi ta còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí Văn Xương trong nhà. Bỏi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử.
Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma bởi được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.
Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học… tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương trên bàn học, đúng huyệt Văn Xương trong nhà để cầu may mắn. Huyệt Văn Xương ứng với năm sinh của mỗi người khác nhau sẽ khác nhau.
+ Tuổi: Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất có vị trí Văn Xương ở hướng Đông – Nam.
+ Tuổi: Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ, Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Hợi có vị trí Văn Xương ở hướng Nam.
+ Tuổi: Bính Tý, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất, Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Mậu Thân, Mậu Tuất có vị trí Văn Xương ở hướng Tây – Nam.
+ Tuổi: Đinh Sửu, Đinh Mão, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Kỷ Sửu, Kỷ Mão, Kỷ Tỵ, Kỷ Mùi, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi có vị trí Văn Xương ở hướng Tây.
+ Tuổi: Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất có vị trí Văn Xương ở hướng Tây – Bắc.
+ Tuổi: Tân Sửu, Tân Mão, Tân Tỵ, Tân Mùi, Tân Dậu, Tân Họi có vị trí Văn Xương ở hướng Bắc.
+ Tuổi: Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất có vị trí Văn Xương ở hướng Đông – Bắc.
+ Tuổi: Quý Sửu, Quý Mão, Quý Tỵ, Quý Mùi, Quý Dậu, Quý Hợi có vị trí Văn Xương ở hướng Đông.
Đặt tại bàn làm việc để cầu công danh thăng tiến: Nam đặt bên trái, nữ đặt bên phải.
Quả cầu phong thủy
Quả cầu phong thủy là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng, quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.
Quả cầu phong thủy mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành. Bạn nên bày quả cầu trên bàn học, bàn làm việc hoặc tủ sách, giá sách. Hoặc nơi các cát tinh Thiên Y, Diên Niên, nơi âm khí vượng. Tránh bày trong bếp, nhà vệ sinh, nơi Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ chiếm đóng.
Cầu thủy tinh mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, trôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Ngoài ra quả cầu cũng đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn. Tất cả các doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt cầu thủy tinh trên bàn làm việc.
![]() |
Người tuổi Dần không bao giờ chịu để ấm ức trong lòng, họ là người thành thật, giàu tình cảm, khảng khái và có khiếu hài hước. Họ nhân từ, yêu trẻ con, yêu động vật hay những thứ có thể khơi gợi trí tưởng tượng và sự chú ý. Họ toàn tâm toàn ý trong công việc.
Người tuổi Dần có đời sống tình cảm rất phong phú. Ngoài tính ham vui, họ còn sống rất thực tế, không ngại hiểm nguy và luôn muốn thể hiện bản thân. Khi đau buồn, những người này cần sự cảm thông, chia sẻ ở người thân. Họ là những người có lập trường vững vàng, ít khi chịu đầu hàng trước khó khăn, thử thách.
Giai đoạn đầu trong cuộc đời người tuổi Dần có lẽ là êm đềm nhất. Khi mới trưởng thành, họ học cách kiềm chế tính nóng nảy của mình. Họ sẽ mải miết theo đuổi mơ ước. Nếu biết vứt bỏ áp lực, thả lỏng mình cho nhẹ nhõm thanh thản, thì tuổi già của họ sẽ bình yên. Cuộc đời của người tuổi Dần ít khi gắn với sự bình yên. Đó là cuộc sống sôi nổi, nhiệt thành và đôi khi có cả những trải nghiệm sóng gió nhưng cũng đầy ý nghĩa.
Nữ giới tuổi Dần
Phụ nữ tuổi Dần có sức hấp dẫn mạnh. Họ có thể kết hợp hài hòa cuộc sống xã hội và cuộc sống gia đình. Họ hoạt bát, vô tư, dễ mến. Những hành động của họ thường được mọi người đánh giá tốt.
Những cô nàng tuổi này còn có khả năng giao tiếp tốt. Họ ưa cuộc sống tự do và rất thích thời trang, thậm chí có thể tốn mấy tiếng đồng hồ để thử kiểu tóc mới, đồ mỹ phẩm hay quần áo... Ngoài ra, họ còn rất dễ gần gũi và yêu trẻ nhỏ, biết kể những câu chuyện thú vị khiến chúng bật cười.
Đàn ông tuổi Dần
Bản tính của đàn ông tuổi Dần có phần ích kỷ. Tuy có tính kiên cường nhưng cũng không ít người khi gặp thất bại lại trở nên thay đổi và liền sau đó ham muốn phục thù dễ khiến họ trở nên liều lĩnh. Hãy nhớ rằng anh chàng rất ghét bị người khác coi thường.
Đàn ông tuổi Dần ham chơi, nhiệt tình. Khi ghen, anh ta thường tỏ thái độ chiếm hữu quá mức hoặc ưa cãi cọ.
Ai hợp với người tuổi Dần?
Người tuổi Dần hợp tác ăn ý với người tuổi Tuất. Vốn tính thực tế, thẳng thắn, người tuổi Tuất sẽ trung thực với người tuổi Dần, không chỉ kiềm chế mà còn giúp nhau trở nên lý trí hơn.
Người tuổi Ngọ đầy sức hấp dẫn và tôn trọng sự thật cũng rất hợp với người tuổi Dần. Họ sôi nổi trong cuộc sống và đều rất nồng nhiệt. Người tuổi Ngọ nhạy bén sẽ cảm nhận được những điều không tốt sẽ đến với người tuổi Dần và giúp họ nhanh chóng thoát khỏi nguy hiểm.
Người tuổi Dần sống với người tuổi Tý, tuổi Mùi, tuổi Dậu, hay một người tuổi Dần khác sẽ không gặp phải khó khăn. Người tuổi Dần đừng bao giờ khiêu chiến với người tuổi Sửu đầy quyền uy. Đây là một đối thủ nghiêm khắc, không biết thỏa hiệp, họ sẽ không cho phép người tuổi Dần làm bừa, làm ẩu.
Người tuổi Tỵ cũng không thích hợp liên minh với tuổi Dần. Hai bên có tính cách chung duy nhất là sự đa nghi. Người tuổi Tỵ ôn hòa, trầm tính, nhát gan, còn người tuổi Dần lại hay lớn tiếng chỉ trích người khác.
Người tuổi Thân là đối thủ không thể nắm bắt của người tuổi Dần. Anh chàng Khỉ láu cá, thông minh ấy sẽ suốt ngày trêu chọc Hổ, khiến Hổ phát cáu. Song, người tuổi Dần sẽ học hỏi được khá nhiều mưu kế từ chàng Khỉ này.
Theo Tintuconline
Trong tử vi sao Thiên cơ có tính chất là động, chủ về người giỏi vận động, phản ứng linh hoạt, hiếu học. Tuy nhiên thưòng học nhiều mà không hiểu sâu, tham vọng quá lớn dẫn đến thường không được như lý tưởng mà lo lắng bất an.
Thiên cơ tọa Mệnh (hoặc Thiên cơ và tổ hợp của nó), hoặc đại hạn đến Thiên cơ, xử sự có lý.
Thiên cơ tọa Mệnh trong Lá số Tử vi không nên đơn độc hành động, nên giúp ngưòi khác lập kế hoạch (như Trương Lương là mưu sĩ cũng là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán sở).
Thiên cơ kỵ nhất có sát tinh đồng cung, gặp đại, tiểu hạn dễ phát sinh hiện tượng không tốt.
Mệnh có Thiên cơ thêm sát tinh đồng cung không nên kinh doanh, chỉ nên làm công chức văn phòng hoặc nhân viên hành chính.
Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, Tham lang tọa thủ cung Thân, chủ về không có việc cũng bận rộn.
Thiên cơ tọa Mệnh là người mơ ước cao xa. Thiên cơ và tổ hợp tinh hệ của nó nếu tọa cung Điền trạch phải chú ý nhà cửa hoặc phong thủy văn phòng, lại chủ về không được kế thừa gia nghiệp tổ tiên. Nếu được kế thừa thì gia nghiệp cũng nhiều biến động.
Trong xem tử vi Đại, tiểu hạn gặp Thiên cơ chủ về có sự thay đổi, như: Môi trưòng biến động, điều chức, chuyển nhà, vị trí giường thay đổi... Thêm cát tinh chủ về thêm phúc thêm tài.
Thiên cơ hóa kỵ chủ về dễ bị ngã dẫn đến bị thương, thêm sát tinh chủ về mọi chuyện không thuận, phải cai rượu, dễ vì rượu mà hỏng chuyện. Lại chủ về trong nhà không yên, phiền não, chán nản, không được yên ổn.
Thiên cơ ưa nhất đồng cung với Thiên lương, sách có nói “giỏi bàn luận chuyện binh”. Nên làm tham mưu quân sự hoặc làm về máy tính, y học, xem mệnh...
Theo Xem Tướng chấm net Thiên cơ và Thái âm đồng cung chủ về mệnh coi trọng tình cảm, nên sớm rời xa quê ra ngoài lập nghiệp. Ngưòi có Thiên cơ tọa Mệnh có ưu điểm là linh hoạt, khuyết điểm là hay thay đổi mà không ổn định.
Thiên cơ không ưa đồng cung với Cự môn, sách có nói “gia đạo suy vong”. Bản thân có sự nghiệp và tình yêu đều gặp nhiều trắc trở, lận đận. Dù là nam hay nữ đều dễ phạm đào hoa.
Thiên cơ tại Tý, Ngọ chủ về mệnh nữ cát lợi, biết quản lý việc gia đình.
Người xưa không ưa mệnh nữ có Thiên cơ tọa cung Mệnh trong lá số tử vi vì tình cảm có trắc trở hoặc nói tình cảm dễ có sự thay đổi, đa sầu đa cảm hoặc có bệnh thần kinh.
Thiên cơ tọa cung Tử nữ chủ về con cái không nhiều, chỉ có 1 đến 2 con hoặc sinh con muộn. Thiên cơ tọa cung Phúc đức chủ về mệnh coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất.