Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P2)

Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày 30 âm lịch đều cư xử hài hòa và khéo léo với mọi người xung quanh. Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu tốt đẹp nhất.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày 30 âm lịch đều cư xử hài hòa và khéo léo với mọi người xung quanh, tính tình lương thiện, công tư phân minh nên được nhiều người yêu mến, số khổ trước sướng sau.

>>> Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P1)

Người tuổi Sửu sinh ngày 16
  Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày 16 âm lịch đều thông minh lanh lợi, học hành giỏi giang và đạt được những thành công nhất định trong sự nghiệp. Tuy nhiên, người này suy nghĩ nhiều nên tâm không an, có số khổ trước sướng sau, cuộc sống càng về già càng yên ổn.
Người tuổi Sửu sinh ngày 17   Sinh ngày 17 âm lịch, người tuổi Sửu tuy không thông minh nhưng lại kiên nhẫn, giàu nghị lực. Tiền vận trung bình, trải qua không ít khó khăn trở ngại, không được gia đình hậu thuẫn nên cuộc sống vất vả, nhiều thăng trầm.   Người tuổi Sửu sinh ngày 18   Người này tự cho mình thông minh, khả năng ứng biến nhanh nhạy, tính tình cương trực nhưng bướng bỉnh, không nghe lời khuyên bảo của mọi người. Nữ mệnh hợp hơn nam mệnh vì có nhân duyên tốt hơn.

Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Suu P2 hinh anh
Ảnh minh họa

Người tuổi Sửu sinh ngày 19
  Danh lợi song toàn, vượng vận đào hoa nên dễ vướng vào những rắc rối tình cảm phức tạp, tiền vận trung bình, trung vận hưng vượng, hậu vận hưởng phúc lộc.
Người tuổi Sửu sinh ngày 20   Số người tuổi Sửu sinh ngày 20 âm lịch vất vả, cực khổ, nhiều phiền muộn, không được gia đình giúp đỡ, nam mệnh có số li hương, càng đi xa sự nghiệp càng phát đạt.
Người tuổi Sửu sinh ngày 21   Nam mệnh lấy được vợ tốt, nữ mệnh có số vượng phu, trợ giúp đắc lực về công danh sự nghiệp cho chồng. Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày này đều có tài năng về nghệ thuật nhưng làm việc không chuyên tâm, thiếu sự kiên nhẫn nên sự nghiệp ở mức trung bình.   Người tuổi Sửu sinh ngày 22   Coi trọng chữ tín, làm việc nhiệt tình, chân thành không giả dối, nhân duyên tốt, số khổ trước sướng sau, hậu vận hưng vượng.   Người tuổi Sửu sinh ngày 23   Cuộc đời có nhiều biến động, hay thay đổi công việc và chỗ ở, nữ mệnh hợp hơn nam mệnh và không phải lo lắng về tiền bạc vật chất.   Người tuổi Sửu sinh ngày 24   Người tuổi Sửu sinh ngày 24 âm lịch có cuộc sống khá bình ổn, buồn vui hung cát xen lẫn, hậu vận có phúc lộc song toàn, hưởng vinh hoa phú quý.
Người tuổi Sửu sinh ngày 25   Tâm địa lương thiện, nhân duyên rất tốt, sự nghiệp phát triển rực rỡ.   Người tuổi Sửu sinh ngày 26   Tính tình phóng khoáng, tư tưởng sống vui vẻ, lạc quan, làm việc công bằng, biết hi sinh bản thân vì người khác, có số hưởng vinh hoa phú quý.   Người tuổi Sửu sinh ngày 27   Trung hậu đảm đang, coi trọng chữ tín, tính tình thẳng thắn, có cuộc sống bình yên, không nhiều lo lắng, muộn phiền.   Người tuổi Sửu sinh ngày 28   Tiền hung hậu cát, tiền vận không tốt, dễ mắc bệnh và phải tự mình lập nghiệp, không được gia đình giúp đỡ. Nữ mệnh tốt hơn nam mệnh và hưởng phúc lộc khi về hậu vận.
Người tuổi Sửu sinh ngày 29   Nghề nghiệp không ổn định, hay thay đổi chỗ ở, càng đi xa sự nghiệp càng phát triển. Người này ý chí kiên định, nỗ lực vươn lên để chinh phục mục tiêu, cuộc sống sung túc, đầy đủ, nữ mệnh vượng phu ích tử.
Người tuổi Sửu sinh ngày 30   Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày 30 âm lịch đều cư xử hài hòa và khéo léo với mọi người xung quanh, tính tình lương thiện, công tư phân minh nên được nhiều người yêu mến, số khổ trước sướng sau.
Kết luận: Ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu là ngày 11, 13, 25, 26 và 27.  
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

An Khánh (Theo XZ360)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P2)

1 số lưu ý khi đặt tên cho cửa hàng, cửa hiệu –

Có thể từ Ngũ hành của hạng mục kinh doanh làm xuất phát điểm để tiến hành đặt tên. Phải chọn trong tên họ của chủ tiệm lấy một đến hai chữ kết hợp với đặc sắc của hạng mục kinh doanh làm căn cứ đặt tên. Lấy mùa vụ của khai nghiệp kết hợp với Ngũ hàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể từ Ngũ hành của hạng mục kinh doanh làm xuất phát điểm để tiến hành đặt tên.

Phải chọn trong tên họ của chủ tiệm lấy một đến hai chữ kết hợp với đặc sắc của hạng mục kinh doanh làm căn cứ đặt tên.

CHBHTCTB

Lấy mùa vụ của khai nghiệp kết hợp với Ngũ hành số mệnh của chủ tiệm.

Có thể đặt tên xuất phát điểm từ hướng của cửa hàng.

Nếu như mở cửa hàng là cửa hàng liên hợp thống nhất đặt tên, tên của cửa hàng lại không hợp với Ngũ hành tương mệnh của người kinh doanh thì cố gắng lấy một tên hậu xuyết, nếu như không làm được như vậy thì có thể thêm tên hậu xuyết ẩn bên trong cửa hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 1 số lưu ý khi đặt tên cho cửa hàng, cửa hiệu –

Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

Xem tử vi bản mệnh có Thương Quan ở Tứ trụ thì trong họa có phúc, trong phúc có họa, nguy nan khó đoán định.
Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi bản mệnh có Thương Quan ở Tứ trụ thì trong họa có phúc, trong phúc có họa, nguy nan khó đoán định.


Xem tu vi cho nguoi co Thuong Quan o Tu tru hinh anh 2
 
Trong tử vi, Tứ trụ bao gồm giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh, quyết định nhiều tới số mệnh của cuộc đời một người.    Xét về Thương Quan trong tử vi:   Hàm nghĩa: người bà, vận động, tài ăn nói, nghệ thuật, sáng tác, thanh danh, con cái.   Ưu điểm: dũng cảm, lãng mạn, tự do, thông minh, to gan, linh hoạt, tranh luận   Nhược điểm: mất chức, thi trượt, vô kỷ luật, tùy hứng, thị phi, phản loạn, khắc chồng.   Năm sinh có Thương Quan thì chủ tổ tiên có cuộc sống gian nan, cha không bằng ông, người có tâm lý phản loạn, dễ phải bươn chải từ sớm, không kế thừa tổ nghiệp.    Năm làm Thương Quan vượng mà không có gì khắc chế thì người cha có tính tình táo bạo. Năm làm Thương Quan hỉ dụng thì ngày nhỏ gia đình tốt; vi tắc thì ngày nhỏ gia cảnh bần hàn. Thân nhược đặc biệt kị Thương Quan, người có cố tật, nếu không sửa được sẽ giảm thọ, có Kiêu Ấn thì sẽ hóa giải được. Năm xưa phạm Thương Quan thì khó có con. Tổ vượng phụ suy, đời cha không bằng đời ông.   Năm thượng thương Quan khắc cha mẹ, không quá tuổi 25 thì mệnh ngạch cha mẹ không còn, trừ khi cả đời vất vả.    Hướng dẫn xác định số mệnh có Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân tốt lành
Trong khoa học tử vi, Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân sẽ mang tới may mắn và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp, nhiều thành công. Cùng

Thương Quan ở tháng sinh thì là người có thiên phú nghệ thuật, tài buôn bán, thông minh trí tuệ, năng lực hành động vượt trội. Nguyệt lâm Thương Quan, anh em bất hòa, hôn nhân bất lợi, nữ mệnh có can của tháng sinh vướng Thương Quan thì duyên phận cực kém. Thương Quan cường vượng, dễ đắc tội với người khác, giúp người mà không được báo đáp. 
  Thương Quan được lệnh thì không đủ ôn nhu, thêm Kiêu Ấn chủ lời nới không có thiện ý. Người này cao ngạo, lập dị, thích phủ định người khác, cậy mạnh hiếu thắng, tâm phục khẩu không phục. Thương Quan áp chế thân quá mức thì nghèo khó, tự cho là thông mình. Anh em ít, có anh em cũng không giúp đỡ được nhiều. Thái độ làm người thanh cao ngạo mạn, khôn khéo, tháng sinh lâm Thương Quan có Thân vượng thì có vận tài lộc tốt.  
Xem tu vi cho nguoi co Thuong Quan o Tu tru hinh anh 2
 
Thương Quan ở ngày chủ sự nghiệp tốt nhưng hôn nhân kém, người nữ dễ ly hôn. Tính cách thanh cao, tự phụ, gấp gáp, nhạy bén, quết đoán nhưng quan trường lại không có lợi. Nữ mệnh vô cùng nữ tính nhưng lại không khuất phục bạn đời, khắc chồng. Sinh vào ngày bản khí Thương Quan , nam mệnh dễ ly hôn. Sinh ngày Thương Quan có Kiêu Ấn là mệnh quý, có Kiếp Tài thì nghèo khó.
  Như vậy, ngày lâm Thương Quan nhìn chung là không tốt, nữ khắc phu nam khắc thê, tai họa bất ngờ. Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

6 điều cần tránh để giữ được công quả, phúc đức

6 hành vi dưới đây khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất, do đó muốn giữ được công quả, phúc đức thì nên tránh làm 6 điều sau đây
6 điều cần tránh để giữ được công quả, phúc đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 hành vi dưới đây khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất, ## giới thiệu cùng bạn đọc. 

► Đọc thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm

 
6 dieu can tranh de giu duoc cong qua, phuc duc hinh anh
 
1. Thường xuyên sát sinh   Sát sinh là hành vi đứng đầu trong những hành vi làm hao tổn phúc báo nhanh nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, sát sinh là việc khó “đoạn tuyệt” được, nhưng nếu không nhất định phải sát sinh thì chúng ta hãy hạn chế sát sinh. Bởi vì sát sinh chính là cách làm hao tổn dần phúc báo của bản thân. Đến khi đã hưởng hết phúc báo từ đời trước thì chúng ta sẽ phải chịu nghiệp báo của sát sinh gây ra.   2. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh   Đại sư Ấn Quang khuyên bảo: Người phụ nữ không hay tức giận thì con cháu sống thọ hơn. Phụ nữ thường xuyên tức giận cáu kỉnh, sinh con sẽ khó nuôi.   Phát giận là điều cứu không được. Tức giận chính là “lửa thiêu rừng công đức.” Chỉ một cơn lửa giận có thể thiêu cháy hết cả phúc đức. Người xưa thường khuyên rằng: Oán giận một lần đối với một người bình thường sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 100 kiếp. Oán giận một lần đối với cha mẹ, người lớn tuổi, người đại đức, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 1000 kiếp. Oán giận cha mẹ hậu quả rõ ràng nhất là “phúc mỏng mệnh nông”.
3. Xung đột với cha mẹ, người bề trên   Chống đối, mâu thuẫn với cha mẹ là việc đứng đầu trong những việc làm “tổn phúc bại lộc.” Vô luận là cầu cái gì cũng đều không đạt được, ngàn vạn lần cầu cũng uổng công bởi vì tích phúc không có mà tổn phúc lại nhanh. Sự việc, nhân duyên, làm việc đều không thuận…Nếu như công việc không thuận lợi, cảm tình thống khổ lập tức hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ vui mừng thì hết thảy thiên nhân, quỷ thần đều sẽ đến bảo hộ. Người không chống đối, không có mâu thuẫn với cha mẹ thì công việc sẽ thuận lợi, có nhân duyên tốt đẹp. Nếu như từ nhỏ đã không có mâu thuẫn gì với cha mẹ thì cho dù xuất thân trong gia đình nghèo khó sau này lớn nên cũng có thể trờ thành người có sự nghiệp.   Người dùng tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, tương lai tất sẽ giàu có, khá giả. Hiếu thuận nhưng không dùng vật phẩm tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ thì cho dù làm đại quan cũng sẽ thiếu hụt tài phú.   Nói xấu xuyên tạc bậc thánh hiền, đại đức, một câu làm tổn hại 100 thiện, làm hỏng hết huyết mạch phúc báo của gia đình.  
6 dieu can tranh de giu duoc cong qua, phuc duc hinh anh 2
 
4. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác.   Những điều này làm tổn hại đức khí và hòa khí của trời đất, tài vận sẽ bị hủy diệt. Nếu như không có của cải của tổ tiên che chở thì nhất định sẽ bần cùng, làm việc không thuận. Oán trời trách người một lần sẽ làm tiêu tan ba thiện. Đại sư Ấn Quang nói: “Người gặp nghịch cảnh mà không oán trời trách người thì nhất định sẽ có hậu phúc và con cháu thịnh vượng.”
 
Ghen ghét châm chọc, nói xấu người khác cái gì thì tương lai cũng sẽ phải chịu như thế.   5. Khoe khoang, khoa trương bản thân   Khoe khoang bản thân, ở đâu cũng đề cao mình, cũng tự mãn sẽ khiến quỷ thần ghen ghét mà phá bỏ. Cho nên, khoe khoang cái gì thì tương lai sẽ bị mất đi thứ đó.   6. Nói điều xấu, điều không đúng về người khác   Nói những điều xấu về người khác là làm tổn thương đến hòa khí giữa trời và đất mà chiêu mời tai họa mà quỷ thần giáng xuống. Hơn nữa, dùng một chút những lời nói đồn đại không đúng sự thật để khoa trương bản thân khiến cho người bị nói sẽ tức giận khó chịu thì sao có thể sống bình an đây?   Trời đất đã sinh ra dược thảo khiến vạn vật thoải mái, cũng sinh ra độc thảo đầu độc vạn vật. Trời đất dưỡng dục người lương thiện, quân tử cũng dưỡng dục tiểu nhân. Mặt trăng mặt trời chưa bao giờ chỉ soi sáng cho người lương thiện mà không soi sáng cho người ác. Nước biển chưa bao giờ chỉ thu nạp dòng nước tinh khiết, cự tuyệt dòng nước ô nhiễm.    Cho dù chúng ta có bao nhiêu sai lầm khuyết điểm thì trời đất, mặt trăng mặt trời cũng chưa bao giờ yêu cầu chúng ta điều gì. Cho nên, chúng ta cũng không thể yêu cầu người khác, xa lánh người thương tổn đến mình mà cho đó là tiểu nhân, ác nhân. Hãy mở rộng lòng mình mà bao dung hết thảy, chúng ta sẽ được nhiều hơn!   Người xưa có câu: “Thái sơn bất từ thổ nhưỡng, hà hải bất trạch tế lưu” là có ý khuyên rằng: Làm người phải tiếp nhận được hết thảy mọi người, kể cả người không cùng suy nghĩ, quan niệm và hành vi thì mới có thể thành tựu chính bản thân mình.
ST/LNT

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 điều cần tránh để giữ được công quả, phúc đức

Cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa

Cũng giống phòng bếp, phòng khách hay cửa lớn, nếu vị trí đặt cầu thang không tốt sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của cả gia đình, thậm chí có thể mang đến tại họa cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cầu thang là một trong những vị trí dễ phạm phong thủy nhất trong căn nhà vì đa phần mọi người, đặc biệt là người trẻ tuổi đều chỉ chú ý đến yếu tố thẩm mỹ và tiện dụng nên không biết rằng cầu thang cũng rất quan trọng trong việc chiêu tài lộc.

cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa - ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Cũng giống phòng bếp, phòng khách hay cửa lớn, nếu vị trí đặt cầu thang không tốt sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của cả gia đình, thậm chí có thể mang đến tại họa cho gia chủ. Vì cùng với cửa lớn, dòng khí ở cầu thang cũng vận động rất mạnh mẽ. Thông qua cầu thang, chúng ta có thể hóa giải những lỗi phong thủy lớn trong gia đình và giúp gia tăng tài vận.

Quy tắc Sinh - lão - bệnh - tử (hay còn gọi là bội số 4+1)

Có lẽ đa phần mọi người đều ít nhất cũng nghe đến quy tắc Sinh - lão - bệnh - tử thường được áp dụng trong xây dựng của người phương Đông. Theo quan niệm ngày xưa, cầu thang là bước di chuyển lặp đi lặp lại có tính chu kỳ giống 4 bước: sinh, lão, bệnh và tử của bất cứ sinh vật sống nào. Chính vì vậy nếu bậc thang cuối cùng ứng với Sinh nghĩa là gia chủ sẽ luôn may mắn và an bình. Còn bậc thang cuối rơi vào Bệnh hay Tử là điềm cực xấu cho cả sức khỏe lẫn vận may và tiền tài.

Về phương diện phong thủy và khoa học hiện đại, người ta lý giải quy tắc Sinh - lão - bệnh - tử hay còn gọi là quy tắc bội số 4 + 1 đồng nhất với nhịp tim của con người khi di chuyển lên và xuống. Chính vì vậy xây cầu thang đúng với quy tắc sẽ có tác dụng tích cực hơn cho sức khỏe của mọi người.

cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa - ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Chỉ cần chúng ta áp dụng theo quy tắc: bậc cầu thang đầu tiên là Sinh, thứ 2 là Lão, bậc thứ 3 là Bệnh, bậc thứ 4 là Tử. Lặp đi lặp lại cho đến khi chân chạm vào sàn lầu ứng với Sinh là tốt nhất.

Những điều cần tránh để có thể chiêu tài lộc nhờ cầu thang

Cầu thang không được hướng về phía cửa vì đây là thế hao tài tốn bạc, làm nhiều đến mấy cũng chẳng có được bao nhiêu. Cầu thang đối diện với cửa nhà lại càng xấu.

Tuyệt đối không để những vật có sát khí hay trừ tà bên cạnh cầu thang. Nên để những vật có ngụ ý cát tường, may mắn và bình an để cuộc sống ngày càng đầy đủ và giàu có hơn.

cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa - ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

Không được để cầu thang nằm ngay chính giữa căn nhà. Vị trí trung tâm căn nhà được gọi là "Mắt Huyệt" là nơi ngưng tụ khí của cả gia đình. Đây cũng được coi là linh hồn của căn nhà. Để cầu thang ngay giữa căn nhà sẽ chắn mất "Mắt Huyệt", không chỉ làm lãng phí vị trí cực tốt trong phong thủy mà còn mang điềm xấu, khiến gia chủ liên tục gặp xui xẻo, làm chuyện gì cũng thất bại, vợ chồng bất hòa ly tán. Tốt nhất nên xây cầu thang dựa tường.

Cách hóa giải nếu cầu thang không may mắn

Đôi khi vì không biết hoặc mua nhà đã được xây sẵn mà cầu thang mắc phải những cấm kỵ trên thì vẫn có thể hóa giải bằng những mẹo cực kỳ đơn giản.

Với dạng cầu thang hướng cửa chính hoặc đối diện với cửa chính thì bạn có thể xây dùng một bức bình phong để ngay giữa cầu thang và cửa.

Cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa - Ảnh 4.

(Ảnh: Internet)

Nếu đã thực hiện mà tài vận vẫn kém chúng ta có thể để những vật phong thủy mang ngụ ý cát tường, hoặc mua xâu tiền đồng may mắn treo trước cửa để đổi vận.

Để chậu cây xanh ở 2 bên cửa nhà cũng giúp hóa giải tình trạng hao hụt tiền.

Dùng đèn hoặc chuông gió để điều tiết các khí vào nhà, hóa giải sát khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cầu thang đặt không đúng sẽ ảnh hưởng vận mệnh của cả gia đình chứ chẳng đùa

Phong thủy khi mua nhà –

Môi trường xung quanh có tác động lớn đến cuộc sống, hạnh phúc và thịnh vượng của bạn và gia đình. Ngoài việc xem xét về giá cả, vị trí, diện tích, điều kiện đường xá, tiện nghi trong và ngoài, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua, đó là phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Môi trường xung quanh có tác động lớn đến cuộc sống, hạnh phúc và thịnh vượng của bạn và gia đình.

Ngoài việc xem xét về giá cả, vị trí, diện tích, điều kiện đường xá, tiện nghi trong và ngoài, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua, đó là phong thủy của ngôi nhà đó tốt hay xấu.

house

1. Lịch sử của ngôi nhà

Chọn mua một ngôi nhà mới là lựa chọn tốt nhất. Nếu mua lại, người bán nhà vừa mới được thăng chức, trúng xổ số, và chuyển đến một ngôi nhà mới khang trang hơn là rất may mắn, tốt về phong thủy và tạo ra những năng lượng tích cực.

Nhà được bán từ một người mới ly hôn, bị tịch thu nhà, hay mắc một loại bệnh nguy hiểm thực sự không tốt. Mua một ngôi nhà như thế, có nghĩa là bạn đã mua những rắc rối vào mình. Có thể, những yếu tố về địa hình hay thế đất đã tạo nên khó khăn cho gia chủ.

2. Thế đất và hình dáng của khu đất

Ngôi nhà nằm bên cạnh một ngọn đồi là không tốt trong phong thủy, nhưng nếu ngọn đồi, hay tòa nhà cao tầng ở đằng sau ngôi nhà thì lại rất tốt.

Hình dáng đẹp nhất của khu đất là hình vuông, hình chữ nhật. Đằng sau rộng hơn và cao hơn đằng trước là điều tốt lành. Ngược lại, đằng sau hẹp hơn, thấp hơn, sẽ tạo ra sự mất mát, khó khăn.

3. Sự bố trí từ phòng ngủ cho tới phòng tắm

Nhìn vào sự bố trí từ phòng ngủ cho tới phòng tắm, chúng ta có thể đánh giá sự tốt, xấu của phong thủy ngôi nhà. Phòng ngủ bên trên gara, bếp, phòng giặt khô, hay không gian trống phía dưới; phòng tắm bên trên phòng ăn hoặc bếp; phòng ngủ chung tường với toa lét là những điều không tốt. Điều này có thể gây ra ốm đau, bệnh tật cho những người sống trong đó.

4. Phía đối diện ngôi nhà

Ngôi nhà đối diện với mảnh đất mở về phía trước rất tốt, có ý nghĩa mở ra một tương lai tươi sáng. Chúng ta có thể lấy ví dụ như Nhà Trắng ở Washington với bãi cỏ rộng ở mặt trước, hay tòa nhà Biltmore ở Asheville, Cazolina. Ngược lại, nếu căn nhà bị choáng ngợp bởi cây cối cũng không tốt. Nếu có cây lớn trước nhà, hay cây bụi sát nhà, trong phong thủy, nghĩa là, chặn mọi cơ hội tốt đẹp đến với gia chủ. Bạn có thể di dời những cây này tới trồng ở vị trí khác.

5. Bên trái, bên phải nhà

Hãy để ý xem có ngôi nhà nào bên cạnh mái nhọn, có một góc nhọn chĩa về nhà bạn không, nếu có thì không nên mua. Nếu ngôi nhà, hoặc mảnh đất bên trái cao hơn thì rất tốt, vì nó đang khai thác năng lượng của con Rồng (Thanh Long Bạch Hổ). Còn may mắn hơn nữa, nếu nhà bên trái nhìn ra hướng Đông.

6. Hướng tiếp cận và các ngõ cụt

Nếu đường đi đâm thẳng vào nhà, hay đường lái xe thẳng, dài, đâm thẳng vào nhà là điều rất tối kị, nhưng bạn vẫn có thể hóa giải bằng cách trồng cây hoặc treo gương. Tuy nhiên, nếu nhà có hai con đường song song, một phía trước, và một phía sau thì không thể hóa giải được (hai đường thẳng song song tán khí).

7. Hướng Tây Nam và hướng Tây Bắc

Đây là hai hướng quan trọng của ngôi nhà. Tây Nam là hướng của Trời, Tây Bắc là hướng của Mẹ. Hướng Tây Bắc không bao giờ được phép có ngọn lửa (bếp ga, lò sưởi) bởi dương khí ở những hướng này rất mạnh. Nếu có, hãy chuyển vị trí của chúng bởi điều này cũng rất tối kị, gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho người cư ngụ trong nhà.

Tây Nam là hướng của người phụ nữ, người mẹ trong gia đình. Nếu ở hướng này có một cái kho, hay một phòng tắm, chủ nhà sẽ gặp khó khăn trong hôn nhân, hoặc bất hạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy khi mua nhà –

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông. Nàng thu dịu dàng vội vã qua đi nhường chỗ cho mùa đông bâng khuâng. Hãy tham khảo những bài viết sau nhé!
Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông. Nàng thu dịu dàng vội vã qua đi nhường chỗ cho mùa đông bâng khuâng – xao xuyến với bao kỷ niệm, chờ đợi, lạnh lẽo, yêu thương. Mùa đông chính là khơi nguồn cảm xúc cho các tác giả tên tuổi sáng tác những bài thơ, bài ca, những câu nói hay và ý nghĩa nhất về mùa đông.

Mùa đông lạnh giá mang đến cho con người những dòng cảm xúc khác nhau, hòa quyện đan xen vào nhau như những cảm giác khác lạ từ thiên nhiêu, đất trời.

Nhưng trong mùa đông đấy, những câu nói hay về mùa đông ấy, lại có những dòng cảm xúc ấm áp, chan chứa yêu thương, nhưng cũng có thể đó lại là lạnh lẽo cô đơn của một trái tim đơn độc, cần được sưởi ấm.

Hãy cùng xemboituong.com và các tác giả cùng đọc và khám phá những câu nói, vần thơ hay nhất về mùa đông thân thương cách bạn nhé !!!

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Người ta vẫn thường nói rằng, mùa xuân là mùa của sự bắt đầu, mùa của cây cối đâm trồi nảy lộc. Nhưng với tác giả “Nguyễn Cúc” mùa nào cũng là mà của sự bắt đầu những mầm sống mới, mùa của yêu thương. Những ý thơ đặc sắc mà ý nghĩa, những câu nói hay nhất về mùa đông với ý niệm mùa của sự bắt đầu được tác giả khắc họa chân thực và sống động qua bài thơ “Sinh nhật mùa đông”

SINH NHẬT MÙA ĐÔNG

Tác giả: Nguyễn Cúc

Mùa đông băng giá ấy
Một cô bé ra đời
Cất tiếng khóc không vơi
Khi trời đêm gần sáng

Mùa đông năm nay lạnh
Cô bé lớn bổng rồi
Sinh nhật tới buồn vui
Cô cũng không biết nữa

Ngày ngày cô đi lựa
Những bông Cúc , Hồng tươi
Khoe sắc dưới nắng trời
Cắm vô bình , nghĩ ngợi !

Cô nhớ vài năm trước
Hân hoan sinh nhật hồng
Có bạn bè vui chúc
Ấm nồng giá lạnh đông

Năm nay chắc mình cô
Trong căn phòng lạnh giá
Ngắm hoa vàng đất lạ
Ôn kỷ niệm thiếu thời

Có lẽ để đông trôi
Cho thời gian đi mãi
Để sinh nhật này tới
Cô đón… một mình thôi

12 tháng chạp đầy những nhớ nhung và lưu luyến, cùng bao nỗi niềm chưa thể bày tỏ hết của chàng trai khi tiễn đưa cô gái ra về. Tình yêu có thể làm xóa nhòa đi tất cả, làm cho trái tim bao lâu nay lạnh lẽo cô đơn, bỗng chốt trở nên ấm áp, say đắm lạ thường. Và những câu thơ, những câu nói hay về mùa đông trong bài thơ “Đưa em về trong đêm mùa đông” chính là một minh chứng cho mối tình của 2 người.

ĐƯA EM VỀ TRONG ĐÊM MÙA ĐÔNG

Tác giả: Khiếu Long

Đưa em về trong đêm mùa đông
Trái tim tôi như có như không
Đêm cuối cùng khung trời băng giá

Cơn gió nào buồn đến mênh mông

Đưa em về mai mình cách xa
Nụ cười em còn đó hôm qua
Tay trong tay hồn tôi lạnh giá
Tình còn không hay chỉ xót xa

Đưa em về thời gian qua mau
Từng vết thương dày xéo niềm đau
Dù con tim nhiều lần ứa máu
Xin một lần được gọi tên nhau

Đưa em về tháng chạp sầu vương
Con đường dài đọan nhớ đoạn thương
Lời kinh đêm trong đêm mừng chúa
Mắt dâng sầu đẫm ướt mù sương

MÙA ĐÔNG Ở TRONG LÒNG

Tác giả: Độc Cô Cầu Tình

Tôi giữ mùa đông ở trong lòng
Để Tình tôi lạnh với mùa đông
Để Hồn tôi chết cùng năm tháng
Và để Tim tôi buốt máu hồng.

Tôi giữ mùa đông mãi muôn đời
Để Tình tôi chết với chơi vơi,
Để Hồn tôi hóa, thành băng đá
Đá Lạnh cô đơn mã trên đời.

HUYỀN THOẠI MÙA ĐÔNG

Tác giả: Trịnh Bửu Hoài

Em giấu mùa đông trong áo lụa
Nhặt chiếc lá vàng sang tặng tôi
Hình như trời chớm qua kỳ rét
Chiếc lá hồn nhiên ấm một người.

Tôi giấu mùa đông trong nỗi nhớ
Bài thơ tháng chạp tặng riêng em
Thì ra trời vẫn còn hương bấc
Thơ tôi hóa lá rụng bên thềm.

Tôi về gom gió mùa đông lại
Gởi em màu nắng nhạt bên sông
Lẽ đâu trời vẫn chưa thay áo
Vườn em sương trắng xuống mênh mông.

Em gom hết lá nơi thềm cũ
Nhặt cả vần thơ ai đánh rơi
Ngọn lửa nhà em sao ấm quá
Cho tôi hóa đá ở bên trời…

Cứ mỗi đông về, tôi lại chợt nhớ người xưa, những giọt nước như muốn đóng thành những giọt băng tuyết cô đơn, chôn chặt mối tình dang dở. Người đến rồi lại ra đi bỏ lại hàng thông giày lặng im buồn sướt mướt. Bài thơ “Mùa đông nhớ người” là những dòng cảm xúc của tác giả khi nhớ về người xưa, những câu nói hay về mùa đông

MÙA ĐÔNG NHỚ NGƯỜI

Từ chia ly, bỏ quên lời hẹn ước
Mùa thu sầu nên cũng vội ra đi
Và mùa đông hình như thêm rét mướt
Đời chợt buồn, rơi rớt giọt sầu bi

Dưới nắng đông tuyết rơi, tan thành nước
Thấm thịt da, lạnh, ướt của mùa đông
Cơn gió luồng ngang, nghe lòng ươn ướt
Lạnh từ ngoài thêm giá buốt bên trong

Hàng thông già lặng im buồn sướt mướt
Nhìn giọt băng trĩu nặng lá thông gầy
Mùa đông đơn côi, mùa đông đếm bước
Chầm chậm ngang đời, buồn rớt đầy tay

Mỗi đông về, chuyện xưa như giọt nước
Đọng thành băng bám chặt trái tim côi
Từng ngày buồn, đông qua theo đông trước
Bỏ lại rong rêu, vết tích của đời .

MÙA ĐÔNG ĐANG ĐẾN

Tác giả: Nguyên Hữu

Thấy không em?
Mùa đông đang đến
Mây lặng lẽ
Rũ mình
Chắc ngủ
Nằm im
Trên trời xám âm u…
Vi vu triền đê
Heo may tìm về
Nô lá cỏ
Tắm giọt nắng phơi
Dòng sông ơi
Hiền từ trôi chảy mãi
Đám bèo đời
Buông lời cãi lộn
Thu hay đông?
Lạnh sống dậy rồi
Co ro nhỉ?
Trúc, tre trơ đốt
Chở che ai người…
Em…
Anh choàng tấm chăn vui
Sống đôi
Đông ơi
Ở ngoài đó ngậm ngùi…

Cuộc sống nhộn nhịp tươi vui của con người trong bối cảnh mùa đông bao trùm qua những câu nói hay nhất về mùa đông của tác giả Đỗ Ngọc:

BUỔI CHỢ MÙA ĐÔNG

Tác giả: Đỗ Ngọc

Em trở về sau buổi chợ mùa đông
Những dự định bán mua tan biến
Bỗng thấy mình nhỏ bé hệt con sâu cái kiến
Đời thì vô cùng cái gọi lớn lao

Buổi chợ mùa đông từng cơn gió xác xao
Đánh thức giấc ngủ vùi ba trăm sáu nhăm ngày biếng nhác
Trở mình là đã bao điều đổi khác
Cái lạnh mười hai thoáng bối rối gọi mùa

Bánh xe thời gian lăn qua dấu yêu xưa
Đôi trai gái thầm trao nhau lời nhớ
Đêm khúc khích đánh rơi trên phố
Khẽ tiếng cười nửa lạ – nửa quen !

Phiên chợ mùa đông em đã dự bao phen
Lần một lần hai có thể trăm lần nữa
Đôi ba cuộc tình loé lên rồi tắt lửa
Gieo vào đông chớm lạnh nhói lòng

Em trở về sau buổi chợ mùa đông
Chật chội tâm tư giờ đã là khoảng trống

Có ai còn nhớ, ngày Noel năm ấy, tiến chuông reo vang, lời thánh ca vang vẳng đâu đây và cả góc phố xưa buồn. Những kỷ niêm đó chợt ùa về, cảnh đó nhưng người xưa đâu? Chẳng còn kẻ đón người đưa, chẳng còn bàn tay ấy, mái tóc mềm, chiếc áo thân thương, … Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những dòng thương nhớ, kỷ niệm, những câu nói hay về mùa đông qua bài thơ “Mùa đông kỷ niệm”

MÙA ĐÔNG KỶ NIỆM

Tác giả: Lưu Vĩnh Hạ

Chừng như lạnh giá hồn tôi
Tiếng chuông còn đó trong lời thánh ca
Đêm huyền thoại của ngày xa
Nghe thời gian có nhớ qua cõi lòng

Gió khuya lạnh của mùa đông
Đêm No-el nhớ con đường ngày xưa
Sài-Gòn chợt nắng chợt mưa
Mái nhà gió bạt phên thưa phố buồn

Xoay trong ký ức mùa đông
Nhạt màu áo tím môi hồng người xưa
Bây giờ ai kẻ đón đưa
Tiếng chuông xa đổ lạnh chưa hỡi lòng

Hoa sầu đông rụng mùa đông
Đẫm sương cái bóng về không cuối ngày
Se lòng lạnh cả bàn tay
Nghe thương nhớ quá bờ vai tóc mềm

Kéo cao cổ áo mà thèm
Ngày xưa quán vắng về đêm vỉa hè
Bàn tay ai vuốt tóc thề
Bài ca thánh đó chợt nghe thoáng buồn

Gió se mấy ngọn sầu đông
Chúa trên thánh giá xót thương kiếp người
Tiếng chuông máng cỏ nhẹ rơi
Bài thánh ca đó rót lời nhân gian

Nhớ anh, nhớ mùa đông ấy, nhớ vòng tay, nhớ nụ hôn, nhớ bao kỷ niêm, nhớ cả bầu trời mùa đông tràn ngập yêu thương. Tác giá Miên Thụy đã mang đến cho chúng ta những câu thơ hay nhất về mùa đông, diễn tả tâm trạng nhớ nhung của mình khi mùa đông về.

MÙA ĐÔNG NỖI NHỚ

Tác giả: Miên Thụy

Mùa đông hiu hắt nhớ người
Bài ca ngày đó xa xôi
Em hát lời như tuyết đổ
Mùa đông ngày ấy anh ơi

Mùa đông làm em nhớ quá
Thèm vòng tay nụ hôn đầy
Nhớ nhau chiều đông tàn tạ
Lời nào cuối nẻo chân mây

Tuyết rơi! rơi ngập hồn em
Làm sao anh ơi nhớ quên
Mùa đông ru tình xanh biếc
Mùa đông mùa đông gọi tên

Ngủ vùi bên tình mùa đông
Như xưa ân ái mặn nồng
Yêu anh yêu anh mùa đông
Tình anh, tình anh mênh mông

Mùa đông còn đó nỗi buồn
Tuyết rơi trắng cả mười phương
Anh có còn bên em nữa ? !
Để em môi mắt dỗi hờn ….

Em ghét mùa đông, chẳng còn người xưa, chẳng còn hơi ấm, một mùa đông trở nên hoang lạnh, cô đơn hơn bao giờ hết. Trái tim em giờ thêm băng giá rồi chợt mong nhớ bao kỷ niệm chốn xưa. Em ghét mùa đông! Hãy cùng chia sẻ nỗi tâm tư của tác giả Trương Phương Linh qua bài thơ “Tự khúc mùa đông” qua những câu thơ, nhưng câu nói hay nhất về mùa đông các bạn nhé !!!

TỰ KHÚC MÙA ĐÔNG

Tác giả: Trương Phương Linh

Em ghét mùa đông…
Để tình mình băng giá
Cho nhớ nhung lạnh lắm những đoạ đày
Mộng hao gầy chiều tím nhuộm chân mây
Mà tim mãi vấn vương mùa trăng cũ

Em ghét mùa đông
Khi thu còn chưa đủ…
Thơm ngọt bờ môi…quên vội hẹn thề
Người phương nào nồng ấm giấc phu thê
Đêm trở gió, xót xa từng kỷ niệm…?

Em ghét mùa đông…
Giấc mơ nào… Người đành lòng tẩm liệm
Để thời gian mờ xoá tiếng yêu đầu
Vết tình sầu còn đọng lại niềm đau
Cho ngày tháng đời buồn như lá cỏ

Em ghét mùa đông…
Dẫu SaiGon, vẫn hai mùa…thế đó!
Nắng nồng say, mưa…ẩm ướt những con đường
Có chiếc lá nào…va vướng sợi thương
Vừa rơi xuống…hồn lạc loài tiếc nuối!

Niệm khúc riêng…dành cho lần yêu cuối
Tình xa rồi…hoang lạnh một mùa đông.

MÙA ĐÔNG VÀ EM

Tác giả: Kelangdu

Gió ùa về một mùa đông ngập phố
Chút mùa thu xếp lại nơi cúc vàng
Kí ức ấy lăn vào miền xa vắng
Đợi mấy mùa sao bỗng thấy… mênh mang

Anh thương lắm mỗi lúc đông sang
Gửi nỗi nhớ bay về miền giá lạnh
Đông góp gió để hồn thêm hiu quạnh
Cho mắt buồn ngơ ngác trước mùa đông

Chợt hỏi lòng ta có nhớ người không?
Để trước chiều lạc rơi nỗi nhớ
Cơn gió xô ngang giữ trong nhau hơi thở
Cho riêng anh một nỗi đợi chờ

Thành phố trở mình khoác áo mùa đông
Thoáng rùng mình… Em bây giờ có rét
Căn phòng ấm…giữa mùa đông chết
Đợi em về… đan nắng cho nhau


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

14 tình huống cần xem phong thủy cấp tốc

Mọi người thường hay nói nhiều tới phong thủy, quan tâm tới phong thủy nhưng không hẳn đã biết những tình huống nên xem phong thủy.
14 tình huống cần xem phong thủy cấp tốc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem phong thủy số điện thoại theo tuổi theo công cụ luận giải khoa học

14 tinh huong can xem phong thuy cap toc hinh anh
 
1. Tình hình học tập của trẻ nhỏ sa sút nghiêm trọng.
 
2. Trong thời gian gần đây, có nhiều sự việc xấu bất ngờ xảy đến mà không rõ nguyên nhân.
 
3. Khi công ty chuyển địa điểm làm việc mới hoặc và vị trí công tác trong tổ chức có sự thay đổi.
 
4. Khi hoàn cảnh xung quanh phong thủy nhà ở có nhiều thay đổi lớn như chuẩn bị xây dựng 1 cây cầu, con đường lớn; có 1 cây lớn, tảng đá to, vật thể điêu khắc lớn được chuyển đi hoặc đến…
 
5. Trước khi gia đình chuyển đến nhà mới phải xem phong thủy.
 
6. Sau khi gia đình chuyển đến nhà mới thì xảy ra nhiều sự cố.
 
7. Khi công việc đang ổn định trong thời gian dài thì bỗng nhiên nảy sinh biến động xấu là cần xem phong thủy.
 
8. Sức khỏe của các thành viên trong gia đình có vấn đề.
 
9. Cần chú ý về vấn đề xem phong thủy khi mà mối quan hệ giữa vợ chồng bạn trở nên xấu đi, liên tục xảy ra nhiều tranh cãi.
 
10. Các thành viên trong gia đình liên tiếp gặp sự cố hoặc tai nạn phải xem phong thủy ngay.
 
11. Các thành viên trong gia đình khó ngủ yên giấc.
 
12. Các thành viên trong gia đình bỗng nhiên không vui mỗi khi trở về nhà.
 
13. Mọi người trong gia đình có nhiều cảm giác không lành thì phải xem phong thủy ngay.
 
14. Không làm chủ được cảm xúc hoặc thường xuyên nóng giận.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 14 tình huống cần xem phong thủy cấp tốc

Phán đoán con người qua vị trí nốt ruồi trên cơ thể

ý nghĩa của các vị trí nốt ruồi trên khuôn mặt cũng như ở vùng kín của cơ thể, mỗi nốt ruồi mang một vận mệnh khác nhau. Các vị trí nốt ruồi trên cơ thể, trên bàn tay, bàn chân của đàn ông, phụ nữ đều nói cho bạn biết công danh, sự nghiệp, tiền tài của bạn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những nốt ruồi mọc trên mặt, có những nốt ruồi mọc trên cơ thể ở những vị trí khác nhau, cùng với nhiều cách xét đoán khác nhau. Và hầu hết trong tất cả chúng to thì ai ai cũng có nốt ruồi, kẻ nhiều người ít, chứ không hẳn là hoàn toàn không có. Tuy nhiên, tùy theo vị trí của mỗi nốt ruồi mọc ra mà người ta mới có thể định tướng được. Có những nốt ruồi mọc một cách tự nhiên trên thân thể, trên khuôn mặt mà không có liên quan gì tới tướng pháp cả. Nhưng cũng có những nốt ruồi tối ưu quan trọng. Dưới đây Phongthuyso.vn giới thiệu một số nốt ruồi trên mặt và cơ thể có ảnh hưởng lớn tới tương lai của bạn:

Phán đoán con người qua vị trí nốt ruồi trên cơ thể

Nốt ruồi ở giữa trán.

 Nếu người nào đó có nốt ruồi đóng ở chính giữa trán, người ấy có số thọ ngoài bảy mươi, lại là người có đức có thiên lộc tấn (tức là được hưởng lộc trời cho, không nghèo khổ) bổn mạng có quý nhân hỗ trợ nhiều khi tai nạn thấy chết trước mắt rồi cũng tan biến đi, tai qua nạn khỏi, còn nếu là đàn bà thì may mắn về đường tình duyên cuộc đời được thỏa mãn vinh hoa phú quý tột định giàu sang.

Nốt ruồi trên trán

Nếu người  nào có nốt ruồi ở trên trán phía bên trái thì số người ấy phải xa quê hương, tha phương lập nghiệp hoặc cuộc sống phiêu bạt, vợ chồng có cưới hỏi cũng không ở trọn đời trọn kiếp với nhau được. Tuy có của cải nhưng nhưng mà đời sống cứ phải khổ cực tâm trí, phải lo nghĩ nhiều, tâm tư lúc nào cũng bị xao động. Tóm lại những người có nốt ruồi ở phía bên trái của trái thì đời sống không được thong dong.

Nốt ruồi ở đuôi chân mày

Với nốt ruồi ở trên trán phía trái của đuôi chân mày thì người đó có số đa sầu đa cảm, lo âu về chuyện tình duyên, phần đông thường gặp cảnh bẽ bàng và ngang trái, cuộc đời gian nan, chịu lắm truân chuyên buồn cho số kiếp.

Nốt ruồi ở ấn đường.

Nếu người nào đó có nốt ruồi ở chính giữa hai đầu nối chân mày hay còn gọi là ấn đường thì người đó có số phải ly hương xa cha mẹ, anh em không thuận hòa, cuộc sống hầu như cô độc, về tình duyên cũng lận đận phải bị một đôi ba lần tan rã rồi mới hiệp lại, tâm trí lúc nào cũng rối loạn, tính toán một đường làm hai ngã.

Nốt ruồi ở mí mắt:

Nếu người nào đó có nốt ruồi ở dưới mí mắt, dù là bên phải hay bên trái thì đều có số long đong, có cuộc sống đau khổ âm thầm, tâm sự lúc nào cũng buồn phiền có thể nói là một nỗi buồn mệnh mông, thương vay khóc mướn, tình duyên dang dở thân phận đa đoan, cuộc sống rày đây mai đó chứ không yên ổn được một chỗ.

Nốt ruồi ở bên trái cằm:

Nếu có nốt ruồi ở bên trái cằm, nơi góc miệng thì người đó có số đào hoa, có duyên ngầm, nói năng duyên dáng, làm cho người đối diện phải say mê đắm đuối, tính cách lúc nào cũng sôi nổi, vui vẻ đời sống lúc nào cũng cảm thấy vui nhiều buồn ít.

Nốt ruồi ở gò má:

Với người có nốt ruồi ở gò má, hoặc cách gò mà hai 3 phân thì dù là bên phải hay bên trái, hoặc ngang với sống mũi thì đa số đều bị chết sớm (yểu tử) hay có thể bị tại nạn mà chết bất đắc kỳ tử. Ngược lại, trong gia đình thì những người đó là đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, ngoài xã hội là người khó gây cảm tình với mọi người, bị xem là người lạnh lung, khó hòa đồng và không thân thiện.

Nốt ruồi ở khóe miệng:

Với những người có nốt ruồi ở khóe miệng thì dù là bên phải hay bên trái đều có số sát thê hoặc sát phu, duyên nợ vợ chồng hợp tan, tan hợp. Thêm đó lại là người đa mang trụy lạc đưa đến một cuộc đời hoàn toàn hư hỏng.

Nốt ruồi ở phía trên nhũ hoa:

Nếu người nào có nốt ruồi ở phía trên cách nhũ hoa khoảng 1 cm thì người đó có số tốt về đường con cái, nhưng lại khổ về đường vợ chồng, tình duyên lúc đầu mặn nồng về sau mang nhiều buồn tủi, phiền muộn.

Nốt ruồi ở vùng kín:

Nếu người nào có nốt ruồi tại âm hộ thì là con người ham mây mưa, có nhu cầu tình dục lớn, nếu là đàn bà thì có tới 3 đời chồng.

Nếu có nốt ruồi ở trên rốn:

Với những người có nốt ruồi cách rốn khoảng 1 cm thì đây là người có số bần hàn đời sống chật vật không mấy no đủ và tình duyên rất bình thường.

Đừng bỏ qua :Cát - hung nốt ruồi trên khuôn mặt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán đoán con người qua vị trí nốt ruồi trên cơ thể

Mơ phản cực –

Là sau khi mơ toàn thấy những việc ngược lại. Ví dụ: nằm mơ thấy khóc lóc vốn là điềm không lành, nhưng kết quả là được người thân mời ăn tiệc. - Nằm mơ thấy ca múa: có chuyện khóc lóc. - Nằm mơ thấy vật ấm áp: đang lạnh lẽo. - Nằm mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Là sau khi mơ toàn thấy những việc ngược lại. Ví dụ: nằm mơ thấy khóc lóc vốn là điềm không lành, nhưng kết quả là được người thân mời ăn tiệc.

Mơ phản cực

–      Nằm mơ thấy ca múa: có chuyện khóc lóc.

–      Nằm mơ thấy vật ấm áp: đang lạnh lẽo.

–      Nằm mơ thấy ăn uống nhiều thì bị đói khát.

–     Nằm mơ thấy vui vẻ, chúc mừng thì không lành, bất lợi.

–      Lạnh thì mơ ấm áp.

–      Đói thì mơ no.

–      Ốm đau thì mơ chữa bệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ phản cực –

Tháng 3 âm, tình yêu sẽ đến với con giáp nào?

Trong tháng này, tình duyên chắc chắn sẽ chớm nở với người tuổi Ngọ, Dần và Hợi.
Tháng 3 âm, tình yêu sẽ đến với con giáp nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Ngọ

Năm Ất Mùi hứa hẹn sẽ có nhiều may mắn và thuận lợi cho người tuổi Ngọ. Đặc biệt là chuyện tình duyên, “kiếp ế” của họ sẽ chấm dứt. Cụ thể, tháng 3 sẽ đánh dấu bước ngoặt tuyệt vời đó - sức hút vô hình khó cưỡng của người tuổi Ngọ sẽ phát huy hiệu quả. Mọi người xung quanh sẽ cảm nhận được tâm hồn trong sáng, cá tính nhanh nhẹn, hoạt bát của họ và nảy sinh những thiện cảm.

dan-3-8123-1427084326.jpg

Ngoài ra, người tuổi Ngọ còn nhận được nhiều sự hậu thuẫn của mọi người. Vậy nên khi tình cảm chớm nở, cặp đôi tuổi Ngọ sẽ liên tiếp có điều kiện thuận lợi để vun đắp tình yêu. Thậm chí, tình duyên của họ sẽ rất bền chặt, dễ dẫn đến hôn nhân vì cả hai đều yêu bằng trái tim. 

Tuổi Dần

Trong tháng 3 này, sao Thiên Hy, chòm sao báo hỉ, sẽ xuất hiện trong cung mệnh của người tuổi Dần. Chòm sao này còn báo hiệu sự đào hoa cho bạn. Không khó để bạn nhận thấy dạo gần đây “vệ tinh” xung quanh mình nhiều hơn hẳn.

dan-7621-1427084326.jpg

Từ đó, bạn dễ nảy sinh tình cảm và dẫn đến tình yêu. Tuy nhiên, sự nhút nhát, không dứt khoát từng khiến bạn mất đi nhiều cơ hội trong tình duyên. Vậy nên, bạn cần mạnh mẽ hơn nữa và nhất định sẽ không còn “lẻ bóng” trong tháng 3 này.

Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi thường hướng nội, hiền lành và rất chân thành. Thực chất, nếu gặp đúng “cạ cứng”, con giáp này còn tỏ ra rất hài hước, cởi mở. Tháng 3 sẽ mang lại nhiều cuộc gặp gỡ tình cờ, “có duyên” cho người tuổi Hợi. “Phận FA” của họ sẽ chấm hết nếu biết nắm bắt cơ hội.

dan-2-3898-1427084326.jpg

Thậm chí, tình duyên sẽ bùng cháy ở người tuổi Hợi với đối tượng mà họ không ngờ tới như bạn thân thiết lâu nay hoặc đối tượng họ thần tượng trong lòng. 

Mr.Bull (theo DYXZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 3 âm, tình yêu sẽ đến với con giáp nào?

Luận về 14 chính tinh

Một bài viết hay về 14 chính tinh của Vương Đình Chi được tác giả Tuevnb dich lại. Mời các bạn cùng đọc.
Luận về 14 chính tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài này dịch và chú bởi anh tuetvnb tại diễn đàn Lý số Việt Nam.

Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Tôi dịch phần “thập tứ chủ tinh tính chất” của nhà nghiên cứu nổi tiếng Vương Đình Chi để cùng tham khảo.

Vương Đình Chi là nhà nghiên cứu Lý Học nổi tiếng ở Hồng kông, nhưng sở trường nhất là Tử Vi, ông theo quan điểm của Trung Châu phái. Đọc Tử vi của Vương ĐÌnh Chi, về cơ bản cũng không ngoài nguyên lý chung của Tử vi, tuy nhiên cách nhìn nhận, lập luận và đánh giá có đôi chút khác biệt, vì thế tôi có thêm vào đôi lời bàn luận sau mỗi phần dịch để sáng tỏ thêm.

Vì kém về ngôn ngữ nên chắc sẽ có nhiều lỗi dịch thuật, mong được chỉ giáo.

Mười bốn chính tinh

Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.

TỬ VI

Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “Quần thần củng chiếu”. Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình thường.

Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.

Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.

Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.

Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.

Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn.

Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.

Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.

Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.

Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.

THIÊN CƠ

Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.

Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.

Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.

Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.

Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.

Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.

THÁI DƯƠNG

Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc.

Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.

Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.

Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy.

Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.

Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.

Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác “cho mà không nhận”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc lấn át, chuyên quyền không phải là không có.

VŨ KHÚC

Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.

Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.

Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ) “song khúc hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.

Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng “Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt”, chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách, tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá tinh vậy.

THIÊN ĐỒNG

Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.

Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “vãn vận” (vận muộn), cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.

Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.

LIÊM TRINH

Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.

Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc) và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là “Gặp thiện thì theo thiện”. Liêm trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.

Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải suy ngẫm thêm.

THIÊN PHỦ

Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần “quần thần đồng hội”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp “gian” cũng chẳng lộ ra là “gian”.

Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, cái lập luận về tính “gian” của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng “nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế” thì có vẻ như hơi khiên cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ “phù thịnh bất phù suy” nhưng chưa hẳn đã đến nỗi phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.

THÁI ÂM

Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.

Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).

Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.

THAM LANG

Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.

Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.

Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “đổi thang mà không đổi thuốc” (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.

Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.

CỰ MÔN

Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.

Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ.

Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp, lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phú quý không thiếu.

Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.

Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh luận rằng “Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ” thật là sắc bén. Duy chỉ có điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.

THIÊN TƯỚNG

Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.

Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng “Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.

Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định.

Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách).

Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.

Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống người mạnh” (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh).

Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.

Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo “đẩu số toàn thư” thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện), biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên Tướng “kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí” (gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng không thể nhận xét rằng “thiên tướng là sao không có tính cách”. Tính cách “gặp thiện theo thiện, gặp ác theo ác” của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm. Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu “Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần”, là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu sót chăng?

THIÊN LƯƠNG

Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.

Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt: Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.

Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.

Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ: Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng?

Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.

Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.

THẤT SÁT

Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời.Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo tính chất cương khắc.

Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.

Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.

Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “hóa sát vi quyền” (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.

Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.

Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy.

(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.

Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng “không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ”, lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu “Thất Sát – Thiên Hình, cương táo nhi cô”, trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình. Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.

PHÁ QUÂN

Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “chiến tướng” tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.

Bởi Phá quân “năng công bất năng thủ”– hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “động” nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà “hóa phá vi quyền”– Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi.

Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể.

Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc.

Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa “công”, vừa “thủ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.

Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.

Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “chiến tướng bị hao tổn” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.

Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh “chiến tướng” khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là “thừa hành chính lệnh”. Trong quan điểm của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói “Phá quân hội văn tinh nhất sinh bần sĩ”. Phá quân vốn là “nghi loạn bất nghi trị” hợp với thời loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt. Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào. Cũng nên chiêm nghiệm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về 14 chính tinh

Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản. Nếu muốn biết hướng sinh vượng củ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản.

download

Nếu muốn biết hướng sinh vượng của huyệt hoặc căn nhà nào đó (cát hướng) thì ta đặt la bàn ở vị trí thích hợp của căn nhà đó (đơn trạch vị trí chính giữa giếng trời, lưỡng tiến trở lên vị trí chính giữa sân của cửa chính với cửa thứ hai). Thông thường người ta đặt la bàn trên một chiếc đế trải gạo dầy khoảng ba thốn. Trước khi định hướng phải cất hết vật làm bằng kim loại ra chỗ khác để không làm ảnh hưởng đến sự chính xác của kim nam châm.

Cách xác định hướng cụ thể là để đường kẻ màu đỏ chính giữa (mỗi một la bàn đều lắp thêm hai tuyến kẻ vuông góc) vào một hướng nào đó trong chuẩn giả định rồi chuyển động la bàn để kim nam châm và đáy thiên trì cân bằng. Tiếp đó xem đường kẻ màu đỏ trên bàn tròn chỉ chữ gì. Sau đó căn cứ vào một loạt nguyên lý trên la bàn để suy đoán cát hung của phương vị. Nếu là hung nên tiếp tục điều chỉnh hướng chỉ của đường kẻ màu đỏ cho đến khi tìm được hướng tốt thì dừng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN HUYỀN KHÔNG

Hướng dẫn lập tinh bàn Huyền không phi tinh trong Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bước 1: Xác định tọa hướng của công trình kiến trúc

Ngôi nhà, ngôi mộ, trụ sở, đền chùa, chợ, trường học… đều được nói chung là những công trình kiến trúc

Trước tiên phải xác định tọa hướng của công trình xây dựng. Công việc này chính là xác định yếu tố không gian trong Phong thủy. Khoa học Địa lý chia bề mặt Trái Đất ra các đường kinh tuyến, vĩ tuyến. Các khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ được xác định bằng tọa độ địa lý và giới hạn trong các khoảng kinh độ vĩ độ này. Cách xác định không gian trong Phong thủy thì luôn lấy đối tượng làm trung tâm và phân chia hệ thống sơn hướng. Như bài trên tôi đã giới thiệu về hệ thống sơn hướng trong phong thủy các bạn có thể lật lại trang trước tham khảo.

Tọa chính là phương tựa lưng của công trình kiến trúc. Hướng chính là phương vị mặt trước của công trình. Để xác định được tọa và hướng người ta sử dụng la bàn phong thủy. Hệ thống sơn hướng này chính là 24 sơn hướng trong phong thủy có tọa độ và giới hạn nhất định

Ví dụ: khi đo được mặt trước của căn nhà là 181 độ la kinh thì 181 độ thuộc sơn Ngọ. Căn nhà mặt trước 181 độ thuộc hướng Ngọ, hướng Ngọ đối lại với sơn Tý như vậy căn nhà tọa Tý hướng Ngọ, hay còn gọi là sơn Tý hướng Ngọ

Ví dụ khác: Căn nhà có hướng 137 độ thuộc sơn Tốn, phương vị đối diện là sơn Càn, như vậy người ta sẽ gọi là nhà tọa Càn hướng Tốn hay sơn Càn hướng Tốn

Sau khi đo được phương vị tọa hướng của công trình. Người ta sẽ ghi lại tọa độ sơn hướng để chuẩn bị bước tiếp theo trong quá trình lập tinh bàn Huyền không.

Bước 2: Xác định thời gian nguyên vận

Sau khi đo đạc xác định phương vị sơn hướng của đối tượng người ta xác định yếu tố thời gian trong phong thủy. Thời gian trong phong thủy được tính bằng nguyên và vận.

Ví dụ: Căn nhà được hoàn thành vào năm 2010 thì nó thuộc vận 8, thời kỳ hạ nguyên

Tương tự như vậy, ngôi mộ được chôn cất vào năm 1975 thì thuộc vận 6, thời kỳ trung nguyên

Bước 3: Lập tinh bàn

  • Lập vận bàn

Khi đã xác định được yếu tố không gian, và thời gian ta bước vào lập tinh bàn. Bước đầu tiên là lập vận bàn. Kẻ một hình vuông có 9 ô vuông bằng nhau

Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

Trong 9 ô này có 1 ô ở giữa là trung cung. 8 ô xung quanh là vị trí 8 cung hay 8 hướng xung quanh

Trên đây là dạng Cửu cung địa bàn nguyên đán. Phương Bắc cung Càn thuộc hành Thủy có màu đen, cung Cấn, Trung cung, và Cung Khôn thuộc hành Thổ có màu vàng, cung Chấn, Tốn hành Mộc có màu xanh, cung Ly hành Hỏa có màu đỏ, Cung Càn, cung Đoài thuộc hành Kim có màu trắng xám

Đầu tiên khi xác định được phương vị sơn hướng của công trình kiến trúc, và thời gian nguyên vận ta sẽ đưa sao đương vận nhập trung cung và theo quỹ tích vận hành của Cửu tinh đưa các sao còn lại nhập vào 8 cung con lại (quỹ tích vận hành của Cửu tinh hay còn gọi là đường bay của Cửu tinh hay Lượng thiên xích).

Hướng bay này như sau. Từ trung cung sao nào đương vận nhập trung cung sau đó sau kế tiếp bay tới cung Càn (1), từ cung Càn bay tiếp tới cung Đoài (2), từ cung Đoài sang cung Cấn (3), từ cung Cấn tiến xuống cung Ly (4), từ cung Ly lên cung Khảm (5), từ cung Khảm tới cung Khôn (6), từ cung Khôn sang cung Chấn (7), từ cung Chấn xuống cung Tốn (8)

 Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

                                                                                                        (Hình minh họa)

Cụ thể như sau:

Sơn Tị hướng Hợi vận 3. Sẽ có vận tinh:

Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

Đây là hướng tinh của một căn nhà trong vận 3, tương tự như vậy vận 7, vận 8… vận nào đương lệnh thì lấy sao đó nhập trung cung và phi thuận theo quỹ tích trên. Có một điều phải lưu ý là vận tinh luôn luôn phi thuận. Tức là đi theo con đường tăng dần từ nhỏ đến lớn

  • Lập sơn bàn

Sau khi lập được vận bàn ta tiếp tục lập sơn bàn. Bước này chính là công đoạn an các phi tinh sơn. Cụ thể cách tiến hành như sau. Ta lấy số vận tinh bay đến phương tọa, đưa sao này nhập trung cung, viết ở góc bên trái trên vận tinh. Sau đó xem xét sơn tọa đó thuộc âm hay dương để nhận diện xem phi tinh đó bay thuận hay nghịch

Ví dụ: Sơn Tị hướng Hợi vận 3 như vận bàn trên

Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

Căn cứ vào hệ thống Vận tinh trên ta sẽ thấy sơn Tị của căn nhà thuộc cung Tốn vận tinh 2 bay tới. Như vậy đưa 2 nhập trung cung viết nhỏ hơn ở bên góc trái. Sau đó chúng ta xem xét. Hai thuộc cung Khôn có ba sơn: Mùi – Địa nguyên long (âm - ). Khôn – Thiên nguyên long(dương +). Thân – Nhân nguyên long (dương +). Ứng với sơn Tị (Nhân nguyên long) là sơn Thân thuộc Nhân nguyên long dương nên sau khi nhập trung cung thì sơn tinh 2 sẽ phi thuận. Như vậy ta sẽ có 3 tới Càn, 4 tới Đoài, 5 tới Cấn, 6 tới Ly, 7 tới Khảm, 8 tới Khôn, 9 tới Chấn, 1 tới Tốn. Hoàn thành một quỹ tích vận hành của sơn phi tinh

Tương tự như vậy. Nếu như căn nhà sơn Thìn, hướng Tuất trong vận 3 thì sơn tinh sẽ vận hành theo cách khác

Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

Phi tinh 2 nhập trung cung. 2 thuộc cung Khôn có ba sơn Mùi, Khôn, Thân. Trong đó sơn Mùi thuộc địa nguyên long âm, ứng với sơn Thìn thuộc địa nguyên long. Vì thuộc âm nên hệ thống sơn phi tinh sẽ phi ngược. Chỉ khác nhau về sơn hướng và tính chất âm dương thì hệ thống sơn tinh đã tạo nên sự khác biệt hoàn toàn

  • Lập hướng bàn

Quá trình lập hướng tinh cũng tương tự như lập sơn tinh. Khi vận tinh nào tới vị trí hướng ta đưa vận tinh đó nhập trung cung. Rồi sau đó căn cứ theo tính chất âm dương của sơn hướng mà an hệ thống hướng tinh bay thuận hay bay ngược (Lưu ý thuận là quỹ tích phi tinh tăng dần từ nhỏ tới lớn, còn ngược là quỹ tích phi tinh giảm dần từ lớn tới nhỏ)

Cụ thể hóa bằng ví dụ ở trên. Sơn Tị hướng Hợi vận 3 sau khi ta an được toàn bộ hệ thống sơn phi tinh thì ta sẽ thấy vận tinh 4 ở vị trí hướng ta đưa 4 nhập trung cung viết nhỏ hơn ở bên trên ở góc phải của vị trí trung cung.

Sau đó ta xét 4 thuộc cung Tốn có 3 sơn Thìn, Tốn, Tị, trong đó Tị thuộc nhân nguyên long dương ứng với sơn Hợi tại hướng, vì có thuộc tính dương nên khi nhập trung cung hướng tinh có quỹ tích phi thuận. Như vậy 5 tới Càn, 6 tới Đoài, 7 tới Cấn, 8 tới Ly, 9 tới Khảm, 1 tới Khôn, 2 tới Chấn, 3 tới Tốn. Hình ảnh minh họa như sau:

Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

Trong trường hợp sơn Thìn hướng Tuất vận 3 như ví dụ vừa nãy ta sẽ thấy sự khác biệt hoàn toàn. Vận tinh 4 tới hướng. 4 thuộc cung Tốn có ba sơn Thìn, Tốn, Tị. Hướng tinh là hướng Tuất ứng với sơn Tuất là sơn Thìn đều thuộc địa nguyên long và có thuộc tính âm, vì vậy sau khi hướng tinh 4 nhập trung cung tại hướng sẽ phi ngược 8 cung còn lại. Như vậy ta sẽ có 3 tới Càn, 2 tới Đoài, 1 tới Cấn, 9 tới Ly, 8 tới Khảm, 7 tới Khôn, 6 tới Chấn, 5 tới Tốn


Hướng dẫn lập tinh bàn huyền không tại Phong thủy số

 

Như vậy qua hai ví dụ trên ta sẽ thấy được thời gian, phương vị cụ thể là tính chất âm dương có quan trong rất lớn đối với vượng khí của căn nhà. Trường hợp căn nhà sơn Tị hướng Hợi vận 3 kia thuộc cách cục Thượng sơn hạ thủy đinh tài đều bại. Còn căn nhà sơn Thìn hướng Tuất vận 3 là cách Vượng sơn  vượng hướng đinh tài lưỡng đắc. Giữa hai ví dụ trên có sự khác biệt hoàn toàn, bởi tính chất âm dương của sơn hướng và yếu tố nguyên vận thời gian chi phối rất quan trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN HUYỀN KHÔNG

Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

Trưng bày vật phẩm phong thủy trong nhà không những có ý nghĩa về thẩm mỹ mà còn là biểu tượng giúp chủ nhân có thêm năng lượng trong cuộc sống.
Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hoa mẫu đơn - Biểu tượng cho sự sang trọng, quý phái và hấp dẫn

Mẫu đơn là loài hoa mang dáng vẻ vương giả, sang trọng, là biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng và sắc đẹp. Trong các dịp lễ khai trương, bạn bè đối tác thường tặng tượng mẫu đơn để chúc nhau làm ăn ngày càng phú quý, phát đạt… Ngoài ra, với sức quyến rũ, sự may mắn vốn có thì khi đặt hoa mẫu đơn tại cung tình duyên trong phòng ngủ (hướng Tây Nam) sẽ giúp bạn tăng cường hạnh phúc hôn nhân, tốt cho đường con cái…

Theo Ngũ hành, mẫu đơn thuộc Hỏa, tranh hoa mẫu đơn nên treo ở vị trí tương sinh tương trợ là hướng Nam, hướng Tây Nam, hướng Đông Bắc của ngôi nhà. Không nên treo ở vịtrí tương khắc, hao tổn là hướng Đông, hướng Đông Nam, hướng Tây Bắc và hướng Tây. Ngoài ra, cũng có thể treo ở vị trí trung tính là hướng Bắc.

2. Vương trượng - Biểu trưng cho uy quyền

Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc - Lộc - Thọ thì ông Lộc trong tay cũng cầm Vương trượng. Đa phần, Vương trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc, đồng, sứ…

Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị vua chúa, quan lại luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong phong thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.

Vương trượng được mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ hoàng, Nhị hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.

Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.

3. Tháp văn xương đem lại may mắn trong học tập và công việc

Tháp văn xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 36 - 45m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch chồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.

Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí văn xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử.

Tháp văn xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma và được sử dụng trong việc loại trừ ma quỷ. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi cử quan trọng hoặc những người muốn tăng tiến về trí tuệ và công danh.

Nếu dạo qua các cửa hàng chuyên bán đồ phong thủy, có thể dễ dàng nhận ra những mô hình tháp văn xương được chế tác từ thạch anh, ngọc lục bảo, pha lê hoặc đồng… bày bán khắp nơi. Trong trường hợp gia đình có con, cháu sắp phải tham dự kỳ thi lớn như tốt nghiệp, đại học… tốt nhất nên đặt tháp văn xương trên bàn học của cháu, đúng huyệt văn xương trong nhà để cầu may mắn. (Huyệt văn xương ứng với năm sinh của mỗi người khác nhau sẽ khác nhau).

4. Quả cầu phong thuỷ giúp trí tuệ minh mẫn, cải thiện trì trệ

Quả cầu thủy tinh là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng, quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.

Quả cầu thuỷ tinh mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu thuỷ tinh là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.

Mặt khác, người ta còn quan niệm quả cầu mang nguyên khí của trái đất, tức Thổ. Chất làm quả cầu pha lê cũng là nguyên khí của Thổ đem lại Dương khí. Trong phong thuỷ thì đây là pháp khí rất quan trọng để bổ sung Dương khí. Dùng nơi Âm khí quá vượng, tối tăm, thiếu ánh sáng để chống Âm khí gây hoạ như bệnh tật, tán tài, thị phi, tiểu nhân…

Bạn nên bày quả cầu trên bàn học, bàn làm việc hoặc tủ sách, giá sách. hoặc nơi các cát tinh Thiên y, Diên niên, nơi Âm khí vượng. Tránh bày trong bếp, nhà vệ sinh, nơi Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ chiếm đóng.

Cầu thuỷ tinh mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, chôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Tất cả các doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt cầu thuỷ tinh trên bàn làm việc.

Cầu thuỷ tinh cũng đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn đến cho bạn. Đặc biệt với các doanh nhân, cầu thuỷ tinh đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.

Theo Xây dựng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy mang lại công danh và hạnh phúc cho gia chủ

HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Một cuốn sách sách hay được cụ Hà Uyên chia sẻ. Mời các bạn cùng đọc.
HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

QUYỂN 1

12 HỘI CHIA HỢP TỔNG SỐ

Đây nói, đồ vẽ 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, ngôi ở 4 chính, cõi tóm trong 4 duy, là Tý Ngọ Mão Dậu, 4 quẻ này gồm 24 hào tương đương với 24 tiết khí chia ra để chựu cho đều mỗi hào 1 khí vậy. Mỗi 1 quẻ này chủ 3 Hội, Quẻ Phục quẻ Cấu khởi ở Đông chí - Hạ chí, đến quẻ Đồng nhân quẻ Sư mà tiết Kinh trập - Bạch lộ, thời Ly Khảm chia ra mà trị vậy. Quẻ Lâm quẻ Độn khởi ở Xuân phân - Thu phân đến quẻ Quải quẻ Bác, mà tiết Mang chủng - Đại tuyết, thời Càn Khôn chia ra mà trị vậy. Số chọn chia trị 3 Hội đều 90 ngày, quẻ thẳng chủ biến từng hào 1, từ hào Sơ đến hào Trên, cùng với 15 quẻ, mà giữ về tiết tự, gồm 24 quẻ, làm 4 quẻ biến hóa, noi theo hào, rồi vòng khắp 60 quẻ mỗi hào, 5 quẻ chủ 2 Khí, mỗi Khí biến tương đương 2 quẻ rưỡi, thực 1 hào tương đương với 15 hào, 1 Hội 5 quẻ 30 hào, thời hào biến dùng 2 quẻ đối ứng, 3 Hội 15 quẻ 90 hào, khởi hào biến chưng dụng 6 phân vậy. Nhật trực, mỗi 90 ngày làm 1 mùa, dùng 4 mùa mà 4 quẻ chia thẳng đấy, hào biến có thể 1, 1 này rõ ràng tường tận vậy.

Đây nói, trên bầy 4 quẻ, dưới bầy 4 quẻ hào biến đến thẳng 24 quẻ, lại thứ nữa, bầy 4 quẻ chia chủ 3 Hội, mỗi Hội có 5 quẻ, đều thẳng 15 quẻ cùng 60 quẻ. Dưới thời tường tả hữu đều 4 quẻ, cùng giao lẫn nhau, mà thành quẻ biến 12 cùng 30 nhân mà thành quái số. Khoảng giữa 1 đồ, dường mối sáng như bầy lông mày, kẻ đọc nên lưu tâm vậy. Có kẻ hỏi 4 quẻ chủ rường cột vậy, sao bảo là nhuận? Suốt một năm, ba trăm lẻ sáu tuần 60 quẻ hào đương đấy, còn 4 quẻ 24 hào chia ra cùng chựu, thừa 6 ngày mà để nhuận vậy, thời lấy chủ rường cột vén tan mối, mà đều dùng rất đều vậy, 4 mùa định năm bén thành vậy.

Đây nói: Nguyên kinh Hội, Hội kinh Vận, Vận kinh Thế, gồm Thế hào chia thẳng cho niên quái đồ thâu tóm mà lại (tri lai), đi (vãng) theo đồ, trước 4 quẻ, chia 24 khí chủ 60 quẻ chia từ Tý đến Hợi, tương đương với kinh quái của 12 Hội, mỗi Hội đều 5 quẻ nên bầy ở đồ tầng 1. Ở đồ tầng thứ 2, vì lấy ngay mục quái của Nguyên kinh Hội, đều tới mỗi 1 quẻ từng hào biến từ Sơ đến Thượng, noi theo thứ tự bằng bầy đầu đuôi, được 360 quẻ. Ở đồ tầng thứ 3, vì lấy ngay mục quái của Hội kinh Vận, lại tới 360 quẻ, lại mỗi quẻ biến từng hào một, 6 hào sinh 6 quẻ như trước theo thứ tự, bằng bầy đầu đuôi được 2160 quẻ. Ở tầng thứ 4 của đồ, vì lấy ngay mục quái của Vận kinh Thế, đều trải ngang dưới, thời 1 quẻ đều 6 biến được 6 quẻ, như mẫu thức vạch quẻ được từ dưới lên trên bầy 6 tầng, đều lấy niên quái đã được, liên hệ thẳng ở dưới Thế gồm 129600 quẻ, đương số niên quái lấy niên tóm 12 tháng, tích chứa lại thời 155520 số (129600x12), đủ trong 60 đồ, thay nhau làm đường ngang dọc, kẻ đọc khá tung hoành 1 liếc mắt mà xem. Ta làm lý lẽ manh mối này, mà chia ra đấy, cho nên rằng Tự ngôn.

Đây nói, đồ toàn số Trời Đất 4 quẻ giao ứng nhau, tả hữu bầy bằng, mà giao biến, ứng đó là lẻ chẵn đối phản, đó là ứng hợp vậy. Giao biến như Càn sơ biến Cấu, Cấu sơ biến Càn. Dưới đến Khôn sơ biến Phục, Phục sơ biến Khôn đều thế. Ứng hợp như quẻ Cấu hợp Phục, quẻ Bác hợp quẻ Quải đều thế. Toàn số là 12 cùng 60 dẫu nhân từ ít rồi nhiều, mà tích số 60 quẻ toàn vẹn, là quẻ Trời Đất vậy, 4 là Thần của Nguyên Hội Vận Thế nhân giao nhân, số ấy vốn tích chứa ở đó, lấy làm đồ vậy.

Lại nói, 1 Nguyên tóm 12 Hội, Hội đều 30, mỗi Hội gồm thẳng 5 quẻ, như Hội Tý có Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi ích, Thuần Chấn. Mỗi Vận tương ứng với 1 hào, như Hội Tý quẻ Phục 6 vận tương ứng với 6 hào biến được 6 quẻ: Khôn, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn. Kể 12 Hội làm 1 Nguyên gồm 129600 năm, 30 Vận làm 1 Hội gồm 10800 năm, 12 Thế làm 1 Vận gồm 360 năm, chia thẳng cho Vận cùng với quẻ hào, dùng quẻ 1 hào lại tương đương với 1 quẻ, 6 vị trí của hào tương đương với 6 quẻ, mỗi hào quản 12 năm, 6 hào sẽ quản 72 năm, như quẻ Phục có hào Sơ dương, bắt đầu thẳng Khôn, Khôn lại thẳng tới Sư có hào 2 dương, Khiêm có hào 3 dương, Dự có hào 4 dương, Tỷ có hào 5 dương, Bác có hào Thượng dương, mỗi hào đều quản 12 năm, đây là Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận cùng Thế, như Năm tóm Tháng, Tháng tóm Ngày cùng Giờ, cũng như Ngày tóm Giờ, Giờ tóm Phân cùng Sao. Cho nên vận số có lớn nhỏ, tóm đấy thời càng lớn, chia đấy thời càng nhỏ, nhỏ thời số nhiều, nhỏ lớn thời số xếp từng loài mà cùng về 1. Đồ ước 1 Nguyên 12 Hội, thâu tóm chia Vận mà xem, thì nhìn thấy được những cái lớn, rõ ràng, mà đầy đủ vậy.

HOÀNG CỰC KINH THẾ THƯ GIẢI

Hồng phạm Thiên thứ 5 nói: dựng dùng Hoàng cực, “hoàng” nói là lớn, “cực” nói là giữa, Hoàng cực nói là “đại trung”. Trù có 9 (trời đất có chia làm 9 loài), 50 trước, 4 sau, 4 mà dựng dùng rất cao. “Cực” cho nên gọi là khuôn phép, “Hoàng” cho nên gọi là to lớn. Thiệu ta sửa trị đời, xem vật mà làm ra Hoàng cực, tròn thời theo với phép cỏ thi, vuông thời theo với số của quái, diễn Đồ Thư, thực suy ở 9, Trù Sách vậy. Hỏi rằng “kinh thế” là sao? Trời đất mở mang dựng lên, tổ chức mây, mưa, sấm, chớp, nói chia đường ngang đường dọc quấn quýt lấy nhau là hợp vậy, vả đường Nam Bắc là dọc, đường Đông Tây là ngang, nói Kinh mà Vỹ là suốt vậy. Kinh rằng đạo thường, chủ dùng số thường, thông ở biến, biến không mất thường, Đời (Thế) cùng xưa nay, Đời (Thế) để ghi năm thì nửa ở 6 Giáp, Thế để chép Đời, thì xa mãi đến ngàn năm. Vận mà Hội, Hội mà Nguyên, đều do Thế tích chứa, mà cũng thay đổi theo thứ tự vậy.

Nói rằng “kinh thế”, mà Nguyên dùng kinh Hội, Hội dùng kinh Vận, là đều thâu tóm đấy. Nguyên là 1, số là 129600 mà thống nhất. Hội mà chia Nguyên, thì mỗi một Hội đều là 10800 (129600/12=10800) mà làm Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Vận mà chia Hội, thì mỗi Vận đều là 360 (10800/30=360) mà làm 12 Hội Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Thế mà chia Vận, thì mỗi Thế đều là 30 (360/12=30), 12 Thế dùng 30 thời làm 1 Vận, 360 số lần lượt tích chứa vậy. Làm Hội làm Nguyên không chọn dùng 1 mà đều suốt ở 1 vậy, cho nên nêu một mình “kinh thế” để thâu tóm đấy, nhỏ thâu tóm lớn, ít thâu tóm nhiều. Cái lớn cùng với nhiều dùng để thâu tóm nhỏ cùng ít, lại có thể lấy đó mà suy. Năm xem ở Nguyên, tháng xem ở Hội, ngày xem ở ở Vận, giờ xem ở Thế cùng với Phân-Sao chọn lấy tích chứa. Lại xem Năm Tháng cái gì trừ đi, Kinh chỉ định Thế thâu tóm, đoán Thế lấy giờ tích chứa, cũng lấy Vật xếp cùng loại với Vật. Số có vạn cùng Thế thừa trừ, thời 10 Thế có thể biết lấy Vật, 100 Thế khá biết, cũng biết lấy Vật, Vật được lý lẽ, noi theo Kinh mà trị, phản lại thường mà trái Kinh thì loạn, lấy gì xem chăng? Xem mọi Kinh quái hào, duy có Thời (giờ) của Vật, chẳng hoặc trái vậy. Vật lớn ấy chỉ có Trời Đất, mà vật ở Trời ấy chỉ có mặt Trời, mặt Trăng cùng các vì Sao. Vật ở Đất ấy là nước, lửa, đất, đá. Mặt trời Càn mà nước Khôn, mặt trăng Đoài mà lửa Cấn, Sao Ly mà đất Khảm, thần (các vì sao) Lôi mà đá Tốn. Trời 4 phương để ngang Trời, âm dương Thái Thiếu, dựng lên cột của trời. Đất 4 phương để ngang đất, cương, nhu, Thái, Thiếu dựng cột của đất, trời đất giao ngang, Thế (đời) không đổi vật, rời đi là số, lâu dài thường hằng là Đạo, số theo cùng tượng, đều lấy 4 lập (dựng), Đạo lấy Thế dùng làm Thần, chỉ lấy 1 vậy. Hoàng lấy Đạo để rộng khắp, Cực lấy Đạo để dựng, Kinh lấy Đạo để giữ, Thế (đời) lấy Đạo để trị, Vật lấy Đạo để cung cấp cho xem mà tìm Đạo thông. Vì số biến mà Đạo không biến, Đạo làm ngang, Đạo dựng mà trời đất đều dựng. Người làm cùng cực Đạo ở đâu? Trong khoảng 1 động 1 tĩnh, thời “đại trung” cùng với tâm du! Đại trung thế du! Hoàng cực ngang chọn dùng ở Thế (đời), Vật xem chọn dùng ở vật biến. Sở học của Thiệu ta hầu như biết sự hóa dục hóa nuôi của Vật, mà trời lồng lộng to lớn vậy!

Đồ Kinh Thế của Thiệu ta lấy Nguyên thâu tóm Hội, Hội thâu tóm Vận, Vận thâu tóm Thế; cũng như lấy Niên tóm Nguyệt, Nguyệt tóm Nhật, Nhật tóm Thời. 12 giờ làm 1 ngày, 30 ngày làm 1 tháng, 12 tháng làm 1 năm, 30 năm làm 1 Thế, 12 Thế kể là 360 năm làm 1 Vận, 30 Vận kể là 10800 năm làm 1 Hội, 12 Hội tích chứa 129600 năm làm 1 Nguyên, quẻ ấy lấy đồ tròn của Phục hy 64 quẻ, trừ 4 quẻ chính Ly Càn Khảm Khôn, mỗi quẻ 6 hào, cộng là 24 hào làm Nhuận quái, mỗi 2 hào biến làm 2 quẻ chia chủ 1 Hội, 24 hào chia chủ 12 Hội, thừa trừ ngoài ra.

Từ quẻ Phục khởi quanh bên tả, trải qua những quẻ: Địa Lôi, Sơn Lôi, Thủy Lôi, Phong Lôi, Thuần Lôi, Hỏa Lôi, Trạch Lôi, Thiên Lôi - Địa Hỏa, Sơn Hỏa, Thủy Hỏa, Phong Hỏa, Lôi Hỏa, Trạch Hỏa, Thiên Hỏa - Địa Trạch, Sơn Trạch, Thủy Trạch, Phong Trạch, Lôi Trạch, Hỏa Trạch, Thuần Đoài, Thiên Trạch - Địa Thiên, Sơn Thiên, Thủy Thiên, Phong Thiên, Lôi Thiên, Hỏa Thiên, Trạch Thiên.

Từ quẻ Cấu khởi quanh bên hữu trải qua những quẻ: Thiên Phong, Trạch Phong, Hỏa Phong, Lôi Phong, Thuần Tốn, Thủy Phong, Sơn Phong, Địa Phong – Thiên Thủy, Trạch Thủy, Hỏa Thủy, Lôi Thủy, Phong Thủy, Sơn Thủy, Địa Thủy – Thiên Sơn, Trạch Sơn, Hỏa Sơn, Lôi Sơn, Phong Sơn, Thủy Sơn, Thuần Cấn, Địa Sơn – Thiên Địa, Trạch Địa, Hỏa Địa, Lôi Địa, Phong Địa, Thủy Địa, Sơn Địa, cộng lại được 60 quẻ.

Lấy quẻ Địa Lôi Phục khởi ở Đông chí nửa giờ Tý, gồm 5 quẻ phối 2 khí:

- Quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Thuần Chấn phối với khí Đông chí - Tiểu hàn ;

- Quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí phối với khí Đại hàn - Lập xuân ;

- Quẻ Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân phối với khí Vũ thủy – Kinh trập ;

- Quẻ Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội phối với khí Xuân phân – Thanh minh ;

- Quẻ Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, phối với khí Cốc vũ - Lập hạ ;

- Quẻ Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải phối với khí Tiểu mãn – Mang chủng

- Quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn phối với khí Hạ chí - Tiểu thử.

- Quẻ Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn phối với khí Đại thử - Lập thu.

- Quẻ Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư phối với khí Sử thử - Bạch lộ

- Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm phối với khí Thu phân – Hàn lộ.

- Quẻ Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy phối với khí Sương giáng - Lập đông.

- Quẻ Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác phối với khí Tiểu tuyết - Đại tuyết.

Lấy 1 quẻ thẳng 72 Thế, 5 quẻ thẳng 360 Thế, 60 quẻ thẳng 4320 Thế mà làm 12 Hội, tích chứa 129600 năm, ở trong đó quẻ Truân 6-4, Vô vọng 1-4, Phong 4-3, Tiết 6-2, Lý 1-2, Đại tráng 4-1, Đỉnh 3-5, Thăng 8-5, Hoán 5-6, Lữ 3-7, Khiêm 8-7, Quan 5-8 là 12 quẻ ở 2 khí giao nhau. Trước 3 hào quẻ trên 1 khí dùng 36 Thế, sau 3 hào quẻ dưới 1 khí dùng 36 Thế, 1 quẻ 6 hào biến làm 6 quẻ, 5 quẻ biến làm 30 quẻ thẳng 360 Thế, thời 1 hào dùng biến quái thẳng 12 Thế. Mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Lôi Hỏa Phong dùng hào 9-4 mà đi lên trên. Đóng Vật trong Tuất tới quẻ Địa Sơn Khiêm dùng hào 9-3 mà đi xuống dưới, bởi trên mà suy, lớn lại càng lớn, bởi dưới mà suy, nhỏ lại càng nhỏ. Cái lý ấy thuộc về Trời Đất, chẳng gì là chẳng vậy.

NGUYÊN NGANG HỘI DÙNG MỘT

THIÊN QUAN VẬT DÙNG MỘT

Nguyên là 1, Hội là 12, lấy đồ Nguyên ngang Hội, như số Hội 12 đồ, mỗi đồ quản tích đều 360, thống kê 4320 toán, đồ đều bầy 30 làm 1 hàng, trước 1 hàng là tiêu mục, thực 30 hàng, hàng đều bầy 5 tầng, từ tầng 1, 2, 3, 4 đến tầng trên. Nhật chủ Càn làm Nguyên, Nguyệt chủ Đoài làm Hội, Tinh chủ Ly làm Vận, Thần chủ Chấn làm Thế. Càn nhật Ly sao là 12, vòng hết lại bắt đầu, gồm 2 vòng. Nửa đồ Nhật-Nguyệt-Tinh, lấy ngang Dương dùng Thái Thiếu, theo dương can Giáp 1 đến Quý 10, vòng hết lại bắt đầu, gồm 3 vòng. Đoài Nguyệt Chấn Thần là Thái Thiếu của Âm, từ chi âm Tý 1 đến Hợi bầy hai hàng trống không, một thứ là Can, số ngang dùng đến cuối 12 đồ cộng 360 mục. Đồ Thần ngang cũng như thế, mà Tý 1 làm đầu, thuận thứ tự đi thẳng đến Hợi đều 12 mục 1 đồ, 30 hàng mục, kể 360 thông 12 đồ 360 hàng, thời có 4320 mục. Đồ ở Tý 1, hàng đầu đều ở Tý, lần lượt đến Giáp Bính Mậu Canh Nhâm làm vòng trong, đến ở Hợi, 12 hàng đầu đều ở Hợi chen liền Ất Đinh Kỷ Tân Quý làm vòng kế tiếp, đều bỏ trống mục, mà trên dưới đều lần lượt thêm toán, từ 1 đến 10, 10 đến 100, nghìn, toán chọn 1, 3, 5, 7, 9 Tý lấy lẻ chựu, còn 2, 4, 6, 8, 10 Hợi lấy chẵn thêm vào. Quẻ của đồ, mỗi đồ quẻ ngang 5, quẻ dọc đều 6, cộng 30 thông 12 đồ. Quẻ ngang 60, quẻ dọc 260. Quẻ dọc của dọc 2160, quẻ dọc ấy đổi nhau làm ngang. Lại có quẻ dọc của dọc, ngậm trống không 12 đồ trong mục, vì Niên ngậm Nguyệt, Nguyệt ngậm Nhật và ngậm cả số Phân Sao của Thời. Cũng như Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận, đều tóm số Niên Nguyệt của Thế vậy. Vậy thì lấy Nguyên kinh Hội mà kinh Vận kinh Thế hết thẩy ngụ ở trong 12 đồ. Đến 6 đồ trước dương lớn mà lên, 6 đồ sau âm tiêu mà xuống. Quẻ Phục-Cấu chia ở Tý-Ngọ, trong ngoài suy luận sẽ rõ. Kẻ đọc tâm hội ở đồ mục, tự mình mà được vậy.

Lại nói: Đông chí ngày Giáp Tý, nửa giờ Tý khởi đầu quẻ Phục biến làm Khôn, từ nửa giờ Tý đến nửa giờ Dần, Khôn hào đầu. Nửa giờ Dần đến nửa giờ Thìn, nửa Khôn hào 2 quẻ Sư. Nửa giờ Thìn đến nửa giờ Ngọ, nửa Khôn hào 3 quẻ Khiêm. Nửa giờ Ngọ đến nửa giờ Thân, nửa Khôn hào 4 quẻ Dự. Nửa giờ Thân đến nửa giờ Tuất, nửa Khôn hào 5 quẻ Tỷ. Nửa giờ Tuất đến nửa giờ Tý, nửa Khôn hào Thượng quẻ Bác là hết. Ất Sửu thời nửa giờ Tý, quẻ Phục hào 2 biến thành quẻ Lâm, Đinh Sửu nửa giờ Tý hào 3 quẻ Phục biến thành quẻ Thái, từ hào Sơ xong đến hào Thượng, mỗi hào thứ tự lấy trước sau 2 nửa, gồm 1 hào được 2 quẻ làm nêu, nêu 2 quẻ cùng khắp 1 hào, 12 vòng khắp 1 quẻ, khởi xong xem quẻ Khôn, do đó trải Địa Hỏa Minh di, Thuần Lôi, Thủy Lôi Truân, Sơn Lôi Di biến vòng lại, tiếp tục theo tiếp mà suy, gồm 72 thần (sao). Qua 6 ngày từ Giáp đến Kỷ, quẻ thẳng Phục mà đấy du! Là quẻ Di vậy, Dự phỏng đây. Việc làm này Nhật thấy Thời, cũng tức là Thời mà phép thắt bó Năm, Tháng, Ngày vậy. Nguyên, Hội, Vận, Thế đều có thể thông xem. Thấy mỗi Nguyên làm 2 mà khen tương đương với 1, ngày đêm có khác mà cùng nhau làm 1 ngày vậy.

THÁNG TÝ: là Hội thứ Nhất, từ Hợi đến Tý là 6 âm đã cùng cực, 1 dương mới động vậy. Ở Thì trong luật lữ là Hoàng Chung, Chi kiến Tý, Nguyệt phần 11, Nhật ở Tinh chép, thì tiết lệnh Đông chí - Tiểu hàn, quẻ thẳng gồm có: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, đều có tượng u ám, kíp đến Thuần Lôi, Thiên thần chia dần. Quẻ Truân đang ở giữa hội Tý, hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Phục, quẻ Di chủ khí Đông chí, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Ích, quẻ Thuần Lôi chủ khí Tiếu hàn, trước sau đều 15 hào, số năm đều 5400. Chọn dùng làm Nhuận quẻ Thuần Ly, hào Sơ biến thành quẻ Lữ, hào 2 biến thành quẻ Đại hữu, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 1 Thế Tý 1, sau khởi vận Kỷ 16 Thế Tý 181 xong Quý Hợi 360 cùng là Hội Tý vậy. Thanh trời xướng 9, âm (tiếng) đất chưng 11, xướng Thần (sao) họa Thạch (đá) báo, là Hằng Ích cảm thông khá vậy. Lấy Nguyên kinh Hội dùng 2. Thiên quan vật chọn dùng 2.

THÁNG SỬU: là Hội thứ Hai, từ Tý vào Sửu là lúc trời mở ở trên, đất đóng ở dưới, ở Thì luật lữ là Đại lữ, Chi kiến Sửu, Nguyệt phần 12, Nhật ở tiết lệnh nguyên trống rỗng, có tiết khí Đại hàn - Lập xuân. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, đều có tượng ra chỗ tối hướng về chỗ sáng. Quẻ Vô vọng đang ở giữa hội Sửu, hào 6 – 3 trở về trước cùng với Phệ hạp, Tùy chủ khí Đại hàn, hào 9 – 4 trở về sau cùng với quẻ Minh di, quẻ Bí chủ khí Lập xuân, hào biến đều 15, số năm đều 5400. Nhuận quẻ Thuần Ly hào 3 biến thành quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 4 quẻ Thuần Ly biến thành quẻ Sơn Hỏa Bí, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 361, sau khởi vận Kỷ 46 Thế Tý 541, song đến Quý Hợi lại 360 vòng quanh Hội Sửu vậy. Thanh trời dùng 10, âm đất dùng 12, các vì sao xướng đá đất họa, âm dương chia 2 nghi, trong khoảng giao tiếp đấy du!

THÁNG DẦN: là Hội thứ Ba, Sửu mà giao với Dần thì trời đất mở đóng, lúc nhân vật mới sinh vậy, ở Thì luật lữ là Thái Dốc, Chi kiến Dần, Nguyệt phần 1, Nhật ở xu-tí (tên chỗ sao đi đến, từ sao Quỷ 18 độ đi đến sao Chủy 4 độ), thì tiết lệnh Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ thẳng Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân, đều có tượng hình khí hóa sinh. Quẻ Phong đang ở giữa hội Dần. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thủy, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Cách, Đồng nhân chủ khí Kinh trập, hào biến đều 15, số năm đều 5400 năm, Nhuận giao quẻ Ly hào 5 biến thành quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6 quẻ Ly biến thành quẻ Lôi Hỏa Phong, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 61 Thế Tý 721, sau khởi vận Kỷ 76 Thế Tý 912 xong đến Quý Hợi lại 360, hội Dần vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 1, âm đất dùng 1, Tinh xướng Thổ họa, là khoảng âm dương giao ngũ hành du!

THÁNG MÃO; là Hội thứ Tư, Dần mà vào Mão, lúc ba Tài bắt đầu gây mới, khí hải ra, thì đi vậy. Ở Thì trong luật lữ là Giáp Chung, Chi kiến Mão, Nguyệt phần 2, Nhật ở Giáng lâu, tiết lệnh là Xuân phân – Thanh minh. Quẻ thẳng gồm: Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội, đều có tượng tìm tòi soi sáng, quẻ Tiết đang ở giữa Hội Mão. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với quẻ Lâm, quẻ Tổn chủ khí Xuân phân, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Trung phu và quẻ Quy muội chủ khí Thanh minh. Hào biến đều 15, niên số (số năm) đều 5400 năm. Quẻ nhuận Thuần Càn mới dùng vào việc, biến hào Sơ được quẻ Thiên Phong Cấu, biến hào 2 được quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, cũng chia ra mà làm chủ chung. Trước khởi vận Giáp 91 Thế Tý 1261, sau khởi vận Kỷ 180 lẻ, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360, là hội Mão vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 2, âm đất dùng 2, Nguyệt xướng Hỏa họa, bảo rằng Hàm Tổn cảm thông là được vậy.

THÁNG THÌN: là Hội thứ Năm ; từ Mão đến Thìn dương tiến ở 5 (từ Tý đến Thìn có 5 cung), đều có tượng lúc vật gặp thịnh vậy, ở Thì trong luật lữ là Cô tẩy, Chi kiến Thìn, Nguyệt phần 3, Nhật ở Đại lương, thì tiết lệnh Cốc vũ - Lập hạ. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, đều có tượng cảnh vật tốt tươi, quẻ Lý đang ở giữa hội Thìn. Hào 6 - 3 trở về trước cùng quẻ Khuê, quẻ Thuần Đoài chủ khí Cốc vũ, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Thái, quẻ Đại súc chủ khí Lập hạ. Hào biến đều 15, số năm đều 5400. Hào nhuận là quẻ Thuần Càn hào 3 biến thành quẻ Thiên Trạch Lý, hào 4 biến thành quẻ Phong Thiên Tiểu súc, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 7401, sau khởi vận Kỷ 136 Thế Tý 1621, rồi đến Quý Hợi 360 hội Thìn vòng quanh đủ rồi vậy. Thanh trời dùng 3 biến Bính chưng Đại vũ, đến như ở 4 là Đinh dùng thanh Giốc, âm đất dùng 3, ứng Thìn chọn dùng Giốc luật, đến 4 – 8 mà Thanh Giốc Bính Nguyệt xướng giao Nhật, Hỏa họa giao Thủy, là quẻ Sơn Hỏa Bí làm quẻ Địa Thiên Thái giao tế du!

THÁNG TỊ: là Hội thứ Sáu ; từ Thìn đến Tị, vận Thủy (nước) đã hết, lúc đức Hỏa đương vượng dậy, ở Thì trong luật lữ là Trọng lữ, Chi kiến Tị, Nguyệt phần 4, Nhật ở Thực trầm, tiết lệnh là Tiểu mãn – Mang chủng. Quẻ thẳng gồm: Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải, đều có tượng vật càng nhiều thịnh. Quẻ Đại tráng đang ở giữa Hội Tị. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Nhu, quẻ Tiểu súc chủ khí Tiểu mãn, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Đại hữu, quẻ Quải chủ khí Mang chủng, hào biến đều 15, niên số đều 5400, hào nhuận quẻ Thuần Càn hào 5 biến thành quẻ Hỏa Thiên Đại hữu, hào Trên biến thành quẻ Trạch Thiên Quải cũng chia ra mà làm chủ đấy, trước khởi vận Giáp 151 Thế Tý 1801, sau khởi vận Kỷ 166 Thế Tý 1981, xong đến Quý Hợi, lại 360 hội Tị vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 5 biến Mậu dùng Đại cung, âm đất dùng 6 ứng Kỷ dùng thanh Giốc, Nhật xướng Thủy họa, lúc rất thịnh khí nối du! Trên Tị vòng quanh trời dùng 6 dương.

THÁNG NGỌ: hội thứ Bẩy ; từ Tị đến Ngọ, dương lên đã cùng cực, là lúc âm nghĩ muốn tranh đoạt nương lên trước vậy, ở Thì trong luật lữ là Nhuy Thực, Chi kiến Ngọ, Nguyệt phần 5, Nhật ở Thuần thủ, ở thì tiết lệnh Hạ chí - Tiểu thử. Quẻ thẳng gồm: Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn, đều có tượng vật nảy mầm mà âm loại bỏ đi. Quẻ Đỉnh đang ở giữa hội Ngọ. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Cấu, quẻ Đại quá chủ khí Hạ chí, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Hằng, quẻ Thuần Tốn chủ khí Tiểu thử, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Quẻ Tập Khảm làm chủ bắt đầu vào việc, hào Sơ quẻ Tập Khảm biến thành Thủy Trạch Tiết, hào 2 biến thành Thủy Địa Tỷ, cũng chia ra để cùng làm chủ. Trước khởi vận Giáp 181 Thế Tý 2341, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360 hội Ngọ là vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 6, âm đất dùng 7, xướng họa như Thần là Nam Bắc nóng rét đến cực.

Xét Bính Mậu cùng ở Tị (ngôi Lộc), Thanh trời chưng 3 – 5 gồm cả Đinh Tị giao Ngọ thời 4 với 6 là Thanh vậy. Xướng họa là cơ Nam không sinh vật. Lại xét trong hội Tị, bậc Hoàng xuống bậc Đế, vua Hoàng đế Nghiêu Thuấn làm Vua, thông biến trị dân tốt, ứng vào Càn nguyên tóm ở Trời. Bậc Thánh làm loài vật thấy, Đại hữu là phúc trời, quẻ Quải là tượng văn chương rực rỡ, cho nên đức Trọng ny xem trời, suy lịch mà đoán từ đời Đường Ngu là hội Ngọ giao, nhà Hạ chựu nhà Ngu truyền ngôi gồm 8 năm, Cấu biến Càn, vua Trọng Khang dựng ngôi. Biến quẻ Độn mà nhà Hạ mất ngôi, nhà Thương dấy lên. Biến quẻ Tụng, vua Tổ Đinh nhà Thương làm vua được 19 năm. Biến quẻ Thuần Tốn, nhà Chu Đế đánh nhà Thương, đến năm thứ 2 vua Khang Vương. Biến quẻ Đỉnh, vua Hoàn nhà Chu, quẻ Đại quá vua Hiển vua Noãn nhà Chu, nhà Tần truyền 2 đời vua, nhà Hán dấy lên, bèn thẳng Đại quá, hào Sơ biến quẻ Quải là năm thứ 4 vua Bình vương nhà Hán. Sau đến đời Tam quốc gồm nhà Tấn, biến quẻ Hàm thời nhà Tấn suy, hai năm rưỡi trải đời Ngũ đại, mà nhà Đường dấy lên. Biến quẻ Khốn là năm thứ 13 vua Đường Nguyên Tông, thì lấy thẳng quẻ Trạch Địa Tụy hào 3 biến quẻ Hàm. Biến quẻ Hàm, vua Thái tổ nhà Tống chựu mệnh trời làm Vua, thực ở Hội này vậy. Từ đó mà lần lượt suy làm Thủy Sơn Kiển, Lôi Sơn Tiểu quá, Thiên Sơn Độn mà là Đỉnh vậy.

THÁNG MÙI: hội thứ Tám ; là lúc âm nhu lớn dần, dương cương tiêu dần, ở Thì trong luật lữ là Lâm Chung, Chi kiến Mùi, Nguyệt phần 6, Nhật ở thuần Hỏa, thì ở tiết Đại thử - Lập thu. Quẻ thẳng gồm: Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn, đều có tượng vật sợ thịnh quá, quẻ Thăng đang ở giữa hội Mùi. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Tỉnh, quẻ Cổ là chủ khí Đại thử, hào 6 -4 trở về sau cùng với quẻ Tụng quẻ Khốn làm chủ khí Lập thu, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Hào quẻ Nhuận là quẻ Tập Khảm, hào 3 biến thành quẻ Tỉnh, hào 4 biến thành quẻ Khốn cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 211 Thế Tý 2321, sau khởi vận Kỷ 526 Thế Tý 2701, xong rồi quay sang Quý Hợi lại 360 hội Mùi là đủ vòng vậy. Thanh trời dùng 6 đã nửa Chủy biến Cung, âm địa dùng 12, đá họa tiếng tinh (sao), cho tới vận đi sinh vật mà làm nói vậy du!

THÁNG THÂN: hội thứ Chín ; từ Mùi đến Thân là lúc âm nhu bên trong che đậy, dương cương bên ngoài tiêu vậy, ở Thì trong luật lữ là Di Tắc, Chi kiến Thân, Nguyệt phần 7, Nhật ở Thuần vỹ, ở thì tiết Sử thử - Bạch lộ. Quẻ thẳng gồm: Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư đều có tượng vật khí thu góp lại. Quẻ Hoán đang ở giữa hội Thân. Hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Vị tế và quẻ Giải làm chủ khí Xử thử, hào 6- 4 trở về sau cùng với quẻ Mông, quẻ Sư làm chủ khí Bạch lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khảm hào 5 biến thành quẻ Sư, hào 6 biến thành quẻ Hoán, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 241 Thế Tý 2881, sau khởi vận Kỷ 256 Thế Tý 3061 cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Thân vòng đủ vậy. Thanh chỉ 7 Canh làm Thiếu thương, âm đất ứng Nhật, chỉ 9 ứng nhật nguyệt đến 12, Nhật vào Nguyệt ra ở phương Canh vậy.

THÁNG DẬU: hội thứ Mười ; từ Thân đến Dậu là lúc Âm nhu đạp lên trên, dương cương chựu thời xuống vậy, ở Thì trong luật lữ là Nam lữ, Chi kiến Dậu, Nguyệt phần 8, Nhật ở Thọ tinh, thì ở tiết Thu phân – Hàn lộ. Quẻ thẳng gồm: Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm, đều có tượng vật hậu mát trong, quẻ Lữ đang ở giữa hội Dậu. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Độn quẻ Hàm làm chủ khí Thu phân, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Tiểu quá và quẻ Tiệm làm chủ khí Hàn lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng việc, hào Sơ biến thành quẻ Phục, hào 2 biến thành quẻ Sư, cũng đều chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 271 Thế Tý 3241, sau khởi vận Kỷ 286 Thế Tý 3421, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Dậu đủ vòng vậy. Thanh trời dùng hết làm Thiếu vũ, Nhật 8 số không đi, âm đất dùng 10 hóa Thổ hòa với Nguyệt tinh, âm còn có chữ, đến đêm lửa sáng, không cách ban ngày, đất về mùa Đông sinh sôi, không khác gì 3 mùa trước vậy.

THÁNG TUẤT: hội thứ Mười Một ; từ Dậu đến Tuất là lúc âm nhu lớn đi, dương cương thời hết vậy, ở Thì trong luật lữ là Vô Xạ, Chi kiến Tuất, Nguyệt phần 9, Nhật ở Đại hỏa, ở thì tiết Sương giáng - Lập đông. Quẻ thẳng gồm: Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy, đều có cảnh tượng vật vã điêu lạc, quẻ Khiêm là quẻ ở giữa hội Tuất. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Kiển và quẻ Thuần Cấn làm chủ khí Sương giáng, Hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Bĩ và quẻ Tụy làm chủ khí Lập đông, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng vào việc, hào 3 biến thành quẻ Khiêm, hào 4 biến thành quẻ Dự, cũng chia ra mà làm chủ. Trước khởi vận Giáp 301 Thế Tý 3601, sau khởi vận Kỷ 316 Thế Tý 3781, cuối đến Quý Hợi, lại 360 hội Tuất vòng hết vậy. Thanh rỗng không âm hòa có chữ, hành Thủy chỉ 9, chỉ 12 biến, dùng Dậu Tuất ứng Nhật, thửa số quẻ Bĩ, Thuần Cấn trở lên vậy.

THÁNG HỢI: hội thứ Mười Hai ; từ Tuất đến Hợi là lúc thuần âm tích chứa ở trong, chỉ còn dương nhỏ tiêu hao ở ngoài, ở Thì trong luật lữ là Ứng Chung, Chi kiến Hợi, Nguyệt phần 10, Nhật ở Tích Mộc, ở thì tiết Tiểu tuyết - Đại tuyết. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác, đều có cảnh tượng vật đang cất dấu. Quẻ Quan đang ở giữa hội Hợi. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với các quẻ Tấn Dự làm chủ khí Tiểu Tuyết, hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Tỷ quẻ Bác làm chủ khí Đại tuyết, hào biến đều 15, số năm đều 5400, dẫu đi đất chẳng thấy, có thể lấy lệ mà nghĩ, đó là Quan Ích trở xuống làm không số nhuận hào 5 quẻ Khôn biến thành quẻ Tỷ, hào Thượng biến thành quẻ Bác, chia chủ cũng đồng. Trước khởi vận Giáp 331 Thế Tý 3961, sau khởi vận Kỷ 346 Thế Tý 4241, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Hợi vòng hết vậy. Thanh trời dùng 10 Quý hợp với Thiếu Giốc, âm đất dùng 12 Hợi làm biến cung, nước để hòa Nhật, từ đó hết vòng quay lại, chỗ giao tế dưới Trinh khởi Nguyên du!

Bảo rằng, lấy 1 Nguyên làm kinh 12 Hội, như lấy Năm kinh Tháng, lấy 1 năm làm kinh 12 tháng, vì 1 năm 12 tháng thâu tóm 360 ngày, cộng 4320 giờ, chứa 129600 Phân. Một Nguyên chứa 12 Hội, thâu tóm 360 Vận, cộng 4320 Thế, chứa 129600 năm. Cho nên, Sao lấy tương đương với Phân, Thế lấy tương đương với Thời, Vận lấy tương đương với Nhật, Hội lấy tương đương với Nguyệt, Nguyên lấy tương đương với Tuế, diễn ra thời vô cùng, thắt lại thời không mấy, đều về mà dùng ở 1, 1 ấy là Nguyên vậy, Nhật Giáp 1, Nguyệt Tý 1, Sao Giáp 1, Thần Tý 1, theo lần lượt mà sinh, bèn có 12 Hội, đó bảo là lấy Nguyên kinh Hội, mà Hội Vận Thế, lần lượt thay nhau làm Kinh, hết thẩy đều gốc ở Nguyên. Duy ấy, trời đất sinh ra số muôn vật, chọn Nguyên làm Càn, Càn để chia đấy, chọn Đoài làm Hội, chọn Ly làm Vận, chọn Chấn làm Thế, càng chia thời càng nhỏ, số tích càng nhiều. Cho nên 1 phân chia 12, 12 phân chia 360, 360 phân chia 4320, lại chia mà 129600 vậy, bèn là số Thái cực sinh ra trời đất. Chọn Nguyên lại làm Chấn, Chấn lấy lớn đấy, Ly tương đương Hội, Đoài tương đương Vận, Càn tương đương làm Thế, càng lớn thời càng to, thì số dùng càng thắt buộc lại, cho nên 129600 thắt buộc lại mà làm 4320, lại thắt nữa mà làm 360, lại thắt nữa mà làm 12, rồi bao gồm về dùng 1, phàm làm cái số lớn lên mà to ra là thế. Chia thời nghịch lại, lớn thời thuận đi, đi lại thuận nghịch cũng lẫn lộn, 1 vị 8 quẻ trong đó mà thuận đi, nghịch lại ấy chỉ 4, quẻ trời giao trời, thể ở trong và thể ở ngoài, đều chẳng lìa dùng Càn Đoài Ly Chấn tự giao. Thuận đi có 4 quẻ trời giao đất, Thế ở trong dùng Chấn Ly Đoài Càn, Thế ở ngoài dùng Khôn Cấn Khảm Tốn đó vậy.

Cho nên, quẻ phương tả ấy nghịch lại 16 quẻ bao gồm: Thuần Càn, Trạch Thiên Quải, Hỏa Thiên Đại Hữu, Lôi Thiên Đại tráng, Thiên Trạch Lý, Thuần Đoài, Hỏa Trạch Khuê, Lôi Trạch Quy muội, Thiên Hỏa Đồng nhân, Trạch Hỏa Cách, Thuần Ly, Lôi Hỏa Phong, Thiên Lôi Vô vọng, Trạch Lôi Tùy, Hỏa Lôi Phệ hạp, Thuần Lôi. Trong đó, 16 quẻ này, đều lấy thứ tự để chia: Nguyên - Hội - Vận - Thế, từ trên xuống dưới, khởi từ quẻ Thuần Càn đến quẻ Thuần Lôi.

Đồng thời, quẻ phương tả thuận đến cũng 16 quẻ gồm: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại Súc, Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, cũng đều lấy thứ tự để chia Nguyên - Hội - Vận - Thế từ dưới lên trên, bắt đầu khởi từ quẻ Phục đến quẻ Tiểu súc vậy.

Đến ở bên hữu tóm ở bên tả, là Đất theo Trời, quẻ Sơn Địa Bác theo (trông coi) quẻ Trạch Thiên Quải, quẻ Cấu theo (trông coi) quẻ Phục, mỗi một quẻ đều có quẻ làm đối vị, chia lấy đồng đều. Đồng thời quẻ chủ nhuận gồm 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, tả hữu chia thẳng đều tóm 15 hào. Quẻ Ly khởi trong Tý, quẻ Phục hết trong Mão và quẻ Đồng nhân. Quẻ Thuần Càn khởi trong Mão, quẻ Lâm hết trong Ngọ và quẻ Quải. Quẻ Thuần Khảm khởi trong Ngọ, quẻ Cấu hết trong Dậu và quẻ Sư. Quẻ Thuần Khôn khởi trong Dậu, quẻ Độn hết trong Tý và trong quẻ Bác.

Quẻ Thuần Ly dùng trong chủ 3 Hội, Hội Tý khí Đông chí - Tiểu hàn, Hội Sửu khí Đại hàn - Lập xuân, Hội Dần khí Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ Thuần Càn chủ 3 Hội, Hội Mão khí Xuân phân – Thanh minh, Hội Thìn khí Cốc vũ - Lập hạ, Hội Tị khí Tiểu mãn – Mang chủng. Ở đây, 2 quẻ Thuần Ly và Thuần Càn, Sao (Tinh) cùng Nhật dùng việc ở 6 dương mà thâu tóm dùng Thần Nguyên âm vậy.

Quẻ Tập Khảm làm chủ 3 Hội: Hội Ngọ khí Hạ chí - Tiểu thử, Hội Mùi khí Đại thử - Lập thu, Hội Thân khí Bạch lộ - Sử thử. Quẻ Thuần Khôn làm chủ 3 Hội: Hội Dậu khí Thu phân – Hàn lộ, Hội Tuất khí Sương giáng - Lập đông, Hội Hợi khí Tiểu tuyết - Đại tuyết. Hai quẻ Tập Khảm và Thuần Khôn, Thủy cùng Thổ thu khí ở 6 âm, dùng nhu mà thâu tóm Thạch Hỏa dùng dương cương vậy.

Cho nên, từ Hội Tý mà nói, trước làm Hợi Tuất 2 Hội, trời đất hỗn độn, rối beng chưa mở mang, là số không đến Hội Tý, như một ngày nửa đêm giờ Tý, âm cùng cực sinh dương, gốc trời nảy mầm dần dần ở dưới mà biến Phục. Quẻ Khôn Phục giao nhau, chính là khoảng giữa 1 động 1 tĩnh, Thái cực sinh ra quẻ đầu tiên của trời đất, thẳng làm Phục, Di, Truân, Ích mà đi nhanh đến Chấn, nguyên khí cắt chia, trong nhẹ lên trên, bèn có Thần Sao (Tinh), Nhật Nguyệt hợp làm 4 tượng của Trời, cho nên nói “ trời mở ở Tý”, tuy chưa rõ rệt lớn, đã thành thai nghén, như mẹ Khôn có chửa sinh trai Chấn, bấy giờ nước lửa gỗ đá cũng thuận, nên mà sum họp đầy đủ, rỗng không yên lặng, không có trong điều gì sắp xẩy ra vậy.

Do đó, 1 khí chuyển vận, nhẹ trong nổi lên trên, nặng đục rơi xuống dưới, thời ngưng tụ thành đất, cho nên nói “đất mở ở Sửu”, là đang hội Sửu chứa khối mới thành đất đá, cái khí ẩm, nhuận, ráo, nóng chia làm Nước - Lửa, 4 cái thành Tượng, đất ở giữa trời tiếp trời đi có mùa, yên lặng không động. Quẻ thẳng làm Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, trong đó quẻ Minh di là số giao sau cùng, còn quẻ Bí là số dùng trước vậy.

Trời Đất đã dựng, Người Vật bèn sinh, ra Sửu vào Dần, là Hội mở Vật, từ cái không tới cái có, tối ấy hướng về sáng. Tượng còn đêm mà là sáng sớm, mùa Đông mùa Xuân vậy. Ban đầu trời đất hun đúc hóa thuần nên chạy, bay, cỏ, cây, chẳng thai, trứng, chẳng hột, mà quẻ đều lấy “Khí” mà hóa ra, sau trai gái gây nên tinh mà hóa sinh. Loài chạy, bay, cỏ, cây, chẳng loài nào là không thai trứng, hột, quả, đều hóa lấy hình, loài khí hình hóa không cùng, khí làm hình, chuyên hình lấy loại diễn khí, hóa mà ít lấy hình nhỏ, hóa mà nhiều lấy hình lớn. Người sinh ở Dần, quý mà thâu tóm Vật, thì ra ở Chấn quay về sáng, chủ đồ dùng ngự trị, ba tài gây dựng, mà muôn vật sinh sôi ở Hội này du!

Đó là buổi ban sơ của Ngày, buổi đầu của Thời, bắt đầu đời Hoàng vậy. Vậy thì Trời, Người ở đời Tam Hoàng, tức là Tý-Sửu-Dần, là thời 8 dương vậy, là thời Mộc đức đương vượng, lửa cháy dùng võ, quẻ Ly thâu tóm Hội Người, trị mở sáng, xem ở lưới đánh cá bắt chim, cầy bừa, thức ăn, tiền của giao dịch, 8 quẻ làm chữ văn khế, cùng lịch luật, đều khởi tự Giáp Dần, Đạo ấy là rực rỡ. Đạo Hoàng dạy dỗ dân, Hàm Lâm ung dung gìn giữ, thắt lại quẻ Tổn chế, quẻ Tiết quẻ Trung phu dụng về điều nhân, quẻ thuần Ly hết mà quẻ thuần Càn khởi lên, Hội giao tế giữa Mão, cho nên quẻ thẳng là Lâm, Tổn, Tiết, Trung phu, Quy muội, cùng với Thời hiệp ứng.

Đó từ thời vua Hy Hoàng trở về sau, bản chép Tuần không (bản chép của đời Thượng cổ?) chuyện mà nhân đề ra việc giá thú, hợp mà làm đôi lứa vợ chồng, lấy da thú làm nghi lễ, nhạc điển, lấy giây tơ làm đàn sắt. Ôi! há không có nguyên nhân ư? Kịp đến hội Thìn, quẻ Khuê khác, mà đồng quẻ thuần Đoài, lấy quẻ Lý mà biện rõ chia định, quẻ Thái giao mà chí thông, Đại súc giầu có mà ngày mới, đạo hóa càng thịnh, đức giáo phổ biến. Đã lên tới quẻ Ích ở Tị, vận Đế cả sáng, nhân nâng đỡ sự biến, mà truyền ngôi Vua, quẻ thẳng trong chủ thuần Càn cương, thẳng ngoài quẻ Khảm mây, Tốn gió, Chấn sấm, Ly lửa, giao nhau mà động, thay đổi tiến lên, mà ơn bố ra, trên trời thì từ Nhu, Tiểu súc, mà lớn ấy mạnh, có lấy đại dùng dương quyết ở cô âm, ở tượng làm quẻ Quải. Bấy giờ vua Hiên, hiệu Chuyên Húc đến Nghiêu Thuấn 1 Càn nguyên thâu tóm trời, cưỡi 6 rồng, đều là mọi vật, tượng yên muôn nước vậy. Đó là thời trời không có tên, cao cao lồng lộng, đưa ông Vua rất mực vậy, vận đời Đế thịnh tốt du! Đức Trọng Ny suy lịch số, đoán từ đời Nghiêu Thuấn, sợ như mặt trời đương giữa trời, Tị rồi đến Ngọ, giao nhau đến rất thịnh, không gì hơn được nữa. Từ Phục đến Càn, do Tý mà Ngọ, 6 hội trước làm kẻ trưởng giả, đến đó là thôi, vận bậc Hoàng Đế, ngày mở ngày đóng, mà cùng cực đến nay vậy. Từ đây, Âm sinh giữa Ngọ, bậc Đế xuống bậc Vương, nhà Hạ gặp Cấu Sơ, nhà Ân Chu gặp Cách, mệnh gồm trải 6 vận, trải Cấu 6 hào, 72 Thế, 2160 năm. Trong khoảng ấy, Vương xuống Bá, Bá xuống Dịch (giống Rợ ở phương Bắc). Khổng Tử sinh cuối đời Chu, chép Thiên Tần thể Đế nối bậc Vương, ở thì quẻ Cấu dụng hào 9 – 5. Đến vua Chính nhà Tần thôn tính 6 nước và 2 nhà Cưu, mà bắt đầu xưng là bậc Hoàng, thời vận Cấu Giốc, Chu bị Tần làm mất, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán bắt, còn dư bậc Bá, Rợ Dịch thì lại gần việc Vương. Thế Vận từ Cấu mà biến, giao Càn ứng Phục, có như thế đó, Cấu về sau là Đại quá, là Đỉnh, là Hằng, lấy đến dụng Tốn, Hội Ngọ là Chu Hán đến nay. Còn ở hội Ngọ 12 vận, đương đây chựu mệnh Thánh nhân, vốn có Đại quá, tài đức hơn người ta, Đỉnh dựng Hằng lâu, mà Tốn ở đạo trời, không thể thôi vậy, từ đó mà Cổ, mà Tụng, mà Khốn, thẳng đến Hội Mùi mà Vị Tế, mà Giải, mà Hoán, mà Mông cùng Sư. Thẳng đến Hội Thân, bầy vị Tốn 8, bầy vị Khảm 7, mà Khảm làm nhuận quái chia chủ 3 hội như Càn Ly vậy. Như quẻ thẳng của Hội Dậu rằng Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá rồi Tiệm. Quẻ thẳng của Hội Tuất có Kiển, Cấn, Khiêm, Bĩ, Tụy. Quẻ thẳng của Hội Hợi có Tấn, Dự, Quan, Tỷ, Bác, lại đều dùng quẻ Thuần Khôn làm quẻ Nhuận, chia chủ 3 Hội, cùng với Ly, Càn, Khảm ứng 24 khí biến đổi, rời đổi vần chuyển cơ, trưởng đấy mà tiêu đấy. Từ Ngọ đến Hợi, Khảm Khôn 6 hội làm tiêu, chừng ấy thời thôi.

Suy vận số lớn nhỏ, trời biến 16, đến Cấu thời biến hào Sơ, để tóm hợp ở Càn thửa 7 tỷ 9 ngàn chở xuống, đến số 36 triệu, hết thẩy về Càn là thôi, tối đa không thể lại nhân nữa, cho nên bỏ đi. Cấu giao thì Càn ứng Phục, Đại quá giao thì Quải ứng Di, Đỉnh giao thì Đại hữu ứng Truân, Hằng giao thì Đại tráng ứng Ích. Tả hữu bầy bằng Nguyên ứng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, đều đương 1 Sao, 12 đương Sao của Phân, 360 đương Sao của Thời, 4320 đương Sao của Nhật, 129600 đương Sao của Nguyệt, cho nên số Sao của Nguyệt tương đương Phân của Niên, Thời của Thế, Nhật của Vận, Nguyệt của Hội, Niên của Nguyên, số đều là 129600. Giả sử số Nguyệt mà làm Niên, làm Thế, làm Vận, làm Hội, làm Nguyên, thì số cử hết thảy vậy, Phân tách làm Sao, làm Phân, làm Thời, làm Nhật, chọn số để mà suy, khi ta cho 1 Nhật cũng như 1 Nguyên, thì suy ra: số của Thời được số của Hội, số của Phân được số của Vận, số của Sao được số của Thế. Khi coi 1 Sao cũng như 1 Nhật, thì số của Sao được số của Nhật, đồng ở Nguyên, khi chứa 12 Sao, thì được 12x129600= 1555200 làm số Sao của Phân, nếu chứa 360 Sao, thì được 360x129600=46656000 làm số Sao của Thời, nếu chứa 4320 Sao, thì được 4320x129600=559872000 làm số Sao của Nhật, khi chứa 129600 Sao, thì được 129600x129600=16796160000 làm số Sao của Nguyệt. Đó là số 1 Nguyệt tương đương 129600 số của Sao, Thế mà gặp 5 biến, thì làm 1 Vận thâu tóm ở Nguyên. Do đó, lấy Sao tương đương với Niên chẳng nhỏ làm nhóm, cũng không lý khác.

Cho nên, khi Tốn giao thì Tiểu súc ứng Chấn làm Thế của Thế, khi Tỉnh giao thì Nhu ứng Phệ hạp làm Thế của Vận, khi Cổ giao thì Đại súc ứng Tùy làm Thế của Hội, khi Thăng giao thì Thái ứng Vô vọng làm Thế của Nguyên. Nguyệt chứa 129600 Sao lớn mà làm Nguyên, chứa 1555200 Thời cũng làm Sao của Niên, lại chứa Nhật lớn làm Nguyên chứa 46656000 Thời cũng làm Sao của Thế, lại chứa Thời lớn mà làm Nguyên chứa 559872000 làm Sao của Vận. Trở lên, số của quẻ Tỉnh giao, quẻ Cổ giao, quẻ Thăng giao, sẽ lần lượt ứng tích chứa, là Sao của Thế vậy.

Lại chọn Phân lớn mà làm Nguyên, chọn 16796160000 làm số Sao của Hội, tương ứng với quẻ Tụng giao thì Lý ứng Minh di, để làm Hội của Nguyên, lại tóm Sao của Nguyên là 1679616000x12=201553920000, tương ứng với quẻ Khốn giao thì có thuần Đoài ứng Bí làm số Hội của Hội. Phàm Nguyên dùng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, Niên, Nguyệt, Nhật, Thì, Phân, Sao đều là 129600, gặp 10 thời biến mà làm 1, gặp 5 gặp 10 biến mà làm 1 ấy, đều số vòng quanh đủ 4 quẻ, mà dùng về ở 1 Nguyên vậy.

Duy ấy, Nhật Nguyệt biến Nguyên Hội giao, từ quẻ Lý, thuần Đoài là bắt đầu Nguyên của Hội, có 12 Hội. Từ quẻ Tụng giao, số gấp 12 lần được 12 x 129600 = 1555200, hợp số quẻ Lý là 129600 x 129600 =16796160000, làm 1 Phân 12 Sao. Tiếp đến Hội của Hội là số 144. Từ quẻ Khốn giao, 144 dùng số 129600 x 144 = 18662400, số hợp của quẻ Thuần Đoài là 16796160000x12=201553920000, (2015 ức 5392 vạn) 12 Phân, 12 ấy là 1, 144 ấy là 12. 1 cùng với 12 nhân lên với nhau, mà phép Nhuận thành lập. Quẻ Quan quẻ Bĩ số giao, quẻ ứng Ký tế làm Hội của Vận, 12 thửa số thì được 201553920000x30=6046617600000 (6 vạn 466 ức 1760 vạn) làm 12 Nhật, chứa 6046617600000x30=181398528000000 (181 vạn 3985 ức 2800 vạn), thời là số 1 tháng 30 ngày. Đến quẻ Hoán giao thì quẻ Trung phu ứng với quẻ Phong. Quẻ thuần Khảm giao thì quẻ Tiết ứng với quẻ Lý. Quẻ Mông giao thì quẻ Tổn ứng với quẻ Cách. Quẻ Sư giao, thì quẻ Lâm ứng với quẻ Đồng nhân, gồm làm vận số của Thế, Vận, Hội, Nguyên.

Quẻ Hoán thời 12 tháng, là 181398528000000x12=2176782336000000 (2176 vạn 7823 ức 3600 vạn) làm 1 năm. Quẻ Khảm thời dùng 90 năm được (2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn) 2176782336000000 x 12= 26121388032000000 làm 1 Thế.

Tiếp đến Quẻ Mông thời 12, là 26121388032000000x30=783641640960000000 (78 triệu 3716 vạn 6409 ức 6000 vạn) làm 1 Vận. Tiếp đến quẻ Sư thời lại 12 số Vận, gồm 783641640960000000x12=9403699691520000000 (940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn) là nó vậy.

Bởi vì, 1 Nguyên có 12 Hội, lại lấy 1 Hội có 12 Vận, lại lấy 1 Vận có 12 Thế, thời lấy 1 Thế làm 12 năm, 1 năm làm 12 tháng, 1 tháng làm 12 ngày, 1 ngày làm 12 giờ, thời lấy 1 giờ làm 12 Phân, mặt trời chuyên sáng ở ban ngày, mỗi tháng 18 ngày có 216 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Càn. Mặt trăng thay sáng ban đêm, mỗi tháng 12 ngày có 144 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Khôn. Mà 1 Hội có 12 Vận, có 144 Thế, có 4320 năm, 5 vạn 1840 tháng (4320 x 12) đều từ 12 Phân 144 Sao chứa đấy.

Lấy 1 Hội có 30 Vận mà kể, thời có 30 x 12 = 360 thế, có số năm là: 360 x 5 quẻ = 1800 năm, có số tháng là: 1800 x (12 x 6) = 129600 tháng, có số ngày là: 129600 x 30 = 3888000 ngày, có số giờ là 3888000 x 12 = 46656000 giờ, có số Phân là 46656000 x 30 = 1399680000 Phân (13 vạn 99 ngàn 68 vạn), có số Sao là 1399680000x12=16796160000 Sao. Đến ngày tháng giao cảm thì 1 cùng với 12 cùng nhân lên.

Lấy từ quẻ Lý làm 1 Hội có 12 Vận, nghịch trải qua 4 quẻ Đoài, Khuê, Quy muội rồi đến quẻ Trung phu thì có 12 x 12 = 144 Thế, có số năm là: 144 x 5 = 720 năm, có số tháng là: 720 x 12 = 8640 tháng, có số ngày là: 8640 x 30 = 259200 x 6 hào = 1555200 ngày (12 x 129600), như vậy đến quẻ Phong Trạch Trung phu, thì số 1555200 là số làm số của Ngày. Nghịch đến quẻ Thủy Trạch Tiết, thì số: 1555200 x 12 = 18662400 là số làm số của Giờ. Nghịch đến quẻ Sơn Trạch Tổn, thì số: 18662400 x 30 = 55987200 là số làm số của Phân. Nghịch đến quẻ Địa Trạch Lâm, thì số: 55987200 x 12 = 6718464000 là số làm số của Sao.

Mỗi Thế làm 1 năm, ở quẻ Lý thời Sao hội ở quẻ Tiết, 1 tháng 12 ngày ở quẻ Lý thời Sao thôi dừng lại ở quẻ Quy muội, khí sóc do đó để giao, ngày 1 đại vận mà tiết 6 ngày, tháng 1 đại vận mà lùi 6 ngày, đó là Tuế sai (năm coi không đúng). Cho nên ở 1 lấy 12, thì Trời từ quẻ Địa Trạch Lâm (8-2) trở lên, Đất từ quẻ Địa Thủy Sư (8-7)trở lên, vận số khí đấy, sóc hư (rỗng) chừng ấy bình định. Cho nên, ngày 1 cùng 12 nhân lên, mà phép Nhuận thành lập, đó là lúc Nhật Nguyệt giao cảm, gặp hội Thân Dậu du! Vì có phương Canh, Trăng mọc mặt Trời sắp lặn vậy. Thuận đi như Độn 1-7, Hàm 2-7, Lữ 3-7, Tiểu quá 4-7 mới biến, giao với Đồng nhân 1-3, Cách 2-3, Thuần Ly 3-3, Phong 4-3 ứng nghịch lại. Trong đó Lâm 8-2, Tổn 7-2, Tiết 6-2, Trung phu 5-2, thì lấy số của quẻ Lâm làm Vận của Nguyên, 360 biến mà 129600 hợp 12 giờ, số làm 1 ngày, Đại hữu tương đương Sao số của Giờ tự cùng nhân lên, là số của Tiểu súc. Lại biến 16796160000 hợp với 30 ngày, số làm 1 tháng Tiểu súc tương đương số Sao của tháng, tự cùng nhân lên, thời làm số quẻ Lý khởi Phân của Hội vậy. Lại biến 2 vạn 8211 triệu 990 vạn 7456 ức, hợp số 12 tháng làm 1 năm. Quẻ Lý đương số Sao của Hội, tự cùng nhân lên, thời Đồng nhân hợp số năm của 1 Nguyên vậy. Quẻ Trung phu số năm, nhân lên lấy 129600 cũng đồng nhau.

Xét trước sau hợp 6 kỳ hạn, trưởng tiêu tấn thoái 360 ngày, mà số của Năm bởi đó mà thành lập. Quẻ Hàm làm Vận của Hội, chứa 33 vạn 8533 triệu 1888 vạn 9472 ức, ấy là 12 năm số 4320 ngày. Quẻ Sư làm Vận của Vận, chứa 1015 vạn 5995 triệu 6668 vạn 4160 ức, đó là số 360 và 129600 ngày. Quẻ Tiểu quá là Vận của Thế, chứa 1 kinh 2187 vạn 1987 triệu 20 vạn 9920 ức, đó là 4320 năm 155 vạn 5200 ngày. Như 129600 năm 4665 vạn 6000 ngày, chứa làm 36 kinh 5616 vạn 8440 triệu 629 vạn 7600 ức, thời quẻ Tiệm giao mà Gia nhân ứng với Quy muội làm Hội của Thế, số cùng nhân lên như thế, trừ số Đồng nhân, lấy 20 Cách được 1 làm số tháng 2350 triệu 9249 vạn 2288 ức, trừ số quẻ Cách lấy 30 số,quẻ Lý được 1 làm số ngày 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn, trừ số quẻ Ly lấy 12, thì số quẻ Phong được làm số giờ 6 triệu 5303 vạn 4700 ức 80 vạn, trừ số quẻ Phong lấy 30, quẻ Gia nhân được 1 làm số Phân 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn. Quẻ Trung phu số năm đồng như thế, tất lấy 1 năm làm 1 Phân, 1 tháng làm 1 Sao, rồi Sao Phân tiến lui, khá được mà thừa (nhân lên) trừ đi.

Hội Dậu, mặt trời lặn mặt trăng mọc, Sao theo Trăng mà hiện ra, cho nên Sao 30, số Thần 12, thay đổi nhau cùng làm nhân lên, lại theo mà trừ đi, thời số Phân tức là số Năm vậy. Xét 1 vận 12 Thế 360 năm 4320 tháng 129600 ngày 1555200 giờ 46656000 phân (1555200 x 30) 55987200 sao (4665600 x 12). Nếu lấy 1 làm Ngày, thì quẻ Độn giao với quẻ Đồng nhân làm Phân, quẻ Hàm giao với quẻ Cách làm Giờ, lấy ngày tháng kịp đến năm, đều ngược lại, khá lấy loại mà suy vậy (suy: quẻ Lý giao với quẻ Lữ làm Ngày, quẻ Tiểu quá giao với quẻ Phong làm Tháng, quẻ Gia nhân giao với quẻ Tiệm làm Năm).

Đây nói, quẻ Kiển 6-7 giao, thì quẻ Ký tế 6-3 ứng với quẻ Khuê 3-2 làm Hội của Vận. Quẻ Thuần Cấn 7-7 giao, thì quẻ Bí 7-3 ứng với quẻ thuần Đoài làm Hội của Hội. Quẻ Khiêm 8-7 giao, thì quẻ Minh di 8-3 ứng với quẻ Lý 1-2 làm Hội của Nguyên. Quẻ Kiển thời tương đương 1555200 tháng, chứa 438 kinh 7390 vạn 1280 triệu 7557 vạn 1200 ức. Tiếp đến quẻ Thuần Cấn, thì tương đương 46656000 ngày gộp chứa 1 vạn 3167 kinh 1703 vạn 8422 triệu 6713 vạn 6000 ức. Tiếp đến quẻ Khiêm, thì tương đương 559872000 giờ, gồm chứa 15 vạn 7946 kinh 446 vạn 1072 triệu 863 vạn 2000 ức. Vượt đến quẻ Bĩ 1-8 giao, thì quẻ Vô vọng 1-4 sẽ ứng với quẻ Thái 8-1 làm Thế của Nguyên, thời đương 167 ức 9616 vạn Phân, gồm chứa 473 vạn 8381 kinh 3383 vạn 3161 triệu 6818 vạn ức. Tiếp đến quẻ Tụy 2-8 giao, thì quẻ Tùy 2-4 ứng với quẻ Đại súc 7-1 làm Thế của Hội, thời đương 3015 ức 4692 vạn Sao, gồm chứa 5686 vạn 576 kinh 598 vạn 5940 triệu 2752 vạn ức, đó cũng là số cùng nhau nhân lên, thời trừ đi số của quẻ Ký tế lấy 30, Bí được 1 làm ngày của 1 năm, gồm 6 vạn 466 ức 1760 vạn số, quẻ Khuê làm số 1 ngày cùng với đấy đồng, trừ số quẻ Bí lấy 12, Minh di được 1 làm giờ của 1 năm, gồm 5038 ức 8480 vạn, kịp đến thửa Phân vậy, trừ số Minh di lấy 30, Vô vọng được 1 làm Phân của Nguyên 167 ức 9616 vạn, tức là số quẻ Lý 1 Phân trừ đi số quẻ Vô vọng lấy 12. Tiếp đến quẻ Tùy được 1 làm Phân của Hội 13 vạn 9968 vạn, đó là số Vận Thế chưng giao, Tinh Thần tiến lui tất ở Tuất, Vật đóng lại mà còn có số tượng dọc đi đêm, đất chưa từng nghỉ vậy, cho nên 2 quẻ Bí và quẻ Cấn trở lên đều dùng số vậy. (Từ Khôn: trải nghịch qua 7 quẻ tới Cấn, trải thuận qua quẻ 7 quẻ tới Bí).

Quẻ Tấn 3-8 giao, thì quẻ Phệ hạp ứng với quẻ Nhu làm Thế của Vận, tương đương với 6 vạn 466 ức 1760 vạn làm 1 ngày 4320 Sao của số quẻ Khuê, gồm chứa 17 cai 881 vạn 7281 kinh 7957 vạn 8208 triệu 860 ức. Tiếp đến quẻ Dự giao, thì quẻ Chấn ứng với quẻ Tiểu súc làm Thế của Thế, tương đương 72 vạn 8894 ức 1120 vạn, làm 12 ngày Sao của quẻ Quy Muội, gồm chứa 204 cai 6980 vạn 7381 kinh 6593 vạn 8499 triệu 720 vạn ức. Vượt đến quẻ Quan giao, thì quẻ Ích ứng với quẻ Đại tráng, quẻ Bĩ giao thì quẻ Truân ứng với quẻ Đại hữu, quẻ Bác giao thì quẻ Di ứng với quẻ Quải, quẻ Khôn giao thì quẻ Phục ứng với quẻ Càn, lấy thứ tự làm Nguyên của Thế Vận Hội Nguyên. Quẻ Quan giao, thì tương đương 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn làm 1 năm, 1555200 Sao của quẻ Trung phu, chứa 6140 cai 9422 vạn 446 kinh 4815 vạn 4972 triệu 1600 vạn ức, đấy thì tương đương 2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn làm 12 năm, 18866 vạn 2400 Sao của số quẻ Tiết, chứa 7 vạn 3691 cai 365 vạn 8357 kinh 7785 vạn 9665 triệu 9200 vạn ức. Quẻ Bác thì tương đương 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn làm 1 Vận, 5967 vạn 2000 là sao của số quẻ Tổn, chứa 221 vạn 739 cai 1972 vạn 733 kinh 3578 vạn 9977 triệu 6000 vạn ức. Khôn thì tương đương 940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn làm 12 vận, 67 vạn 1846 vạn 4000 là Sao của số quẻ Lâm, chứa 2682 vạn 8870 cai 3644 vạn 8800 kinh 3947 vạn 9731 triệu 2000 vạn ức, đấy cũng là số cùng nhau nhân lên, thời vậy trừ số quẻ Tùy lấy 30, quẻ Phệ hạp được 1 làm Phân của Vận 4665 vạn, trừ số Phệ hạp lấy 12, Chấn được 1 làm Phân của Thế 388 vạn 8000, trừ số Chấn lấy 30, Ích được 1 làm số Phân của Niên 129600, trừ số Ích lấy 12, Truân được 1 làm Phân của Nguyệt 1800, trừ số Truân lấy 30, Di được 1 làm Phân của Nhật 360, trừ số Di lấy 12, Phục được 1 làm Phân của Thời 30, từ Sao mà suy đấy 30 Phân 360 hợp Nguyên của Vận, từ dưới lên trên, hết 16 quẻ gieo rồi sau thôi, trở lại quẻ Phục nhân lên trừ đi, tự nhiên giống hệt như nhau, cái Phân ấy to mà làm nhỏ, lấy mỗi Niên Nguyệt làm Phân Sao, cho nên 12 làm Sao, hoặc lấy 129600 tương đương đấy, hoặc lấy 13 ức 9968 vạn tương đương đấy, hoặc lấy 181 vạn 3985 ức 2800 vạn tương đương đấy, thêm chu thiên (vòng trời) 365 độ 29 phân 75 sao, trừ chu tuế làm 365 ngày 24 phân 45 sao, mạnh yếu cùng giảm bớt, thừa 1 phân, 50 Sao trải 66 năm có lẻ, mà ngày lui trời 1 độ làm năm sai, ngày tháng 5 đường dọc treo rỗng không, bên hữu quanh lại, tinh thần thứ tự ở phụ trên trời, chuyển sang bên tả mở rộng ra 129600 đều có 129600 Sao, thì trời vận chuyển độ sai đi gồm 66 năm có lẻ, ngày có ngày về và đêm, tháng có Khiêu (ngày 30 có Trăng mọc ở phương Tây) Mục (cách ngày mùng 1 có Trăng mọc ở phương Đông) thì mặt Trăng đi mau mà lại ở trước mặt Trời, ngày Hối (ngày 30) thấy ở phương Tây, ngày 1 thấy ở phương Đông, thời đi chậm mà lại ở sau mặt trời, ngày Sóc (ngày 1) hiện ở phương Đông, vì Sao (Tinh) có nấp có hiện, đầy lên co lại, biến thành Mộc, 12 năm 1 vòng trời 144 năm mà vượt lên lần độ theo 11 vạn 8512 phân sao Hỏa, 2 năm 1 vòng trời, mà độ co lại theo 1 vạn 8807 phân rưỡi sao Thổ, 29 năm 1 vòng trời, mà độ thừa theo 29 vạn 4255 Phân, 3 Sao (tinh) nấp hiện, đều lấy 30 cùng 12 mà suy, Kim Thủy 2 sao đều 1 năm 1 vòng trời độ theo đều 1 vạn, nấp hiện theo Thái dương, lấy 12 cùng với 1 mà suy gồm đầy, co, nấp, hiện ấy đều có không bằng nhau, mà Nhật Nguyệt tinh ra vào đường Hoàng đạo, đều bao bọc cả ở bên trong. Cho nên, trời từ Đồng nhân trở xuống, đất từ Độn trở xuống làm số Năm, số khởi từ 1, 10, 100, 1000 đến vạn, ức, triệu, kinh, cai, tỷ về. Tự chẳng quá 1 Đời 30 năm (Đời = Thế), mỗi năm có 12 tháng, tháng có 30 ngày, ngày có 12 giờ, giờ có 30 Phân, Phân có 12 Sao mà thôi.

Xét 30 năm, tức là xét 1 Thế hay xét 1 Đời, có 360 tháng, có 10800 ngày, có 129600 giờ, có 3888000 Phân, có 46656000 Sao. Đó là 1 Thế 12 tháng 360 ngày 4320 giờ 129600 phân 155520 sao, 30 ngày 360 giờ 1800 phân 129600 sao, 12 giờ 360 phân 4320 sao, 30 phân 360 sao. Số ở trên lấy đó chứa quẻ Càn làm Nguyên, quẻ Quải làm Hội, quẻ Đại hữu làm Vận, quẻ Đại tráng làm Thế, quẻ Tiểu súc làm Niên, quẻ Nhu làm Nguyệt, quẻ Đại súc làm Nhật, quẻ Thái làm Thời, quẻ Lý làm Phân, quẻ Đoài làm Sao, 10 quẻ đi nghịch từ Càn đến Đoài, 5 lần biến làm 1, to cũng như vậy, là ứng của Hà đồ toàn số vậy.

Quẻ Đoài làm Nguyên Sao, quẻ Lý làm Hội Sao, quẻ Đại tráng làm Nhật Sao, quẻ Đại hữu thì làm Sao, quẻ Quải làm 1 Phân 12 Sao, quẻ Càn làm 1 Sao, thanh âm xướng họa đều khởi ở 1 Sao. Vì lớn thời là 1 Nguyên, nhỏ thời là 1 Sao, mà phân Hội Vận Thế, thực gốc ở Hà đồ sinh ra số, mà 1 đến 10, 100, 1000, rồi đến Thế của Hội có vạn, Thế của Vận có ức, Thế của Thế có triệu, hết thảy Vật, dần đều dư số ấy, chia lớn làm bé, dài nhỏ làm to, đều lấy Sao mà tính, rồi sau số Kinh, số Cai, kịp đến số Tỷ, hết thảy cốt yếu đều về Sao (tú), dản dị chẳng qua 1 ngày lịch. Thông khảo nói vậy. Trời từ quẻ Phục đến quẻ Càn, nhật mở mà nhật có Càn, thời là số Hữu cực vậy. Từ Cấu đến Khôn, nhật đóng mà nhật không có Khôn, thời là số Vô cực vậy. Cho nên, từ quẻ Quan, quẻ Ích trở xuống, đều là không có Số mà có Tượng, lấy đó mà suy, Thái cực vốn không cực, xét thấy vậy.

HẾT QUYỂN 1

QUYỂN 2

CHƯ NHO THUYẾT

Chúc Thị nói: quẻ Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi bên hữu theo Thái dương. Quẻ Phục Cấu là Tiểu phụ mẫu, quẻ đều đi bên tả, bắt chước 4 mùa. Quẻ đi bên hữu đều 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là cái lý nguyên hết mà lại có nguyên vậy. Quẻ đi bên tả, từ 1 rồi 2, thứ tự nhân nhau vòng quanh không manh mối, tức là lý hết năm đổi năm mới vậy. Hai đường nghịch thuận đi khác nhau, số sai đến vạn vạn mà cùng cực, dương duỗi âm co vậy. Lại nói: Nguyên-Hội-Vận-Thế lấy Đại vận mà suy, cùng Giáp Kỷ trong (giữa) khởi ở Tý-Ngọ-Mão-Dậu, năm tháng ngày giờ lấy Tiểu vận mà suy, dương Giáp Kỷ mạnh (đầu) khởi ở Dân-Thân-Tị-Hợi. Lấy Hội kinh Vận đấy là dùng Hội làm Niên, dùng Vận làm Nguyệt, dùng Thế làm Nhật, dùng Niên làm Thời. Vua Nghiêu lên ngôi năm Giáp Thìn, thì lấy Hội Kỷ Tị làm nguyệt, Vận Quý Hợi làm Nhật, Thế Canh Thân làm Thời. Ở quẻ Bí hào 6-5 biến làm quẻ Ký tế. Vua Tống nghệ tổ mở ngôi năm Canh Thân, thì lấy Hội Canh Ngọ làm Nguyệt, Vận Nhâm Thân làm Nhật. Thế Kỷ Dậu làm Thời, đương hào Thượng quẻ Khốn, biến làm quẻ Sư tốn 4 năm, dân bèn khởi Khốn mà may cho thiên hạ vậy.

Chúc thị lấy Năm-tháng-ngày-giờ bàn Mệnh, nguyên khí vận người lấy 120 năm làm chủ 8 chữ, khi mới sinh 15 ngày, trước Giáp-Kỷ mạnh là hào Thượng, Giáp-Kỷ quý (cuối) hào 4, Giáp-Kỷ trọng (giữa) hào 5. Khí giữa sinh 15 ngày sau Giáp-Kỷ mạnh 3 hào, Giáp-Kỷ quý 2 hào, Giáp-Kỷ trọng hào Sơ, lấy sở trị (gặp) năm-tháng-ngày-giờ làm quẻ trước (Thái quái)

Liêu Ứng Hoài nói: người, vật tiêu trưởng suy ở chỗ động mà xem, cát, hung, hối, lẫn là lời của quẻ Dịch chủ ở nguyên sơ sinh khắc cùng cơ biến quái hòa, nhân thì địa, biện âm tạnh, chia ngày đêm, hợp Can Chi để định cát hung. Nay bản số và xuất số của Dịch nhân, Dịch sinh gốc lẻ chẵn mà vạch Dịch, đó là bản số Dịch mà ra, nhân quái vị là đệ số, số ấy nhân Dịch mà sinh. Trong Dịch có số Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, trong số Dịch 1 là 6 Khảm 2 là 7 Ly 3 là Chấn 8 Tốn 4 Đoài 9 Càn 5 Cấn 10 Khôn, số sinh ra Khí quẻ là Thời hào là biến. Khí có thịnh suy thì có Bĩ Thái, hào có hiểm dễ, đều lấy sinh khắc chế hóa mà suy, ở trong có số cát mà đổi khốn, có số hung mà đổi cát, tất lấy địa bàn âm dương hợp lại là vinh, cương nhu trái nhau là nhục, cho nên lẽ tất nhờ ở chẵn, chẵn tất hợp với lẻ, Càn hết ở trong Ngọ, Khôn hết ở trong Tý, gốc nguồn quẻ Cấu Phục, Ly hết ở trong Mão, Khảm hết ở trong Dậu, dùng về nước lửa lại dương tiến vậy. Đến như 6 dương thịnh, thời đại quân tử hành quẻ Cấu là âm tiến vậy, đến như 6 âm thịnh tường vậy.Lại nói: lấy Hội kinh trên dùng treo 1 quẻ như lấy Nguyên kinh Hội, thứ tự chia 30 Vận, tiết Tiểu hàn khởi lên ở Thái Sơ cửu, đến 6-4 là Nhuận hào, vận thứ nhất là Dần 76, Mão 160, Thìn 136, Tị 166, Ngọ 196, Mùi 226, Thân 256, Dậu 286, dùng các quẻ Thái Tổn 12 quẻ. Tiết Đông chí lấy ví làm Nhuận, đại vận thứ 30 trọn thành 315 Thế quẻ Minh Di.

Trình Trực Phương bảo gốc số không ra khỏi ở Dịch, Hệ từ trời 1 đến Đất 10, sinh ra 2 là tự sinh 8 vậy, Trực phương do chia thêm 1 cùng với phép bội mà là 2, bèn chép 256 vị đồ bốn số dọc ngang 16 đại vị, tóm làm 1 đồ số khởi ở Đông-Nam. Thế bắt đầu ở số 1, thêm 1 là 2, lại thêm 1 là 3, lại thêm 1 là 4 từ tả sang hữu là Thế đến đấy, Thế đấy cực vận, cùng với từ trên xuống dưới, vận của Thế đều lấy 2 làm 1, thêm 1 thì 2 là 4, lại thêm 1 thì 2 là 6, lại thêm 1 thì 2 là 8. Rồi thứ đến bên hữu, Hội dùng Thế, Hội của Thế, lấy 3 làm 1, thêm 1 thì 3 làm 6, lại thêm 1 thì 3 làm 9, lại thêm 1 thì 3 làm 12, lại thêm 1 thì 3 làm15, rồi dọc ngàng mà đếm thời 1 thêm gấp đôi là 2, lại thêm gấp đôi là 4, 4 thêm gấp đôi là 8, 8 thêm gấp đôi là 16, từ ngang 1 tầng đến 16 tầng, dọc 1 hàng đến 16 hàng, trọn cùng ở Tây-Bắc, nguyên đấy, nguyên 256, chẳng gì đều như vậy cả. Minh đạo nói phép thêm gấp mặc nhiên hợp với Thiệu Ung, vì Hoàng Cực nhập môn, nghĩa thứ nhất vậy, đó nên thông số trừ đi, lấy cái ấy để phân biệt động vật (trồng trọt) thanh của Ký tế cũng lấy từ đây. Lại nói, Đại Tiểu vận của Thiệu Ung thấu truyền quẻ thanh âm luật lữ đều lấy treo 1 làm tựa, 256 quẻ khởi ở Thái hết ở Minh di, mỗi quẻ 6 hào cộng 1536 hào. Hào lại 4 làm dụng, gồm 1 Vần, 1 Thế, 1 năm, 1 tháng, 1 ngày, 1 giờ, đều được 4 hào, thời 360 năm thì được 1414 hào chia làm 24 khí, mỗi khí Nhuận tàng 4 hào, mà 1536 hào 256 quẻ làm 1 dụng vậy. Khởi lệ quẻ của Vận, Thế, Năm khởi ở Thái, còn Tháng và Ngày thì khởi ở Thăng, đó là trời đất người đều nghe mệnh ở động thực vậy.

Mỗi vị 1 số khởi lên ấy là 100, 2 số khởi lên ấy là 216 vị, cộng làm 1 đồ. Chu Thị suy phép “giết 1” nói rằng: 284 là Thể số, 360 là Dụng số, Thể là Dụng của số. 270 mà Dụng của Dụng số mà chỉ đến 256 vậy.

QUYỂN 2

HỘI KINH VẬN DỤNG NHẤT

THIÊN QUAN VẬT

Lấy Hội kinh Vận (ngang), tức là lấy số Phân của Nguyên kinh trong Hội vậy. Một Nguyên tóm 12 Hội, như năm tóm tháng, 1 Hội tóm 30 vận, như tháng tóm ngày. Nguyên tóm Hội, thời Nguyên làm kinh của Hội, Hội tóm Vận, thời Hội làm kinh của Vận. Bởi vì, 1 Hội tự làm 1 Nguyên 12 Hội, gồm 12 Nguyên, mỗi số 1 Nguyên là 1800, hợp 5 quẻ có 36 hào, mỗi 1 hào thẳng vận 360 tích số vậy. Duy ấy, mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Phong hào 9-4, đóng Vật trong Tuất đến quẻ Khiêm hào 9-3, thực có 7 Hội (từ Mão đến Dậu) mà gồm Dần Tuất đều nửa, nên cộng làm 8 Hội tóm 240 Vận, làm số mở vật ấy: 8 vạn 6400 trừ 120 vận, làm số đóng Vật ấy: 4 vạn 3200. Mở thời dùng số, đóng thời không dùng.

Thiên ngoại, số giao bảo rằng, trời từ quẻ Bí trở lên, đất từ quẻ Cấn trở lên làm số dùng. Trời từ quẻ Minh di trở xuống, Đất từ quẻ Bĩ trở xuống, làm số giao ấy vậy. Cho nên, quẻ mở vật có 40 quẻ, quẻ đóng vật có 20 quẻ, đó là 12 Hội chỉ dùng có 8 bỏ 4, số dùng 3 chưng dụng 2, số bỏ 3 chưng dụng 1 vậy. Để nói về tiêu trưởng, đều 6 Hội trải chọn dùng Vận. Trưởng từ trong Tý khởi từ quẻ Phục đến quẻ Quải. Tiêu từ trong Ngọ khởi từ quẻ Cấu đến quẻ Bác. Tính từ Đông chí Giáp 1 là hào Sơ của quẻ Phục, tuy đang lớn lên mà Hội chưa liệt số mở, đến trong Dần tiết Kinh trập, đã 72 quẻ thẳng quẻ Phong hào 9-4 thì Vật bắt đầu mở. Tính từ Hạ chí Giáp là 181. Hào Sơ Lục của quẻ Cấu, tuy đang ở Hội tiêu, mà hãy còn xa số đóng Vật. Kịp đến hội Tuất, tính từ Lập đông Mậu 315 thẳng tới quẻ Khiêm hào 9-3 thì Vật đóng hẳn lại. Do vậy Tý-Ngọ là giới hạn của Tiêu-Trưởng, còn Dần-Tuất là giới hạn của Mở-Đóng vậy.

Đến Hội ngang của Nguyên, thì Vận lấy dọc đấy, ngang Vận của Hội, Thế lấy cướp đấy. 12 Thế mà thành 1 Vận 360 đều có 24 hào Nhuận, mở Vật được 240 vận thời làm 16 hào nhuận, thông số nhuận ở số mở vật gồm 156 vận, dùng lấy 8 vận để hợp số đóng Vật, trong số 128 thời mở-đóng với cả Nhuận nữa gồm 384 hào, thẳng số của vận đủ vậy. Trừ nhuận mà làm mở làm đóng 60 quẻ hào thẳng vận thường, trời đất không trái vậy.

Trời bắt đầu từ Giáp Tý hết cùng Quý Hợi, Đất bắt đầu từ Kỷ Mão hết cùng Mậu Dần. Tới giao dựng số, bỏ số giao mà số còn lại làm số dùng, tới Thể số của Vận, thường 3 phần bỏ 1 dùng 2 phần, đó là bỏ 120 mà chỉ dùng 240. Bỏ 1 dùng 3, là bỏ 90 mà chỉ dùng 270. Bỏ 3 dùng 7 đó là bỏ 108 mà chỉ dùng 252. Những số đã bỏ đó đều là số giao, chỉ còn số được dùng vậy. Số giao không được dùng theo đóng Vật, thì số được dùng theo mở Vật, như trước đã trốn 3 dùng 1 là số đã chia 2 đấy. Mở-đóng vốn không trái, cốt yếu là dùng hay bỏ, tế nhị chia hợp, nhuận trừ nhuận, đại xuất Thể 4 dùng 3, đều theo đấy, có mà không sai lắm, cho nên bỏ 1 dùng 3, số được 270, trong đó chia ra, Dương dùng 152, Âm dùng 112, gồm 264 mà bỏ rỗng âm dương trước sau 3 số. Tính cả số không dùng trong số 90, như 1 năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày. Bỏ 1, mà 3 dùng 3, do đó 3 này là 3 mùa Xuân-Hạ-Thu gồm 9 tháng chứa 3 ; 9 là số 270, trong rỗng 6 ngày, thời 264 ngày ấy làm số dùng, còn số không dùng đó là số chỉ 1 mùa Đông. Ba tháng Hợi-Tý-Sửu trời đất bế tắc, muôn vật không sinh, gồm 90 ngày, nếu tính cả 6 ngày bỏ rỗng, cộng là 96 ngày, đó là số giao. Cho nên, tóm giao mà 360 số Thể toàn vẹn, bỏ số giao 96, thì số được dùng còn lại là 264 vậy. Tức là, 1 năm để xem Vận của 12 Hội (264/12=22), khá thấy vậy. Ở Luật lữ Thanh, Âm, Xướng, Họa, thực tiêu chuẩn ở đây, mà lịch số khởi vận cũng không thể trái, dẫu bỏ 3 dùng 7 mà âm lẫn dương, dương lẫn âm, coi như đêm lẫn ngày, ngày lẫn đêm, không chút đầy tràn (quá độ). Xét sự lẫn đó, chung quy là âm về phần đêm, cho nên chủ vận quẻ Khôn quẻ Ly, thẳng phần của Nhuận là Tý đến Mão, hay Dậu đến Tý, đều bỏ đi nửa, mà lấy cái nửa được dùng thẳng kịp đến với quẻ Càn quẻ Khảm toàn vẹn, tính cả làm số dùng. Cho nên Sao (tinh) đi cùng quẻ Bĩ gồm 16 quẻ, phần bỏ đi ấy tính về đêm. Từ quẻ Bí cùng quẻ Cấn trở lên, 44 quẻ mà dùng ấy hết thẩy về ngày. Ở ngày hầu hướng về tối, ở đêm hầu hướng về sớm mà giao nhau. Chia số đầy, vơi, âm, dương giao lẫn nhau, thời cũng tùy ngày dài ngày ngắn, để định tiết hậu, mà xét ở chỗ hoặc bỏ hoặc dùng, số bỏ 3 dùng 7 chưa từng có trái đường ngang của vận hành vậy. Tường tận ở Ngoại thiên, tế nhị suy mà lấy cái thuyết Hội kinh Vận, là thấy rõ vậy.

Lại nói: Nguyên kinh Hội lấy Vận quái, Hội kinh Vận lấy Thế quái. 1 Hội 30 Vận, gồm thẳng 5 quẻ 1 hào, 1 vận trải 6 Giáp Tý đến Quý Hợi 360 năm làm Thế ấy là 12 Thế đều 30 năm, cho nên 1 hào tương đương với 1 Vận xem 12 Thế, 1 quẻ 6 Vận xem 72 Thế, đều 5 quẻ 30 Vận xem 360 Thế, chọn vận đầu 12 Thế, thời ứng thẳng vận quái hào mới biến, như quẻ Minh di hào sơ thẳng Tinh Kỷ 76 biến làm quẻ Khiêm, từ 6 hào quẻ Khiêm, chia làm 12 năm 1 hào, thì 6 hào quản 72 năm. Hào Sơ khởi Giáp Tý vòng đến Ất Hợi là 12 năm. Hào 2 quẻ Minh di biến quẻ Thái vòng khởi Bính Tý đến Đinh Hợi cũng 12 năm. Hào 3 quẻ Minh di biến thành quẻ Phục, hào 4 biến thành quẻ Phong, hào 5 biến thành quẻ Ký tế, hào 6 biến thành quẻ Bí, vòng khởi Mậu-Canh-Nhâm Tý, đến Kỷ-Tân-Quý Hợi. 6 vòng vẫn khởi từ Giáp Tý đến Quý Hợi, lấy thứ tự thẳng 5 Tý đều như trước, chứa 1 hào 6 biến, đều 72 năm, thống kê 432 năm. 1 quẻ 36 biến, đều 72 năm, thống kê 72 x 36 = 2592 năm, thế thời số năm của 360 Thế, thực tức là tích số của trực Vận 1 quẻ 6 hào. Tóm 1 Hội trực Vận đều 30 hào của 5 quẻ, thời số 129600 (2595x50) mà số năm của 360 Thế thâu tóm ở trong 30 Vận vậy. Thế cho nên, Vận lấy Hội làm kinh, lấy Thế làm Vỹ.

Đây nói về Hội kinh Vận. Từ hội Dần Kỷ Mão thẳng quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, có quẻ Minh di dùng ứng với quẻ Khiêm ; cho đến hội Tị Quý Tị, thẳng quẻ Trạch Thiên Quải hào Thượng, có quẻ Càn dùng ứng quẻ Đại hữu, thì:

- Gồm 105 Vận, (quẻ Phong ở giữa Hội Dần, từ Hội Mão-Thìn-Tị có 5 x 3 =15 quẻ, cộng với 3 quẻ Phong-Cách-Đồng nhân là 18 quẻ, 6 hào x 18=108 hào, quẻ Phong tính từ hào 9-4, nên phải trừ đi 3 hào trở về trước của quẻ Phong 108-3=105 hào tương đương với 105 Vận)

- Thâu tóm 105 x 12 = 1 260 Thế,

- Trải qua 1260 x 30 = 37 800 năm,

- Gồm 37800x12=453 600 tháng,

- Gồm 453600 x 30 = 13 608 000 ngày,

- Gồm 13608000 x 12 = 163 296 000 giờ,

- Gồm 163296000 x 30 = 4 898 880 000 Phân,

- Gồm 4898880000 x 12 = 58 786 560 000 Sao,

Số đều 12 và 30 nhân lên, số cùng nhân lên tích chứa. Từ mở Vật trở về trước, 2 hội Tý-Sửu đến giữa hội Dần, có 75 Vận 900 Thế, nghĩa là:

- Hội Tý-Sửu là 10 quẻ, gồm 60 hào. Quẻ Ký tế, Gia nhân đến giữa quẻ Phong là quẻ giữa Hội Dần có 15 hào, nên nói 15 + 60 = 75 hào hay 75 Vận,

- Thâu tóm 75 x 12 = 900 Thế,

- Trải qua 900 x 30 = 27 000 Năm,

- Có 27000 x 12 = 324 000 Tháng,

- Có 324000 x 30 = 9 720 000 Ngày,

- Có 9720000 x 12 = 116 640 000 Giờ, (gộp số tích Phân-Sao)

- Có 116640000 x 30 = 3 499 200 000 Phân,

- Có 3499200000 x 12 = 41 990 400 000 Sao,

(75 vận 900 thế, trải qua 2 vạn 7000 năm, 32 vạn 4000 tháng, 972 vạn ngày, 1 ức 1664 vạn giờ, tính gồm cả số tích Phân Sao), bấy giờ còn là thời hồng hoang, không thể khảo cứu, ghi chép lược qua. Từ Hội Dần thẳng quẻ Phong hào 9-4, bắt đầu Ly sáng Chấn động, vật tượng để mở mang, người thời Sỹ, Nông, Công, Thương, vật thời loài chạy, loài bay, cỏ, cây, hướng về sáng mà trị yên, chủ tể thần mà là Vua, từ đó đủ vậy. Trời đất tốt lành, Dịch nói: “Phong ấy là to vậy”. Sáng để động, cho nên quẻ Phong hào 9-4 gặp quẻ Di chủ cắt mở đời mờ ám đương ở vận ấy du? Sao kinh khởi từ Dần đến Tị, từ quẻ Phong đến quẻ Quải, hào biến chia sẻ, Thế quái khá suy, hợp với số trước là Dương lên 6 Hội, kể 180 Vận, 2160 Thế, 6 vạn 4800 năm. Lấy 12 Tháng là số 1 Năm, 30 ngày là số 1 Tháng, 12 giờ là số 1 Ngày, tính cả 30 Phân là 1 Giờ, 12 Sao là số 1 Phân, hết thẩy tóm ở trong Vận. Âm xuống 6 vận từ giữa Ngọ, quẻ Cấu dùng ứng quẻ Càn, đến giữa Hợi, quẻ Bác dùng ứng quẻ Khôn, số bên hữu soi số bên tả mà mở Vật trở lên, đóng Vật trở xuống, giữa Tuất mà số Phân đều khá cất lên vậy.

Lấy Nguyên kinh Hội, thấy đủ ở đồ trước. Lấy Hội kinh Vận, đó là đồ trước mỗi Hội có 30 hàng, lại 1 Hội 30 có Vận, 1 hàng có 12 mục, tức là 1 Vận có 12 Thế. Vậy thời 1 mục vốn là 1 Thế. Kể 30 năm, từ khi mở vật ở quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, làm bắt đầu sinh Người sinh Vật, mà 5 đời hoang mang, số thế khó có kẻ cứu. Cho nên, lấy Hội kinh Vận thứ 1, chỉ suy quẻ thẳng đến Thế. Đến đời vua Đường Nghiêu năm Giáp Thìn trở về sau, mới có thể đại khái xét, bấy giờ hệ ở hội Tị Vận thứ 30, đó là lấy Hội kinh Vận thứ 2. Đã theo hội Tị vận thứ 30, kinh Sao dùng Quý suy khởi vận quẻ, thuộc quẻ Quải dùng Càn 12 Thế đều do quẻ Càn thâu tóm cả. Quẻ Càn hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, 1 quẻ thẳng 1 Giáp Tý, kể là 12 Thế, mỗi quẻ lại 6 biến, mỗi lần biến là 10 năm, như vậy 6 lần biến là 360 năm, mà 1 Vận hết vậy. Đến bảo rằng: kinh Nhật dùng Giáp 1, kinh Nguyệt dùng Kỷ 6, kinh Sao dùng 180, kinh Thần chưng 2100 ấy, vì Nhật chưng Giáp 1, tức là đồ trước đầu trống 1 mục, tóm 12 hội 360 vận, đều lấy Giáp Tý làm cương lĩnh. Cho nên, 360 Thế đều kinh Nhật chưng Giáp 1 vậy, Nguyệt chưng Tị 6, tức là đồ trước mục thứ 2 bỏ trống, đó là hệ Hội Tị, từ Tý đến Tị kể là 6 số, cho nên làm Nguyệt chưng Tị 6 vậy, Sao kinh hệ ở Quý số 180, Thần thời mục thứ 1, 2149 theo 1 lần lượt thêm 1 số, đến mục thứ 12, thì là 2160 vậy. Đồ lấy 2100 làm tổng số, bày ở hàng Giáp 1, số lẻ thời bầy ngang trên 12 Thế, bắt đẩu Thế Tý 49, đến Thế Hợi 60, là 2160 vậy. Thế thứ 1 từ Giáp Tý đến Quý Tị 30 năm, quẻ ấy thời Càn, Độn, Tụng, Thế thứ 2 từ Giáp ngọ đến Quý Hợi gồm 30 năm, quẻ ấy thời Tốn, Đỉnh, Đại quá, đó là hội Kỷ đến Quý vận 360 năm, kể là 12 Thế. Đầu của đồ vốn 1 Vận, đồ toàn quẻ nhân vì 7 Thế trước, không thể xét chứng đến thứ 30, là ở cuối kinh Thế. Năm Giáp Thìn, vua Đường Nghiêu dựng ngôi vua, mới có thể đại khái xét, cho nên 3 Giáp Tý trước không chép lại. Duy từ kinh Thế 2156 Kỷ (1 Kỷ là 12 năm), khởi Kỷ sau 3 Giáp Tý khởi đồ, trở về sau đều bầy 6 Giáp Tý. Kẻ đọc được đó mà lấy loại suy, tự thấy lòng mắt rộng rãi vậy.

Đây bàn về Hội Tị, vận thứ 30. Quẻ của Vận là đương từ quẻ Quải đến quẻ Càn (quẻ Quải vận từ 25 đến vận thứ 30, dùng hào 6). Quẻ của Thế chia hào của quẻ Càn, lấy 6 hào mà biến thành 6 quẻ để làm Kinh, như hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, tức là lấy 6 hào ở quẻ Càn biến ra, đều được 6 quẻ biến, 6 quẻ này lại biến từng quẻ 6 hào, được theo thẳng 36 quẻ làm Vỹ. Như quẻ Cấu hào Sơ biến Càn, hào Thượng biến Đại quá. Đến quẻ Quải, hào Sơ biến Đại quá, hào Thượng biến Càn, là loại ấy vậy. Cho nên biến quẻ Thế từ hào 1 đến hào 6 làm Kinh, lấy thẳng 6 quẻ này làm 6 Vận, mỗi Vận lại biến 6 hào được 36 quẻ làm Vỹ, rồi chia lấy làm Thế, mà làm quẻ của Năm, do đó mà biết vậy, sau đều chuẩn ở đó. Duy quẻ của Kinh thẳng 1 hào gồm 12 năm, 12 theo 30 gồm 360 năm mà thành 1 Vận. Quẻ của Vỹ chia 1 hào thẳng 10 năm, 10 năm theo 6 biến, năm theo trong ngoài, đều 30 cộng được 60, theo 60 làm 360, y vậy 12 Thế, mà thành số 1 Vận. Xét Nhật đương Nguyên, Nguyệt đương Hội, Tinh đương Vận, Thần đương Thế, trải Nhật- Nguyệt-Tinh mà đến Thần, tức là trải Nguyên-Hội-Vận mà đến Thế, cũng như cử lên Năm-Tháng-Ngày mà đến Giờ vậy. Đó rõ trải Thần đến trải Tinh, dùng Quý thì như theo Năm thì biết Phân của Giờ tóm quẻ của Năm, cất lên Nguyên-Hội-Vận lớn nhỏ, chừng ấy mà ngang ngang dọc dọc, chẳng gì là chẳng một xuất, một thông vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 1 (dùng hào 1). Quẻ Đại vận thẳng quẻ Thiên Phong Cấu, quẻ của Tiểu vận thì quẻ Cấu chọn dùng quẻ Càn. Chia hào của quẻ Càn làm Thế quái trong quẻ: hào Sơ là quẻ Cấu, hào 2 là Đồng nhân, hào 3 là Lý, hào 4 là Tiểu súc, hào 5 là Đại hữu, hào Thượng là quẻ Quải. Đây tức là trong ngoài chia thẳng quẻ quản Thế, quẻ nội 3 hào quản bên trong, quẻ ngoại 3 hào 4, 5, 6 quản bên ngoài, đều chia 6 hào, đều thẳng 6 quẻ làm Kinh. 6 quẻ mỗi quẻ lại biến 6 hào, mỗi hào thẳng 10 năm, như vậy 6x6 = 36 quẻ thẳng 360 năm, bèn vòng 12 Thế, mà thành số của 1 Vận. Nay Hội Ngọ vận thứ 1, thời Cấu là Càn chia vận mới, mà làm Phân của Càn đó vậy, qua đó biết vận quẻ Cấu hào Sơ thẳng biến luôn mà lìa Càn. Quẻ Càn chủ ở Đạo trời, cũng chủ đức ông Vua, dẫu đương Cấu âm, thực ứng Càn dương, nhưng vì trời đất cùng gặp đúng lúc tiêu trưởng giao nhau, lịch số ở trong bậc Đế Vương, thẳng Hội lên xuống. Tượng quẻ Cấu nói: “Vua lấy thi hành mệnh lệnh thông báo 4 phương”, lệnh ra ở Chấn mà nói Mệnh của Vua, thi hành ở Tốn mà nói Vua, ở Cấn cũng nói Vua, bởi vì phỏng cũng theo Vận mà gọi vậy. Duy bấy giờ vua nhà Hạ tiếp Càn cố hết lên mệnh bậc Vua đậu, giữa trời trị đời. Có lời mách bảo: “tin cầm đạo trung”, Ngọ làm văn mệnh mùa Hạ 4 số, đức sáng sánh với trời, dẫu năm diễn với đời. Từ Giáp Tý, Cấu vào Càn, vua Vũ nhiếp chính 8 năm, đến năm Ất hợp lên ngôi Vua, mà sau trải 15 đời truyền, cộng được hơn 430 năm. Giáp Tý thẳng Cấu đến Độn, lúc đương mới vận, phân Càn khởi Cấu đến Quải 36 quẻ, đại khái có thể thấy. Thiệu ta trước xem việc đã qua, đều chứng tỏ được sự to nhỏ, phân thẳng quẻ ứng, bèn viết quyển kinh Thế, chép việc dưới niên quái. Ôi! có phải là không vậy thay.

Đây bàn về hội Ngọ, vận thứ 2 (dùng hào 2). Quẻ của vận đương từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Sơn Độn, quẻ của Thế chia hào của quẻ Độn như sau: hào Sơ thành Đồng nhân, hào 2 thành Cấu, hào 3 thành Bĩ, hào 4 thành Tiệm, hào 5 thành Lữ, hào 6 thành Hàm. Từ quẻ Độn thẳng tới quẻ Đồng nhân, vua Khổng Giáp nhà Hạ 23 năm Giáp Tý, vượt qua vua Cao Phát nhà Hạ đến Đồng nhân, đến Càn, đến Vô vọng rồi Gia nhân. Kịp tới vua Quý nhà Hạ, năm thứ 2 Giáp Thìn đến Quý Hợi thời đến Ly, đến Cách thời 6 Giáp vòng hết mà 1 biến cùng cực vậy, bèn vào quẻ Cấu hào Sơ, 2, 3, rồi làm Càn, làm Độn, làm Tụng, đương lúc bấy giờ là nàng Muội Hỷ (vợ vua Kiệt nhà Hạ), là cái họa gái mạnh ứng nặng ở Cấu du! Từ vua Thăng thời Phù Triết lo sợ, lại gồm ứng Độn bắt trói, cùng với Tụng phải dùng trốn tránh du! Mặt Trời kia sao chưa mất là mệnh nhà Hạ hết ; đến năm Ất Mùi vua bị đuổi ra đất Nam Sào, thì đất Hữu Bạc lại dấy lên, Tốn lấy bầy tỏ mệnh Trời, Đỉnh lấy hưởng ngôi vua, chính mà ngừng lại, ấy bậc thánh Thiên tử ngày càng bước tiến lên, nghiêng để đổ úp đó Khắc Chính cháu vua Thang, ở thời bấy giờ, vua tôi đủ tài đức cả Đại quá (cả hơn người), đánh nhà Hạ cứu dân, đuổi Vua ra cung Đông, coi dấu vết của Tổ, chẳng phải đương mà chẳng sợ, há phải là ngẫu nhiên vậy thay. Tỷ bèn vào Bĩ, Bĩ đến Vô vọng, trải Tụng, Độn, Quan, Tấn đến Tụy gồm 6 biến. Xem thế của vua Ốc Đinh, Thái Canh trước sau 60 năm, thôi Bĩ ứng cả trong Kinh dịch: “buộc vào gốc cây dâu”, trời đi không ngay thẳng, đức Vua dùng tốt tươi, như quẻ Độn hào 4 biến thành quẻ Tiệm, đến Gia nhân 10 năm, mà Tốn lại 10 năm mà Quan, đều 10 năm mà Độn, mà Cấn, mà Kiển, vượt qua Tiểu Giáp ứng Kỷ, đến vua Thái Mậu, đạo nhà Thương càng sáng. Về sau Lữ, Lữ biến 6 hào khởi Ly đến Tiểu quá, Trung phu, Đỉnh, Tấn, Cấn, Độn về sau Hàm. Quẻ Hàm biến 6 hào khởi từ quẻ Cách đến Độn giữa Đại Tiểu quá mà bọc Tụy Kiển, thời từ Thái Mậu trở xuống truyền Trọng đinh Ngoài nhân, Hà Đản Giáp mà đến Tố Ất Tố Tân khoảng 120 năm, sự hưng suy bất tất quẻ Càn biến mà cầu người có Tâm. Trải xem ngôi nhà Thương hội trùng điệp, nghiệm ở Trời và Người cũng nghĩ quá nửa vậy. Từ đó thời thẳng đến Cấu, đến Tụng mà đến vận bàn 3 vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 3 (dùng hào 3). Quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Thủy Tụng, quẻ của Thế chia quẻ Tụng đến: hào Sơ quẻ Tụng biến Lý, hào 2 quẻ Tụng biến Bĩ, hào 3 Tụng biến Cấu, hào 4 Tụng biến Hoán, hào 5 biến Vị tế, hào 6 biến Khốn. Vua Tổ Tôn xếp đặt trên dưới để rõ chí dân, để định luật trước sau vậy. Rồi biến làm Tụng, làm Vô vọng, cùng Càn làm Trung phu, Khuê, Đoài, vượt qua Ốc Giáp năm Tân Mùi, đến vua Tổ Đinh 28 năm, năm Qúy Hợi ở Lý hoặc xấu hoặc tốt lành, xét mà chia Tụng đến Bĩ, biến đầu tiên là Vô vọng,, Tụng là thứ, Độn lại thứ nữa, đến Bĩ, như Quan, như Tấn, như Tụy, lại lần lượt mà thứ nữa, đều thẳng 10 năm. Vượt qua vua Nam Canh, vua Dương Giáp đến vua Bân Canh, kẻ bàn nói là đều động lời phù phiếm, đem kêu gọi mọi sự lo lắng, ứng vào Tụng ngôn đấy. Đặt ở yên Tân Ấp, dân dùng giữ gìn tụ họp, Tụy là tụ hợp vậy. Chứng các sự đó, thời nhà Thương có nhiều hoạn nạn về sông nước, trời đi trái, vua Bàn Canh kêu gọi thiên hạ đi đò, làm việc mưu toan lúc đầu, tuy nhỏ có nói, mà làm Nguyên cái ấy du! Đến vua Tiểu Tân Tiểu Ất, từ quẻ Tụng mà đến quẻ Cấu hào Sơ, hào 2 biến mà làm Càn Độn, hào 3, hào 4 biến mà làm quẻ Tụng, quẻ thuần Tốn, hào 5, hào Thượng biến mà làm quẻ Đỉnh, quẻ Đại quá, đương Đại quá đến năm Quý Hợi, vua Vũ Đinh phấn chấn lên, sáu bảy Vua hiển thánh nối đời trong khoảng hơn 450 năm, phản lại thời suy loạn mà nên thịnh vượng tốt lành, khả năng bảo là hơn người du! Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Hoán, hào Sơ quẻ Hoán biến Trung phu, hào 2 biến Quan, hào 3 biến thuần Tốn, hào 4 biến Tụng, hào 5 biến Mông, hào 6 biến tập Khảm. Thời này, đương ở lúc kinh yên nghĩ Đạo, Phu (tin) bèn dậy cả nước, tiếp gỗ có công, ô Duyệt làm bánh lái thuyền, bèn chót Hoán gọi chỗ ở của Vua, đánh Mông, Tập Khảm, tiếng hách dịch thiêng linh. Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Vị tế, hào Sơ quẻ Vị tế biến Khuê lấy oai, hào 2 biến Tấn lấy tích, hào 3 biến Đỉnh lấy ngưng mệnh, bèn ở đời vua Tố Oanh Tố Giáp, có công thừa Chân đánh dẹp du! Kịp đến vua Tân Canh, Đinh đến Vũ Ất, thì hào 4 quẻ Vị tế biến Mông, hào 5 biến Tụng, hào 6 biến Giải, thời đương hào 6 quẻ Giải, là vua Vũ Ất vậy, không tìm đã giải trái lẽ, trái lại lẽ trái mà tìm trời. Khảm quẻ huyết (máu) mà Chấn theo đấy, Đạo trời mới không xa vậy. Nối sau là vua Thái Đinh, Đế Ất, ứng với thời hào 6 quẻ Tụng biến thành quẻ Trạch Thủy Khốn, hào Sơ quẻ Khốn thành thuần Đoài, hào 2 thành Tụy, hào 3 thành Đại quá, hào 4 thành tập Khảm, hào 5 thành Giải, hào 6 thành Tụng. Hào 5 quẻ Giải, vua Đế Ất trị đời, khởi Đoài đến Canh Ngọ, đến Giải Bính Ngọ. Dịch 2 lời vua Đế Ất Quy muội, là lấy tượng Đoài du! Quẻ Tụy cùng quẻ Đại quá đều tượng Đoài, theo Khốn, tập Khảm rồi Giải, thời Thượng ở Chấn. Lệnh vua ra phương Chấn, con trưởng là chủ việc tế, năm Đinh Mùi vua Thụ Tân là con đích tiếp nối, tuy Thái tử tranh chấp, đó chẳng phải vận trời vậy sao?. Duy đó là từ quẻ Tụng hào 6 đến Khốn, cũng như từ Khốn đến Tụng, nghe dùng lời nói đàn bà, dèm phu, nịnh nọt giao dấy lên, chựu phục là Sùng Hầu, đi trốn là Tây Bá, đến như Khốn cơm riệu, thời thịt như rừng, riệu như ao, Khốn tật là thời mổ kẻ có thai, đốt cháy người. Khốn xe vàng thời ở Lộc đài, Cự kiều, Khốn dấy theo đỏ đao ấn, thời moi tim bỏ tù làm nô lệ bậc Quân tử đến mệnh thỏa chí, thật khá thương vậy. Đến họ Ngu Nhuế kiện nhau mà nguyên cát, cũng tên cho mệnh, Khốn mà lại hanh. Từ năm Quý Hợi về sau, mây đen ở Tây giao đã mưa, cá chép mè đỏ đuôi dùng sống lại, văn đức để khen vua Vũ vương sau cưới chựu mệnh trời vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 4 (dùng hào 4). Quẻ của Vận đương là quẻ Thiên Phong Cấu hào 4 đến quẻ Thuần Tốn. Quẻ của Thế chia 6 hào quẻ Thuần Tốn được 6 quẻ như sau: hào Sơ quẻ Tiểu súc, hào 2 quẻ Tiệm, hào 3 quẻ Hoán, hào 4 quẻ Cấu, hào 5 quẻ Cổ, hào 6 quẻ Tỉnh. Hào Sơ quẻ Tốn biến thành quẻ Tiểu súc, (quẻ Tiểu súc lại chia 6 hào mỗi hào 10 năm) tượng khen văn đức ấy là vua Văn vương du! Duy thời bấy giờ, mây kín không mưa, tự ta ở Tây giao, lớn có lửa trời. Khuê tượng thường thấy, việc nhà Vua như lửa cháy, bảo rằng rất gần sao đây. Vua Võ vương nhân đó mà Tốn lấy hành quyền. Thượng Phụ quyết xem bói nên đi, Gia nhân định kế sách biến nhà vua tôi đều giả, trời người đều tin, cảm cách ứng điềm cá nhảy vào thuyền dâng phúc lành, kịp đến phát giáo, tập bắn, văn đức nhà Chu càng tốt vậy, duy ấy Lý hòa ở âm, con trai Càn thừa tiếp Chấn, vua nhỏ tuổi lên ngôi vua, ông tướng trong nhà nhiếp chính ; quẻ Tiểu súc dùng hào 6-4 mà biến Càn, tôi tỏ mệnh vua, lấy yên lặng bàn kế hoạch ở bờ ruộng ; hào 9-5 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Đại súc, tôi nuôi đức vua mà lại chuộng người hiền ; Hào 6 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Nhu, ăn uống yên vui, đều là lo về ràng rịt cửa to, phòng mưa dầm du! Ông Chu Công nhún chí mạnh đi, còn gì hơn vậy. Xét Tốn có tượng chim, con Phượng gáy ở Tây kỳ, mở điềm lành bậc Vương, khá nghiệm ở đấy. Qua đời vua Khang, lại chia từ quẻ Tốn hào 2 mà thành đến quẻ Tiệm, từ quẻ Tiệm biến hào Sơ, hào 2, hào 3 mà được quẻ Gia nhân, quẻ Tốn, quẻ Quan là chính nhà, xem nước mà hơn, thành được thiên hạ, đã chẳng phải 1 ngày. Vua Chiêu Vương đã thẳng từ quẻ Tiệm hào 4 đến quẻ Độn, quẻ Cấn, rồi đến quẻ Kiển, là lại đương quẻ Hoán hào 9-2, hào Sơ hào 6 biến Hoán tượng tiếp Mộc, biến Trung Phu thời thuyền trống rỗng, xem dân tình, xét các phương đáng phương Nam không trở lại, mà thuyền kéo giải tán, thẳng hoặc ứng tượng Hoán du! Vua Mục Vương hưởng nước 34 năm, khởi Hoán đến Quan, đến Cấu dùng giữa Càn, trải qua Tốn, Tụng, Mông, Khảm, 4 biến để sang Càn 9-4, Tốn dùng chính ngôi ở tượng làm trưởng, Càn già mà khỏe, là triệu chứng ở ngôi vua lâu dài mà thọ khỏe. Truyền khen vết bánh xe, dấu chân ngựa muốn đi khắp thiên hạ, Mông dùng già 90 tuổi bị khinh nhờn, Khảm dùng bánh xe chân ngựa, cũng có thể thấy sơ lược, cộng khoảng vua Y Hiếu, đi làm Độn, làm Tụng, làm Tốn, Đỉnh, Đại quá. Đại quá thời chẳng diệt mộc cây, bấy giờ có băng tuyết lớn, sông Hán, sông Gianh nước đều đóng. Càn làm ngựa, cũng làm rét, làm nước, ngựa đang sinh nở nhiều mà băng, mưa, đá ứng, đó là vì đạo trời quá dư. Cố đến Đại súc, Man cùng Vệ lại cùng ứng, bảo rằng vua Hiếu Vương mà đi, thời phải xuống nhà dưới mà yết kiến các nước chư hầu, lại càng hỏng việc, không phấn chấn khích lệ lên được. Biển mà nói sông, lại rất thôi thúc gièm pha việc phòng sông, sau trôi đến con lợn sề, Khảm sông vậy mà dân đề phòng, mà bền vỹ du! Tuy bấy giờ số đến Đỉnh Tốn, mà ngu tối tiêu ở Tỉnh, cộng hòa nhiếp vị 14 năm, đang ở Tỉnh đến Nhu, vua Tuyên Vương dấy lên, Kiển bàn lễ Khảm, bèn hanh vậy, dấu vết thử hỏi đến xem ngôi sao, kêu trời lo hạn, chẳng phải xét lại hình của Đức, ủy lạc dân khuyên tượng dùng đi săn bắn, mặc áo bằng cỏ nhuộm đỏ để giảng võ và kinh doanh đến 4 phương bế, đắp thành đến tận phương Bắc, thành cũ của giếng không có chim, mất hai bên bánh xe, đẩy ùn và trâu kéo, gốc ngọn yếu mà lại khỏe mạnh, đi lại không mất, người bầy tôi khó nhọc của vua Cát Phủ Phương, Trọng Thúc, Thiệu hổ, Thần bá, Trọng sơn, các ông này, bè bạn đến giúp lúc khó nhọc như Đại hiến đoản thân, há chẳng phải là những bậc tôi hiền giúp nghiệp trung hưng vậy thay, sau lấy buộc tội dân ở Thái nguyên vào tội bỏ Hoàng tử hủi, Tốn mất giúp đỡ sự an dùng, oai mệnh sau suy, vua U Vương mê quá, mà nhà Chu thấm ra cái tai họa nữ tráng, lại ứng vào bói quẻ Cấu vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 5 (dùng hào 5), quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu hào 5 đến quẻ Hỏa Phong Đỉnh. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Đỉnh: hào Sơ thành Đại hữu, hào 2 thành Lữ, hào 3 thành Vị tế, hào 4 thành Cổ, hào 5 thành Cấu, hào Thượng thành Hằng. Hào Sơ biến Đại hữu đến Đỉnh, hay Đỉnh biến Đại hữu, hào từ được vị thiếp lấy thửa con mà ra Bĩ theo cả, yêu bà Tự, bỏ bà Hậu, lập Bá phục truất bỏ Nghi Cửu đó là ứng du! Vua U Vương lấy Tốn dùng Canh trước, lập Đỉnh dùng Canh sau, mất vừa 14 năm, họa ở núi Ly sơn hiện ra, vạc nhà Chu nghiêng chân vậy. Ôi, há chẳng phải trái lẽ vua Bình Vương đã lập làm Vua. Đại hữu biến hào 2 làm Ly, hào 3 thành Khuê, hào 4 làm Đại súc, hào 5 làm Càn, hào thượng làm Đại tráng, ở ngôi 51 năm, Tây kinh bỏ mà rời sang đất Lạc, quân nhà Vua ra đi mà năm Mậu Thân có lời than: “thử Ly (lúa mọc rời rã) khô hạn (cắt bỏ phơi khô)”, và lời than “thỏ viên nữ la” (vợ chồng chia lìa). Trên dưới oán hận, tuy do việc người, hoặc cũng trời làm, ở trong khoảng đó, khiến Chu Công chờ tước hầu, hưởng ở Thiên tử. Phương Bá dùng mạnh, bậc Vương suy dần dần thay Càn, dấu tích tắt Kinh Thi mất, Kinh Xuân Thu bắt đầu làm, khen chê để chính nước, ngăn đường để thuận mệnh, sự thấy ở sau, vận đã ra điềm ở trước vậy. Từ đó, bậc Vương xuống làm Bá, ông Hoàn ở Trang thẳng từ Lữ đến Ly, mà Đỉnh, mà Tấn, ông Lý Huệ thẳng Lữ đến Cấn, mà Độn, mà Tiểu quá, rời lửa trên trời vào núi mà chiếu sáng, rộng hẹp mà khá thấy vậy. Mệnh lệnh đã không thi hành, biến nhiều không xét xử, vua Tương Vương thẳng Vị tế đến Khuê, qua Tấn Đỉnh ma đến Mông, việc nhà không gây nên, cái loạn Trúc đới cùng với Tử đồi, loạn đã bình rồi, Tấn Văn định yên. Sau đến nước Trịnh, nước Quắc, lửa chằm làm nữ nhung (con gái mặc đồ đánh trận), họa sinh ra ở nước Dịch, ngày dùng nhiều ban thưởng công lao, là nhờ ở nước Tấn, đó là có chứng cớ du! Bèn Tụng, bèn Giải, vụt chốc cứu cho trong 6 năm, Đinh Vương lấy lập nên, lại có Cổ đến Đại súc, trời to mà nuôi ở trong núi, núi hùng vỹ mà ngồi soạc chân ra ở trên trời, xem binh hỏi Đỉnh (Tể tướng) cũng không coi Thiên vương là thấp, mà liếc nhìn Thần khí (ngôi vua). Vua Giản Linh nối cũng chẳng có tài cán gì mà lại thừa thãi vậy, Cổ càng thịnh biến mà Cấn, Mông biến mà Đỉnh Tốn, quyền lớn rồi lại xuống dưới, mệnh lệnh của nước cũng theo xuống luôn. Bấy giờ đức Khổng tử sinh ra, ngôi không ở mà Đạo ở, bậc Tổ vương (bậc không có ngôi) đương vận Cấu 5, nhà Đông Chu chọn làm nước Lỗ du! Vua Cảnh Vương trải Thăng (lên) mà làm Cấu đến Càn, Độn, vua Kinh Vương trải Tụng mà là Cấu đến Tốn, Đỉnh, hào thượng Đại quá: “đi nữa ở phía Tây bắt được con Lân, Đạo ta cùng vậy” (lời than của đức Khổng), bậc Bá lại xuống đến rợ Dịch. Quẻ Hằng thường đến, hào sơ biến Đại tráng, hào 2 biến Tiểu quá, hào 3 biến Giải, hào 4 biến Thăng, hào 5 biến Đại quá, hào 6 biến Đỉnh, vua Nguyên Vương thẳng đấy, Trinh Đinh Vương thẳng đấy, Ai Vương, Tư Vương, Khảo Vương đều thẳng đấy. Đời vua Uy Liệt cũng đường Chấn chính Hằng, đó là trước sau du! Cấu Đỉnh tức là bảo rằng 240 bút tước sửa lại văn tự, xuất 360 vận tuần hoàn, đời có thăng giáng, Đạo không thịnh suy, chính ngôi ngừng mệnh ấy xa vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 6, quẻ của vận đang Thiên Phong Cấu hào 6 đến thẳng Trạch Phong Đại quá, quẻ của Thế chia hào quẻ Đại quá: sơ biến Quải, hào 2 biến Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 biến Tỉnh, hào 5 biến Hằng, hào 6 biến Cấu. Dùng quẻ Quải biến hào: sơ thành Đại quá, hào 2 thành Cách, hào 3 thành Đoài, hào 4 thành Nhu, hào 5 Đại tráng, hào 6 thành Càn, vua Chu Uy Liệt Vương thẳng Đỉnh (ngôi vua) đến Bính Thìn, đến Cách năm Kỷ Mão, gồm 24 năm, 9 Đỉnh lấy Chấn thửa Đỉnh hay là Cách du! Ban đầu sai quan đại phu nước Tấn làm chư hầu, nên là Chấn vậy. An Vương thăng 9 đời Cách Đoài Nhu Tráng, họ Điền thôn tính nước Tề, Tào, Triệu, Ngụy chia nhau nước Tấn, như ở thuyết ấy thuận nghe, Tráng ở Chỉ (chân) ấy tin, vận cùng làm sao cứu được, Liệt Vương thối ngôi, Uy băng trao Đỉnh Tống còn biết có vua vậy, xem khen ở sân vua, khá chẳng rằng phi lẽ chớ lý (đi vào) du! Song cũng chỉ có thế thôi vậy. Hiển Vương thẳng Đại tráng đến năm Quý Sửu, sang năm sau, thẳng Càn vượt qua Hàm đến Cách, Đại quá, Tụy, bấy giờ có sao Chổi xuất hiện ở phương Tây, Công tôn Ưởng vào nước Tần làn ký quan, rời đô đến Hàm Dương, gồm các làng nhỏ, tụ họp làm 1 huyện, hợp làm 31 huyện, bỏ phép tỉnh điền, mở đường thiên, đường mạch lại đánh thuế. Phép thuế đổi Cách phép nhà Chu quấy nhiễu quá không sợ. Bấy giờ, thời ông Mạnh Tử mới đến nước Lương bầy điều Nhân Nghĩa, truất bỏ điều lợi, cả đời bấy giờ ngày nói toàn điều lợi, há chẳng hơn Đoài mà Đại quá (hơn nhiều người) vậy thay! Từ đó, Hàm đến Kiển (vận từ Đại qúa tới Hàm, 6 hào quẻ Hàm: Cách, Đại quá,Tụy, Kiển, Tiểu quá Độn), đến Tiểu quá, mà Độn gồm 59 năm, vua Noãn Vương hết ấy đời Tây Chu. Ở quẻ Thái đến Càn Sơ, nhà Chu chia ra Đông Tây, đến đây Khốn đến Giải, đều mất ở thời nhà Tần, nhà Tần dời đất Tây Chu và Đông Chu ứng vào quẻ Khốn, quẻ của Vận là Cấu, quẻ của Thế là quẻ tội giệt đỉnh đầu, mà chia hào thẳng quẻ Khốn đến cùng Hội vậy. Xét nhà Chu làm 3 đời Vương là thịnh, Bình Vương trở về sau là 5 bậc Bá, kẻ có công hay tội, đỉnh ở kinh Xuân Thu, rồi đến 7 bậc hùng nghĩa hay lợi, đều phán định ở ông Mạnh Tử. Bấy giờ gốc ngọn nhà Chu đều yếu, nóc nhà bị quấy nhiễu mất sự giúp đỡ bởi mệnh ở Đông và Tây, như hoa cây dương khô vậy, nhà Tần thời đó đổi sức mạnh mà lấy, bèn trước 6 nước mà ngầm rời về họ Lã Doanh. Tần Thủy Hoàng đương Tốn đến Tụng, vào Tỉnh đến Nhu,… (mất chữ) Đến đây, hội Ngọ đến Cấu xong rồi, xét lên tự 6 vận, đều cử lên việc ứng quẻ, dường như cũng phụ hội ức thuyết (nói phỏng chừng) chưa khá gắn keo vào cột. Kẻ đọc coi ngay tượng được ý, là khá vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 7, quẻ của vận là Trạch Phong Đại quá (hào 1) thẳng Trạch Thiên Quải, quẻ của Thế chia hào quẻ Quải: sơ biến Đại quá, hào 2 biến Cách, hào 3 biến Đoài, hào 4 biến Nhu, hào 5 biến Đại tráng, hào 6 biến Càn.

Dùng trong chia 3 hào quẻ nội như sau:

- Hào Sơ quẻ Quải biến Đại quá, chia quẻ Đại quá biến quái: hào sơ Đại quá hào 2 Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 Tỉnh, hào 5 Hằng, hào 6 thành Cấu.

- Hào 2 quẻ Quải biến Cách, chia quẻ Cách biến quái: hào sơ thành Hàm, hào 2 thành Quải, hào 3 thành Tùy, hào 4 thành Ký tế, hào 5 thành Phong, hào 6 thành Đồng nhân.

- Hào 3 quẻ Quải biến Đoài, chia quẻ Đoài thành biến quái: hào sơ Khốn, hào 2 Tùy, hào 3 Quải, hào 4 Tiết, hào 5 Quy muội, hào 6 Lý.

Dùng ngoài chia 3 hào quẻ ngoại như sau:

- Hào 4 quẻ Quải biến thành quẻ Nhu, chia quẻ Nhu biến quái: hào sơ Tỉnh, hào 2 Ký tế, hào 3 Tiết, hào 4 Quải, hào 5 Thái, hào 6 Tiểu súc.

- Hào 5 quẻ Quải biến Đại tráng, chia hào quẻ Đại tráng: hào sơ Hằng, hào 2 Phong, hào 3 Quy muội, hào 4 Thái, hào 5 Quải, hào 6 Đại hữu.

- Hào 6 quẻ Quải biến Cấu, chia hào quẻ Cấu: sơ Càn, hào 2 Độn, hào 3 Tụng, hào 4 Tốn, hào 5 Đỉnh, hào 6 Đại quá.

Bàn việc đời vua Tuyên Đế thẳng Quải mà sáng suốt quyết đoán, tin việc thưởng, hẳn việc phạt, quan lại trị, dân yên, giao các nhà Nho giảng bàn 6 kinh, khác hay đồng, Thái Hậu lâm triều (sưng chế), quẻ Lâm (tới) quyết đoán, ứng cái tượng thư khế văn trị. Hai vị vua Nguyên vua Thành thẳng tới quẻ Hàm, Khốn, đến cả Tỉnh, hàm cảm ở trai gái họ ngoại, quan hoạn dùng việc, cái họa nước làm tắt lửa, Khốn ở giây theo đó theo ấn nhiều vậy. Có nói chẳng nghe, cũng như Tỉnh, giếng nước dơ bẩn không ăn, thi hành đạo đều bị lòng xót xa, như vua tối tăm không đáng thời sao? Kịp đến vua Ai, Bình thẳng Hằng Cấu, đức mất, dẫu có Hằng mà có so sánh với sự xấu xa về việc chìm đắm đứa trẻ ngu, đạo buộc dắt ở mềm mà đã thành ngầm cái thế nữ tráng (em gái mạnh) yên nhà Hán mà thực nguy nhà Hán, có tự đến vậy. Vương Mãng thẳng Cách Đại nguyên soái nối, đổi thay dựng nước là Tân vào năm Kỷ Tị, chọn ngày Tị bèn Cách du! Hàm chí ở ngoài mà chẳng phải trinh. Quải có việc binh mà chớ thương, hiệu nguyên sau hung, sao khá dài vậy. Quân nhà Hán dần dấy lên, quan Đài giết Kiển vô chừng ấy ứng vào sự lành Phu Gia Đường ngôi trung chính gồm 33 năm, lấy đạo mềm dẻo trị thiên hạ, động mà vui lòng theo, Bá chưng phải từ cứng rắn mà xuống mềm dẻo. Giờ là Ký tế, chẳng gì là chẳng Phong, vua Ninh Đế nối tiếp sáng, tượng như Thiên Hỏa Đồng nhân, chia từng loại họ, tỏ rõ các vật, xét qua không rối,, đến Lâm dựng nhà ung dung sự học, không kể nhà có công tứ tính (các dòng họ ), tiểu hầu, dẫu ẹơ Hung nô cũng cho con đến học, xa gần lệ nhờ ơn, mọi người đều được văn minh thịnh đạt, chẳng phải Cách sáng sủa mà ơn huệ Đoài sao! Khốn ở một nỗi tin Phật, cầu ở Thiên trúc, lỗi ấy lớn vậy, vua Chương Đế ra sức thi hành rộng lớn, động Tùy là có được, là vua hiền đời Đông Hán, lỗi ở yêu bà Đậu Hậu, thành ra Đậu Hiến là họ ngoại làm loạn ở trên thềm, vua Hào Đế bí mật dùng quân Trịnh giết Hiến, Phu (tinh) hiệu lệnh đương rõ ở triều đình Quải quyết vậy, rồi thưởng công ban lộc cho kẻ dưới, đến nỗi mở ra cái họa hoạn quan, vua Hòa Đế Đoài là tốt, trái lại lấy hung tới, đến nay rõ tượng vậy. Trên là tự chia dùng trong, 3 hào nội của quẻ Quải biến vậy. Dùng ngoài, 3 hào 4, 5, 6 quẻ Quải biến, Quải hào 4 chia Nhu biến làm quẻ Tỉnh, Ký tế, Tiết, Quải, Thái, Tiểu súc. Như đời Hòa Đế thì Quy muội kịp đến Lý, thì Thượng đế không có con nối dõi, mà An Đế dựng lên ngôi vua. Vua An khi nhỏ thông tuệ, lớn lên không có đức lập bà Diên hậu, tính ghen tuông đến mức loạn triều đình, chẳng phải Quy muội đánh hung dữ (đàn bà hung dữ), tiếp cái sọt vuông không có thực (quả) là nghiệm đó sao? Đó là bỏ thái tử Bảo làm Tề âm vương. Đổ mất, bọn hoạn quan định mưu lập Bắc Hương hầu, ông này chết, Trung thường thị rước Tế âm vương lên làm vua giết Diêm Hiển, rời bà Thái hậu đi, phong cho 19 tước hầu, ấy là thời vua Thuận Đế, vỹ Thăng Nhu đến Tỉnh cùng Ký tế vậy, Nhu là chờ đợi vậy, hiểm ở phía trước mà không hãm, ngôi vua là ngôi trời, đã bỏ đi mà Phục (lại) lập lên mà chưa mất lẽ thường vậy, Tỉnh thời không đổi, Ký tế là định vậy, cho nên sau lên ngôi vua, bấy giờ hoạn quan họ Diêm lộng quyền, Lương thị dùng việc ban đầu tôt, sau loạn, không thể trấn hưng được, vua Sung Đế được 1 năm mà mất, vua Chất Đế cũng 1 năm bị tướng quân bạt hỗ (hung tợn, cứng đầu cứng cổ, không chựu ai kiềm chế) giết, đức Khổng nói: “loạn sinh ra vậy”, ý nói là lời nói làm cái thần không một thời thành hại, sao chẳng cẩn thận vậy thay. Vua Hoàn Đế đương Nhu biến hào 3 đến Tiết, Quải mà Thái, Nhu giữa mà Càn dương, biến mà Đoài âm, dương cương bị âm nhu hủy bỏ, mà có cái lo trong cung nữ được Vua yêu, trung tiết lấy khổ sở, tuy Nhu tiếp theo 5 cương, Quải có thể giết, mong mỏi mà ngũ hầu, quyền khuynh trong ngoài, chẳng khỏi sau hung, đạo dùng chưa sáng. Thời bấy giờ, nhu huyết thuận theo, các kẻ quân tử vướng vào cái nạn đảng cỏ, cuối Khốn hãm không ra, Quách Thái do đó khóc thương người, biết nhà Hán mất vậy. Vua Linh Đế thẳng Thái mà Tiểu súc đến Đại tráng đến Hằng trị quản đảng công gấp, có kẻ bảo Thái Đạo quân tử trưởng lên, sao lại tiêu vong đến như thế? Này Nhu hào 9-5 vốn là quẻ Càn, rồng bay dùng ngôi Trời biến mà âm, sáu con rồng đem con rắn núp âm nhỏ dùng việc, dương càng tiêu vậy. Bấy giờ có con rồng xanh hiện ra trước chỗ vua ngồi, đó là điềm sao? Tiểu súc, Tốn trên về đầu Càn, cầu vồng rơi xuống đất hóa con gà, đàn bà can thiệp vào chuyện chính sự, mà đàn bà mất trinh, bầy tôi làm giả mệnh vua là trái đạo tôi. Vua Tuận Đế bàn xem (quan) lấy lợi, bỏ bà Hoàng hậu phản mục (không hòa), giết loạn quan phản nghịch, thời cổ nhân lợi trinh tiết, mời binh ở ngoài vào thì mất cái lợi dùng việc quân. Hà Tiến thất sách để lo đến xe vua, Trương Khương chựu tội vạ lây đến chỗ ở của vua. Từ đó mà Cảnh Chân tin đến cùng. Đổng Trác tuy bị giết, Tào Tháo lại tệ hơn, vua Hiến Đế nhà Hán ở ngôi 12 năm, từ Hằng đến năm Canh Ngọ, mà Phong, mà Quy Muội, đến Thái rồi Canh Tý, thời gian này rường của Càn cởi giây thao đeo ấn, Tốn mệnh chuyên về dưới, cắp lệnh của Thiên tử sai khiến các nước chư hầu, các địa phương chấn động về việc giết mẹ vua (mẫu hậu), tiến đoạt nhiều lễ, lấn chẹt vua cha, hung bạo trái lẽ ở chỗ giữa đường, đạo trở lại Hằng sức dùng theo Tráng, Tào Tháo (tào man) đắc chí Lưu nhà Hán (Vận Viên) không sáng, đến nỗi sấm chớp giao nhau, uy sáng ở rồng phượng đều giúp đỡ chính thông, cho nên Phục long Khổng Minh ở Nam dương ra mà chân Đỉnh ở Tây Thục đứng vững, cốt yếu ở 3 Ly 4 Chấn,cắt đất binh lo sợ, gồm đến nước Ngô Quy muội ở Kinh Mục (Tôn Quyền cho người đến Kinh Châu dụ em gái là Tôn Phu nhân đã gả cho Lưu Bị) lại trở về. Tào Tháo lập con gái ở cung vua Hiến Đế, đều là tượng ứng vậy. Hào 9-4 quẻ Thái, Tào không cướp ngôi vua. Lưu Bị bèn chính vị Đại thống (Chiêu Liệt) ở Hán Trung. Đất trời giao nhau hà tất không ở lúc vương nghiệp yên một bên. Từ đó mà Quải, mà Đại Hữu, mà Càn đến Cấu, đến Đồng nhân. Thục Hán mất, qua 2 năm, Tư Mã Viêm phế bỏ vua Ngụy làm Hoàng Đế, quẻ Tấn mà ứng vào bùa Càn vậy, Càn là Ngựa, Thiên Hỏa là Viêm thượng, ở năm mà nhà Hán mất, niên hiệu là Viêm Hưng, năm mà Ngô mất niên hiệu là Hàm Hy, chữ Hy và chữ Viêm đều theo chữ Hỏa, nên Tư Mã Chiêu làm Tấn Vương, lấy tên nước là Tấn. Chữ Chiêu và chữ Tấn đều theo chữ “nhật”, Nhật với Hỏa theo thế Càn. Vua Vũ Đế nhà Tấn chựu mệnh Trời đương Càn đến Lý, xem hào 3: vũ nhân làm đại quân (vua to), năm mới lên ngôi gọi là Thái Thủy, là lấy tượng của Càn-Cấu, gọi niên hiệu là Hàm Ninh vốn là tượng từ của Càn, hiệu Thái Khang cũng là cái nghĩa của Càn kiện Lý, Thái, lấy đó mà suy, chựu mệnh Trời có phải ngẫu nhiên đâu. Càn đến Tiểu súc, Đại hữu, lấy đến theo Quải, lời hát vè Nam phong liệt liệt (lo sốt ruột) ứng Tiểu súc, đó là lời của thiên hạ giống Đại hữu, minh chứng điển hình ở đất Kim dung ứng quẻ Quải, Lâm theo tiếp hào 5, bà Hậu phản nghịch, bầy tôi phản bội, ở ngoài thì Rợ Hồ bức bách vào trong, vế trên đầu dưới, thời gian vua Huệ Đế đến Hoài Đế, Văn Đế, quân tử bảo rằng Càn Khôn thời buổi của bậc nào đây. Từ đó mà Đại qúa đến Cách, giữ mệnh của Ngọ là Cách vậy, nhà Tây Tấn bèn là Đông Tấn.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 8 (dùng hào 2), quẻ của Vận là Đại quá đến Hàm. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Hàm. Hào Sơ quẻ Hàm chia làm quẻ Cách, nói rằng bền nên dùng da bò vàng, ngựa mất mà trâu thay, vua Nguyên Đế nối tiếp vua Mẫn Đế không con nối dõi. Quẻ Cách biến làm Hàm, Quải, Tùy, Ký tế, Phong, Đông nhân. Quẻ Hàm nói: nhanh chóng vậy. Vua Mẫn uống riệu, làm lệnh riệu, cầm cái dù che, có cái nhục Hàm về cầm theo (Hàm cố chấp Tùy) mà chóng mất vậy. Quẻ biến từ Hàm đến Quải, nhà Đông Tấn gặp đấy, 5 con ngựa qua sông, 1 con hóa rồng, vì Quải có 5 hào dương, 1 đang lượng rồng bay rồi nên giặc phải nghịch phạm thuận, vua Minh Đế giết Vương Đôn ở trước, vua Thành Đế đánh Tô Tuấn ở sau, là tượng quẻ Cách hào 2 và 3. Quải là quyết, Tùy là có được, là công vua Minh vậy, Ký tê định vậy là vì cớ Hanh, Phong nhiều vậy mà chuộng vua Khang Đế hưởng nước chẳng thủy (nước), vua Mục Đế lên ngôi khi cong nhỏ, ở trong cái đựu trong êm ngoài ấm, Đồng nhân như phải chựu lép vế đi theo trở thành thấp vậy. Từ đời Kiến Vũ trở lại Hán Thục, Tần, Triệu, trong khoảng những năm ấy, việc binh cách đều là tương Cách vậy, lấy 2 phần làm Đại quá, theo biến Sơ Quải, 2 Hàm, 3 Khốn, 4 Tỉnh, 5 Hằng, 6 Cấu, thời gian này gồm các vua Ai Đế, Hải Tây Công, Giản Văn Đế, vì gặp Quải, Hoàn Ôn đánh nữa Yên, xấu hổ xâu xa mà mất quân thua, Quải không lợi, tức là việc binh nhung mạnh ở trước, chân đi không thẳng là lỗi, nói rằng vậy sao? Thái trái phúc đức mà giệt nước Yên được chẳng phải mạnh ương có hung Sao? Ôn chuyên quyền bỏ vua này lập vua kia, hung quấy rối quá lớn. Độc lập mà không sợ, Tạ Ân đương lấy Trạch diệt mộc, Hoàn là Cây vậy, nước đóng băng đông lại, Mộc trạch khó mà Ôn bèn mất, Ôn mất Sung thay, Tạ vương cùng với Trung cũng thờ vua Hiếu vũ, Hàm (đều) vì hết sức, trên dưới ứng nhau, đó là nghĩa Hữu Hàm, Hàm dùng trong Cấu làm An, thôi làm Thạch là Thiếu nam (trai út), có yên lặng, tượng như chắn núi, ngoại quái Hàm là Trạch, nghĩa hợp ở sông Phì, làm …(ằng) khẩu lúc quai miệng ra nói, thời Phù Kiên muốn lấy gió thổi mạnh quét là mùa Thu, An Thạch sai bọn thiếu niên cả phá đấy. Ở quẻ trai dưới gái, lợi lấy gái rồi thì khách chủ ứng, khách lợi, lấy khách vậy. Từ đó Mộ Dung nghĩ tới nhân đấy khôi phục nước lên. Tấn cũng nhân đó mà mở mang đất Trung nguyên, hầu như Khốn mà mạnh sao? Đó là Khốn ở riệu, chuộng miệng tới cùng, vợ già cùng với sỹ phu vui đẹp sao lâu được, đương khuyên tài trường Tinh (sao dài) đã theo triệu chiếc bánh trong nóng vào trong cung muốn thấy vợ được sao? Tỉnh (giấy) rét giá buốt lạnh, không thể làm trong cái độc nóng ấy, bèn lập vua An Đế để làm cái dây kéo nước giếng đầy bình. Chính sự của triều đình chỉ kịp đến Ngô Tôn Ân mà lại cướp lấy 6 huyện, Hoàn Nguyên cướp ngôi trước, Lưu Dụ lại nhường ngôi sau, tuy ở ngôi 20 năm…mất chữ…

Hàm trong Cấu tượng thân mình, ngoại quái Trạch thích đồng bóng tin Phật bỏ thân mình, cùng Thái có bầy son thơm vào mình mà lòng không được tượng của thân mình, nhà trống nước bỏ tế lễ mộng sinh, hào 3 biến về Tụy dùng Đại sinh, Khiêm lợi sâm lấn sau, hàng xóm giầu thì Bĩ. Bấy giờ lấy Thọ Xương nước Ngụy giáng xuống Quảng Lăng, Tiệm (dần dần) sao Huỳnh hoặc (sao hỏa tinh) vào Nam Đẩu, tượng Trời không những chỉ ứng một mình vào giặc, kịp đến nhà cao che không cho sáng vào, họa ở Đài thành ứng vậy. Giản Văn Đế bị bỏ do tay bầy tôi làm giặc, đạo văn võ của Hiếu Nguyên đều ở ngựa bạch áo trắng, vua Cung Đế lên ngôi, trinh dương về sau bỏ để không định. Chẳng Hằng (thường) theo đức, mà nhường ngôi cho Trần, nhà Lương bèn mất. Bắc triều nguyên Ngụy, trải 13 vua gồm 194 năm, cũng cùng mất với nhà Lương, rồi chia thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, là thời của Tiểu quá đến Hằng, hào nhiều hối hận mà hung, hay là do giữ ngôi vị quá lâu mà hung vậy. Trải qua Dự, Khiêm, Hàm, Lữ, thành dài mà gồm tới biến gồm 5 vua, Trần Võ đến Văn Đế, Tuyên Đế hợp 32 năm, rồi mất về tay nhà Tùy. Tùy Văn Đế thôn tính thống nhất cả Chu, Tề, Trần, Lương. Từ niệu hiệu Khai Hoàng đến Nhân Thọ 23 năm, trong cảm không phải hòa bình là linh cảm có chí, bình chẳng phải sáng suốt cẩn thận mà hình ngục không để lại, hào thẳng Tiểu quá, có sự hung chim bay mắc vào lưới, cùng với ữ thượng qua chóng tổ, vua Tùy Dạng Đế giết cha làm vua, đắp vườn làm núi, xây vườn thượng uyển, chế xe đi, làm đai đồ y phục, tai đến cả loài chim. Độn đến Đông nhân, bèn đến Cấu đi tuần phương Bắc, ra ngoài cửa ải, đương ủy quân hô hào nước Hàn giết người già tiếp nối gót mà đến cúi dập trán, làm 3 quyển Tây vực đô ký, hợp 44 nước vào triều kiến, có tượng Đồng nhân đồng nội. Lại tự đem quân đánh nước Cao Ly, trời với lửa cùng nhau là ứng Cao Ly, quẻ Độn hư mà không công, không thể việc lớn trái trời, làm việc cướp trộm núp cỏ trên lăng, thành ra câu vè Dương mất Lý, hò hát mà sau cười, Đại Sư hay gặp, thiên hạ khổ về nhà Tùy mà vui về nhà Đường. Quân lại dấy lên ở Tấn Dương, gió thổi chiếu cuốn, rồi tới Hưu Bĩ đương ngôi, sao Thái Bạch điềm biến, để nói rằng bọc lấy sự xấu hổ, cũng nói rằng lìa phúc, đó là đời thình trị của vua Đường Thái Tông niên hiệu Trịnh Quán, càng sáng sủa hơn vua Cao Tổ Võ Đức vậy. Càn trên Khôn dưới, trời đất ngay tnẳng, xem quẻ rằng Bĩ hanh, đạo vua tôi ở Thái tử mất đạo, dần dần đến cớ nói, bỏ mà lập, trị hay thuận lấy Tốn, tên tiểu tự là Trĩ nê, tượng Lữ đến Ly, chiếu sáng tốt đẹp ở Cấn cửa khuyết biến. Từ nhà Tấn Tống yên vui mệnh Trời, do bởi lấy trên kịp xuống. Vả lại 10 Tiệm rất cẩn thận, giải quyết từ 3 lần 5 lượt, trừ tử hình hơn 30 điều gồm cả đổi chặt chân, đánh roi vào lưng, tha tù 390 đều được Lữ minh ý dùng việc hình cẩn thận. Đến khi Hồ Việt 1 nhà đem đất đai vui phục, theo Hàm cảm được lòng người, mà thiên hạ bình vậy. Tuy phân quẻ chủ Hàm, điềm xem qua chữ Chỉ là Vũ Thiếu vào cung, kịp đến sao Thái Bạch hiện rõ ban ngày, xem ra vị nữ vương giết nhiều người không tội, trái mệnh trời, thuần phong có nói hoặc cùng suy tượng Hàm vậy. Vua Cao Tông nối ngôi, Vũ thị lấy tài nhân vào làm Chiêu nghi, ứng chính thẳng Hàm ngoại quái Đoài làm Thủy Trạch, Cấn làm cửa khuyết, núi nước đem xông vào cung điện Vạn niên làm đắm đuối hơn 3 vạn người, bảo rằng không phải âm thịnh cướp dương là chẳng nên. Tử lập bà Vũ làm Hậu, chặt đứt tay 2 người vợ bé của vủa Vương Tiêu, thuốc độc cho vào bình riệu, bỏ Thái tử Trung mà lập em mình là Hoằng, quá lắm vậy. Ủy việc chính sự, quyền ngang với chủ nhân, đó là Hàm trung Càn Tốn, chứng triệu có vợ cả vua để thi hành mệnh lệnh đó sao. Tiếp đến quẻ của Vận Đại quá trong Tốn ngoài Đoài trung 4 thay đổi nhau Càn, Tốn, Đoài gái trưởng và gái út, Càn là vua chồng già là Tốn mộc vậy, làm cỏ tranh trắng, làm cây dương, Tốn lấy bằng đấy, cũng làm rường nóc nhà cao dài. Càn làm Kim (vàng), làm cương (rắn) bền, Đoài làm Dê theo nước làm bể đẹp lòng thời vui vẻ, loại ấy không thể nói lên hết được. Đương đời Ngũ đại quẻ chia Đại quá, hào 9-2 theo thuộc về Tốn, chựu mệnh dùng tính thị, và niên hiệu (quốc hiệu) loại này đến ứng Tốn mộc, như Tống, Tề, Lương, Trần cùng Tùy, tính là dương đều là tiêu (cỏ hoa), mao (cỏ tranh) thuộc tượng nhà Trần, nóc nhà là Tề, quá là Tốn lấy cái nghĩa về bằng nhau đấy. Tính lại của nhà Tống là Lưu, tên của Dương là Kiên, đều không Ly (hình Càn Tốn, nhà Đường lấy họ Lý thay tên Lương, ứng Càn rồng nhẩy, cũng ứng Đoài Trạch, Trạch tức là Uyên vậy, hơn đời được lòng dân, vua Thái Tông lấy tài Đại quá nhân (hơn người nhiều quá) chẳng đắp đổi Cấu ở ngôi trong, bảo có cớ tóm ức triệu dân chúng dấy lên làm chủ Càn. Quẻ của Thế chia Hàm thứ tự đương Cấu 2 tên cũng ứng. Đến như Cấu hung nữ tráng, Tốn lại Vũ nhân mà theo ở sau gặp làm cảm, âm tiến cướp quyền dương, thời Thiên dựng niên hiệu lỗi cũng lớn vậy. Phàm Vận thứ 8 này, quẻ trải qua tinh tế mà suy, tất có điều sẽ nghiệm ứng, kẻ đọc nên biết được đại ý, còn cái kiến thức phục hồi giọng hợp, giữ lại mà không bàn đến, là nên vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 9 (dùng hào 3), quẻ của Vận đang là quẻ Đại quá đến quẻ Khốn. Quẻ của Thế chia quẻ Khốn hào sơ Đoài, 2 Tụy, 3 Đại quá, 4 Khảm, 5 Giải, 6 Tụng. Quẻ Đoài hào Sơ đến Khốn, âm che lấp dương, mà đương lúc suy loạn trước sau đều yếu, thời chẳng khỏi hung. Đoài hào 2 chia thành Tùy là đạo vợ cương đến hạ chủ nhu, mà đẹp lòng theo đấy, tiến thoái lưỡng nan do ở cảm tình, thành tượng nữ chủ vẫn được yên lành ăn uống. Bỉ theo Quải thời 1 âm giữ trên 5 dương mà xưng Danh, sao Chổi hiện ra, cái nghiệm 5 xe ở đây sao? Bấy giờ bỏ Đế làm Vương, đổi Đường làm Chu, Trời hầu phản, Tốn mệnh mà bốc lên ở sân hay là ở ngay sở tại để mà tin theo gọi vài lời khuyên bảo. Âm dẫu ngồi chỗ tôn, Càn cương chưa đổi, thiên hạ đều nghĩ bẻ gẫy cánh chim vẹt để vun bồi cành lá mà chưa từng quên Quải dùng cương quyết nhu. Nay đọc tờ lịch của Tân Vương mà trước làm chẳng xiết cái khí Chấn dương trong sân vua ấy là tráng (mạnh). Kịp ở phòng lăng lại khôi phục việc chính sự mong hợp trời người, trao tiết của sân vua ngôi nhà Đường phản lại chính, tin khá đẹp lòng, mà bà Vy hậu lại đương quẻ Quy muội, có cả cành dâu, tiếp cái sọt không có quả, đếm thẻ chưa hết mà bánh cuộn lại tiến. Long cơ đánh đấy giúp Vương lên ngôi, giết đến cả tông tổ Bàn Tuấn lập làm vua 2 năm. Huyên lên ngôi Đế, rõ trên dưới để định chí dân, thời Lý đấy chẳng bệnh lâu, ngôi chính giữa mà tin càng tốt lành, thời Tùy (theo) cũng không lỗi, niên hiệu Khai Nguyên thịnh trị, trên ví với nan Tring quán (Dương Khái Công) đến dùng khốn dương cương che lấp, chuộng lời nói tin sự dèm pha, Hàm (đều) với tính con gái, đẹp tình mà khinh nhờn, bà Dương phu ứng Đoài, Lộc Sơn ứng Cấn, con gái ở con trai giảo quyệt, loạn đời hiệu Thiên Bảo khởi ở bọn trai gái, trót cùng ở Độn (trốn), biến trốn Mã ngôi, Linh Vũ lưu lại, các bầy tôi thuận theo, lòng người đều giúp Đường, Lý bởi còn Bác quẻ ở các kẻ bầy tôi là Quách Lý làm lại tiến vào với quân của Vua dùng khu trục con chim phản nghịch, Chu đã mất, do đó khôi phục được Tây kinh, Phượng hoàng về, Dương Tỷ được vua yêu giúp nước; chuyên quyền quân sỹ bỏ lập, yêu không phải đạo là nuôi loạn, vì dùng không trọn, đại khái thấy vậy. Đời thẳng quẻ Dự, cho cái tên là Dự: Lợi kiến hầu hành quân, việc hình phạt trong sáng, dân phục, vì cớ lấy thuận và đông vậy. Thời không nói hết. Vậy thì quẻ của Thế chia Khốn đến Tụy mà thẳng theo hào 9-5 mà biến làm Nhu, ứng tượng trinh Hằng chẳng chết, hào 9-4 một khi nắm giữ đương Chấn, chuyên giữ thế mạnh, hào 6-5 ngôi vua quẻ Dự chẳng chế được phương Khôn, đất đai cũng bị dẫn chứng không rõ rệt. Tỉ (ví) 5 mà nghe 4 làm thì động chính ứng đấy, vả lại Cấu đắp đổi Tốn từ lúc đầu Tỉ giúp nước, tiếp sau đến Nguyên Chấn đều cùng tương hợp. Vua Đức tông đương ở yên Cách Cấu thì vô sự, theo rằng Dự kịp đến sao? không thời thành vậy. Vua Đức tông thành Bĩ cùng Đại quá đến Quải Hàm, ban đầu làm 2 thứ thuế, vơ vét bóc lột nhà buôn giầu, đánh thuế cả giá hàng, dẫn oán thành ơn, hà tiện sự khen thưởng, chẳng thương quân sỹ, so đo ơn huệ, trước sau đều nói sinh ra phản loạn, phải chạy ra ngoài để lánh nạn, ứng tượng Bĩ vậy. Tang đạo Hậu sao cố tạo ở Ly cùng Khốn, cùng thành Phụng thiên cao lớn, để phòng bị việc xin phí thưởng thắng hoặc có mất, cái mất này có liên hệ đến ứng bào tang. Thời bấy giờ xét mật như Phụng thiên, lại như Lương Châu, ngôi vua nhà Đường muốn đổ, bèn được trước Bĩ sau mừng, thu phục kinh thành đương Quải mạnh, có quân lính chớ thương xót. Phu hiệu ấu nguy bèn sáng vậy, các tướng Lý Thanh, Hổn Hàm, Xã Toại bảo rằng chẳng phải quyết chí bỏ giặc, mà Quải quái vô cựu, cùng Hàm làm cung, chợ, cả trẻ con trong 5 phương đã trình bầy mong ngóng đến gần vậy, thì Tốn gần lợi, chợ gấp 1, 2 lần, Cấn là bọn trẻ con nhỏ ở chùa liền Tốn 5 phương vậy, đều lấy hư không chựu người mà quân tử lấy nghĩa, tiểu nhân lấy của cải vậy, kẻ dèm pha dương miệng nói trên đầu gối, kẻ trung hiền bị chê ra, quân tử đi trốn. Lòng vua ưa kẻ tà, cảm sự hại chưa sáng tỏ, giết cây gỗ dần dần theo cách này. Vua Thuận Đế mắc bệnh, mất tiếng Khốn vậy, mà trước bãi cùng chợ các chính sự tệ hại cũng tức làm hanh thông, song cũng không thể quyết việc chỗ cung môn chỗ chùa đàn bà càng lấy trộm quyền, đáng dân nhân lấy liên kết nhau, cương cũng càng che lấp vậy, Lập tức truyền ngôi cho Thái tử là Hiến tông, hãy chấn hưng đường lớn dùng mưa sau, bình định kẻ tiếm loạn, Khốn mà được theo hanh thông, gốc ngọn không bệnh vì yếu đuối, mà đời suy loạn ấy đều thịnh vậy, là do dùng người đều đáng cả, đặt để không lỗi lầm, Hà Tây, Hà Sóc đánh dẹp đều có công, úy lạc dân, khuyến kích tướng, bờ cõi trị yên. Tốn vào Khảm hiểm, Tốn bằng Khảm nhọc, Kinh Thi rằng: đi vào chỗ hiểm trở, có ngăn, chắn, theo Sơ, cùng các thành lên vua. Là vận ấy tượng ấy, vua Hiến đương đấy, vì sao nịnh Phật thích Tiên, uống thuốc ở sông Liêu Bí để cầu sống lâu trái lại bị giết, là chằm giết cây sao? Kịp đến Dự: vua Kính, Văn, Vũ, Tuyên, Ý, các vua này thẳng Tỉnh, Hằng, Cấu mà trải Khảm đến Tiết, Bĩ rồi Tỉnh. Vua Mục Tông, Kính Tông hưởng ngôi không dài, lại mất hà sóc một khi vui chơi quá độ, mà lượng đầy bình, 1 đứa trẻ tối tăm bị giết mà chẳng phải ngôi vua thì khó mà lâu dài. Văn Tông lo mềm ít quyết đoán, tượng Hằng đến nội Tón mà bị chế ở gia nô, biến ở Cam Lộ mà Thiên tử chấn động sợ hãi, con lợn ít lông, dắt đi mềm mại, chót đến cùng, tốt đẹp khác, thuận ra làm gì. Vũ Tông nhanh nhẹn mà được thượng đẳng Thái nguyên, Tuyên Tông xét sự sáng suốt nghe lời nói không can không dự, chế vừa phải độ, gần người hiền xa sự vui, cũng bảo là được vậy, bèn lại yêu về thực, mê hoặc nguyên bá chẳng vào Khảm cung mà mất Đạo, hung vậy. Ý Tông đắm đuối yêu sắc vô độ đam mê, ngầm tiêu triều đình mất chính sự, kẻ canh cửa lộng quyền, tin kẻ dèm nịnh ruồng bỏ kẻ trung, dân nhân mà mở trộm cướp dấy lên, Khôn chủ dân chúng, Khẳm làm giặc cướp, bỉ trong Khôn ngoài, mà Tỉnh đến Khảm Tốn cũng bảo là trộm cướp, Phong (gió là quẻ của Thế chia Khảm, Tỉnh thẳng tới Khảm, Khảm bọn giặc cướp làm công nhân, đó là 1 biến vậy) đấy ít tuổi mà Khốn hỏng, dân Khốn về lụt nạn đói, quốc gia Khốn về nạn trộm giặc đánh cướp, vua Khốn về bức bách rời xa, như tật lê ở trong gỗ đá quấn quýt cây sắn, thay đổi lần lượt làm chỗ vua ngự. Năm Giáp Thìn quẻ ứng Sư tinh mới bình được giặc lớn, mà Bắc ty giặc ở trong còn ngang nhiên cướp xe vua. Xét đến Bỉ Tỉnh, thì Khảm trộm giặc ở ngoài, nhân tiếp Khôn Sư thì giặc cướp ở trong chiếm giứ Bắc Ty, ứng trùng Khảm. Trong thời Cấn Tốn thay đổi nhau, có kẻ hôn tự (chức canh cửa) con trưởng, làm tượng trong ngoài giặc cướp liền liền. Lúc này nhà Đường ngôi vua con ngất vậy, vua Hy Tông có chí khôi phục lại công nghiệp đời trước, uy lệnh chẳng chấn hưng, quan quân một khi tan vỡ ở Khái dụng, lại chạy đến Mậu trinh,, lại nhà khắc dụng mà Tam trấn đánh bình phục lại, lại lấy Mậu trinh mà kinh sự không giữ, trên như Hoa châu, ai bảo rằng Hoán sơ cứu ngựu mạnh là cát. Chu Lý tránh đón rước, tan chạy muốn gì, cùng cực đến nỗi lấy bạc vạch đất, mẩu sắt giữ vững cửa. Chiêu Tông mới chằm tên hung đầu sỏ, Toàn Trung lại thả binh cướp, rất thành ra giết, hào 9-6 bảo rằng: tan máu hại xa, 9-6 khó nói vậy. Vua đi chỉ để giữ hư vị 3 năm mà sắc phong, bảo phong Lương, quẻ cũng ở Giải đến Quy muội, tội không thể tha thứ. Chu Tam bội nghịch làm con chim cắt nhỏ ở quận Cao dung ứng là con cáo lẻn chỗ ngồi dân ô bị giết mà hung, quái gở sao xiết vậy. Hữu Trinh giết Hữu Khuê mà lập làm Mạt Đế (vua đến cuối cùng) không hay tự mạnh lên, sau bị Điền Trang bắn 3 mũi tên giết như lợn chó không phải dịch mà Dự thấy đấy vậy. Dự lợi hành sư, ứng về nhà hậu Đường sao? Giải hào 9-2 săn được 3 con cáo, được tên nỏ sắc vàng biến mà Dự, bèn gói cái đầu tên ngụy Lương vào miếu, hoàn lại cái tên nỏ để tế vua sánh với tổ mà làm bản nhạc Sùng Đức, sau vua Đường Trang Tông chẳng là đẹp sao? Đoài không thường giữ đức hạnh, hoang tàn về tiền của, nữ sắc, chơi bời săn bắn, chỉ kiêu ngạo, chính trễ nải, quân dân lìa lòng, những bầy tồi cũ có công bỏ đi hết, sau bị tên hát chèo giết, bậc quân tử xấu hổ. Minh Tông già mà lên ngôi vua, con nối dõi không đổi hiệu nhà Đường, làm nhiều điều thiện, điều thô đến nỗi Tiểu Khang chẳng phải Hằng, lấy 1 đức tốt lập nên chẳng dễ ấy du! Theo đến Trời chưa sinh bậc Thánh, ứng vận mà ra, mở không đủ nói, bỏ lại khen gì, ở nhà Tấn làm chúa Khiết Đan sách lập nên, tôi con như chó dê, Tề Vương trọng người quý, Hoành Khiêu Ông dặn: 10 vận họ Hoành mài gươm, quẻ là Sư: trinh, trương nhân cát. Phụ nhân dịp đến cướp phá, theo như dùng sao? Nhà hậu Hán xưng Đế, lấy cớ thiên hạ không chủ, mà trước chính ngôi vua, tại vì bấy giờ quá Khốn mà cầu sống lại, chưa phải quân tử có Giải phụ ở chân chủ tiểu nhân, cha con được 5 năm, đi ẩn mất nước. Thiên tử thời Quách Vu trung tự làm đấy vậy, bỏ người hiền mà việc nước thường có nên việc đâu. Xét Thái tổ Quách thế Tông Sài Vinh cũng xưng là Ngũ Đại. 12 vua đến lệnh chủ mà suy tôn làm trị chủ lấy đạo cứu, thiên hạ từ đó thái bình, thời Ngũ đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu cũng tới trộm cướp nước tiến vua, không một mà đủ đều là ngón tay cái đó vậy, mà ngôi vua sao đóng vậy. Nhà Đại Tống dấy lên, vua Thánh nhân ra đời, chựu Cung Đế Quách Tông Huấn nhường ngôi, tước bỏ đi hơn 10 nước tiếm đoạt mà đêm lại hợp nhất. Đương lúc giúp nhà Chu bắt Hung Nô quy phục được Định Châu, lại phấn khởi đánh lấy Hà Bắc, ứng quẻ Vị tế dấy đánh, bấy giờ hạn có khen Thiên thủy Bích vậy (nước trên trời biếc). Thiên thủy là quẻ làm Tụng ở quân làm Đế phong Bích, Hỏa là đỏ vậy, Càn Khảm chủ đấy, tự Vi tế vào Tụng, đến Lý khiểm điểm Thiên tử chống phái võ nhân làm Đại quân (vua lớn) sao? Lý Đế chẳng bệnh lâu, theo đó để mà biết vậy. Lấy đức của vua chẳng như Càn, từ ĐƯờng, Lý đến Ngũ đại trải qua Khảm Giải đều 60 năm, ít gặp Cần đấy, đến đây thượng quái của Tụng là Càn đó, Hoán và Vị tế mà Khốn cũng chẳng lìa Tụng là Càn ở thượng quái, đời Thái tổ, Thái tông cùng Chân tông thẳng đấy, theo ở Nhân tông đến Anh tông, vận ở 10 quẻ thẳng làm Nhu, trong Nhu là Càn vậy, quẻ ấy gồm cả Vị tế Tiết thứ đều nội Càn biến, ngào làm Quải, Thái, Tiểu súc, hết thẩy Càn làm đó, cho nên đi vào rường cột của Càn một mình chính được đức của Vua tốt đẹp. Nhà Đại Tống từ đời Kiến long chựu mệnh Trời, đổi niên hiệu là Càn đức vốn đã là bậc Thánh làm vật thấy đấy hợp vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 10, quẻ của Vận là Đại quá đến Tỉnh (hào 4), quẻ của Thế chia quẻ Tỉnh ra: hào sơ Nhu, 2 Kiển, 3 Tập Khảm, 4 Đại quá, 5 Thăng, 6 Thuần Tốn. Vua Nhân Tông Triệu Trinh năm 1023, thẳng Nhu đến Tỉnh, trải qua Ký tế, Tiết, Quải. Vua Anh Tông Triệu Thử lên ngôi năm 1064, ở ngôi 4 năm ở quẻ Thái. Vua Thần Tông Triệu Tử lên ngôi năm 1068, ở ngôi 10 năm ứng quẻ Thái đến Tiểu súc, vào Tiểu đến Ký tế. Thiệu Ung ta suy Vận-Thế đến vua Hy Ninh, ứng quẻ Nhu đến Thái rồi thôi suy chưa kịp vậy!. Vua Triết Tông Triệu Tu bèn thẳng Kiển, tự Ký tế đến Tỉnh, vua Huy Tông Triệu Cát lên ngôi năm 1101 ứng quẻ từ Tỉnh mà Bĩ, mà Hàm, mà Khiêm, vua Khâm Tông thẳng Khiêm đến năm Bính Ngọ, Đinh Mùi, cả họ đi lên phương Bắc. Vua Khang Vương gây đi Kiển lại trở về, ứng Đại quá 9-4: gây tượng đống long là tốt lên ngôi vua (nhà tốt không quấy nhiễu ở dưới) vậy, nhà Tống bèn rời về phương Nam. Khiển, lợi Tây-Nam bất lợi Đông-Bắc. Đó là chứng cớ sao? Bấy giờ đương Khiêm, lợi dùng lấn đánh, lợi việc hành quân, sau đến hoa nghị, Đại quá trong Tốn mộc, vua Tống hòa với Đoài nhà Kim mưu diệt hỏa, đến Kiển, đến Tiệm, hai vua đánh phương Bắc không trở về, bỏ biên Đô đi xuống hay như dần dần như cái cột mà thôi, bây giờ kẻ trung tiết bị đuổi giết, ngoại Bĩ khen là hiền, mượn áo quan của vua ở cung Tràng Lạc để làm lời vâng biểu làm tôi phương Bắc, chính thẳng Khảm là quẻ phương Bắc, cho nên Thủy (nước) đấu trí khác, há chẳng lấy Tập Khảm đến lần nữa mà hãm mất ấy lớn du! Truyền ngôi vua Hiếu Tông quẻ lại ở Tỉnh, cháu 6 đời vua Thái Tổ mà nối ngôi theo đương Vận chủ quái. Trải Khốn mà Sư gồm 27 năm. Quang Tông bị kiềm chế bởi bà Hậu hung tợn mà trái vua Thọ Hoàng, Khốn hào 4 đến Khảm, trong hiểm ác mà mất thuận đức. Thà Hoán mà ruồng bỏ kẻ chính dùng người tà, thời có sự lo lìa chi giải thể, giặc lớn ấy lo, thiện nhỏ lại dùng gì, Quải cùng Hàm lấy cảm vậy. Vua Lý Tông 40 năm chủ Khốn, Tỉnh, Hằng, Cấu, bấy giờ dân đang khốn vì bọn phản loạn. lại khốn về hợp Nguyên đánh Kim, Kim mất thời ứng vào quẻ “kim xa”, đổi ấp mà không đổi Tỉnh, Lâm an hỏa 83 vạn dân bỏ ấp là nước đổi vậy, mà Tỉnh cong đấy, vả Tỉnh gồm Đỉnh, Cách đều tượng Hỏa hoặc theo ứng vậy. Hằng chẳng đổi phương như Tốn dùng chính hỏa. Can Ân tự xuống lấy kẻ tiểu nhân dùng vào việc, thời bấy giờ tượng ứng Càn Nguyên, phong tục đi như gió khắp thiên hạ, hoặc lấy khí trắng như tấm vải phô bầy khắp Trời cũng là Cấu tượng vậy. Tốn là trắng, phô bầy ở Càn trời khí âm phạm lên trên, Hốt Tất Liệt phô bầy vậy. Vua Độ Tông Triệu Kỳ thẳng Tỉnh đến Thái, Thăng, trong Tốn mộc ứng nhà Tống biến mà Càn nguyên Mông Cổ dựng quốc hiệu là Nguyên kỷ nguyên là Chí nguyên, là có lấy vậy. Bấy giờ, đạo Thái ứng Nguyên mà vận Tống bèn mất, vua Cung Đế Triệu Hiển đương thẳng đến Khiêm, trong Tốn biến Cấu, trẻ con không ngôi, chẳng phải chẳng có Kiển như kẻ bầy tôi không đoái hoài đến lợi hại 1 thân, ứng với Khảm hào 3 vào hố sâu, cũng chết theo vua chết đuối ở biển, há chẳng phải trời vậy thay! Thời này, nhà Nguyên trải 9 vua, thẳng Thăng đến Sư, Hằng, Tỉnh, Cổ gồm cả trước Thái, Khiêm làm 6 biến, lại Tốn đến Tiểu súc dẫn Hoán, Cấu, Cổ gồm biến vận Nguyên đến lúc hết. Bấy giờ, đất động, núi lở, sao Chổi, mưa đá các sự biến lạ luôn thấy. Vì lấy vận đang Đại quá, quẻ Thế chia Tỉnh, thẳng Tỉnh đến Thăng, như Khôn địa tiếp Chấn, thẳng Tỉnh đến Tốn hỏa trạch thay đổi nhau Cách, trong khoảng ấy như sấm gió núi chằm, trời trăng cùng nước lửa, suốt tiết mất Hằng, Độn thấy đổ nát, hết thẩy cùng với Hội ứng. Cách chủ cách mạnh, Tốn sơ biến đến Tiểu súc, lại thẳng Càn đạo đến Cách trung đắp đổi thành Ly, họ Chu nhà Minh đương ngôi, lại theo Đại minh sao? Đương chấn hưng Cổ sấm động bão nổi đổi nhau bèn ứng Hằng, trời trăng soi lâu, mở nhà Đại minh 18 vua gồm 277 năm ngôi nước, ban đầu thời vua Hồng Vũ Tốn lợi võ trinh, sáng trí trị vậy, biến mà Tỉnh nuôi không cùng, dân dùng khuyến khích cái tưởng mà Vận thứ 10 Đại quá đến Tỉnh, quẻ biến đã khắp vòng, này ở đời Hồng võ thứ 16 năm Quý Hợi, từ đó đến Giáp Tý lại đang Đại quá đến Hằng vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 11, quẻ của Vận là quẻ Đại quá đến Hàng (hào 5). Quẻ của Thế chia Hàng hào Sơ Đại tráng, 2 Tiểu quá, 3 Giải, 4 Thăng, 5 Đại quá, Thượng Đỉnh. Năm Hồng Võ thứ 7, thẳng Hằng Đại tráng hào Sơ, lại làm quẻ Hằng, Hằng lâu làm Nhật Nguyệt được tượng trời trinh minh. Phong trời Nhật giữa Nguyệt đầy, hoặc vui ăn cơm số trưa. Năm Kiến Văn thứ 4 chẳng chọn Vĩnh Lạc thẳng Quy muội đến Thái, vua đời Hồng Dy, Tuyên Đức Quải mà Đại hữu, chính thống thẳng Đại hữu đến Bính Thìn, đến Hằng, Tiểu quá đến Phong mà có biến thể mộc, Cảnh Thái bèn thay Hằng đến Đinh Sửu mà lại lên ngôi vua vậy, đổi niên hiệu là Thiên Thuận, thể quẻ là Chấn Tốn đổi Càn, Càn thiên Tốn thuận Chấn lại làm chủ tể mà Hằng không đổi phương, vốn là tượng vậy, đời Thành Hóa Dự Khiêm mà Hàm đời Hoằng Trì, Hàm Lữ mà Giải đến Quy muội. Đời Chính Đức từ Quy muội đến Bính Dần, rồi Dự đến Tân Tị gia Tỉnh thời Dự mà trải Hằng, Sư, Khốn, Vị tế lại vào Đỉnh đến Thái vậy, đời Long Khánh đi Thái 6 năm, vua Thần Tông lại đi Khiêm, Sư, Hằng, Tỉnh, đến dùng Cổ gồm 48 năm, đời Thái Xương, đời Thích Khởi Cổ, Tỉnh, Đại quá đến Quải cộng 8 năm, Quải mà sau Hàm, đời Sùng Trinh là hết vương triều Minh từ 1364 – 1644, thời Đại minh chiếu lâu, nhật nguyệt phản ảnh trong khoảng giữa Đoài Càn đều dùng cương che lấp, tĩnh dưỡng chẳng cùng, Hằng lâu mà chẳng thôi, cảnh vận lâu so sánh 1 với Trời, ức vạn năm dài phúc lộc vậy.

Lấy Vận kinh Thế chia quẻ thẳng Năm, lời bàn sau đồ đã rõ ràng. Nhưng quẻ về kinh Thế có chỗ không đồng nhau, người nghiên cứu cần biết “ngung phản” (ngung là 1 cạnh của hình vuông, biết 1 cạnh thì xét được 3 cạnh còn lại). Như đồ nay chép đời Nghiêu năm Giáp Thìn, vốn ở Kỷ 6 Hội Quý 180 Vận, là đời thứ 8 năm Giáp Thìn, những Giáp Tý trở về trước thì lược đi mà không chép, tức là đây lấy Giáp Tý Thế thứ 7 cũng chẳng bầy rõ, chia hợp 2 Thế làm 1 Giáp Tý, chia gặp vận quái 1 hào, như Thế là vận quái thuộc Càn, Thế quái Sơ Cấu, 2 Đồng nhân, 3 Lý, 4 Tiểu súc, 5 Đại hữu, 6 Quải, đấy là Thế thứ 8 khởi Giáp ngọ, tức là từ Giáp Tý Thế thứ 7 khởi, hợp thành Tiểu súc 1 quẻ, thời từ Tiểu súc khởi Giáp Tý thuận tính đồ tròn Phục Hy, vẫn nên trừ ra Càn Khôn Ly Khảm quẻ tứ chính, cộng được 60 quẻ Giáp Thìn chính đương quẻ Tùy, cho nên lấy quẻ Tùy làm trực niên quái vậy. Như Thế thứ 90 quẻ của Thế là Đại hữu, lại từ Đại hữu khởi Giáp Tý 11, 12 Thế quái, lại ở quẻ quái đó khởi Giáp Tý. Niên quái đã được, thì Nguyệt quái, Nhật quái cũng đều theo đó mà suy vậy.

HẾT QUYỂN 2

QUYỂN 3

LỜI TỰA

Xưa nay, sách làm sáng tỏ Đạo có Kinh dịch và Thiên Hồng phạm, vì 1 gốc ở Hà đồ 1 gốc ở Lạc thư. Hà đồ Lạc thư vốn liên hệ tượng dĩ nhiên của Trời Đất, hai đồ vuông tượng đất, đồ tròn tượng trời, mà trời có thể bọc được đất, đất không thể tóm được trời. Cho nên Thiệu Khang Tiết truyền cái học Tiên thiên, suy diễn nghĩa đồ tròn mầu nhiệm, viết thành sách Hoàng Cực Kinh Thế, lấy ngày Đông chí, nửa giờ Tý làm giờ Thiên khai, tự đó lấy đến Khôn, trừ 4 quẻ chính Càn Khôn Khảm Ly, lấy 60 quẻ làm 1 Nguyên, trải 12 Hội. Lại lấy 1 quẻ biến 6 quẻ, 60 quẻ biến 360 quẻ trải 360 Vận. Lại lấy 360 x 6 hào biến thành 2160 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới hai đời trải 4320 đời. Lại lấy 2160 x 6 hào biến thành 12960 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới 10 năm trải 129600 năm. Lại khởi Vận quái, lần lượt suy thuận làm quẻ trực niên, mở Vật ở Dần đóng Vật ở Tuất, mà trên suy đời đã qua, dưới ngược đời tương lai, chẳng gì là chẳng rõ ràng như trên bàn tay, trăm đời đức Thánh có thể biết được nghĩa ấy. Lại lấy 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn làm mặt Trời, mặt Trăng, các vì Sao làm âm dương thái thiếu của thời (tức là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương). 4 quẻ Khôn-Cấn-Khảm-Tốn trước làm thủy-hỏa-thổ-thạch, sau làm cương-nhu-thái-thiếu của đất. Thanh sướng lên ở trên Trời, âm họa lại ở dưới Đất, được gọi là xem Vật, mà âm dương tiêu trưởng của trời đất, biến hóa sinh thành của Người và Vật, bên trong là then máy của thân-tâm-tính-mệnh, bên ngoài là kinh tế về tu-tế-trị-bình, lớn rất mực là việc trị loạn hưng suy của các bậc Hoàng-Đế-Vương-Bá, nhỏ thì đến cỏ, cây, cá, sâu bọ sinh ra, khô đi tươi tốt rụng đi đều không thể vượt qua phép này. Trình Tử suy tôn Thiệu Tử có cái học trong Thánh ngoài Vương. Lưu Đẩn thuật được Hoàng Việt Châu chú thích, diễn làm Tự ngôn, trong thiên dẫn lời của Chúc thị Bật và Chu Ẩn Lão, lời nào cũng tinh diệu rất mực phát minh cho nhau, trọng về lý mà tin dùng về số. Trong thiên suy ngôi vua nhà Hán dài ngắn với đồ thanh âm sướng họa, sau cử lên một chữ “thiếu” để phát mimh cái phàm tục như thế là lý vậy mà nói việc đều ngụ ý ở trong, tiếc chưa tuyên bố rõ ý niệm về sự bí mật của Trời Đất cố nhiên không muốn tiết lậu ra khiến cho kẻ hậu tiến được nhìn cửa mà lao bước tới. Khi tôi còn búi tóc đi học, đã được nghe danh tiếng sách Hoàng Cực, khổ nỗi không tiền mua mà đọc, đến năm Mậu Ngọ mới được thấy bản sao, phủ phục mà đọc, tìm tòi ý nghĩa sâu xa, vì rộng mênh mang không thể được trong muôn một vậy, rồi thì đưa gấp vào bản khắc in, bấy giờ là mùa Thu năm Kỷ Mùi, mà tôi tuổi đã tới 60 rồi. Xưa còn nhỏ mà tập, cố sức học vài chục năm, hoặc vị tất chẳng được gì, tiếc lắm thay. Nay thuật lại nghĩa ấy, lấy Càn Khôn làm Đại phụ mẫu từ hữu sang tả, trở lại lấy quẻ Phục Cấu làm Tiểu phụ mẫu từ tả sang hữu chuyển đi cũng chỉ nắm lấy cái cốt yếu lớn mà đến chỗ sở tại tinh vi, chẳng dám phỏng đoán là lời nói vậy.

QUYỂN 3

Lấy Vận kinh Thế đã đủ, lấy Hội kinh Vận ở trước đã bầy rõ ràng. Lại chia Niên quái ở 6 Giáp, thay đổi vòng khắp ở dưới, cất lệ để thấy, chia thẳng để dùng tế nhị vậy. Bầy 1 Hội thâu tóm 5 quẻ, mỗi quẻ đều 6 hào chia làm 6 Vận lấy làm Kinh, thông 5 quẻ có 30 Vận. Tiếp tục, 1 Vận nhỏ chia theo 6 quẻ, đều theo hào ở 6 quẻ biến, làm 1 hào quản 10 năm, 30 năm làm 1 Thế, 3 mà 2 đấy, thì 60 năm làm Thế ấy, 2 lần khắp 1 Kỷ 6 Giáp, 3 Giáp trước gồm Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, 3 tuần Giáp này chia trước, 3 tuần Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần, làm 3 Giáp chia sau, 3 Giáp trước và sau, mỗi 1 Giáp tương đương với 1 hào thẳng quẻ đến 10 năm.

Lấy Giáp Tý-Giáp Ngọ làm đầu của 1 Thế, Quý Tị-Quý Hợi làm cuối hết của Thế, 1 Vận 6 quẻ thâu tóm 12 Thế, ứng với 6 hào là 60 năm, vòng Trời đi 360 làm 1 Vận số, cho nên Vận lấy Thế làm Vỹ (dọc), Thế lấy Vận làm Kinh (ngang). Lấy Vận Kinh Thế, quẻ của Thế thâu tóm quẻ của Vận mà năm làm Thế dọc (vỹ), quẻ của năm lại thông suốt trong quẻ của Thế vậy. Theo quẻ của Thế nhất nhất suy đấy, thì quẻ của Năm theo có thể biết hết vậy. Lấy đó mà cân Nguyệt Nhật thì chia thẳng dùng quẻ, cũng không có gì khác vậy. Điều cốt yếu lớn, 1-6 làm Kinh (ngang), 6-6 làm vỹ (dọc), 6 gồm 3 tài mà lại 2 đấy, 6-6 thì gồm sách số của Càn-Khôn mà bằng đấy, theo xét vậy, 1 Vỹ về Kinh, Kinh về Đạo.

Lấy Vận kinh Thế dùng 1, Thiên quan Vận thứ 27

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, Kinh Hội dùng Tị 6

Kinh Vận dùng Quý 180

Kinh Thế dùng Tý 2147

Kinh Thế dùng Ngọ 2155

Kinh Thế dùng Mùi 2156

Kinh Thế dùng Thân 2157

Kinh Thế dùng Dậu 2158

Kinh Thế dùng Tuất 2159

Kinh Thế dùng Hợi 2160

Đây bàn về Hội Tị, Vận thứ 30, thẳng quẻ Quải đến quẻ Càn, gồm có 12 Thế, theo quẻ của Thế chia ra quẻ Càn hào sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiếu súc, thì từ đây khởi Tiểu súc đến Giáp Ngọ, thời vừa ở Càn trước 3 hào quẻ theo thẳng kể 180 năm gồm cả gốc quẻ Tiểu súc trước 3 quẻ theo thẳng kể 30 năm, đều lược đó không rõ làm hàng, đời Đường Ngu trở về trước hoang xa không chép, kinh Thế quan Vật xem 1 Trời Đất mà về xem ở Người, Người tất theo Thế (đời) giữ Vật sáng đủ trị loạn hưng suy, có dấu vết mà có thể thấy để chia mà xem. Cho nên bắt đầu ở Tiểu súc Giáp ngọ, vì đương đạo của Càn bèn Cách mà văn đức tất rõ ràng chiếu sáng ở ngay trong Kinh Thư trị xét vậy, đầu Dịch là Càn, đầu Kinh Thư là Nghiêu, Thiệu ta theo Càn, chí ấy nên suy từ hào 4 quẻ Càn biến ra Tiểu súc, chia biến làm Vận nhỏ dùng Tiểu súc hào sơ biến Tốn, hào 2 biến Gia nhân, hào 3 biến Trung phu, mỗi quẻ đều quản 10 năm, thì Giáp Ngọ 30 năm thẳng quẻ Càn, Giáp Thìn 30 năm thẳng quẻ Đại súc, đó là chia Thế quái trong dùng 1 lại chia Càn dùng Tiểu súc, lại Tiểu súc dùng Càn mỗi 10 năm thẳng 1 hào, 6 lần 6 hào vị thứ lần khắp, 6 Giáp đó vậy. Đồ của năm Giáp Thìn đời Nghiêu chia thẳng quẻ Tùy, đó là theo quẻ Tiểu súc chia quẻ Càn hào 4, lần lượt 60 quẻ, thứ đang đến (tri lai) cầu đấy, tức là được theo thẳng Năm làm quẻ gì, như Giáp Tý quẻ Tiểu súc, Ất Sửu quẻ Đại tráng, thuận thứ tự tính, đến Giáp Tuất quẻ Cổ, Giáp Thân quẻ Hàm, Giáp Ngọ quẻ Dự, Giáp Thìn quẻ Tùy vậy. Giáp Dần đến Quý Hợi tích Tốn đến Nhu, bèn cuối cùng Tiểu súc 60 năm, quẻ theo trực chia xem theo ứng, nên có “tiết tuyên” trong khoảng Trời-Người ấy. Do đó, chia Càn dùng 5 Giáp Tý khởi Đại hữu, chí Càn dùng thượng Giáp Tý khởi Quải, hàng năm theo thứ tự đi 6 Giáp, ứng với từ Nghiêu đến Thuấn, Vũ chựu mệnh ăn theo quẻ trực niên nhất nhất khá tìm. Khi xem ở dĩ vãng, khá lệ việc tới nay, cất 1 góc lên, khá biết trăm biến, Thiệu ta ước lược thấy ở đồ, theo bảo ở sau cho kẻ đọc điều cốt yếu vậy. Tuy vậy ông Trương tử hỏi 10 Thế có thể biết được không? Đức Phu tử bảo lần lượt lấy Hạ, Ân, Chu cái lẽ cùng nhân chẳng biến, cùng Tổn-Ích thông biến, việc dùng nên cho dân chúng, vì chứng cứ theo lý mà chẳng phải suy ở số vậy. Tuy số ở đó khá có kẻ cứu cũng còn nói đại khái vậy. Lại xét vua Nghiêu được “số trung”, giữ đạo “trung” làm phép muôn đời, khi trao cho cử 4 tháng Trọng, 2 ngày Chí, 2 ngày Phân, đều căn cứ lấy theo “trung” để định niên quái, gây dựng ngôi ở Bình dương từ quẻ Tùy đến Cách, trị trải thì sáng sủa, thử như kính trao việc sửa sang công nghệ dấy lên mọi việc thành vậy, như thế thì nói Hoàng cực đại trung. Ở dùng lý lẽ lịch luật, phép lại càng rõ ràng chủ mật vậy. Chu thị Ẩn nói rằng: Thần ấy là Trời Trăng theo hợp chia độ vòng trời 12 thứ vậy, 28 vị tú thứ tự mà ở. Thần chia làm 4 thì mỗi đoạn là 3, Mộc Hỏa Kim Thủy đều có 2, mà mình Thổ có 4 tự theo làm nói đấy vậy. Tự chia làm 4, thì mỗi đoạn có 7 sao, năm hành đều có 2 cùng mặt Trời mặt Trăng một mình đều theo 1 tự theo ở nói đấy vậy. Lấy Sao (tinh) để nói, Kim Thủy thời có trước mặt Trời mà mọc, sau mặt Trời mà lặn đó vậy, song sao Kim Thủy thường gần mặt Trời mà đi. Sao Mộc Hỏa thế thời có 12 năm một vòng, 2 năm một vòng, 28 mà bắt đầu một vòng. Gần mặt Trời thường nhanh, xa mặt Trời thường chậm, cách mặt Trời càng xa thì lại có cái thế hết thường lưu lại. Tùy theo đến, đều lấy theo biến để cầu, có thể nhanh hoặc chậm cùng giữa nhanh chậm đều khá được mà khảo cứu, lấy mặt Trăng mà nói thì xanh, đỏ, trắng, đen theo Đạo đều 2, cùng với Hoàng đạo mà 9, 9 mà 8 đấy làm 72 đạo, tùy theo chỗ đến, lấy theo mỗi biến cầu đấy, thời hoặc nghiêng hoặc ngay thẳng, cùng giữa sự tà chính, đều theo đó để khảo cứu. Lấy mặt Trời mà nói thì Đông-Tây-Nam-Bắc, theo đạo đều khác, cùng với xích đạo cùng giao, giao mà biến làm 2, đến 2 phần, tùy nơi chỗ đến, mỗi nơi chỗ đến lấy theo biến để cầu, hoặc dài lâu hay ngắn, cùng giữa dài ngắn, đều theo đó mà khảo cứu. Theo nơi chỗ Tứ trải phương theo đi, dẫn mối ở ban đầu, cất chính ở giữa, về lại ở sau, mà 4 mùa thành vậy, đó là việc theo lấy dấy lên. Lịch pháp thời Nghiêu, không hẳn còn đến nay, mà cái lý chưa thường chẳng còn. Ngoại thiên, Thiệu ta đã nói rõ, cho nên ở đây chỉ nói qua mà thôi. Ta xem Tam Hoàng mà ngâm rằng: Càn Khôn to lớn từ ta tuyên ta; Ngoài Càn Khôn còn nói gì nữa; Ban đầu chia đạo lớn chẳng phải đạo thường; Đầu có Tiên thiên cuối có Hậu thiên; Làm phép vi diệu Khí xem thấy dấu vết; Thu cộng rất lâu dài chẳng biết năm nào; Nếu khiến người trên đời bàn cộng nghiệp; Liệu được lại không có người ở trước. Ta xem Ngũ Đế mà ngâm rằng: Tiến lui chựu xem thiên hạ nhường cho nhau; Tỏ nói năng gì dường như vẻ ung dung; Nơi áo xiêm rủ xuống thời uy nghi thịnh; Theo sửa ngọc lụa ý tứ cung kính; Mọi vật hết thẩy noi theo chí lý; Người người tự xin lập công lạ; Bấy giờ tỏ sao được như thế; Chỉ bởi tiếng tăm giống như giữa mặt Trời.

Trang thị Hành Thành bảo: Niên quái từ đời Nghiêu năm Giáp Thìn khởi quẻ Thăng, Mông, Cổ, Tỉnh, nhưng Chúc Thị thì so bì hết sức cho là không phải, bảo là Thế quái làm Thủy Hỏa Ký tế hào 5-6, hợp với Sơn Hỏa Bí hào Sơ hào 2 làm Thiên Hỏa Đồng nhân, Lôi Hỏa Phong, Sơn Trạch Tổn, Sơn Địa Bác, 4 quẻ biến niên quái được Hỏa Thiên Đại Hữu, lấy Ký tế hợp Đại hữu, ở đồ Ký tế làm Vị tế, Tấn hợp quẻ làm … quái, hay lấy chứng nhân chính, có thể lấy vương vậy, theo vạn vật như thế lại nói: thế quái thì vua Nghiêu, ban đầu biến Đồng nhân, theo bảo rằng cùng với người mà không có ta, cho nên lấy Đồng nhân tương đương với quẻ Thái vậy. Xét Trương thị Hành Thành trở xuống theo bàn đến thấy ở đồ hậu thuyết trung phụ lục lại sẽ đính.

Lấy Vận kinh Thế dùng 2, Thiên quan vận thứ 28

Kinh Thế dùng Giáp 1, kinh dùng Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Giáp 181,

Kinh Thế dùng Tý 2161, kinh Thế dùng Sửu 2162

Kinh Thế dùng Dần 2163, kinh Thế dùng Mão 2164

Kinh Thế dùng Thìn 2165, kinh Thế dùng Tị 2166

Kinh Thế dùng Ngọ 2167, kinh Thế dùng Mùi 2168

Kinh Thế dùng Thân 2169, kinh Thế dùng Dậu 2170

Kinh Thế dùng Tuất 2171, kinh Thế dùng Hợi 2172

Đây là Hội ngọ Vận thứ 1, thẳng Cấu đến Càn là 12 Thế, khởi từ vua Hạ Vũ năm thứ 8 Giáp Tý quẻ Cấu, đến vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12 Quý Hợi quẻ Đại hữu, gồm 360 năm. Niên quái từ quẻ Cấu, lần lượt thứ tự tính thuận số thẳng 6 vòng 6 Giáp, như theo thứ tự rằng: việc ứng thì theo Vận, chia Thế theo Thế, chia năm Đại quái Tiểu quái đều có theo, chủ ở thâu tóm mà xem, chuyển quẩn lạc đấy, kẻ đọc không nên câu nệ. Thiệu ta xem Tam Vương ngâm rằng: Một mẳnh Trung nguyên hơn vạn dặm; Không phải người đủ đức theo ở nhà Hạ; Nhà Thương chỉnh sóc hay còn rộng ra; Vua Thang, Vũ giáo mác chưa tiện dong duổi; Trạch Hỏa có tiếng mới chựu Cách; Thủy Thiên không ứng chẳng thành Nhu; Biết rõ nhân-nghĩa làm lòng ấy; Không chựu là thiếu Trượng phu ở nhân gian.

Lấy Vận kinh Thế dùng 3, Thiên quan vật thứ 29

Kinh Nguyên chọn dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Ất 182.

Kinh Thế Tý 2173, Thế Sửu 2174, Thế Dần 2175, Thế Mão 2176, Thế Thìn 2167, Thế Tị 2178, Thế Ngọ 2179, Thế Mùi 2180, Thế Thân 2181, Thế Dậu 2182, Thế Tuất 2183, kinh Thế Hợi 2184.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 2, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Độn gồm có 12 Thế, khởi từ vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12, năm Giáp Tý quẻ Độn đến Đồng nhân, đến mãi đời vua Tổ Tân năm thứ 9, năm Quý Hợi, trải Giáp Tý 6 Kỷ 360, trong thời gian này thì trị, loạn, hưng, vong đều dùng theo Thế quái để chia niên quái dùng thẳng, đại khái đều theo phép trước để mà tìm.

Lấy Vận kinh Thế dùng 4, Thiên quan vật thứ 30.

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Bính 183.

Kinh Thế dùng Tý 2185, dùng Sửu 2186, dùng Dần 2187, dùng Mão 2188 dùng Thìn 2189, dùng Tị 2190, dùng Ngọ 2191, dùng Mùi 2192, dùng Thân 2193, dùng Dậu 2194, dùng Tuất 2195, kinh Thế dùng Hợi 2196.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 3, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Tụng gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tổ Tân nhà Thương năm thứ 10, từ quẻ Tụng đến Lý, đến mãi Văn Vương nhà Chu chựu mệnh làm Tây bá, quẻ năm Quý Hợi vẫn thẳng quẻ Tụng, gồm 360 năm, trong thời gian này khảo xét mà xem có rất nhiều nghiệm ứng, như Văn Vương niên quái thẳng Cổ, bị tù ở Dữu lý, đến quẻ Tụng thời cho dùng cung tên chuyên việc đánh dẹp, vị tất chẳng phải Đai lớn chựu mặc ở Tây bá, mà suốt buổi 3 lần cởi áo, ứng vào việc đánh nước Sùng vậy. Quẻ Minh di, Tụng theo lời Thoán mà rằng Văn Vương làm đấy. Có kẻ vảo rằng: Dịch như mặt Trời, mặt Trăng ở trên Trời, sáng ứng ở dưới Đất, xem theo đối sáng, không có gì mà chẳng hợp vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 5, Thiên quan vật thứ 31

Lấy Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Đinh 184.

Kinh Thế dùng Tý 2197, dùng Sửu 2198, dùng Dần 2199, dùng Mão 2200, dùng Thìn 2201, dùng Tị 2202, dùng Ngọ 2203, dùng Mùi 2204, dùng Thân 2205, dùng Dậu 2206, dùng Tuất 2207, kinh Thế dùng Hợi 2208.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 4, thẳng quẻ Cấu đến quẻ thuần Tốn gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu Văn Vương Giáp Tý quẻ Tiểu súc đến đời U Vương năm thứ 4 Quý Hợi quẻ Tốn là 360 năm, việc trong thời gian này có thể kê cứu theo càng dễ chứng thực, đó là Tiểu súc, mây dầy đặc mà không mưa từ Tây giao ta, cùng với quẻ Đại quá, ông già, kẻ sỹ, vợ qua lấy lời cùng giống nhau, như Văn Vương thờ vua Trụ nhà Ân, vua U Vương yêu nàng Bao Tự vậy, những việc khác có thể đại khái vậy.

Lấy Vận kinh hế dùng 6, Thiên quan vật thứ 32

Lấy Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Mậu 185

Kinh Thế dùng Tý 2209, dùng Sửu 2210, dùng Dần 2211, dùng Mão 2212, dùng Thìn 2213, dùng Tị 2214, dùng Ngọ 2215, dùg Mùi 2216, dùng Thân 2217, dùng Dậu 2218, dùng Tuất 2219, kinh Thế dùng Hợi 2220.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 5, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đỉnh gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu U Vương năm thứ 5 Giáp Tý đến Chu Uy Liệt Vương năm thứ 8 Quý Hợi quẻ Đỉnh gồm 360 năm. Trong thời gian này, bậc Vương giáng xuống bậc Bá. Xét Cấu hào 5 biến Đỉnh là Trời đất cùng gặp, cương gặp hào trung chính, vậy còn Càn hào 5 làm thành Vật thấy cùng Tượng mà Đỉnh Nguyên cát, hanh, hưởng đức Thượng đế nuôi Thánh hiền để lấy ngôi ngưng mệnh là khá vậy. Từ Đỉnh mà đến Cổ, cương trên nhu dưới, khắp vòng Trời đi trước Giáp sau Giáp, quẻ trọn thì có ban đầu, nên có việc làm chấn hưng lòng dân, nuôi đức ở Thời ấy. Sao bậc vương giả không thấy dấy lên, chỉ thấy Ngũ bá ganh đua dài mà đương đấy. Lúc bấy giờ đức Khổng tử là Tổ Vương sinh năm Canh Tuất đời Chu Linh Vương, ứng quẻ Ích thẳng đến Cấn, đến Đỉnh, đến Cổ, niên quái năm sinh lại thẳng Lý 1 thân mình, đủ đạo Hoàng, đức Đế, công Vương, mà lại Tỉnh nên sức lực Bá, mà tiến lui công hay tội đây. Cho nên đời Xuân Thu dẫu có chép nhiều việc Bá, thẳng đấy Cổ mà phản dùng trị, mà làm Tam tài Đỉnh cao trót muôn Vật, nhà đều văn võ. Thiệu ta xem Ngũ bá ngâm rằng: Ý riêng biết tôn danh, danh càng thiếu; Người người đều chạy mệnh chẳng xiết nhọc; Dàn gươm giáo sinh hoạt trong rừng; Đạo công của cải lại vào trong bụng; Dẫu thời còn hưởng sống hay yêu lễ; Nài sao Phượng hót chưa về chầu; Nhà Đông Chu trong hơn 500 năm; Than tiếc thời ấy một ông Trọng Ny! Thiệu ta lại ngâm Trọng Ny rằng: Trọng Ny sinh ở Lỗ trước ta; Cách đời Thánh hơn 1 ngàn 500 năm; Nay nay ai hay biết còn đạo ấy; Bấy giờ người ta tự ví với Trời; Hoàng, Vương, Đế, Bá làm chủ Trung nguyên; Cha con, vua tôi quyền muôn đời; Sông Hà không ra đồ ta thôi vậy; Ý tứ sửa kinh há thôi sao?

Lấy Vận kinh Thế dùng 7, Thiên quan vật thứ 33

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Kỷ 186

Kinh Thế Tý 2221, Thế Sửu 2222, Thế Dần 2223, Thế Mão 2224, Thế Thìn 2225, Thế Tị 2226, Thế Ngọ 2227, Thế Mùi 2228, Thế Thân 2229, Thế Dậu 2230, Thế Tuất 2231, Thế Hợi 2232.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 6, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đại quá, gồm có 12 Thế. Khởi từ Chu Uy Liệt Vương năm thứ 9 Giáp Tý quẻ Quải đến Hán Tuyên Đế năm thứ 6 Quý Hợi quẻ Quải gồm 360 năm. Chu bị Tần giết, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán giết, ứng cung Gióc mà không khỏi trước sau bị suy yểu, cái hung lên quá cao, thường luôn thấy như vậy. Tần bạo mà giệt Chu nhân, Hán nhân mà giệt Sở bạo, đương chia sự kéo dài và rút ngắn, theo đó mà biết. Nói rằng: Tần giết Bá vào Dịch, Hán bá gần được là Vương. Phu Chúc thị Bí nói: Dương Hùng lấy 3 thống lịch, nghĩ Mạnh Hỷ làm ra Thái nguyên đều biết ngôi vua của nước ở pháp ngôn cuối rằng: Hán dấy 210 năm, mà Tiên thiên thời ấy biết nhà Tần không thể làm mất Hán, còn có số Hậu thiên Quang Vũ dựng lại hơn 200. Lấy số mà xét, Hán Cao Tổ lấy từ Thìn 2225 đến Ngọ 2227, mà vào cửa quan qua Giáp Ngọ vào Thìn đến Mùi 2228 mà làm Vương ở Quan trung, Thế quái được Vận dùng Thế, dùng Nguyên, dùng Thế Ký tế hào 9-5 lấy quẻ Ký tế xét đấy số 12597 ức 1200 vạn không có số nhân, lấy Hội chia ra 13 ức 9978 vạn trừ đi được 900, ôi âm dương hợp nhau mà thành vật, chiết 900 mà nửa đấy được 450, đó là Hán được hưng ngôi Vua. Ở trong trừ Nhuận mỗi 19 mà trừ 1, giảm đi 34 năm, tức là số năm của hai nhà Hán là 426 năm vậy. Thiệu ta xem 7 nước ngâm rằng: Đương lúc đường cùng, chuộng dọc ngang; Vốn không nghe lời nói nhân nghĩa; Khương bảo phá Tề còn tức Mặc; Hay thắng Hàn Triệu hết Tràng bình; Buổi sớm còn thấy chưa làm quái; Ngày Trăng giết người sao đủ sợ; Tô Tần Trương Nghi múa 3 tấc lưỡi; Chẹn họng cái thế không cầu sống. Xem nhà Doanh Chính ngâm rằng: Oanh oanh 7 nước chính chen 1 mưu; Lợi hại cùng mài chưa bèn thôi; Số đến một lòng mạnh địch; Như bốn biển máu trôi ngang; Ba ngàn khách đương thành giấc mơ; Trăm hai núi công lại biến đổi; Chớ nói bãi hầu hay để giữ; Triệu Cao vốn không phải để phong hầu.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 7, thấy Đại qúa đến Quải gồm 12 Thế vậy. Khởi từ Hán Tuyên Đế năm thứ 17 Giáp Tý quẻ Quải đến quẻ Đại quá năm Tấn Huệ Đế năm thứ 14 Quý Hợi gồm 360 năm. Trong thời gian này, Tây Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, Tào Man cướp ngôi nhà Đông Hán, Tư Mã Chiêu lại cướp ngôi nhà Ngụy, giặc làm loạn (loạn tặc) nối tiếp gét nhau đều ứng vào quẻ bói “có quân không hiệu lệnh, duy gốc ngọn đã yếu, nóc nhà suy yếu, mất việc giúp đỡ, quên kính sợ đến thương xót, bèn kịp đến hung”. Xét đấy, thời Mãng, Thác, Chiêu, Viêm, cũng đều như cành khô nở hoa, sao có thể lâu dài được. Ở ngôi vua nhà Hán trước sau hai lần dấy lên, còn kéo dài yên một mình ở Tây Thục, sau chót làm chính thống, thời Tiêu Vương lại dựng lên ở Đời giữa, mà nhờ dùng cỏ tranh trắng, lại có tài vương tá từ nơi nhà tranh ra vậy, thứ đến quá niên nhất nhá khá tường. Thiệu ta xem 2 nhà Hán ngâm rằng: Nhà Tần phá non sông chiến trường cũ; Có hẹn đâu dân lại thấy làm ruộng trồng dâu; Chín ngàn lại đâm mở mang bờ cõi; Hơn bốn trăm năm sưng hiệu Đế vương; Bóc mắt đã gặp Mãng và Đổng Trác; Sửa sang chín không nghĩ đến vua Cao Quang; Bấy giờ vạn vật thịnh như thế; Thành lại bởi đâu từ ao cạn; Thiệu ta xem Tam quốc ngâm rằng: Ầm ầm chân vạc dậy tiếng sấm; Xướng to chỗ tìm được tung tích; Nhạc một phương tình chưa nổi tiếng; Đao cung muôn dặm sức khó dùng; Bàn việc bình ở Long Thạch thà không ý; Ngựa uống nước sông Hà có lòng sông vậy; Tuy rằng thời Trời cũng việc người; Ai biết ngoài việc lo mất vàng. Thiệu ta xem Tây Tốn ngâm rằng: Tiếp được bình trị hãy còn lo; Yên mà quên lo chẳng phải hay; Tài ngoài nhà nói mát nhã nhặn; Chim muông ấy việc cách phong lưu; Có dao khó mổ bụng Công Sứ; Không cấy sao được đầu nguyên Hải; Một câu vạ ở đình Tịch dương; Lộn cửa Đông kêu sóng và vũ; Theo bảo Công sứ là Giả sung; Tên tự Nguyên Hải là Lưu Uyên đó.

Lấy Vận kinh Thế dùng 8, Thiên quan vật 34,

Kinh Nguyên Giáp 1, dùng Hội Ngọ 7,

Kinh Vận dùng Canh 187

Kinh Thế Tý 2233, Thế Sửu 2234, Thế Dần 2235, Thế Mão 2236, Thế Thìn 2237, Thế Tị 2238, Thế Ngọ 2239, Thế Mùi 2240, Thế Thân 2241, Thế Dậu 2242, Thế Tuất 2243, Thế Hợi 2244.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 8, thẳng quẻ Đại quá đến quẻ Hàm gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tấn Huệ năm thứ 15 Giáp Tý quẻ Hàm đến Cách vua Đường Cao Tông năm thứ 14 Quý Hợi quẻ Độn trung trải 360 năm, Tấn, Tề, Lương, Trần mà thống nhất ở Tùy lấy nhường ngôi nhà Đường, phương Bắc 6 rợ Hồ, Đông Tây hai nhà Ngụy, không để các nước tiến hiệu vua, cùng cái thang ở cành khô, cùng với hoa toàn nở toàn tàn rụng ở cơn gió Thu. Trong khoảng Đoài Tốn, gốc ngọn đều yếu, đường Càn không kéo dài, theo Thế (đời) chia Hàm Cách, bụng chân không nơi ở, cướp giết cùng úp nhau, đổi biến không thường, họ hiểu sợ đổi nhà cùng coi bỏ mà con giết cha, nhà hưởng bầy rồng mà em giết anh. Hàm phản lại Lý không? Cách nghiêm mệnh Đỉnh, hối hận không hay quên, lỗi này lớn vậy. Kẻ thức giả bấy giờ thông xem thường biến ở Trời-Người, xiết bao cảm khái vậy. Thứ đến niên quái từ Tấn đến Đường, Thiệu ta xem 16 nước ngâm rằng: Khắp dưới Trời gọi: hoàn khu ; Đại Vũ đã từng trị nước lụt ; Áo đến lúc rách, rận lớn nhỏ ; Quả dưa khô nứt nhiều bọ sâu ; Tờ sắc rằng không nhờ giặc bỏ ; Cửa đón vội rợ Hồ loạn dân ; Hy Phụ có nói chỗ để ý ; Bấy giờ chỉ thiếu Quản di Ngô. Thiệu ta xem Nam Bắc triều ngâm rằng: Đương khi thiên hạ chia Nam Bắc ; Cứ đi sinh sao thường dứt đi về ; Chỉ bậc Bá giữ điển phép tắc ; Tiêu Khang vẫn đeo hôi tanh cũ ; Tiếng tốt Lạc dương khen Thôi Hạc ; Tài lạ Giang Biểu phục Tạ An ; Hai trăm bốn năm cùng cương ngựa ; Đừng đem gì Lễ thưởng việc làm. Lại xem triều Tùy ngâm rằng: Trước tính ngày giờ đã không hay; Tiếp nối với nhau giết hại sau ; Sâu bọ nhân dân tham đất cát ; Bùn cát vàng lụa đẹp Cơ Khương ; Sánh đất ý tứ phục nơi hoang ; Đi thuyền biện Hoài Châu cùng Vị lương ; Ba mươi năm thẳng quét đất ; Không thế thiên hạ đến nhà Đường. Chu thị Ẩn lão nói: Hoàn Ôn lấy năm Bính Thìn khôi phục Lạc Dương, thời nên tự giữ, 1 năm trốn yên, 3 năm trí hướng mọi người hòa hợp nhau, rồi sau phấn khởi sức thừa thời phương Tây có thể bẻ gãy nhà Tần, phương Bắc có thể giật nước Yên, họ há có tài hơn người vậy sao? Tần chẳng qua có tướng mạnh, Yên chẳng qua có Kệ Dung, trong đều có tài, sống theo sở giúp không chính, không đủ để chính can thiệp ta. Từ Bính Thìn đến Mậu Ngọ đã 3 năm. Giáp Tý thời theo 3 năm lâu mà đến nỗi cướp vậy, ấy thời chưa từng nuôi dân, lòng dân chẳng bền vậy, chưa từng với kẻ sỹ, khí kẻ sỹ chẳng phấn chấn vậy, ai thực chủ đây. Lỗi ông Ôn vậy, năm Ất Sửu Lạc Dương bị hãm về nước Yên, lính của Trần Hựu có 3 ngàn, Trần Kính 1 ngàn, đến lúc người Yên đến bức bách thì Hựu ra 5 phần 6 mà trái đấy, còn 1 phần cùng với Kính vừa được 800 người, ấy không đủ để giữ Lạc dương, chỉ đủ để giết Kính, Kính chết thời kẻ trung dũng ở đất Lạc chết hết, thời núi Gò nguy, đó là lỗi của Ôn vậy. Năm Kỷ Tị đánh Yên không lợi, đổ tội cho Viên Chân, Chân lấy Thọ Xương vào ở Yên. Năm Tân Mùi bình được Thọ Xương, về làm sự phế lập, để hả cơn giận, có phải do người sao? Phủ Kiên giệt Yên đánh Tấn, Tạ Ân thua lấy lại Lạc dương 15 năm, lại bị Diêu Hưng lấy mất. Tân Cung Tinh Hiến đắp thành cổ, giữ trải hơn trăm ngày, sức khuất thế cùng, về sau thấy được trước không lạy Hưng, sau không trái Tần, thoát tù mà trốn sau về nước, thời theo giữ ấy chưa phải người ấy vậy, vì Tần không có viện binh. Năm ấy Kệ Dung đức lấy Thanh Châu, đóng đô ở Quảng Cô Trúc lặng lấy Chu Dịch bói nói rằng Yên suy. Canh Tuất niên thời 1 Kỷ, thế thời kịp Tý mà Nam Yên truyền Siêu giết ở năm Kỷ Dậu cũng ngõ hầu biết trước. Song Lạc dương năm Bính Thìn lại bị hãm về Tấn, thời chưa có biết trước đó vậy. Sao vậy? Cuối cùng Lưu Dụ bình Tràng an, về gấp để cướp ngôi, sai đứa trẻ con giữ, gồm cả Lạc dương đều mất về Rợ Dịch, tướng mạnh lính đinh đều bị mưu toan hết, bao năm mà bị bỏ đi 1 sớm, há chẳng thương vậy thay, nếu Dụ có lòng với Tấn, nhịn chút chẳng về trấn yên hết thẩy theo đạo chí hướng mọi người cùng hòa hợp nhau, thì người Tây Bắc sao hay kíp lấy được, vậy do 2 bề tôi bất trung nên Trung nguyên không khôi phục lại được. Do đó nói là do người vậy, không phải do Trời vậy, là lý vậy, không phải do số vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 9, Thiên quan vật thứ 35

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Tân 188

Kinh Thế Tý 2245, Thế Sửu 2246, Thế Dần 2247, Thế Mão 2248, Thế Thìn 2249, Thế Tị 2250, Thế Ngọ 2251, Thế Mùi 2252, Thế Thân 2253, Thế Dậu 2254, Thế Tuất 2255, Thế Hợi 2256.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 9, thẳng Đại quá đến Khốn, gồm có 12 Thế, khởi từ Đường Cao Tông Lân đức năm đầu Giáp Tý quẻ Khốn đến quẻ Đoài, đến Tống Nhân Tông Thiên thánh năm đầu Quý Hợi quẻ Tỉnh gồm 360 năm, nay đến Tống Thái Tổ Càn đức năm đầu Vị tế chỉ kịp 10 đời. Bậc Nho giả trước đã qua không dám bàn đời này vậy! Xét Đường đấy 40 năm thẳng quẻ Đoài, Đoài thiếu nữ làm thiếp, thứ tự giữ vàng mùa Thu. Đường Lý Mộc thu về mùa Thu, nhận vàng theo Cách con gái, vợ được mà lỗi cùng vợ già đẹp mà khó lâu dài, tin vậy, bèn lại nóc nhà theo Vy Nạo Trạch ủy cho vây cánh khi 1 khí Chấn khởi cơ đồ thịnh, lại về Linh Vũ Hà Bồ tát Kim cương, lính con gái gối nhờ trong thời gian quan hoạn lộng quyền, ngoài phiên cướp xe vua, cái hạn về con gái và tiểu nhân trọn đời Đường vậy, tức là trước sau lan khắp qua, hai lần mất, hai lần dấy lên, đấy bởi người trung hiếu, mất bởi hoạn quan và tỳ thiếp, dương không thắng âm, đại khái thấy vậy. Đến như Lương, Đường, Tần, Hán, Chu thay đổi nhau lấn ngôi vua. Kịp đến nhà Tống dấy lên, trời sinh bậc thánh nhân, từ đấy thiên hạ thái bình. Dịch sau cùng quẻ Vị tế, Thiên tử biên niên quái mà thôi ở đây, há không có ý sao? Trộm vì xem thêm ở sau, thì vua Tống Tổ mở nước, chính thẳng Tụng làm Sư mau tốt lúc ban đầu. Lý (lên) ngôi không phải dùng đến việc binh nhung, phàm vì: đếm gốc cây dâu bền chặt (tiên hệ đến bào tang), bản tấu thay đổi, Hoán Hán đến hào, đồ Vị tế Tổ dùng sau. Đến đời Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, 3 vua 1 đức là bởi vận đương Khốn mà càng hưởng vậy. Như Vận thứ 10, Thế thứ 12, thẳng Đại quá đến Tỉnh, khởi từ Tống Nhân Tông niên hiệu Thiên thánh thứ 2 năm Giáp Tý quẻ Tỉnh đến Nhu, sau đến Minh Thái Tổ niên hiệu Hồng Võ năm thứ 16 Quý Hợi quẻ Đại súc, trong khoảng giữa Tống nguyên gồm cả kim niên quái, việc ứng bậc tiên hiền, chia rõ ràng chẳng phải kẻ hậu học theo hay lấy ý riêng mà tường tận, còn thì đại khái lấy phụ vào kinh Thế quan vật cho trọn vẹn, Thiệu tử ta xem Hữu Đường ngâm rằng: Trời sinh thần võ đặt trung ương, chẳng dễ hung thần đánh đuổi được; Đời Trinh nếu không gió giữ dội; Đời Khải sao khí ngùn ngụt lên; Ngồi cao mới thấy non sông mạnh; Vào hè mới biết ngày tháng dài, trong hai trăm năm hay thống nhất; Sự tuy thành đạo vầng sáng không. Xem Ngũ Đại ngâm rằng: Khi cuối đời Đường rường vua đổ; Sinh linh thiên hạ bị nhiễu nhương; Xã tắc yên nguy lệ quân lính; Triều đình khoanh tay phương phên dậu; Mùa đông sầu lạnh vốn không thoát; Tị Mùi niên sao nhỏ còn sáng; Năm hai năm dòng, họ đổi năm; Mới biết quét trừ đợi Chân Vương. Sinh thế Thiệu ngâm rằng: Hy Nghiêu Thuấn Vũ Thang Hoàn văn; Hoàng Đế Vương Bá vua tôi cha con; Đạo lý bốn bậc Tần gây hạn; Hán Đế hai nhà, lại chia ba; Đông Tây rối Nam Bắc bởi Ngũ hổ; Nhập tính cương kỷ Trời hầu cháy; Không có Đường Tống nước không còn; Ngàn đời luôn bởi người Trung nguyên. Thiệu làm Kinh Thế nhất nguyên ngâm rằng: Trời đất lồng chở mà cao quá; Trời Trăng đi lại không nghỉ ngơi; Tuế niên trên dưới khó lường số; Một nguyên nói lý còn dễ biết; Số đến quá vạn thật mơ hồ; Sách chép dấu vết một suốt đấy; Minh trải người làm để đời sau.

Nguyên 12 có Hội, dùng quẻ Vận chia vậy, xem quẻ Thế, quẻ Thế chia vậy, xem niên quái, bèn niên quái 1 thẳng, trị loạn ứng khác nhau cớ sao vậy? Chúc Thị bảo là: thẳng niên quái cùng là quẻ ứng khác nhau, là ở quẻ trực Vận, trực Thế thay đổi nhau 5 mà thành chương, không khá làm điển yếu vậy. Hơn nữa, niên Vận ứng Trời, quanh quẩn ở Người, như Tùy mở Thái là tốt vậy. Âm theo Dương thì tốt, Dương theo Âm thì hung, dưới ra lệnh trên thường theo không thể Thái, cố đến ở trên thì hung vậy. Âm cô Dương là hung, Dương cô Âm là cát. Con sửa lỗi cha, lỗi chẳng đến: Bĩ vậy. Bĩ mà đến dùng Tùy Thái, mà đến dùng Cổ, trên xem vận trời, đạo ở quanh Càn, Bắc mà đến Nam, Nam mà đến Bắc, dưới nghiệm khí đất, đạo ở chuyển Khôn. Đó là sự kỳ lạ về nghiệm ứng, cũng tự khó lường. Vua Hán Võ đánh hung Nô quẻ Phệ được cành khô nảy hoa, thua binh ứng niên quái ở quẻ Đại quá. Đặng Ngãi vào Thục mơ thấy ngồi trên núi có nước, ứng xe tù niên quái quẻ Kiển cùng Hàm chóng Hằng lâu. Nam Bắc triều Tùy thẳng quẻ Hàm, Hán Văn Đế, Minh Thái Tổ thẳng quẻ Hằng, văn Đế tên là Hằng, hóa nên đạo lâu dài, Thái Tổ dựng niên hiệu Đạo Minh, ứng vào quẻ Dịch: mặt Trời mặt Trăng được Trời mà hay chiếu lâu dài, các loại đó có phải ngẫu nhiên sao?

Nguyên kinh Hội cất Năm thấy Tháng. Hội kinh Vận cất Tháng thấy Ngày. Vận kinh Thế cất Ngày thấy Giờ. Năm 1, tháng 12, ngày 30, giờ cũng 12. Quy giờ đầu có 8 khắc, bèn dùng đắp đổi Thế tóm tắt tượng mà xem vậy. Đắp đổi Thế, tóm tắt tượng đều 4 quẻ chia 8 khắc, Kiêu thị Ứng Hoài nói rằng: 1 giờ định đúng 1 ngày, 30 giờ là 2 ngày rưỡi định 1 tháng, mỗi tháng ngày mồng 1 giờ Tý đến ngày mồng 3 giờ Tị là tháng Giêng, từ ngày mồng 3 giờ Ngọ đến mồng 5 giờ Hợi là tháng 2. Mỗi tháng lại định một năm, mà tháng đủ định 30 giờ đúng 1 tháng. Tháng thiếu có 29 giờ cũng đúng 1 tháng. Tháng đủ thì có 360 giờ, 12 theo 30. Tháng thiếu thì 1 tháng có 348 giờ, 12 theo 29. Dẫn mà cho là phải đấy, trong 1 Nguyên lớn (đủ) nhỏ (thiếu) đều không sai vậy. Đem những điều kiện đó để tìm Nguyên-Hội-Vận-Thế, 12 cùng 30 lần lượt nhân lên, số đều cất lên. Rất nhỏ chẳng gì bằng sao, thì 30 Phân làm 360 Sao, 1 Sao thừa ra, thông qua Luật, Lữ, Thanh, Âm tính không kể Nhuận, thì từ đây trở lên đến ngày-tháng-năm đều 24 Nhuận, 24 Nhuận ấy là 360 số thừa Phân tích, sử dụng điều này bèn được phép Hỗ thể ước tượng, hay số Vận là số Ngày, số của Thế là số Thời (giờ). Cất giờ-ngày-tháng, tức là thông qua Giờ thì biết Thế, học giả tóm tắt tượng ấy mà nên vậy.

Sách Chu Lễ chép 3 Kinh Dịch: nhà Hạ gọi là Liên Sơn, nhà Thương gọi là Quy Tàng, nhà Chu gộp mà dùng gọi là Chu Dịch. Trần Hy Di bảo rằng: vua Hy Hoàng mới vạch 3 hào thành quái, chồng lên làm 64 quẻ mỗi quẻ 6 hào, không lập ra văn tự, khiến người trong thiên hạ xem tượng mà đã có thể như tượng thì cát, hung ứng khi trái tượng Trời nên cái hung phản lại. Đời sau ứng quẻ, vạch không tỏ tường, đạo Dịch không truyền dùng, Thánh nhân bất đắc dĩ mà có lời nói “Từ”. Học giả bảo Dịch chỉ dùng thế, lại không biết có vạch vậy. Xét Liên Sơn có 8 vạn chữ, Quy Tàng có 4300 chữ, Liên sơn dùng 36 chước, Quy tàng dùng 45 chước, mà tên quẻ như Khôn là Thích, Khảm là Bạc, Chấn làm Ly, Nhu gọi là Nhục,, Vô vọng gọi là Vô, Tùy gọi là Cù, Bác gọi là Bộc, Hàm gọi là Khâm,…, hào từ như Đại hữu dùng Phệ hạp gặp Đại hữu dùng Càn nói rằng: cùng trở lại ở cha, kính như vua, sở truyền chú thích, sở dẫn như cù, hữu từ, hữu hồ. Kịp đến quân tử răn đi xe, tiểu nhân răn đi không; đều là 2 Dịch. Nay từng tên quẻ Chu Dịch, âm nghĩa phần nhiều gồm như nhau, song bàn về Chu Dịch thì Càn Khôn định trước, 6 con thứ tự sinh ra giao lẫn nhau mà thành 64 quẻ, trong đó đủ 384 hào, xem cát hung cốt ở “trung - chính”, hào 2-5 dưới trên giữa 2 thể, hào 3 -4 một quẻ giữa toàn thể. “Chính” thì vị dương hào dương, vị âm hào âm, trái thế không phải là “chính”, đó là điều cốt yếu lớn vậy. Thông quá nghiệm rằng: Bỉ Hy làm Dịch, Trọng-Mạnh đưa duy Kỷ hành, Chu Văn thêm thông tiết 8, ấy 8 chuyển thứ tự 384 hào để ràng buộc cài mối Vương mệnh, cho nên “chính” là theo gốc mà muôn vật tri lý, mất chỉ hào lý mà sai tới ngàn dặm. Trọng nói ở đây là 4 giữa (mạnh-trọng-quý) mệnh đức thời Chấn-Đoài-Khảm-Ly, “duy” ấy là 4 duy, kỷ hành thời Cấn-Tốn-Khôn-Càn. Tượng-từ-biến-chiêm, Chu Công nhân tựa của Văn Vương mà cả đủ, xét đồng ý chí, không ngoài “trung-chính” làm cốt yếu. Kinh lấy “trung-chính” mà làm biến, làm giao, tả hữu quanh hợp nhau. Chúc thị nói: Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi phía hữu theo Thái dương vậy. Phục-Cấu là Tiểu phụ mẫu quẻ đều đi phía tả, bắt chước theo 4 mùa vậy. Quẻ đi bên phía hữu, 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là Nguyên hết lại có lý Nguyên vậy. Quẻ đi cùng cực đấy tức là Nguyên hết. Quẻ đi phía tả, từ 1 đến 2, thứ tự cùng nhân nhau, tiếp nhau, vòng quanh không manh mối, là lý năm hết lại đổi năm khác vậy. Hai phía đó nghịch thuận đi khác nhau, số dùng sai đến vạn vạn mà cùng cực, Dương duỗi ra, Âm co lại. Thiệu ta bảo Nguyên có 2, theo thuyết mà tả hữu suy đấy, tả dương hữu âm, như Cấu hào 1 biến sinh thì Phục lại được 1 dương, biến hết thời đến quẻ Quy muội, trước sau gồm 22 dương, rồi đều được Ký tế mà trai có vợ. Bỏ 4 tượng 80 âm hợp thượng thể 48 dương làm thành 112, Đông chí trở về sau lẻ thuận, dương trước âm sau, thì âm lại theo dương vậy. Khôn 1 biến sinh Cấn, được 1 âm hết 6 biến thành Tiệm, trước sau 32 âm đều được Vị tế mà gái có chồng, gồm Cấn Khảm 4 con dương, hợp với thượng thể 48 âm làm Âm (tiếng) 152. Từ Hạ chí trở về sau là nghịch, âm trước dương sau, nên dương phải theo âm. Còn 1 mà 2 làm Quải, mà 4 làm Đại tráng (đồ tròn nghịch Càn 1, Quải 2, Đại hữu 3, Đại tráng 4, Tiểu súc 5,…) đến 64 là Cấu, đều trở lại theo cung. Mặt Trời cùng Trời hợp ở Quy muội-Tiệm rất thay nhau Ký tế-Vị tế, hay Thái-Bĩ rồi lại thay nhau Quy muội-Tiệm. Quẻ Dự giao Tiểu súc làm Thái, làm Ích, Lý, giao Dự làm Bĩ, làm Tốn, mọi…mất chữ…Tụng, Tấn, Minh di biến thành Thái, Bĩ, Ký tế, Vị tế; cùng Di, Trung phu, Đại quá, Tiểu quá biến làm Tổn, Ích, Hàm, Hằng; thế nay tượng quẻ mà giao biến quanh hợp kỳ diệu khá tả hữu gặp gốc (biết suốt ý sâu kín) vậy.

Chia Thượng kinh làm 18 cung, Hạ kinh làm 18 cung, hợp làm 36 cung. Kinh Dịch thì Thượng kinh có 30 quẻ, gồm 30 x 6 = 180 hào, số quẻ trùng Thượng kinh là 4, thêm số hào trùng 180 + 24 = 206 hào. Hạ kinh có 34 quẻ, gồm 34 x 6 = 204 hào. Số quẻ trùng Hạ kinh là 2, thêm cả 12 hào trùng là 204 + 12 = 216. Đây là đồ số 36 cung. Mỗi 1 quẻ gồm 2, cùng trở đi trở lại đối nhau, khu dùng lại làm 1 cung. Đường ngày của kỳ 1 năm gồm 12 tháng, mỗi tháng chia thành 6 hậu, mỗi hậu đều có 5 ngày, như vậy 1 năm có 72 hậu = 360 / 5, số 72 này tính đôi thẻ Càn dùng trùng là 36 x 2, tương đương với tính 3 lần quẻ Khôn dùng trùng 24 x 3 = 72 vậy. Số 36 cung này, 6 theo 6, 4 theo 9, 3 theo 12, 2 theo 18 đều về 36 cung. Theo Hán Dịch, ở kinh trên bầy 18 cung tương đương với 30 quẻ, trong đó phản dịch có 6, ở kinh dưới bầy 18 cung tương đương với 34 quẻ mà phản dịch là 16, bớt dịch ấy 2, gồm 12 dùng 16 làm 28 cung, gồm 2 dùng 6 làm 8 cung, gồm 8 cung dùng 28 cung làm 36 cung, diệu với kinh trên 30 phối kinh dưới 34, quẻ không bầy bằng, hào không đều bằng, mà trên dưới đều bằng đều 18 cung, thời lấy kinh dưới Trung phu, Tiểu quá bất dịch, dùng 2 quẻ dương kinh trên Di, Đại quá bất dịch, dùng 2 quẻ bất dịch phối kinh trên với Càn-Khôn-Khảm-Ly, dùng 4 quẻ bất dịch phối kinh dưới với Chấn-Cấn-Tốn-Đoài, hỗ dịch dùng 4 quẻ. Cho nên quẻ không bầy bằng, hào không đều nhau mà gần đều vậy, theo nhiều ít làm đối nhau, hết thẩy đều hợp tự nhiên vậy. Vị tế 64 là số trùng quái, tính gồm cả 8 kinh quái tự nó ở khoảng quay về vần chuyển mà 72 số toàn vẹn vậy. Kinh chỉ 64 quẻ gồm 2 quẻ làm 1 cung, ứng chỉ 32 cung, lại thêm 4 vậy mà gồm 8 quẻ cùng bèn 36 cung. Xét trên dưới 2 kinh đều 3 khu, mỗi khu 12 quẻ có 72 hào. Càn khôn đầu khu thứ nhất, là Thái Bĩ đầu khu thứ 2, là Bác Phục đầu khu thứ 3, ba (3) theo 12 thì ở kinh trên 30 quẻ thực bao 6 quẻ ở trong phản đối trùng kiến, Hàm Hằng đầu khu thứ 4, Quải Cấu đầu khu thứ 5, Phong Lữ đầu khu thứ 6. Lại 3 theo 12 thì ở kinh dưới 34 quẻ thực bao 2 quẻ ở giữa phản đối trùng kiến, kinh trên ít hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao lại nhiều hơn 4, kinh dưới nhiều hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao ít hơn 4, cho nên đều 18 cung, đều 36 quẻ mà đến quân bình, thông mà nói theo phản Dịch 28 quẻ, 2 quẻ hợp 1 cung, bất dịch 8 quẻ, mỗi 1 quẻ chuyên 1 cung, chia nói chuyên danh của quẻ, 64 quẻ, 1 quẻ chỉ về 1 lần xem, hợp nói cung gồm lệ 36 cung thì 1 quẻ đều làm 2 lần xem, tuy không đổi chuyển cung, cũng đều làm 2 lần xem. Kinh trên 6 quẻ gồm 6 mà 30 thêm 6, kinh dưới 2 quẻ gồm 2 mà 34 thêm 2, cho nên số vừa tương đương vậy. Kịp đến kinh trên dương 52 âm 56, kinh dưới dương 52 âm 56, đều 108, hợp lại là 216 ứng số Càn sách, gồm 2 quẻ trùng toàn thời 432 hào, 432 này là số hào của 72 quẻ, thâu tóm làm 36 cung biến hóa. Quẻ 64 được 384 hào, lấy 24 hào của 4 quẻ, đúng hợp sách 360 của Càn Khôn, chỉ lấy hào số của 60 quẻ đương đấy, còn thừa 4 quẻ 24 hào. Hoàng cực đã tạo cho Thiệu ta lấy ý ở Hy đồ 4 chính Ly-Càn-Khảm-Khôn, 4 quẻ chính của Kinh Phòng quái khí lấy ý ở Văn đồ là Khảm-Chấn-Ly-Đoài, 4 quẻ chính này chia thẳng 24 khí, thâu tóm 72 hậu, đều chuẩn cho Đại diễn (số 50), treo 1 lần đếm 4 về kỳ (lạ) tượng, phép Nhuận cũng đi khắp Trời 360 độ 4 phân, số phân đủ của 1 độ, mà đó lại bao 8 quẻ 48 hào ở cung phản đối trùng kiến thì dựa vào 4 theo 12, kinh trên được Càn sách qua số sắp xếp làm 12 ấy 3, kinh dưới được Càn sách số cơ chứa làm 12 ấy 1 để hợp ở đương kỳ sách số chung lẻ, gồm 24 dùng 48 được 72 sách, so sánh giờ của ngày gồm thừa 6 ngày. Chính Ngu thư 400 có 6 tuần có 6 ngày lấy tháng Nhuận định 4 mùa, tháng rằng năm.. Thiệu ta tán Thái nguyên, biết phép lịch, lại biết lịch lý, trộm bảo rằng tức là tự tán (khen), xem lời nói về xem 36 cung, khá lấy biết vậy. Song trong thơ nói: Thiên căn bảo rằng Phục, Nguyệt quật bảo rằng Cấu, từ Phục đến Cấu, từ Cấu đến Phục, giữa Tý-Ngọ chia đều 32 quẻ mà đều có quẻ bất dịch, ở phía tả thì Di, Lý, Trung phu và Càn Ly, ở phía hữu thì Đại quá, Tiểu quá gồm cả Khảm Khôn, qua lại tráo trở mà suy, như Dịch số cung ở kinh trên dưới: cung ở Phục về phương tả mà phản đối quẻ hữu phương cùng cung, ở Cấu về phương hữu mà phản đối quẻ phương tả, đều 14, lại hư hợp trùng kiến dùng 4, thâu tóm cả tả hữu đều 18 cung, thời cung lấy đồ tham thác làm chỉnh tề, theo số là quân bình thì 1, thực là khí bình phân của 4 mùa, suốt 72 hậu. Mùa Xuân là cao nguyên đầu 4 mùa, lưu đi trong sự trăng sinh thu tàng, cho nên rằng 36 cung đều là Xuân vậy, đến dùng Nguyệt quật là biết vậy. Thiên căn là biết người, Hoàng cực bầy Nhân và Vật làm 32 vị, đều chia 16 bậc, là Vật thì lấy bay-chạy-cây-cỏ, dùng chạy-bay-cây-cỏ sánh với Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, người thì là khu lấy sỹ-nông-công-thương sánh với Càn-Đoài-Ly-Chấn, đại khái khi Càn giao với Tốn làm 1, thì 1 lần biến theo lúc đầu mà làm Cấu, tán khác chia lớn làm nhỏ, lấy khoảng đến Khôn làm ngàn, ngàn thời trên mà khởi ở bay, bay dùng lớn, dưới mà cùng cực đến cỏ, cỏ dùng nhỏ, mà loài Vật khá biết. Theo Cấu đến Nguyệt quật là xem (quan) vậy, Khôn dùng giao Chấn, Khôn làm ngàn, ngàn lần biến theo lúc đầu làm Phục, thâu tóm thể dài nhỏ làm to. Lấy Khảm đến Càn làm 1, 1 thời dưới mà khởi ở thượng, thượng dùng nhỏ, trên mà cùng cực thì đến sỹ, sỹ dùng lớn mà nhân phẩm khá biết. Theo Phục đến Thiên căn là Quan (xem) vậy. Cho nên Thi rằng: “vậy tường ở trong. Thiên thứ 11”. Vì Thiệu ta xem Người và Vật, không lìa số cung dùng qua lại, ấy thể vậy. Có kẻ nói: lời nói 36 cung không nhất trí. Có thuyết lấy 12 vạch đơn 12 vạch kép đương đấy ấy. Có thuyết lấy Càn 1 đến Khôn 8 đương đấy ấy. Hợp trở đi trở lại để tìm giải này, vốn hợp để xem kỷ ý thơ đường có mỗi quẻ đều được ý thứ 36 cung, đến Cấu Phục mà bàn qua đi thì từ dưới xem lên trên, theo hào Sơ biến đến hào Trên, lộn lại thì từ trên xem xuống dưới, theo hào Trên biến xuống đến hào Sơ. Phàm 1 hào biến 1 quẻ, 1 quẻ lại được 6 hào, làm 6 lần 6 là 36, tức là hào ấy biến theo thâu tóm mà gọi đấy làm cung, như quẻ Phục thâu tóm: Khôn, Lâm, Minh di, Chấn, Truân, Di, đều 6 hào, quẻ theo thẳng là quẻ Cấu thâu tóm: Càn, Độn, Tụng, Tốn, Tỉnh, Đại quá, đều 6 hào dùng loại quẻ sở trực. Trong lúc nhàn dỗi qua lại xem ngắm quẻ Tùy mà được 36 cung, càng diễn càng nhiều, tức là khá được sinh, sinh là cái cơ không nghỉ ở Nguyên, Nguyên dùng trong cùng nối tiếp nhau mà 1, 1 xuống đến ngàn ngàn, ngàn ngàn lên đến 1, 1 đem lên Người và Vật to nhỏ đều thâu tóm ở khoảng trong, xem thuyết này mà Thiệu ta vịnh Hoàng cực quan vật ở Nguyên-Hội-Vận-Thế mà thấy lòng thiền định, không phải đem Dịch nói phiếm mà nói vậy, nghĩa tức là căn cứ ở Dịch mà suy, cũng chẳng gì mà chẳng cùng với lời nói, cùng hiệp hợp vậy, giữa lại để đợi đính sau, gồm nghĩ miệng đạo ngay. 36 cung chia trùng 6 cung, Càn-Khôn-Ly qua Khảm-Ly thông ở trên, lại chia 6, 4 lại trùng 2, Tiểu quá, Trung phu 18 cùng (ở dưới), kinh trên kinh dưới toàn 36 qua lại hào hợp 8 sơ cuối cùng, chở theo tráo trở song song bầy ra, đều là Xuân tìm 1, 1 dương ở trong quẻ. Thiệu ta điền đồ phát minh công Phục Hy, bỗng nhón lấy thẻ thần suy ý thơ, Nguyệt quật Thiên căn hỏi ông này.

Đồ tâm chứa tổng Hội. Đồ lấy số 4 quẻ làm ngang, mà trên dưới giao nhau làm dọc. 1, 2, 3, 4 là số Càn-Đoài-Ly-Chấn. 5, 6, 7, 8 là số Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Trong ngoài ngang đấy mà đều liên hệ lấy 2. Liên hệ ở ngoài vẫn là tròn, đồ đổi hợp dùng thứ tự quẻ. Liên hệ ở trong vốn là vuông, tròn là thẳng liền dùng thứ tự quẻ, trở đi trở lại để bầy, đều bảo rằng 1 ngang 8 dọc, là khá vậy. Ngang cùng với ngang đối, bỏ 9 ấy 4. Dọc cùng với dọc hợp, đều trùng ở 9 ấy cũng 4. Bỏ 9 ấy 4, 1 đến dùng 2 đến dùng 7 ; 6 đến dùng 6 ; 4 đến dùng 5 gồm 4 lần 9 là 36 mà mang toàn vẹn vậy, đều trùng ở 9 ấy 4, như Quải đến Bác, Lý đến Khiêm, Phục đến Cấu, Tiểu súc đến Dự, 1 thời Càn Khôn đến 9 (đồ tròn từ Càn đếm thuận hay nghịch đến 9 thì đều biến), tráo trở Đoài Cấn dùng 9, 1 thời Càn Khôn đến 9, tráo trở giao Chấn Tốn dùng 9, lệ mà tìm đấy đều được 2 lần 18 là 4 lần 9 thành 36 số, mà dọc hết thẩy lấy đủ vậy. Cho nên 8 quẻ giao lẫn, chẳng gì là không 0-9 số. Đồ hợp cả lại, trên dưới cắt mà làm đôi, thời âm dương cương nhu thái thiếu chia vậy, cũng trên dưới suốt mà 4 đấy, sen hàng ngũ lẫn lộn biến hóa là hợp vậy. Lấy lòng giải đồ này, dọc ngang như một, số thâu tóm ở Hà Lạc, lý hội ở Hy Văn, hoặc dùng đấy tùy việc mà xem, tức số mà được quẻ, nhân số quẻ mà giờ ngày định hào, lại có thần minh ở trong đó vậy.

HẾT QUYỂN 3

LỜI BẠT

Một quyển Hoàng Cực Kinh Thế, luận suy số năm xưa nay, bắt đầu từ năm Giáp Thìn đời vua Nghiêu, đều chép đạo trị loạn. Soi gương đời xưa làm khuôn phép cho đời nay, biết được lại do ở số. Trước kia, Khổng Tử san định Kinh Thư, sau cùng là Thiệu Khang Tiết làm Hoàng Cực tóm ở 1 Nguyên, trước đã biết triều nối đời mà bảo kín cái ý chưa có thể biết vậy. Lưu Đẩn chép lại Tự ngôn, rộng ý nghĩa sâu xa có công cho thế đạo, sách này mới đến chỗ nghĩa khó để làm cho sáng rõ ra, chú thích thêm, hay làm bản đồ để rõ ràng thêm, tuy chưa có thể mở rộng được ý nghĩa sâu kín, dẫu không khỏi chê là làm rối, cũng không lấy ra ngoài các thuyết. Song lấy việc xưa nay đều bàn về Dịch lý thấy Dịch là rộng lớn, chỉ ở người ta tự giác ngộ. Biết đâu người sau đọc Hoàng Cực lại sinh thêm cái ý nghĩa thần diệu mà rõ cùng Trời Đất vậy.

QUAN VẬT NGOẠI THIÊN

HÀ ĐỒ THIÊN ĐỊA TOàN SỐ

Số trời 5, số đất 5, hợp mà làm 10, số trọn vẹn vậy. Trời lấy 1 mà biến 4, đất lấy 1 mà biến 4. Số 4 này có Thể vậy, mà số 1 không có Thể vậy, ấy rằng Có Không đến cùng cực vậy. Thể trời số gồm 4 mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Thể đất số gồm 4, mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Cho nên, không thể chưng dụng 1 lấy cảnh huống tự nhiên vậy, chẳng chưng dụng 1, lấy cảnh huống Đạo vậy, dùng lấy 3, đó là cảnh huống trời-đất-người vậy.

Số Hoàng cực gốc ở Hà đồ, đầu tiên sáng tỏ toàn số trời đất, cử cương lĩnh (rường lưới và cổ áo) vậy. Số của Đồ toàn ở 1 – 3 – 5 – 7 – 9 là số trời gồm 5 số, 2- 4 – 6 – 8 – 10 là số đất gồm 5 số vậy. 2 và 5 hợp mà 10 số toàn vậy. Số trời đất đều 5, đều lấy 1 biến 4. Càn là trời dùng 1 mà âm dương thái thiếu chia, Khôn là đất mà cương nhu thái thiếu chia vậy. Phàm biến mà 4 tượng, tượng du! Trời đất dùng 4 Thể, rõ ở có số thoái đều 5 dùng 1 ; Thể âm ở không có, Thể thời 1 động 1 tĩnh, đều là Thể ở cùng cực ; sinh số cực ở 4, thành số cực ở 9, cũng làm 4 ấy làm có dùng cực ; đại diễn (số đại diễn có 8 cái) chưng dụng số lấy đấy, không thể thời trông 1 động 1 tĩnh, đều chẳng xét đến số cùng cực. Sinh số trống không 5, thành số trống không 10, cũng làm 5, đó là không dùng cùng cực. Đại diễn dùng khai số lấy đấy thẳng hoặc cũng ý, vô cực mà thái cực du! Bảo rằng số 5 không dùng cùng cực, thành số 10 là có dùng cùng cực, tựa như chẳng phải dẫu ý, duy đó toàn số 5 mà thể 4, Thể số 4 mà dụng 3. Càn 3 hào biến Đoài Ly Tốn, bỏ Tốn về Khôn, thời Tốn là 1 chẳng dùng. Khôn 3 hào biến Cấn Khảm Chấn, bỏ Chấn về Càn, thời Chấn là 1 chẳng dùng, dẫu như không thể dùng 1 bọc ở trong Thể, mà 4 biến hóa vẫn tự nhiên, bởi đấy mà ra chẳng dùng 1, còn ở cái chọn dùng 3, đầy rỗng đến đạo rất mực, bởi đây lấy suy, đều có 4 mà chỉ dùng 3, là sao vậy? Bốn mùa sinh vật, dùng Xuân Hạ Thu Đông, thời cùng cực vậy, bốn phương sinh sản vật, dùng Đông Nam Tây Bắc, thời hoang mong vậy, 4 thì 1 xem vật thấy trước, sau tả hữu, sau nữa thời là lưng vậy. Trời đất người chăng, chẳng phải 4, đủ dùng chỉ 3, khá biết vậy. Phương chỉ rằng đấy, nói chẳng hết ý, dẫu cảnh tượng như thế, cho nên ước lượng để nói, huống chi là vậy.

Xét số Hà đồ 5 số sinh, 5 số thành, là số Hoàng cực gần gốc đấy, sinh số là số lẻ. Lấy 1, 2, 3, 4 ghi theo thứ tự, 5 là số ở giữa, không dùng thành số, đó là số sách (thẻ gấp, việc to biến vào, cái thẻ từng mảng to gấp lại được gọi là sách). Lấy 9, 8, 7, 6 ghi theo thứ tự, sự thực số là 10, là số danh (đầy) chẳng dùng. Số sinh-thành đều dùng chỉ gồm có 4 số. 4 gập 9, được số của Lão dương, có sách số là 36. 4 gập 8 được số của Thiếu âm, có sách số là 32. 4 gập 7 được số của Thiếu dương, có sách số là 28. 4 gập 6 được sách số của Thái âm, có sách số là 24. Mà lại 6 nhân 9, 8, 7, 6 được 54, 48, 42, 36. Theo bản sách số trước, thì đều là nửa sách số thêm vào, để hợp toàn sách 18, 16, 14, 12 đó vậy. Bèn tính gần 54 ở 36 làm 10 ấy 9. gồm 48 ở 32 làm 10 ấy 8, gồm 42 ở 28 làm 10 ấy 7, gồm 36 ở 24 làm 10 ấy 6, còn như vậy 9, 8, 7, 6 đều hợp 5 với 10, để trôi đè bên trong, há chẳng phải tự nhiên sao?

Lại xét số trời đất bắt đầu 1 với 2, hợp 2 số này mới được một số “thực”, số ỷ là số dựa vào, 1 dựa 2 mà được 3, cũng như 2 dựa 1 vậy, số giữa trời đất là 5 cùng 6 hợp 2 giữa được số, Càn số chỉ 2, 50, 2, 60 vậy. Dẫu rằng số 5 và 6 là số giữa trời giữa đất hợp đó vậy, sau cùng số 9 với 10 hợp 2, sau được dụng số và thể số là 10 còn 1 mà 9 bỏ 1, cho nên 10 thì ở mà 9 thì đi vậy. 10 bỏ 1 mà 9 tức là bỏ 15, bỏ 1 mà 4 dùng tức bỏ 5, 50 cũng chẳng phải bỏ cái bao trống, dẫu như giữa 1, 4, 2, 3 thì chẳng dùng chẳng phải 5, hơn nữa 1, 9, 2, 8 chẳng dùng chẳng phải 10, chẳng dùng mà diệu dụng vậy, bèn 4 mà lại bỏ 1 vậy. Trời đất người lấy chẳng chưng dụng 1, thừa thãi dẫu rằng chưng dụng 3, là Đạo rõ rệt điều nhân, dẫu sự dùng nầy há ngoài tự nhiên đó sao? Này, 1 mà giao 4, thì 1 thực mà 1 hư, rất hư mà ngậm rất thực. 4 mà dùng 3, thì 3 động mà 1 tĩnh, rất tĩnh mà đủ rất động vậy.

Kinh Dịch có (số đầu) thực số là 13 thôi. Tham (sen vào) trời ấy 3, 3 mà lại 9. Lưỡng (hai) đất ấy gấp 3 mà 6. Tham trời lưỡng đất, mà số dựa vào chẳng phải số chính của trời đất vậy. Ỷ (dựa) là phỏng theo, là nghĩ định vậy phỏng theo số chính trời đất mà sinh vậy.

Lấy số bắt đầu của trời đất mà nói: trời 1 đất 2 mới hợp mà làm 3, đó là số gốc của Thái cực. Ta, âm dương chia 2 nghi, bên tả lẻ, bên hữu chẵn, là số gốc du! Chân (thực) là Nguyên (đầu) ấy vậy. Cho nên Dịch có số chỉ đều 3 mà thôi. 3 hợp 3 mà 9 đó là tham thiên, Càn 3 vạch, mỗi vạch bao hết đó vậy. Gấp 3 mà 6, đó là lưỡng địa, Khôn 3 vạch, mỗi vạch chia 2 đó vậy. Cho nên Càn vạch rằng 9, Khôn vạch rằng 6. 6 đoạn bớt 9 dùng 3. 3 liền thêm 6 dùng 3, số dùng đó thấy Càn Khôn số toàn thiếu vậy. Duy ấy Càn số tự 3 mà 9, mà 4 gặp 9 được 36 thẻ. Khôn số tự 3 mà 6, mà 4 gặp 6 được 24 thẻ. Lấy Nguyên kinh Hội 360 vận, gấp 10 thẻ chia 4 đấy, đều 90, nhân Càn 9 vậy. Lấy Hội kinh Vận 240 vận, cũng gấp 10 thẻ, chia 4 đấy, đều là 60 nhân Khôn 6 vậy. Phàm Tuế sai Phân Sao Ngày Tháng đầy rỗng, bởi đó mà suy, dẫu có vô cùng không có thể ngoài vậy. Cho rằng ỷ số đó là thế nào? Là đếm thẻ, số thẻ ỷ dựa vào số đó mà khởi, tức là vuông tròn vây tắt, thừa trừ thêm bớt, chẳng phải câu nệ chính số trời đất, cốt yếu đều nương nhờ nghĩ định chính số để sinh ra, do vậy “ỷ” là nghĩ định vậy, nhờ thẻ cỏ thi để nghĩ định trời đất, mà hào lý chẳng mất, Thánh nhân sở dĩ giúp ngầm thần minh đó vậy, hạ duy đếm cỏ thi, người nay tỏ rõ phép toán, mà nghĩa ỷ số khá thấy vậy.

Đại diễn Kinh Dịch là số gì vậy? Là ỷ số của Thánh nhân vậy. Số trời 25 hợp lại làm 50, số đất 30 hợp lại làm 60. Do đó 5 ngôi cùng được mà có số hợp. Thi là Tiểu diễn cho nên 50 làm Đại diễn. Bát quái (8) là qủe dùng Tiểu thành, thì 64 quẻ làm Đại thành. Đức Thi tròn, lấy số hướng trời, cho nên lần thứ 7 là 49. 50 ấy còn 1 mà nối đấy. Đức quẻ vuông, lấy số hướng đất, cho nên 8 lần 8 là 64 ; 60 là bỏ 4 mà nói đấy. Thế là số dụng, quẻ là số Thể. Dụng lấy Thể làm nền, do vậy còn 1 Thể lấy Dụng làm gốc, cho nên bỏ 4 vậy. Tròn ấy vốn 1, vuông ấy vốn 4, cho Thi còn 1 mà quẻ bỏ 4. Thi chưng dụng số 7, để làm phân trừ, cũng nghĩa còn 1, là nghĩa treo “dùng 1 bỏ 1”. Dụng số của Thi, tức 1 lấy tượng 8, thì 48 thời là thẻ của 1 quẻ. 4 gặp 12 làm 48 vậy. 12 bỏ 3 mà dùng 9, ấy 4 lần 3 là 12 là thẻ bỏ. 4 lần 9 làm 36 là số thẻ dùng. Lấy đương Càn 36 là hào Dương ; 12 bỏ 5 mà dùng 7, 4 lần 5 làm 20 là thẻ bỏ ; 4 lần 7 làm 28 là số thẻ dùng, lấy đương Đoài Ly 28 là hào dương ; 12 bỏ 6 mà dùng 6 ; 4 lần 6 làm 24 là số thẻ dùng ; lấy đương Khôn là số 24 làm hào âm ; 12 bỏ 4 mà dùng 8 ; 4 lần 4 là 16 là thẻ bỏ ; 4 lần 8 làm 32 là thẻ dùng. Lấy đương Khảm Cấn 24 hào lên quẻ trên 8 âm làm 32 hào. Cho nên 7-9 làm dương, 6-8 làm âm. 9 là số cùng cực của dương, số cùng cực thời phản lại, cho nên làm biến, Chấn Tốn không thẻ ấy, lấy đương số chẳng dùng. Trời lấy cương làm Đức, cho nên nhu ấy chẳng thấy. Đất lấy nhu làm thể, cho nên cương ấy chẳng sinh, ấy lấy Chấn Tốn chẳng dùng được vậy.

Lấy số giữa trời đất nói, xem số thì số quẻ đều có thể biết. Đại diễn đếm Thi mà thành quẻ. Thánh nhân ỷ vào số tham thiên lưỡng địa mà sinh ấy vậy. Nguyên Hà đồ hợp 25 thiên số làm 25 Thi số, hợp 30 số đất làm 60 là số quẻ. Ở 5 ngôi cùng được mà đều có hợp, thời 5-6 làm giữa trời đất hợp 10 đấy, còn đó vậy, trăm ngàn khá biết vậy. Số Thi và số Quẻ đều nhân đấy, 5 làm Tiểu diễn Thi, 1 diễn mà 4, 1 và 4 hợp làm 5, 2 và 3 cũng làm 5, nên 5 mà 10 dùng là diễn lớn Thi, diễn thành kinh bầy quẻ 64 mà được 1 vậy, trải 18 biến, được quẻ nhân đôi, ấy rằng đợi số thành, dẫu kinh quái thời 8, 8 lần biến mà lẻ chẵn chia, thái thiếu lập nên, mới thành “thể” của hào, đủ quẻ tượng 9 đến 10, 8 lần biến, hợp những cái nhỏ thành cái to, tức là nhân đôi đó vậy. Cho nên 8 làm Tiểu thành của quẻ, 8 gập 8 thành bèn to. Thi số dùng 49, đức thi tròn, lấy 7 lần 7 hướng số trời, rỗng 1 chẳng dùng, rằng 50 còn 1 mà nói đấy, vì Thi lấy 7 đủ số cùng vậy. Càn 1 thời dùng lấy “thể” làm nền, không “thể” mà dùng không kèm. Quẻ 64 dùng 60, đức quẻ vuông, lấy 8 lần 8 hướng số đất đủ 4 bèn toàn, rằng 60 bỏ không mà nói đấy. Vì quẻ lấy 8 vòng khắp “thể” của số, bỏ 1 thời “thể” lấy dụng làm gốc, gốc tròn thì 1 mà gốc vuông thì 4. Thi dùng 7, 7 thẻ 49, mà thẻ Càn thực dùng 36, số thừa 13, dẫu 1 thời 4 dùng 3 là 12 vậy. Cái nghĩa còn 1 mà chẳng phải trước còn dùng 1, lấy mà treo đấy cũng bỏ 1 ở trong, 7 lần 7 chẳng chọn cũng dùng, là khá thấy vậy. Nhật dẫu toàn thể làm 12 ấy, 4 trừ treo 1 số, chỉ kẻ lấy 8 quẻ 6 hào đương đấy, lấy mỗi vị 8 quẻ cách đồng đều 48, thời Thi chưng dùng vừa cũng quẻ hợp, tóm làm 12 mà 4 nhân đó vậy. Trong 12 bỏ 3 dùng 9, đương thẻ Càn bỏ 5 dùng 7, đương Đoài Ly bỏ 6, đương thẻ Khôn bỏ 4 dùng 8, đương Khảm Cấn 4 mà nhân đấy, thời trong 48 bỏ 4, ấy 3 dùng 4, ấy 9 đương Càn chưng 36 là hào dương bỏ 4, ấy 5 dùng 4, còn 7 đương Đoài Ly chưng 28 là hào dương bỏ 4, ấy 6 dùng 4, mà 6 đương Khôn chưng 24 hào âm bỏ 4, ấy 4 dùng 4, mà 8 đương Khảm Cấn chưng 24 hào, gồm quẻ trên chưng 8 âm làm 22. Phàm thẻ bỏ, dùng gấp lên mà 4 vậy, chỉ ở Khảm Cấn gồm quẻ trên là ở đâu? Thửa quẻ dưới đều 24, quẻ trừ hào 12, bỏ 4 dùng 8, hợp 8 ở 24 thời 32 vậy. Lại xét Đại diễn 7 làm Thiếu dương, 4-7 thuộc trai thứ 3, mà đấy lấy Đoài Ly đương đấy, 8 làm Thiếu âm, 4-8 thuộc gái thứ 3, mà đấy lấy Khảm Cấn đương đấy. Ở đây dường như nhặt thẻ chẳng hợp, hoặc xét do vua Hy nói tả dương hữu âm, có thuyết riêng biệt còn vậy, đến dùng 7-9 làm dương, dùng đương hào dương, 6-8 làm âm dùng đương hào âm ; nhặt Thi dùng 9-6, mà không dùng 7-8, ấy 7 dương dùng tiến mà chưa đến cùng cực, mà 9 thời là số cùng cực của dương ; ấy 8 âm dùng tiến, cũng chưa đến cùng cực, mà 6 thời là số cùng cực của âm. Cực thời phản lại, phản lại thời biến, 9 lần biến làm 8 mà không dùng 1 vậy ; 6 lần biến làm 7, mà không dùng 1 vậy. Cho nên 6 tới cực thì Khôn biến Chấn, 9 tới cực thì Càn biến Tốn, quẻ Cấu quẻ Phục đương giao, cực trở lại thì hầu mà biến đó vậy. Nếu nói rằng Chấn-Tốn không có thẻ, mà không phải không có “thể”, Chấn theo Càn mà nhu nhiều, trở lại phụ ở Khôn mà dùng Khảm-Cấn, đức của trời chủ cương nên nhu ấy chẳng thấy, thần là nơi chọn của Nhật Nguyệt Tinh vậy. Tốn theo Khôn mà cương nhiều, trở lại phục ở Càn mà dùng Đoài-Ly, đức của đất rất nhu, nên cương ấy chẳng sinh, đã làm hết Thủy-Hỏa-Thổ vậy. Thể của trời đất đều 4 mà chỉ dùng 3, không dùng ấy 1, Chấn-Tốn lấy đương số không dùng, dẫu có thể cũng như không vậy.

Dương số 1, âm số 2, âm dương tương hợp, 1 thêm 2 bằng 3, tích của 3 phân theo 4 hướng. Phía Đông cung Chấn là 3, 3 nhân 3 là 9 là số của cung Ly, 3 nhân 9 vằng 27 thì 7 là số của cung Đoài, 3 nhân 7 bằng 21 thì 1 là số của cung Khảm, 3 nhan 1 bằng 3 thì lại quay về cung Chấn phía Đông là 3.

Số âm bắt đầu từ 2 hướng Tây Nam cung Khôn, 2 nhân 2 được 4 là số cung Tốn, 2 nhân 4 được 8 là số cung Cấn, 2 nhân 8 được 16 thì 6 là số cung Càn, 2 nhân 6 được 12 thì lại quay về cung Khôn số 2.

Bàn về thẻ Thi dùng biến dụng 2 lão 9-6, đều 4 nhân đấy, số thẻ Càn được 216, Khôn được 144 (4 x 9 x 6=216=12 x 18, 4 x 6 x 6=144=12 x 12), hợp làm 360, âm dương dùng thuần đó vậy, để dùng năm (đương cơ) dùng ngày 6 Tý, Thiếu dương 7 Thiếu âm 8 như trước nhân 4, Thiếu dương được 168, Thiếu âm được 292, cũng hợp làm 360 âm dương lẫn đó vậy. Theo thẻ của Càn Khôn, chỉ dùng Càn 9 Khôn 6, lấy Nguyên kinh Hội, dùng thẻ Càn dụng 4x9, gồm Đoài Ly dụng 4x7 lấy vòng khắp độ trời, lấy Hội kinh Vận, dùng thẻ Khôn dụng 4x6 gồm Khảm Cấn dụng 4x8 để chia quẻ đất. ôi, Tốn thời Càn dùng biến mà vào Khôn, cho nên Càn “thể” 4 mà chẳng liệt vào Tốn dùng Đoài-Ly, đó là dùng số dương gộp vào mà dụng đấy, ấy Càn chẳng dùng Tốn, bèn dụng Chấn thời còn thế vậy, lấy đang dùng được mà hãy còn non, còn suy yếu để phụ vào Khôn loại vậy. ôi, Chấn thời Khôn dùng làm biến để vào Càn, ấy Khôn chẳng dùng Chấn, bèn dùng Tốn khởi còn như vậy, lấy âm chứng còn khỏe mạnh mà phụ vào Càn loại vậy. Cho nên, dẫu thẻ đều có thể chẳng dùng, đó chỉ là trộm lấy ý mà thôi, Khôn mà dùng Chấn, Càn mà dùng Tốn, dùng hay chẳng dùng, hứa lấy nghĩa vậy.

Dịch thời Càn dùng 9, vì vậy thẻ dùng cũng 9, để lấy ứng với 4 mùa thì 4 hợp 9, 1 mùa gồm 90 ngày, 4 lần 9 thời vòng khắp 36 vòng mà 4 mùa thành vậy. Khôn dùng 6, thẻ dùng cũng 6, ấy 4 lần 6 lấy sách 4 mùa, một mùa đều sai số 6 ngày, 4x6 thời 24 khí mà 4 mùa trải qua vậy, quân bình về điều này, Khôn thuận tiếp Càn, Càn 9 mà dương đầy, đều lấy Khôn 6 mà âm hư, dẫu có đều tiết khí như vậy, thì cũng là điều khó tưởng tưởng nổi. Thiệu ta nói rõ trái luật các sách, Hoàng cực xem trời lấy Nguyên kinh Hội, xem đất lấy Hội kinh Vận, số chẳng lìa 9-6 mà dùng để thừa-trừ đấy vậy.

Thi số chẳng lấy 6 mà lấy 7, là sao vậy? Là dùng để phân thừa (nhân) vậy, bỏ phân thừa thời 6, thì số thẻ 36 vậy, lấy số 64 quẻ là thẻ để dùng cho năm Nhuận, còn khi dùng số Thi 7x7= 49, thì 60 quẻ là số thẻ của năm không Nhuận vậy, là đạo của Thi số 36 + 24 = 60 vậy, bởi lẽ khi treo 1 như tính cho 1 năm Nhuận vậy. Quẻ thẳng bỏ 4 dùng 60 là sao vậy? Là do trời biến mà đất bắt chước theo đấy, tức là bỏ 1 thì quẻ bỏ 4 đó vậy. Là sao vậy? Là nói về “thể” của 1 quái vậy, ví như nói về quẻ Càn gồm 3 hào dương, là “thể” gốc 1 vậy, khi biến hào 1 thành quái Tốn, là “thể” thứ 2 vậy, khi biến hào 2 thành quái Ly, được “thể” thứ 3 vậy, khi biến hào 3 được quái Đoài, thì được “thể” thứ 4 vậy, như vậy có 1 “thể” gốc và 3 “thể” biến, gộp lại là 4 vậy.

Thi lấy 7, đủ 7 lần 7 là 49 thẻ, sao không lấy 6 lần 6 là 36 là cớ sao vậy? Bởi vì 36 thời 4 lần 9 dùng số thẻ của Càn, phân lưỡng được 13, dụng đủ 12 bỏ 3 thời còn 1, khi số danh 10 bỏ 1 dùng 9 thẻ, hay 12 bỏ 3 dùng 9 thẻ, thì đều có 1 để phân thừa còn lại vậy. Khi dụng số thẻ của Càn, thì Lão âm, Thiếu dương, Thiếu âm đều là số thẻ dựa vào số thẻ của Càn vậy. Lấy 360 thẻ vòng khắp năm, thì thừa 24 thẻ, là đương thẻ tháng Nhuận vậy, thẻ năm Nhuận bảo rằng 13 tháng, Nhuận 1 năm bảo rằng dùng năm thừa chứa 12 ngày đó vậy, nên nói Thi dùng bỏ đi trống rỗng ấy 1, hợp khí đầy sóc (mồng 1) trống rỗng mà được đó vậy. Cho nên, thẻ Thi toàn số 50 chỉ dùng 49, Thi 4 mà tương đương 1, là 50 rỗng còn 1, tức là nói 4 vậy. Thi tròn mà Thần là Thiên (Trời) dùng để biến quẻ, vuông mà trí (Khôn) đất bắt chước, đất Bắc dưới trời biến, 4 lấy tương đương 1, vuông theo tròn làm nên, thời dùng 1 mà bỏ 4, bỏ 4 là Càn-Khôn-Khảm-Ly vậy.

Số Cơ (lẻ) gồm 4 số là 1, 2, 3, 4. Số sách (thẻ) gồm 4 số là 6, 7, 8, 9 hợp nhau mà làm 8 số, lấy ứng với phương thì số dùng 8 biến. Số về lẻ hợp treo có 6, rằng: 5 với 4 thì 4 vậy, 9 với 8 thì 8 vậy, 5 với 4 thì 8 vậy, 9 với 4 thì 8 vậy, 5 với 8 thì 8 vậy. Để ứng số trên, dùng ở 9 mà 10 chẳng dùng, 5 thời 1 vậy, 10 thời 2 vậy, cho nên bỏ 50 mà dùng 49 vậy, Cơ (lẻ) chẳng dùng 5, thẻ chẳng dùng 10, có hay không chỉ dùng số cùng cực vậy, đây lấy số huống chi là tự nhiên vậy.

Đây phát minh không thể dụng 1, huống chi là tự nhiên, vốn là ý trong trống không của Hà đồ, số cơ lẻ mà số thẻ chứa đựng vậy. Nói về số Cơ (lẻ) lấy 4 làm cùng cực, bỏ 5 chẳng dùng. Nói về số Sách, lấy 9 làm cùng cực, bỏ 10 chẳng dùng. Đó gọi là số vô “thể” vậy. Mà 5 thì Trời dùng 1, với 10 thì Đất dùng 2, khi trời đất hợp lại thời dùng 3 vậy, lấy “Không” bao “Có” thực đủ 7 phân, 7 lần 7 là 49 là lấy “Có” mà “thể” lại “Không”, chẳng gì chẳng phải, huống chi sự của trời đất, chẳng phải có ý riêng an bầy bố trí ở khoảng giữa ấy vậy.

Số về cơ hợp trao, được 5 với 4, 4 thời số sách 4-9 vậy, gần 9 với 8, 8 thời số sách 4-6 vậy, được 5 với 8, 8 được 9 với 4, 8 thời số sách 4-7 vậy, được 9 với 4, 4 được 5 với 4, 8 thời số sách 4-8 vậy. Làm 9 ấy 1 biến lấy ứng Càn vậy, làm 6 ấy 1 biến lấy ứng Khôn vậy, làm 7 ấy 2 biến để ứng Đoài với Ly vậy, làm 8 ấy 2 biến để ứng Cấn với Khảm vậy. 5 với 4, thì 4 bỏ số treo 1, thời 4 lần 3 là 12 vậy, 9 với 8, 8 bỏ số treo 1 thời 4x6 là 24 vậy. 5 với 8-8. 9 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x5 là 20 vậy. 9 với 4-4. 5 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x4 là 16 vậy. Cho nên bỏ số 3, 4, 5, 6, để thành sách 7, 8, 9, 6 vậy. 9 tiến làm 36 đều số dương vậy, đó là dương trong dương. 7 tiến làm 28, trước dương sau âm, đó là âm trong dương. 6 tiến làm 24, đều số âm vậy, đó là âm trong âm. 8 tiến làm 32, trước âm sau dương đó là dương trong âm vậy.

Số về cơ hợp treo đều là chọn 9, 6, 7, 8 để Càn-Khôn-Đoài-Ly-Cấn-Khảm sẽ thấy chứa ở trên mà chẳng kịp Chấn-Tốn không thẻ đó vậy. Ở 9-6 thì Càn Khôn dùng biến đều 1. Ở 7-8 thì Đoài-Ly, Cấn-Khảm dùng biến đều 2, mà dẫu ban đầu đều là 5, nên 9 hợp số quẻ vậy. Số bỏ đầu tiên treo 1, tóm đấy làm 4x3, 4x4, 4x5, 4x6 mà làm 12, 16, 20, 24, thông quẻ chọn 3 lần biến, số bỏ đi là 3, 4, 5, 6 để thành 7, 8, 9, 6 mà thẻ số được định vậy. Xét Càn dùng 9 thì Chấn trước, Khảm Cấn sau, tức là biến hào từ hào Sơ, hào 2, rồi tới hào 3 vậy, ở đây số đều theo 7. Xét Khôn dùng 6, thì Tốn trước, Ly Đoài sau, số đều theo 8. Khi lấy Ly Đoài dùng biến thuộc 28, lấy Khảm Cấn dùng biến thuộc 32. Hoàng cực có phép thông lệ riêng, mà ở ngoài khác phép thường, để làm rõ sự biến hóa vậy, đợi đính chính vậy.

Dương được âm mà sinh, âm được Dương mà thành, do vậy số Thi 4 mà 9, số quẻ 6 mà 10 vậy. Ví như thân và cành của cây cũng lẫn lộn vậy, Can làm thân cây lấy 6 chọn để hết, mà Chi làm cành cây lại lấy 5 chọn để hết, số Thi toàn thẻ dương 36 hợp 28 làm 64 vậy. Số quẻ bỏ 4, nên thẻ âm 24 cùng hợp 32 làm 56 vậy. 4 mùa chỉ ở 3 tháng, 1 tháng chỉ ở 30 ngày, mà đều bỏ số Thần (vì sao), bởi vì 8 lần 8 dùng quẻ 64 mà không biến đó là 8, còn khi dùng biến đó là 7 lần 8 làm 56, dẫu có chọn nghĩa cũng ở đây mà thôi.

Thi chọn dùng 49, dương 9 âm 4, dương được âm bèn sinh, rằng 9 được 4 bèn sinh Thi vậy, 4 đây là lưỡng (hai) đất dùng để gấp bội, 9 đây là tham (sen vào) trời dùng để nhân vậy. Quẻ chỉ dùng 60, ấy 6 với 10 ngờ ở không dương, mà 6 gấp bội trời 3 với dương cùng số. Cái lý 6 sẽ dùng dương, thành 10 sẽ dùng âm, nên nói âm được dương bèn thành là đúng vậy. Cho nên 4 mà 9 ấy là dụng số của Thi, 6 mà 10 ấy là dụng số của quẻ vậy. Còn như thân cây (Can) làm dương, cành cây (Chi) làm âm, cùng lẫn lộn giao nhau, số thân cây (Can) đều 5 mà ghi vòng khắp ở Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất, thời làm 6 Giáp, mà lấy 6 trọn để hết. Số cành cây (Chi) đều 6 mà nguyên thứ tự ở Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm dùng làm 5 Tý, thì lấy 5 trọn để hết. Nếu lấy Chi dùng 6 trọn để hết, Can dùng 5 trọn để hết, để nói dương được âm hoặc âm được dương sao? Đó là nhân lấy thuyết cũ mà bàn vậy, là ý 6 can lai lịch, 5 chi chia lìa như vậy.

Trộm lấy 5 sinh 5 thành, sinh làm số Cơ, thành làm số Sách. 4 bầy số sinh ở trong số Cơ, tựa như âm tiến đến dương vậy, huống chi Thi lấy 4 làm Cơ dương, làm Sách dương, 9 bầy số thành ở trong số Sách, thì dường như dương mà phụ về âm vậy. Phép của Thi lấy 9 làm chẵn, nên làm thẻ âm, lấy đó mà nói bảo rằng: 4 dương được 9 âm bèn sinh, 9 âm được 4 dương bèn thành. Còn lẻ được chẵn mà sinh, chẵn được lẻ mà thành, nên bảo rằng 4 mà 9, là nói về Thi đó vậy. Đức Thi tròn mà Thần vậy, như số quẻ 8 x 8=64, dùng chỉ 60, so sánh với Can-Chi cũng lẫn lộn, ấy 6 là nửa số Chi, ấy 10 là toàn số Can, ở phép quẻ 6 làm hào âm, 6 mà 10 đấy, tựa như lấy Chi theo Can, mà số can 10 tóm số Chi 2 x 6. Ở âm dương thì cùng đợi nhau, mà lý sinh thành chẳng thay đổi. Cho nên lấy ngay nghĩa 6 trọn 5 để mà minh chứng vậy, 5 là nửa 10, 6 mà 10, tới quẻ nói quẻ, đức quẻ vuông lấy trí vậy. Số tròn thông, số vuông định, thuyết này đã biện rõ rồi vậy.

Một năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày, 4 mùa là số “thể” của 1 năm vậy, tháng 30 ngày là số “dụng” của 1 tháng vậy, “thể” tuy đủ 4 mà 1 thường không dụng vậy, cho nên dụng chỉ ở 3. Số “thể” thường chẵn như 4 hay 12, còn số dụng thường lẻ như 3 hay 9. Số to thường chẳng đủ mà số nhỏ thường đầy, là sao vậy? Đấy là số to thường không thể thấy, mà số nhỏ thường khá thấy, cho nên mùa chỉ ở 4, tháng chỉ ở 3, mà ngày đầy ở 10 vậy, ví như con người, chi thể 4 mà ngón tay có 10 vậy, cũng như phía trước, phía sau cùng tả hữu, cũng 4 vậy. Mặt trời lúc hiện lúc chìm ở Bắc, cùng cực ở 6 mà thừa ở 7, trời thể số 4 mà dụng 3, đất thể số 4 mà dụng 3, trời khác đất, đất khác trời, mà cái khác này là do phần dư của ngày và đêm dài ngắn có khác nhau vậy. Lấy trời 3 mà đất 4, trời có 3 Thần (sao) đất có 4 hành vậy, còn như hành Hỏa của đất lúc ẩn lúc hiện, là nguyên nhân tạo ra phần dư của ngày và đêm vậy.

Nói về thẻ Thi dùng 7 thừa 7, đều dụng số trời mà tôn dương, cho nên hợp số thẻ Thái dương với số thẻ Thiếu dương là 36 + 28 = 64 thẻ hợp với số quẻ là 64. Hợp số thẻ Thái âm với số thẻ Thiếu âm 24 +32 = 56 thẻ, là số quẻ toàn âm tóm nhau ở chính biến. Trời đất đều có 4 chính mà làm quẻ bất biến, nên chỉ ở 56 thì 8 bỏ 1, ấy 8 bỏ 1 là nghĩa bởi 4 bỏ 1 vậy, là bỏ số Thần vậy (sao). Trời có 4 mùa, mùa chỉ 3 tháng, tháng chỉ 30 ngày, đấy tức là Thiên Thần (sao) chẳng thấy. Càn Đoài Ly Chấn gồm 4 quẻ, mà chẳng dùng 1 đó là Chấn làm Thần vậy. Thế cho nên, mùa có 4, theo số thể tháng ngày đều dùng 3, theo dụng số và thể số đều đủ 4, dụng số bỏ 1, ấy 1 thường chẳng dùng, dùng chỉ ở 3, ấy 3 nhân thời 9, bởi vậy 3 tháng cộng 90 ngày mà thành 1 mùa, 1 năm 4 mùa mà chỉ dùng 3, bỏ 1 là lúc trời đất bế tắc mà thành mùa Đông vậy. Lấy 1 ngày mà nói, 3 giờ Hợi-Tý-Sửu, lấy 1 năm mà nói, 3 tháng Hợi-Tý-Sửu, đều ở số bất dụng vậy. Nên nói, thể số của trời đất đều 4, dùng ấy 3, chẳng dùng ấy 1, đây khá xem vậy.

Duy số có chia to nhỏ, mà to thường chẳng thấy đủ, nhỏ lại thường thấy đầy, nghĩa ấy ở đâu? To bao bọc mọi cái nhỏ, nhỏ dẫu đầy mà chẳng khá thấy, mọi cái nhỏ chia, to bao bọc to, không gì chẳng có thể thấy theo đầy vậy. Nên năm tóm mùa mà mùa chỉ 4, mùa tóm tháng mà tháng chỉ 3, đều chẳng đầy 10 ngày từ Giáp đến Quý bèn đầy 10 ngày vậy. Mùa như chi thể người chỉ có 4, ngày thì như ngón tay đầy 10, chi thể to mà ngón tay thì nhỏ, to chẳng thấy đầy mà nhỏ thường thấy đầy, nghĩa là như thế. Theo thể số 4 mà tóm bàn đều làm số lớn để xem, theo dụng số 3 mà phân tích bèn đều làm số nhỏ để xem, hay nói số lớn xem thể, số nhỏ xem dụng. Số dụng chẳng ra ngoài số thể, thực biết vậy.

Mở cửa Trời, thì âm đi vào mà Dương đi ra, theo đó ngày dần dần dài ra, đêm dần dần ngắn lại, khí hậu từ lạnh chuyển dần sang ấm nóng. Vào cửa Đất, nghĩa là Dương đi vào mà âm đi ra, theo đó thì ngày dần ngắn lại, đêm dần dài ra, khí hậu từ nóng ấm chuyển sang giá lạnh. Trời Đất đóng mở tạo ra giao khí giữa Thiên Địa, là đầu mối khí hóa âm dương vậy.

Nói dùng lấy 3 gồm Trời-Đất-Người, theo độ Trời ra vào ở Đất để mà xem vòng khắp độ Trời, nửa ở trên Đất, nửa ở dưới Đất, đều 182 độ nửa mạnh, lấy Nam-Bắc chia đều 91 độ, 4 phân độ dùng 1 nửa mạnh. Trời từ Nam đến Bắc cho cùng cực ra, mà đầy ở trên Đất ấy, trừ 36 độ ngoại, thì ở phía đầu Nam thường thấy, phía đầu Bắc thường ẩn, ẩn thì chẳng gồm được phần dư ở trên, do vậy ẩn chỉ cùng cực ở phần chính dùng 6, mà thấy gồm phần dư thời đầy dàn mà 7 vậy. Hà đồ 1 hợp 5 thành 6 ở Bắc thường u mờ chẳng thấy, theo số lấy 6 mà cùng cực. 2 hợp 5 thành 7 ở Nam thường sáng mà lợi thấy, Càn 2 dùng rằng thấy vậy, nói dư ở 7, theo số lấy 7, dự ở 6 cùng cực mà ra ẩn lấy thấy vậy. Cho nên muôn vật cùng thấy ở Ly, mà cùng về cất dấu ở Khảm. Đồ vua Văn và đồ vua Hy dùng 1 Trời đương Càn ở Nam, Thần (sao) âm tiếp Khôn ở Bắc, thuyết u mờ hiện thấy 6, còn 7 rõ như mắt thấy vậy. Đến như biết trước, tối sau, mà qua loa tả hữu, người đều bỏ 1 dùng 3 cùng Trời Đất không khác, cho nên lấy huống chi vậy. ôi, số Trời Đất đều thể 4 dụng 3, mà cùng nhau làm khác lẫn nhau. Trời khắc đất, ấy là phần Trời âm dương Thái Thiếu mà khắc đi Thiếu âm, cho nên Chấn chẳng dụng mà thiên thần (sao) chẳng thấy. Chấn âm nhiều mà không phụ phận Đất vậy, cho nên nói Trời khắc Đất. Đất khắc Trời, đó là phân Đất cương nhu Thái Thiếu khắc đi Thiếu cương, cho nên Tốn không dùng mà đất đá không sinh, Tốn dương nhiều mà trên phụ phận Trời, cho nên nói Đất khắc Trời. Lấy hai khắc cùng so sánh, mà Trời khắc ấy ở Đất, Trời không dùng mà về dùng Đất, Chấn còn nạp ở Khôn, như Trời chủ về ngày, Đất chủ về đêm, bớt phần dư dương ở ngày, mà chuyển hết về phần đêm, như Tý, Sửu, Dần về phần ngày mà vẫn còn ở giờ đêm dày chưa hết, ấy phần ngày dùng theo tài thành, đến phần đêm dùng theo chịu. Đó là Trời dương dùng 3, nhật-nguyệt-tinh hiện ra mà “thần” ẩn, 3 ngôi sáng đều hội ở “thần”, nên Trời dụng 3 “thần”. Như Đất tuy khắc Trời, bỏ Tốn không dùng, thì cũng không thể nói bỏ phần dư sáng sớm mà về ở ngày, Đất tuy bỏ Tốn mà thủy-hỏa-thổ-thạch, 4 ấy đều đi, đó còn khá thấy, mà không phải thiên thần (sao) dùng ẩn mà chẳng thấy, ví vậy. Đất thấy 4 hành, dẫu thấy rất rõ mà không ẩn, mà dấu ở đó với trong cây, hoặc nửa hiện nửa ẩn, đương khi dùi cây đánh đá để lấy, làm dũng rất nhiều, dẫu như Chấn thần (Sao) ở đêm theo thần vậy thay.

Trời dùng biến 6, 6 theo 6 được 36, làm Càn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào cộng được 216. Đất dùng thể 4, 6 theo 4 được 24, làm Khôn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào, cộng được 144. Theo 2 lệnh dùng thẻ, bèn 1 vạn 1520 (360x32). Nói về thể thời Trời chia mà làm Đất. Đất chia mà làm muôn vật, mà Đạo thì không thể chia. Theo trọn cùng thời muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, bởi vậy mà quân tử quý Đạo. Nói Đất dùng thể 4 là nói Đất dùng thể gấp đôi làm 4.

Lấy 32 làm số của thiên thần (Sao) Chấn, thì số của Càn là 216 x 32= 6912, số của Khôn là 144 x 32= 4608, hợp cả được 11520 là số thông chứa đổi, thẻ trên dưới 2 thiên, đều hết ở đây vậy. Nói về hợp 2 số Lão sách, theo 2 thiếu 32, nhân theo số thẻ còn ấy vậy, nhưng Thiếu tóm ở Lão, dùng Lão mà không dùng Thiếu, lấy số này mà đương với số của muôn Vật. Càn cha Khôn mẹ tượng Trời-Đất, 2 Thiếu tóm 3 trai 3 gái, tượng muôn Vật, đều gốc ở Thái cực trong khoảng động-tĩnh 1 âm 1 dương dùng bởi Đạo, tức là theo số để nói về thể vậy, thời Trời 3 chia đôi làm Đất, cho nên Trời 9 Đất 6, Trời 36 Đất 24, đều 3 phần chia 2, Đất tiếp theo ở phận Trời, trước gấp 3 gấp 4 cũng 9 đấy, cho nên nói rằng Trời chia mà làm Đất, theo sinh muôn Vật thời Đất tiếp theo Trời, mà lại chia các số theo chịu đôi, tùy ở Thái, Thiếu, Cương, Nhu, diễn ấy làm vạn, cho nên nhà trước ấy là Càn, nhờ sinh ấy là Khôn, đất chia mà làm muôn vật, theo đây thì biết vậy. Thẳng nhanh chóng thì Hà đồ Trời 1 chia làm Đất 2, đại diễn chia 2 ấy là tượng đôi, gồm treo 1 nhặt 4 về lẻ, treo thẻ dùng 49 mà doanh lấy 18 lần biến, số muôn vật Trời-Đất tóm đủ ở đây. Lấy thứ bậc theo thứ tự mà nói, đến sinh Vật 1 âm dương, âm dương 1 Thái cực, Thái cực tức là Đạo, khá chia ấy số trong Đạo, chẳng khá chia ấy Đạo trong số, tán khác thời muôn vật, muôn cực toàn thế, thời muôn vật 1 cực vậy, lại chia gì du! đại diễn rỗng 1 để ẩn tàng dùng, Đạo cố nhiên còn ở trong đó vậy, nên nói dùng trọn dùng xét sau muôn vật chứa số 2 thiên trên dưới, về ở Khôn số thẻ 24 mà dùng 6, về ở Càn số thẻ 36 mà dùng 9 vậy, đó là số về của Càn Khôn đều 4 thể vậy. Số Trời thẻ 36 tóm mà về ở trống rỗng 1 là số tàng ẩn, dùng mà thấy với cực làm thể dùng Đạo, bèn biết Đạo ở giữa 1 động 1 tĩnh, số khá suy mà xét, số chẳng khá hết, đồ bầy ra mà xét, đò chẳng khá tìm, quân tử quý đấy, nói chẳng lìa ấy vậy.

Biết 3 theo 4 là 12 vậy, 2 theo 6 cũng 12 vậy, 2 theo 12 là 24 vậy, 3 theo 8 cũng 24 vậy, 4 theo 6 cũng 24 vậy, 3 theo 12 là 36 vậy, 4 theo 9 cũng là 36 vậy, 6 theo 6 cũng là 36 vậy, 4 theo 12 là 48 vậy, 3 theo 16 cũng là 48 vậy, 6 theo 8 cũng là 48 vậy, 5 theo 12 là 60 vậy, 3 theo 20 cũng là 60 vậy, 6 theo 10 cũng là 60 vậy, đều là phép tự nhiên vậy.

Lão dương số lẻ dùng 4 đều lấy 12 nhân lên, ban đầu lấy 3 theo 4, 2 theo 6 đều 12; 4 theo 6, 3 theo 8, 2 theo 12 đều là 24; 4 theo 9, 6 theo 6, 3 theo 12 đều là 36; 6 theo 8, 3 theo 16, 4 theo 12 đều 48; 3 theo 20, 5 theo 12, 6 theo 10 đều là 60. Đố đều là phép tự nhiên. Năm 12 tháng, 24 khí, tháng lại đều 30 ngày, 1 từ 6 khí, 1 khí 6 biến, nhặt thẻ Thi trừ treo thời 48 thẻ, 8 vị đều 8 quẻ gồm 48 hào, 6 Giáp 5 Tý vòng quanh ghi 60, tất thảy theo đây mà định số.

Lấy suy cơ “tham - lưỡng”, ỷ số nói 4 cùng 9 và 6 cùng 6, mà Lão dương thẻ chỉ nói 4 theo 9, không nói 6 theo 6, đó là dương dùng 9 vậy. 9 lấy dương, 6 gồm âm, nửa của 6 để mà dùng đó vậy. Quẻ biến 1 Trinh 3 Hối, quẻ dưới Trinh làm quẻ gốc, quẻ trên Hối làm quẻ biến. Quẻ biến trước 4 vị, làm trời gồm 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn. Quẻ gốc sau 4 vị làm đất gồm Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Lão dương quẻ Càn thể trùng 8 x 3 là 24 vạch dương (Thuần Càn, Trạch Thiên, Hỏa Thiên, Lôi Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, Sơn Thiên, Địa Thiên, tổng hào dương quẻ trên là 12, hào dương quẻ dưới là 24, đây là cốt lõi của mọi thuận toán), gồm thể ngoài 8 quẻ có 12 vạch dương, hợp cả thể trong thể ngoài là 24 +12 là 36, theo thể trong vốn 24 hào dương, 6 theo 4 dùng rằng dương, 6 theo quẻ biến, 6 mà lưỡng đấy, tức 6 mà 2 đấy, chỉ làm âm 6 dùng nửa, bèn hợp 9 theo 4 của quẻ biến mỗi 1; 6 thêm 3 làm 9, 4 theo 6 đều thêm 3 vào thì được 4 x 9 làm 36, 3 này là nửa của 6, 6 gồm 3 làm 9. Số Khôn sao 1 lại không như vậy? Khôn dùng 6 vị làm Càn, gồm biến thể trên về vị thứ, trừ hào Sơ và hào Thượng, chỉ còn 24 thẻ, không phải 9 là khá nói vậy. Lấy thể trên dưới 2 quẻ chính biến mà nói, hào đều 3 âm 3 dương, ngôi vị Sơ- 3-5 là của dương, ngôi vị 2-4-Thượng là của âm. Phàm làm 6 hào 6 vạch, thì hào 5 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 2 là Đất, hào 3-4 là Người, nói quẻ 3 vạch thì hào 3 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 4 là Đất, hào 2-5 là Người, đều gồm 3 tài mà đôi đấy, cho nên đều 2 vậy. Tóm mà nói, trong âm dương 2 nghi đủ 3 tài, Trời-Đất-Người đều có đủ ở trong âm dương. Trời-Đất-Người đều đủ 3 tài, đủ 2 nghi âm dương đều có ở trong Trời-Đất-Người vậy. Rằng 2 quẻ âm dương đều 3, đôi mà ỷ (dựa) 3, rằng 6 hào, Trời-Đất-Người đều 2, tham (sen) mà ỷ đôi. Rằng âm dương đều có Trời-Đất-Người, đôi mà ỷ 3. Rằng Trời-Đất-Người đều có âm dương, 3 mà ỷ đôi, đó là thuyết tham lưỡng ỷ số vậy.

Xét quẻ 6 vạch, thì vị trí hào 1-3-5 là trên Trời, vị trí hào 2-4-6 là dưới Đất, như vậy Trời-Đất đều gồm 3. Người có đủ ở Trời-Đất, bèn gồm 4 khi bỏ hào Sơ và hào Thượng, trong đó hào 3-5 nửa hợp Trời, hào 2-4 nửa hợp Đất. Có thể nghĩ Người ở trong khoảng Trời-Đất theo để mà lập cùng Trời-Đất vậy.

Nói về “hào số”, thì “dương thất chi tĩnh thủy vô Khảm”, “dương thất” chỉ hào Dương trong quẻ Khảm vì là số 7, số 7 là số Thiếu dương, là số khởi đầu dương số. “Dương cửu chi động thủy vô Chấn”, dương cửu là hào Dương trong quẻ Chấn vì là số 9, số 9 là số Dương thịnh tới cực. “âm bát chi tĩnh thủy vô Ly”, âm bát chỉ hào âm trong quẻ Ly vì là số 8, là số Thiếu âm, là khởi đầu của số âm. “âm lục chi tĩnh thủy vô Đoài”, âm lục là số chỉ vào hào âm quẻ Đoài, là số 6 là tinh túy của âm, là số cực âm.

Dương số 1 dưới diễn đấy mà 10 là loại 10 Can. âm số 2 diễn đấy mà 12 là loại 12 Chi. 10 Can là Trời vậy, 12 Chi là Trời-Đất vậy, Can-Chi sánh Trời-Đất đều dùng vậy. Cán có nghĩa là Cán (thân cây) là dương vậy.Chi có nghĩa là cành, là âm vậy. (Một thân cây gọi là dương, nhiều cành tán gọi âm). Can 10 Chi 12 đó là trong số dương có âm, trong số âm có dương vậy. 1, 10, 100, ngàn, vạn, ức,… làm Cơ (lẻ), số Trời vậy. 2, 12, 20, 12 trăm, 20 vạn, 12 ức, … làm chẵn, số Đất vậy. Thi 4 tiến đấy thời trăm, quẻ 4 tiến đấy thời trăm 20 (120). Trăm thời 10, trăm 20 thời 12 vậy.

Số dương 1, số âm 2, 10 Can thời 1 diễn mà 10, Giáp đến Quý là loài tuần ngày vậy. 12 Chi thời 2 diễn mà 12, Tý đến Hợi là loại 12 tháng vậy. 10 đôi theo 5, 12 gấp bội theo 6, Can làm Trời, Chi làm Đất, mặt Trời thì Sao là dương sánh Can, mặt Trăng thì Thần là âm sánh Chi, Trời-Đất đều dùng vậy. 10 số Can thì Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm là 5 Can dương, Ất-đinh-Kỷ-Tân-Quý là 5 Can âm, đó là trong số dương có âm. 12 số Chi thì Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất là 6 Chi dương, Sửu-Mão-Tị-Mùi-Dậu-Hợi là 6 Chi âm, đó là trong số âm có dương. Tới Can-Chi mà Trời-Đất dùng 5-6 số giữa lập dùng số thấy vậy. Do vậy mà có thể diễn tới vô cùng, biết 1 diễn mà 10, 10 diễn mà 100, càng diễn tới vô cùng thì vẫn không lìa 10, số 1 và số 10 lần lượt tích lũy, vốn số trời mà lẻ vậy. 2 diễn mà 12, 12 diễn mà 120, càng diễn tới vô cùng đều dùng gồm 2, đều chẳng lìa 1 với 12 lần lượt tăng thêm, vốn số Đất mà chẵn vậy. Số Trời 25, Thi 4 tiến được số Trời là 100, số Đất 30 thẻ, Thi 4 tiến số Đất là 120. Như vậy, 100 coi là 10, 120 coi là 12, diễn ra đấy càng nhiều, giữ lấy đấy thì càng buộc lại vậy.

Số 50 chia đấy thời làm 5 theo 10, khi tham dùng lưỡng đấy thời làm 6, đôi Đất lại lưỡng đấy làm 4, đó là Trời-Đất chia số Thái cực vậy. Khí này là nhà của Thần vậy. Thể ứng là nhà của Khí vậy. Khí lấy 6 biến, Thể lấy 4 chia, Thể 4 mà biến 6, bao gồm thời cùng Khí vậy. Khí biết tất là 6, cho nên là 360 vậy.

5 là nửa 10; 10 là gấp của 5, thông 5 cùng 10, 10 mà 5 cùng 5, không gì chẳng phải 10, phương Chi 1 với 9, 2 với 8, 3 với 7, 4 với 6, có 1 chẳng hợp làm 10 sao? Như lưỡng theo tham Trời thì làm 6, lưỡng theo lưỡng Đất thì làm 4, hợp Trời cùng Đất theo đôi số, đều lấy động-tĩnh chia Thái cực dùng thành số. Thái cực rỗng ở giữa. 50 tức theo số vậy. Rỗng 1 không dùng, theo diệu mà dùng như vậy là rất mực vậy. Khi nói dùng 6 với 4, lại gồm dùng nghĩa với Thể. Khí dương làm Trời là nhà của Thần, mà Thần là Khí linh diệu nơi biến hóa. Thể âm làm Đất, lại là nhà của Khí vậy, Khí làm Thể nơi chỗ lưu động đầy đủ vậy. Khí tuy là nhà của Thần, khi biến lấy 6, 6 gấp Thiên tham, Càn vận 6, 6 mà biến vòng khắp. Thể tuy là nhà của Khí, theo chia lấy 4, 4 gấp Địa lưỡng, Khôn chứa 4, 4 mà chịu thành vậy. Cho nên, 6 Khí Trời lấy thần diệu muôn vật mà buổi trăng ứng đấy 4 Thể. Đất lấy Khí hợp, tiếp Trời mà vật tượng nhân đất, xét đấy. Lấy Thể cùng Khí gồm vậy, nên Khí biến, tóm lấy 6 vòng khắp, 6 nhân theo 6 mà 1, 10, 100, 1000 đấy, tuy trải 360 vận còn như 360 ngày vậy.

Trời 6 Đất 4. Trời lấy “khí” làm “chất”, lấy “thần” làm “thần”. Đất lấy “chất” làm “chất”, lấy “khí” làm “thần”, duy Người có đủ gồm muôn vật mà làm muôn Vật dùng thông, nhe tiếng chim muông lấy theo loài mà điều bầy đều theo 1, chẳng gì chẳng hay đó là Người vậy. Suy đến việc khác cũng chẳng việc gì chẳng thế, duy Người được Trời Đất giao cho để chịu mệnh, còn tất cả các loài khác thì không vậy. Đời người thực nói là rất quý vậy. Trời Đất cùng theo quý mà không tự quý là trái với lẽ của Trời Đất, sự chẳng lành chẳng gì to bằng vậy.

Lại nhân đồ tròn 6 theo 4 mà nói, Trời gấp “tham” mà 6, Đất gấp “lưỡng mà 4. “Khí” lấy 6 biến, tuy là nhà của “thần”, Trời nổi lên trên mà “khí” chuyển làm “chất”, “thần” ứng vi diệu theo để dụng nên lấy “thần” làm “thần”, chết ở trong mà “thần” lấy làm thiêng đó vậy. Thể lấy 4 phần, là nhà của “khí”, Đất ngưng đọng xuống dưới mà “chất lấy làm “chất”, “khí” lưu hành theo để biến hóa, nên lấy “khí” làm “thần”. Do đó, “chất” lấy làm thực, “khí” lấy làm hư vậy. Càn tư thủy, nên “thần” dụng “thần”, Khôn tư sinh nên “khí” dụng “thần”. Cho nên loài Vật có vạn Trời vạn Đất, mà “thần khí” trọn vẹn duy chỉ có loài người. Vậy Xuân mà loài Người thiêng, tiếng thú đều hay 1, mà Người không gì không hay biết, mọi việc khác đều thế. Ở loài khác, khi gốc ở Trời mà chia bẩm thụ ở mặt Trời dương thì ở âm thường chẳng đủ. Còn khi gốc ở Đất mà chia bẩm thụ bên trong âm thì ở dương thường chẳng đủ vậy. Người thì hợp Trời Đất, mặt Trời dương mặt Trăng âm cùng giao nhau biến hóa, mà gồm được lấy làm dùng, cho nên 1 hay “không” theo chẳng hay, coi loài khác dùng sinh quý như thế nào đây. Trời Đất sinh Người, cùng lấy rất quý, chẳng tự quý mà cam hạ xuống cùng với Vật, đó là trái với lý sinh, há chẳng phải bất tường dùng to lớn du! Cho nên, quân tử dẫm lên “tình”, trở lại “tính” dùng làm quý vậy.

âm không 1, dương không 10, dương không 10 cho nên không đủ ở sau, âm không 1 cho nên không đủ ở đầu.

Trời khởi ở số “1” trước tiên, Đất bắt đầu khởi ở số “2” làm đầu, cho nên âm không có số “1”. Số Đất sau cùng là 10, số Trời sau cùng là 9, cho nên dương không có 10, không 10 thì 1, 3, 5, 7, 9 là số không đủ ở sau, không “1” thì 2, 4, 6, 8, 10 là số chẳng đủ ở đầu. Việt Châu bàn: trước không nói 1, còn lấy đấy để làm “thể”, sau không nói 10, dấu đi lấy đấy để làm “dụng”. 10 dùng sau cũng như 1 dùng theo trước, như đồ quẻ Phục thì 1 dùng trước cũng như 10 theo sau ở đồ quẻ Khôn vậy, trước sau dùng hội Trinh nguyên cùng giao, theo 1 động 1 tĩnh mà dùng ở khoảng giữa. Điều này như ở ngoài ý gốc, sẽ sinh giải vậy.

Tham hàng ngũ lấy biến, lẫn đầu theo số mà Trời Đất xung nhau, ngày đêm giao nhau. Số “1” này là số đầu mà chẳng phải số vậy, cho nên 2 với 2 mà làm 4, 3 với 3 làm 9, 4 với 4 làm 16, 5 với 5 làm 25, 6 với 6 làm 36, 7 với 7 làm 49 đó là đều dùng theo biến. Số đại diễn là gốc của toán pháp sao? Lấy tóm số dùng khai triển lên chẳng qua ở vuông tròn cong thẳng vậy, số trừ là số tiêu vậy. Toán pháp dẫu nhiều chẳng qua dùng ở đây vậy.

Bầy Hà đồ số Trời Đất mà tỏ rõ sen hàng lấy biến, lẫn lộn hợp cả theo ganh đua để mà dùng. Số trời đất với số cùng xung nhằm ngày đêm cùng biến, cùng giao nhau. Xung ấy là trước sau biến mà khẩn tiếp. Giao ấy là kia với đây hợp mà cùng đắp đổi nhân lên. “Tham” thì trời 1 đất 2 liền hợp, hàng ngũ thì 1-4 hay 2-3 dùng đắp đổi gồm tính, bởi thế mà “tham” nhân hàng ngũ nhân lên làm lẫn lộn làm hợp cả lại, số “không” chẳng cùng cực, biến “không” chẳng thông, theo mà chẳng biến ấy là “1” vậy, “1” làm số dùng đầu là lấy số sinh tóm số, mà chẳng phải khá lấy số mệnh vậy. Cho nên một vật chẳng rằng số vật 1, 1 như 1 vậy. Từ 1, 1 trở lên 2, 2 rồi 3, 3 rồi 4, 4 rồi 5, 5 rồi 6, 6 rồi 7, 7 nhân mà nhân lên đấy, làm 4, làm 9, làm 16, làm 25, làm 36, làm 49, chẳng phải số dùng chửa theo biến vậy. Phàm cất lên Trời 25 số, Càn số sách là 36, đại diễn dùng 49 số, quẻ 64 số, Tỉnh Nguyên phạm 81 số, đều tùy sở dụng dùng biến, mà lần lượt đủ vòng khắp vậy. Bèn biết 1 chẳng biến, là thể tóm dương vậy, sau 1 trở lên đều biến, dùng để hợp với âm vậy. Đại diễn rằng 1 phân, đôi treo 1 đếm 4 về lẻ, hợp đốt ngón tay mà dùng 49 thẻ, biến hóa suy Trời theo tức là gốc toán pháp vậy. Lấy vuông tròn vòng kính (lối tắt) vẹo, thẳng, câu, huyền, toán phép nhiều ít, số chẳng qua ấy. Theo nhân lên thời sinh, trừ thời tiêu, số thực có phép, coi đấy làm dùng, bỏ đây thời biệt, không bởi đâu toán vậy.

Dương tôn mà thần, tôn cho nên soi được vật, thần cho nên dấu được cách dùng. Lấy đạo sinh Trời Đất muôn vật, mà không tụ thấy. Trời Đất muôn vật cũng lấy phép dùng đạo, dương là đạo chưng dùng, âm là đạo chưng thế. Dương dùng âm, âm dùng dương. Khi lấy dương làm dùng thời tôn âm, lấy âm làm dùng thời tôn dương.

Trời dương thể tròn rất tôn mà nhà ở thần, vì tối đất thấp mà nhà ở khí đó vậy. Khi tôn như vậy thì vật đều bị sai khiến. Càn sai khiến Khôn cùng với 6 Tý, mà mặt Trời sai khiến chẳng cùng Tinh Thần, khi Thần vậy dấu dùng, Khôn cùng 6 Tý dấu cách dùng ở Càn, Nguyệt cùng Tinh Thần dấu cách dùng ở nhất Nhật đó vậy. Sai khiến vật mà các loài ứng theo, theo rõ rệt điều nhân đợi nói. Dẫu như dùng thời về theo ở đạo Thái cực, trời đất muôn vật, đều gốc ở đạo sinh ra, mà dấu cách dùng mà chẳng tự thấy, đó là nhà ở thần diệu mà cấp ngàn vạn vậy. Bèn biết dấu cách dùng là cái gốc sai khiến vật. Trời Đất dùng to, muôn vật dùng yên, phạm vi khúc thành, ít chẳng phải lấy phép ở đạo vậy. Đạo cùng làm cách dùng dương đạo 1 mà thôi. Tự theo chia mà nói, âm làm Thể mà dương làm Dụng, mà lần lượt dùng giao tôn âm Dương, Nguyên hợp Chấn đến Đoài đều dùng Dương, âm trên Trời tôn âm, từ Tốn đến Cấn đều dùng âm, trên Dương thời tôn Dương. âm vốn thấp mà sai khiến ở Dương, ở dấu cách dùng, thời có lý tôn âm. Dương vốn tôn mà sai khiến ở âm, tuy Dương ở dấu cách dùng, thời càng thấy thực lý tôn Dương. Cho nên sai khiến vật lấy dùng âm vậy, dấu cách dùng là để tôn Dương vậy.

âm ngõ hầu ở Đạo, đó là lấy cảnh hướng tới Đạo, 6 biến mà thành 36, 8 biến mà thành 64, 12 biến mà thành 384 cũng như 49 biến mà thành 384 vậy.

Đạo hợp âm Dương mà Dương rõ rệt còn âm lại dấu, dấu mà chẳng thấy Đạo không khá trỏ, song âm tĩnh lấy thai, Dương dùng động âm thể lấy ý kín Dương chưng dùng, theo ngõ hầu ở Đạo vậy. Cũng rõ rệt vậy, cho nên Đại diễn lấy số chẳng dùng bỏ dùng, cảnh huống đấy, phương cho dùng Đạo vậy. Tới Thi sách quái biến mà nói, Đạo tức là số mà còn, theo 6 biến, 7 biến, 8 biến, 12 biến, 49 biến, 64 biến, biến với biến nhận lên nhau không chẳng phải Đạo càng biến mà càng có, bèn lấy thành 36, 47, 64, mà số đếm thì Càn sách gồm cả quái số, hào số, không gì chẳng đủ vậy. Ấy lại số với số cùng chức, cùng lấy cảnh huống Đạo dùng, càng diễn mà càng vô cùng vậy, mà gốc ở theo Đạo dùng theo khắp biến ấy, dương làm chưng dùng đều có chẳng biến ấy, âm làm chưng thể vậy. Cho nên âm ngõ hầu theo Đạo vậy.

Dương chẳng thể đứng một mình, tất được âm mà sau đứng. Cho nên Dương lấy âm làm nền. âm chẳng thể tự thấy, hẳn đợi Dương mà sau thấy, cho nên âm lấy Dương làm sướng, Dương biết theo đầu hướng theo tới thành, âm bắt chước phép ở Dương mà trọn theo công lao.

Độc Dương chẳng đứng, lấy âm làm nền, âm một mình chẳng thấy, đợi Dương bèn sướng, lẻ chẵn cùng dựa nhau, thể dụng cùng nên nhau. Cho nên, Càn biết trước mà hướng Khôn dùng thành, là được âm vậy. Khôn bắt chước mà trọn công lao Càn, là âm theo Dương vậy. Xem Trời từ Lâm trở lên, xem Đất từ Độn trở xuống theo tượng, nên du! Trời lấy Thái biến Tỉnh, Đất lấy Tỉnh biến Thái, theo sướng dùng tượng du!

Dương hay biết mà âm chẳng hay biết, Dương hay thấy mà âm chẳng hay thấy. Hay biết hay thấy ấy có làm cho nên tính dương “có” mà tính âm “không”. Dương có theo chẳng lệch, mà Am không theo cũng chẳng lệch. Dương có đi mà âm thường ở, “không” chẳng lệch mà thường ở ấy làm thực, cho nên thể của Dương thường hư mà thể của âm thường thực vậy.

Tính Dương sáng, tính âm mờ. Sáng thì hay biết, hay thấy mà rõ rệt cách dùng, rõ rệt “có”. Mờ thì chẳng hay biết, hay thấy, mà dấu cách dùng “không”. Cho nên rõ nhân là Dương, mà dấu cách dùng là âm. Nhưng Dương lấy biết làm trước, âm lấy tác thành làm trước, lấy mờ dùng thành mà chửa xét theo thành, cho nên có theo cũng chẳng lệch, thành lấy hết mà dùng trước, mà đã thâu tóm theo trước, cho nên không theo chẳng lệch Dương tạo ra “có” mà mới, mới mà ráo đi cũ, thời “có” bỏ đi vậy. âm giữ “không” mà cũ, cũ mà ngậm mới, thời thường ở vậy. Vì dùng làm thể ở, Dương động mà làm khách, âm tĩnh mà làm chủ. Thực rằng ấy, nhà khí lấy thể thấy làm hư mà thể thực làm thuộc vậy. Theo “không” chẳng lệch mà thường ở ấy phải du! Hư rằng ấy, nhà thần lấy khí thấy làm thực, mà thực lại hư vậy, theo “có” chẳng lệch, mà “có” đi ấy phải du! Nếu Thần thời Nhật Nguyệt Tinh dùng theo trải, “không” theo chẳng lệch, mà thường Tinh lấy ở Nhật Nguyệt Tinh tượng “có” mà thể hư, Thần thời tượng “không” mà thể thực, song Nguyệt cũng thể âm, mà cùng với Nhật Tinh đồng ấy là đồng ở Trời chưng dùng mà Thần thời chẳng dùng chưng thể, cho nên chuyên nói tới Thần vậy.

Khí biến mà Hình hóa, Hình có thể chia, mà Thần không thể chia. Dương sinh âm cho nên Thủy thành trước. âm sinh Dương cho nên Hỏa thành sau, âm Dương cùng sinh vậy, thế Tinh cùng đợi vậy. Ấy lấy Dương đi thời âm kiệt (hết), âm hết thời Dương diệt. âm đối Dương làm 2, song Dương đến lại thời sống, Dương đi thời chết. Trời Đất muôn vật sống chết chủ ở Dương thời về đấy dùng 1 vậy.

Nói về biến hóa, thì có chia Khí với Hình, Khí dương thuộc Trời, biến là Khí thuộc Trời, lấy vật theo biến. Hình âm thuộc Đất, hóa là Hình thuộc Đất, lấy vật để hóa. Cho nên, Nhật Nguyệt Tinh Thần thành tượng ở Trời, đó là đều ứng với Khí dùng biến. Thủy Hỏa Thổ Thạch thành chất ở Đất, đó là đều theo Hình dùng hóa. ông Việt Châu lấy thượng quái biến thuộc về Khí, còn hạ quái biến thì thuộc về Hình. Biết lại 1 thấy vậy. Song Khí ấy là nhà Thần, Khí biến thành Hình mà Thần đủ vậy. Hình thì có thể phân chia, như Ngũ hành đều thành mà Hình có thể phân chia mà gọi đấy. Thần thì chu lưu mà không thể phân chia, cũng như Ngũ hành chưa thành Hình trở về trước, cùng thành Hình trở về sau, không gì không phải 1 Khí ấy gây nên đi quanh ở trong, thần diệu mà chẳng phải bởi đâu phân chia ra vậy. Kia 1 lấy 4 biến, Hình phân chia mà Thần hợp, theo khá biết vậy. Thử xem Thủy Hỏa đã thành, cái nào trước cái nào sau, bèn lấy cái cớ âm Dương đợi nhau, Dương sinh ở âm, trước thành là Thủy, âm sinh ở Dương, sau thành là Hỏa. Thủy dùng sinh lấy ở Trời 1, Hỏa dùng sinh lấy ở Đất 2, Thủy đã thành lấy ở Đất 6, Hỏa đã thành lấy ở Trời 7. Như vậy, 1 với 2, 6 với 7 mà trước hay sau chẳng đợi phải nói, bèn biết âm làm Thể, Dương làm Tính, âm cũng sinh Dương, Thể đợi Tính, Tính cũng đợi Thể, cả đôi chẳng thể thiếu nhau. Nếu Dương đi là có Thể mà không có Tính, theo đó mà xét, âm lấy kiệt mà âm hết, nếu âm hết là có Tính mà không có Thể, Thể xét vậy Dương lấy diệt, ấy cho nên động tĩnh đổi gốc sinh thành Đạo để dùng, hết thảy đều đầy đủ ở số vậy. Đạo để dùng nói rằng: âm Dương đều 1 vậy, lấy âm đối Dương thì làm 2, mà sở chủ duy nhất Dương, Dương tôn mà Thần lấy để sai khiến âm đó vậy. Cho nên, Dương lại (đến) Phục, muôn vật quay về sinh, Dương đi hết thì muôn vật tới chết, hợp Trời Đất là hợp sinh với thành, muôn vật biến và hóa, theo sống và chết đều là 1 chủ ở Dương đến hay đi, dẫu có 2 mà quy về ở 1 đó vậy.

Trong Dương là dương Nhật vậy, trong Dương là âm Nguyệt vậy, trong âm là dương Tinh vậy, trong âm là âm Thần vậy, trong Nhu là nhu Thủy vậy, trong Nhu là cương Hỏa vậy, trong Cương là nhu Thổ vậy, trong Cương là cương Thạch vậy. ôi, 4 tượng ấy nếu lẫn lộn với nhau mà dùng đấy, Nhật Nguyệt là âm Dương của Trời, Thủy Hỏa là âm Dương của Đất, Tinh Thần là Cương Nhu của Trời, Thổ Thạch là Cương Nhu của Đất. Trăng ban ngày khó thấy, nên làm âm ở trong Dương, Tinh ban đêm khó thấy, nên làm Dương ở trong âm. Mặt Trời thấy ở ban ngày, mặt Trăng thấy ở ban đêm, mà nửa chẳng thấy là sao vậy? Tinh (sao) nửa thấy ở đêm, là bậc sang hèn vậy. Mặt Trời theo bầu Trời mà chuyển, mặt Trăng theo mặt Trời mà đi, Tinh (sao) theo mặt Trăng mà thấy. Cho nên, Tinh (sao) bắt chước mặt Trăng, mặt Trăng bắt chước mặt Trời, mặt Trời bắt chước Trời. Trời nửa sáng nửa tối, mặt Trời nửa đầy nửa thiếu, mặt Trăng nửa đầy nửa khuyết, Tinh (sao) nửa động nửa tĩnh, đó là ý nghĩa âm Dương vậy. Trong Dương có âm, trong âm có Dương, đó là đạo Trời vậy. Trong Dương dùng mặt Trời dương là đạo nắng đó vậy, trong Dương dùng âm vậy, lấy theo Dương dùng loại, cho nên thấy nắng ở ngày. Trong âm dùng Dương là Tinh (sao) vậy, sở dĩ hay thấy ở đêm, trong âm dùng âm là Thần vậy. Trời Đất vậy, Thần số 12 (1 với 2) Nhật Nguyệt giao hợp, rằng là thần thần, Thể Trời đó vậy, Thể của Trời là Khí không có Vật đó vậy, Tinh làm mặt Trời theo, Thần làm mặt Trăng theo.

Trong Thiên, Thái dương làm mặt Trời, đó là Dương trong Dương, Thái âm làm mặt Trăng nên làm âm trong âm, Thiếu dương làm Tinh đó là Dương trong âm, Thiếu âm làm Thần đó là âm trong Dương. Càn Đoài đều 4 tượng dùng Thái dương, Càn 1 Đoài 2 mà Đoài làm mặt Trăng, là âm đẹp ở trong Dương, lấy chia ở ngang cắt nửa trên Thiên dương, cho nên Đoài làm âm ở trong Dương Càn. Ly 3 Chấn 4 tượng dùng Thiếu âm, mà Chấn làm Thần, là âm ẩn ở trong âm, lại chia ở ngang cắt nửa ở dưới Địa âm, cho nên Chấn làm âm ở trong âm Ly. Đến Khôn Cấn cúng làm 4 tượng dùng Thái âm, ở Đất nói rằng Thái nhu mà Khôn 8 Cấn 7, lại chia cương với nhu làm Thủy làm Hỏa giống như Càn Đoài vậy. Khảm Tốn đồng làm 4 tượng dùng Thiếu dương, ở Đất nói rằng Thiếu cương là Khảm 6 Tốn 5, trong cương lại chia cương với nhu làm Thổ làm Thạch, giống như Ly Chấn vậy. Tuy Dương dùng nội Thiên có khác đôi chút, mà theo bên trong mà biệt bạch gãy gọn vậy. Cho nên suy ra nói 4 tượng chưng dùng, lại như có lẫn lộn dùng biến Càn mặt Trời, Đoài mặt Trăng thuộc Trời, trong Dương dùng Dương, cùng với âm là Khôn thủy Cấn hỏa, lấy Đất theo Trời, thì cũng thuộc Đất. Trong âm dùng Dương, trong âm có Ly làm Tinh, Chấn làm Thần đều thuộc Hỏa, trong Dương dùng dương Cương mà âm Nhu, Khảm làm thổ Tốn làm thạch, đó là lấy Trời coi Đất, thì tự thuộc Đất. Trong âm dùng dương Cương mà Nhu âm, đó là đạo lập nên Trời, nói rằng âm với Dương mà Cương với Nhu đã đủ. Đạo lập nên Đất nói rằng Nhu với Cương mà âm với Dương đều còn, cho nên có thể nói rằng giao cùng lẫn mà hợp lẫn lộn với nhau, không có gì khác là trong Trời có Đất, trong Đất có Trời. Lại suy cho tỏ tường, ngày là Dương, mà mặt Trăng cũng có thể thấy, đó là âm đẹp ở trong Dương. Đêm là âm, mà Tinh có khi mới thấy có khi không thấy, đó là Dương thấy ở trong âm. Duy Trời ngày Dương đêm âm thì lúc nào cũng vậy, không lúc nào chẳng thấy như vậy, mặt Trời thì thấy ở ngày, mặt Trăng thì thấy ở đêm, nửa chẳng thấy này thì theo Tháng dùng Sóc (1), Vọng (15), Hối (30), Huyền (8 và 25), đầy với chẳng thường, mà Tinh dùng thấy ở ban đêm, cũng nửa thấy ẩn lặn. Thần mà thấy ở ban ngày là quý, nửa thấy mà theo về đêm là tiện (hèn). Theo Dương tôn âm sai khiến, cũng như thứ bậc vua tôi đó sao? Hay nửa thấy, lại chẳng những Nguyệt Tinh là thể, Nhật dùng chuyển theo Trời, Nguyệt dùng đi theo Nhật, Tinh dùng thấy theo Nguyệt, cho nên Tinh dùng nửa mà thấy về đêm, lấy theo bắt chước Nguyệt mà Nguyệt phần nửa chẳng thấy ở đêm, theo lúc đầu thì chẳng phải bắt chước theo Nhật với Trời. Trời dùng sáng tối làm hai phần nửa, mà đầy với cùng với mỗi phần nửa. Tinh theo Nguyệt bắt chước mà động tĩnh cũng theo phần nửa, âm dương theo nhau nghĩa vốn như thế. Cho nên đạo Trời âm dương thay đổi nhau đều dấu cái gốc, cùng giao nhau cùng làm “có”. Nhật Dương trong Dương đạo làm nắng, mà Nguyệt thì âm trong Dương mà chẳng nói rét, lấy theo loài Dương mà hay thấy ở ngày. Còn Tinh là Dương trong âm chỉ thấy về đêm. Thần thì âm trong âm mà làm Trời dùng Đất, xưa nói rằng: chỗ không Tinh thì đều là Thần, cũng như nơi không Thạch thì đều là Đất. Số Thần gồm 12 mà bảo rằng là nơi Nhật Nguyệt giao hợp. Vì Thần là Thể của Trời, theo đầy khắp đều Khí, mà không có vật tượng trưng có thể chỉ ra được, lấy phụ ở Nhật Nguyệt dùng theo, thì Tinh làm Nhật theo, chia Dương sáng mà có thể thấy, Thần làm Nguyệt theo, theo âm tối nên chẳng dễ thấy. Cho nên Nhật Tinh chép lấy 10 Cán (phần thân cây, Can vậy) Nguyệt Thần chép lấy 12 Cành (Chi vậy), chính theo để dùng mà chia đều thâu tóm ở đây vậy.

Trời lấy cương làm đức nên nhu chẳng thấy. Đất lấy nhu làm Thể nên cương chẳng sinh. Đó là do lấy Chấn của Trời dùng làm âm, lấy Tốn của Đất mà dùng làm Dương. Đất thuộc âm, khi có Dương mà âm bắt chước theo, bởi vậy rất âm đó là Thần vậy, rất Dương đó là Nhật vậy. Bắt đầu khởi ở dùng Trời, mà Đất theo thì chỉ có Thủy Hỏa mà thôi, đó là lấy trên Đất thì đều là Vật có Chất vậy, âm phục Dương mà Hình Chất sinh, Dương phục âm mà Tính Tình sinh. Dương sinh âm, âm sinh Dương, Dương khắc âm, âm khắc Dương. Dương khi dùng chẳng khá phục âm mà chẳng thấy ở Đất, âm khi dùng chẳng khá khắc Dương mà chẳng thấy ở Trời. Phục Dương dùng Đất thì Thể tất nhu, đó là do sợ Dương mà làm Dương theo dùng. Phục Dương dùng Trời thì Thể tất cương, đó là do chống đối Dương mà làm âm theo dùng. Cho nên, Thủy Hỏa động mà theo Dương, Thổ Thạch tĩnh mà theo âm. Nhật ở chung thủy thì sinh (có đầu có cuối), khi lìa xa thì chết, giao với không giao bởi dùng, rằng nói vậy.

Chấn làm Thần của Trời, mà sao không thấy, đức Trời cương mà nhu lấy phục vậy, do bởi phục nhu cho nên chẳng thấy. Tốn làm đá đất chẳng sinh ấy, thể đất nhu mà cương lấy nhắc nhở vậy. Khắc thì chẳng thể sinh, Chấn dương mà âm hào nhiều, Tốn âm mà hào dương nhiều. Đất sinh âm mà âm bắt chước dương, bắt chước dương để làm tôn dương thành tượng, dùng để nói rằng Càn dương để cho âm bắt chước theo đấy, bắt chước theo phép dùng đó là Khôn, cho nên rất mực âm chẳng bằng thần, rất mực dương chẳng bằng nhiệt. Chấn đến dùng Càn là đức ở số Trời, như Đất thì Khôn làm Thủy, Cấn làm Hỏa, đó là bắt chước theo Trời dùng Nhật và Thần mà thôi. Phàm đã là tôn dương mà sai khiến vật, đó đều bởi âm (thấp) mà dùng làm chưng dụng vậy. Khi lấy bầy ra ở trên Đất như Thủy Hỏa Thổ Thạch, thì mọi vật chẳng gì chẳng thành chất, nguyên theo hình chất bàn về sinh, thì trong âm phục (nép) dương sẽ suy theo Tính Tình cũng dùng sinh, khi dương phục âm, lại lần lượt thay nhau làm gốc rễ dương bèn sinh âm, ví như Ly dùng dương tiêu, Khảm dùng âm sinh đó vậy. âm cũng sinh dương, như Khảm dùng âm tiêu thì Ly dùng dương sinh, ngày theo cùng với sinh, biết theo cùng khắc. Đây sinh kia, là âm dương loại vậy. Cho nên Đất âm bắt chước theo Trời cách dùng, cốt do xem ở cách dùng là phục với khắc vậy. Dương có thể rễ phục mà cũng chẳng dễ phục, như Khảm một hào dương có thể phục, trên Tốn hai hào dương thì chẳng dễ phục, chẳng dễ phục thời chẳng thấy ở Đất, cho nên Đất Hỏa thường thấy ngấm ở Thạch. âm có thể dễ khắc mà cũng chẳng dễ khắc, như Ly một hào âm có thể dễ khắc, trên Chấn hai hào âm thì lại chẳng dễ khắc, chẳng dễ khắc này chẳng thấy ở Trời, cho nên Thần của Trời thường thấy hợp ở Nguyệt. Khi bàn về dương phục, lại có ít có nhiều, như Khôn có 12 hào dương và 36 hào âm (Khôn, Bác, Tỷ, Quan, Bĩ, Tụy, Tấn, Dự), Cấn có 20 hào dương và 28 hào âm (Khiêm, Cấn, Khiển, Tiệm, Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá), đây là dương phục ít, đó là âm theo thể của nhu mà sợ dương, bèn làm dương theo dùng, Khảm có 20 hào dương và 28 hào âm, Tốn có 28 hào dương và 20 hào âm, đây là dương phục nhiều, đó là âm theo thể của cương mà chống dương, bèn làm âm theo dùng. Cho nên Khôn Thủy và Cấn Hỏa, thì Tính của Hỏa cương mà Thể lại nhu, cùng với Thủy đều động chẳng tĩnh nên đều theo dương, đó là vì còn biết sợ dương vậy, Khảm Thổ với Tốn Thạch thì Tính nhu mà Thể lại cương, Thổ với Thạch đều tĩnh mà không động nên đều theo âm, vì chống đối với dương vậy. Qua đây, biết âm bắt chước theo dương cũng còn dương dùng cách phục để làm đứt vậy. Nhật Càn giữa Nam cung Ngọ, Thủy Khôn giữa Bắc cung Tý, Nhật mà ở Thủy cung Tý đó là Càn giao với Khôn, đây là dương lại đến, là quẻ Phục rồi quẻ Lâm quẻ Thái, muôn vật bèn theo sinh. Nhật mà ở Hỏa giao với Khôn cung Ngọ, thì Nhật với Thủy xa lìa, đây là dương lại đi, là quẻ Cấu rồi Độn rồi Bĩ, muôn vật thì 9 phần chết. Theo đây bảo rằng, Nhật ở Nam cung Ngọ thì muôn vật bắt đầu chất biến đổi đó vậy, cho nên Nhật Thủy ở trên thì giao nhau mà chẳng nên lìa vậy.

Dương ở trong Dương thì không dễ mà biến, là Càn vậy, nên một năm chỉ cất lên 12 tháng. âm ở trong âm cũng chẳng dễ biến, là Chấn vậy, nên một ngày dùng chỉ có 12 giờ thôi vậy. Đoài là âm ở trong Dương là Thái dương, Ly là Dương ở trong âm là Thiếu âm, đều có thể biến, nên số ngày trong tháng có thể không đồng đều vậy. Lấy số âm thì lấy 12 để khởi, lấy số dương thì lấy 30 để khởi, mà thường còn 2 và 6 vậy. Cất lên Năm thấy Tháng, cất lên Tháng thấy Ngày, cất lên Ngày thấy Giờ, đó là dương thâu tóm âm vậy, đó là Trời có 4 biến ngậm Đất có 4 biến, Nhật dùng biến ngậm Nguyệt và Tinh Thần dùng biến vậy. Kinh Dịch dùng sinh số 129600, chia ra làm 4320 Thế, đó là số to tiêu trưởng diễn ra làm 30 năm dùng Thần số, tức là theo số vậy. Một năm có 360 ngày, chia ra có 4320 Thần, lấy 30 nhân lên đấy được theo số vậy. Phàm Giáp Tý và Giáp Ngọ làm đầu của Thế, đây là số làm kinh Thế, như Can ngày Giáp tháng Tý, đó là Tinh Giáp Thần Tý, lại nói rằng: đó là số kinh Thế mà Nhật Giáp Nguyệt Tý, Tinh Giáp Thần Tý cũng theo đấy vậy. Vốn chỉ có 1 khí, khi sinh thì làm Dương, khi tiêu thì làm âm, cho nên 2 đó mà lại chỉ 1 mà thôi, 4 đó mà chỉ 2 mà thôi, 6 đó mà chỉ 3 mà thôi, 8 đó mà chỉ 4 mà thôi. Đây chỉ nói về Trời mà chẳng nói về Đất, cũng như chỉ nói về Vua mà không nói về bề tôi, nói Cha mà không nói về Con, nói Chồng mà không nói về Vợ. Song Trời có được Đất thì muôn vật mới có sinh, Vua có được bề tôi thì muôn giáo hóa mới được thi hành, Chồng được Vợ, Cha được Con thì đạo nhà mới thành. Cho nên, có 1 thì tất có 2, có 2 thì tất có 4, có 3 thì tất có 6, có 4 thì tất có 8, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần cộng vào làm Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch gộp vào làm Đất, tai-mắt-mũi-mồm hợp làm cái đầu, tủy-máu-xương-thịt cộng làm thân, đó là 5 dùng số vậy.

âm Dương có khí có tượng, khí thuộc “không” mà chẳng dễ thấy, tượng thuộc “có” mà chẳng dễ biến, lấy 4 quẻ tượng của Trời mà nói thì Càn là dương ở trong dương, đó là thuần dương, là lẻ đó vậy. Lấy năm để dùng 1 tượng của Trời là quẻ Càn, khi cất lên 12 tháng thì có thể biết về 1 năm. Chấn là âm ở trong âm, là chẵn vậy, Nhật dùng 1 tượng này, chẳng khá khi cất lên 12 Giờ mà có thể thấy được. Đó là rất chuẩn mực của tượng khi dùng to hay nhỏ, ở đây cũng chẳng dễ biến đó vậy. Theo nhau mà chẳng khó biến ấy, thì khi nói về Năm phải kể tới Tháng, nói về Ngày thì phải kể tới Giờ. Ngoài số dùng là 12 ra, dẫu Năm có sai đầy hay rỗng theo Phân, mà cũng chẳng lấy biến theo số thường vậy.

Quẻ Đoài và Ly đều 2 lẻ 1 chẵn, Đoài thì làm âm ở trong dương, đó là Tháng (Nguyệt) dùng theo số của Ngày vậy. Ly thì làm dương ở trong âm, là Tinh dùng theo Tháng, đều có thể biến, rằng nói vậy. Năm lấy Tháng để chép, mà Tháng thì được chia làm 12 tháng, Ngày thì lấy Sao, Tinh tú để chép, mà Ngày được chia theo số là 30 ngày, có thể phân chia thì có thể biến, lấy số âm theo Chi của Tháng, tức là lấy theo 12 phần khởi từ Tý đến Hợi là đủ khắp vòng. Số dương theo Can của Ngày, tức là lấy theo 30 phần khởi từ Giáp Tý đến Quý Tị thì cũng đủ một nửa của khắp vòng vậy. Như vậy, thì 12 làm số của 1 Nguyên, cũng là số của Hội, còn 30 là số của 1 Hội dùng số của Vận đó vậy, mà Vận dùng số của 12 Thế, thế dùng 30 năm, cũng tức là còn ở ấy vậy. Nói rằng thường còn 2 và 6, tức là 12, nói rằng số đương lấy số 30 thì thường còn số âm là 12, hoặc lấy số âm là 30 thì số dương thường còn là trong 12, đó tức là Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần lấy theo để suy ra Nguyên, Hội, Vận, Thế, thông qua đây có thể nhận biết vậy. Cho nên, cất lên Năm thì có thể thấy được số của Tháng, cũng như cất lên Nguyên thì thấy được Hội; cất lên Tháng thì có thể thấy được số của Ngày, cũng như cất lên Hội thì thấy được Vận; cất lên Ngày thì có thể thấy được số của Giờ, cũng như cất lên Vận thì thấy được Thế. Tất cả đều lấy số dương 30 thâu tóm số âm 12 mà thấy được vậy. Khi dương thâu tóm âm, thì Trời bèn ngậm Đất, gồm Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch là 4 biến của Đất, tương đương với 4 biến của Trời là Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần. Trong 4 biến của Trời lại quy về ở Nhật (thâu tóm về), Nhật 1 biến mà ngậm 2, mọi biến thông để đầy đủ thì 1 quẻ biến thành 4 quẻ, bỏ hào Sơ, lấy giao biến hào Thượng, trong hào dương thâu tóm hào âm thì có thể thấy vậy. Bởi đó để suy 64 quẻ biến thành 256 quẻ, đều là dùng cái lý 1 ngậm 4. Cũng là nói lấy số sinh của Dịch 1, 2, 3, 4, 5 đó vậy.

Lấy số 1 làm số của Nguyên, 2 làm số của Hội, 3 làm số của Vận, 4 làm số của Thế, tương đương với số 129600. Lấy số 4320 mà kể là số thâu tóm của Thế về 1 Nguyên thẻ số lẻ, thì bỏ số 5 lại dùng 1 là ý đó vậy. Phàm chứa âm dương tiêu trưởng số lớn mà diễn 30 năm làm 1 Thế, số của Thần cũng là số này vậy. ôi, 6 tháng làm 1 biến, có thể làm 1 năm tiêu trưởng của số nhỏ, 6 Hội 1 biến tương đương với 1 Nguyên khi tiêu trưởng số lớn, lấy số nhỏ để thấy được số lớn, theo số lần 1 Thế được số năm 1 Nguyên, còn khi lấy số lớn để thấy được số nhỏ thì số năm 1 Nguyên, tức là số Thần của 1 Thế đó vậy. Suy theo số mà diễn ra, từ 1 năm khởi, 1 năm có 360 ngày, 1 ngày có 12 giờ, thì số giờ của 1 năm là 4320, 30 năm làm 1 Thế, lấy 30 x 4320 = 10800 giờ, đó là 30 năm theo 360 ngày, 30 x 4320 = 129600, đó là 30 năm theo 4320 giờ của 1 năm, Thần tức là Thế vậy, là Giờ đó vậy. Nếu chia mỗi 10 năm làm 4320 giờ, mà Thế thì lấy số 30 tương ứng với Giáp Tý Giáp Ngọ làm khởi đầu. Giáp Tý thì Đông chí dương đến được quẻ Phục, Giáp Ngọ thì Hạ chí âm đến được quẻ Cấu, mà đến Quý Hợi thì 6 âm cùng cực, Quý Tị thì 6 dương cùng cực, đều tương đương với 30 năm. Theo đồ số kinh Thế (kinh Giờ) thì Nhật theo Giáp, Nguyệt theo Tý, Tinh theo Giáp còn Thần theo Tý, có nghĩa là Nhật và Tinh thì theo dương Can, Nguyệt và Thần thì theo âm Chi, thay đổi nhau theo thứ bậc, Nhật Giáp dùng 1, thì biết rằng 1 là số đứng đầu của Đạo, Nhật làm rường cột cho Vua, mà còn theo đều phép của bầy Tôi vậy. Càn thâu tóm Khôn với 6 Tý, Nhật thâu tóm Nguyệt, Tinh, Thần vốn chỉ làm 1 khí mà thôi, mà lần lượt sinh từ quẻ Phục đến quẻ thuần Càn, sinh này là dương đó vậy, từ quẻ Cấu đến quẻ thuần Khôn mà lần lượt tiêu, tiêu này là do âm đó vậy. Dương sinh thì vật mở, âm tiêu thì vật đóng, nên âm dương là 2 kỳ thực chỉ là 1 khí dùng làm biến đổi vạn vật vậy. Thái Thiếu gồm 4, vốn là 2 khí dùng để chia, nên hào thì có 6 hào mà cũng không lìa ở 3 vạch, quẻ thì có 8 cũng chỉ trong có 4 biến. Xét đấy, thâu tóm làm 1, 1 này làm dương, là Trời vậy, là Vua, là Cha, là Chồng, nói rằng dùng làm cương (rường) theo ra thì là âm Đất vậy, tôi vậy, vợ vậy, con vậy, có thể nói rằng dùng làm kỷ (phép) âm thâu tóm dùng dương, nói cương mà chẳng nói kỷ là khá vậy. Cho nên Nguyệt Tinh đều tóm dùng theo Nhật, đó là dương vốn tôn vậy. Song dương vốn chẳng vần chuyển một mình, tất có được âm để sánh đôi, như Trời, như Vua, như Chồng, như Cha, tất sẽ có Đất, có bề tôi, có vợ, có con, để hợp mà sinh muôn vật mà thành Đạo của Trời Đất, đạo vua tôi, đạo cha con đạo nhà vậy. Nên có 1, 2, 3, 4 thì có 2, 4, 6, 8 theo nhau cùng sánh đôi, cùng diễn ấy thế vậy. Số 5 là sinh số tới cực ở giữa để mà tóm theo 1 chẳng dùng, mà biến 1 duy thì chỉ có 4 biến theo vậy. Cho nên, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần hợp làm 1 Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch hợp làm Đất, tai-mắt-mũi-môm hợp làm 1 đầu, tủy-máu-thịt-xương hợp làm 1 thân, đều 4 cộng mà thành số 5 vậy, nhưng vẫn tóm theo 1 mà thôi.

Dịch có 64 quẻ 384 hào, đều từ ở trong đồ hết, mà Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần thay nhau đắp đổi trái phải ở Trời, lẫn lộn giao qua lại, điều lý rành rành, tự nhiên thành tượng dọc dùng văn (vẻ sáng) là văn của Trời thấy đó vậy. Theo tới số sinh mà nói, Càn lấy 1 làm đầu đứng trước, dùng làm gốc của Trời. Theo tới số thành mà nói, Khôn lấy 2 làm thành, làm hình dùng gốc ở Đất. Từ Phục cho tới quẻ Càn dương sinh dùng thành, từ Cấu đến Khôn, thì thành trở lại dùng sinh. Phàm theo tiến đổi không phương, không gì chẳng phải Đạo cư ngụ ở trong, Đạo ấy là tông tổ Trời Đất muôn vật, ở Trời Đất sinh ra vật, thì vật dùng vạn đấy mà thôi, ở Đạo sinh Trời Đất, cũng ở muôn vật, vật dùng vạn đấy mà thôi. ôi, Đạo ấy là gì? Thái cực vậy. Dịch có Thái cực vốn dĩ đã thâu tóm Trời Đất muôn vật theo ở trong vậy.

Trở lên là Hà đồ Trời Đất toàn số thiên thứ nhất, lấy tiết đầu làm cương lĩnh, các tiết theo sau để phát minh nghĩa của tiết đầu. Tóm bàn theo số 1 mà 2, 2 mà 4, 4 mà 8, 8 mà 16, 16 mà 32, 32 mà 64 là Đạo sinh Trời, Trời sinh Đất, Đất sinh muôn vật, là Thái cực 1 âm dương vậy. Theo ngược, 64 mà 32, 32 mà 16, 16 mà 8, 8 mà 4, 4 mà 2, 2 mà 1 là muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, âm dương 1 Thái cực đó vậy, thấy Hoàng cực tóm ở 1 Nguyên, kinh Thế xem vật, đủ ở đây vậy.

TIêN THIêN TƯỢNG SỐ

Trời Đất định ngôi, tỏ rõ Phục Hy làm 8 quẻ, 8 quẻ tỏ rõ giao lẫn lộn nhau mà thành 64 quẻ. Số đi qua là thuận (số vãng), là số thuận Trời mà đi quay theo bên tả (trái), thì đều là quẻ đã sinh, đó là số vãng vậy. Biết lại đó là ngược (tri lại), như ngược Trời mà đi, đều là quẻ chưa sinh, cho nên nói ràng “tri lai” vậy. ôi, Dịch từ ngược mà thành vậy, nói thẳng giải ý đồ, như ngược mà biết 4 mùa vậy.

Theo thuận số Trời quay bên Trái (tả) mà tiến thì được quẻ đã sinh, đều nói rằng “số vãng” (số đi). Theo ngược Trời đi bên phải (hữu) tiến mà được quẻ chư sinh, đều nói rằng “tri lai” (biết lại). Duy có định ngôi thì chẳng thay đổi, rằng thông khí, rằng chẳng cũng tìm nhau, rằng lẫn lộn nhau, đều Dịch nói ngược lại vậy. Ngược thì “biết lại”, dùng lấy ngược lại để biết 4 mùa. Chấn sơ là Đông chí, Ly Đoài trung là Xuân phân, Càn cuối giao là Hạ chí, đây là dương Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh. Dịch mà Hạ chí, dương bèn đi ngược bên phải trong âm mà tiêu dần đó vậy, Tốn sơ là Hạ chí, Khảm Cấn trung là Thu phân, Khôn cuối giao là Đông chí, âm Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh, Dịch mà sau Đông chí âm bèn đi ngược bên trái trong dương mà cũng tiêu đó vậy. Qua lại đẩy nhau, tiêu trưởng nhân lên với nhau, 4 mùa vòng quanh, số âm dương thuận ngược, theo đó mà có thể hiểu biết vậy. Làm Trời rất trơn, tựa như lấy Trời đi bên trái đi bên phải, lấy cảnh huống thuận - nghịch, mà đều dùng chữ “nhược” (nếu như) mà suy nghĩ, chưa thể chấp nê, sau nói rằng: dương đi trong dương, âm đi trong âm, số đi đều thuận. Dương đi trong âm, âm đi trong dương, số đi đều nghịch.

Thái cực động tĩnh chia, 2 nghi lập, là 1 chia 2 vậy. Dương trên giao với âm, âm dưới giao với dương, 4 tượng sinh vậy, Dương giao với âm, âm giao với Dương mà 4 tượng Trời sinh vậy, cương giao với nhu, nhu giao với cương, mà Đất sinh dùng 4 tượng vậy. 8 quẻ lẫn lộn giao nhau mà muôn vật sinh, chia âm chia dương, thay đổi dùng nhu cương, cho nên Dịch có “ngôi” mà thành dùng đó vậy. 10 chia làm 100, 100 chia làm 1000, ngàn chia làm vạn, nha gốc có thân, thân có cành, cành có lá, càng to thì càng nhỏ, càng bé thì càng nhiều, hợp dùng làm 1, diễn ra ấy làm vạn. Cho nên Càn lấy chia đấy, Khôn lấy hợp đấy, Chấn lấy làm trưởng đấy, Tốn lấy làm tiêu đấy. Trưởng thì chia, chia thì tiêu, tiêu thì hợp, là 4 chia 8 vậy.

Gốc mà thân, thân mà cành, cành mà lá, đều lấy chia mà có, hợp mà tóm. Lấy 1 càng to thì số theo càng nhỏ, diễn mà chia đấy lấy vạn, càng ít theo số càng nhiều. Diễn mà càng nhiều, là theo ở dương mở, Càn thì chia, là ở dùng ngôi Vua đó vậy, cho nên Càn lấy chia dùng hợp mà càng to, theo ở âm dùng Khôn hợp hấp thụ dùng dấu, nên Khôn lấy hấp. Theo mở mà bầy ra ở nghi bên trái, bắt đầu từ Chấn, mà Nhật rải đều ở trưởng, nên Chấn lấy theo trưởng. Theo hấp mà bầy ra ở nghi bên phải, theo Tốn, mà Nhật theo về ở tiêu, nên Tốn lấy theo tiêu. Lớn còn gốc lớn mà cành lấy chia, lại cành lớn thì lá lấy chia. Phục mà đến Càn, càng lớn thì càng chia, do đó Càn là cùng cực số chia vậy, cho nên Nhật lớn thì chia, kịp đến số chia cùng cực, Càn chuyển Cấu, thì tiệm tiêu vậy. Tiêu thì lá tiêu mà cành lấy hấp, cành tiêu mà thân cây lấy hấp, từ Cấu đến Khôn, càng tiêu càng hấp, Khôn là cùng cực của số hấp. Cho nên nói tiêu thì hấp, khi đến số hấp cùng cực thì lại lớn, do đó Ly Đoài lớn để chia, đi theo bởi đang trong cảnh tiến, Khảm Cấn tiêu để hấp, theo bởi đang ở vào cảnh về.

Càn Khôn định ngôi, Chấn Tốn mới 1 giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao. Cho nên Chấn dương hãy còn ít mà âm vẫn nhiều, Tốn âm ít mà dương hãy còn nhiều, Đoài Ly dương dần nhiều, Khảm Cấn âm dần nhiều, ấy lấy Thần với hỏa mà chẳng thấy đó vậy.

Càn Nam sáng, Khôn Bắc tối, Trời Đất định ngôi, khi chưa giao âm dương, trên dưới chia vậy. 1 giao gồm Chấn Tốn là mới giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao, là giao ở giữa và giao ở cuối. Chấn là Càn dương mới giao với Khôn âm, nên dương ít mà âm còn nhiều, Đoài với Ly thì dương dần nhiều. Tốn là Khôn âm trên giao với Càn dương, âm ít mà dương còn nhiều, Khảm với Cấn thì âm dần nhiều, Chấn làm thiên thần, Cấn làm địa hỏa, cả hai đều dương ít mà âm hãy còn nhiều khắc, cho nên Thần thường ẩn mà Hỏa ít âm nhiều chẳng thấy vậy. Ấy từ ích trở xuống đến Dự, sở dĩ là không, vô số đó vậy.

Trước Vô cực, âm hợp dương, sau Vô cực thì có tượng dương chia âm, âm làm mẹ dương, dương làm cha âm, cho nên mẹ dựng con trai trưởng mà làm Phục, cha sinh gái trưởng làm Cấu, ấy lấy dương khởi từ Phục, âm khởi từ Cấu vậy.

Trước nói 4 thì có thể, còn 1 thì không có thể, Trời dùng 4 biến đầy đủ mà 1 lui ở 5, Đất 4 biến đủ là 1 thì lui ở 10, đó là “có” “không” dùng tới cùng cực. Cho nên cơ cực nói rằng dựng mới mà “có” “không” vô cực, đó là Nhật hóa mà “không” vậy. Nói rằng, trước Vô cực vô thoán khá nghĩ thuần dùng âm hấp mà ngậm gốc dương, lấy âm làm mẹ dương mà nghẽn trai trưởng ở trong bụng, dương bèn theo bởi dấy lên từ Phục. Theo dùng dương mở mà chia cành dương, lại là dương làm cha âm mà sinh gái trưởng lúc ban đầu, âm bèn theo bởi khởi ở Cấu. Từ Tốn tiêu mà đến Khôn hấp, tĩnh ngậm dùng cực gốc Trời để sinh, từ Chấn trưởng mà đến Càn chia, động mở dùng cực hang nguyệt để ẩn núp, bèn biết ngàn biến vạn hóa linh diệu trong khoảng 1 động 1 tĩnh.

Ly ở Trời mà đương đêm, nên trong dương có âm. Khảm ở Đất mà đương ngày, nên trong âm có dương đó vậy. Chấn mới giao âm mà dương sinh. Tốn mới tiêu dương mà âm sinh. Đoài dương trưởng, Cấn âm trưởng. Chấn Đoài ở Trời thì dùng âm, Tốn Cấn ở Đất thì dùng dương. Trời lấy mới sinh mà nói, thì âm trên dương dưới, đó là nghĩa giao thái. Đất lấy đã thành mà nói đấy, cho nên dương trên mà âm dưới, ngôi tôn ti vậy.

Dương lấy âm làm “thể”, âm lấy Dương làm “tính”, động là “tính” vậy, tĩnh là “thể” vậy. Tại Thiên thì dương động mà âm tĩnh, tại Địa thì dương tĩnh mà âm động.

Hết tập 7

(Bài viết của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Hội Đền Bà Chúa Kho,Hội Làng Tả Thanh Oai, Hội Chùa Hang, Hội Xuân Đền Thượng, Hội Chùa Bà Thiên Hậu Tổ chức vào ngày 14 tháng giêng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 14 tháng giêng:

1. Hội Làng Tả Thanh Oai

Thời gian: được tổ chức vào ngày 14 tới ngày 16 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn của Đô Hồ phu nhân và vua Lê Đại Hành.

Nội dung: Mở đầu hội là lễ tế thần, lễ rước, tiếp đó là các hoạt động vui chơi dân gian như: chơi cờ bỏi, cờ người, đập niêu, bắt vịt, hát trống quân nam nữ.

2. Hội Đền Bà Chúa Kho

Thời Gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn công danh của đức Bà Chúa Kho, Tứ phủ công đồng.

Nội dung: Tương truyền Bà Chúa Kho sau khi lấy nhà vua Lý, bà xin vua về vùng Vũ Ninh để chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang tổ chức sản xuất ở 72 trang ấp. Bà còn trông nom kho lương thực, bảo quản tốt quân lương trong và sau chiến thắng quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) năm 1076. Khi bà qua đời, nhân dân đã lập đền thờ để ghi nhớ lại công ơn của bà. Quanh năm khách thực phương từ khắp mọi miền tới đây cầu bái rất đông, đặc biệt vào ngày hội là ngày 14 để cầu tài, cầu lộc và vay tiền Bà cho cả năm làm ăn.

3. Hội Chùa Hang

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: khu di tích lịch sữ Chùa Hang, thị trấn chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

Nội dung: Đến với hội lễ chùa Hang, du khách không chỉ được hòa mình vào không khí đông vui, náo nhiệt, khám phá hang sâu, leo núi chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên, mà còn có thể tham gia vào những trò chơi dân gian như: Ném còn, đi cầu thăng bằng, bịt mắt bắt dê, cờ tướng, ném cổ vịt, chọi gà, múa sạp...

4. Hội Xuân Đền Thượng

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tới ngày 15 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh và ghi nhớ công đức của Thánh Thần đã đánh đuổi giặc Nguyên, giữ yên bờ cõi đất Việt.

Nội dung: Đền Thượng nằm trên đồi Hỏa Hiệu thành phố Lào Cai. Hội xuân đền Thượng tổ chức tại trung tâm văn hóa phường Lào Cai, đền Thượng và đền Mẫu. Nghi lễ gồm có khai hội, rước Thánh Mẫu cùng Thiên Hậu Nương, tế cào ngày 14, lễ tạ vào ngày 15 để mong cầu người yên vật thịnh.

Phần hội trình diễn các trò chơi dân gian và các trò chơi dân tộc thuộc miền núi như: ném còn, bắn cỏ, kéo co, đẩy gậy, vật dân tộc, chọi gà, đu quay... Trong ngày hội xuân người ta còn bán các đồ lưu niệm thổ cẩm phong phú và đẹp mắt, sản phẩm địa phương do các cô gái dân tộc Mông, Dao, Thái... xe lanh, dệt thổ cẩm, thêu thùa.

5. Hội Chùa Bà Thiên Hậu

Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 15 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: số 4, đường Nguyễn Du, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn và tưởng nhớ tới Bà Thiên Hậu.

Nội dung: Lễ hội chùa Bà diễn ra trong hai ngày, hàng vạn người đến từ khắp nơi trong cả nước kéo về chợ Thủ cúng bái, vay tiền làm ăn, trả lễ tiền vay trước và rước hương lộc về nhà.

Lễ cúng Bà được tiến hành vào lúc nửa đêm 14 rạng sáng 15. Vị chánh tế chủ trì buổi lễ do bốn bang người Hoa ở thị xã Thủ Dầu Một cử ra theo thể thức luân phiên từng năm.

Vào ngày hội, chùa được trang hoàng cờ xí, đèn lồng rực rỡ từ tham quan đến điện thờ bằng 12 chiếc đèn lồng tượng trưng cho 12 tháng trong năm, kết thúc hội được bán đấu giá lấy tiền làm từ thiện.

Ngoài ra, ở hội còn có đội múa lân, sư tử, hầu các nơi về thi múa, hóa trang mặt nạ, vừa múa vừa đấu võ. Cuối hội là lễ rước kiệu Bà rầm rộ diễu hành qua các phố trong thị xã.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Sao Đẩu Quân

Hành: Hỏa Loại: Ác Tinh Đặc Tính: Cô độc, khó tánh, ngăn nắp, giữ của lâu bền
Sao Đẩu Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Cô độc, khó tánh, ngăn nắp, giữ của lâu bền
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Mệnh

Tính Tình
Đẩu Quân có nghĩa là nghiêm nghị, chặt chẽ, khắc kỷ. Người có Đẩu Quân thủ Mệnh thường cô độc, ít bạn do sự khó tính hoặc câu chấp. Về điểm này, Đẩu Quân giống đặc tính của Cô Thần, Quả Tú. Nếu gặp sát tinh thì gian xảo, quỉ quyệt.
Công Danh Tài Lộc
Đẩu Quân chủ sự gìn giữ của cải lâu bền. Do đó, sao này rất đắc dụng ở cung Tài, Điền và biểu tượng cho sự cầm của, giữ của.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Quan Lộc
Thường làm việc cố định, ít dời chỗ, làm chỗ nào rất lâu. Duy trì được chức vụ, quyền hành. Tuy nhiên, vì Đẩu Quân là sao cô độc nên đóng ở Quan sẽ ít được người giúp việc.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Thiên Di Hay Nô Bộc

  • Ít bạn, không thích giao thiệp với bạn bè.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Tử Tức
  • Đẩu Quân là sao hiếm muộn, chủ sự chậm con, hiếm con, giống như sao Lộc Tồn, Cô Thần, Quả Tú, Phi Liêm...
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Phu Thê
Nói chung, sao Đẩu Quân ở cung Phu Thê thì cô đơn, ít được người bạn đời hiểu biết. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt hai trường hợp:
  • Gặp nhiều sao tốt đẹp: Vợ chồng hòa thuận.
  • Gặp nhiều sao xấu: Thường bị hình khắc, tai ương hoặc ít ra là cô độc, bị bỏ quên (như vợ cả có chồng ngoại tình).
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Tài Bạch
  • Có khả năng giữ của, hà tiện, tiêu xài kỹ..
Đẩu Quân Khi Vào Các Hạn
  • Hạn có sao Đẩu Quân, Kình Dương, Thiên Hình, là hạn bị hình thương, bị cưa cắt hay bị mổ xẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Đẩu Quân

3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bền lâu

Giữa bộn bề những cuộc tình lãng mạn, say đắm nhưng chẳng mấy chốc lại đường ai nấy đi, 3 cặp đôi hoàng đạo dưới đây bên nhau rất bình lặng, giản đơn mà bền bỉ.
3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bền lâu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giữa bộn bề những cuộc tình lãng mạn, say đắm nhưng chẳng mấy chốc lại đường ai nấy đi, 3 cặp đôi cung hoàng đạo dưới đây bên nhau rất bình lặng, giản đơn mà bền bỉ.


3 cap doi hoang dao yeu nhau don gian, ben lau hinh anh
 
Song Tử - Bạch Dương   Sự kết hợp kì lạ này vốn không mấy hợp lý, nhưng vì có tình yêu nên những điều vô lý cũng trở nên hết sức thông thường. Song Tử và Bạch Dương là hai cá tính khác nhau, có chút đối ngược, nhưng đến ngày cả hai mỏi gối chùn chân, tìm về nhau thì sẽ thấy bến đỗ bình yên. Lúc ấy, cả hai đều không còn mơ mộng hay phô trương bằng những điều hào nhoáng, chỉ cần bên nhau là đủ.   Tình cảm đôi bên tiến triển nhanh chóng, mạnh mẽ và không chút giấu giếm. Điều cần nhất của cặp đôi hoàng đạo này chính là sự cảm thông.
Mắt một hay hai mí hé lộ điều bất ngờ về tình duyên
Những người sở hữu tướng mắt hai mí (cả hai bên mắt) có nhân duyên tốt, lối suy nghĩ lạc quan, được nhiều người yêu mến. Bên cạnh đó, người này cũng rất thủy

Thủy Bình – Sư Tử
  Hai cái “tôi” khá lớn gặp nhau lại tạo thành cú nổ tình yêu bất ngờ. Khác với bản tính của mình, Sư Tử cảm thấy tình yêu với Thủy Bình hết sức đơn giản. Vì con người Thủy Bình luôn có sự độc đáo riêng biệt nên dù chỉ cùng nhau làm những việc hết sức bình thường cũng có thể trở nên đặc biệt. Giản dị, chân thành và tự nhiên là cách yêu của đôi bạn.   Khoan dung sẽ giúp cặp đôi hoàng đạo này yêu nhau thoải mái và vui vẻ hơn.   Xử Nữ - Sư Tử  
3 cap doi hoang dao yeu nhau don gian, ben lau hinh anh
 
Hai bên vốn không vừa mắt nhau, nhưng sự bù trừ những góc khuất trong mỗi người lại khiến cặp đôi này xích lại gần nhau hơn. Mối quan hệ trải qua những thử nghiệm, những vấn đề, những va chạm rồi mới có thể tốt hơn, bền vững hơn. Mối tình của Xử Nữ và Sư Tử không có sự ngọt ngào, lãng mạn hay thăng hoa mà là quá trình hai con tim đồng cảm, thấu hiểu và tìm đến với nhau. Như vậy mới càng bền lâu.
  Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bền lâu

Tướng phụ nữ quý hiển |

Thông thường các sách tướng nhận xét tướng pháp phụ nũ thường hay yêu cầu họ hội đủ các tướng tốt về da và hình thể. Ví dụ da thì phải trắng, mà hồng hào thì càng hay. Người phải nở nang. Nhưng hiện nay người ta dùng thẩm mỹ, ăn mặc thì đa dạng nên d
Tướng phụ nữ quý hiển |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ quý hiển |

Những bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục

Về mặt cơ thể không có sao nào chỉ những bộ phận bài tiết cho rõ ràng. Nhưng về bộ phận sinh dục, có sao Kình Dương chỉ dương vật, sao Thai chỉ âm hộ.
Những bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Thiên riêu hay Thiên Hư: bệnh suy thận, dương hư.
- Tham, Riêu
- Đào, Hồng, Không, Kiếp
- Riêu, Cái
Ba bộ sao kể trên chỉ bệnh phong tình.
- Đào Hồng, Kỵ, Mộc
- Đào Hình, Thai, Mộc
Theo Thái Thứ Lang. 2 bộ sao này chỉ bệnh phạm phòng nhưng không được mô tả rõ ràng.
- Đào Hồng, Riêu, Hỷ
- Mộc Cái
Hai bộ sao này chỉ bệnh mộng tinh, di tinh.
- Thai, Không, Kiếp
Bộ sao này chỉ bệnh đau tử cung lệch hay sa tử cung.
- Cự, Kình, Hoả
- Tham ở Tý, Ngọ (có thể đi kèm với Đà La


  Hai bộ sao này chỉ bệnh do tửu sắc, sinh dục quá độ. Tất cả các sao trên có thể đi chung với Sát Tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh. Đi với Không Kiếp thường là nặng và có máu mủ, với Thiên Hình, Kiếp Sát có thể bị mổ xẻ .v.v...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục

Ngưỡng mộ thay, con giáp này trời sinh tốt số

Trong cuộc sống, có người may mắn đủ đường, làm gì cũng thuận buồm xuôi gió, họ được coi là người
Ngưỡng mộ thay, con giáp này trời sinh tốt số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống, có những người may mắn đủ đường, làm gì cũng thuận buồm xuôi gió, họ được coi là những người "tốt số". Vậy trong 12 con giáp, ai là người có số mệnh tốt đẹp ấy? Lịch ngày tốt sẽ tiết lộ cho bạn câu trả lời nhé.     Trên đời này, có lẽ chẳng ai là không mong muốn số mệnh của mình tốt đẹp, làm chuyện gì cũng thuận buồm xuôi gió, cuộc sống hạnh phúc ấm êm, chẳng có quá nhiều điều phải lo phiền.   Số mệnh con người tốt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc chúng ta sinh ra thuộc con giáp nào cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Vậy trong số 12 con giáp, những con giáp nào trời định là người tốt số? Hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm đáp án cho câu hỏi này nhé.  

Nguong mo thay, con giap nay troi sinh tot so hinh anh
 

No.1 Tuổi Tý

  Theo tử vi, người tuổi Tý có số mệnh vô cùng tốt đẹp, dù làm bất cứ chuyện gì cũng dễ dàng gặt hái được thành công. Đó là nhờ con giáp này có tài ứng biến linh hoạt, có năng lực làm việc xuất chúng, san bằng mọi khó khăn trở ngại để tiến bước.    Họ chẳng những thông minh tài trí mà còn rất bình tĩnh, nhạy cảm. Trực giác nhạy bén và khả năng nhìn xa trông rộng cũng khiến cho người tuổi Tý trở thành nhân vật tốt số nhất trong 12 con giáp.   Người này có tham vọng rất lớn, luôn đặt ra cho mình mục tiêu rõ ràng và lên kế hoạch kĩ càng trước khi hành động. Họ là những doanh nhân thành công, song đôi khi chính vì có quá nhiều tham vọng nên họ lại bị chính mình trói buộc. Họ có nhiều ý tưởng và muốn cùng lúc làm nhiều việc, do đó trí lực bị phân tán, không đủ tập trung để thực hiện hoàn hảo như suy nghĩ.   Nếu có thể sửa đổi khuyết điểm này, cải thiện bản thân mình thì chắc chắn người này cả đời sung túc, sống trong cảnh giàu sang phú quý.

Mời bạn đọc thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
  Người tuổi Tý sinh vào tháng 1, 5, 7, 8, 9 có số mệnh tốt hơn những tháng khác. Đặc biệt, con giáp này sinh vào tháng 5 thì cuộc đời càng gặp nhiều may mắn. Tuy luôn bận rộn, phải đi lại ngược xuôi làm ăn buôn bán nhưng nhờ tài kinh doanh trời phú mà họ nắm bắt thời cơ rất tốt, có thể trở thành người đại phú đại quý, cả đời an lạc, được nhiều người kính nể.  

No.2 Tuổi Dần

  Những người sinh năm Hổ có vận khí không tồi. Nếu trong cuộc sống mà gặp phải khó khăn thì thường là do bản thân ưa mạo hiểm nên dấn thân vào những bước đường không lối thoát.   Người tuổi Dần trời sinh có quý nhân phù trợ. Mỗi khi lâm vào bước đường cùng hay giây phút quan trọng thì quý nhân sẽ lại xuất hiện đưa tay nâng đỡ, hóa hung thành cát. Người này thường không phải lo về kinh tế, cũng không quan tâm nguồn tiền đến từ đâu, bởi họ có tiềm lực tài chính mạnh. 
 
Đây cũng chính là lý do khiến họ thoải mái theo đuổi ước mơ và thực hiện lý tưởng của mình. Không phải lo nghĩ nhiều chuyện không liên quan, cũng được thoải mái sáng tạo và phát huy năng lực của bản thân, tiền tài công danh cứ tự nhiên mà tới.
 
Bạn có muốn biết về Vận may của 12 con giáp 6 tháng cuối năm 2017 không?

Nguong mo thay, con giap nay troi sinh tot so hinh anh 2
 
 

No.3 Tuổi Tị

  Người tuổi Tị có cuộc sống khá an nhàn. Họ hiếm khi phiền muộn vì thiếu thốn tiền bạc. Người này may mắn có được tất cả những gì mình mong muốn. Nếu muốn tăng thu nhập, họ có thể nhanh chóng nghĩ ra cách để kiếm tiền. Nếu muốn thoát khỏi khó khăn, họ cũng có thể linh hoạt thay đổi cục diện vốn có.   Tuy nhiên, đây cũng là người có lòng nghi kị rất cao. Họ luôn làm việc cẩn trọng và cảnh giác với tất cả mọi người. Đây cũng là lý do tuy may mắn tốt số nhưng họ lại có thể để lỡ mất thời cơ. Song đó chỉ là thử thách nhỏ trong cuộc đời, bởi người tuổi Tị có thể nhanh chóng vượt qua thất bại để giành được nhiều thành quả to lớn hơn.   Người tuổi Tị sinh tháng 8 âm lịch sẽ có số mệnh vô cùng mĩ mãn. Sự nghiệp thành công, tài lộc hanh thông, làm nên nghiệp lớn, phúc lộc đầy nhà. Bạn đã biết Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân chưa?  

No.4 Tuổi Thân

 

Người tuổi Thân rất giỏi xã giao, có duyên ăn nói nên mối quan hệ rất rộng, anh em bè bạn khắp bốn phương. Họ là người hướng ngoại, tính tình vui vẻ, sôi nổi, luôn là trung tâm giữa đám đông.    Về cơ bản thì người này số mệnh tốt đẹp, không phải lo thiếu thốn tiền bạc, luôn nắm bắt được những cơ hội rất tốt để làm giàu cho mình. Họ cũng may mắn được nhiều người quý mến và giúp đỡ trong suốt chặng đường đời.


Nguong mo thay, con giap nay troi sinh tot so hinh anh 3
 
  Bản thân họ cũng là người cơ trí, hiếm khi bỏ lỡ cơ hội kiếm tiền. Đặc biệt, những người sinh vào tháng 12 âm lịch sẽ tốt nhất, tiền tài công danh không thiếu một thứ gì, sự nghiệp thành công vang dội.  

No.5 Tuổi Dậu

  Người tuổi Dậu có vận trình cuộc đời khá tốt. Khi túi tiền vơi bớt thì lập tức có ngay cơ hội thu tiền mở ra trước mắt, giúp họ hóa giải mọi nguy cơ. Từ nhỏ, người này đã có những ước mơ cao xa và có lý tưởng rõ ràng.   Dù gia đình có nền tảng kinh tế vững vàng nhưng sau này họ vẫn kiên cường độc lập, tự tay mình gây dựng cơ nghiệp vững vàng. Trong đời họ được nhiều quý nhân giúp đỡ, sự nghiệp thăng tiến ầm ầm.    Đặc biệt, người tuổi Dậu sinh tháng 3 âm lịch sẽ có số mệnh tốt đẹp hơn người, có quyền thế, được nhiều người khâm phục, sự nghiệp có nhiều thành công vang dội.   Hy Vũ   
Bí kíp phong thủy văn phòng 12 con giáp không thể không biết Thật không thể tin được, các con giáp này lại có tướng tà dâm Top con giáp thông minh đĩnh ngộ, tài trí hơn người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngưỡng mộ thay, con giáp này trời sinh tốt số

Sinh con trai dễ hơn sinh con gái ?

Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để kết luận rằng phương pháp "canh" để sinh con trai dễ hơn rất nhiều so với các công đoạn "canh" để có được nàng công chúa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Tiết lộ dưới đây sẽ khiến các bạn ngạc nhiên, đây cũng là tin vui đối với những cặp vợ chồng đang thực hiện các biện pháp khoa học lẫn mẹo vặt dân gian để "canh" cho bằng được cậu quý tử nối dõi.

Theo cơ chế thụ thai thì việc sinh con trai hay con gái là phụ thuộc phần nhiều vào tinh trùng của người chồng. Vì tất cả trứng của người phụ nữ đều chứa nhiễm sắc thể X, trong khi đó nam giới lại sản xuất ra hai loại tinh trùng mang nhiễm sắc thể X và Y.

Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh với trứng thì sẽ sinh con gái (X-X), còn nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với trứng thì sẽ sinh con trai (X-Y). Vậy việc sinh con trai là phụ thuộc vào việc làm thế nào để cho tinh trùng Y có thể gặp được trứng. Việc này tưởng như rất khó nhưng hóa ra cũng khá đơn giản. Bạn chỉ cần thực hiện các gợi ý sau:

Tạo chất lượng tinh trùng

Các bác sĩ cho rằng nếu có lượng tinh trùng dồi dào, chất lượng thì khả năng sinh con trai sẽ cao hơn. Khi nhìn dưới kính hiển vi, người ta nhận thấy trong một mẫu tinh dịch bình thường thì lượng tình trùng mang nhiễm sắc thể Y cao hơn tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Tuy nhiên, với người giao hợp nhiều và nhịp độ cao (mỗi ngày một lần hoặc nhiều hơn) thì lượng tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y lại giảm.

Sinh con trai dễ hơn sinh con gái?
Bé trai dễ thương (ảnh minh họa)

Vì thế, nếu muốn sinh con trai thì nên giao hợp thưa đi để đảm bảo chất lượng  và trước ngày trứng rụng thì các chàng nên giữ gìn sức khỏe để đến ngày trứng rụng, khả năng đưa các “kỵ binh” của mình cán đích thành công là rất cao.

Canh ngày rụng trứng

Nếu muốn sinh con trai thì nên quan hệ vào ngày trứng rụng. Vì các tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thường mạnh và bơi nhanh hơn nên sẽ đến đích trước các tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Tuy nhiên, chúng lại có nhược điểm là “yểu mệnh” hơn các tinh trùng mang nhiễm sắc thể X, chúng chỉ sống khoảng 24 giờ, nên giao hợp vào thời điểm trứng rụng, hoặc ngay sau khi trứng rụng thì khả năng sinh con trai sẽ cao (trứng có thể tồn tại 1-2 ngày sau đó sẽ tự tiêu hủy). Còn nếu muốn canh con gái thì phải quan hệ trước ngày trứng rụng khoảng 2 ngày. Nhưng để tính được thời điểm trước khi trứng rụng không phải là đơn giản, chưa kể là trứng có thể rụng sớm hơn bình thường do yếu tố tâm lý hoặc ngoại cảnh tác động. Và để xác định ngày trứng rụng lại khá đơn giản.

Ngày trứng rụng thường rơi vào giữa chu kỳ, với một người có chu kỳ kinh khoảng 28 - 30 ngày thì ngày trứng rụng là ngày 14 – 16. Đơn giản hơn thì có thể tình rằng 14 ngày sau khi trứng rụng thì sẽ đến ngày hành kinh.

Nhưng nếu chu kỳ không đều thì có thể tính ngày trứng rụng bằng cách mua bộ thử nước tiểu để xác định ngày rụng trứng. Nếu thấy độ LH trong nước tiểu vượt lên cao thì khoảng 12 – 24 giờ sau trứng sẽ rụng.

Đo thân nhiệt cũng là cách để xác định ngày trứng rụng. Vào mỗi buổi sáng trước khi bước ra khỏi giường, bạn nên đo thân nhiệt, nếu trứng chưa rụng thì thân nhiệt thấp, dưới 37 độ C. Khi trứng rụng rồi thì nhiệt độ sẽ tự nhiên vượt lên trên 37 độ C.

Và dấu hiệu khi quá trình rụng trứng bắt đầu đó là dịch tiết từ âm đạo chuyển thành trong, nhớt, dịch nhầy. Nó hơi ướt và có thể kéo căng như lòng trắng trứng gà sống và thông thường khá dễ nhận biết. Hãy chú ý và đó là dấu hiệu rõ ràng bạn đang rụng trứng.

Tư thế quan hệ

Các bác sĩ cũng khuyên rằng: nếu muốn sinh con trai thì nên có vị trí giao hợp sâu để tinh trùng gần với trứng nhất, các tinh trùng Y sẽ bơi nhanh và dễ dàng tim đến trứng hơn. Và ngược lại, khi sinh con gái thì phải quan hệ nông để khi các “chiến binh” kiệt sức thì các nàng vẫn thủng thẳng về đến đích. Tuy nhiên, quan hệ thế nào để có độ “nông” vừa đủ, làm sao để tinh trùng có thể đủ tồn tại trong âm đạo và làm sao để không quá sâu thì không phải ai cũng biết cách làm thế nào cho đúng. Nên với cách này, xem ra, việc chủ động để canh con trai vẫn “dễ” hơn là canh con gái.

Ngoài ra, để sinh được con trai hay gái theo ý muốn, người ta còn khuyên các cặp vợ chồng nên chú ý cả chuyện ăn uống. Như ăn nhiều thực phẩm chứa kali và natri thì dễ sinh con trai, còn ăn nhiều thực phẩm chứa canxi thì dễ sinh con gái…

Việc canh con trai hay gái cũng không thể có xác xuất 100%. Nhưng nếu áp dụng theo những cách trên thì xem ra việc canh con trai sẽ “dễ” hơn so với việc canh con gái.


Trích từ nguồn: EVA.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh con trai dễ hơn sinh con gái ?

Lợi và hại về phong thủy của các loại hình nhà ở (Phần 1) –

Thời xưa, nhà ở kiểu tứ hợp viện rất thường hay gặp, hình dáng của nó không phải vuông mà là hình chữ nhật, rất ít thấy có nhà hình dạng khác. Hiện nay đã khác, các nhà thiết kế kiến trúc thường đưa tiền đề không vi phạm chức năng thực dụng, theo đuổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i sự thay đổi và mỹ quan, từ đó đã thiết kế ra các loại hình dạng nhà khác nhau, ngoại trừ nhà hình chữ nhật, hình vuông ra còn có các loại nhà hình răng cửa, hình uốn khúc, hình hẹp dài, hình tam giác.

Có những nhà được thiết kế với hình dáng lập dị, kỳ quái, đối với nhà ở hình dạng không theo quy tắc, có người chấp nhận, có người lo lắng phải chịu ảnh hưởng không tốt. Dưới đây, từ góc độ phong thuỷ học chúng tôi đưa ra một số vấn đề lợi hại của hình dạng nhà để mọi người cùng thảo luận.

1299986009-huong-nha-tot-trong-phong-thuy-2

1. Nhà hình vuông – Tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng.

Nhà hình vuông là chỉ những ngôi nhà có chiều rộng và chiều dài cơ bản bằng nhau. Từ xưa đến nay, nhà ở hình vuông đường như đã trở thành một “định thức”, không ai muôn thay đối nó.Mọi người cho rằng, nhà ở vuông vắn, tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng mang khí thế ngay thẳng, không thiên không lệch phù hợp với quan niệm “trời tròn đất vuông, là loại hình dạng không thể thay thế. Nhưng hiện nay một số nhà thiết kế không đồng tình với quan điếm này, cho rằng hình dạng nhà quá vuông vắn thể hiện sự khô cứng. Nhận thức này quá thiên về mỹ quan. Trên thực tế, dù nhìn từ góc độ phong thuỷ học hay góc độ thực dụng, thì hình dạng nhà loại này không có gì có thể bắt bẻ được.

2. Nhà hình chữ nhật – Đầy đủ khí ngũ hành.

Nhà ở hình chữ nhật là chỉ kiểu nhà có kích thước dài rộng không bằng nhau, có người cho rằng tỉ lệ chiều dài và chiều rộng phải được tính toán thật tỉ mỉ, có vậy mới là hình dạng tiêu chuẩn. Nhà ở hình chữ nhật loại này hiện nay rất thường gặp, cũng giống với nhà ở hình vuông, nhà ở hình chữ nhật có ngụ ý mang lại nhiều may mắn tốt lành, không gian hình chữ nhật “hướng bát quái hoàn chính, khí ngũ hành đầy đủ”, là kiểu nhà lý tưởng nên ưu tiên chọn đầu tiên, về phương diện thiết kế nội thất, nhà ở hình chữ nhật dễ phân chia thành các không gian nhỏ hợp lý làm cho nhà có bố cục tăng phong tụ khí, mỗi thành viên trong nhà đều có thể tìm cho mình một không gian thích hợp.

3. Nhà hình hẹp dài – Âm dương không cân bằng.

Nếu là nhà ở hình chữ nhật cố nhiên là tốt, nhưng nhà ở hình hẹp dài là nhà có tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng chênh lệch nhau quá lớn. Hình hẹp dài nói ở đây là muốn nói kích thước chiều dài lớn hơn rất nhiều lần chiều rộng. Loại nhà này hiện nay không phải là ít gặp trong những kiến trúc hiện đại, nhất là các khu biệt thự, rất nhiều nhà được thiết kế thành hình hẹp dài. Nhà ở loại này dù dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây hay dài theo chiều Đồng Tây, ngắn theo chiều Nam Bắc đều biểu hiện không cân bằng âm dương.

Nói một cách tương đối thì nhà dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây tốt hơn đôi chút. Nếu như diện tích kiến trúc nhà ở vượt quá 200m2, hình nhà loại này khá dễ thiết kế, có thể phân chia không gian trong nhà tương đối tốt. Nếu diện tích nhà ở dưới 150m2, thì rất khó bảo đảm các không gian bên trong nhà đều vuông vắn, thường là có sự méo mó. Cho nên, khi chọn nhà ở phải thận trọng xem xét đến hình dạng của nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi và hại về phong thủy của các loại hình nhà ở (Phần 1) –

4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Người tuổi Tuất đặc biệt cần chú ý trong năm nay, họ dễ gặp họa với nước nên đi bơi cần sử dụng các biện pháp bảo hộ an toàn.
4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tuổi Tuất

Năm nay, người tuổi Tuất phạm hình Thái Tuế, vận thế bất ổn, sức khỏe cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề. Đặc biệt, trong mùa hè nắng nóng, khi đi bơi đề nghị con giáp này phải hết sức cẩn thận, tránh nguy cơ bị đuối nước.

Nếu cơ thể mệt mỏi hoặc tinh thần sa sút, tốt nhất không nên đi bơi. Trong trường hợp đi bơi hoặc tắm biển, cần phải có bạn bè hoặc nhân viên cứu hộ đi cùng, đề phòng tai nạn bất ngờ xảy ra.

2-6655-1412648765-4460-1437732148.jpg

2. Tuổi Tý

Trong năm Ất Mùi, người tuổi Tý phạm hại Thái Tuế lại có hung tinh chiếu vào cung mệnh, nên ngoài việc cẩn thận khi bơi lội, cần cư xử khéo léo, hài hòa, tránh vướng vào những rắc rối thị phi ảnh hưởng xấu tới chuyện học hành, công việc.

3. Tuổi Sửu

Năm 2015, người tuổi Sửu phạm xung Thái Tuế nên chuyện tình cảm, học tập, công việc đều có những biến đổi lớn. Bên cạnh đó, vấn đề sức khỏe, an toàn tính mạng cũng cần được chú trọng. Đặc biệt, khi đi bơi ở hồ nước lớn hay ở biển, cần tuân thủ những quy tắc an toàn, đề phòng trường hợp xấu xảy ra đe dọa tính mạng.

1-6128-1412648764-8757-1437732148.jpg

4. Tuổi Dần

Năm nay, con giáp này mang vận tiêu hao tài sản là chính, nhưng đồng thời cần chú ý nguy cơ gặp tai nạn. Đặc biệt là bị ngạt nước. Dù việc bơi lội không ảnh hưởng đến tính mạng, nhưng nếu sự cố xảy ra, việc tiêu tốn tiền bạc để chữa trị là điều khó tránh khỏi.

Mr.Bull (Theo XZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Xem bói tử vi tuổi Tuất

Xem bói tử vi tuổi Tuất qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Tuất, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Tuất qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Tuất, sự xung khắc của tuổi Tuất với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Giáp Tuất, Nhâm Tuất, Canh Tuất, Mậu Tuất, Bính Tuất theo tháng sinh và giờ sinh.

Những người tuổi Tuất thường là những người rất tốt bụng, họ luôn nghĩ cho người khác hơn là nghĩ cho bản thân. Họ là những người vị tha, luôn sẵn sàng che chở, an ủi, động viên người khác.

xem bói tử vi tuổi Tuất

1.Tính cách người tuổi Tuất

Tính cách gắn liền với người tuổi Tuất là sự thẳng thắn, trung thực, công bằng, hào hiệp, dũng cảm cần cù, hiếu học, có tinh thần cộng đồng cao, luôn đặt lợi ích chung trên lợi ích cá nhân, không chú trọng đến tiền bạc nhưng lại có năng lực kiếm tiền. Họ không phải là người theo chủ nghĩa thực dụng, vật chất, họ luôn dung hòa được hai sự việc sự vật mâu thuẫn, đối lập nhau, trong bất kì việc gì, họ vẫn vừa có thể thực hiện lí tưởng vừa có thể thu hoạch lợi ích vật chất.

Đôi khi, ở khía cạnh tiêu cực, họ là những người khá bảo thủ, hay cả thẹn, hay nhúng mũi vào chuyện của người khác. Tuy nhiên những đức tính này chỉ là phần phụ, cái chính là sự hào phóng tốt bụng, hay quan tâm giúp đỡ người khác ở họ.

Khi có việc xung đột mâu thuẫn, họ thường có thái độ muốn giải quyết vấn đề chứ không hận thù. Họ cũng là người khá đa nghi nhưng sẽ không tùy ý phê phán mà không có căn cứ vững chắc.

Người sinh năm Tuất nói chung là người chính trực, giàu lòng chính nghĩa. Họ là người trượng nghĩa, ngay thẳng, chân thành, không cố làm ra vẻ ta đây, rất thích bênh vực kẻ yếu, tự nguyện nghe người khác tâm sự, sẵn sàng chia sẻ nỗi buồn với họ. Vì thế người tuổi Tuất biết cách sống hòa bình với mọi người.

Khi gặp chuyện phiền phức, bạn tìm sự giúp đỡ bằng cách đến gõ cửa hoặc gọi điện thoại cầu cứu người tuổi Tuất. Lúc đầu có thể họ do dự hoặc từ chối. Tuy nhiên, một khi họ biết được sự thực là bạn rất cần sự giúp đỡ thì họ liền hết sức giúp đỡ không chút do dự. Có lúc người tuổi Tuất còn bảo vệ lợi ích của người khác và coi đó là việc quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích bản thân. Người tuổi Tuất sẽ hết mình với những ai tốt với họ.

Giống như người tuổi Dần, khi đứng trước sự bất công, họ không thể bỏ qua được mà sẽ nổi cáu, nhưng khi sự nóng giận qua đi thì họ sẽ bình tĩnh ngay. Cần chú ý là họ không nổi cáu với sự đố kỵ hay hoài nghi mà chỉ tức giận với sai lầm, hơn nữa họ không để bụng khi sự việc đã qua. Đương nhiên là người tuổi Tuất có lòng nhân ái hơn người tuổi Dần.

Mặc dù người tuổi Tuất được coi là “giúp mọi người vì trượng nghĩa”, “bất bình trước kẻ xấu” nhưng những ưu điểm này có lúc lại trở thành một tính cách cực đoan cố chấp. Do họ vốn rất cẩn thẩn, cảnh giác cao, không dễ tin người, thường xuyên nhìn mọi người bằng con mắt nghi ngờ. Ưu điểm của mặt này là phòng tránh được những âm mưu tính toán của người khác nhưng nó cũng có yếu điểm là cản trở sự phát triển sự nghiệp của bản thân. Họ đã quen việc dùng mắt để xác nhận sự việc, đương nhiên là giữ lấy ý kiến của mình, không dễ đồng ý và bị chi phối bởi ý kiến của người khác. Chả trách khi người khác đúng họ vẫn cứ giữ thái độ như vậy.

Người tuổi Tuất thoát ly gia đình rất sớm, họ dựa vào sự phấn đấu không ngừng và tài năng của chính mình để đạt được mục đích. Một khi họ đã quyết định thì khó có một ai, một thế lực nào có thể ảnh hưởng được tới họ.

Có trách nhiệm, tận lực làm việc nên có được lòng tin. Làm việc không bỏ dở, đó chính là sở trường của người tuổi Tuất. Trong sự nghiệp của mình, họ rất chăm chỉ và kiên trì, đương nhiên đó là việc chính nghĩa. Vì vậy mà họ luôn đạt được thành tích tốt trong công việc. Người sinh năm Tuất muốn sống một cuộc sống đầy đủ nhất. Tuy nhiên, họ cân nhắc những gì phía trước và muốn tránh bất kỳ sự hối tiếc nào. Họ là người già dặn và có thể nhìn nhận vấn đề khá nghiêm trọng. Nhưng khi họ lớn tuổi hơn, họ sẽ học được cách làm thế nào để bớt chỉ trích hơn.

Những đặc trưng trên của người tuổi Tuất cho ta biết rằng, họ không phải là người theo chủ nghĩa vật chất, cũng không phải là người chỉ biết giữ khư khư cái cũ. Mỗi một lời nói, hành động của họ vừa giản dị, thật thà nhưng ẩn chứa bên trong sự thông minh, nhạy bén. Họ thường chiêm nghiệm cuộc đời và quan sát người khác. Nhưng đối với những việc cụ thể hay khi tranh cãi, đừng hy vọng họ đứng ra gánh vác, giúp đỡ. Thiên tính của họ là sẽ lẩn tránh, bởi vì họ chỉ muốn bảo vệ bản thân không bị người khác xâm phạm. Người khác giao tiếp với họ phải bỏ ra rất nhiều công sức mới giành được sự tín nhiệm của họ.

Có thể người tuổi Tuất không thừa nhận là họ thích phân chia mọi người theo hai kiểu: bạn bè và đối thủ, không có người đứng giữa. Khi giao tiếp với người khác, họ rất thích tìm hiểu xem người đó là bạn hay thù. Đương nhiên họ sẽ không vô duyên cớ mà kết luận vội vàng cho người khác. Nhưng một khi đã có thành kiến với ai thì họ sẽ rất khó sửa.

Đặc điểm trên để lại cho mọi người một ấn tượng mạnh. Người tuổi Tuất sống quá lí trí, có lúc bên ngoài còn mang vẻ lãnh đạm, thờ ơ, bị mọi người cho rằng họ coi bản thân là trung tâm. Kỳ thực đó chỉ là thiên tính của họ mà thôi. Cho dù ở phương Đông hay phương Tây, trong gia đình mà có người tuổi Tuất sống cùng bạn bao giờ cũng là chuyện tốt. Họ có thể giúp bạn nhận thức một cách lí trí về nhân sinh và sự vật. Đương nhiên là họ thiếu một chút năng lực ứng biến trước mọi nguy cơ sắp xảy ra, không có sở trường trong việc đối phó những sự việc ngoài dự tính, không có tài xoay sở, đây thực sự là nhược điểm của họ.

Người tuổi Tuất vốn lanh lợi, hiểu bằng trực giác rất mạnh. Sở trường của họ là có thể biết được đối phương ngay lần gặp đầu tiên, đương nhiên là họ có thể dựa vào lí trí để tạo ra được cách nhìn riêng của bản thân. Cảm giác trực tiếp nhạy bén này đã phân biệt được sự đúng sai, phải trái. Tuy nhiên cũng không nên quá tin vào trực giác này, nó có thể làm bạn mất đi cơ hội tiếp xúc với những người tài giỏi.

Muốn nhận thức chính xác về một người tuổi Tuất, bạn chỉ cần quan sát họ khi đang tranh luận là rõ. Một khi biết được người khác động chạm đến danh dự và phá hoại lợi ích của họ là họ sẽ anh dũng đấu tranh đến cùng, không hề khuất phục. Đương nhiên, khi xảy ra sự việc nghiêm trọng như có người nào đó làm hại đến gia đình họ thì họ sẽ nổi giân thực sự. Họ sẽ đọ sức với đối phương bằng lời lẽ đanh thép, giàu tính logic để chiến thắng đối phương. Khi tranh cãi với người khác, họ luôn dựa trên sự công bằng, không dùng những trò tiểu nhân để giành chiến thắng.

Phần lớn nam giới tuổi Tuất đều có tinh lực dồi dào. Cho dù họ gặp phải những việc vượt quá khả năng hay khi có cơ hội, họ đều rất giỏi trong việc đưa ra các biện pháp quyết định thông qua ý kiến của bản thân. Họ còn có thể dự kiến được bản thân sẽ gặp phải nguy hiểm gì, vì thế họ rất mong muốn vượt hơn hẳn người khác. Họ thường giấu kín hoài bão ở trong lòng, trung thành với người giao công việc cho họ, chỉ cần những việc đó nằm trong phạm vi trách nhiệm của họ thì họ sẽ vui vẻ giúp đỡ.

Yếu điểm của nam giới tuổi Tuất là ít nhẫn nại, trong phương diện tình cảm thì không giống với người tuổi Ngọ, tuổi Dần, khi rơi vào mối tình nồng cháy, họ chỉ lặng lẽ yêu và dành mọi sự quan tâm chăm sóc người yêu. Nam giới tuổi Tuất đặc biệt không dễ tin người, tuy nhiên một khi đã có lòng tin thì sẽ đối xử rất chân thành.

Trên tất cả mọi thứ, những người tuổi Tuất thường rất quan tâm đến gia đình và những người thân yêu của họ. Đối với họ, đó là thứ tài sản quý giá nhất trên cả tiền bạc, quyền lực và danh tiếng.

Những người này vốn là những người thiên về sự truyền thống, điều này thể hiện qua phong cách sống và cách bài trí nhà cửa của họ. Nội thất và trang trí trong nhà của họ thường cổ xưa, cho ta một cảm giác hoài cổ. Mọi thứ trong nhà đều gọn gàng ngăn nắp nhưng vẫn giữ được sự thoải mái dễ chịu.

Những người tuổi Tuất sinh ban đêm thích khiêu khích hơn những người sinh ban ngày, rất dễ xung đột với người khác. Những người sinh bất cứ mùa nào trong năm Tuất đều có cuộc sống thuận lợi, cả đời không phải lo chuyện ăn mặc.

Phụ nữ tuổi Tuất có năng lực tư duy cao, thông minh, hoạt bát. Họ ưa thích các hoạt động xã hội. Họ đối đãi nhiệt tình, luôn quan tâm đến người khác, hi sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung.

Các cô gái tuổi Tuất là những con người nhiệt tình và xinh đẹp. Họ thích mặc những bộ quần áo đẹp, mềm mại và thoải mái. Bất cứ lúc nào họ cũng đều quan tâm chăm sóc đến mọi người. Họ thích những môn thể thao ngoài trời như nhảy múa, bơi. Họ là người bạn tốt của chồng và con họ, chủ yếu là vì họ không quá can thiệp đến việc của người khác và biết cách lắng nghe.

Khi đối xử với người ngoài, các cô gái tuổi Tuất đều tỏ ra rất thân mật, mong muốn dần dần kết bạn với mọi người. Lần đầu khi bạn tiếp xúc với họ, sau đó bạn mời họ đến thăm nhà bạn để tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, nếu cảm thấy cả hai có cùng chí hướng thì sẽ trở thành bạn bè. Cần nhớ là trong tiềm thức của người phụ nữ tuổi Tuất thường có sự cảnh giác với thế giới bên ngoài, nên tuyệt đối không được vội vã khi tiếp xúc với họ. Cách tốt nhất là đi theo trình tự từng bước một. Một khi có được lòng tin của các cô gái tuổi Tuất, sau khi trở thành bạn tri kỷ, cho dù sau này bạn có nghèo khổ hay giàu có thì cô ấy tuyệt đối không bao giờ rời bỏ bạn. Có rất ít phụ nữ trung thành và chân thực với bạn bè như họ.

Người tuổi Tuất vui sướng hân hoan khi họ khỏe mạnh, và khi họ buồn rầu hay chán nản nghĩa là họ cảm thấy không khỏe. Họ là những chiến binh, họ kiên cường và sẽ chống lại bất kỳ căn bệnh nào xuất hiện trong cuộc đời mình.

Tóm lại, người sinh năm Tuất là người giỏi giao tiếp và trung thành, thẳng thắn. Sau cùng cũng xin nhắc bạn, người tuổi Tuất sợ nhất tính cách người tuổi Dậu, còn không tín nhiệm người tuổi Thìn. Họ tuy có những tranh chấp với người tuổi Ngọ, Tỵ, Thân, Hợi và kể cả tuổi Tuất nhưng đó chỉ là xô xát nhỏ không ảnh hưởng gì đến quan hệ căn bản.

2. Người tuổi Tuất và tình yêu

Người tuổi Tuất vốn không được trời phú cho óc hài hước và cũng ít người trong số họ ưa lãng mạn. Tuy nhiên cuộc sống vui vẻ và giản dị vẫn là điều mà họ luôn mong ước. Trong quan hệ bạn bè, người tuổi Tuất là những người bạn đáng tin cậy. Họ thích chơi với tất cả mọi người ở mọi tầng lớp xã hội và có cùng chung sở thích với họ. Họ thích tham gia vào các hoạt động ngoài trời, các sự kiện thể thao, các buổi họp nhóm. Đặc biệt là những nơi có “người ấy” tham gia.

Trong chuyện tình cảm họ thường hay e dè, phải mất một thời gian dài, họ mới có thể tự tin để bày tỏ tình cảm của mình. Đối với người yêu, họ là những người dịu dàng, tốt bụng, thích che chở chiều chuộng và làm hài lòng người yêu. Giúp người vì trượng nghĩa, đầu tranh vì công bằng, trung thực với bạn bè, vui vẻ giúp đỡ người khác… Những ưu điểm này giúp họ dễ dàng có được lòng ái mộ của phụ nữ. Đặc biệt là tính cách trung thành, hay giúp đỡ người khác mà không hề sợ hi sinh lợi ích bản thân lại càng thu hút sự yêu mến chân thành của các cô gái, nhất là các cô gái có địa vị bởi những cô gái này luôn muốn tìm kiếm một gia đình hòa thuận. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ là những người lý tưởng để tạo nên một gia đình lý tưởng.

Những người tuổi Tuất thích hợp trong những mối quan hệ có sự cân bằng tốt. Khi yêu, họ là người cho, chân thành, dâng hiến và thẳng thắn. Tuy nhiên họ cũng là người hay lo lắng và giàu trí tưởng tượng khiến đôi khi họ rơi vào rắc rối. Họ cũng được biết đến như một người khá lạnh lùng và hay chỉ trích. Dù sao đi nữa, họ vẫn luôn có mặt bên bạn suốt những thời điểm tồi tệ hay tốt đẹp.

Người tuổi Tuất sống nội tâm, trừ những lần quá tức giận ra, họ rất ít khi để lộ tâm tư của mình ra ngoài. Đồng thời họ còn có tính cố chấp bẩm sinh, những nhân tố này sẽ có một số bất lợi trong đường tình cảm. Tính cố chấp luôn đem lại phiền muộn cho họ, họ lại là người không muốn để lộ tâm tư nên chỉ có thể giữ phiền muộn lại trong lòng. Những người tuổi Tuất khi đang yêu cần nhớ rõ, nên cố gắng mở rộng tâm tư tình cảm của mình. Tuy người tuổi Tuất rất nghiêm túc trong tình cảm nhưng thiên tính của họ sẽ làm cho họ có nhiều biểu hiện phản ánh truyền thống trong lời nói và hành động.

Người tuổi Tuất sau khi kết hôn sẽ có được gia đình bình an, hạnh phúc. Trong đời sống gia đình, họ rất biết quan tâm và chăm lo tới những người xung quanh. Do vậy mà mọi người ít khi xảy ra mâu thuẫn, va chạm. Họ được các thành viên trong gia đình quý trọng, nể phục. Tuy nhiên, có lúc người tuổi Tuất cảm thấy cuộc sống gia đình có phần đơn điệu. Người phụ nữ nào kết hôn với những người đàn ông tuổi Tuất cũng sẽ có gia đình ổn định, bền vững. Họ coi trọng gia đình và sẽ không để bất cứ ai làm phiền đến những người thân yêu của mình. Họ lấy không khí ấm áp của gia đình để át đi những ưu phiền trong công việc. Điều lạ là tính cố chấp bẩm sinh của họ dần mất đi sau khi kết hôn.

Quan niệm về gia đình của nam giới tuổi Tuất rất được xem trọng, không ai được xúc phạm đến những thành viên trong gia đình họ. Đương nhiên là nếu bạn muốn “thưởng thức” những lời nói tức giận, công kích thì bạn sẽ biết được giá trị của bạn có được bao nhiêu. Cùng người tuổi Tuất tạo thành một gia đình thì hầu hết đều khá ổn định.

Thiên tính của người tuổi Tuất là rất hiểu lòng người, thân mật, gần gũi với mọi người, những đặc điểm này lại càng thể hiện rõ ở nam giới tuổi Tuất. Họ có một tình thương yêu bao la, đặc biệt là với phái đẹp. Họ đối xử với bạn đời cũng hết sức tuyệt vời. Họ có thể cảm thông với những khuyết điểm của người bạn đời. Một gia đình đầm ấm sẽ là nhân tố chủ yếu giúp họ quên đi những âu lo phiền muộn.

Mặc dù là người giỏi chịu đựng, nhưng họ vẫn không thể chịu được cách sống nông nổi, theo đuổi hư vinh, họ không thích phát biểu ý kiến ở nơi công khai. Tính cách sống nội tâm của họ trong hôn nhân sẽ là con dao hai lưỡi: một là sẽ làm cho người vợ không thể hiểu được những tình cảm trong lòng mình, từ đó người vợ chỉ còn biết giữ kín những day dứt khó chịu trong lòng; hai là sự im lặng của chồng cho thấy họ không muốn điều khiển người vợ, tôn trọng vợ và cũng là cái mà mọi người thường nói: “Im lặng là vàng.”

Tình yêu của phụ nữ tuổi Tuất không phải là tình yêu lãng mạn, vì tính cách khá nội tâm và sống cô độc của họ đã quyết định điều này. Nếu ngẫu nhiên họ có một tình yêu nồng cháy thì đó chỉ là khoảnh khắc. Tuổi Tuất đặc biệt phải chú ý một chút đến tính cách thích sống cô đơn của mình, tính cách này sẽ tạo thành một vẻ bề ngoài thờ ơ, lãnh đạm khiến cho người muốn tìm hiểu sẽ có cảm giác không biết nên làm thế nào cho dù họ rất chân thành với tình yêu.

Mặc dù phụ nữ tuổi Tuất có một số bất lợi trong tình yêu nhưng họ lại là người bạn đời tốt bụng trong hôn nhân. Họ rất coi trọng tình yêu và chung thủy với chồng. Lựa chọn người vợ tuổi Tuất làm bạn đời đến đầu bạc răng long là rất thông minh. Phụ nữ tuổi Tuất có thể làm cho cuộc sống gia đình tràn ngập niềm vui. Nếu chồng họ theo chủ nghĩa nam quyền thì họ sẽ làm tròn vai trò của người vợ hiền thục. Nếu chồng họ là người không có chủ kiến thì họ sẽ trở thành người vợ mạnh mẽ, năng động. Họ rất biết cân bằng và điều hòa cuộc sống.

Màu vàng sẽ mang lại nhiều may mắn cho nữ giới tuổi Tuất. Họ nên mang trên mình đồ trang sức bằng đá quý hoặc thủy tinh có màu vàng. Màu đỏ lại là màu mang đến may mắn cho nam giới tuổi Tuất. Họ có thể đeo đồ trang sức chế tác theo hình sao để gặp nhiều thuận lợi trên đường tình duyên.

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu A

Người tuổi Tuất thuộc nhóm máu A thường thẳng thắn, bộc trực trong tình yêu. Họ không có tài ăn nói mà thường thể hiện bằng hành động, điều này dành được nhiều thiện cảm từ đối phương. Họ biết cách gần gũi, quan tâm và chăm sóc cho nửa kia của mình. Vì người yêu, họ sẵn sàng hy sinh tất cả những sở thích của bản thân. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng cảm thấy mệt mỏi thậm chí muốn đi tìm tình yêu mới. Chính vì vậy mà những ai muốn gắn bó cả cuộc đời với người này cần điều chỉnh bản thân để có cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn. Việc kết hôn của người tuổi Tuất thuộc nhóm máu A cũng diễn ra nhanh chóng. Để được cuộc sống hạnh phúc như mong muốn, nam giới tuổi tuổi Tuất thuộc nhóm máu này nên chọn bạn đời là những người phụ nữ hiền thục, dịu dàng và có sức lôi cuốn hấp dẫn. Chính yếu tố hấp dẫn của người vợ sẽ có thể kéo người chồng ở bên gia đình và duy trì hạnh phúc lâu dài. Với nữ giới, họ nên "chấm" những người đàn ông lạc quan, hài hước. Sự kết hợp này chắc chắn sẽ mang lại cuộc sống gia đình hạnh phúc.

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu B

Người tuổi Tuất thuộc nhóm máu B khi yêu thường rất chân thành, sâu sắc và lãng mạn. Họ dành tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt cho "một nửa" của mình mà không hề đòi hỏi phải đền đáp lại. Chỉ cần thấy người yêu hạnh phúc là họ cảm thấy vui vẻ và mãn nguyện. Sau khi kết hôn, cuộc sống gia đình của những người này sẽ rất hạnh phúc, đầm ấm. Cho dù cuộc sống có nhiều thay đổi nhưng các thành viên trong gia đình luôn "kề vai, sát cánh" bên nhau khiến người khác phải ngưỡng mộ. Nữ giới tuổi Tuất thuộc nhóm máu B là người rất yêu chồng, thương con. Khi đi làm về, họ sẽ toàn tâm, toàn ý chăm lo cho gia đình thân yêu của mình. Nam giới tuổi này mặc dù phải lo gây dựng sự nghiệp song họ cũng không bỏ bê việc nhà mà thường xuyên giúp đỡ vợ chăm sóc dạy bảo con cái.

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Do tính cách sống hướng nội sâu sắc nên vẻ ngoài của những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu AB khá lạnh lùng. Chỉ khi tiếp xúc, quen biết lâu ngày thì mọi người mới thấy được những ưu điểm của họ. Trong tình yêu cũng vậy, những người này thường che giấu tình cảm của mình. Con tim họ chất chứa tình yêu nhưng lại không thể diễn đạt thành lời hay bằng hành động cụ thể. Bởi vậy, đối phương phải là những người thực sự hiểu họ thì mới cảm nhận được tấm chân tình để cùng nhau xây dựng tổ ấm. Họ được đánh giá là người bao dung, cao thượng. Nếu "nửa kia" của họ đem lòng yêu một người khác, họ sẵn sàng rút lui và lặng lẽ chúc phúc cho hai người đó mà không hề có ý tranh giành tình yêu. Khi kết hôn, họ nên chọn bạn đời của mình là người hoạt bát, hài hước và nhiệt tình. Có vậy mới dung hòa những khiếm khuyết của nhau, cùng xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Phụ nữ tuổi Tuất sau khi kết hôn luôn nỗ lực hết mình để xây đắp, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính vì vậy mà đôi khi họ cũng cảm thấy mệt mỏi nên họ cần được sự quan tâm và động viên của chồng và con để hoàn thành tốt hơn thiên chức của người vợ, người mẹ trong gia đình.

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu O

Người tuổi Tuất thuộc nhóm máu O được đánh giá là người chung tình nên khi yêu, họ đặt sự chung thủy lên hàng đầu. Chỉ cần người yêu một lòng một dạ với mình thì những lỗi lầm của đối phương cũng sẽ được bỏ qua. Đa số những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu O sau khi kết hôn đều có được gia đình ổn định, hạnh phúc. Họ coi trọng gia đình và luôn cố gắng thực hiện tốt vai trò của một người vợ hiền hay một người chồng tốt. Họ đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo, dạy dỗ con cái. Nhiều khi vì quá khắt khe trong giáo dục con mà không khí gia đình trở nên căng thẳng. Tuy nhiên, từ đây con cái họ có thể tiếp thu và học hỏi thêm được nhiều điều bổ ích, thiết thực từ chính bố mẹ chúng. Để cuộc hôn nhân như ý, những người tuổi Tuất mang nhóm máu O nên kết hôn với những người có óc hài hước, năng động và có sự đồng cảm. Điều này làm cho mái ấm gia đình thêm hòa thuận, hạnh phúc.

3. Người tuổi Tuất và sự nghiệp

Mọi người luôn luôn có thể trông đợi ở người tuổi Tuất khi cần sự giúp đỡ, đặc biệt là khi điều đó có nghĩa là họ sẽ học hỏi được điều mới và sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho người cộng sự. Các nhà tuyển dụng xem họ như là những nhân viên đáng giá bởi vì họ là người đáng tin cậy, có trách nhiệm và có thể tin tưởng được. Họ vừa có thể làm một nhà lãnh đạo tốt vừa có thể là một nhân viên giỏi vì họ hiểu được tầm quan trọng của việc hợp tác.

Người tuổi Tuất là người biết kiềm chế mình, điều này khiến họ luôn đạt được thành công trong các công việc như cố vấn, nhà tâm lý hoặc mục sư. Họ có thể đảm nhận được mọi công việc trong quân đội, có thể trở thành nhà quản lý ngành vận tải, bác sĩ, chánh án, luật sư hay giáo sư ưu tú. Hơn thế họ còn thích hợp với những công việc yêu cầu tính kiên nhẫn cao như nhân viên công vụ, nhân viên lắp đặt máy tính.

Trong 12 con giáp, không một tuổi nào có được sự trung thành và đáng tin cậy như người tuổi Tuất. Đó là những người luôn đề cao chữ tín, tận tụy với nhiệm vụ được giao và vì vậy mà họ được rất nhiều người tôn trọng, quý mến. Họ thường cư xử với mọi người rất đúng mực, sống chân thành, hết mình vì bạn bè, đồng nghiệp. Sự cần cù và nỗ lực trong công việc của họ được cấp trên đánh giá cao và trọng dụng. Nhờ vậy, con đường sự nghiệp của họ rất thuận buồm xuôi gió.

Trong công việc, họ luôn biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người khác. Điều này giúp họ có thêm nhiều kinh nghiệm cũng như tránh được sai sót không đáng có. Dù biết lắng nghe nhưng không ít người tuổi Tuất có tinh thần tự lập cũng như khả năng làm việc độc lập rất cao. Chính vì vậy họ có thể đứng vững trên đôi chân của mình bằng ý chí, sức lực và tài năng. Họ ít khi chịu chấp nhận phụ thuộc hay tụt hậu so với người khác.

Ngoài ra, với lòng chính trực, tinh thần trượng nghĩa, sẵn sàng đấu tranh với mọi bất công, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp, họ có thể gánh vác những công việc khó khăn cho tập thể hay cộng đồng. Những người tuổi Tuất thường được tôn trọng ở bất cứ chỗ làm nào. Nếu biết phát huy ưu điểm trên và không ngừng phấn đấu thì con đường sự nghiệp của họ sẽ luôn rộng mở.

Tuy nhiên cuộc sống của người tuổi Tuất không hề ổn định. Tuổi thơ trải qua nhiều nỗi buồn. Tuổi thanh niên cũng có rắc rối và gặp phải nhiều khó khăn. Tuổi trung niên khá hơn một chút nhưng bạn không hề có một chút rảnh rỗi bởi vì bạn có quá nhiều việc phải làm. Tuổi già có cuộc sống khá phẳng lặng, nhưng bạn vẫn cảm thấy không vui lắm bởi vì lúc nào cũng nghĩ rằng mình còn có nhiều việc chưa làm xong, còn thường xuyên cảm thấy hối hận vì những việc đã qua. Tuy nhiên do bạn rất chân thành với mọi người nên bạn bè thân thiết đối xử với bạn rất tốt.

Đương nhiên những người tuổi Tuất sinh vào ban ngày sống tương đối phẳng lặng và vui vẻ hơn, cũng dễ thỏa mãn với mọi điều hơn. Có thể môi trường đã quyết định một phần nhất định đến cuộc đời con người. Mặc dù không thể nói đường tài vận của bạn là thông suốt nhưng do sự cần cù, nỗ lực nên bạn cũng có thể đạt được một lượng tiền tài nhất định. Ngoài ra, trong làm ăn, khi hợp tác với người khác phải thận trọng, tốt nhất không nên nóng vội, chi tiền phải cẩn thận đừng vì sự tận tụy trung thành của mình mà quên mất phòng bị, bạn cần biết rằng trên thương trường rất khó có bạn tốt.

Người tuổi Tuất hiểu được giá trị đồng tiền nên tuyệt đối không coi nhẹ đồng tiền. Chính vì quan điểm này mà họ chấp nhận một cuộc sống khó khăn, gian khổ hơn người khác rất nhiều. Thế nhưng bạn lại là con người sống vì tình cảm, có nghĩa khí nên thường bị kẻ thứ ba xen vào, làm liên lụy đến mình, trong chốc lát có thể mất toàn bộ số tiền tích lũy trong nhiều năm. Vì thế khi có người vay tiền, thì bạn phải suy nghĩ thật kĩ rồi mới cho vay.

Bạn không thích vay mượn tiền của người khác bởi vì bạn có lòng tự ái cao mà có xu hướng tự giải quyết một mình. Vì thế nếu gặp thất bại mà không có cơ hội thì cần ghi nhớ là sẽ rất khó nhờ mọi người giúp đỡ, tư tưởng trọng nghĩa khí xem thường tiền bạc của phương Đông đã dần mất đi, thêm vào đó bạn phải hiểu là “Thượng đế chỉ giúp đỡ những người tự cứu mình”. Vì thế, khi không giúp đỡ được cho người khác thì cũng đừng trách mình và cảm thấy không yên.

4. Người tuổi Tuất và vận mệnh

Sinh năm Giáp Tuất - 1994: Chó sống yên ổn (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành)

Đây là người có sức khỏe dồi dào và có chí tiến thủ mạnh mẽ. Họ cũng thường cân nhắc đến lợi ích khi tiến hành công việc. Nếu biết rõ mình bị thua thiệt, họ nhất định sẽ không làm. Họ rất thận trọng trong mọi hành động và luôn lo sợ rằng nếu làm sai thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của mình trong mắt mọi người.

Người này thường không có nhiều hứng thú trong cuộc sống. Đôi khi, họ cũng muốn thư giãn, thả lỏng bản thân để tận hưởng cuộc sống nhưng thường không làm được như vậy. Họ thường phải đấu tranh nội tâm để lựa chọn giữa sự đổi mới hay bảo thủ. Vì vậy, họ thường xuyên cảm thấy bất an, khó chịu. Người này có khả năng chịu đựng khó khăn, gian khổ. Cùng với ý chí kiên định, họ có thể tạo nên nhiều thành tựu khiến người khác ngạc nhiên. Họ có năng lực lãnh đạo, làm việc quyết đoán và dễ được mọi người tôn trọng, nể phục.

Người tuổi Tuất mệnh Hỏa có những khả năng bẩm sinh kỳ lạ, thích thử sức trong những lĩnh vực vượt ra ngoài trí thông minh và tài năng của mình. Tuy nhiên, họ lại thường giành được thành công đáng nể. Nếu được sao tốt tương trợ thì tuy không thể gặp được cơ hội tốt, họ cũng sẽ trở thành người giàu sang, danh lợi song toàn. Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ khó có thể đạt được thành công trong cuộc đời hoặc nếu có thì chỉ là hư vinh, thiếu thực tế. So với nam giới, nữ giới tuổi Tuất mệnh Hỏa thường gặp nhiều may mắn hơn.

Sinh năm Bính Tuất - 1946: Chó tự ngủ (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành)

Giống người tuổi Tuất mệnh Kim, họ khá nghiêm túc, cẩn thận trong công việc. Trong tập thể, họ luôn đưa ra được những suy nghĩ, quan điểm mang tính xây dựng. Họ cũng là những người tài trí, biết cách vận dụng trí tuệ của mình sao cho hợp lý để có được tiền bạc và quyền lực. Người này luôn nhìn nhận và suy nghĩ từ đại cục để hành động, có thể hy sinh việc nhỏ để hoàn thành việc lớn. Dù không có quá nhiều tham vọng nhưng họ sẽ luôn kiên định với lập trường của mình và không cho phép ai xúc phạm đến. Họ rất tự tin, không để cho người khác cười nhạo mình và có thể nắm bắt được cơ hội tốt cũng như luôn dũng cảm đón nhận mọi thử thách mới.

Họ thường khá kiên định, lạnh lùng, có thể bình tĩnh nhìn nhận, phán đoán về sự vật, sự việc. Tuy nhiên, khi ra quyết định, họ thường không thật sự quả quyết. Điều này có thể là do bản tính quá cẩn trọng của họ. Họ ghét những việc không hợp lý, luôn chú trọng đến vấn đề tự tu dưỡng, tuân thủ kỷ luật rất nghiêm ngặt. Do đó, ấn tượng họ để lại cho người khác là sự cứng nhắc, khô khan. Mặc dù vậy, trên thực tế, đây là người biết cảm thông và cũng thích giúp đỡ mọi người. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, người này có thể trở thành nhân vật xuất chúng. Ngược lại, nếu không được sao tốt tương trợ, họ dễ vướng vào chuyện thị phi, thậm chí gặp phải tai họa lớn.

Sinh năm Mậu Tuất - 1958: Chó lên núi (thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành)

Họ thường thành thực, trung hậu và có hiểu biết rộng. Đây còn là người có tinh thần chính nghĩa, không ngại khó khăn khi giúp đỡ mọi người. Họ cũng sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân nếu cần thiết và vì vậy họ được nhiều người tin tưởng, yêu mến. Người tuổi Tuất mệnh Mộc có thể trở thành bạn bè hoặc cấp dưới đáng tin cậy. Họ cũng có khả năng chịu đựng khó khăn, gian khổ. Khi đã xác định được mục tiêu họ sẽ tiến lên không ngừng nghỉ. Họ có khả năng hợp tác với người khác để làm nên sự nghiệp chung. Là người rất có năng lực làm việc nhưng họ không phải là người có tài ăn nói. Họ cũng là người không thể giữ yên lặng trong thời gian dài. Tuy nhiên, vì không có khả năng biểu đạt nên họ thường chỉ có thể nói rất thẳng thắn ý kiến của mình về mọi việc. Nếu không làm được như vậy, họ sẽ cảm thấy rất cô độc.

Nữ giới tuổi Tuất mệnh Mộc thường có tính cách khá mạnh mẽ, không thích hợp với vai trò "nội tướng" trong gia đình. Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ được hưởng phúc đức, tốt số và có thể sẽ được giàu sang. Nếu không được sao tốt tương trợ, tuy họ có được danh tiếng tốt nhưng thường không ổn định, nguyện vọng và kế hoạch đã định ra sẽ khó mà thực hiện được.

Sinh năm Canh Tuất - 1970: Chó coi trong chùa (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành)

Họ thường rất tài hoa, cẩn thận và biết tính toán. Tuy nhiên, một số người tuổi Tuất mệnh Kim khá bảo thủ, không thích người khác can thiệp vào công việc của mình. Họ luôn mong muốn có được thế giới riêng, không phải bận tâm đến mọi việc xung quanh. Với họ, sự bình luận, đánh giá của người khác không hề quan trọng mà điều quan trọng là tự mình có cảm thấy thỏa mãn, hài lòng hay không. Chính vì tính cách này mà họ thường thấy không thuận lợi và thoải mái khi giao tiếp với mọi người. Nguyên tắc sống của họ là luôn kiên trì theo quan điểm của mình, cho dù thất bại họ cũng không muốn thay đổi. Vì vậy, đôi khi họ để những cơ hội tốt tuột khỏi tầm tay. Tuy cố chấp như vậy nhưng họ cũng là những người chính nghĩa và sẽ không bao giờ làm những việc chỉ có lợi cho mình mà lại gây tổn hại cho người khác.

Người tuổi Tuất mệnh Kim khá cẩn trọng và cũng hơi bảo thủ trong chuyện tình cảm. Tuy không phải là người lãng mạn và cũng không biết cách thể hiện tình yêu nhưng họ luôn trung thực và tôn trọng lời hứa của mình. Họ coi trọng gia đình và sẽ cố gắng để tìm được người bạn đời đáng tin cậy, xứng đáng làm chỗ dựa cho họ trong suốt cuộc đời. Họ cũng sẽ cố gắng làm việc hết mình để chăm lo tốt nhất cho gia đình.

Sinh năm Nhâm Tuất: Chó giữ nhà (thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành)

Là người cả đời luôn gặp chuyện tốt, quí nhân phù trợ, mọi việc thông suốt, hậu vận hưng vượng. Là phụ nữ thì mang mệnh hiền lương, giỏi việc. Người này có nền tảng kiến thức khá phong phú, làm việc quy củ. Điều này khiến mọi người rất tin tưởng và tôn trọng họ. Họ ghét những sự việc bất hợp lý. Tinh thần trách nhiệm và sự chính nghĩa thường trực khiến họ luôn nhiệt tình và hết mình với những việc phải làm. Tuy nhiên, khi bị cấp trên yêu cầu làm những việc không mấy "quang minh chính đại", họ thường do dự, chần chừ không biết phải lựa chọn như thế nào giữa nhiệm vụ và sự chính nghĩa. Chính vì vậy, sự trung thành của họ sẽ thường xuyên bị người khác lợi dụng. Và khi phát hiện ra rằng có người nào đó đang và đã lợi dụng mình, họ thường cảm thấy rất đau khổ, dày vò, chán nản và cô độc.

Họ giỏi chịu đựng gian khổ nhưng lại thiếu năng lực xác định mục tiêu. Chỉ khi xác định rõ mục tiêu để phấn đấu, họ mới có thể phát huy hết tài năng của mình. Tuy có tư tưởng khá phóng khoáng nhưng người tuổi Tuất mệnh Thủy lại tương đối bảo thủ trong hành động. Một số người thường thiếu tính độc lập, tự chủ. Người tuổi Tuất mệnh Thủy thích đi du lịch và thích cuộc sống tự do, tự tại. Tuy nhiên, không ít người trong số họ thường để mình rơi vào ảo tưởng và dần dần từ bỏ những mục tiêu đã xác định ban đầu. Không khô khan như người tuổi Tuất mệnh Thổ, người tuổi Tuất mệnh Thủy khá lãng mạn trong chuyện tình cảm. Họ có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người khác giới và được nhiều người theo đuổi.

5. Vận mệnh người tuổi Tuất với tháng sinh

Sinh tháng giêng

(Đầu xuân), có lộc về đường ăn uống, nên không phải lo lắng về ăn uống. Tướng mạo đôn hậu, cơ thể khỏe mạnh. Tuy nhiên khi gặp chuyện gì phần lớn không biết giải quyết, có nhiều sai lầm khiến tinh thần mệt mỏi, chán nản. Cần biết kiềm chế, suy nghĩ để vững vàng tiến lên. Cần nhớ là tai họa từ miệng mình mà ra.

Sinh tháng hai

(Kinh trập), tốt bụng, gan dạ, dũng cảm. Tuy nhiên đừng gieo gió nhiều không thì sẽ gặp bão. Là người khỏe mạnh, thích đi đây đó, hay làm bừa mà không hề sợ, coi thường người khác, không giống ai, cứng rắn quá dễ gặp khó khăn, cần nhớ là không phải việc gì cũng phải tỏ thái độ cứng rắn, mạnh bạo.

Sinh tháng ba

(Thanh minh), giỏi giao thiệp, đam mê tửu sắc, tính tình lập dị, tinh thần sảng khoái, tình yêu thuận lợi, ăn mặc không thiếu, tự do đi lại đến đâu cũng xong, thông minh, chỉ làm việc có lợi. Nên tự kiểm điểm một chút vì phong lưu quá sẽ gặp tai họa.

Sinh tháng tư

(Lập hạ), tuy không giàu nhưng cả đời ít gặp nguy hiểm, mọi chuyện đều ổn thỏa. Tinh thần ổn định, cuộc sống thanh đạm vô lo vô nghĩ, hung cát lẫn lộn, sống yên ổn, nhiều niềm vui, nhiều may mắn. Nên nhớ là hết điều xấu sẽ đến điều tốt hay vui quá hóa buồn.

Sinh tháng năm

(Mang chủng), tan vỡ li biệt, gia cảnh phức tạp, phận mỏng ít phúc, có lúc còn gặp hạn nhỏ, hay mắc bệnh nhưng ít liên quan đến đại sự. May mắn là hậu vận bình an, ung dung tự tại.

Sinh tháng sáu

(Tiểu thử), nóng nực, tính tình kì dị. Lúc hưng lúc bại, vui buồn cùng có. Tuy có chí hướng nhưng rất khó khăn khi vươn lên. Cả đời phải chịu khó suy nghĩ, cầu lợi cho mình, không làm chuyện bất chính thì có thể đủ ăn đủ mặc.

Sinh tháng bảy

(Lập thu), hậu vận thu về được, nhưng mưu sự tại người, thành sự tại thiên. Từ thuở niên thiếu đến khi trưởng thành, nhận được không ít sự giúp đỡ chân tình của người khác. Tuổi trung niên gia đình có thể tan vỡ. Tuy cuối đời có của nhưng không xóa hết được đau buồn.

Sinh tháng tám

(Bạch lộ), tính cách thông minh, khéo ăn nói, địa vị quyền lực bấp bênh. Tuổi thanh niên gặp nhiều trở ngại nhưng không hại đến bản thân. Cả đời không có hạn lớn. Tính tình ổn định, tu chí có thể làm đại nghiệp. Hậu vận may mắn, danh tiếng tiến xa nhưng phúc lộc lại tỉ lệ nghịch với danh tiếng.

Sinh tháng chín

(Hàn lộ), tính tình cương nghị, quyết đoán hiếm có, sự nghiệp tốt, có uy lực, có thể dời non lấp biển. Tuy nhiên vì tính cách quá mạnh mẽ nên thường có sai lầm. Mặc dù được kính trọng nhưng khó dự đoán trước mọi việc.

Sinh tháng mười

(Lập đông), cuộc sống bấp bênh, danh lợi khó đạt, vất vả nhưng khó thành công như lúc mới vào đông vừa qua nóng đã gặp lạnh, tốt bụng và chung thủy, có nhiều đức tính tốt khác. Mặc dù có một thời khấm khá nhưng sau đó gặp nhiều khó khăn, cuộc sống không đủ. Lúc này cần bình tĩnh để tránh được bệnh tật.

Sinh tháng mười một

(Đại tuyết), tuyết rơi gió lạnh, cả đời sợ lạnh, sống vất vả gian khổ, làm việc khó thành, cuộc sống không ổn định, thành bại được mất nhiều, buồn khổ chán nản, may mắn là có quý nhân phù trợ nên một đời bình an, cố gắng tiến lên, bỏ bớt đau buồn.

Sinh tháng mười hai

(Tiểu hàn), ăn uống no đủ, giữ được tiền, nghiêm khắc với bản thân, được lộc an nhàn, gia đình thịnh vượng, phúc thọ trường tồn, danh thành công toại, mọi việc tốt đẹp. Nhưng tính tình yếu đuối, phải mạnh mẽ hơn.

6. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Tuất và các tuổi khác

Tuổi Tuất và tuổi Tý

Mặc dù có nhiều điểm khác biệt nhưng Tí và Tuất vẫn kết hợp khá ăn ý. Tí thích xung quanh có nhiều bạn bè thân còn với Tuất, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa nếu không có sự trung thành. Đáng tin, khôn ngoan và có trách nhiệm, tuổi Tuất là người bạn tuyệt vời. Đôi khi sự nhiệt tình quá với bạn bè của người tuổi Tuất khiến Tí hơi khó chịu và đoán mò lung tung. Tuy nhiên, dần dần, người cầm tinh con Chuột thấy sự nhiệt tình và trung thành của tuổi Tuất đầy thú vị và đáng quý. Vậy là họ trở thành những người bạn khá tri kỷ.

Nếu là một cặp uyên ương, hai “hành tinh” này có thể hỗ trợ nhau khá nhiều. Tuổi Tuất đôi khi nhẹ dạ, cả tin và tuổi Tí luôn ở bên cạnh để giúp tuổi Tuất định hình lại sự việc và lấy lại tinh thần. Thường thường, người cầm tinh tuổi Tuất thấy hài lòng về sự thân thiện, hào phóng của tuổi Tí nhưng cũng khó tránh khỏi mâu thuẫn. Đó là khi Tuất không đặt niềm tin trọn vẹn vào Tí và nghi ngờ động lực sống của con giáp này. Vậy nhưng, tuổi Tí không thấy nản và thất vọng vì sự bi quan của tuổi Tuất và thấy đó là thử thách cần chinh phục. Cứ như vậy, cuộc sống con giáp này vẫn thuận buồm xuôi gió.

Khi là đối tác kinh doanh, họ sẽ tạo thành một tập thể vững mạnh. Tuổi Tí khôn ngoan, sắc sảo và thông minh bên cạnh tuổi Tuất cũng thông minh, thậm chí còn cấp tiến trong suy nghĩ và rất đáng tin cậy. Cả hai cùng hỗ trợ cho nhau để xây dựng một khối bền vững.

Tuổi Tuất và tuổi Sửu

Dù là bạn, người yêu hay đối tác làm ăn, Sửu và Tuất đều kết hợp khá ăn ý với nhau.Cả hai con giáp này đều đánh giá rất cao niềm tin, bản chất trung thực và quan trọng hơn cả, họ đều tìm thấy ở nhau những điểm trên. Tuổi Tuất rất hay lo lắng và nghĩ cho người khác; còn tuổi Sửu vừa thông minh, vừa rất khâm phục Tuất và không bao giờ để Tuất có lý do gì để ghen hay phản bội.

Nếu là một cặp uyên ương, người này sẽ tạo cho người kia sự thoải mái và ổn định. Người tuổi Sửu thích sự hài hòa, thích nhà cửa luôn sạch sẽ và luôn biết cách để tuổi Tuất có phần quá nhạy cảm thấy yên lòng. Đôi khi Tuất có cái nhìn khá bi quan về cuộc sống. Thật may mắn là bên cạnh Tuất lại có người tuổi Sửu bởi Sửu sẽ là bờ vai để Tuất vượt qua nỗi sợ hãi. Sẽ chẳng khi nào có sự phản bội giữa hai con người này, bởi cả hai đều biết trân trọng sự thủy chung và chân thành. Tuy nhiên, thỉnh thoảng họ cũng có mâu thuẫn. Đó là mỗi khi trời trở gió và tuổi Sửu bướng bỉnh hơn thường ngày. Nhưng những sự kiện kiểu như thế này không xảy ra nhiều bởi họ thường rất hài hòa với nhau.

Khi là đối tác kinh doanh, họ sẽ rất phát đạt. Hai "hành tinh” này đều có giác quan kinh doanh khá nhạy bén. Sửu tin Tuất và ngược lại Tuất chẳng bao giờ phải lăn tăn về Sửu. Tuổi Sửu vừa chăm chỉ, vừa cẩn thận ngay từ bước đầu; còn tuổi Tuất có biệt tài đọc được tâm lý của người khác nên họ tạo thành một mối quan hệ khá bền vững.

Tuổi Tuất và tuổi Dần

Một cặp xứng đôi vừa lứa. Cả hai đều dành cho nhau những tình cảm sâu đậm thắm thiết. Có nhiều điểm chung, ngay cả những khác biệt của cả hai cũng sẽ bù đắp bổ sung cho nhau.

Dần và Tuất có khá nhiều điểm chung và người này luôn tìm cách làm cho người kia hài lòng. Hai hành tinh này trung thành và luôn thích bảo vệ nhau. Bởi vậy, nếu hai người có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhất là về mặt tình cảm thì cả hai đều thấy rất an tâm và hoàn toàn tin tưởng vào nhau. Thông thường, Dần thường muốn chạy khỏi những mối quan hệ có tính chất gò bó hoặc hạn chế tự do. Nhưng riêng đối với Tuất, sự ràng buộc giữa hai người là hoàn toàn hợp lý và thậm chí, Dần còn thích sự ràng buộc hết sức tế nhị đó. Dường như, Dần luôn ủng hộ Tuất trong các hoạt động trong đời sống thường ngày và Tuất thấy mình may mắn và hào hứng đón nhận được điều đó. Đôi khi tuổi Tuất hơi bi quan và không đặt niềm tin nhiều vào người khác. Tuy vậy, đối với Dần thì Tuất hoàn toàn khác, Tuất thấy mình vững vàng hơn khi được ở bên Dần.

Khi là một cặp uyên ương, hai con giáp này tạo được không khí vui vẻ cho nhau và sắp xếp thời gian hợp lý cho cả việc chung và việc riêng. Điều này là yếu tố hết sức quan trọng để tuổi Dần có thể giữ được cân bằng cho cuộc sống. Mặc dù, người tuổi Tuất có đôi lúc nhạy cảm và cần thời gian một mình; mặc dù cả hai đều thích làm theo ý mình nhưng cả hai đều trung thực và thành thật với nhau. Bởi vậy, Dần và Tuất rất tôn trọng nhau và mối quan hệ của họ khá bền vững.

Nếu là đối tác kinh doanh, hai con giáp này sẽ kết hợp khá ăn ý với nhau tạo thành một đế chế thịnh vượng và phát triển. Đó là sự kết hợp của sự thông minh, dũng cảm, sáng tạo của tuổi Dần và sự trung thành và đáng tin cậy của tuổi Tuất. Thỉnh thoảng, Tuất cũng góp những ý tưởng mới cho công việc chung của hai người, bởi vậy việc kinh doanh chung của hai hành tinh này khá thuận lợi. Điều mà Tuất thấy không hài lòng nhất ở Dần là: Đôi khi Dần nhanh chán và ít kiên trì hơn Tuất. Tuy nhiên, mọi bất đồng đều được giải quyết khá ổn thỏa.

Tuổi Tuất và tuổi Mão

Mão và Tuất sẽ cùng nhau xây dựng một mối quan hệ bền chặt và nồng thắm dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Tuổi Mão khá nhút nhát, thường bị một số tuổi khác lợi dụng sự nhiệt tình nhưng Tuất thì không hành động như vậy. Tuất thường ít khi đặt niềm tin ở người khác nhưng trong quan hệ với Mão, Mão không để cho Tuất có lý do nghi ngờ điều gì. Cả hai hành tinh này đều đáng tin, trung thực và luôn bảo vệ nhau.

Khi là một cặp uyên ương, hai hành tinh này sẽ kết hợp rất hài hòa. Mão có xu hướng dựa vào đôi vai của người mình yêu khi có rắc rối về mặt tinh thần, tình cảm. Thiếu sự hậu thuẫn của người yêu, Mão sẽ mất bình tĩnh và tự tin. Tuổi Mão thường nhìn cuộc sống bằng ánh mắt chủ quan; Tuất đôi khi cũng có những sợ hãi vô lý của riêng mình nhưng Tuất vẫn đủ can đảm để đem lại sự thoải mái và niềm tin cho Mão. Bù lại, sự chăm sóc tận tình, tình yêu thương của Mão sẽ đem lại niềm hạnh phúc cho Tuất. Nếu họ sống trong cùng một ngôi nhà, căn nhà của họ sẽ tràn đầy tiếng cười và được trang trí mang tính nghệ thuật nhờ tài năng của Mão. Vấn đề lớn nhất mà Mão và Tuất gặp phải là sự bi quan khi sự việc cần giải quyết hỗn loạn và khó hiểu. Trong trường hợp quá lo lắng, họ sẽ không đủ bình tĩnh để tìm ra phương án giải quyết hợp lý.

Khi là đối tác kinh doanh, hai con giáp này sẽ tạo thành một tập thể vững mạnh và sáng tạo. Một số ý tưởng sáng tạo của Mão sẽ khiến Tuất ngạc nhiên và trở nên kiên nhẫn lắng nghe và thực hiện. Trong khi đó, Tuất có tài kinh doanh, cẩn thận và biết đánh giá giá trị của lao động nên sẽ đảm nhiệm tốt vấn đề tài chính. Cả hai sẽ kết hợp với nhau để tạo thành một tập thể phát triển tích cực theo hướng đi lên.

Tuổi Tuất và tuổi Thìn

Thìn và Tuất phải cùng nỗ lực thật nhiều để hiểu được động cơ và mục đích của nhau. Có như vậy, mối quan hệ của họ mới bớt sóng gió. Tuổi Tuất là một trong những tuổi có cách ứng xử linh hoạt nhất trong các con giáp, và hầu như có thể chơi được với hầu hết các con giáp khác, nhưng với Thìn thì Tuất phải cố gắng rất nhiều. Sớm hay muộn thì hai con giáp này cũng nảy sinh mâu thuẫn do bản chất khác nhau.

Nếu là một cặp đôi yêu nhau, mối quan hệ của họ khá căng thẳng hoặc có thể sớm đi đến hồi kết. Thìn nghĩ và thể hiện những điều mình suy nghĩ ngay lập tức, điều này có thể khiến Tuất thấy khó chịu bởi Tuất trung thực nhưng không thích to tiếng và không thích phải làm theo lệnh của người khác. Người tuổi Tuất khá nhạy cảm với chuyện tình cảm và thường tận hưởng cảm giác cô đơn để lấy lại cân bằng. Thìn thấy vậy thì ngán ngẩm bởi sự đa sầu đa cảm của Tuất và cho rằng Tuất là người ướt át. Còn Tuất thì dễ gần nhưng khó tin người khác. Hai con giáp này có thể đặt niềm tin ở nhau nhưng điều đáng nói là họ chẳng nhận ra điều đó.

Nếu hai “hành tinh” này có quan hệ làm ăn với nhau, họ sẽ làm việc hết sức để bảo vệ người kia và bảo vệ công ty. Tuy nhiên, điều kiện ở đây là họ phải hiểu được mục tiêu của nhau. Tuất làm việc chăm chỉ và biết cách phân bổ thời gian; hai đức tính này làm Thìn rất hài lòng. Thìn rất may mắn với chuyện tiền bạc nhưng Tuất đôi khi vẫn cảm thấy hơi mạo hiểm khi làm việc với con giáp này.

Tuổi Tuất và tuổi Tỵ

Điều tuyệt vời là nhờ có mối quan hệ chung này mà cả Tị và Tuất đều có thêm sức mạnh, nghị lực và trở thành chỗ dựa vững chắc của bạn bè, đồng nghiệp. Có thể nói rằng, hai hành tinh này không có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng không xung khắc. Người tuổi Tuất tốt tính và hay chiều người khác nhưng đa sầu đa cảm. Trong khi đó, người tuổi Tị rất cuốn hút, hấp dẫn nhưng có phần sống khép mình, thích sự yên tĩnh, ổn định hơn là sự ồn ã, náo nhiệt.

Khi là một cặp uyên ương, Tị và Tuất sẽ được tận hưởng cảm giác thật thoải mái, an toàn bên nhau. Mối quan hệ của họ khá bền chặt. Họ cũng có một số điểm khác nhau nhưng có thể dung hòa được. Vốn là tuổi Tị rất hay ghen và có tính sở hữu trong tình yêu. Còn tuổi Tuất thì rất trung thành và tận tâm. Bởi vậy, Tuất chẳng để cho Tị có lý do gì để ghen tuông cả. Khi Tuất lo âu hoặc cảm thấy bất an thì Tị sẽ là người động viên để người bạn đồng hành của mình có thêm nghị lực. Nếu hai con giáp này sống chung trong một mái nhà, căn phòng của họ sẽ luôn ấm cúng và thoải mái.

Tị và Tuất cũng sẽ tạo thành một tập thể vững mạnh và liên tục đi lên nếu cùng làm văn với nhau. Cả hai hành tinh này đều giỏi giao tiếp. Người tuổi Tuất phân biệt phải trái rất rõ ràng. Bên cạnh Tuất là Tị rất thông minh. Tị không chỉ tin vào logic mà còn dựa vào cả trực giác để phán đoán công việc. Bởi vậy, rất ít khi Tị mắc sai lầm trong kinh doanh. Hơn thế nữa, tuổi Tị còn rất may mắn với chuyện kiếm tiền. Do đó, chuyện làm ăn của họ liên tục phát triển, trong đó Tị sẽ đóng vai trò làm người ở “tiền tuyến”.

Tuổi Tuất và tuổi Ngọ

Tuổi Ngọ và tuổi Tuất có thể kết hợp rất hài hòa với nhau. Họ đều dí dỏm và thích tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngọ trí tuệ có sức hút rất lớn với Tuất. Tuổi Tuất không thích dành thời gian cho việc buôn dưa lê mà thích bàn tán về các chủ đề có ý nghĩa sâu sắc hoặc mang tính thời sự. Chính vì vậy, Tuất không trở nên nhàm chán trước Ngọ thích khám phá. Nếu là một cặp, hai “hành tinh” này không thể dành thời gian dài ở nhà cho nhau. Cả hai tuổi đều thích hẹn hò và thích những khám phá những điều mới. Đặc biệt là Ngựa, thích thay đổi và không chịu được sự nhàm chán.

Trong tình yêu, Ngựa không phải là mẫu người thích mối quan hệ bền vững vì “hành tinh” này quá nhạy bén. Nhưng điều kỳ lạ là Ngọ lại rất thích hưởng thụ cuộc sống cùng với Tuất. Tuổi Ngựa giữ bí mật rất tốt, khi có chuyện riêng tư cần giữ kín, bất kể lý do gì cũng không làm cho người tuổi này bật mí. Tuất sống tâm trạng hơn, vui buồn thay đổi liên tục và đây là điều rất kỳ bí khiến Ngựa có tìm hiểu mãi thì người tuổi Tuất vẫn rất huyền bí. Đây là điểm mà Ngọ rất thích khám phá ở Tuất.

Nếu là đối tác trong kinh doanh, Ngọ và Tuất sẽ chọn công việc đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Hoạt động kinh doanh liên quan đến du lịch là phù hợp nhất, vì cả tuổi Ngựa và tuổi Tuất đều thích thay đổi món ăn, thích ngắm cảnh đẹp và vui chơi bạn bè. Hai tuổi này đều có khả năng chịu được cuộc sống khắc nghiệt và công việc vất vả. Sự trung thành và cẩn thận vốn có của Tuất kết hợp rất hoàn hảo với sự khéo léo trong giao tiếp của Ngọ. Nếu hợp sức lại, công việc kinh doanh của hai người sẽ phát triển với tốc độ khiến mọi người xung quanh ngạc nhiên.

Tuổi Tuất và tuổi Mùi

Mùi và Tuất có đôi chút không hợp nhau, tuy nhiên Tuất rất khéo léo trong cách cư xử nên không có vấn đề gì giữa hai người là không thể vượt qua. Vấn đề chính là Mùi và Tuất có sự khác biệt về sở thích, và khả năng. Mùi thích đứng một mình vì thấy rằng như thế sẽ tốt hơn là rơi vào những cảm xúc rối bời trong các mối quan hệ xã hội. Mùi thấy hạnh phúc và thoải mái với lối sống mơ mộng của mình. Ngược lại, Tuất người sống thực tế hơn. Tuất thích giao lưu bạn bè và không ngừng phát triển những mối quan hệ của mình. Tuất thích những người bạn có năng lực và thích phiêu lưu.

Khi yêu nhau, cả hai sẽ hơi mất thì giờ vào việc giới hạn thời gian của họ. Tuất có thể thiếu kiên nhẫn với những sự mơ mộng của Mùi. Tuất thích những hoạt động thể chất, thậm chí đơn giản chỉ là những công việc vườn tược quanh nhà. Tuất là một người sống có nguyên tắc, nên sẽ không để cho những tình huống thiếu kiên nhẫn và mất bình tĩnh với Mùi biến họ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ. Trong tình yêu, Mùi thường làm cho người yêu mình hạnh phúc bởi những sự chăm sóc ân cần, như nấu những bữa ăn ngon, hay tạo ra những niềm vui nho nhỏ khác. Tuất sẽ cảm thấy mình được quan tâm đặc biệt khi họ sống cùng nhau. Mùi khá đa cảm và dễ bị kích động, nên đôi khi Mùi dễ rơi vào trạng thái đau khổ tột cùng vì lo lắng.

Khi là bạn làm ăn kinh doanh, Mùi và Tuất có thể hỗ trợ nhau tốt hơn. Với khả năng ngoại giao tốt, Tuất có thể là người đại diện cho công ty trong công việc giao thiệp với khách hàng. Tuất rất trọng chữ “Tín” khi làm một việc gì đó. Mùi có thể tin tưởng vào sự chân thật của người bạn đồng hành với mình.

Tuổi Tuất và tuổi Thân

Thân và Tuất có nhiều điểm khác biệt nhưng họ đều là những người sôi nổi yêu thích hoạt động. Điều này làm họ trở nên dễ gần. Thân thích vui vẻ nên luôn sẵn sàng cho những cuộc phiêu lưu khám phá mới. Tuất đánh giá cao điều này và muốn là người bạn đường của Thân để trò chuyện cùng nhau. Tuất là người hay suy nghĩ và bận tâm đến nhiều thứ hơn Thân, nhưng nhìn chung Tuất cũng là một người hòa nhã, vui vẻ. Đôi khi Tuất muốn đi đâu đó một mình cho tâm trạng thoải mái. Việc này cũng không làm Thân bận tâm bởi Thân luôn bận rộn nên không mấy khi để ý đến sự vắng mặt của Tuất.

Khi yêu nhau, hai người sẽ là một cặp đôi ăn ý miễn là Tuất có thể tin tưởng ở Thân. Vì Thân cũng không hẳn là người không đáng tin cậy nên tốt nhất Tuất nên tìm hiểu thói quen cũng như điểm yếu của Thân. Người tuổi Thân thích giao lưu, và có tính hơi hiếu kỳ, thỉnh thoảng thích đi lang thang, mơ mộng. Liệu rằng Tuất có chấp nhận được điều này không vì Tuất là người khá nguyên tắc, có được niềm tin từ Tuất là rất khó vậy nên đã tin tưởng một ai Tuất sẽ rất trân trọng người đó. Nhìn chung, hai tuổi này kết hợp với nhau sẽ tạo nên cuộc sống vui vẻ, lạc quan.

Trong làm ăn kinh doanh, Thân sẽ giữ vai trò như người đứng đầu, Tuất sẽ chỉ đi bên phụ giúp cho Thân. Thân có khả năng thuyết phục khách hàng và Tuất sẽ là người tiếp tục duy trì mối quan hệ làm ăn đó. Tuất có khả năng đặc biệt trong việc nhìn nhận sự việc và đánh giá con người. Do đó Tuất có thể sử dụng khả năng đặc biệt này để trợ giúp cho Thân tránh được những rủi ro đáng tiếc. Không khí nơi làm việc của hai người rất vui vẻ và sôi nổi. Việc kinh doanh sẽ rất phát đạt nhờ vào sự bạo dạn của Thân.

Tuổi Tuất và tuổi Dậu

Dậu và Tuất thường có mâu thuẫn khi giao tiếp với nhau. Dậu thường muốn điều khiển mọi thứ theo ý mình. Tuất cũng tương tự như vậy với những nguyên tắc khá chặt chẽ. Đôi khi Tuất còn trở thành người võ đoán. Dậu rất hiểu điều đó và cũng biết rằng, Tuất làm điều đó để giữ vai trò trụ cột. Và cứ như vậy, sự bất đồng giữa hai hành tinh này sẽ xảy ra.

Khi là hai người yêu nhau, Dậu và Tuất có rất nhiều điểm khác nhau. Dậu khá coi trọng vẻ đẹp hình thức và luôn muốn ngôi nhà chung của họ phải sạch sẽ, gọn gàng. Bên cạnh đó, Dậu cũng rất chú ý tới hình thức của người yêu mình. Bởi vậy, chuyện giục Tuất đi đánh giày hay chỉnh tề lại trang phục là điều thường xuyên thấy. Tuất thì lại khác. Con giáp này chẳng để ý nhiều tới những điều Dậu quan tâm. Tuất có năng lượng cơ thể dồi dào và thích hành động nhiều hơn. Tuy vậy, khi đã yêu nhau sâu sắc, họ là những người bạn đồng hành rất trung thành và tận tụy. Họ sẽ cùng nhau vượt qua những khó khăn để tiến tới hạnh phúc.

Có thể nói khi là đối tác kinh doanh, Dậu và Tuất kết hợp ăn ý hơn ở các lĩnh vực khác. Cả hai con giáp này đều làm việc chăm chỉ và có kỹ năng kinh doanh. Dậu cẩn thận nên rất phù hợp với lĩnh vực tài chính. Bên cạnh đó, người cầm tinh con Gà cũng ít khi tham gia vào các công việc quá mạo hiểm. Tuất thì lại là người rất đáng tin cậy, rất đáng để Dậu đặt niềm tin. Hơn thế nữa, tài ngoại giao của Tuất sẽ giúp cho công việc kinh doanh của hai người ngày càng phát triển vươn xa.

Tuổi Tuất và tuổi Tuất

Hai người tuổi Tuất sẽ rất hài hước khi ở bên nhau bởi cả hai đều có năng lượng dồi dào và họ biết cách đặt niềm tin vào nhau. Vấn đề mà người tuổi Tuất thường gặp phải là họ rất hay lo lắng và thường khó đặt niềm tin ở người khác. Nhưng rắc rối này lại không xảy ra trong mối quan hệ của hai người cùng con giáp này. Người tuổi Tuất thường hay có tâm trạng và khi gặp trở ngại về mặt tinh thần, họ thường muốn mình cô độc. Hiểu được mình và người kia, mối quan hệ của hai người cùng hành tinh này sẽ rất ít gặp trở ngại. Khi là đôi uyên ương, hai người tuổi Tuất sẽ rất vui vẻ bên nhau với điều kiện họ biết cách tránh những câu chuyện đầy tâm trạng vào cuộc hội thoại chung. Người thuộc hành tinh này thích những điều mạo hiểm và họ sẽ cùng nhau khám phá thế giới. Nếu sống chung, họ sẽ không dành nhiều thời gian ở nhà. Đi du lịch, tham gia các hoạt động xã hội và đi bộ là đam mê của tuổi Tuất. Cả hai đều muốn mình năng động, bởi vậy họ sẽ không ngừng làm việc. Họ có những nguyên tắc khá chặt chẽ, bởi vậy nên người này có thể đặt niềm tin ở người kia. Khi đã yêu, Tuất là người trung thành hết mực. Vấn đề có thể xảy ra khi hai người cùng con giáp này yêu nhau là đôi khi họ không kìm chế được nóng giận và bực tức.

Khi là đối tác kinh doanh, Tuất và Tuất sẽ cùng nhau xây dựng một tập thể làm ăn chân chính bởi người tuổi Tuất phân biệt rất rõ chuyện phải, trái. Họ sẽ chọn cho mình công việc liên quan đến chính trị, môi trường hoặc một số lĩnh vực khác mà họ tin là họ sẽ đảm nhiệm tốt. Họ có khả năng giao tiếp tốt tại nơi làm việc bởi vậy nên khách hàng luôn tìm tới. Đôi khi họ võ đoán một chút nhưng có thể bị thuyết phục.

Tuổi Tuất và tuổi Hợi

Tuất và Hợi có thể trở thành một cặp bài trùng vì những ý tưởng tốt đẹp mà họ dành cho nhau. Tuất đôi khi giận hờn và cần thời gian một mình để lấy lại tinh thần. May mắn là Hợi khá nhạy bén và tế nhị nên Hợi để Tuất hài lòng. Bởi vậy, chuyện này không gây nhiều phiền toái tới mối quan hệ của hai người. Người tuổi Hợi đôi khi để Tuất lấn tới nhưng Tuất thì lại không hề như vậy bởi con giáp này khá trung thực, thẳng thắn.

Khi là một cặp uyên ương, Tuất và Hợi sẽ kết hợp rất ăn ý với nhau. Tuổi Hợi vốn thích sự tiện nghi, thích hưởng thụ cuộc sống một chút, chẳng hạn như thưởng thức những món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy”, ngâm mình trong bồn tắm… Trong khi đó thì Tuất có năng lượng cơ thể dồi dào và thích những điều mạo hiểm hơn Hợi. Hai con giáp này sẽ bổ sung và hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày. Điều thú vị hơn nữa là cả Tuất và Hợi đều đặt yếu tố gia đình ở một vị trí rất quan trọng. Họ rất hợp nhau ở điểm này. Có một số vấn đề mà mối quan hệ của hai “hành tinh” này gặp phải nhưng Hợi tốt tính và Tuất có tài ngoại giao sẽ biết cách kết hợp với nhau để vượt qua sóng gió. Tuất rất biết cách bảo vệ người yêu mình và điều này được Hợi đánh giá rất cao. Vậy nên, mối quan hệ của họ ngày càng nồng thắm và bền chặt.

Nếu hai con giáp này là đối tác làm ăn, Tuất với năng lượng dồi dào và tài ngoại giao sẽ đóng vai trò là người tiền tuyến. Hợi chăm chỉ làm việc và làm việc có kế hoạch sẽ trở thành cánh tay phải đắc lực của Tuất. Tuất cũng rất chăm chỉ, đặc biệt với những công việc yêu thích. Tính thích ổn định của Hợi và tính trung thực của Tuất sẽ giúp công ty chung của họ phát triển tốt. Bởi vậy, hai con giáp này sẽ kết hợp rất tốt trong chuyện làm ăn.

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Tuất với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Tuất

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào? Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào?

Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của khách hàng cũng chính là hướng đặt của cửa hàng, như vậy thì cửa của cửa hàng không còn nghi ngờ gì nữa chỉ có hướng Bắc và hướng Đông là đẹp.

Nhưng nếu như vậy thì cửa hàng lại phạm vào điều kỵ húy là cửa không nên hướng Bắc, hướng Đông, trong mùa hạ thì cửa hàng chịu nắng chiếu trực tiếp mạnh mẽ, mùa đông thì phải chịu sự xâm nhập và tiến công của những cơn gió bắc. Trong tình hình đó, có thể vận dụng xử lý định luật tương sinh tương khắc của Âm dương Ngũ hành.

2415135468207019TTTMe60f57b5c112aae

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào?

Nếu cửa hàng có tầng lầu, mà tầng hai sử dụng làm phòng làm việc, cửa của cửa hàng chiều hướng khách hàng, tiếng ồn ào từ phía cửa của cửa hàng có thể quấy nhiễu đến phòng làm việc của tầng hai. Để tránh điều đó, lối lên cầu thang không nên thiết kế đối diện với cửa chính của cửa hàng. Theo lý thuyết của phong thủy học, lối lên cầu thang mà đối với cửa lớn thì sẽ tích tụ sát khí ở cửa lớn (tiếng ồn ào) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người đi lên tầng hai.

Cách giải quyết lý tưởng đó là, bố trí cầu thang ở mặt bên, lối lên cầu thang tránh mở ở cửa chính, theo lối sát bên tường mà lên lầu. Nếu có thể, tốt nhất là đặt ở giữa lối lên cầu thang và cửa lớn một tấm bình phong để ngăn tiếng ổn ào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd