Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những cấm kị khi bố trí phong thủy sân vườn

Sân vườn không chỉ tô điểm vẻ đẹp mà còn có tác dụng tăng cường phong thủy. Những cấm kị trong phong thủy sân vườn sẽ giúp bạn tự tin hơn khi bố trí cho ngôi
Những cấm kị khi bố trí phong thủy sân vườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sân vườn không chỉ tô điểm vẻ đẹp của ngôi nhà mà còn có tác dụng tăng cường phong thủy, hỗ trợ vận khí. Những cấm kị trong phong thủy sân vườn sẽ giúp bạn tự tin hơn khi bố trí góc nhỏ xinh cho ngôi nhà.


Nhung cam ki khi bo tri phong thuy san vuon hinh anh
 
1. Sân vườn bị nước bao vây   Nước là yếu tố cực kì quan trọng trong phong thủy sân vườn. Có cầu “sơn quản nhân đinh, thủy quản tài” nên sân vườn có thủy tụ thì tài khí tụ, gia trạch vượng. Song, nếu bố trí không khéo, sân vườn bị thủy bao vây thì sẽ phạm vào thế nội loạn, trong nhà không yên, nội bộ lục đục.   Hơn thế nữa, thủy trong sân vườn phải thanh, không thể đục, phải chuyển động chứ không đứng im, phải chuyển động chậm rãi chứ không quá nhanh thì tài khí mới tụ.   2. Thủy hình cánh cung   Thông thường, sân vườn bố trí ao, suối bể bơi hình tròn hoặc hình vuông, tuyệt đối không đước có hình bán nguyệt hay hình cánh cung, sẽ phạm thế phản cung, bất lợi cho phong thủy. Trong phong thủy, con đường cũng được coi là thủy nên ngay cả đường đi lối lại trong vườn cũng không được bố trí uốn khúc hình cánh cung.  
Ngũ hành trong sân vườn Sân vườn mang phong cách Trung Hoa Chọn phương hướng cho sân vườn

3. Sân vườn thiếu sơn
  Phong thủy sân vườn coi sơn là yếu tố đặc biệt cần thiết, sơn đúng thì phong thủy vượng, sơn sai thì phá hỏng phong thủy. Sân vườn có sơn thì như có chỗ dựa vững chắc. Sơn không cần cao, chóp bằng phẳng thì hỗ trợ sự nghiệp, ở hướng Tây Nam hay Đông Bắc thì gia tăng ổn định, hỗ trợ gia trạch. Vì thế, sân vườn mà thiếu sơn thì coi như mất một nửa giá trị.  
Nhung cam ki khi bo tri phong thuy san vuon hinh anh
 
4. Trồng cây có hại   Những loại cây gây phong thủy xấu như xương rồng, bách (đối với nhà có thai phụ), dong,… đều không nên trồng trong vườn nhà. Trồng cây phải lưu ý, không để thân cây che lấp cửa sổ, cửa chính, cây đại thụ không nên trồng trước phòng nhỏ vì tích tụ âm khí, vây hãm dương khí. Cây có hình thù quái dị, xấu xí cũng không cát.
 
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương
Chú ý nhỏ, phong thủy lớn cho vườn nhà Phong thủy sân vườn cho gia chủ nhiều tiền và khỏe mạnh Cách dùng đá cân bằng âm dương phong thủy sân vườn Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cấm kị khi bố trí phong thủy sân vườn

Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Người tuổi Tị luôn có sức cuốn hút với người khác giới, cũng có yêu cầu rất cao đối với bạn đời. Vậy trong tình yêu hôn nhân, người tuổi Tị hợp với tuổi nào?
Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tị thông minh, khéo léo, luôn có sức cuốn hút với người khác giới.Trong tình yêu hôn nhân, họ cũng có yêu cầu rất cao đối với bạn đời. Vậy người tuổi Tị hợp với tuổi nào? Người có tính cách ra sao mới giúp cho người tuổi Tị có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc?   Người sinh năm Rắn đầu óc thông minh, giỏi lên kế hoạch, hợp với công việc về chính trị hay kinh doanh. Họ cũng hiếm khi để lộ cảm xúc cá nhân, luôn kiểm soát bản thân rất tốt.
 
Người tuổi Tị tính tình trong nóng ngoài lạnh nên hay bị người khác hiểu lầm. Bản chất họ trong sáng, đơn thuần, song lại vì thế mà dễ bị người khác làm tổn thương, từ đó trở nên nghi ngờ và cảnh giác hơn.
 
Tính cách như vậy nên họ rất cẩn trọng khi lựa chọn bạn đời. Vậy nữ tuổi Tị hợp với tuổi nào? Con giáp nào sẽ là người vợ hoàn hảo cho nam tuổi Tị? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.


Tuoi Ti hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 
Tuổi Tị và tuổi Thân lục hợp, đây là con giáp thích hợp nhất đối với người tuổi Tị. Tuổi này cũng hợp với tuổi Dậu và tuổi Sửu, kết hôn sẽ có hạnh phúc dài lâu. 
 
Theo tử vi, tuổi Tị tương xung với tuổi Hợi, tối kị kết hôn. Tuổi Tị và tuổi Dần tương hành, tốt nhất nên tránh tìm một nửa là người tuổi Hợi.   

1. Nữ tuổi Tị hợp nam tuổi gì?
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Thân = Lục hợp
 

Hai người là một cặp trời sinh. Cả hai luôn yêu thương và ngưỡng mộ, kính trọng lẫn nhau, hết lòng vun đắp cho tổ ấm gia đình. Người chồng vừa có ý chí xây dựng sự nghiệp, vừa có ý thức vun đắp hạnh phúc gia đình nên người vợ luôn thấy thoải mái, hài lòng và tự do theo đuổi ước mơ.
 
Tuổi Tị hợp với tuổi nào? Nữ giới tuổi Tị là mẫu người điển hình về sự chung thủy trong tình yêu, nét quyến rũ bẩm sinh của họ khiến cho đàn ông tuổi Thân khó lòng cưỡng lại. Sự nhiệt tình và trách nhiệm của đàn ông tuổi này khiến cho cô gái rung động và nguyện trao gửi cả đời. Cuộc sống hôn nhân của 2 con giáp này vô cùng hòa hợp, hạnh phúc mỹ mãn.
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Sửu = Tam hợp
 

Sự kết hợp giữa 2 con giáp này sẽ tạo ra 1 gia đình hạnh phúc trăm năm. Nhìn vào cuộc hôn nhân của họ, mọi người sẽ có thể hiểu được thế nào là sự ăn ý trong từng cử chỉ và tình yêu đong đầy trong ánh mắt.
 
Đàn ông tuổi Sửu luôn mong muốn có cuộc sống vật chất đầy đủ, no ấm, đó cũng là mục tiêu trong cuộc sống của cô gái tuổi này. Trong mắt vợ, người chồng luôn là một hình tượng đáng ngưỡng mộ, là nguồn sống, là động lực đem lại dũng khí cho vợ. Còn với người chồng, sự hòa nhã thanh lịch, tài năng quản lý tài chính của người vợ là những điểm họ luôn thấy tự hào. Sự hạnh phúc trong hôn nhân là nền tảng vững chắc để cả 2 yên tâm phấn đấu.
 

Nữ tuổi Tị + Nam tuổi Dậu = Tam hợp
 

Hai người đều có cá tính riêng, khi ở cạnh nhau, người này lại có thể bù đắp khuyết điểm, nâng cao ưu điểm cho người kia. Đây là cặp đôi thông minh hiểu biết, những vấp váp trong cuộc sống gia đình chỉ khiến họ càng thêm yêu đương nồng thắm, hạn chế thói quen nóng nảy, mất kiểm soát.
 
Đàn ông tuổi Dậu luôn bừng bừng sức sống, dũng cảm tiến bước, không ngại nguy nan. Cô nàng tuổi Tị thông minh lanh lợi, suy nghĩ cẩn trọng, lại lương thiện thật thà. Sự lạc quan của người chồng khiến cho người vợ tinh thần vui vẻ, suy nghĩ cũng tích cực hơn. Sự thông minh, cẩn trọng của người vợ tạo nên hậu phương vững chắc, giúp cho người chồng yên tâm công tác, tập trung phát triển sự nghiệp.

Nói chung, những cô gái sinh năm này có rất nhiều ưu điểm được các chàng trai theo đuổi, là mẫu phụ nữ gia đình chuẩn mực, cũng có nét cuốn hút riêng biệt nổi bật giữa đám đông, chẳng thế mà có người từng nói rằng "Yêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tị". Nghe thì to tát, nhưng nếu bạn từng quen một cô nàng tuổi này thì chắc hẳn sẽ thấy người đó nói chẳng quá chút nào.


Tuoi Ti hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 

2. Nam tuổi Tị hợp nữ tuổi nào?
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Thân = Lục hợp
 

Nam tuổi Tị và nữ tuổi Thân là một cặp đôi cực kì hòa hợp. Chẳng những tính cách tương đồng mà còn rất thấu hiểu, tin tưởng lẫn nhau, vì thế mà cuộc sống hôn nhân của 2 con giáp này được rất nhiều người ngưỡng mộ.
 
Người tuổi Thân tính cách tự tin, nhiệt tình sôi nổi. Họ sẵn sàng chịu khó chịu khổ, chuyên tâm vì hạnh phúc gia đình. Đàn ông tuổi Tị thông minh phóng khoáng, nhanh nhẹn hoạt bát, không lùi bước trước bất cứ điều gì, hết lòng chăm sóc vợ con.
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Sửu = Tam hợp
 

Hai người này nếu thành đôi sẽ luôn yêu thương, nương tựa lẫn nhau, cùng đồng cam cộng khổ để có được cuộc sống hạnh phúc ấm no. Họ có chung động lực, chung mục tiêu, cũng có năng lực và khả năng phán đoán tốt, chẳng lo ngại điều gì khi ở bên nhau.
 
Tuổi Tị hợp với tuổi nào? Đàn ông tuổi Tị thâm trầm, ổn trọng, luôn bình tĩnh ứng biến trước mọi biến cố bất ngờ xảy ra. Cô gái tuổi Sửu trung thành, đáng tin cậy, lại biết sắp xếp chu đáo giữa công việc và gia đình. Dưới chất xúc tác của tình yêu, họ sẽ có cuộc sống hôn nhân viên mãn như ý.
 

Nam tuổi Tị + Nữ tuổi Dậu = Tam hợp
 

Người tuổi Tị và tuổi Dậu có hợp nhau? Xin thưa, đây là cặp đôi hoàn hảo, có hạnh phúc mĩ mãn đáng ngưỡng mộ. Hai người đều thông minh, giỏi tính toán, dám nghĩ dám làm. Hai con giáp này đều là những người sống có lý tưởng rõ ràng, sẵn sàng hy sinh lợi ích trước mắt vì đại cục sau này.
 
Cô nàng tuổi Dậu quyết đoán, dứt khoát trong hành động, còn chàng trai tuổi Tị lại cẩn trọng suy tính trước sau. Họ bổ trợ cho nhau trong cuộc sống, hôn nhân gia đình cũng luôn suôn sẻ, cả 2 yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, cho nhau không gian riêng để tự do phát triển.   Hy Vũ 

Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Tị Yêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tỵ Người tuổi Tị nên kết giao hợp tác với tuổi nào?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Hóa giải nhà hướng ngũ quỷ –

Khi mua nhà có hướng phạm vào ngũ quỷ, bạn có thể hóa giải bằng cách xoay hướng bếp sang hướng sinh khí sẽ trừ được tà khí... Hặc cũng có thể hóa giải bằng trụ thạch anh: Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi mua nhà có hướng phạm vào ngũ quỷ, bạn có thể hóa giải bằng cách xoay hướng bếp sang hướng sinh khí sẽ trừ được tà khí…

Hặc cũng có thể hóa giải bằng trụ thạch anh: Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà hướng xấu không hợp tuổi gia chủ bạn nên dùng trụ thạch anh (trụ tối thiểu từ 0,5kg trở lên) loại lớn, để trấn các năng lượng xấu, tà khí xấu do hướng xấu như Lục sát, Ngũ quỷ, Mất mát, Họa hại gây ra. Năng lượng dương cực mạnh của thạch anh sẽ xua tan, đẩy năng lượng âm ra khỏi căn nhà của bạn. Bạn cần chú ý trụ thạch anh cần được ngâm nước muối tinh 7 ngày 7 đêm trước khi đặt, để mang lại hiệu quả trấn tốt hơn trụ thạch anh cần phải được trì chú và tính ngày giờ tốt hợp tuổi gia chủ để an vị.

403

Nếu không có điều kiện dùng trụ thạch anh, bạn có thể dùng 2 gương bát quái treo phía trước cửa nhà bạn đó là TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI

Bát quái treo bên ngoài dùng để trừ tà ma, chỉnh hướng cửa sai… Bát quái có nhiều loại, có loại có gắn gương (thường, lồi, lõm). Các loại gương này được dùng như liệt kê dưới đây. Có 2 loại Bát-quái là Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-Thiên Bát-quái. Tiên-Thiên Bát-quái treo theo vị trí Càn trên Khôn dưới. Hậu-Thiên Bát-quái thì treo theo vị trí Khảm trên, Ly dưới. Khi muốn sửa nhà nằm trong vị trí xấu thì treo Tiên-thiên Bát-quái trong vị trí bình thường. Hậu-Thiên Bát-quái phải xoay để thay vị trí hướng xấu bằng vị trí hướng tốt. Bạn chọn Sinh-khí để hóa giải cửa chính quay về hướng Ngũ – quỷ .Vị trí bình thường của Hậu-thiên Bát-quái là Ly ở phía trên, Khảm ở phía dưới tượng trưng cho vị trí Phục-vị. Dựa theo Mệnh-quái, xoay vị trí Phục-vị đến vị trí cần phải sửa. Hay nói khác đi là xoay vị trí tên của Mệnh-quái đến thay thế cho vị trí cần phải sửa.

Tuy nhiên bát quái không phải lúc nào cũng có tác dụng khi ta mua từ tiệm về để dùng. Mà ta phải đem đến CHÙA nhờ CHÚ NGUYỆN,có nghĩa là MỞ MẮT THẦN cho bát quái,thì sử dụng mới có hiệu quả.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải nhà hướng ngũ quỷ –

Tiết khí Đại Thử là gì?

Đại Thử là một trong 24 tiết khí hàng năm, khi Mặt Trời ở vào kinh độ 120 độ, bắt đầu từ 22 (hoặc 23) tháng 7 đến ngày 6 (hoặc 7) tháng 8. Cùng tìm hiểu về
Tiết khí Đại Thử là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Thử là một trong 24 tiết khí hàng năm, khi Mặt Trời ở vào kinh độ 120 độ, bắt đầu từ 22 (hoặc 23) tháng 7 đến ngày 6 (hoặc 7) tháng 8. Trong tiết Đại Thử thường có tục uống trà, phơi nắng, đốt hương.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn sự nhanh chóng và chuẩn xác nhất

Tiet khi Dai Thu la gi hinh anh 2
 
Đại Thử là tiết khí rơi vào giữa tháng 6 âm lịch, ngay sau tiết Tiểu Thử. Thử tức là nhiệt, Đại Thử tức là nhiệt lớn. Vì thế khí hậu đặc thù trong thời gian này là nhiệt độ không khí cao, nắng nóng, oi bức, cây cối sinh trưởng nhanh, xuất hiện các loại thiên tai như hạn hán, lũ lụt, bão, giông tố.    Đại Thử là tiết khí nằm trong “Tam phục”, thời điểm có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, nhiệt độ cao nhất (trên 35 độ). Đây cũng là lúc xuất hiện nhiều trận mưa lớn. Dân gian có câu: “Tiểu Thử mưa như ngân, Đại Thử mưa như kim”. Nếu trong tiết Đại Thử mà mưa dầm thì năm đó mưa nhiều. Mưa đi kèm với sấm chớp, khá nguy hiểm.   Trong tiết Đại Thử thường có tục phơi nắng trừ ẩm, uống trà, đốt hương. Việc nhà nông đang lúc bận rộn nhất, cần gặt hái và gieo trồng vụ mới gấp, đồng thời chống hạn trừ úng. Đối với sức khỏe, trong tiết Đại Thử cần dưỡng sinh bổ tì, kiện vị do Thổ khí vượng, Hỏa khí bốc cao.
Tiet khi Dai Thu la gi hinh anh 2
 
Mùa này tốt nhất là nên ăn cháo nhẹ, vừa dễ ăn lại tốt cho hệ tiêu hóa. Nấu cháo cùng các loại thực vật mùa hè có tác dụng bồi bổ cơ thể, thanh nhiệt giải độc. Uống nhiều nước để giảm bớt khí khô nóng trong người, cung cấp đủ nước cho cơ thể do bị bốc hơi. Ngoài nước lọc, có thể uống nước đỗ xanh, nước trà xanh, trà hoa cúc, đều có nhiều khoáng chất và dinh dưỡng, bổ sung chất điện giải, tránh mất nước.
  Người bị nóng trong, phát nhiệt, uể oải, chán ăn trong tiết Đại Thử nên dùng nhiều đậu xanh, mướp đắng, bí xanh – những loại thực vật dưỡng gan bổ khí, tốt cho dạ dày, có lợi với bồi dưỡng cơ thể và cải thiện nguyên khí.   Đại Thử là lúc dương khí cực thịnh, vận động mạnh sẽ mất nước mà suy kiệt, nên hạn chế lao động hoặc luyện tập nặng nhọc ngoài trời. Người có việc cần thì phải tìm cách tránh nóng và giải nhiệt cho cơ thể, không làm việc liên tục trong thời gian dài. Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm Tìm hiểu tiết khí Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1)
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết khí Đại Thử là gì?

Điểm danh những tướng mắt cần tránh xa

Người có tướng mắt lợn tính tình hung hãn, bảo thủ, chỉ chăm chăm lợi ích cá nhân. Dù kiếm được nhiều tiền cũng tiêu sạch.
Điểm danh những tướng mắt cần tránh xa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người có kiểu mắt lợn tính tình hung hãn, bảo thủ, chỉ chăm chăm lợi ích cá nhân. Dù cho họ có kiếm được nhiều tiền cỡ nào, bản thân không biết tích góp thì lâu dần cũng trắng tay. Thậm chí, người này còn dễ vướng vào vòng lao lý dẫn tới tù tội, nên tránh xa.
 

► Xem nốt ruồi trên mặt đoán vận mệnh chuẩn xác
  1. Mắt dê     Tuy dê thuộc loài hiền lành, nhưng người có tướng mắt dê lại không phải là điều cát lành. Nhìn sâu vào đôi mắt thấy có màu đen nhạt, lại có chút vàng pha lẫn, tạo cảm giác như trắng đen không rõ ràng, ánh nhìn lúc nào cũng nhập nhằng, không phân định rõ, khiến người nhìn cảm thấy khó chịu.   Đa phần người có kiểu mắt này được thừa hưởng chút ít sản nghiệp tổ tiên để lại, nhưng bản thân họ lại không giỏi kinh doanh, dễ dẫn tới tán gia bại sản, cuộc sống càng khó khăn khi về già. Do đó, nếu họ học cách chi tiêu tiết kiệm, biết tích lũy thì sau này sẽ đỡ khổ hơn.    
Diem danh nhung tuong mat can tranh xa hinh anh
 
2. Mắt lợn    Đặc điểm của đôi mắt lợn tương tự như mắt dê. Kiểu mắt này có lòng trắng nhiều hơn lòng đen, mí mắt khá dày, ánh nhìn trầm mặc, buồn bã, không phân định rõ ràng chủ kiến.    Người có kiểu mắt này tính tình hung hãn, bảo thủ, chỉ chăm chăm lợi ích cá nhân. Dù cho họ có kiếm được nhiều tiền cỡ nào, bản thân không biết tích góp thì lâu dần cũng trắng tay. Thậm chí, người này còn dễ vướng vào vòng lao lý dẫn tới tù tội.   Mách bạn cách tỉa lông mày đẹp để cải thiện vận mệnh 31 Tips nhận diện hung cát qua đôi mắt Giải mã bí ẩn về đôi mắt trong mơ
3. Mắt sói
  Nhìn vào đôi mắt sói sắc lạnh dễ khiến người ta cảm thấy sợ hãi, lạnh lùng, không có chút thân thiện nào. Đặc điểm của kiểu mắt này là phần con ngươi mắt hanh vàng, nhìn sự vật từ cao xuống thấp, rà soát tỉ mỉ.    Người có tướng mắt sói lòng tham vô đáy, làm việc bất chấp thủ đoạn để thành công. Trong cuộc sống, người này thường cảm thấy cô đơn, tẻ nhạt và thường xuyên bị mọi người xung quanh cô lập.    Ngoài ra, một số người có nét tướng cách này còn hay bị hoảng loạn về tinh thần, dù có giàu sang phú quý cỡ nào nhưng cuối cùng vẫn dễ trắng tay, đơn độc. Đây là một trong những tướng mắt cần tránh xa.  
Diem danh nhung tuong mat can tranh xa hinh anh 2
 
4. Mắt bồ câu     Mắt bồ câu được cho là đẹp vì nó không hiểm ác. Nhưng về cơ bản, kiểu mắt này vẫn có nhược điểm riêng. Dù là nam hay nữ giới, sở hữu đôi mắt nhỏ, tròn, con ngươi mắt có chút màu vàng thì đích thị là mắt bồ câu.    Chủ nhân của kiểu mắt này thường rất đào hoa, nếu không kiểm soát tốt cảm xúc sẽ lăng nhăng vô độ. Họ giỏi ăn nói, đã “nhắm” tới mục tiêu nào là y như rằng sẽ “cưa đổ”. Đôi khi vì thỏa mãn nhu cầu bản thân, họ nói là những điều giả dối, không đáng tin cậy.   5. Mắt rắn   Đặc điểm dễ thấy của mắt rắn là mắt khá tròn, có thể lồi hẳn ra. Người có mắt rắn khá thâm hiểm, làm việc chỉ nhằm phục vụ lợi ích cá nhân, với cha mẹ thì bất hiếu, anh chị em lại vô tình. Vì thế, tốt nhất nên tránh càng xa người có kiểu mắt này càng tốt.   Ngọc Diệp

Cẩn thận: Chỉnh mắt chỉnh cả cuộc đời.
Con người chúng ta ai cũng yêu cái đẹp, ngày nay giới trẻ càng trở nên coi trọng phục trang và diện mạo bên ngoài. Phẫu thuật thẩm mỹ cũng trở thành một khái

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những tướng mắt cần tránh xa

Vận mệnh người tuổi Bính Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Bính Thân là khỉ trên núi, tính cách thông minh, nhanh nhẹn. Người này biết trước biết sau, biết tiên lượng, tài cán hơn người.
Vận mệnh người tuổi Bính Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lục Thập Hoa Giáp của Bính Thân là khỉ trên núi, tính cách thông minh, nhanh nhẹn. Người này biết trước biết sau, biết tiên lượng, tài cán hơn người, tính tình khảng khái. 


► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Giai ma van menh nguoi tuoi Binh Than theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Sơn hạ Hỏa rực rỡ trong cây cỏ, ánh sáng nơi rừng lạnh. Nếu sinh vào mùa thu là được quý cách, có thể làm quan lớn. Mệnh này là Hỏa ưa Thủy, gặp Địa chi Hợi, Tý hoặc nạp âm Thủy, lại ở vào các tháng Thân, Dậu là tốt.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Bính Thân: Mệnh Sơn hạ Hỏa thích có núi và cây, như được gió tăng thêm sự sáng, là mệnh cách  quý, như Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc là gió, Quý Sửu Tang đố Mộc, canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc đều là cát lợi. Nhưng cần tránh trường hợp có gió quá nhiều sẽ tản mát khí, không còn được cát lợi.
 
Mệnh này gặp được Giáp Thân, Ất Dậu Tịnh tuyền Thủy, Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, lại có Mộc đến tương trợ chủ về có thể làm quan lớn, danh vị hiển hách. Cần tránh gặp Đại hải Thủy nhưng nếu có núi lại là quý cách. Lúc đó dù có gặp Giáp Dần Đại hải Thủy cũng trở nên cát lợi. Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy là mưa tụ, không nên gặp Bính Thân.
 
Nạp âm Lục Thập Hoa Giáp của Bính Thân nếu không có Hỏa, không có núi, lại thêm Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa chủ về yểu thọ. Nếu mệnh này có sơn Thủy tương trợ thì có thể hóa giải được.
 
Các trụ khác có Kim, lấy sự thanh tú làm cát lợi. Ất Sửu Hải trung Kim chủ về sang quý. Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, có gió, nếu được thêm sơn Thủy tương trợ chủ về sang quý. Nếu không có chỉ là hư danh mà thôi.
 
Bính lộc tại Tỵ, Địa chi khác không thể có Dần, Thân, lộc gặp hình, chủ về một đời thiếu thốn tiền bạc, nên cần kiệm trong chi tiêu.
 
Thân mã tại Dần, Địa chi khác không thể gặp Tỵ, Thân, là Mã phạm hình. Người này không nên kinh doanh, có thể mất ở nơi đất khách quê người.
 
Bính Thân Không vong tại Thìn, Tỵ. Địa chi khác không nên có Thìn, Tỵ. Địa chi khác cần tránh có Dần, Tỵ, vì đó là phạm hình. 
 
Địa chi khác nên gặp Hợi, được quý nhân. Tuy nhiên khi gặp Hợi thường có tổn thương về ngũ quan trên cơ thể. Làm việc nên chủ động, tích cực, biểu hiện được khả năng làm việc cao.
 
Vào các năm Thân, Dần mệnh Bính thân trong nhà thường không được yên ổn. Tuy bản thân không bị tổn thương nhưng người trong nhà khó tránh khỏi họa.
 
Người sinh năm Bính Thân thì bạn đời không nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Nên chọn người sinh năm Canh, Tân.   Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Bính Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống.
Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

0-2624-1403489383.jpg

Khi cung Tài Bạch của bạn phát triển không tốt nhưng đường Thái Dương thì đường tiền tài của bạn cũng khả quan hơn.

1. Tiểu Khang

Đường Thái Dương của bạn kéo dài từ gốc ngón áp út xuống đến đường Tình Cảm có nghĩa cuộc sống của bạn đạt đến mức độ của Tiểu Khang (có xe, có nhà, có khoản tiền gửi nhất định). Nói chung là bạn có của ăn của để, tốt hơn những người bình thường và kém hơn so với những người giàu có. 

2. Tiểu Phú

Muốn được coi là Tiểu Phú thì ngoài việc cung Tài Bạch đầy đặn phát triển ra, đường Thái Dương của bạn cũng phải dài hơn so với trường hợp trên. Đường Thái Dương bắt đầu từ gốc ngón áp út kéo dài xuống và còn phải cắt qua Tình Cảm, như vậy thì tài vận của bạn sẽ rất tốt, hoặc gặp được quý nhân tương trợ, có thể đạt đến mức độ Tiểu Phú. Những người này thường từ 31 tuổi trở đi, sẽ tiến đến đỉnh cao của sự nghiệp.

1-1755-1403489383.jpg

3. Trung Phú

Có hai trường hợp: Thứ nhất là đường Thái Dương giao với đường Tình cảm rồi uốn cong tại gò Hỏa Tinh Âm. Trường hợp thứ hai là đường Thái Dương sau khi gặp đường Tình Cảm tiếp tục kéo dài đến gò Thái Âm. Nếu gặp được cả hai trường hợp trên thì chứng tỏ bạn đứng ở tầng lớp Trung Phú, bạn sẽ có được rất nhiều của cải, tiền bạc. 

4. Đại Phú

Trên thực tế người có số đại phú là rất ít, cho nên người có bàn tay như vậy cũng rất hiếm. Nếu đường thái dương từ gốc ngón áp út kéo dài thẳng xuống giao với đường sinh đạo hoặc gần với đường sinh đạo thì người này có số đại phú đại quý. Trường hợp này cực hiếm bởi không phải ai cũng có đường Thái Dương dài như vậy. 

Kunie

1-1399438610-362x0-4387-1403489384.jpg

Ngắm bàn tay, đoán tính cách

Bàn tay cũng là một bộ phận được các nhà nhân tướng học rất lưu ý khi đánh giá một con người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Để hôn nhân mỹ mãn, phải xem giường cưới

Việc chọn lựa và bố trí giường cưới rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống hôn nhân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giường ngủ là đồ nội thất có vai trò phong thủy rất quan trọng đối với cuộc sống của bạn. Điều này nghe có vẻ hơi quá nhưng lại hoàn toàn đúng. Bởi vì nó là đồ nội thất duy nhất trong nhà có sự kết nối gần gũi nhất với năng lượng cá nhân của bạn hàng ngày.

Vai trò của phong thủy giường ngủ và phòng ngủ có liên quan trực tiếp đến sức khỏe, hạnh phúc cũng như các mối quan hệ của bạn.

 de hon nhan my man, phai xem giuong cuoi - 1

Một chiếc giường ngủ tốt theo phong thủy cần đảm bảo được ba yếu tố sau:

- Đầu giường tốt: Trong khi bạn ngủ, cơ thể bạn bắt đầu phục hồi lại lượng năng lượng mất đi do làm việc. Theo phản xạ, phần đầu của bạn cần được đặt ở vị trí tốt, được bảo vệ và nâng đỡ hệt như lưng của bạn khi ngồi trên ghế một thời gian dài.

Đầu giường tốt theo phong thủy cần phải vững chắc, được làm từ gỗ hoặc bọc đệm, có sự kết hợp tốt giữa các vật liệu rắn khác nhau và hỗ trợ năng lượng phong thủy cho bạn cũng như phòng ngủ của bạn.

- Đệm trải giường tốt: Trên thị trường có bán rất nhiều loại đệm trải giường khác nhau. Bạn nên chọn lựa một cách kỹ lưỡng và đầu tư sắm cho mình một tấm đệm trải giường tốt sẽ giúp cải thiện giấc ngủ và sự nghỉ ngơi của bạn.

 de hon nhan my man, phai xem giuong cuoi - 2

Ngủ ngon hơn mỗi đêm sẽ giúp bạn duy trì trạng thái sức khỏe và tinh thần tốt trong cả ngày. Điều này thực sự đơn giản. Hãy chú ý đến chất lượng của năng lượng phong thủy và không nên mua một chiếc đệm cũ. Bởi vì, bạn không bao giờ biết rằng nó đã tích tụ nguồn năng lượng gì từ người chủ trước đó.

- Chiều cao giường hợp lý: Để cho phép dòng chảy năng lượng dưới gầm giường cân bằng thì giường ngủ cần có chiều cao hợp lý. Những chiếc giường tích hợp thêm các ngăn tủ đựng đồ bên dưới được coi là xấu theo phong thủy.

Vì sao những chiếc giường kết hợp ngăn kéo tủ lại được coi là xấu? Bởi vì, khi ngủ bạn cần nguồn năng lượng lưu thông khắp cơ thể. Nếu nguồn năng lượng dưới gầm giường bị chặn lại hoặc ứ động sẽ tác động xấu đến cơ thể bạn.

 de hon nhan my man, phai xem giuong cuoi - 3

Phòng ngủ rất quan trọng trong phong thủy vì nhiều lý do rõ ràng. Giường ngủ và phòng ngủ của bạn phải có phong thủy tốt để hỗ trợ năng lượng cá nhân. Giường ngủ cũng duy trì năng lượng phong thủy cho tình yêu và chữa trị bệnh tật.

Do đó, đối với vị trí đặt giường cưới, bạn cần chú ý tránh các trường hợp xấu sau đây:

- Giường ngủ đối diện với gương: Bạn có lẽ đã biết rằng một chiếc gương đối diện với giường ngủ là điều đáng báo động theo phong thủy và bạn cần phải nói “không” với nó nếu muốn có một phòng ngủ tốt. Ngay cả một chiếc gương gắn trên cửa tủ quần áo, một phần của đồ nội thất hoặc một chiếc gương rời đều có thể phản chiếu hình ảnh chiếc giường của bạn.

- Giường ngủ đối diện với các loại cửa: Không nên kê giường đối diện, thẳng hàng với cửa ra vào bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ.

Đầu giường ngủ cũng không nên hướng về phía cửa toilet để tránh ồn ào, mùi xú uế ảnh hưởng đến thần kinh khiến chuyện ấy luôn căng thẳng.

 de hon nhan my man, phai xem giuong cuoi - 4

- Giường ngủ đặt dưới xà nhà, quạt trần hoặc đèn chùm: Khi kê giường ngủ cũng cần chú ý không nên đặt giường ngủ dưới xà nhà, quạt trần hoặc đèn chùm bởi vợ chồng bạn sẽ luôn có cảm giác bị đè nén, bức bối.

Nếu xà nhà vắt qua đầu giường, bạn sẽ thấy mệt mỏi, tính tình cộc cằn, khó chịu. Chính vì vậy, nên kê giường hướng khác.

- Giường ngủ đặt dưới cửa sổ: Không nên kê đầu giường áp sát cửa sổ vì vị trí này sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều của sự thay đổi khí hậu nắng mưa, gió, rét ảnh hưởng đến giấc ngủ và sức khỏe.

 de hon nhan my man, phai xem giuong cuoi - 5

- Giường ngủ không có điểm tựa: Đầu giường của bạn nên có một điểm tựa được kê sát vào hoặc dựa vào tường hoặc tủ quần áo. Giường ngủ không điểm tựa được gọi là điềm "hung cô đơn" - cảm giác lẻ loi, trống trải sẽ luôn ngự trị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để hôn nhân mỹ mãn, phải xem giường cưới

Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

GiờNgày Tý Sửu Dẩn Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Dần-Thân * *     * *   *     *   Mão-Dậu *   * *     * *   *     Thìn-Tuất     *   * *     * *   * Tị-

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ngayhoangdao

Giờ\Ngày

Sửu

Dẩn

Mão

Thìn

Tị

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

Dần-Thân

*

*

   

*

*

 

*

   

*

 

Mão-Dậu

*

 

*

*

   

*

*

 

*

   

Thìn-Tuất

   

*

 

*

*

   

*

*

 

*

Tị-Hợi

 

*

   

*

 

*

*

   

*

*

Tý-Ngọ

*

*

 

*

   

*

 

*

*

   

Sửu-Mùi

   

*

*

 

*

   

*

 

*

*

* Lưu ý:
Các ô có sao là giờ Hoàng Đạo. Mỗi ngày có 6 giờ Hoàng Đạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

Top 4 con giáp sống cả đời hạnh phúc

Tại sao lại có những con giáp có cuộc sống nhẹ nhàng hơn? Đó là do chòm sao chiếu mệnh mà quan trọng hơn là cách họ cư xử với mọi người xung quanh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Người tuổi Hổ

Người tuổi Hổ có tinh thần xông pha, có lý tưởng, có hoài bão, thuộc loại càng trắc trở càng kiên cường. Cho dù gặp phải bất cứ khó khăn nào thì họ cũng không dễ dàng bỏ cuộc. Những người tuổi Hổ có sự quyết đoán và cả ngang ngược. Họ nói được làm được, lời nói đáng tin, rất có phong thái của một bậc đế vương.

Bọn họ sở dĩ có cảm giác hạnh phúc rất mãnh liệt, là bởi vì họ có tấm lòng rộng mở, không chấp nhặt. Những điều đã qua đều để cho qua, tâm thái vô cùng tốt. Họ đối xử với ai cùng đầy nhiệt tình, cho nên cảm giác hạnh phúc cũng theo đó mà tới.

2. Người tuổi Trâu

Những người tuổi Trâu đa số tính tình thẳng thắn, lòng dạ quang minh chính đại. Họ hướng nội, nho nhã, chăm chỉ làm việc, quan niệm đạo đức bảo thủ khá mạnh. Bọn họ thường sẽ đối xử lịch sự với mọi người,  thuộc kiểu người bị động, không thích chủ động tiếp đón người khác, không thích đi nịnh nọt, lấy lòng người khác. Do đó, chỉ cần là những người thật sự hiểu người tuổi Trâu sẽ có thể bước vào trái tim của họ.

Những người tuổi Trâu rất “biết đủ”, không đuổi theo danh lợi. Trong lòng họ gia đình hòa thuận, con cháu thảo hiền mới là hạnh phúc lớn nhất cả đời. Để gia đình hòa thuận, những người tuổi Trâu sẽ hi sinh và nhượng bộ hết sức. Chỉ cần người nhà bình an vui vẻ, điều gì họ cũng bằng lòng làm.

3. Người tuổi Rồng

 top 4 con giap song ca doi hanh phuc - 1

Chỉ một cử chỉ nhỏ cũng có thể khiến người tuổi Rồng cảm thấy hạnh phúc.

Người tuổi Rồng hoạt bát phóng khoáng, cử chỉ lời nói phi phàm, có phong cách hài hước. Chúng ta thường thấy sự lạc quan và vui vẻ ở người tuổi Rồng, thường ít khi thấy họ đau buồn. Đó là bởi vì những người tuổi Rồng rất biết cách che giấu và bảo vệ bản thân mình, họ không chỉ nghiêm túc trong công việc, mà còn rất biết hưởng thụ cuộc sống, cho nên luôn luôn vui vẻ.

Họ thường rất tinh tế, một câu quan tâm, một lời hỏi thăm của bạn hoặc đôi khi là một phần quà nhỏ sẽ khiến họ cảm động mãi. Họ rất dễ cảm thấy hạnh phúc.

4. Người tuổi Mèo

Người tuổi Mèo có lòng tự tôn cao, đa số đều có lòng hướng về sự nghiệp mạnh mẽ. Vệc gì họ cũng muốn làm, không cần tốt nhất, chỉ cần tốt hơn. Tuy nhiên những người tuổi Mèo lại rất có phúc, bởi vì bạn đời của họ thường đối xử rất tốt với họ, biết nhường nhịn, tâm lý và quan tâm. Đặc biệt, điều lãng mạn nhất là sẽ ở bên cạnh họ cả đời. Nhiều lúc những người tuổi Mèo ngang ngược vô lý, nhưng lại có người đối xử với họ quá tốt, đúng là hạnh phúc khó kiếm. Trừ bạn đời quan tâm, con cháu cũng đối xử với họ rất hiếu thuận, cho nên những người tuổi Mèo sẽ sống cuộc sống tuổi già hạnh phúc mỹ mãn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp sống cả đời hạnh phúc

Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Không chỉ là tín ngưỡng, những kiêng kị trong ngày Tam nương cũng có những cơ sở khoa học nhất định.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong một tháng, luôn có 6 ngày Tam nương rơi vào những ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27 âm lịch. Tương truyền, những ngày này là ngày sinh và ngày mất của ba nàng "hồng nhan họa thủy" trong lịch sử nên mang đến nhiều điều xui xẻo. Còn người phương Tây lại cho rằng những ngày đó, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới. Năng lượng xao động trong những ngày này ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất, khiến nhiều người cảm thấy "khó ở".

Việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày Tam nương là tùy tâm tín ngưỡng của một người. Với những người vẫn giữ quan niệm: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành", dưới đây là hai việc quan trọng nên tránh để khỏi chuốc lấy thất bại.

1. Không nên làm việc lớn

Trong ngày Tam nương, người ta thường tránh làm những khởi sự quan trọng như xuất hành, khai trương, động thổ xây nhà, cưới hỏi,…

Không chỉ là vấn đề duy tâm, trong Thiên Văn học hiện đại cũng chỉ ra rằng vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm giữa các thiên hà, làm phát sinh những bức xạ, những tia vũ trụ mà ảnh hưởng của nó đến trái đất là rất lớn, chi phối đời sống của sinh vật nói chung và con người nói riêng. Những ngày Tam nương chính là những ngày mặt trăng chuyển sang vùng mới. Vì vậy tránh ngày xấu cũng chính là tránh những thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển. 

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 1

2. Thận trọng khi đi ra ngoài đường

Năng lượng dao động làm con người bị ảnh hưởng không nhỏ. Thời tiết xấu sẽ làm cho con người ta khó chịu, cơ thể mất cân bằng, làm mọi việc kém minh mẫn và hiệu quả. Trái lại nếu thời tiết thuận lợi sẽ làm cho cơ thể khoẻ mạnh, trí não hưng phấn và là tiền đề cho mọi việc trôi trảy, đạt hiệu quả cao.

Do vậy, hãy thận trọng khi lái xe trong những ngày này để tránh tai nạn. Ngoài ra, hạn chế các chuyến leo núi, leo rừng,....

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 2
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Bạn tìm mãi vẫn chưa thấy ý trung nhân? Bạn ăn diện mà chưa có đối tượng nào để ý? Ấy là vì bạn chưa biết các mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa đấy thôi.
Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiet lo 3 dieu giup thoat e ngay lap tuc hinh anh
 
Có người tuy không thật xinh đẹp nhưng đào hoa rất vượng, người theo đuổi nườm nượp; lại cũng có người, ngoại hình bắt mắt mà vẫn đi về lẻ bóng. Ấy là vì nhân duyên mỗi người một khác. Muốn cải thiện điều này không khó, áp dụng ngay 3 mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa.
 
1. Dùng hoa tươi thúc giục đào hoa 
 
Hoa tươi có tác dụng cải biến vận số, mang tới đào hoa. Bày hoa trong nhà không chỉ có tác dụng kích thích tình duyên mà còn giúp tình cảm phong phú, con người cởi mở, tốt cho xã giao.
 
Người nam bày hoa ở phòng khách, đặt ở phía bên phải (lấy vị trí thường ngồi trong nhà làm chuẩn); người nữ bày trong phòng ngủ, phía bên trái theo hướng nằm. 
 
Tốt nhất là chọn các loài hoa có kích thước lớn, bày trong bình sứ, bình gốm. Điểm cần nhấn mạnh, là phải bày hoa tươi (hoa giả không có tác dụng) và không được để hoa héo úa, kẻo tình chưa thấy đâu đã rước ốm đau, bệnh tật vào nhà.
 
2. Tô điểm nhà bằng những đồ vượng đào hoa
 
Trong nhà, những đồ như mành, rèm cửa, khăn trải bàn, đệm hãy thay đổi thường xuyên để tăng sức mạnh đào hoa, không cho năng lượng tình yêu tản mát, tăng sức sống tình cảm cho chủ nhân, tạo cảm giác mới mẻ. 
 
Đặc biệt là bức mành, không nên xem nhẹ, tốt nhất là thay đổi theo mùa, mang hương vị cuộc sống vào ngôi nhà của người độc thân. Mỗi lần thay đổi là mỗi lần căn nhà như mang diện mạo mới, tâm tình sẽ biến hóa theo, tình cảm cũng theo đó mà thăng hoa. Chọn ra màu hợp với mình hoặc sử dụng màu hồng phấn làm chủ điểm cho ngôi nhà.
 
3. Tận dụng bản mệnh đào hoa vị để vượng đào hoa

Đào hoa vị là vị trí đào hoa ứng với từng bản mệnh, suốt đời không thay đổi. Chiêu đào hoa tại đào hoa vị sẽ giúp cô nam quả nữ sớm tìm được mối lương duyên, giải quyết vấn đề hôn nhân.
 
Người tuổi Hợi, Mão, Mùi: vị trí đào hoa ở hướng Tý (Bắc).
 
Người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: vị trí đào hoa ở hướng Ngọ (Nam).
 
Người tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa ở hướng Mão (Đông).
 
Người tuổi Thân, Tý, Thìn: vị trí đào hoa ở hướng Dậu (Tây).
 
Tại vị trí đào hoa hãy đặt vật phẩm làm từ thủy tinh màu hồng, có tác dụng tăng cường đào hoa khí, thúc đẩy đào hoa vận, nhất định mang tới những cuộc gặp gỡ tốt lành cho chủ nhân.
 
Tình yêu là do duyên số, hôn nhân là nhờ ý trời, nhưng bản thân cũng phải chủ động, tích cực tìm kiếm mới mong gặp được người chung sống suốt đời. Áp dụng những mẹo phong thủy thúc đẩy tình duyên và cởi mở hơn nữa, may mắn sẽ mỉm cười với bạn.
Xem bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Trần Hồng 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Mơ thấy quan tòa: Người nằm mơ sẽ gặp phải vấn đề lớn –

Hình ảnh quan tòa ít khi xuất hiện trong mơ bởi ông ta luôn gắn liền với những vấn đề phi pháp hay tranh chấp pháp luật của công dân. Người dân thường có cảm giác “Trọng mà chẳng dám đến gần” đối với người đại diện tối cao này. Vì thế, hình ảnh quan
Mơ thấy quan tòa: Người nằm mơ sẽ gặp phải vấn đề lớn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quan tòa: Người nằm mơ sẽ gặp phải vấn đề lớn –

Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Có những người nguyện ném đá giấu tay, lợi dụng người khác để hoàn thành mục đích của mình. Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?
Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xã hội này vốn là tài nguyên thì ít và nhân khẩu thì đông, phải có cách khôn khéo tận dụng mới mong bản thân được hưởng lợi. Chính vì vậy mà sinh ra những người nguyện ném đá giấu tay, lợi dụng người khác để hoàn thành mục đích của mình. Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Dong co khien 12 chom sao loi dung nguoi khac la gi
 

Bạch Dương: chất lượng sinh hoạt

  Đặc trưng tính cách của chòm sao này chính là tiến về phía trước, không ngừng theo đuổi thứ tốt hơn. Vì chất lượng cuộc sống của mình, đừng nói là lợi dụng người khác, bất cứ việc gì Bạch Dương cũng đều không chút do dự, sẵn sàng đánh đổi. Nhiều người bị họ lợi dụng rồi còn cảm thấy bất ngờ.   Phương thức cao minh xảo diệu, cừu trắng sẽ khiến người khác không nhìn ra mình đang lợi dụng, quá trình nhuần nhuyễn, thu hoạch kết quả tốt, sau đó phủi sạch tay coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra không chút áy náy. Quả nhiên là cao thủ máu lạnh vô tình hiếm ai sánh kịp.
Xem thêm bài viết Bật mí 4 chòm sao nam cực siêu chuyện "chăn gối"

Kim Ngưu: nắm lấy cơ hội

  12 chòm sao lợi dụng người khác ai cũng có mục đích riêng, đối với Kim Ngưu chính là vì cơ hội. chòm sao này không coi trọng chất lượng cuộc sống nhưng lại vô cùng lưu ý tới thành quả của bản thân, nói cách khác là họ muốn có cảm giác chiến thắng. Vì thế cơ hội tốt tới, sao có thể bỏ lỡ.   Ngay cả nằm mơ Kim Ngưu cũng muốn trở thành người kiệt xuất, khát khao được thể hiện năng lực, được mọi người đón nhận. Thời cơ bày ra, kể cả phải lợi dụng người khác cũng không chút ngần ngại. Trong đời có rất nhiều thứ chỉ tới một lần, rất nhiều cơ hội trôi qua không trở lại nên Ngưu chan chỉ biết nhắm mắt nắm lấy mà thôi.  

Song Tử: vì ái tình

  Cái gì cũng có thể vô tư nhưng với tình yêu lại không thể buông bỏ, thậm chí dám vì yêu mà không chừa thủ đoạn, bất phân đúng sai. Trong thế giới tình cảm của Song Tử, họ vẫn luôn là đứa trẻ không lớn mà tình yêu như cây kẹo ngọt buộc phải giành cho bằng được.    Yêu rồi không nỡ buông, quý trọng vô cùng, hạnh phúc vui sướng, thà dùng thủ đoạn mà bảo vệ được tình yêu còn hơn là làm chính nhân quân tử mà phải biệt ly đau khổ. Song Tử quên mất rằng, tình yêu cũng chẳng vĩnh viễn, giống như mọi thứ trên đời, huống hồ là nó được xây dựng trên sự lừa dối. 

Cự Giải: bất đắc dĩ

  Tính cách khoan hòa nhân nhượng, hiền lành như Cự Giải sẽ không bao giờ lợi dụng người khác, trừ khi bị ép buộc, trong tình thế không còn cách nào khác. Nếu chòm sao này đã thử mọi phương pháp, mọi đường hướng nhưng vẫn vô ích, không còn đường lui thì mới tiến hành con đường cuối cùng này.    Mà Cự Giải ngốc nghếch có lợi dụng người khác thì cũng không sao làm cho suôn sẻ trót lọt được. Hành động thiếu tự nhiên, không xuất phát từ nội tâm nên không hiệu quả, mãi về sau này bạn sẽ còn hối hận rất nhiều vì lần dối trá hiếm hoi đó, không thể quên được.   

Sư Tử: người khác khuyến khích


12 chom sao loi dung nguoi khac
 
Dáng vẻ ngây thơ và cao ngạo của Sư Tử làm thế nào lại đi lợi dụng người khác cơ chứ. Vốn là họ chẳng có hứng làm vậy đâu, cái gì cũng phải đường đường chính chính cơ, kể cả có cơ hội giẫm dạp lên kẻ khác mà tiến lên họ cũng không làm. Trừ phi bên cạnh được người ta khuyến khích, chỉ điểm.    Có thể nói Sư Tử chỉ là người tiến hành còn giật dây lại là kẻ khác. Kẻ này lợi dụng sự nghĩa khí và tính bốc đồng, thích thể hiện mình của Sư Tử để khiến mọi việc phát triển theo hướng có lợi cho bản thân chứ chẳng thật tâm nghĩ tới lợi ích của chòm sao ngốc này đâu.
Xem thêm bài viết Chỉ ra 4 chòm sao biết kiếm tiền nhưng không giỏi tích lũy
 

Xử Nữ: tâm lý mua vui

  Lý do 12 chòm sao lợi dụng người khác thường xuất phát từ lợi ích thực tiễn nhưng riêng Xử Nữ, đó chỉ là cuộc vui mà thôi. Xem người khác thành kẻ ngốc, làm những điều mà mình chỉ bảo sẽ khá thú vị và mang tính giải trí, có thể thỏa mãn thói hư vinh, thích chỉ đạo của cung hoàng đạo này.   Tuy tâm lý biến thái như vậy nhưng Xử Nữ không phải người quá đáng, không tới mức hại người tới thất điên bát đảo, cuối cùng cũng dừng lại vừa phải, không gây hậu quả nặng nề. Nhưng biết đâu, đối phương lại chẳng thể tha thứ cho tâm lý mua vui đáng ghét này của bạn.  

Thiên Bình: thu được vinh dự

  Ngàn năm khó đổi, thích vinh dự và mong muốn ngưỡng mộ, Thiên Bình rất coi trọng ánh nhìn của người khác đối với mình. Nếu người ta chẳng ai nhòm ngó tới thì họ chắc chắn sẽ dùng toàn tâm toàn ý, trăm phương ngàn kế, không tiếc lợi dụng người khác để thu về ánh hào quang.    Thực ra lòng hư vinh này đâu có ảnh hưởng tới cơm ăn áo mặc của Thiên Bình, nhưng họ chẳng hiểu, nhất định phải đạt được mới thôi. Đó chính là tư tưởng cạnh tranh sinh tồn. Nói cách khác, thà mình hơn người còn hơn để người hơn mình, nếu mình không đủ thông minh sẽ bị người khác đè đầu cưỡi cổ mất.   

Hổ Cáp: tâm lý trả thù

 

Nói trả thù tựa như rất độc ác nhưng thực ra không phải vậy. Hổ Cáp bản chất thiên lương, thường hồ đồ trong chuyện tình cảm, lúc bị người ta hãm hại mới tức giận, cuống lên phản công. Họ không thể im lặng mà chịu chà đạp như vậy được, phải vùng lên cho kẻ kia biết tay.   Nếu người khác không động tới mình, Hổ Cáp sẽ ngoan ngoãn lặng lẽ nhưng một khi chọc giận chòm sao này thì khẳng định là vô cùng thê thảm, vô cùng xui xẻo. Lòng dạ không ác nhưng một khi đã ác thì không ai bằng, không muốn lợi dụng nhưng một khi lợi dụng thì tới bến luôn.  

Nhân Mã: muốn thoát khỏi

  Nhân Mã ghét nhất là những thủ đoạn không quang minh chính đại nên muốn họ lợi dụng người khác thì rất hiếm khi. Trừ trường hợp muốn thoát khỏi ai đó hoặc cái gì đó, ở tình thế bắt buộc họ mới miễn cưỡng làm sai nguyên tắc của chính mình. Với cá tính tự do tự tại thế này, phải lựa chọn giữa tự do và vi phạm nguyên tắc, họ chọn vi phạm.   Lợi dụng mới có tự do, mới có thể toàn tâm toàn ý làm theo nguyên tắc. Mâu thuẫn trong nội hàm con người Nhân Mã khiến họ buộc phải mạnh mẽ hơn, toàn tâm toàn ý đau một lần rồi thôi, cắt đứt mọi trở ngại và trở lại là chính mình, không ràng buộc, không tù túng.  

Ma Kết: giữ gìn danh dự

  Một thứ mà Ma Kết không thể buông được là danh dự, nói cách khác họ giữ hình tượng hơn giữ mạng. Kiêu ngạo, lạnh lùng, cố chấp, dù đang rất thê thảm cũng không thể biểu hiện ra bên ngoài được. Mọi lỗi sai sẽ do người khác gánh để bảo toàn hình tượng ngời ngời của chòm sao này.    Ma Kết kinh nghiệm phong thủy, năng lực sắc bén, phần lớn là thành công trong việc lợi dụng người khác lãnh tội thay cho mình. Như vậy vừa ác liệt vừa tổn hại thanh danh, khiến không ít người cảm thấy đáng hận và không muốn giao du với người tâm tư thâm hiểm như thế này.
Xem thêm bài viết Điểm mặt 4 chòm sao nói giỏi, làm dở
 

Bảo Bình: thói quen 


Ly do 12 chom sao loi dung nguoi khac
 
Chòm sao này lợi dụng người khác hoàn toàn là xuất phát từ đặc điểm tính cách. Họ chẳng phải người lương thiện trong sáng gì, chỉ cần có người cản đường, lập tức sẽ thành kẻ thù của Bảo Bình. Có thể nói đó là thói quen hành xử của họ, không cần thương lượng, trực tiếp hành động luôn.   Rất khó có thể tưởng tượng rằng lợi dụng người khác là thói quen nhưng ở chung với Bảo Bình lâu ngày sẽ thấy, họ ít khi cân nhắc tới đạo đức, tự trọng, nhân phẩm hay những đạo lý khác, chỉ cần bản thân thấy vui là đủ. 12 chòm sao lợi dụng người khác đều kín đáo, cố chối tội, riêng Bảo Bảo thản nhiên nhận luôn.  

Song Ngư: tránh né áp lực

  Chòm sao Song Ngư  không có cảm giác an toàn, tính cách khó lường, sợ đối diện với khó khăn và ngại áp lực. Họ muốn lợi dụng người khác ra mặt thay cho mình, giải quyết vấn đề cho mình thật ổn thỏa để bản thân không phải động chân động tay cũng không cần lo lắng suy nghĩ.   Người thường bị Song Ngư lợi dụng là kẻ mạnh, dáng dấp và năng lực tốt, đủ để mình dựa vào. Có thể bị người khác coi thường nhưng Ngư nhi không quan tâm, miễn sao bản thân thỏa mãn và được hưởng lợi là đủ, mang tiếng ăn bám hay thủ đoạn cũng chẳng sao.
Đối tượng 12 chòm sao ghét, thà ế chứ không yêu Hé lộ cung hoàng đạo thông minh nhất trong 12 chòm sao Biết điều khiến 12 chòm sao nữ cảm động, chinh phục nàng chẳng khó
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì?

Cách bố trí phong thủy cho phòng ngủ để phòng tránh cảnh bất hòa hay ngoại tình

Có thống kê cho thấy 60% nam giới đã hoặc sẽ ngoại tình nên chuyện dùng phong thủy để phòng tránh tình trạng này được rất nhiều chị em quan tâm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy không phải chuyện mê tín mà được coi là một môn khoa học cổ đại của người phương Đông, cho đến nay đã ảnh hưởng lan rộng sang cả phương Tây, và là một trong những yếu tố khó có thể bỏ qua trong những quyết định liên quan đến nhà cửa, xây cất, cuộc sống gia đình.
Phòng ngủ là trái tim, linh hồn của một ngôi nhà, phong thủy cho phòng ngủ tất nhiên rất quan trọng và được quan tâm, nhất là với những cặp vợ chồng mới cưới hoặc sắp tiến tới hôn nhân. Khi có con số thống kê cho thấy có đến 60% nam giới vào lúc nào đó trong đời đã hoặc sẽ ngoại tình, và con số này thậm chí có xu hướng gia tăng, nhiều người càng quan tâm hơn đến chuyện dùng phong thủy để phòng tránh tình trạng này xảy đến với gia đình mình.
Tuy có người tin, và cũng có người vẫn không tin phong thủy, nhưng nhìn chung sẽ chẳng hại gì nếu ta tuân thủ những nguyên tắc sau:
Lưu ý sự thông thoáng 
Phòng ngủ không nên có trần thấp, giường ngủ không nên kê dưới các thanh dầm, xà nhà vì đây là điều rất không tốt theo phong thủy, có xu hướng hút tà khí, ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ và sức khỏe. Rõ ràng là cả những người bình thường không có niềm tin tâm linh cũng dễ dàng cảm thấy sự ngột ngạt, đè nén trong môi trường như vậy, và cảm giác khó chịu này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta đối xử với nhau - trong trường hợp này là giữa hai vợ chồng. 
Tuy nhiên cũng có những trường hợp bất khả kháng, nhà không có điều kiện về diện tích thì ít nhất cần tìm cách để cho ánh sáng và không khí lưu thông trong phòng, tìm cách che các thanh dầm, xà kia đi, cũng như nên kê giường ngủ cách tường khoảng 20-25cm tạo sự đối lưu không khí.
phong thủy trong phòng ngủ
(Ảnh: Internet)

Lưu ý về đồ đạc
Bạn càng để nhiều đồ đạc, nhất là những món đồ lộn xộn, bẩn thỉu, liên quan đến những điều tiêu cực thì càng dễ gây xáo trộn trường khí trong phòng ngủ, tạo cảm giác khó chịu, không thoải mái, cảm giác cuộc sống luôn thường trực căng thẳng và dễ dẫn đến bất hòa. Hãy đặc biệt lưu ý đến gầm giường và không quan xung quanh giường ngủ để đảm bảo yêu cầu này.
Vì lý do gì đi nữa, một căn phòng thoáng, sáng, sạch sẽ, gọn gàng luôn là điều tốt về mọi mặt, cho tất cả mọi người!
Và bên cạnh sự gọn gàng, bạn cũng nên hạn chế để trong phòng ngủ của mình:
Các thiết bị điện tử - đây vốn là điều mà hầu hết các chuyên gia sức khỏe khuyên chúng ta. Bên cạnh đó, ta cũng đã thấy nhiều trường hợp thực tế vợ chồng bất hòa do một trong hai, hoặc cả hai, quá mải mê với điện thoại hoặc máy tính mà bỏ bê việc chăm lo cho hạnh phúc chung.
Tranh ảnh, đồ trang trí - không nên treo tranh ảnh, tượng mang tính chất tôn giáo nặng nề, dễ gây áp lực cho người sống trong phòng, cũng không nên treo tranh ảnh người lạ dễ khiến vợ chồng bị xao nhãng. Thậm chí nhiều người còn khuyên chúng ta không nên treo ảnh cưới ở đầu giường ngủ bởi cho rằng đây là vị trí không tốt cho cuộc sống hôn nhân, dễ tạo áp lực về sự an toàn của mối quan hệ này. Nếu muốn treo tranh, tốt nhất chỉ nên dùng những bức tranh yên bình, thể hiện tình cảm thủy chung.
Gương - trong phong thủy, gương là một trong những loại vật dụng thường được nhắc đến nhất do khả năng phản chiếu năng lượng. Chiếc gương chiếu thẳng vào giường ngủ, phía sau đầu giường hoặc bên cạnh giường là điều kỵ bởi bị cho là sẽ phản xạ khí xấu, dễ dẫn đến những bất hòa, không chỉ thế dễ gây giật mình, ảnh hưởng tâm lý.
Đồng hồ - cũng tương tự như gương, không nên để hướng vào giường ngủ: Tuy năng lượng xấu từ đồng hồ phát ra là khá thấp, nhưng lại có tính thường xuyên, tích tiểu thành đại, nên nếu sử dụng đồng hồ thì nên xoay ra hướng cửa vào hoặc cửa sổ.
Các loại cây, hoa có gai trong phòng ngủ cũng bị cho là không nên, như hoa hồng, xương rồng, sống đời...
Ngoài ra:
- Không nên kê đầu giường cạnh cửa ra vào phòng vệ sinh, nếu không thể khác thì phòng vệ sinh luôn phải đóng cửa, đậy nắp bồn cầu để tránh khí xấu làm ảnh hưởng;
- Không nên dùng những màu sắc tối, ảm đạm cho căn phòng để tránh dẫn đến u uất; cũng không nên dùng những màu quá lòe loẹt sẽ khó thư giãn tâm trí;
- Không để góc nhọn, góc nhà chiếu vào giường để tránh gây căng thẳng, gò bó, bất an;
- Không nên thiết kế phòng trong phòng bởi có thể mang hàm ý có sự giấu diếm riêng, không tập trung, không chung thủy;
- Nên sử dụng các món đồ mang biểu tượng tình yêu, dùng đồ theo cặp nhưng tránh kê 2 giường.
phong thủy trong phòng ngủ
(Ảnh: Internet)

Tất nhiên “có kiêng có lành”, việc chú ý phong thủy trong phòng ngủ có thể hỗ trợ chúng ta, ít nhất về mặt tinh thần, nhưng bên cạnh đó, để hôn nhân bền lâu thì chắc chắn ta không thể bỏ qua những lời khuyên ứng xử và sự quan tâm vun đắp tình cảm vợ chồng!

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí phong thủy cho phòng ngủ để phòng tránh cảnh bất hòa hay ngoại tình

Phước 70 đời, phước do chính mình tạo nên, không cầu được

Mỗi khi tai qua nạn khỏi, thoát khỏi lưỡi hái tử thần, người ta lại nói rằng phước 70 đời hay phước do ông bà để lại, điều này có nghĩa gì trong Phật giáo?
Phước 70 đời, phước do chính mình tạo nên, không cầu được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi khi tai qua nạn khỏi, thoát khỏi lưỡi hái tử thần, người ta lại nói rằng may mắn “phước 70 đời” hay “phước do ông bà để lại”… Dưới góc nhìn Phật giáo, điều này có nghĩa gì?

 

1. Đạo Phật cho rằng nhân sinh không có sự may mắn ngẫu nhiên

  Theo đạo Phật, không có sự may mắn ngẫu nhiên, vì nếu có thì làm sao giải thích tại sao may mắn đến với người này mà không đến với người kế bên. Điều này cũng không chắc là do "phước đức ông bà để lại”. Bởi nếu nhìn lại cuộc đời tổ tiên, nhiều khi thấy cuộc đời họ thật khốn khổ bất hạnh, phước của họ còn không đủ đem lại cho chính họ chút sung sướng hạnh phúc nào, lấy gì họ để lại cho con cháu về sau dùng…    Phước 70 đời, chỉ có duy nhất phước đức chính bản thân mình tích tụ từ bao đời trước, như một vòng bảo vệ khổng lồ bao bọc lấy mình khi hoạn nạn ập tới trong cuộc đời, như thuyền to giữa biển, như áo lạnh cực tốt giữa cơn bão tuyết… hay áo giáp sắt che kín thân trước cung tên giáo mác đạn dược đang phóng tứ tung.   Hoạn nạn từ bên ngoài tới là do những ác nghiệp mình tạo ra đời trước hay đời này, đáo hạn thì nó tới không gì ngăn cản nổi, không tránh đâu thoát được, cách duy nhất là hứng chịu... Vấn đề là hứng chịu với cái áo giáp phước đức dầy hay mỏng, lành lặn hay rách nát thôi.  
Phuoc 70 doi, phuoc do chinh minh tao nen, khong cau duoc hinh anh
 

2. Phước đức do chính mình tạo nên chứ không thể cầu mà có được

 

Câu hỏi đặt ra là làm làm sao tạo đươc chiếc áo giáp vạn năng kể trên?

  Lời Phật dạy, Phước phải do chính mình tạo nên chứ không thể cầu mà có. Chỉ ngồi yên một chỗ cầu khẩn mà không hành động thì cũng vô ích.   Làm phước thì được phước, cầu phước thì không có phước. Giống như kiến thức phải học mới có, sự no bụng phải ăn mới được chứ không thể cầu xin phép lạ từ ai.   Làm phước là làm những việc nhằm mang lại lợi ích cho người khác, dẫu mình không được hưởng hay thậm chí phải chịu hy sinh, thiệt thòi về thời gian công sức của cải. Bên cạnh đó, kiểm soát được lời nói của mình cũng là phước đức lớn nhất trong đời.   
Phuoc 70 doi, phuoc do chinh minh tao nen, khong cau duoc hinh anh
 
Một việc làm như vậy dẫu nhỏ bé đến mấy cũng sinh phước, còn chỉ nhắm cho lợi ích bản thân thì dẫu tốn kém bao nhiêu cũng không mảy may sinh ra chút phước nào.   Người kém phước dẫu ở giữa người thân thuộc quen biết, cũng vẫn phải vất vả khó nhọc tự lo mọi việc, có cần giúp đỡ cũng phải kêu cầu nhưng cũng chẳng được vừa ý, bởi trong quá khứ, ngay những người thân này cũng chưa được mình giúp đỡ nên đời này họ không có ý muốn báo đáp.   Người có phước dẫu một mình ở nơi xa lạ trong hoàn cảnh nào cũng được giúp đỡ tận, được che chở bảo bọc an toàn trong hoạn nạn, hay ở giữa kẻ thù.   Vậy mới nói, làm phước, trước hết để chuyển nghiệp của chính mình, để cuộc đời ta đi lên từ từ. Cứ mỗi kiếp sau sẽ hạnh phúc hơn kiếp này; trí tuệ hơn; dung mạo uy nghi hơn; uy đức lớn lao hơn. Có nhiều cách tích đức tạo nghiệp lành lưu đời con cháu không tốn một xu, đó cũng là cách để tạo phước đức cho chính bản thân mình.  
Phuoc 70 doi, phuoc do chinh minh tao nen, khong cau duoc hinh anh
 
Đừng nghĩ cái tâm ta là của ta, đừng tưởng những ý nghĩ trong đầu ta là của riêng mình, tự mình tạo ra không ai biết. Ý nghĩ trong đầu mình chính là do nhân quả mà thành.   Có những khi ta nghĩ những chuyện tốt đẹp, có những lúc ta nghĩ chuyện xấu xa làm ta cũng phải giật mình, tại sao ta lại có suy nghĩ đến kỳ quặc như vậy, vì nhân quả.   Đó là do ta đã phạm lỗi gì đó của hôm nay, hôm qua, hôm kia, tuần trước, hay tháng trước… ta lỡ xúc phạm một bậc đáng kính nào đó mà tâm ta thay đổi, tự nhiên ý nghĩ bất thiện khởi lên một cách tự nhiên, như thành bản chất của mình, như mình đã từng là người xấu xa vô đạo đức.   Một người luôn nghĩ điều tốt, điều thiện, từ bi, nghĩ về đạo đức là do phước. Trong từng ngày của đời sống, ta đều giữ gìn tâm hạnh kỹ lưỡng, lễ kính Phật, khiêm nhu, không dám xúc phạm đến ai. Tự nhân quả nó tạo nguồn tư tưởng tốt trong tâm, lời nói tốt, hành vi tốt, rồi phước cứ tăng dần mà đi lên. Mỗi người cần phải hiểu lời Phật dạy về nhân quả thì mới có thể áp dụng đúng trong cuộc sống.   T.H   Lời Phật dạy: Trân trọng phụ nữ là phúc báo nghiệp lành Lời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báo Lời Phật dạy: Đoán biết người có vận mệnh tốt hay xấu chỉ cần nghe họ nói

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phước 70 đời, phước do chính mình tạo nên, không cầu được

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Tranh phong thủy chỉ phát huy tác dụng tốt khi được treo đúng cách. Nếu treo tranh bừa bãi hoặc kị tuổi, gia chủ sẽ “lãnh đủ” hậu quả.
Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tranh phong thủy chỉ phát huy tác dụng tốt khi được treo đúng cách. Nếu treo tranh bừa bãi hoặc kị tuổi, gia chủ sẽ “lãnh đủ” hậu quả.

  Mỗi bức tranh phong thủy nói chung, tranh chữ thập nói riêng đều mang ý nghĩa tượng trưng khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung của những bức tranh này là nhằm mục đích mang đến điềm lành, sự may mắn, thành công và thịnh vượng cho gia chủ.
1. Tranh chữ thập Phú quý mãn đường
 
Từ xa xưa, con người đã coi hoa mẫu đơn, chim công là biểu tượng của cuộc sống vinh hoa phú quý. Tranh Phú quý mãn đường cũng thường xuyên sử dụng hai hình ảnh cao quý này.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh
Hoa mẫu đơn được dùng nhiều trong gia đình danh giá
 
Hoa mẫu đơn được coi là “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (Chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ). Vẻ đẹp sang trọng, đài các của loài hoa này đã được dùng nhiều trong các gia đình danh giá và là biểu trưng cho quyền uy của hoàng gia.

Bên cạnh đó, hoa mẫu đơn tượng trưng cho tình yêu lứa đôi thủy chung, tốt đẹp. Tương truyền Dương Quý Phi, một trong tứ đại mĩ nhân Trung Hoa cổ bày thêm nhiều hoa mẫu đơn trong phòng để thu hút tình yêu của Đường Minh Hoàng.
  Thời cổ chỉ có gia đình giàu có mới đủ tiền để nuôi chim công làm cảnh. Loài chim với bộ lông đuôi sặc sỡ này được coi là chim quý và biểu trưng cho sự quyền quý, danh giá và tiền tài.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh 2
Tranh Phú quý mãn đường với hình ảnh chim công và hoa mẫu đơn quấn quít
 
Bức tranh chữ thập Phú quý mãn đường
với sự quấn quít hài hòa âm dương giữa loài chim công quý và hoa mẫu đơn sẽ mang lại nguồn sinh khí mới cho ngôi nhà, đồng thời hút nguồn năng lượng tích cực, tăng thêm sự sang trọng, viên mãn, giàu có và thịnh vượng cho gia chủ. Tranh này thích hợp treo ở phòng khách và phòng làm việc. Tuy nhiên, kiêng kị treo tranh ở phương Nam vì sẽ tạo ra “hỏa thiêu thiên môn”, khiến con cái hư đốn, khó dạy bảo, chủ nhân ngôi nhà đau đầu, hoa mắt. Tốt nhất nên treo ở hướng Đông hoặc phía tay trái chủ nhà (tính theo hướng phòng).
  2. Tranh Bát mã truy phong
 
Ngựa là tài sản quý giá trong gia đình người xưa vì nó gắn liền với mọi hoạt động như đánh giặc, đưa tin, buôn bán…Một con ngựa tốt là có vẻ ngoài đẹp và khả năng phi nước đại tức “truy phong” phi nhanh như cơn gió. Ngoài ra, con số 8 có phát âm giống như từ “Phát” trong phát đạt, phát tài.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh 3
Tranh Bát mã truy phong

Bát mã truy phong là hình ảnh tám con ngựa cùng chạy về một phía, hướng vào người ngắm tranh để mang lại tiền tài và vận may khi tất cả cùng theo đuổi một chí hướng. Tranh này thích hợp với những cá nhân, công ty đang bắt đầu khởi nghiệp để thu hút tài lộc, thành công và vinh hoa phú quý. Tuy nhiên, người đã thăng quan tiến chức rồi hoặc giàu có rồi thì không nên treo tranh 8 ngựa vì nó sẽ có nghĩa ngược lại. Lúc này, mã truy phong đem phong ba tới.
  Tùy theo từng tuổi khác nhau mà thích hợp hay kiêng kị treo tranh này. Ví dụ, người tuổi Thìn sẽ thăng tiến trong sự nghiệp, thành công nối tiếp thành công nếu treo tranh chữ thập Bát mã truy phong. Ngược lại, nếu người tuổi Tỵ lại kị treo tranh này, nếu treo sẽ dễ bị tai bay vạ gió, thậm chí là sát thân.   Ngoài ra còn các loại tranh như Tam dương khai thái, Nghênh khách tùng, Hoa khai phú quý, Kim ngọc trường lưu…Tùy theo từng mệnh tuổi của gia chủ mà có cách lựa chọn treo tranh phù hợp, từ đó thúc đẩy tài lộc và sự hưng thịnh.   ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Cách cục Kim sáng quang huy

Sao Thái Dương trấn Mệnh tại cung Ngọ, lại gặp các sao Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn gia hội là hợp cách cục này. Lá số gặp cách cục này, chủ một đời cực hiển quý, giàu sang. Nếu không gặp Xương, Khúc, Phụ, Bật hoặc gặp Không, Kiếp sẽ bị giảm tốt. Người sinh năm Canh, Tân sẽ được phú quý song toàn, tiếp đến là người sinh năm Giáp, Quý, Đinh, Kỷ.
Cách cục Kim sáng quang huy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh văn có đoạn: " Thái dương tại cung Ngọ là " Nhật lệ trung thiên" (Mặt trời giữa trời), hiển quý có quyền lực, giàu có nhất nước, " Cự Môn, Thái Dương củng chiếu là cách cục rất tốt".
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Kim sáng quang huy

Đinh Mão mệnh gì –

Người sinh 1987, Đinh Mão, có Ngũ hành năm sinh là Lư Trung Hoả, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung TỐN, hành MỘC, hướng Đông Nam, quái số 4, sao Tứ Lục, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Bắc, Nam, Đông, Đông Nam). Đeo đá màu Đen, Xanh n
Đinh Mão mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đinh Mão mệnh gì –

Lịch sử Tử Vi

Vào thời nhà Tống, văn hóa Trung Hoa thời đó rất thịnh đạt về nhân học. Cũng nhiều triết gia, tâm học, đạo học chuyên nghiên cứu con người để tìm giải đáp cho cuộc sống, tìm quy tắc cho việc xử thế ngõ hầu mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và tập thể. Nền triết học thời Tống thời đó đã xuất hiện nhiều trường phái như Nông Gia, Pháp Gia, Âm Dương bên cạnh các học thuyết lớn như Nho Học, Đạo Học. Hầu hết các môn nhân vận chuyên khảo cứu con người và xã hội, cần thiết cho việc tu tâm, trị nước, xử thế . . .
Lịch sử Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đứng về mặt bói toán mà xét, khoa Tử Vi xuất hiện tương đối chậm, vì đi sau khoa bói dịch, khoa nhân tướng, khoa độn giáp, khoa thiên văn . . . Nhưng Tử Vi đã khai mào cho một học thuật riêng, hệ thống hóa được ngành bói toán bằng lý số theo một khảo hướng đặc thù. Mặc dù vay mượn nơi sở học của người thời đại nền tảng triết lý Âm Dương Ngũ Hành, nhưng khoa Tử Vi vẫn giữ được nét đọc đáo nhờ ở một đường lối khảo sát khác lạ, có thể xem một cuộc cách mạng hoặc ít ra như một phát minh biệt lập trong phái học Tượng Số của thời đó, Thủy Tổ của Tử Vi học là một đạo sĩ biệt hiệu là Hi Di, tên thật là Trần Đoàn, sống vào thời nhà Tống (Trung Hoa) .

Đạo sĩ Trần Đoàn đã cố gắng bày ra cách xếp vận mệnh con người vào một lá số, ghi trên một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ có một trang, nhưng tổng kê hết cá tính và đời người vào 12 cung và hơn 100 vì sao, được gán cho nhiều ý nghĩa và ngũ hành khác nhau, ngõ hầu giúp con người suy diễn những chi tiết về kiếp số của mình. Tóm tắt cuộc đời phức tạp của con người vào một mảnh giấy một cách hệ thống hóa, đồ biểu hóa một cách khúc chiết. Mặc dù công trình này không tránh được vài sơ khoáng cố hữu nhưng nó vẫn không mất đi giá trị khai sáng cho một bộ môn bói toán hãy còn được tôn sùng ngay trong thế kỷ khoa học không gian này.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch sử Tử Vi

Kiêng kỵ lưng bàn thờ là phòng ngủ –

Hiện tượng: Lưng bàn thờ là phòng ngủ, như vậy là không tôn trọng thần linh, các bạn nên nhớ một câu nói: “Kính thần như thần tại”, nhất định không được đặt bàn thờ như vậy, nếu không rất khó nhận được sự che chở của thần linh. Ngoài ra, cũng dễ làm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Lưng bàn thờ là phòng ngủ, như vậy là không tôn trọng thần linh, các bạn nên nhớ một câu nói: “Kính thần như thần tại”, nhất định không được đặt bàn thờ như vậy, nếu không rất khó nhận được sự che chở của thần linh. Ngoài ra, cũng dễ làm cho người dưới không tôn trọng người trên. Thử nghĩ xem, đến thần linh còn không kính trọng thì còn kính trọng được ai? Nhưng những người dưới 16 tuổi và trên 60 tuổi thì có thể ở trong phòng này, chỉ cần chú ý đuôi giường hoặc đầu giường không được quay về hướng bàn thờ là được.

57_01

Phương pháp hóa giải: Đề nghị giữa bàn thờ và phòng ngủ cách nhau một khoang không gian để hóa giải. Hoặc có thể chuyển bàn thờ sang vị trí khác, cũng có thể chuyến bàn thờ sang phòng khác.

• Điều nên biết:

Con gà trống bằng đồng có tác dụng hóa giải sát khí trong các trường hợp sau:

1.Cột đèn bốn phía dương trạch nếu quá nhiều, bên cạnh cột đèn đầy dây thép gai, nhìn xa như hàng trăm hàng vạn con côn trùng đang vây lấy cột đèn.

2.Bốn phía hiên nhà đầy ống nước nhìn giống như hình con rết. Trong những trường hợp này bạn có thể đặt một con gà trống bằng đồng đối diện với chỗ có sát khí để hóa giải, Bạn cũng có thể đặt con gà trống ở Huyền Quan hoặc trong tủ quần áo để hóa giải sát khí của sao Đào hoa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ lưng bàn thờ là phòng ngủ –

Tết đi du lịch, trái với thuần phong mỹ tục?

Một năm chúng ta có thể đi du lịch nhiều lần nhưng với Tết, không có lần thứ hai trong năm để sum họp bên gia đình người thân....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay, có nhiều người chán Tết và luôn có tư tưởng đi du lịch nước ngoài. Họ cho rằng, Tết truyền thống đã nhàm chán, đón Tết ở nhà cũng rất mệt mỏi nên muốn thay đổi không khí bằng việc, đi ăn Tết ở nước khác.

Không biết quan điểm của nhiều người thế nào nhưng với tôi, việc Tết đi du lịch ở nước ngoài là trái với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.

Nghe nhiều người nói chán Tết, muốn bỏ Tết truyền thống vì Tết thật sự quá vất vả, mệt mỏi, không cần thiết, tôi thấy có chút buồn. Vì căn bản, Tết là dịp nghỉ dài duy nhất trong năm, là dịp để con cháu, ông bà, bố mẹ sum họp với gia đình. Với những người ở gần thì điều đó không có gì đáng bàn, vì họ thường xuyên được về ăn Tết cùng bố mẹ. Nhưng với những người ở xa, một năm được về một lần, thậm chí vài năm mới về một lần thì Tết là một dịp đặc biệt, là một dịp nghỉ dài người ta trân trọng. Đó là những ngày thiêng liêng nhất họ được ở bên bố mẹ, gia đình, người thân yêu. Có khi họ phải chờ cả năm, cả vài năm mới được đón một cái Tết bên gia đình.

Khi bạn ở gần, những dịp sum họp như thế không khó, thích thì có thể về với bố mẹ vài ngày. Nhưng với những người con xa nhà, dịp ấy thật sự quá khó khăn, quá là mong mỏi.

 tet di du lich, trai voi thuan phong my tuc? - 1

Mỗi dịp Tết về, trong lòng mỗi người con Việt Nam lại thổn thức, lại bổi hổi bồi hồi nhớ về quê hương, nhớ về gia đình nhất là những người nơi xa. (ảnh minh họa)

Nhiều người chọn cách ra nước ngoài du lịch để ‘trốn Tết’, đứng ở cương vị cá nhân, tôi cho rằng, đó là một tư tưởng đi ngược lại truyền thống.

Bạn có thể nghĩ đơn giản rằng, Tết nhiều rồi, một năm đổi không khí không sao? Tết nhiều rồi, đi ra ngoài chút cũng không vấn đề gì. Năm nào chả có Tết, lại chỉ cỗ bàn, lại chỉ cơm nước, lại chỉ bận rộn với những việc rửa bát, nấu nướng, mệt mỏi vô cùng. Nhưng, trong thâm tâm bạn có thể không nghĩ sâu xa rằng, bố mẹ sẽ rất buồn khi một cái Tết không có con cái sum vầy.

Những quảng cáo trên truyền hình, trên mạng xã hội chẳng phải luôn nhắc nhở những bậc làm con rằng, Tết dù bận thế nào, dù ở đâu thì cũng đừng quên về bên ba mẹ. Vì chẳng phải ba mẹ có thể sẽ nói không buồn nhưng trong lòng thì luôn mong ngóng con cái hay sao?

Mỗi dịp Tết về, trong lòng mỗi người con Việt Nam lại thổn thức, lại bổi hổi bồi hồi nhớ về quê hương, nhớ về gia đình nhất là những người nơi xa. Mùi hương ngày Tết sẽ nhắc nhở người ta nhớ tới tình cảm ấm áp thiêng liêng, nhắc đến giây phút sum vầy. Đó mới là điều quan trọng, chứ không phải là chuyện chúng ta được ở bên bố mẹ rất nhiều lần trong năm không phải chỉ là ngày Tết.

Du lịch, ngày này không đi, ngày sau có thể đi, bất cứ lúc nào chúng ta muốn chúng ta đều đến được. Nhưng với ba mẹ và những người thân yêu, một dịp để vui vẻ, sum vầy bên nhau không phải dễ. Nên với tôi, Tết đi du lịch nước ngoài là trái với thuần phong mỹ tục, là việc không nên chút nào. Nên các bạn, hãy nhớ, ngày Tết cùng với gia đình, ở nơi mình sinh ra và lớn lên, đó mới là điều khiến ta cảm thấy thổn thức trong lòng nhất, khiến ta cảm thấy được trở về nguồn cội, quê hương hơn bao giờ hết…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết đi du lịch, trái với thuần phong mỹ tục?

Bất lợi của nhà có hình tam giác, bình hành hay hình thang –

Theo Ngũ hành, đất hình tam giác, bình hành hay hình thang (nói chung là hình không có các cạnh vuông vức đều nhau) đều quy về dạng hành Hỏa, trong phong thủy truyền thống gọi là thế Hỏa vượng, ít nhiều có bất lợi cho việc xây cất nhà ở thông thường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

av

Tính chất Ngũ hành của Hỏa là hướng chuyển động lên cao và tạo thu hút, nổi bật, nên cuộc đất hành Hỏa và các công trình có cấu trúc hành Hỏa (mái nhọn, có chóp đỉnh…) lại phù hợp cho không gian sinh hoạt mang tính dẫn dắt, thu hút, ví dụ như các công trình tôn giáo, tưởng niệm, giải trí, thương mại…

Dĩ nhiên, không phải cứ nhà đất có góc nhọn thuộc Hỏa đồng nghĩa vói khó khăn bất lợi, nhất là với các khu đất ở chốn đông đúc nhiều mặt giao thương thuận tiện, và có đủ diện tích để xoay xở thì lại chuyển hung thành cát. Ví dụ như khách sạn New World (thành phố Hồ Chí Minh) tọa lạc trên khu đất hình tam giác nhưng đã được xử lý hình khối theo dạng Thổ và Mộc nằm ngang, các đỉnh nhọn làm vưởn hoa, bố cục tổng thể hầu như phá hẳn thế góc nhọn, tổ chức sảnh vào bên hông, có mảng cây xanh, hồ nước khắc Hỏa khá hợp lý.

Trong nhà ở, những không gian vốn mang đặc thù hành Mộc như phòng ngủ, phòng ăn, phòng người già – phòng trẻ em… thì không nên bố trí hình dạng mặt bằng phòng có nhiều góc nhọn sẽ hao tổn nội khí (do tính chất Mộc sinh Hỏa, sau khi làm nguyên liệu tạo Hỏa, bản thân Mộc bị hao mòn và chuyển biến). Phòng để ở khi có các ngóc ngách dễ bị va chạm, khó sử dụng. Còn phòng thờ thì lại khá hợp với gian áp mái vì cùng là hành Hỏa tương đương, thoát khí tốt theo chiều cao.

Khi khu đất hoặc ngôi nhà mang hành Hỏa được khắc chế bớt các đặc tính Hỏa vượng thì hung sẽ hóa cát, hoàn toàn yên tâm cư trú. Các góc nhọn có thể dễ dàng bo tròn bằng vách tường, bằng tủ kệ, bồn hoa hoặc vật trang trí, tránh trổ cửa hay sử dụng không gian sinh hoạt tại các mũi nhọn mà nên bám theo không gian chính ở vị trí trung tâm dùng các đường cong mềm mại (Thủy khắc Hỏa) hoặc góc vuông để lấy lại thế cân bằng và giảm xung sát.

Khi gặp thế Hỏa khí trong nhà theo dạng chiều cao mặt cắt, ví dụ như một cầu thang đi xéo lên trên bàn bếp, một dầm nghiêng trên giường nằm ngủ hoặc một chi tiết xây dựng vát chéo, cách khắc phục là hạn chế sử dụng không gian dưới góc chéo nhọn ấy. Nếu vì diện tích chật hẹp thì phải làm dịu góc nhọn bằng cách đóng trần phẳng hoặc vòm cong, dùng cây xanh che chắn để giảm tầm nhìn tránh vướng víu khu sinh hoạt. Đơn giản hơn cả là bố trí được những khoảng nhìn ngắm, ít sử dụng như một tiểu cảnh dưới gầm thang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bất lợi của nhà có hình tam giác, bình hành hay hình thang –

Nguyên tắc lựa chọn cửa hàng nơi trung tâm thương mại (Phần 2) –

4. Thanh long Bạch hổ cát Toà nhà lý tưởng nhất là ở bên trái và bên phải đều có toà nhà lớn, nhưng những tòa nhà này cần phải thấp hơn và nhỏ hơn toa nhà phía đang sau, nếu không thì vẫn chưa phải là thế cục phong thủy lý tưởng. Phía bên trái của to

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

4. Thanh long Bạch hổ cát

Toà nhà lý tưởng nhất là ở bên trái và bên phải đều có toà nhà lớn, nhưng những tòa nhà này cần phải thấp hơn và nhỏ hơn toa nhà phía đang sau, nếu không thì vẫn chưa phải là thế cục phong thủy lý tưởng. Phía bên trái của toà nhà gọi là phương Thanh long, bên phải gọi là phương Bạch hổ, trong phong thủy, tốt nhất là tay long mạnh hơn tay hổ.

Centrepoint

Long mạnh hơn hổ, có 4 loại dưới đây:

Long nghênh hổ phục – Tòa nhà phía bên trái hơi cao, mà toà nhà phía bên phải lại hơi thấp.

Long trường hổ đoản – Toà nhà phía bên trái dài rộng hơn, toà nhà phía bên phải vừa ngắn lại vừa hẹp.

Long cận hổ viễn – Toà nhà phía bên trái gần mình hơn, mà toà nhà bên phải xa mình hơn.

Long thịnh hổ thoái – Toà nhà bên phía trái rất nhiều mà bên phải rất ít.

5. Nhận khí từ con đường dẫn đến

Khi lựa chọn toà nhà thương mại, có một nguyên tắc chung đó là: Toà nhà khi mở cửa giữa là cát. Nhưng rất nhiều cửa ra vào toà nhà phía trước là bên phải hoặc phía trước là bên trái, hơn nữa cửa chính hướng ra đường lớn, nhưng toà nhà này, cuối cùng lấy gì làm cát? Về vấn đề này, có bốn nguyên tắc sau đây:

Cửa ra vào toà nhà phía trung tâm trước (chu khuyết môn), không cần biết phương hướng của xe cộ, lấy làm cát luận. Tốt nhất là trước cửa ra vào, có một bãi trống hoặc bể nước hoặc công viên sẽ thượng cát chi luận, chủ vượng tài.

Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại theo hướng từ bên phải sang bên trái (đi lại theo hướng Bạch hổ đến Thanh long), thì phía trước toà nhà dựa vào cửa bên trái (Thanh long môn) làm cát.

Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại từ phía bên trái sang phải (từ hướng Thanh long sang Bạch hổ) thì cửa phía trước gần cửa bên phải (Bạch hổ môn) làm cốt.

Phía trước cửa vào toà nhà, lại không có đường cái, toàn là bãi phẳng, mỏ cửa trước ở giữa, và mờ bên trái của toà nhà làm cát.

6. Phía sau lưng có tựa

Lựa chọn toà nhà, yêu cầu đằng sau có núi, là núi tựa. Phía sau có núi tựa, có không ít những điểm tốt:

Người chủ có quyển lực dễ dàng.

Người khác dễ tiếp nhận ý kiến của bạn.

Dễ được sự ủng hộ, đề bạt của cấp trên.

Trong thành phố khó có thể tìm được núi thật tự nhiên, thường lấy những toà nhà cao làm núi, hay nói rằng khi chọn mua nhà cần có những toà nhà khác làm cột trụ đằng sau cho toà nhà này, nếu đằng sau không có tòa nhà lớn, điều này hình thành nên căn nhà cô lập, không tốt.

7. Nhất tiễn xuyên tâm sát

Cửa hàng ở vị trí đầu dường, đây được gọi là lộ xung hung. Cửa chính đối thẳng với đường cái lớn thành một đường thẳng, thực chất mà nói, những người lái xe cộ đi lại đểu nhìn thang vào cửa chính của toà nhà bạn, đến cửa mới chuyên hướng ngoặt bên phải hoặc trái, tạo thành tiềm ý thức lâu dài có thể xảy ra tai nạn không cố ý, điều này có ảnh hưởng không tốt đến vận đạo.

Nếu mở cửa hàng, mặt cửa hàng ngay trước đường đi, chể để cũng không tiện, con đường ngang người đi phía đối diện cũng không tiện lợi, cho nên có thể xảy ra tình hình lạc khuyết là đương nhiên.

Ngoài ra, nhà ở mà đường xông thẳng vào nhà, cũng dễ hình thành tính cách nông nổi, có một số chuyên gia phong thủy gọi cách cục này là một loại nhất tiễn xuyên tâm hung bên ngoài


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc lựa chọn cửa hàng nơi trung tâm thương mại (Phần 2) –

Nguyên tắc chọn màu sơn theo phong thủy

Màu sơn theo phong thủy tác động vào mọi giác quan, cảm xúc của những người sống trong nhà vì thế, tuyệt đối không được lơ là trong việc lựa chọn màu sắc.
Nguyên tắc chọn màu sơn  theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Chọn màu sắc cho các căn phòng trong nhà bạn không bao giờ là một quyết định dễ dàng. Màu sắc bạn chọn có giúp bạn cảm thấy vui vẻ, có phù hợp với kích thước của căn phòng? Màu sắc nào sẽ tương trợ cho bạn? 
 
Để đơn giản hơn, bạn chỉ cần thực hiện theo những chỉ dẫn sau bạn sẽ chọn được màu sắc phù hợp – chúng sẽ giúp cho mọi việc trong nhà bạn thuận buồm xuôi gió.  

Hiểu rõ vài trò chính của màu sắc trong phong thủy nhà ở

  Màu sơn theo phong thủy đóng vai trò rất lớn trong phong thủy nhà ở, nó tác động đến cảm xúc cũng như môi trường xung quanh. Vì thế, lựa chọn màu sắc đúng hoặc sai có thể có một tác động to lớn vào trạng thái tâm lý và cách bạn cân bằng bạn xúc.   Bối cảnh để chọn màu sắc phù hợp với phong thủy cũng cực kỳ quan trọng. Vì vậy, rất hữu ích khi chúng ta hiểu được các nguyên tắc kỹ thuật đối với màu sắc, bạn cũng nên xem xét chúng tác động lên từng không gian cụ thể như thế nào. Và một nguyên tắc phong thủy cần nhớ: Luôn luôn có cách hóa giải để cân bằng cho những gì phạm phong thủy.

Xem thêm: Màu sắc đem lại Thịnh vượng cho 12 con giáp trong năm 2017
   
Nguyen tac chon mau sac hoan hao theo phong thuy
 

Bắt đầu bằng xem xét ai sử dụng phòng đó thường xuyên nhất

  Đây là điều quan trọng nhất để cân nhắc trước khi đưa ra lựa chọn về màu sơn theo phong thủy phù hợp. Ví dụ, nếu bạn đang trang trí phòng cho trẻ nhỏ, hầu hết mọi người để hiểu rằng bốn bức tường trong phòng ngủ nếu sơn màu đỏ sẽ không có lợi cho những đêm ngủ yên tĩnh của trẻ.  

Hãy thử màu sắc mang hành Hỏa để không gian sống động

  Những căn phòng mang nhiều năng lượng tích cực như phòng ăn và phòng tập thể dục sẽ được hưởng lợi nhiều hơn khi được sơn gam màu đỏ, cam và vàng.   Bạn cũng có thể xem xét những màu sắc mạnh để sử dụng cho toàn bộ phòng như phòng giải lao và hành lang – địa điểm hoàn hảo để thử những màu sắc này. Hành lang cần nguồn năng lượng năng động – nơi lưu thông các dòng khí và nó còn tạo động lực cho cuộc sống. Vì vậy, đừng gây ấn tượng bằng màu sắc năng động tại những khu vực này.   
mau son phong thuy
 

Đừng chọn màu đỏ vì bạn nghĩ rằng nó "may mắn"

  Một trong những sai lầm lớn nhất mọi người thường mắc phải là chọn màu đỏ vì họ nghe nói rằng đó là một màu may mắn với mục đích xua đuổi ma quỷ. Thực tế đúng là màu đỏ được xem là tốt lành và được sử dụng rất nhiều nơi để tạo điểm nhấn.   Tuy nhiên, nếu màu đỏ nằm trong danh sách màu sắc bạn không thích nhưng bạn vẫn cố gắng sơn cửa chỉ vì bạn nghĩ rằng màu đó tốt cho phong thủy. Thế nhưng tất cả đã phản tác dụng, chúng sẽ tạo ra một làn sóng ngầm âm ỉ của sự thất vọng và bất hạnh mỗi khi bạn rời khỏi nhà và nhìn thấy chiếc cửa màu đỏ.
Tham khảo thêm: Mẹo áp dụng màu sắc trong phong thủy để có cuộc sống như mơ 
 

Màu sắc êm dịu phù hợp cho những căn phòng cần sự yên tĩnh

  Phòng ngủ và phòng khách có xu hướng phù hợp với gam màu trung lập như màu xanh, xanh lục. Nhưng nếu bạn vẫn thích màu đen vì đó là màu sắc yêu thích thì chỉ cần đảm bảo sự cần bằng là được. Mặc dù trong phong thủy, màu đen không được xem là màu sắc tốt đối với phòng ngủ hoặc bếp vì nó sẽ tạo cảm giác quá nặng nề. Tuy nhiên, nếu bạn rất thích gam màu này, bạn có thể điểm xuyết chúng để mang lại một cảm giác nhẹ nhàng.   Trong phòng ngủ bạn có thể vẽ hoặc sơn bức tường đen ở vị trí đầu giường tựa vào như là yếu tố tạo cảm giác chắc chắn. Nếu có thể đó là màu đen có phản quang óng ánh tạo cảm giác mới lạ khi bạn nhìn thấy chúng sẽ tốt hơn.  

Suy nghĩ cân nhắc về việc sử dụng màu trắng

  Rất nhiều xem màu trắng là màu sắc trung lập, nhưng trong phong thủy đó là màu sắc nét. Ví dụ, nếu muốn tìm kiếm sự sinh động, tươi mới sẽ chọn màu trắng sẫm hoặc trắng ánh xám, hơn nữa, những màu sắc này có thể ứng dụng ở rất nhiều vị trí khác nhau trong nhà.    
mau trung tinh hop nhieu gian phong khac nhau
 

Đừng băn khoăn nếu bạn chỉ thích màu sắc trung tính

  Nếu bạn chỉ thích sơn toàn bộ nhà với màu sắc trung lập thì mới thấy được vẻ đẹp, sự tao nhã của nó thì có lời khuyên cho bạn: Sử dụng cả bảng màu trung lập mới cảm thấy được sự phong phú, nhưng cũng phải đảm bảo sự cân bằng từ thảm trải đến ghế, bàn...  

Tuy nhiên, bạn cũng có thể thoát khỏi vùng an toàn để thử những điều mới 
 

Để giúp bạn thay đổi cảm xúc có thể áp dụng màu sắc tương ứng. Ví dụ, nếu bạn thiếu động lực và đang chìm trong loạt màu sắc êm dịu, trung lập, tĩnh lặng trong nhà thì có thể thêm điểm nhấn bằng màu đỏ để tăng cường cảm giác và tạo động lực.    Sử dụng màu sắc theo cách này là cách người xưa đã áp dụng từ hàng ngàn năm trước vì màu sắc có khả năng đánh thức tiềm thức. Do đó, đừng quên chọn màu sơn nhà đảm bảo sự cân bằng, hỗ trợ cho bạn về các mục tiêu và mong muốn trong cuộc sống.  

Hãy thử sơn trước khi đưa ra quyết định

  Màu sắc luôn trông dữ dội hơn trên tường hơn là trên miếng mẫu thử nhỏ. Hơn nữa, ánh sáng tự nhiên vào các thời điểm trong ngày cũng ảnh hưởng đến màu sơn, cho dù ánh sáng mặt trời cho màu sắc trung thực nhất. Ngoài ra, khi sử dụng ánh sáng nhân tạo, việc bạn dùng loại đèn gì, ánh sáng nào cũng ảnh hưởng không kém.

Màu sắc ảnh hưởng đến cảm xúc và sau đây là một số màu sắc và ý nghĩa của từng màu ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn:
 
Đỏ - Mang lại chất kích thích và tạo động lực.   Cam - Thúc đẩy hạnh phúc.   Vàng - Tượng trưng cho sức mạnh, kích thích về phương diện sức khỏe, sự kiên nhẫn và trí tuệ.   Xanh lục - Đại diện cho sự tăng trưởng và sự khởi đầu mới, cũng như sự chữa lành và tươi mát.   Xanh - Đại diện cho tươi trẻ, sự khởi đầu mới và truyền cảm hứng cho sự tự tin.   Xanh đậm - Tượng trưng cho sự khôn ngoan.   Tím - Truyền cảm hứng cho tâm linh, phiêu lưu và thịnh vượng.   Đen - Màu trầm tăng khả năng tư duy và tạo sự bí ẩn.   Trắng - Nuôi dưỡng sự rõ ràng, chính xác và kết nối.   Xám - Đại diện cho kết nối hài hòa của màu đen và trắng.   Nâu - Mang lại sự ổn định và an toàn.   Hồng - Đại diện cho tình yêu, lãng mạn và sự kết nối.   Kate Nguyễn


7 lỗi phong thủy ở quầy thu ngân khiến kinh doanh thất bát 4 vật phẩm phong thủy cát tường nên trưng trong phòng làm việc của lãnh đạo Buôn may bán đắt nhờ bài trí cây cảnh hợp phong thủy cửa hàng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc chọn màu sơn theo phong thủy

Ý nghĩa của 12 con giáp trong phong thủy –

Kiến thức phong thủy, 12 con giáp đều mang những ý nghĩa riêng, dưới đây là một vài đặc điểm rất ý nghĩa mà bạn có thể vận dụng trong nhà bạn. Phong thủy 12 con giáp 1. Con chuột Trong phong thủy, chuột bị coi là con vật không mang lại sự may mắn, th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiến thức phong thủy, 12 con giáp đều mang những ý nghĩa riêng, dưới đây là một vài đặc điểm rất ý nghĩa mà bạn có thể vận dụng trong nhà bạn.

Phong thủy 12 con giáp

1. Con chuột

Trong phong thủy, chuột bị coi là con vật không mang lại sự may mắn, thậm chí còn bị coi là hung thú. Muốn hóa giải sát khí của chuột, mọi người thường dán tranh Môn Thần (thần giữ của), Thổ Địa Công hoặc gương Bát quái.

2. Con trâu

Loài vật này được coi là biểu tượng cát lợi. Nếu treo tranh này theo hướng Đông Bắc thiên về Bắc thì gia chủ sẽ lại càng đại cát đại lợi. Trong trường hợp không treo tranh này, chủ nhân có thể treo tranh “tam cát”: trâu, gà và rắn cũng mang lại nhiều điều may mắn.

3. Con hổ

Hổ là biểu tượng của sức mạnh và quyền lực. Nếu gia chủ là quân nhân, cảnh sát, quan tòa hay làm việc về lĩnh vực thuế nên treo tranh con hổ. Đặc biệt đối với những chủ nhân thuộc tuổi Ngọ, tuổi Tuất treo tranh con hổ sẽ khiến âm khí bị tiêu tán, dương khí ngày càng hưng thịnh. Nếu người chủ cầm tinh hổ thì treo tranh này lại càng tốt.

4. Con mèo

Mọi người thường treo tranh con mèo với ý nghĩa hóa giải hung sát. Tuy nhiên, đối với những hung sát mạnh như “lộ sát” (đường đâm thẳng vào nhà), “thiên trảm sát” (hai nhà bên cao hơn),… thì ngoài việc treo tranh còn phải kết hợp thêm nhiều yếu tố khác.

5. Con rồng

rong-vh-viet

Đây là một con vật không có thật. Nhưng trong suy nghĩ của mọi người, rồng mang lại rất nhiều may mắn. Nếu gia chủ muốn quan hệ ngoại giao ngày càng tiển triển thuận lợi thì nên treo biểu tượng này ở hướng Thanh Long (bên trái – tính từ trong nhà nhìn ra) hoặc có thể đặt tượng rồng nhìn ra cửa.

6. Con rắn

Loài vật này mang âm khí nặng nên mọi người tránh không treo biểu tượng này.

7. Con ngựa

image_30816_992nd

Nói đến ngựa là nói đến việc xoay chuyển tài vận khiến sự nghiệp phát triển. Chính vì thế, trong nhà treo tranh mang hình này thúc đẩy sự nghiệp ngày càng phát đạt, tấn tới. Hướng tốt nhất để treo tranh là hướng Nam. Đây là phương vị mang lại nhiều tài lộc nên chủ nhân cần lưu ý thì mới phát huy tác dụng.

8. Con dê

Tranh mang biểu tượng này có thể tăng tính nhẫn nại và ý chí cho gia chủ. Vì lẽ đó, tranh, tượng con dê cũng được chủ nhân để tâm coi trọng.

9. Con khỉ

Đây là loài động vật rất thông minh, khôn khéo và rất nhanh nhẹn tuy nhiên nó cũng mang chút ma mãnh, đố kỵ. Vì lẽ đó, mọi người cũng kiêng không treo tranh này.

10. Con gà

Tranh mang hình tượng gà có tác dụng làm tinh thần phấn chấn và luôn tiến về phía trước. Những người ham chơi, nhút nhát nên treo tranh này để thúc đẩy bản thân, nâng cao tinh thần hăng hái làm việc.

11. Con chó

Chó là loài động vật rất thân thiết và gần gũi với con người. Ngoài làm bạn với chủ, nó còn đảm nhiệm một công việc hết sức quan trọng là coi giữ nhà cửa. Trong nhà có thể đặt tượng chó nhưng không nên bày hai con ở hai bên. Vì sự kết hợp này mang lại điều xui xẻo, bất lợi cho gia chủ.

12. Con lợn

Con vật này vừa mang biểu tượng no đủ, giàu sang nhưng mặt khác lại biểu thị sự lười biếng. Chính vì vậy, khi treo tranh nên kết hợp: lợn, hổ, ngựa để trở thành tranh “tam cát”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của 12 con giáp trong phong thủy –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd