Tướng chân đàn ông –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Vậy phương pháp chọn màu sắc hợp dựa vào ngũ hành của năm trong lục thập hoa giáp có đúng không, cứ màu sắc sinh và màu sắc cùng ngũ hành là tốt có phải không.
Nói đến phong thủy thì gốc là ngũ hành, nói đến kinh dịch gốc là âm và dương. Chỉ từ hào âm và hào dương mà kinh dịch đoán sự việc chính xác một cách kinh điển. Vậy từ ngũ hành trong phong thủy có đoán được gì không, hay chỉ để tính màu sắc hợp hay không. Với kinh nghiệm 15 năm học phong thủy, kiến trúc sư hoàng trà khẳng định chỉ bằng ngũ hành có thể đoán “thịnh suy của tài vận – học hành” một cách chính xác. Căn cứ luận đoán dựa trên bộ môn “tứ trụ”, mỗi người có năm tháng ngày giờ gồm 4 thiên can + 4 địa chi, được tính toán chia ra năm ngũ hành kim-mộc-thủy-hỏa-thổ, sau đó tính toán xem ngũ hành nào thừa – ngũ hành nào thiếu – ngũ hành nào vượng – ngũ hành nào suy. Ngũ hành thiếu và suy phải bổ xung thêm, ngũ hành nào vượng và thừa thì phải giảm đi. Từ đó mỗi người nên dùng màu sắc gì phù hợp cho bản mệnh của mình.
Nói đến ngũ hành thông thường mọi người chỉ biết có hai mối tương tác của ngũ hành
- Ngũ hành tương sinh (sinh cho nhau thì tốt)
- Ngũ hành tương khắc (khắc nhau thì xấu)
Mà còn có bốn mối tương quan khác:
- Ngũ hành phản sinh ( ngũ hành đã dư thừa lại cấp thêm càng thừa )
- Ngũ hành phản khắc ( Ngũ hành yếu khắc ngũ hành quá mạnh thì bị khắc lại )
- Ngũ hành ngang hòa ( ví dụ "lưỡng kim thành khí" "lưỡng kim, kim khuyết" )
- Ngũ hành chế hóa ( ngũ hành quá mạnh không khắc được thì làm hao tán đi )
Như vậy có 6 mối tương quan của 5 loại ngũ hành, tổng cộng là có 6x5=30 phép toán của ngũ hành và 30 phép toán này được ví như bảng cửu chương của toán học. Nếu chỉ dùng mỗi ngũ hành sinh và ngũ hành khắc thì làm sao mà chọn màu sắc hợp theo phong thủy được.
Hơn nữa dù hai người sinh cùng năm nhưng tháng – ngày hay chỉ giờ khác nhau thì ngũ hành tính theo bản mệnh đã khác nhau, do vậy người sinh trong cùng một năm dùng màu sắc theo phong thủy cũng không thể giống nhau được.
1. Trong giấc mơ bạn nhìn thấy xe máy, đây là biểu tượng của tốc độ đồng thời cũng tượng trưng cho sự phiền toái. Giấc mơ này xuất hiện cho thấy chủ nhân của nó có tính cách khá độc lập, luôn theo đuổi cuộc sống tự do, vui vẻ.
2. Mơ thấy bản thân đang phóng xe máy ở tốc độ cao, tín hiệu cho thấy bạn đã xử lý các tình huống trước mắt theo phương thức đặc biệt mà chỉ bạn mới có. Đồng thời, nó cũng báo hiệu sự thuận lợi trong công việc của bạn.
3. Nếu mơ thấy mình đang lái xe máy rất vội vàng để tránh bị ai đó đuổi theo, điều này có nghĩa bạn đã xử lý tình huống cấp bách hoặc khó khăn trở ngại trước mắt rất triệt để và làm hài lòng tất cả những ai liên quan đến sự việc.
![]() |
4. Nếu giấc mơ của bạn xuất hiện tai nạn giao thông do chính bạn là người điều khiển xe máy gây ra, bạn cần hết sức đề phòng đến vấn đề sức khỏe và an toàn nhé. Nên nhớ rằng, tốc độ đi xe máy cần tuân thủ đúng quy định, kẻo không sẽ gây nguy hại cho chính bạn và những người xung quanh.
5. Mơ thấy xe máy bị hỏng, có nghĩa bạn đang gặp phải rắc rối nào đó, cần hết sức cảnh giác kẻo không chuyện bé xé ra to, sẽ mang lại phiền phức cho bạn.
Ngoài ra, giấc mơ này cho thấy bạn đang cố gắng thoát khỏi áp lực của cuộc sống, tuy nhiên, càng muốn thoát ra thì bạn lại càng bị nó cuốn vào. Tinh thần của bạn đang khá căng thẳng và mệt mỏi. Bạn nên đi đâu đó thật xa để dành thời gian chăm sóc cho bản thân và không lo nghĩ về những vấn đề đó nữa.
6. Trong mơ bạn thấy xe máy của mình bị mất trộm, điều này nhắc nhở bạn cần quan tâm hơn nữa đến nửa kia của mình kẻo đến lúc người ấy rời bỏ bạn thì hối hận cũng không kịp. Vì bạn quá tập trung cho sự nghiệp nên không dành nhiều thời gian cho đối phương. Điều đó khiến đối phương buồn tủi và rất có thể sẽ tìm sự quan tâm, chăm sóc, động viên từ người khác.
Mr.Bull
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy con cá Cá thường là biểu tượng của sự vui vẻ, sung túc trong giấc mơ. |
Nhân môn là phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân mai
Cung Thê Thiếp (hay cung Phu Thê hoặc cung Hôn Nhân) là phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân mai. Nhân tướng học còn gọi phần này là Gian Môn
Gian Môn có thịt đầy đặn, da trơn nhẵn, không có vân xấu hoặc nốt ruồi, phần đuôi mắt không bị lõm hoặc khuyết, vân ở đuôi mắt không nhiều cũng không ít, các vân này sắp xếp có trật tự… được coi là tướng tốt. Người mà tướng Gian Môn đẹp thường có não và gan phát triển tốt; tính lương thiện, dễ gần, điềm đạm, lạc quan; cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Nam giới nếu có Gian Môn đẹp sẽ cưới được vợ đẹp, hiền dịu; nữ giới sẽ lấy được người chồng giỏi giang. Ngược lại, nếu Gian Môn lộ xương, không đầy đặn hoặc bị lõm sâu, đuôi mắt lõm vào trong, gian môn có vân cắt ngang hoặc có nốt ruồi đen thì đó lá tướng Gian Môn không đạt chuẩn. Gan, não, hệ nội tiết của họ có thể không tốt, do đó cũng ảnh hưởng ít nhiều tới cuộc sống vợ chồng dù là sức khỏe hay tinh thần.
Người có Gian Môn xấu thường không có khả năng phán đoán sự việc, do đó họ hay gặp nhiều thất bại hơn thành công, hoặc bạn đời của họ dễ gặp hiểm nguy. Kiểu người này được gọi là “khắc thê” hoặc “hình phụ”. Nếu cả vợ và chồng có tướng Gian Môn không đẹp thì đều là người ngang bướng, nóng tính, không biết kiềm chế, dễ xảy ra xích mích.
Ngoài ra, người có tướng gian môn không đẹp cũng dễ có mối quan hệ tình cảm bất chính. Người có vân xấu ở Gian Môn thường bị bệnh tật ở gan, não hoặc hệ nội tiết không bình thường; tính khí thất thường, hay thay đổi.
Nữ giới có tướng Gian Môn xấu thường không có cuộc sống vợ chồng hòa hợp. Nếu gian môn bên phải có sẹo hoặc nốt ruồi thì cuộc sống hôn nhân không được như ý, dễ ngoại tình. Người có nhiều nếp nhăn, vân giao nhau ở đuôi mắt, Gian Môn lộ xương thường là có cuộc sống vất vả hoặc ham muốn tình dục lớn.
Với đuôi mắt ở Gian Môn, nếu trên 40 tuổi mà đuôi mắt không rõ vân thường là người thiếu lạc quan và thiếu tự tin; dưới 20 tuổi mà nếp nhăn ở phần đuôi mắt rõ ràng thường là người lao động vất vả; thiếu trung thực.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Chiêm bao thấy giấy dán tường họa tiết hoa là hạnh phúc |
ành một vị trí riêng cho phòng đọc sách cũng như góc học tập. Dưới đây là một vài phương pháp sắp xếp phòng đọc.
Trong một phòng đọc chuyên dụng, ngoài bàn làm việc và giá sách, còn có thể bày các vật dụng với các chức năng khác nhau phục vụ mục đích nghỉ ngơi, hay giải trí. Khi bài trí, trước hết hãy đặt bàn làm việc của bạn cạnh cửa sổ, nơi có nhiều ánh sáng. Đa phần mọi người đều viết bằng tay phải, vì thế khi bạn ngồi đọc sách hay viết chữ bên bàn làm việc, ánh sáng tự nhiên bên ngoài hay ánh sáng đèn đỉện cần phải được đảm bảo chiếu theo hướng từ phía trên bên trái xuống mặt bàn. Điều đó đồng nghĩa với vị trí cửa sổ phải nằm ở bên trái phía trước bàn làm việc, đèn học cũng phải đặt ở góc bên trái của bàn làm việc. Ngoài ra, nguồn ánh sáng phát ra từ đèn học không được chiếu trực tiếp mà phải chiếu theo hướng phản xạ gián tiếp để tránh gây chói mắt và làm hư tổn thị giác. Còn một cách sắp xếp thứ hai, đó là đặt bàn làm việc ngay sát dưới bức tường có cửa sổ. Cách này cũng giúp bạn có được nguồn ánh sáng lí tưởng như mong muốn. Trong trường hợp cửa số của phòng đối diện hoặc hơi chếch so với cửa ra vào phòng, cách này còn có tác dụng giảm bớt tác động của những hoạt động diễn ra bên ngoài phòng hay chỗ cửa ra vào đối với người đang làm việc trong phòng, giúp cho ngưòi đó có thể tập trung tinh thần làm việc hoặc học tập. Các cách sắp xếp bàn làm việc trên có thể đáp ứng nhu cầu ngày một cao của mọi người về môi trường cũng như điều kiện học tập và làm việc. Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý, nếu bạn đặt bàn làm việc ngay sát cửa sổ thì cách tốt nhất là treo một tấm rèm cửa sổ. Ban ngày khi đọc sách hay viết chữ, đặc biệt là lúc mặt trời đứng bóng, tấm rèm cửa sổ sẽ rất có ích trong việc chắn ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào mắt bạn, nhờ đó, thị giác của bạn sẽ được bảo vệ an toàn.
Nếu ở góc phòng hay sát bức tường còn lại có bày một tủ sách, cạnh tủ sách lại đặt một chiếc ghế mềm hay một bộ sopha thì sẽ rất tiện cho bạn ngồi đọc sách hoặc nghỉ ngơi, thư giãn bất cứ khi nào bạn thấy mệt mỏi do học hành hay làm việc quá căng thẳng. Bên cạnh ghế mềm hay ghế sopha luôn có một nguồn ánh sáng nhất định, đó có thể là một chiếc đèn cây hoặc một chiếc đèn treo tưòng, miễn sao có thể cung cấp đủ ánh sáng cần thiết cho việc đọc sách.
Những căn phòng chỉ rộng có 8m2 vẫn có thể bố trí thành một thư phòng chuyên dụng nho nhỏ. Ngoài một dãy tủ sách kê sát tưòng, có thể kê một chiếc bàn làm việc kiểu chữ L ngay phía dưới cửa sổ. Ưu điểm của cách bài trí này không những tiết kiệm được diện tích phòng mà vẫn có đủ không gian cho việc học tập và làm việc. Nếu kê thêm vào đó một chiếc ghế mềm thì môi trường học tập cuả bạn sẽ thoải mái dễ chịu hơn nữa. Ngoài ra, ngày nay máy tính ngày càng trở nên phổ biến, nó là một công cụ học tập và làm việc hữu ích không thể thiếu trong mỗi gia đình. Vì thế, một chiếc bàn hình chữ L cũng rất tiện cho việc lắp đặt một chiếc máy vi tính.
Khi bố trí phòng đọc, bạn không thể không quan tâm đến yếu tố thính giác và thị giác. Bởi thế, cần thiết phải để lại khoảng trống trên giá sách dành cho vài chậu cây cảnh nho nhỏ vói hương thơm dịu nhẹ, hoặc dán vài bức tranh phong cảnh mang đậm phong cách đồng quê ngay cạnh bàn làm việc. Đương nhiên, bạn cũng có thể treo những thứ đồ chơi hay đồ thủ công mĩ nghệ tùy theo đặc tính công việc và sở thích riêng của mình. Góc riêng của bạn sẽ trở nên rất có cá tính và gần gũi hơn. Tuy nhiên, cũng không nên bày quá nhiều đồ thủ công mĩ nghệ, nếu không chúng sẽ làm bạn bị mất tập trung. Ngoài ra, những quyển sách được bài trí một cách khéo léo và có tính nghệ thuật cũng có hiệu quả làm đẹp cao. Đối với các gia đình trí thức thì càng nên chú ý nhiều hơn trong việc sắp xếp và bài trí phòng đọc sách để tạo một môi trường học tập và làm việc lí tưởng nhất.
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở theo ngũ hành giúp cầu tài lộc, tránh tai ương |
Tại sao lại là nhà hướng Nam?
Người xưa cho rằng bắc là âm, nam là dương, nơi có phong thủy tốt là âm dương phải hài hòa. |
Trước hết, do vị trí địa lý và đặc thù khí hậu của Việt Nam (nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa) nên đối với hầu hết vùng, miền, hướng Nam là hướng thuận lợi nhất để xây dựng nhà cửa: đón được đầy đủ ánh sáng và gió mát hơn hẳn các hướng khác.
Đặc biệt, nhà xây hướng Nam sẽ tránh được ánh nắng chói phía Đông vào buổi sáng, buổi chiều không bị nắng chiếu gay gắt từ phía Tây, đồng thời tránh được gió nóng từ phía Tây thổi tới và không bị ảnh hưởng bởi gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Trong khi đó, mùa hè đón được những ngọn gió mát từ hướng Đông Nam và hướng chính Nam.
Từ thời nguyên thủy, con người đã biết tận dụng hướng Nam để được mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tăng sức đề kháng của cơ thể, tránh sự xâm hại của tự nhiên đối với sức khỏe.
Phần lớn hang động tại Hòa Bình có người ở đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về hướng Bắc, bởi lẽ, gió mùa kèm theo giá rét từ phương Bắc có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người (riêng các tỉnh, thành phía Nam, do thời tiết và nhiệt độ ít thay đổi nên làm nhà hướng Bắc không bị lạnh theo mùa).
Mặt khác, hướng Nam là hướng mặt trời lên cao, tượng trưng cho lửa, dương lực, mùa hạ, sự ấm áp…, cũng chính là hướng tượng trưng cho thời kỳ mạnh mẽ nhất của cuộc đời con người, phát huy khả năng, sức mạnh của bản thân mỗi người. Địa vị xã hội, tiền tài, năng lực lãnh đạo, trí tuệ, tài năng đều có liên quan đến hướng Nam.
Theo Tiên thiên bát quái, phía Nam có tượng là quẻ Càn (trời, vua…), nên phía Nam được coi là hướng của bậc đế vương, còn theo Hậu thiên bát quái, hướng Nam có tượng là quẻ Ly, biểu tượng của lửa, ánh sáng. Do vậy, các bậc vua chúa thường tọa Bắc, hướng Nam để hướng về lẽ sáng mà xử lý công việc, cai trị thiên hạ; cung điện, thành quách được xây theo hướng này nhằm bảo vệ vị trí chí cao vô thượng.
Tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái
Mặc dù lý luận phong thuỷ phái Bát trạch cho rằng, hướng Nam chỉ hợp với người mệnh Đông tứ, nhưng những người mệnh Tây tứ không nên bỏ qua.
Với nhà hướng Nam nhưng không hợp mệnh chủ nhà, có thể dùng gương bát quái để hóa giải, đồng thời dùng các hình thức bài trí nội thất, đặc biệt là bếp và phòng ngủ để tạo sự tương tác tốt, dung hòa hướng xấu đó.
Ngoài ra, có thể sử dụng các pháp khí phong thủy để kích hoạt khí trường của ngôi nhà, tạo cho ngôi nhà có một trạch vận tốt đẹp.
3 lý do để chọn hướng Nam
Một là ánh sáng tốt. Trong “Trạch kinh” nói, phàm cửa sổ hướng nam, đông nam hoặc tây nam, ánh sáng trong nhà sẽ tốt.
Nhà ở tọa bắc hướng nam lợi dụng được triệt để ánh sáng mặt trời, giữ không khí ấm khi mùa đông, mát mẻ khi mùa hè.
Hai là sự thông gió tốt. Tọa bắc hướng nam sẽ khiển không khí nhà ở được lưu thông một cách đầy đủ.
Ba là tránh gió bắc. Tọa bắc hướng nam không chỉ vì ánh sáng, thông gió mà là còn để tránh gió bắc.
![]() |
![]() |
► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
- Ngọ thượng Khoa Quyền biên cương nhậm trọng (Mệnh tại Ngọ hoặc Quan Lộc tại Ngọ mà có Khoa Quyền nắm quyền bính nơi biên ải)
- Khoa Quyền củng bất như lâm viên (Khoa Quyền chiếu không bằng đóng tại Mệnh)
- Khoa Quyền Lộc Mã tu phòng Không Kiếp ám xung (Mệnh Khoa Quyền Lộc Mã hoặc vận hạn Khoa Quyền Lộc Mã mà bị Không Kiếp xung thì ảnh hưởng tốt của Khoa Quyền Lộc Mã kém đi nhiều)
- Khoa Quyền nhập Mệnh tuy lạc nhàn diệc hữu hiển danh (ở Mệnh có Khoa Quyền tuy Khoa Quyền ở nhàn cung thì vẫn có địa vị)
- Hóa Khoa đồng văn diệu đề bảng chi vinh (Hóa Khoa đứng với Khôi Việt Xương Khúc học hành thành đạt)
- Hóa Khoa tối vi kỳ; vật hướng Thiên Thương nhi ám hối (Hóa Khoa rất tốt, nhưng kị đóng vào cung Nô việc học hành lận đận)
- Khoa Quyền nhân Khôi Việt dĩ thành công (Khoa Quyền cần Khôi Việt để thành công)
- Khoa Quyền Lộc hợp phú quí (có Khoa Quyền Lộc thủ chiếu Mệnh không bị hung sát tinh tất giàu sang)
- Khoa Mệnh, Quyền triều đăng dung giáp đệ (Khoa đóng Mệnh, Quyền xung chiếu dễ đỗ đạt cao)
- Khoa danh hãm ư hung thần miêu nhi bất tú (Hóa Khoa bị Không Kiếp Kình Đà thông minh tài cán mà lận đận)
- Khoa Quyền Lộc vọng, danh dự chiêu chương (thủ chiếu có Khoa Quyền Lộc nên danh nên giá)
- Khoa Minh Lộc Ám vị liệt tam đài (Mệnh Hóa Khoa cung nhị hợp có Lộc là người chức vị)
- Quyền Khốc đồng cung minh danh vu thế (Mệnh Hóa Quyền đứng cùng Thiên Khốc tại Tí hay Ngọ danh vọng hơn người)
- Quyền Lộc đồng cung định tác cơ thương chi nghiệp (Quyền Lộc tụ vào Mệnh cung buôn bán làm giàu)
Lịch Sử Khoa Tử Vi
Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng.
Trong thập niên 1960 trở lại đây, VN ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên Khoa Học Huyền Bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây :
- Tử-vi đẩu số tân biên của Vân Điền Thái Thứ Lang.
- Tử-vi áo bí của Hà Lạc Dã Phu.
- Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc.
- Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn.
Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử vi Áo bí của Hà lạc Dã Phu.
Hiện (1977) khoa Tử-vi ở VN, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tử-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.
Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu.
Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau : “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.
Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. (Chính là tôi và ba em tôi). Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỷ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)
Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vẫn là quan trọng”. (trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm : lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy :
– Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung : Mệnh (Thân), Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc. Phúc Đức, Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức, Huynh Đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết : tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa Tử vi không hợp lý vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau : điều đó không chấp nhận được.
Khoa Tử Bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lý. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
Hà Lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn Tử Bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử Vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử Bình hợp lý, thích hợp với giới trí thức; Hà Lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu. Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kỳ dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa. Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được.
Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy : “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn).
Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ (Pháp quốc)
Người sành tử vi, đều biết rõ mỗi lục thập hoa giáp có 518,000 dạng lá số (tạm gọi 518,000 lá số), nhân loại ngày nay khoảng 6 tỉ người (tức là cứ 12,000 người có chung một lá số, thế nhưng trong 12,000 cùng một lá số ấy có ai giống ai đâu ? Vẫn là 12,000 sứ mệnh khác nhau ! Điều này đã làm cho giới trí thức đâm ra bi quan và nghi ngờ giá trị xác thực của khoa nghiệm lý Tử vi. Thật ra, cổ nhân khi lập thành khoa lý học này, không phải để người ta dựa vào đó mà luận sự sang giàu, nghèo hèn mà muốn hệ thống hóa cái đặc loại (type) của con người, rồi do theo đó mà dạy dỗ, giáo dục từng đặc loại (theo các phương pháp riêng biệt, tỷ dụ dạy trẻ thông minh thần đồng thì dạy khác, dạy trẻ câm điếc lại cách khác nữa) sao cho tất cả mọi người cùng xứng đáng với nghĩa làm người !
Trải qua thời gian, khoa tử vi dần dần bị biến chất, hạ thấp thành phú đoán dị đoan (cốt xem vận mệnh, công danh, phú quí ra sao để trục lợi). Thuật đối nhân xử thế tiềm tàng trong mỗi lá số Tử vi, chính là cái tự do của con người (để sống hòa hợp với bao nhiêu phiền toái và ràng buộc của con người với tạo vật, tạm gọi là môi sinh). Vậy thì tử vi không là một kiểu định mệnh độc ác và bất khả chối từ đâu ! Người hiện đại, nhất là giới trí thức đều nghĩ không có định mệnh nào làm sẵn theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” cả, không thể có một tha lực nào bắt con người phải nô lệ cho một định mệnh !
Mỗi lá số tử vi có một cung cách chung cho 12,000 người, nhưng đồng thời lại có đủ 12,000 trình độ xử thế khác nhau (do con người chủ động cách suy nghĩ và cách hành động của bản thân), và từ đó phát sinh ra 12,000 cái sứ mệnh khác nhau, không ai giống ai (ví như một lớp học, tuy cùng một trình độ, có người hạng nhất, có người hạng trung bình và có người xếp hàng chót). Người khoa học là người chịu khó quan sát nhiều lần cái ngẫu nhiên giống nhau, mà qui nạp thành cái tất nhiên (gọi là qui luật). Cổ nhân (gồm nhiều thế kỷ xa xưa kinh nghiệm, tích lũy được) cũng làm theo hệ thống này mà tạo thành khoa nghiệm lý tử vi để hậu thế hiểu thêm giá trị sống ở đời (mà vừa thích nghi vừa chế ngự thiên nhiên, hoàn cảnh).
Mỗi lá số tử vi có một cấu trúc thật diệu kỳ (thật huyền ảo) của 14 chính tinh (chưa nói các phụ tinh khác), ta tạm chia làm ba cách phân bổ :
- Nhân cách là tính nhị hạp của Liêm với Lương, của Phá với Cơ, của Vũ với Nguyệt, của Nhật với Phủ, của Đồng với Tham
- Địa cách là tính xung đối của Phá với Tướng, của Sát với Phủ
- Thiên cách là cái tính hại của Tử với Cự, của Tướng với Cơ, của Nhật với Sát
Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của tinh đẩu vừa nêu ở trên (dù đóng ở bất cứ cung nào), chính là một cách ẩn tàng khuyên bảo người ta nên đối nhân xử kỷ sao cho xứng danh “Nhân linh ủ vạn vật”, từ đó nâng cao cuộc sống vật chất và nhân cách của bản thân (Nguyễn Du: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều)…
…. một vị thứ xếp hạng riêng biệt trong 12,000 người cùng một lá số tử vi người này vẫn khác người kia. Mỗi lá số tử vi có cái thuận lợi riêng và cái bất lợi riêng của nó. Người sành tử vi biết số của mình, không phải là biết khi nào vào vòng thái tuế, lúc nào đáo vận thiên không, cái biết này chỉ là cái “dụng” tầm thường, quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ rệt mà xử lý với đời như thế nào cho phải đạo. Nhân sinh quan của người thích tử vi có phần tích cực và lạc quan (chứ không chịu dị đoan, yếm thế đâu). Nhìn vào lá số của mình trong thiên bàn tử vi, suy gẫm về nhân cách (là các sao nhị hạp), ta thấy bàng bạc các lời khuyên bảo chí tình :
- Sống thanh bạch phải giữ cho được phẩm cách thanh cao, đấy mới là khó ở đời (Liêm trinh với Thiên lương)
- Muốn đổi cũ thay mới, phải biết cân nhắc, tính toán cẩn thận và khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Thiên cơ với Phá quân)
- Phải sống có tình cảm nhân hòa nhân ái, chứ không vì đồng tiền mà cô đơn, lẻ loi, ti tiện (Thái âm với Vũ khúc)
- Phú quí song toàn, có nghĩa khi sống ở địa vị sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương với Thiên phủ)
- Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các lầm lỗi, để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ trích chuyện canh cải sửa đổi hời hợt (Tham lang với Thiên đồng)
Suy gẫm về địa cách (các sao xung đối), rõ ràng là thuật xử thế :
- Lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân với Thiên tướng)
- Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế bớt hung bạo (Thất sát với Thiên phủ)
- Suy gẫm về thiên cách (là tính hình hại của các tinh đẩu. Tỵ hại Dần, Ngọ hình hại Sửu) cho thấy lối chỉ dạy kinh nghiệm sống ở đời phải biết:
- Khi có địa vị cao sang, phải biết nghe lời phê phán. Sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân thêm chính đáng (Tử vi với Cự môn)
- Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này là mất ngay cái kia (Thiên tướng với Thiên cơ)
- Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, dự trong sáng nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu (Thái dương và Thất sát).
Nếu mỗi người chịu sống là làm theo “ẩn ngộ” trong cấu trúc của các chính diệu nêu trên thì rõ ràng là đã giúp mình tìm một vị thế riêng trong 12,000 người cùng một lá số tử vi.
Cụ Thiên Lương nêu cao hai chữ Tài, Thọ, để thế nhân hoán cải phần số của mình, thiết tưởng không bỏ qua cả những cơ cấu chặt chẽ của tinh đẩu hình hại, tinh đẩu đối cung và tinh đẩu nhị hạp (mà cụ Thiên Lương là người đầu tiên phát hiện rõ sự trạng này) để ta thấy rõ cái bản thể của ta hơn.
Đời người theo tình lý của khoa tử vi chỉ là một “project schematique”, không một tha lực nào độ mạng cho ta được, đời ta là do ta gây dựng mà thôi. Cái thú chơi tử vi là vậy đấy. Khoa nghiệm lý tử vi không có tà thuật gì cả. Nó chỉ là một khoa chứa đựng nhiều tinh túy nhân bản của người xưa, nói về đạo sống ở đời. Ta thuộc về một lá số nào, thì ta phải cố mà bảo trì phát huy cái thuận lợi chứa trong lá số của mình từ đó các tật xấu (hoa hại) sẽ bớt đi. Chẳng khác nào ta biết được cái ưu, cái nhược của cái xe ta đi, nương theo đó mà bảo trì, sửa chửa thì xe lâu hư lâu cũ! Vậy thì, không nên chê trách các lá số kiểu Thiên không, mà cũng không nên tôn sùng quá đáng các lá số Thái tuế ! Xe honda có mau hơn tốc độ, nhưng xe đạp vẫn giúp ích cho đời nghèo chứ ? Vấn đề là dựa vào cấu trúc nhân cách (tính nhị hạp) địa cách (tính xung đối) thiên cách (tính hình hại) trong tử vi mà xử thế với đời, hai chữ thiên tài, thiên thọ nghiêm túc duy trì chính là học làm người tốt lành trong xã hội tiến bộ.
Nhìn chung mọi lá số tuy chứa 12,000 người kỳ thật lại xếp hạng từ thứ nhất, thứ nhì tới thứ 12,000 cả thẩy 512,000 lá số cho ta đủ 6 tỉ người có vị thứ khác nhau (mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười), đấy là sự thật rõ ràng nhất !
Hoàn cảnh sống, dòng dõi, nền giáo dục được hấp thụ, tất cả đúc kết lại thành “môi sinh” để mỗi người tự vươn lên, do đó việc có cùng một lá số tử vi, mà không ai giống ai (kể cả việc anh em song sinh) là tất nhiên vậy thôi. Lại nữa, con người cũng là một thứ sinh vật (như bao sinh vật và vật chất khác) luôn biến dịch theo luật tuần hoàn của vật chất, nghĩa là cùng chịu những chi phối của môi sinh (đồng thời cũng tác động lại để cải biến môi sinh), nên dù ở loại lá số nào (và xếp hạng cao thấp trong mỗi lá số) vẫn phải theo qui luật của môi sinh để trường tồn (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, thiên ở đây là cái lý tất nhiên tối cao, chứ không phải là mô thức Thượng đế nào). Tỉ dụ như muôn loài động vật đêm tối thì đi ngủ, trời mưa gió thì tìm chỗ ẩn náu.
Cái vi diệu của cuộc sống xã hội là có rất nhiều cái lý tối cao chi phối con người, nên dù ở lá số nào, người ta vẫn làm theo cái lý tối cao ấy (hoặc bằng vật chất, hoặc bằng tư duy) rồi trong khi thi hành theo lý tối cao của môi sinh, ta lại thấy có các trật tự khác nhau (vẫn là khác nhau!) giữa người này với người kia. Chẳng khác nào việc ta cùng nắm trong tay nhiều hòn bi màu (là các lá số khác nhau) rồi cùng một động tác duy nhất là ném ra xa (do một lý tối cao chi phối), thử xem kết quả ra sao? Không hòn bi nào nằm ngang cùng một khoảng cách đến bàn tay ném ra cả !
Cái trật tự, do lý tối cao chi phối các hòn bi ấy vẫn có mức độ khác nhau. Vậy thì cùng một môi sinh hun đúc các lá số tử vi vẫn phát triển một cách khác nhau. Đời người có may mắn có họa hại, chẳng qua là do cung cách đối nhân xử thế của mỗi cá nhân không có tha lực (thần quyền) nào dẫn dắt chúng sanh đâu !
Tác động qua lại giữa bản thể của ta với môi sinh, chính là nguồn gốc của họa phúc. Khoa tử vi giúp ta thấy được bản thể (cái thể xác thực là lá số tử vi của ta đang thuộc về) rồi tùy ta (tự do tính) định liệu xử lý với ngoại cảnh (cái dụng chân thành). Thể và dụng là chuỗi dài quá trình sinh hóa của con người khác nhau giữa người với người là chính ở ta “sống với môi sinh” của ta như thế nào thôi.
Cái thú của khách mộ điệu tử vi không phải là làm việc “bất xuất hô tri thiên hạ”, không phải làm “thầy” để “bói” đời hẳn nhiên chỉ ở chỗ: “Bất khuy dữ kiến thiên đạo” (không sống thừa không sống thiếu là thấy cái lý cùng thông của tạo vật, trong đó có ta).
Toán học thuần lý cho rằng “Les elements des nombres sont les des choses”, thì khoa tử vi cũng vẫn nghiệm cái lý: làm chủ bản thân hòa hợp với xã hội khi nào ta biết rõ cái số của ta vậy.
GS Lê Trung Hưng
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
1./ Bán khoán trẻ lên chùa là như thế nào?
Không biết quan niệm bán khoán trẻ lên chùa để cho dễ nuôi có từ bao giờ. Nhưng dường như quan niệm này đã trở thành như một tín ngưỡng dân gian. Đây là một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh.
Từ xưa đến nay, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc, còi cọc. chậm lớn mà không phải là do bị bệnh từ thân. Họ thường truyền tai nhau bảo những đứa trẻ đó phạm vào điều kỵ nào đó nên rất khó nuôi và hay ốm đau. Khi đó, nhiều gia đình mong muốn được nương nhờ vào Phật pháp, vào Thánh, vào sức mạnh của một đấng tối cao che chở cho con cái của họ. Cũng bởi thế mà tín ngưỡng bán khoán diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là với khu vực miền Bắc.
Như trường hợp của chị Hương (Gia Lâm, Hà Nội), đứa con trai của chị từ lúc sinh ra tới giờ ngày nào cũng quấy khóc, không chịu ăn, ngủ nhiều như con nhà người ta. Thấy con như vậy, cả gia đình chị mất ăn, mất ngủ, thậm chí bà nội cháu chạy khắp nơi xem xét, làm đủ mọi cách, kể cả lên chùa thắp hương cầu an. Nhiều người biết đã khuyên bà nên bán khoán cháu lên chùa cho dễ nuôi. Thế là cả gia đình bế cháu lên ngôi chùa gần nhà làm lễ bán khoán cho cháu với mong muốn cháu ăn ngon ngủ yên, dễ nuôi.
Hay có những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch). Nhiều gia đình cho rằng, đó là những ngày xấu theo quan niệm dân gian, người dân không nên ra ngoài đường, để tránh sự quở trách của “quan đi tuần”?! Những đứa trẻ này cho dù bình thường, không ốm đau gì nhưng vẫn được bán khoán lên chùa để tránh những điều không tốt và dễ nuôi.
Bà Lâm ở Đông Hưng, Thái Bình là trường hợp như vậy. Bà cho biết bà có hai đứa cháu nội sinh ngày mồng 5 và 23 bà đều bán lên ngôi chùa gần nhà ngay từ khi chúng đầy tháng. Và “Nhờ Đức Phật che chở, đứa nào cùng dễ nuôi, ngoan ngoan, thông minh” bà cười bảo thế. Mấy hôm nay, bà lên Hà Nội thăm đứa cháu ngoại mới sinh và tiện thể giúp vợ chồng con gái bán đứa trẻ lên chùa vì đứa trẻ cũng sinh 15 hôm nọ.
Bên cạnh đó còn rất nhiều trường hợp khác đứa trẻ cũng được bán khoán lên chùa để mong muốn giải những điều không hay và dễ nuôi. Như trường hợp đứa trẻ xung khắc với tuổi bố mẹ, ông bà. Hay chỉ là một lần đi xem bói, xem tử vi, thấy thầy bảo rằng “đứa trẻ cao số, sau này sẽ khổ” hoặc “tán tài của cha mẹ” tức bố mẹ làm ăn sẽ không tốt (?!)
2./ Các hình thức bán khoán trẻ lên chùa
Hiện nay, có hai hình thức bán khoán con lên chùa:
- Thứ nhất: Bán khoán đến hết năm 13 tuổi, sau đó “chuộc” con ra.
Theo quan điểm dân gian, năm 13 tuổi là năm tuổi hạn. Qua năm năm này, đứa trẻ sẽ hết “đốt” trẻ con, hết vận hạn nên có thể chuộc về và nuôi như những đứa trẻ bình thường.
- Thứ hai: Bán khoán trọn đời.
Có nghĩa là bán khoán cả đời đứa trẻ trên chùa, không bao giờ chuộc về cả. Trường hợp này thường đối với những đứa trẻ được coi là “cao số” hay “có số khổ cả đời”.
Gia đình nào muốn bán khoán con, có thể lên bất kỳ ngôi chùa nào, hoặc chọn chùa ở gần nhà, hỏi sư thầy về mặt thủ tục và thời gian thực hiện. Khi đã bán khoán con, bố mẹ cũng không nhất thiết là đi chùa đều đặn hàng tháng. Quan trọng nhất, bố mẹ và con nên làm nhiều việc thiện, giúp đỡ mọi người. Nếu có thời gian rỗi, vào ngày mùng Một hay ngày 15 hàng tháng, tính theo lịch âm, hoặc bất cứ khi nào có thời gian rảnh, các bố mẹ có thể lên chùa vãn cảnh cầu an cho cả gia đình.
3./ Thực tế và hiệu quả sau khi bán khoán con lên chùa?
Tuy nhiên, sau khi bán khoán con lên chùa có dễ nuôi hay không, đến nay chưa được xác nhận một cách chính xác và cụ thể. Thậm chí, nhiều người còn lo ngại lợi bất cập hại, bán khoán con lên chùa, sau này lớn lên, con sẽ gặp lận đận trong tình duyên và hôn nhân?
Chị Nguyễn Thu Linh (Vĩnh Hồ, Hà Nội) cho biết, cậu con trai của chị khá nghịch. Hồi nhỏ, khi thấy con hay ốm đau, người lúc nào cũng xanh lét như tàu lá chuối, chị đã đưa con đi khám hết bệnh viện Nhi Trung ương đến viện Dinh dưỡng Quốc gia để cải thiện thể trạng. Thế nhưng, con chị vẫn thường xuyên đau ốm, còi cọc. Mãi đến khi con được 5 tuổi, chị đi xem “thầy” và được khuyên nên bán khoán con vào cửa Đức Ông ở chùa để ngài che chở. Tuy nhiên, theo “thầy” thì chị chỉ cần bán con đến hết 12 tuổi và “chuộc” con về. Theo lịch hẹn, đến Rằm tháng Hai âm lịch, chị sẽ đến chùa làm lễ “chuộc” con.
Theo chị Linh, thủ tục bán khoán cho con rất đơn giản. Chỉ cần sắm mâm lễ theo lời thầy dặn, còn việc thủ tục, cúng bái sẽ được thầy lo toàn bộ. Chi phí để làm lễ bán khoán khoảng 2 triệu đồng. “Sau khi làm lễ bán khoán, thầy có đưa một tờ giấy màu vàng (kiểu như tờ sớ), trong đó có ghi tên của đứa trẻ đã được “thay tên đổi họ” cho gia đình mang về. Một nguyên tắc bất di bất dịch là gia đình phải mua lễ và phải đặt tờ giấy đó lên bàn thờ gia tiên thắp hương trong vòng 100 ngày. Khi “chuộc” con, gia đình nhất định phải mang theo tờ giấy này”, chị Linh chia sẻ.
Cũng theo chị Linh, từ khi bán khoán cho con, đứa trẻ ít ốm đau hơn nhưng người lúc nào cũng xanh xao, gầy guộc. Chị Linh bảo rằng: “Không bán khoán cho con thì không yên tâm. Nhưng bán khoán có khiến con dễ nuôi hơn hay không thì tôi cũng không biết thực hư thế nào. Nghe bà ngoại bảo, sau này lớn lên, con sẽ gặp lận đận trong tình duyên và hôn nhân nữa”, chị Linh nói.
Các nhà nghiên cứu văn hóa, tín ngưỡng dân gian cho rằng:
Bán khoán con lên chùa là việc xuất phát từ tâm linh, bắt nguồn từ sự thành tâm hướng thiện và mong con cái gặp nhiều may mắn. Bán khoán con lên chùa có dễ nuôi hay không, đến nay chưa được xác nhận một cách chính xác và cụ thể. Đây là vấn đề thuộc về tâm lý của mỗi gia đình.
Với các bé mới sinh ra, hay ốm đau lặt vặt: mọc răng sẽ sốt, rối loạn tiêu hóa, dễ viêm phổi hay viêm phế quản. Khi bé lên 3 tuổi, lúc đó bé đã quen với môi trường sống, sức đề kháng tốt hơn. Bé sẽ không ốm đau liên tục hay ốm vặt liên miên như hồi bé tí. Lúc đó chắc chắn là bé sẽ nuôi hơn rồi.
Trong việc nuôi dạy con, bố mẹ chú ý giữ gìn cho con ăn sạch và không tiếp xúc với môi trường dễ khiến con nhiễm bệnh. Bố mẹ nên dành nhiều thời gian chăm sóc, quan tâm dạy dỗ con. Làm được những điều này, dù có bán khoán hay không bán khoán con lên chùa, con cũng đỡ ốm đau, lớn lên ngoan ngoãn, khỏe mạnh.
Nếu có thời gian rỗi, vào ngày mùng một hay ngày 15 hàng tháng, tính theo lịch âm hoặc bất cứ khi nào có thời gian rảnh, các bố mẹ có thể lên chùa vãn cảnh cầu an cho cả gia đình.
Còn những người trong cuộc, những ngôi chùa nhận những đứa trẻ bán khoán nói sao?
Đề cập tới vấn đề này, Thượng tọa Thích Thiện Bảo, Trưởng Ban Văn hóa Thành hội Phật giáo TPHCM chia sẻ:
Việc bán con chỉ giải quyết về mặt niềm tin tôn giáo. Các thủ tục bán con thường chỉ bằng miệng, bố mẹ thấy con khó nuôi thì đưa cháu lên chùa. Tại đây thầy trụ trì sẽ chọn ngày và lên chánh điện làm lễ. Buổi lễ diễn ra cũng rất nhanh chóng, thầy thắp hương và bạch Phật, sau đó dùng nước sái tịnh và lấy tay xoa đầu cho bé.
Sau đó thầy đặt cho một cái tên (tên này khác với ý nghĩa của pháp danh). Đây chỉ là cái tên của thầy đặt cho để công nhận bé là người của nhà chùa. Một số thầy cũng có thể đưa cho bé một bộ đồ vàng có dấu nhà chùa hay tượng Phật để đeo…
Sau khi làm lễ xong, bố mẹ bé có thể đưa bé ra về. Việc làm này chỉ nhằm giúp bố mẹ trẻ nuôi bé dễ hơn. Việc bán con này phổ biến diễn ra ở các vùng nông thôn, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc.
Cũng theo Đại đức Thích Bản Quyền - trụ trì chùa Phúc Long (Hải Phòng), có nhiều gia đình bán khoán con cả đời và không chuộc ra. Việc bán con này chỉ là hình thức nói miệng để nương nhờ oai đức của chư Tăng, Thiên thần và sự gia hộ của chư Phật cho đứa trẻ. “Gửi trẻ vào cửa Phật, đặt một cái tên khác để giúp cho bé dễ nuôi chứ có phải đi tu đâu mà ảnh hưởng đến hôn nhân và công danh của bé sau này”.
Tuy việc làm này hỗ trợ niềm tin nhưng cũng không nên quá lạm dụng. Có những gia đình vì quá tin vào thầy bói, khi nghe phán là cháu khắc với cha mẹ, sinh cháu ra sẽ làm ăn lụn bại hay đoản mệnh… thì tìm cách bán khoán cháu, để chùa nuôi là điều không nên./
Theo Văn hóa dân gian.
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1. Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2. Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không, Kiếp
3. Đời là bể khổ: cung ách
4. Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5. Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6. Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7. Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8. Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9. Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10. Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết:
1- Sinh bất phùng thời :
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )
2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :
- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )
- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3- Đời là bể khổ : Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy).
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...
4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”
Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5- Đen như mõm chó:
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :
– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?
6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9- Được làm vua thua làm giặc:
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10- Anh hùng tạo thời thế:
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Con người ai cũng có mong cầu hạnh phúc, nhưng không mấy người hiểu được con đường tới hạnh phúc ở nơi đâu. Thực ra, hạnh phúc không phải ở chỗ có được nhiều, mà đơn giản chỉ là cảm thấy đủ.
Một cô gái ban đầu mới tới Paris sinh sống đã rất ngạc nhiên với con người nơi đây. Nhưng sau nhiều năm sinh sống cùng họ, cô đã hiểu ra rất nhiều điều về văn hóa của người Paris. Hãy cùng đọc ba câu chuyện mà cô đã trải nghiệm:
Lần đầu tiên tới Paris, tôi mang theo lời ủy thác của ông nội tôi, đó là thay ông đến hỏi thăm quán cà phê năm xưa mà ông yêu thích nhất ở Paris.
Tôi thầm nghĩ, hương vị của cà phê Paris có thể lưu lại đến nửa thế kỷ sao? Tôi thực sự không tin! Tôi liền lên Google kiểm tra một chút về nó, thật không ngờ quán cà phê đó vẫn còn tồn tại, thậm chí ngay cả địa chỉ cũng không thay đổi. Tôi bị kích động rất mạnh và quyết định đi tới đó ngay lập tức.
Đi tới quán cà phê, bước vào cửa và nhìn xung quanh, điều khiến tôi giật mình chính là trong quầy ba, một bà lão tóc bạc đang chăm chú điều chế cà phê.
Tôi đi đến trước mặt bà và xúc động lấy ra bức ảnh mà năm đó ông tôi chụp ở đây. Bà cũng rất xúc động, rồi bà chỉ vào một cô gái bán cà phê trong tấm ảnh và nói đó là bà, tên là Sophia.
Lúc này tôi không chỉ là xúc động vì đã tìm được bạn cũ của ông nội, mà còn là cảm động về Paris.
Quán cà phê đã nửa thế kỷ, ngay cả nhân viên cũng không thay đổi, những bông hoa ở trước cửa vẫn là loài hoa năm xưa…
Tôi hỏi bà Sophia: “Bà ơi! Tại sao bà không mở rộng quán cà phê này ra? Ít nhất trước cửa cũng treo biển hiệu chữ vàng “Quán cà phê lâu năm” chẳng hạn?”
Bà Sophia cười và nói: “Nếu làm như vậy, quán cà phê của ta còn có thể khiến ông nội cháu nhớ mãi được sao?”
Tôi chợt biết rằng, quán cà phê này cũng giống bà Sophia, giống cả Paris đều an phận với chính mình chứ không ào ào bắt chước hay làm theo người khác mà thay đổi điều mình mong muốn.
50 năm trước một người đàn ông trẻ tuổi ngồi đó thưởng thức cà phê, 50 năm sau cháu gái của ông ấy cũng ngồi ở chính nơi đó thưởng thức cà phê. Hơn nữa, chủ quán cà phê vẫn là người ấy chỉ khác là đầu bà đã bạc trắng, nhưng vẫn với thái độ vui tươi, say sưa điều chế cà phê như xưa.
Ngay lúc này, trong lòng tôi trào dâng một cảm giác thật khó tả…
Tại Paris, phô mai Matthew là loại thực phẩm duy nhất khiến tôi bỏ tiền mua ngay mà không cần phải suy nghĩ gì bởi hương vị tuyệt vời của nó.
Từ khi cửa hàng này được một vị đạo diễn nổi tiếng của Hollywood tới quay hình cho một buổi giao lưu doanh nhân thành đạt thì nó càng trở nên nổi tiếng hơn rất nhiều. Cũng chính vì vậy, tôi đã hoài nghi rằng mình có thể không còn được chứng kiến nụ cười sáng lạn của ông Matthew trước quầy hàng mỗi lần tới đây mua phô mai nữa.
Nhưng mà ông Matthew vẫn y như trước đây, vẫn tươi cười niềm nở với những sinh viên khi vào quán của ông mua hàng và giới thiệu: “Xin chào! Phô mai Matthew là tự tay Matthew làm nhé!”
Mặc dù bây giờ người đến mua phô mai Matthew đều phải đứng xếp hàng dài, nhưng ông Matthew vẫn chỉ nhận rằng: “Tôi chỉ là một người yêu thích làm phô mai, miệt mài làm việc, rời xa phiền toái.”
Ông thậm chí còn từ chối rất nhiều những đơn đặt hàng lớn tại các chuỗi siêu thị.
Ông nói: “Chúng tôi ở đây vô cùng vui vẻ, những gì đang có hiện tại tôi cảm thấy rất hài lòng, tôi cảm thấy đã đủ rồi!”
Ông Matthew cũng nói:
“Tôi cũng không giàu có! Nhưng tiền đối với tôi mà nói giống như bánh pudding vậy, nhiều quá nó sẽ phá hủy răng của tôi!”
Tôi đã hiểu rằng trong con người ông Matthew dường như luôn có tồn tại một loại cảm giác “thấy đủ rồi!”.
Gia tộc nhà bạn tôi – Malena nổi tiếng với nghề kinh doanh hàng thêu, xưởng thêu nhà họ là một trong hai công xưởng thêu thủ công còn tồn tại của Paris. Một xưởng thêu kia mới bán lại cho hãng Chanel.
Hàng năm, các nhà thiết kế nổi tiếng ở nước Pháp sẽ gửi những bản vẽ phác thảo đến đặt hàng họ thêu. Những thương hiệu nổi tiếng như LV, Chanel, Dior… đều cho người đến đàm phán với xưởng thêu để ký kết hợp tác. Nhưng mẹ của Malena cho rằng: “Như vậy thì chúng tôi sẽ biến thành một mắt xích trong dây chuyền sản xuất hàng xa xỉ phẩm của các tập đoàn nổi tiếng và sẽ bận rộn hết ngày này sang ngày khác.”
“Sau đó, ngay cả thời gian để may váy cưới hay lễ phục tốt nghiệp cho con gái của mình tôi cũng không có nữa. Tôi còn muốn may cả váy cưới cho cháu gái của tôi nữa. Chúng tôi không cần phải khiến mình trở nên hùng mạnh, bởi vì chúng tôi luôn được làm điều mình muốn, thế là đủ rồi!”
Sau khi sống ở Paris một thời gian lâu dài, tôi phát hiện, mỗi người ở đây đều tự có vị trí riêng của mình. Sự tự tin của họ không phải nhờ so sánh với người khác, mà nằm ở chỗ họ có thể là chính mình bất kể lúc nào.
Thầy giáo của tôi thường nhắc nhở chúng tôi rằng: “Kỳ thực, hạnh phúc là khi chúng ta không có quá nhiều ham muốn.”
Một người sáng suốt luôn có một âm thanh trong lòng tự nhắc nhở mình: “Càng có nhiều không đồng nghĩa với càng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải nằm ở có bao nhiêu mà nằm ở ‘thấy đủ’ là được rồi.”
=> ## cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ |
![]() |
Ảnh minh họa |
Bạn xứng đáng được dành thời gian cho những điều hạnh phúc và ý nghĩa hơn là ngồi một chỗ buồn rầu vì những điều không thể thay đổi được.
1. Tạo ra hạnh phúc từ bên trong
Nếu muốn có hạnh phúc thực sự, bạn không nên phụ thuộc quá nhiều vào những yếu tố bên ngoài. Một khi những điều đó mất đi, tâm trạng của bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng theo. Chỉ có hạnh phúc từ bên trong, sự yên bình trong tâm hồn mới có thể giữ cho tinh thần bạn luôn bình tĩnh và khỏe mạnh.
2. Luyện tập cách suy nghĩ tích cực
Suy nghĩ ảnh hưởng đến hành động, nên nếu cứ nghĩ mọi thứ theo hướng tiêu cực, tương lai của bạn sẽ chỉ còn toàn một màu đen tối. Hãy luôn nhắc nhở bản thân tìm đến những hướng suy nghĩ tích cự. Vấn đề gì cũng có hai mặt, nếu bạn đang vô tình buồn rầu vì mặt trái của nó, hãy thử suy nghĩ đến cả mặt phải nữa.
3. Tìm kiếm lí do để tự tin vào bản thân
Dù có rất nhiều người bạn phải vượt qua, nhưng một khi đã tin tưởng vào bản thân thì những gì còn lại chẳng còn là vấn đề nữa. Kể cả khi tuyệt vọng chán nản nhất, sẽ luôn có lí do để bạn tin tưởng vào bản thân mình. Bởi mỗi người sinh ra đều có một giá trị nào đó và chỉ riêng việc bạn xuất hiện trên đời đã là một giá trị rồi.
4. Tránh xa những người tiêu cực
Khi luôn có những suy nghĩ tiêu cực, bạn không thể làm điều gì tốt đẹp cho người khác. Những người tiêu cực cũng vậy. Nếu bạn dễ bị ảnh hưởng bởi xung quanh, những người hay than thở sẽ khiến bạn căng thẳng về vấn đề của họ. Mặt khác, ở gần những người vui vẻ sẽ cho bạn thời gian tràn đầy năng lượng và sáng tạo trước các vấn đề cần giải quyết.
5. Thường xuyên tập thể dục
Thể chất thường xuyên được tập luyện sẽ giúp cơ thể giải phóng hoocmon có lợi cho “cảm giác tích cực”. Hãy đối xử tử tế với cơ thể đã chăm chỉ vì bạn lao động không ngừng nghỉ, đổi lại, cơ thể sẽ giúp bạn giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lượng vui vẻ. Hơn nữa, một cơ thể khỏe mạnh thì làm gì cũng thuận lợi hơn.
6. Dành thời gian ngoài thiên nhiên
Giống như một phương pháp thư giãn, trở về với thiên nhiên đem lại cho bạn cảm giác được thanh lọc tâm hồn và thể chất. Sau những giờ phút vất vả với bộn bề công việc, đi dạo một chút và tận hưởng cảnh đẹp của cây cối sẽ khiến suy nghĩ của bạn thông suốt hơn.
7. Tránh chi tiêu bừa bãi
“Mua những gì bạn cần, đừng mua những gì bạn muốn”. Ngày nay, tình trạng nhìn đâu cũng thấy giảm giá dễ khiến chúng ta đau đầu khổ sở khi muốn ôm tất cả về nhà. Nhưng vì một “tương lai xa hơn”, bạn nên dành những gì mình có cho việc đầu tư hoặc khám phá những trải nghiệm mới. Chẳng có ai “khánh kiệt” mà lại vui vẻ cả.
8. Đón nhận thất bại
Cũng giống như hai mặt vấn đề, cuộc sống cũng luôn có thành công và thất bại, và thất bại là cách duy nhất để bạn có thể học hỏi và trưởng thành. Nếu bạn thất bại, chỉ cần đứng lên và làm lại từ đầu thôi. Nhờ đó, bạn sẽ thấy mình có thêm nhiều kinh nghiệm và tốt lên từng ngày.
9. Sẵn sàng chịu trách nhiệm
Những người tích cực luôn chịu trách nhiệm về chính cuộc sống của mình. Thay vì mệt mỏi trước những thứ ngoài tầm kiểm soát, họ có thể vui vẻ vì đó là lỗi của mình và mình hoàn toàn thay đổi được. Một người tích cực ít khi đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh hoặc người khác, vì đó chỉ là cách trốn tránh mà thôi.
10. Học cách kiểm soát suy nghĩ
Đôi khi những suy nghĩ tiêu cực có thể bất ngờ “xâm lấn” tâm trí bạn lúc nào không hay. Những lúc này, bạn có thể tìm cách để bản thân nghĩ đến việc khác, như đọc một cuốn sách, xem một bộ phim, hoặc làm những công việc chân tay. Nếu không thể kiểm soát cảm xúc, bạn cũng sẽ không thể kiểm soát hành động và vì thế sẽ không có một ngày vui vẻ.
11. Biết lúc nào cần nói “không”
Nói “không” đúng lúc là một kĩ năng cần phải học. Để trở nên tích cực và lạc quan, bạn không thể cứ đồng ý làm những điều mà mình không thích, nói những điều mà mình không muốn. Sức mạnh của sự từ chối sẽ khiến bạn ngạc nhiên một khi nhận ra giá trị của nó. Hãy ưu tiên nhu cầu của bản thân trước khi cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người.
12. Không để những gì người khác nói ảnh hưởng
Chỉ có bạn mới có thể sống cuộc đời của bạn. Dù người khác có nói gì, họ cũng không phải là bạn và không thể hiểu được hoàn toàn những gì bạn đang phải trải qua. Mọi bình luận tiêu cực sẽ chìm vào quên lãng khi họ biết bạn có chính kiến riêng và có không cần nói bạn cũng làm tốt việc của mình.
Từ tài liệu quyển thượng Số Tử vi kinh nghiệm của Quản Xuân Thịnh
1- Thân chủ
2- Mệnh chủ
Ví dụ: Người tuổi Hợi, mệnh chủ CỰ MÔN và Thân chủ THIÊN CƠ. Tìm sao CỰ MÔN và THIÊN CƠ đóng đâu, biên chữ Mệnh chủ và Thân chủ vào (ngày nay, các nhà Tử vi thường ghi vào giữa cung trung tâm của lá số đê dễ theo dõi). Hai sao này can hệ ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời mình
Và ở 1 bài viết khác trên mạng, ngoài phần chỉ cách an, họ có nói ý nghĩa trong việc luận giải.
Khi Thân / Mệnh chủ đồng cư một Cung thì coi như Tâm hồn (tinh thần) và thể lực của mình đều đặt trọng tâm vào Cung đó, Cung này biến thành Cung có thể nói là tối quan trọng trong việc truy cầu suốt đời mình (có truy cầu được hay không là chuyện khác, là do Cát Hung của Cung này ra sao và Thân / Mệnh chủ có ngộ Sát tinh, Không – Kiếp … Không vong … gì hay không).
Nếu cung đó là Mệnh / Thân cung thì lúc này Thân / Mệnh chủ có thể trực tiếp đứng ra quản trị lá số (Trên quyền lực của cả Chính tinh), nhưng điều này chỉ là lý thuyết, chưa được kiểm chứng rộng rãi.
Đối với Chính tinh Thì kết hợp với TC/ MC để xét đoán về Tư tưởng / Hình dáng / Tính tình..
Đối với TRUNG/ TIỂU TINH thì xét đoán theo Tổ hợp (Bộ sao / Công thức).
Ví dụ: Mệnh cư Tý có Riêu – Kỵ hợp chiếu, MC là Cự môn (Mệnh cung không có Chính tinh là Cự môn), thì thưở nhỏ có lần (hoặc 2,3 lần) bị té sông, té biển gần chết. Vì đã vô tình hình thành cách Riêu Cự Kỵ = bị Thủy nạn, nếu hội tại cung Sửu thì có thể té xuống chỗ nước có bùn, đá, hay ao hồ hoang vu (Sửu cung = vu đàm, chỗ đất bùn, lầy lội).
3- Mệnh cung thiên can
MỆNH CUNG có Địa chi và Thiên Can, xưa nay chúng ta thường sử dụng Địa chi để luận đoán mà nhiều khi quên mất Tính cách của Thiên can. Nay xin phụ bổ một ít Tính chất của Thiên Can của Mệnh cung (MC).
Như vậy, chỉ cần biết MC Thiên can của một người là ta có thể đoán sơ được vài cá tình căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số.
Làm thế nào để biết Mệnh cung Thiên can là gì?
Dùng Lịch của Năm sinh mà truy, ví dụ sinh năm 1980, Mệnh cung tại THÌN thì Mệnh Can (Mệnh cung Thiên Can) là CANH.
Can Chi của Mệnh cung như vậy là Canh Thìn, Canh Thìn có Nạp Âm là KIM, và Kim ở đây chính là CỤC số.
Nếu không thì dùng Ngủ Hồ độn:
Mệnh Can còn có những đặc tính sau:
MỆNH CUNG là
*** TAM TÀI phối với MC THIÊN CAN
Các Lý Thuyết về TAM TÀI lâu nay bị bưng bít, một vài Trưởng lão thủ đắc được chiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn hậu bối giựt mình, chơi như vậy là không công bằng, nên hôm nay tui xin được công bố, vì thế Quý vị không nên xem thường Chiêu này, nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lại dấu kỹ như vậy???
Thiên Địa Nhân
QUÝ là chỗ Vị trí không dựa vào thế lực của THIÊN / ĐỊA / NHÂN (TAM TÀI).
Ví dụ muốn biết GIÁP là gì, ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên.
Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên.
Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên.
KỶ, theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân.
Vậy:
Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt.
HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ.
HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ
* HÀNG DỌC = BẢN VI:
GIÁP ĐINH CANH nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN.
ẤT MẬU TÂN nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA.
BÍNH KỶ NHÂM nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN.
* HÀNG NGANG = CẤP SỐ.
Chữ THIÊN/ ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ, VÌĐỂ CHỈ CẤP SỐ.
*** ĐIỂM CHÍNH YẾU LÀ HÀNG DỌC / HÀNG NGANG CHỈ LÀ CẤP SỐ.
Như chữ ĐINH, Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI, và có Cấp số là ĐỊA (TRUNG) Nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời, nhưng chỉ ở mức TRUNG ĐẲNG. Chưa phải là Cao nhất vì cao nhất là Thiên chi Thiên.
Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI,
Nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN (HẠ ĐẲNG).
Ví dụ MC TC có NHÂM = Nhân,
Có nghĩa là người này nắm được, sở hữu được tính Nhân hòa, tức là được lòng người chung quanh (Bà con, hàng xóm.. tuy rằng ở Mức độ không cao vì chỉ cóCấp số là NHÂN (HẠ đẳng).
Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ..v.v
TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa, chẳng hạn như mở Quán Phở, tài nghệ nấu nướng thì dưới trung bình,quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.
Như vậy khi MC TC = NHÂM, tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa.
NHÂN chi THIÊN = Nắm được THIÊN THỜI, nhưng ở Mức THẤP NHẤT (chữ NHÂN).
TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠI/ TIỂU HẠN:
Ví dụ:
LƯU ĐẠI HẠN QUAN có TC = ĐINH, Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời, nhưng nếuTiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM /hoặc MẤT Thiên thời.
Như LƯU ĐẠI HẠN TÀI có TC = ẤT, tức L.TÀI hưởng được Địa lợi, nếu Tiểu hạn là năm TÂN, Kim khắc Mộc, làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài.
Cũng vậy, Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH, tức được Nhân Hòa, nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân, thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhân hòa. (Phải an Thiên Can theo Năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy Thuận vòng cho đến cung Sửu)
Ngược lại, những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt, cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc mà suy.
NGUỒN GỐC CỦA TAM TÀI
Tý Sửu Dần 3 Cung là nơi khai thủy của Tam Tài, Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân sự, mà Dần là cung khởi thủy của Nhân, do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân/ Mệnh.
CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI
Do vậy, cứ theo Đia chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài.
ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI
MC Tam Tài dùng xem xét số phận 1 người được hưởng Thiên thời / Địa lợi /Nhân hòa như thế nào, cao thấp ra sao, nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1lá số.
Tại Vận trình (Đại / Tiểu Hạn) Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào, có nên lộ mặt ra (làm ăn, hoạt động..) hay không hay nên ẩn nhẫn, nên làm gì trong Đại/ Tiểu Hạn này, mức độ thành công cao thấp như thế nào.v.v
Tác giả: Ma Y Cung
Nguồn: tuvilyso.net
Hiện tượng: Phía trên cửa chính hoặc cửa phòng nếu có đầm ngang đi song song qua sẽ xuất hiện tình trạng cửa bị ép, người sống trong nhà sẽ có gánh nặng về tâm lý, áp lực trầm trọng, bất lợi cho học hành, công tác và sinh hoạt, ở lâu như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt tới sửc khỏe.
Phương pháp hóa giải: Lấy một tấm gỗ, dùng Chu Sa viết lên đó hai chừ “Nhất Thiện”, sau đó đem đến Dương Miếu thắp hương, chọn ngày đẹp để đột lên phía bên trên cửa.
1. Cầu tình duyên
- Chuyện những chàng trai, cô gái đã lớn tuổi mà vẫn chưa có gia đình, hay đến mức còn chưa có người yêu đều không phải là do chủ quan chưa muốn có gia đình hay người yêu của người đó. Thực tế của vấn đề chưa có tình duyên hay chưa lập gia đình khi tuổi đã lớn là do yếu tố phong thủy ngôi nhà không đúng và chưa kích hoạt được cung nhân duyên trong ngôi nhà.
- Để cầu duyên cho những chàng trai, cô gái đã lớn tuổi mà chưa có người yêu hay “khó lấy”, Thì có 1 phương pháp rất hiệu nghiệm và tác dụng nhanh khi kết hợp với các linh vật phong thủy. Nếu áp dụng đúng thì chỉ trong vòng thời gian ngắn sẽ có kết quả ngay:
1- Xác định cung mệnh của người cần tình duyên hôn nhân.
2- Xác định Hướng Cung vị tạo nên khí “Diên Niên” của người đó trong ngôi nhà.
3- Đặt giường ngủ của người đó tại cung “Diên Niên”, quay về hướng Sinh Khí hoặc Diên Niên.
4- Đặt bếp lò quay lưng về phương lục sát hoặc phương hung so với mệnh chủ nhà, và bếp hướng về phương Diên Niên. - Nếu Xử lý phong thủy đúng như trên thì thời gian ứng nghiệm sớm nhất là nửa năm.
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
► ## gửi tới bạn đọc công cụ coi ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn niên 2017 |
![]() |
Ảnh minh họa |
1. Rồng
![]() |
Rồng là biểu tượng may mắn phổ biến trong dân gian từ xưa đến nay. Chỉ cần để trong nhà hoặc văn phòng làm việc một bức họa hay bức tượng hình con rồng cũng đủ để thu hút nguồn năng lượng tích cực, mang đến sự phú quý cho bạn. Đặc biệt là những bức tượng hoặc tranh hình con rồng với tông màu xanh lá, đỏ hoặc tím sẽ đem lại sự thịnh vượng trường tồn.
Bạn có thể chọn các biểu tượng rồng để trang trí ngôi nhà như: tranh ảnh, tượng, bát đĩa, lọ gốm sứ hoặc các đồ vật khác, miễn là có hình con rồng. Và nhớ là phải đặt chúng ở hướng tài lộc của bạn nhé.
2. Phúc Cẩu
![]() |
Trang trí cổng nhà hoặc cửa chính bằng một cặp chó đá khá giống sư tử hay còn gọi là "Phúc Cẩu" rất phổ biến ở Trung Quốc và các nước Châu Á khác. Phúc cẩu có tác dụng canh giữ và bảo vệ gia chủ khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài xâm lấn, ngay cả khi gia chủ không ở nhà. Kích thước của bức tượng không làm ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ của nó theo phong thủy. Tuy nhiên, nên cố gắng để hòa hợp giữa kích thước ngôi nhà của bạn và cặp tượng đá để đem lại hiệu quả tốt nhất.
3. Cá vàng
![]() |
Nuôi một bể cá vàng sẽ giúp đem lại tiền tài cho gia chủ. Lưu ý là nếu số cá vàng là số lẻ, sẽ làm tăng vận khí may mắn của bạn, giúp bạn ngày càng phát đạt hơn. Còn nếu số cá vàng là số chẵn, sẽ giúp bảo vệ và duy trì mức độ giàu có và của cải hiện tại của bạn. Nếu phát hiện cá trong bể bị chết hoặc có vấn đề bệnh tật, nên thay ngay.
4. Cóc ba chân ngậm tiền xu (Thiềm Thừ)
![]() |
Tương truyền từ thời xa xưa, có một người nông dân đã cứu một con cóc khỏi một cái giếng và thế là ngày nào con cóc đó cũng ngậm trong miệng một đồng vàng mang tặng ân nhân của mình để báo đáp ơn cứu mạng, Từ đó, hình ảnh con cóc đại diện cho kho tiền "từ trên trời rơi xuống", nếu ai sở hữu một bức tượng con cóc ba chân ngậm đồng xu sẽ ngập trong tiền bạc và giàu sang. Khi đặt tượng cóc trong nhà, lưu ý phải để đầu con cóc hướng vào trong nhà, tuyệt đối không để hướng ra ngoài. Nếu không, tiền bạc sẽ theo hướng đó mà đi ra khỏi nhà bạn đấy.
5. Những linh vật khác
![]() |
Hạc... |
![]() |
...Voi |
![]() |
...và Rùa cũng là linh vật mang lại tấn tài tấn lộc cho gia chủ |
Ngoài những linh vật kể trên, còn có một số các linh vật khác cũng gắn liền với sự may mắn, sung túc như:
Chim hạc - biểu tượng của sự trường thọ và may mắn,
Voi - giúp chủ nhà làm ăn yên ổn, hạnh phúc,
Rùa - đại diện linh thiêng của phúc lộc dồi dào, hanh thông.
Để tượng hoăc tranh có hình ảnh những loài vật này trong nhà sẽ mang lại cho bạn hạnh phúc ấm êm, đầy đủ cả Phúc - Lộc - Thọ.
Alexandra V (theo Exemplore)
ẽ có những ảnh hưởng sau:
Phong thủy học truyền thống cho rằng, nếu rải quá nhiều đá sẽ làm tiêu hao hơi khí của đất, ảnh hưởng đến cây trồng, tổn thương tới dương khí.
Đá hấp thụ nhiệt lượng rất lớn nhưng khả năng tản nhiệt lại rất chậm. Dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, đá sẽ giữ lại nhiệt lượng và phản xạ nhiệt lượng ra ngoài, nhiệt lượng này tỷ lệ thuận với số đá được rải trong sân vườn, khiến cho bạn có cảm giác nóng nực. Vào mùa đông giá lạnh, đá hút khí ẩm ban ngày, khiến xung quanh càng thêm lạnh lẽo, bạn ra đó có thể bị nhiễm lạnh. Trong những ngày mưa, rải nhiều đá cuội sẽ cản trở sự bay hơi của nước đọng, càng làm tăng độ ẩm, làm nặng thêm hơi ẩm trong nhà.
Mặt khác, trong sân vườn rải quá nhiều đá cuội, thì khi bước, bàn chân cảm thấy chộn rộn không thoải mái, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng là trật khớp, bong gân.
Vì vậy, khi lát, rải đá cần chú ý:
Trang trí đá tại sân vườn cần tăng cường dùng những vật liệu cứng nhân tạo hoặc có sự gia công của con người như khắc đá, khắc gỗ, chậu cảnh, đài phun nước, hòn non bộ và các cảnh quan mềm như trồng cỏ, bụi cây thấp, bồn nước, xen kẽ nhau, hỗ trợ nhau, thông qua cảnh quan toàn bộ ngôi nhà để thể hiện nét văn hóa sâu đậm.
Khi lát, rải đá, phải lựa chọn đá sao cho có kích thước vừa phải và mang tính thực dụng cho cả ngôi nhà. Nếu diện tích sân vườn rộng, có thể rải ít đá cuội có kích cỡ lớn, nhỏ khác nhau, phải lát, rải thật cẩn thận tỉ mỉ và trồng xen kẽ với cỏ để tăng thêm mỹ quan và tránh được tác hại do đá cuội gây ra.
► Tự xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân |
![]() |
Ảnh minh họa |
Bài viết của tác giả Cao Trung và Nhất Quán
Người Việt Nam không thiếu nhân tài, nhưng tinh thần tự lập ta phải phát huy không nên chỉ chờ học sáng kiến của người. Về học thuật tư tưởng ta bị lệ thuộc vào Nho, Lão, Phật của Trung Hoa quá nhiều nên suốt 1000 năm bắc thuộc ta cứ lúng túng đi học người. Đến nhà Lý mới có tinh thần tự lập về Phật học.
Các khoa Tử vi cũng vậy, xưa nay ta chỉ tham khảo và theo sách tàu – Hồi nầy nhiều vị nguyên cứu Tử vi mong có sách mới lạ về Tử vi ở Hồng Koong, Đài Loan sang để học. Thật ra Khoa Tử vi cũng như nhiều môn khác, ngoài việc tham khảo những nét phát minh của người, chúng ta cũng có quyền đóng góp sáng kiến của ta nữa
1) Vòng Tràng sinh trong khoa Bốc dịch
Khoa Bốc dịch cũng dùng vòng Tràng sinh. Vòng Tràng sinh này cũng đủ cả: Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm Quan, Đế vượng, Suy, bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng nhưng hay dùng nhất chỉ có:
2) Sinh, Vượng, Tử, Mộ, Tuyệt dùng trong Bốc dịch
Phú Huỳnh Kim có nói về Sinh, Vượng, Tử, Mộ, Tuyệt như sau:
Câu này có nghĩa là:
Vườn có hang vàng có nghĩa là Tốt
Đất có bùn lầy có nghĩa là Xấu
3) Ý nghĩa của Sinh, Vượng, Tử, Mộ, Tuyệt trong bốc dịch
a) Trường Sanh và Đế Vượng đều là tốt nhưng có khác nhau:
b) Tử, Mộ, Tuyệt đều xấu nhưng cũng khác nhau:
Trường hợp Tử gặp Sanh gọi là Tử sứ phùng sanh
Trường hợp Mộ gặp Xung gọi là Xung phá Mộ
Trường hợp Tuyệt gặp Sanh gọi là Tuyệt sứ phùng sanh
4) Áp dụng Sanh, Vượng, Tử, Mộ, Tuyệt của Bốc dịch vào Tử Vi
Ta có thể dùng định lý trên giúp cho sự giải đoán số tử vi không? Cái này hơi khó nhưng cũng cố áp dụng vào tử vi như sau:
5) Vòng Trường Sanh chỉ ảnh hưởng vào một hành nào trong các sao của Tử vi mà thôi.
Như ta đã thấy trong Tử vi nếu là:
Vậy vòng Tràng Sanh phải là Tràng Sanh của một trong Kim Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ cục chứ không phải của tất cả các cục.
Do đó dù các Tràng sanh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng dù là các hành khác nhau nhưng ta có thể coi đó là chỉ chú trọng đều hành của cục của lá số thôi.
Ví dụ: Nếu coi nó là vòng Tràng Sanh của hỏa cuộc thì phải nghĩ là tất cả vòng Tràng Sinh đó đều là Hỏa.
Trên đây mới là cuộc và sao cùng hành. Còn khác hành nữa.
6) Ấy thế mà cũng ảnh hưởng với sao khác hành của cuộc có trường sanh đấy
Ví dụ như trên nếu là hỏa lục cục ta có Trường Sanh ở cung Dần coi như hỏa thì:
Như ta đã biết
Như vậy thì vòng Tràng Sanh sẽ ảnh hưởng trên các sao nằm cùng một cung với nó. Ngoài ảnh hưởng của ngũ hành (hưu, tướng, tù, tử vượng cho các sao) mà tầm độ hưu, tướng, tù tử, vượng cho các sao lại còn có thể tăng lên hay giảm đi tủy theo hỏa đó được Trường sanh Đế vượng …hay bị Tử, Tù, Mộ…Chúng ta có nên đi đến chi tiết cho tử vi theo như chúng tôi thử áp dụng Lý học của Bốc Dịch như trên không? Các vị tử vi xin thử xem và xin cho ý kiến. Trân trọng.
KHHB số 40
![]() |
![]() |