Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Ngũ hành có ảnh hưởng đến cuộc đời người tuổi Tị? Cùng tìm hiểu vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cùng Lịch ngày tốt nhé.
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
 

Người tuổi Tị nổi tiếng là thông minh tài trí, song cũng là rất khó nắm bắt. Họ có sức quyến rũ và cuốn hút bởi sự thú vị và bí ẩn của mình, khiến cho người đối diện không khỏi tò mò họ là con người như thế nào.

 

van menh nguoi tuoi Ti menh kim moc thuy hoa tho
 

Vậy ngũ hành có ảnh hưởng gì tới con giáp này không? Vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ như thế nào? Hãy cùng Lịch ngày tốt xem tử vi để tìm hiểu bí mật này nhé.

 

Ngũ hành theo năm sinh tương ứng của người tuổi Tị được chia ra như sau:

 

Người sinh năm Tân Tị ngũ hành thuộc Kim: 1941, 2001

Người sinh năm Kỷ Tị ngũ hành thuộc Mộc: 1929, 1989

Người sinh năm Quý Tị ngũ hành thuộc Thủy: 1953, 2013

Người sinh năm Ất Tị ngũ hành thuộc Hỏa: 1905, 1965

Người sinh năm Đinh Tị ngũ hành thuộc Thổ: 1917, 1977   

 

Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## cũng sẽ giúp bạn tra cứu mệnh ngũ hành của mình một cách nhanh chóng.

 

Để tìm nội dung cần xem nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.

 
MỤC LỤC

 

Tuổi Tị mệnh Kim

Tuổi Tị mệnh Mộc

Tuổi Tị mệnh Thủy

Tuổi Tị mệnh Hỏa

Tuổi Tị mệnh Thổ

 

Tuổi Tị mệnh Kim

 

tuoi ti menh kim
 

Người tuổi Tị ngũ hành mệnh Kim có tài lãnh đạo thiên bẩm, thứ mà họ thiếu không bao giờ là dũng khí. Người này có ý chí kiên cường, có lòng tự tôn cao, có quyết tâm và năng lực thực hiện những điều mình muốn. Họ luôn có người trung thành sẵn sàng đi theo phò trợ, “tiền hô hậu ủng” vô cùng mạnh mẽ. Họ có khả năng kết hợp sự nghiêm khắc và khoan dung để đối với người nên có sức thuyết phục hơn người.

 

Phần lớn những người tuổi Tị mệnh Kim đều có khí thế của bậc anh hùng, dù đứng hay ngồi cũng tỏa ra phong độ cao quý, có khí chất của bậc đế vương.

 

Tuy nhiên, đôi khi họ tỏ ra tự tin quá mức cần thiết, thậm chí trở thành tự phụ, gây phản cảm với người khác.

 

Kim Tị là người phóng khoáng khẳng khái, dù là trong chuyện tiền bạc hay tình cảm, họ luôn biết cách phát huy năng lực tiềm tàng của bản thân cũng như khích lệ người khác làm được những điều khó có thể thực hiện được. Khi giúp đỡ người khác, tuy ban đầu mục đích xuất phát là hoàn toàn tự nhiên, nhưng đâu đó họ vẫn hy vọng nhận được sự báo đáp của đối phương.

 

Bất kể là trong công việc hay cuộc sống hàng ngày, người tuổi Tị mệnh Kim đều luôn có sẵn trong đầu rất nhiều ý tưởng và chỉ cần dựa vào đó để hoàn thành mọi chuyện. Họ biết lựa theo từng tình huống để giải quyết vấn đề, biết cách vận dụng thế mạnh của mình để tạo ra cơ hội cho bản thân, có khả năng phán đoán chính xác và khả năng giữ bình tĩnh, tỉnh táo khi xử lý vấn đề. Họ nhận được rất nhiều lời khen ngợi nhờ năng lực làm việc của mình, vận trình công việc luôn rất tốt và ổn định.                                                                                    

 

Nếu muốn giành được nhiều thành công trong con đường học hành hay sự nghiệp, tạo dựng được nhiều mối quan hệ tốt đẹp, Kim Tị nên tích cực tham gia vào các hoạt động công ích, chúng sẽ giúp bạn có thêm nhiều kĩ năng, có lợi cho sự phát triển của bản thân trong tương lai, cũng cho bạn cơ hội rèn giũa và thể hiện bản thân.

 

Trong tình yêu, người tuổi Tị mệnh Kim luôn có khả năng đặc biệt trong việc thu hút người khác giới, nhất là nam mệnh là người đào hoa, thường kết giao với những cô gái có điều kiện cực kì tốt. Về đường tài lộc, nên chăm chỉ cần cù, năng nhặt chặt bị, vận tài lộc của người này không cực kì vượng phát nhưng cũng không đến nỗi nào, hãy tích cực và chủ động hơn, đừng để lỡ thời cơ tốt để phát triển sự nghiệp. Đặc biệt, đừng chỉ lúc nào cũng trông đợi Thần Tài gõ cửa mà hãy dựa vào chính sức mình để mang tài lộc về nhà.

Tuổi Tị mệnh Mộc

 

tuoi ti menh moc
 

Người tuổi Tị mệnh Mộc là những người rất coi trọng quy tắc, họ thích sống trong môi trường khoa học, mọi thứ được sắp xếp gọn gàng đẹp đẽ. Họ là người khá cầu toàn, cũng có yêu cầu khá cao đối với chất lượng cuộc sống, đòi hỏi sự chuẩn xác và đúng đắn trong mọi chuyện.

 

Mộc Tị có tài năng thiên phú về nghiên cứu học thuật, cũng có sức sáng tạo rất lớn. Họ có óc thẩm mĩ cao và dễ dàng nhận biết được những thứ quý giá. Họ có sở thích sưu tầm đồ cổ, biết cách giữ gìn và bảo quản chúng, trân trọng những giá trị của chúng.

 

Người tuổi Tị mệnh Mộc tỏ ra khá đam mê quyền lực. Họ thường thấy mình khác biệt với mọi người, thích kết giao với những người có địa vị cao, nắm giữ những vị trí quan trọng, đôi khi có phần coi thường những người có vị trí thấp hơn mình.

 

Người này tính cách hòa nhã, thích kết giao bạn bè, cũng trọng tình nghĩa, nhờ thế mà có không ít bạn bè thân thiết tri kỉ. Có điều họ thường khá thụ động khi làm việc, thiếu sự tích cực nên luôn cần bạn bè ở bên động viên, cổ vũ.

 

Xem vận mệnh người tuổi Tị mệnh Mộc, họ giành được khá nhiều thành công trong sự nghiệp. Người này có lý tưởng, ước mơ cao đẹp, tuy đôi khi có phần mơ mộng viển vông song rất nhanh lấy lại tinh thần và sống thực tế hơn, làm việc chuyên nghiệp và hiệu quả. Nếu học tốt một kĩ năng nào đó thì thành công sẽ càng lớn hơn.

 

Họ gặp phải khá nhiều khó khăn trong việc, luôn cảm thấy mọi chuyện bị cản trở, ngáng đường, không biết phải bắt đầu giải quyết từ đâu. May nhờ có quý nhân phù trợ, đưa người phù hợp đến cùng họ hợp tác làm ăn thì mọi vấn đề mới được giải quyết. Con đường sự nghiệp của người này không mấy ổn định, thường xuyên phải thay đổi vị trí, công việc hoặc làm kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Nếu có thể nắm bắt cơ hội và thể hiện bản thân thật tốt thì chắc chắn sẽ giành được những thành quả tốt đến không ngờ.

Bạn có biết Người tuổi Tị tuyệt đối không nên hợp tác với con giáp nào không?

 

Mộc Tị luôn cố gắng hết mình, dù người bên cạnh có lãng phí thời gian đến thế nào thì họ cũng không vì thế mà sa ngã, nhờ thế mà thành công luôn ở bên cạnh họ. Song nếu lỡ thất bại thì họ lại tỏ ra khá cố chấp, không buông xuôi được mà cứ mãi nghĩ ngợi lung tung, muộn phiền âu lo. Đường tài lộc của người này rất tốt, nên học cách nắm bắt cơ hội để thể hiện tài năng của mình.
 

Tuổi Tị mệnh Thủy

 

tuoi ti menh thuy
 

Người tuổi Tị mệnh Thủy tính cách hoạt bát, vui vẻ. Họ khá thông minh, có nhiều ý tưởng, song có phần ảnh hưởng quá nhiều bởi cảm xúc mà thiếu đi lý trí. Thời trẻ Thủy Tị khá bốc đồng, thường có xu hướng xa quê hương lập nghiệp. Họ không có phúc hưởng lộc tổ tiên mà phải tự mình làm nên tất cả.

 

Chính vì thế mà người này rất biết trân trọng từng cơ hội đến với mình và biết cách nắm bắt cơ hội trong tay, phát huy nó hết mức có thể. Họ hợp với chuyện kinh doanh buôn bán, tuy nhiên là người ưa mạo hiểm nên con đường cuộc đời họ không được bằng phẳng, thành hay bại hoàn toàn do bản thân họ quyết định, chỉ tới sau tuổi trung niên thì mới dần ổn định.

 

Người sinh năm Tị ngũ hành thuộc Thủy có tài năng về nghệ thuật, là mẫu người luôn cố gắng hết mình, có chí tiến thủ. Ưu điểm nổi bật của họ là sự lạc quan yêu đời và tinh thần nỗ lực không mệt mỏi. Bất cứ chuyện gì họ cũng đều xem xét kĩ càng, lên kế hoạch cụ thể rồi mới bắt tay vào thực hiện. Nếu họ thấy thời điểm chưa đủ chín muồi thì dù có chuyện gì xảy ra cũng không thể lay động được họ.

 

Song khi cần thiết, họ lại trở nên vô cùng quyết đoán, dám nghĩ dám làm. Có điều không phải lúc nào họ cũng thể hiện tinh thần đó mà chỉ khi thực sự cần kíp mà thôi. Lòng tự tôn quá lớn cũng trở thành khuyết điểm của người này, có thể sẽ là viên gạch ngáng trở trên con đường đến với thành công của Thủy Tị, cần chú ý và khắc phục điều này.

 

Xem vận mệnh người tuổi Tị mệnh Thủy, trên con đường sự nghiệp, cần giữ cho mình tỉnh táo để xem xét thế cục rồi mới quyết định, nhất là trong chuyện đầu tư càng không được mạo hiểm.

 

Thủy Tị rất giỏi trong chuyện xã giao nên quen biết rất nhiều bạn bè khác giới trong các hoạt động xã hội. Họ sẵn có vẻ đẹp toát ra từ thần thái nên chỉ cần chú ý ăn mặc, trang điểm là tự nhiên sẽ nổi bật trong mắt người đối diện.

 

Họ là người chu đáo và thấu hiểu lòng người, sự quan tâm săn sóc của họ là liều thuốc bổ cho tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên nên chú ý giữ sự nhiệt tình trong mức độ vừa phải, bởi sự bốc đồng có thể dẫn đến những quyết định sai lầm, hãy luôn giữ cho mình tình cảm chân thành. Mời bạn xem thêm Người tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để tìm cho mình người phù hợp nhé.

 

Về tài lộc, Thủy Tị thường có những thu hoạch bất ngờ, nếu biết cách tiết kiệm, tích cóp thì cũng có được một khoản kha khá. Nên đầu tư vào các món hàng có giá trị như vàng bạc hay cổ phiếu, bất động sản… Trong chi tiêu nên có kế hoạch, đừng tùy tiện tiêu pha vô kiểm soát, dễ dẫn đến các nguy cơ về tài chính.

 

Tuổi Tị mệnh Hỏa

 

tuoi ti menh hoa
 

Người sinh năm Tị ngũ hành thuộc Hỏa là những người có trí tuệ và khả năng quan sát rất nhạy bén. Không ai có khả năng tư duy nhanh nhạy như họ, có tài nhìn xa trông rộng, năng lực xã giao xuất chúng.

 

Tính cách Hỏa Tị hoạt bát vui vẻ, thích trở thành người nổi bật giữa đám đông, dù là tham gia những chuyện hoang đường đến thế nào, họ cũng sẽ cố gắng để trở nên nổi bật. Họ thích các hoạt động xã giao, không ngại thể hiện trước đông người, có thể thoải mái nhảy múa, hát ca hay diễn kịch… Họ là tố chất diễn viên, tuy không phải là người thường tự vẽ ra câu chuyện cho mình nhưng họ biết cách làm thế nào để mọi người tin và đồng cảm với mình.

 

Người tuổi Tị mệnh Hỏa có một sức hút kì lạ, sự cuốn hút đặc biệt của họ được toát ra từ chính con người họ. Sự quyến rũ và tài ăn nói thuyết phục khiến họ rất có tiềm năng phát triển nếu đi theo nghiệp chính trị.

 

Họ không phải là mẫu người an phận thủ thường, cũng khó có thể ổn định yên lành ở một chỗ. Họ luôn cần sự thay đổi, không đủ kiên nhẫn với những người cố chấp và không muốn thay đổi. Có điều, người bình thường lại có thể thành công nhờ có nghị lực, mà điều đó không phải là thứ mà Hỏa Tị có được. Họ khó có thể tồn tại được trong tập thể đề cao quy tắc, họ luôn không ngừng tìm kiếm sự mới mẻ, cũng có nhiều ý tưởng khác biệt và độc đáo. Khi cảm nhận được sự nguy hiểm hay bị đe dọa, họ sẵn sàng từ bỏ mọi thứ và không hẹn ngày gặp lại.

 

Tính cách có phần nóng nảy, bốc đồng, thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy. Họ là người thích tự tay lập nghiệp, không thích nhờ vả hay dựa vào tiềm năng kinh tế của gia đình. Họ thích cảm giác tự do và xông pha chiến đấu với thử thách để khẳng định bản thân mình. Người này thích hợp với các ngành nghề mang tính kĩ thuật.

 

Về nhân duyên, họ là người quảng giao, có nhiều bạn bè, trọng chữ tín nên thường khi khó khăn luôn được rất nhiều người giúp đỡ. Tuy nhiên, họ khá bướng bỉnh, tự tin vào bản thân mình nên hiếm khi lắng nghe lời khuyên hay cảnh cáo từ mọi người. Đây là điều mà Tị Hỏa nên sửa đổi.

Mời bạn đọc thêm: Mẹo hay tăng vận may tình cảm cho người tuổi Tị.

 

Người này rất nhạy cảm, song cảm xúc khá thất thường, không mấy ổn định. Chỉ cần đối phương tốt với mình, họ sẽ đem toàn bộ tình cảm của mình trao cho người, dễ trở thành người si mê mù quáng không lối thoát. Tính cách như vậy nên họ hiếm khi bày tỏ tình cảm trước, cũng có phần khắt khe với những người yêu quý mình. Dù tình cảm đã chín muồi, thậm chí đang bàn chuyện trăm năm nhưng đôi khi vì yêu cầu quá cao mà họ khiến cho tình cảm dần trở nên phai nhạt.

 

Nỗ lực làm việc là con đường duy nhất để kiếm tiền. Muốn tài vận tăng tiến thì phải chịu khó dốc toàn lực để phát triển sự nghiệp. Cơ bản thì con đường tài lộc của Tị Hỏa khá suôn sẻ song thói quen chi tiêu hoang phí dễ khiến họ lâm vào cảnh nợ nần. Nên tập cho mình thói quen chi tiêu theo kế hoạch, không mua sắm lãng phí vào những món đồ đắt tiền mà không thực dụng, phải khống chế chi tiêu thì mới có được tài chính cân bằng và vững vàng.
 

Tuổi Tị mệnh Thổ

 

tuoi ti menh tho
 

Người tuổi Tị mệnh Thổ là những người bạn chân thành và trung thành hết mức. Họ là người khiến cho tình bạn luôn sống mãi, bạn bè thích ở bên cạnh vì cảm giác được quan tâm và thấu hiểu, luôn cảm thấy trẻ trung như những buổi đầu quen biết dù tình bạn đã kéo dài bao lâu đi chăng nữa. Song họ cũng đòi hỏi sự trung thành từ bạn bè mình, nếu phát hiện thấy mình bị phản bội, họ sẽ bị tổn thương sâu sắc, không bao giờ quên, cũng không bao giờ tha thứ cho người đó.

 

Nhược điểm lớn nhất của họ chính là nhạy cảm quá mức, họ dễ cảm thấy mình bị xúc phạm, bị tổn thương. Chỉ cần người khác chê bai hay phê bình chút thôi cũng có thể khiến cho họ muộn phiền, còn người buông những lời đó với họ sẽ bị liệt ngay vào danh sách đen.

 

Họ có thói xấu nữa là hay đố kị, có thói quen kiểm soát những người ở bên cạnh mình. Đặc biệt, họ thể hiện ham muốn chiếm hữu cực kì mãnh liệt với người mình yêu, tuy nhiên họ biết cách làm cho mọi chuyện khéo léo hơn chứ không quá chuyên chế độc đoán.

 

Vận mệnh người tuổi Tị mệnh Thổ khá tốt, họ có đầu óc tư duy tốt, phản ứng nhanh nhạy, thích thể hiện, có điều cần chú ý đừng quá mạo hiểm mà hãy tìm cho mình con đường đúng đắn và cách thức an toàn thì khả năng thành công sẽ cao hơn.

 

Họ có lòng thương người, hay quan tâm chăm sóc người khác, cũng có thói quen lắng nghe và chia sẻ những tâm tình của bạn bè. Song trong chuyện tình cảm, họ lại hay suy nghĩ quá mức, thể hiện tình yêu quá nhiều, dễ gây ra những hiểu lầm không đáng có.

 

Nữ mệnh là mẫu phụ nữ đam mê sự nghiệp, song họ không hề tỏ vẻ tự cao tự đại mà vẫn rất thân thiện hòa đồng nên được mọi người vô cùng yêu quý. Họ là viên ngọc quý trong tay chồng, được yêu thương nâng niu rất nhiều.

 

Người tuổi Tị mệnh Thổ nên biết cách dùng lý trí để tiết chế cảm xúc, bình tĩnh chứ đừng để cảm xúc dẫn đường. Chuyện tình yêu không mấy thuận lợi, song nếu biết cách cải thiện bản thân thì vẫn sẽ có được sự cân bằng. Mọi chuyện nên khéo léo hài hòa, chớ để nóng giận đánh mất lý trí, cũng hạn chế tranh cãi với người yêu sẽ dễ dẫn đến sứt mẻ tình cảm.

 

Họ ghét nhất là bị ràng buộc, bị người khác khống chế, kiểm soát bất cứ lúc nào. Tuy cơ hội kiếm tiền rất nhiều nhưng cũng không hề dễ dàng nắm bắt. Nếu biết cách chớp lấy thời cơ và cố gắng hết sức mình thì sẽ giành được thành công rất lớn.

 

 Hy Vũ

Tính cách và vận mệnh cuộc đời người sinh năm 1965 Người sinh năm Kỷ Tị, Tân Tị, Quý Tị, Ất Tị, Đinh Tị thì mệnh gì? Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Thìn, tuổi Tị (Âm lịch)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Phán tính cách nữ giới qua tướng mắt

Trên cơ thể con người, đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn. Hình dáng, kích thước đôi mắt phần nào tiết lộ tính cách nội tâm của mỗi người.
Phán tính cách nữ giới qua tướng mắt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng mắt to nhỏ khác nhau cũng phần nào bộc lộ tính cách của người phụ nữ.


1. Mắt to

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh
Nữ giới mắt to có trái tim nhân hậu và chỉ số hạnh phúc cao

Phụ nữ sở hữu đôi mắt to thường năng động, không giấu diếm cảm xúc và có sức ảnh hưởng nhất định với người đối diện. Hơn thế, họ có trái tim nhân hậu và chỉ số hạnh phúc cao. Đôi mắt to tròn cũng là một trong những điểm có sức lôi cuốn mãnh liệt đối với người khác giới. 
 
Chủ nhân của đôi mắt này có khả năng cảm thụ nghệ thuật tốt, đặc biệt là về âm nhạc. Trong tình yêu, họ hồn nhiên, phóng khoáng, không câu lệ vấn đề chủ động, bị động. 
 
2. Mắt lác

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 2
Nếu mắt lác lên phía trên lại là tướng tốt

Tuy dáng mắt này bị cho là xấu nhưng người sở hữu nó lại có thế giới nội tâm vô cùng phong phú. Họ dễ bị chi phối về tình cảm và thường thiếu tự tin về bản thân.
 
Trong nhân tướng học, nếu mắt lác theo phía hướng lên trên lại là tướng tốt. Người có tướng mắt này sẽ mang lại cuộc sống vui vẻ, hòa hợp và tình yêu lâu bền cho nửa kia của mình. Ngược lại, nếu hướng mắt xuống dưới lại là tướng xấu, không tốt cho đời sống hôn nhân.
 
3. Mắt lõm sâu

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 3
Phụ nữ mắt lõm sâu sống lí trí và mạnh mẽ
  Nữ giới có đôi mắt mà hốc mắt lõm sâu thường đa nghi, sống lí trí và khá mạnh mẽ. Ngoài ra, họ có nhu cầu cao về chuyện phòng the.
 
4. Mắt to nhỏ không đều

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 4
Nếu có tướng mắt này, nữ giới có thế giới tình cảm phức tạp, tính cách bướng bỉnh

Nữ giới sở hữu tướng mắt này đại đa số có thế giới tình cảm phức tạp, tính cách bướng bỉnh và cố chấp. Tuy nhiên, họ biết cảm thông và đặt mình vào hoàn cảnh người khác. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả cho gia đình. Nếu mắt bên trái to hơn mắt bên phải thì được xếp vào hàng tướng mắt tốt. Nó mang lại sự may mắn về tài lộc cho chủ nhân.

5. Đồng tử mắt to

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 5
Người có cặp mắt này khá nóng vội và thích làm việc theo cảm hứng
  Phụ nữ có đồng tử mắt to thường khá nóng vội, làm việc gì cũng theo hứng và không lên kế hoạch rõ ràng. Khi gặp phải vấn đề khó khăn, thay vì đương đầu với nó, họ lại tìm cách rút lui một cách an toàn nhất có thể. Đời sống tình cảm của họ khá phong phú và sướt mướt. Tuy nhiên, nếu cố gắng thay đổi, những yếu điểm này không còn là trở ngại đối với cuộc sống của họ.
 
6. Mắt xếch ngược

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 6
Tướng mắt chứng tỏ người mạnh mẽ, tràn đầy năng lượng sống

Tướng mắt này chứng tỏ đây là người phụ nữ mạnh mẽ, vô cùng nhiệt huyết với công việc. Lòng tự tôn của họ rất lớn lại hiếu thắng nên dễ khiến mọi người xung quanh sinh lòng đố kị hoặc thù ghét. Nếu muốn “cứu vãn” điều đó, bạn cần học cách khiêm tốn và tiết chế cảm xúc của mình hơn nữa.
 
Trong tình yêu, người phụ nữ có đôi mắt này không thích bị quản thúc. Ngược lại, có xu hướng làm chủ gia đình. Nếu không biết cách cân bằng cuộc sống, sớm muộn họ cũng gặp bất hạnh trong hôn nhân.

7. Mắt phượng

Phan tinh cach nu gioi qua tuong mat hinh anh 7
Nữ giới có mắt phượng thường xinh đẹp, sang trọng và cuộc sống gia đình hạnh phúc

Theo quan niệm tứ linh của Trung Hoa, phượng là biểu tượng của sự quý phái, vẻ đẹp thanh khiết. Mắt phượng dài, lòng đen hơi ẩn, có những vết sóng dài ở mí trí.
 
Phụ nữ có đôi mắt phượng thường thanh tú mà luôn toát lên vẻ uy nghiêm, sang trọng khiến người khác phải nể trọng. Họ ít bộc lộ nội tâm ra bên ngoài nên khó đoán biết suy nghĩ, ý định của họ. Tuy nhiên, cách đối nhân xử thế của họ luôn mềm mỏng, nhã nhặn và quan tâm đến người xung quanh.
 
Nữ giới có tướng mắt kiểu này thường có cuộc sống gia đình hạnh phúc, đường công danh sự nghiệp cũng trọn vẹn, sống cuộc đời giàu sang phú quý.

Theo XZ360

 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán tính cách nữ giới qua tướng mắt

Văn khấn Yết cáo Tổ tiên khi có tang

Sau khi làm lễ Hồi Linh ở bàn thờ tang xong thì làm lễ cáo yết với Tổ Tiên ở bàn thờ chính, hoặc tại nhà thờ của chi họ, nơi thờ ông bà nội, hoặc cụ nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau khi làm lễ Hồi Linh ở bàn thờ tang xong thì làm lễ cáo yết với Tổ Tiên ở bàn thờ chính, nếu là gia đình nhà con thứ thì yết cáo tại nhà thờ của chi họ, nơi thờ ông bà nội, hoặc cụ nội.

van-khan-gia-tien-tang-le

Văn khấn yết cáo Tổ tiên như sau:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ họ………



Hôm nay là ngày… tháng… năm…

Hậu duệ tôn là………………………

Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ thân nếu là cha) và các chú bác, cùng với anh rể, chị gái và các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại. Kính cáo Tổ Tiên:

Vì có: Hiển Khảo (hoặc Hiển Tỷ)…………thọ chung ngày …….. nay đã an táng xong, làm lễ hồi linh.

Kính theo lễ nghi phong tục, xin kính dâng lễ vật gồm hương hoa chuối oản, trầu cau, đèn nến, xôi gà thịt rượu, gọi là lễ bạc tâm thành. (Nếu sắp lễ có những thứ khác thì khi khấn tùy theo đồ lễ mà kể ra).


Kính cẩn quỳ trước linh vị của: Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, liệt vị Tiên linh. Trình thưa rằng:

Vật vốn nhờ trời
Người sinh nhờ Tổ.
Xót nay phụ thân (hoặc mẫu thân)
Theo Tiên theo Tổ
Sơ ngu vừa đặt tế điện
Nghĩ trước nghĩ sau
Vật mọn kính bày lễ số.
Ngửa trông chứng giám lòng thành;
Cúi nguyện phù trì bảo hộ.

Chúng con lễ bạc tâm thành tâm kính bái cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Yết cáo Tổ tiên khi có tang

Phong thủy âm trạch –

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa

Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo ” . 

Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp ” .

Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ” Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .

Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ .

Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .

Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .

Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu ” .

Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .

Am Trach 1

2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần

Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.

Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .

3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị

Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế – chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .

Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .

Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .

Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long …

4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng

Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .

Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi : ” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” . 

Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ” . Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .

Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .

Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .

Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .

Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .

Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .

Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .

5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc

Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .
Thông thường cho rằng : ” Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ ” .

Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .

” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi “ , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .

Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ” Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn “.

Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .

Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt .

” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : “ Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách “ . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :

Sa thuỷ đồng hành với nhau .

Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .

Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .

Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí .

Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám long kinh ” có ghi : ” Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó “ . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .

Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa

Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo ” . 

Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp ” .

Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ” Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .

Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ .

Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .

Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .

Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu ” .

Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .

2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần

Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.

Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .

3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị

Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế – chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .

Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .

Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .

Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long …

4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng

Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .

Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi : ” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” . 

Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ” . Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .

Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .

Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .

Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .

Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .

Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .

Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .

5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc

Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .
Thông thường cho rằng : ” Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ ” .

Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .

” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi “ , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .

Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ” Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn “.

Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .

Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt .

” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : “ Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách “ . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :

Sa thuỷ đồng hành với nhau .

Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .

Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .

Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí .

Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám long kinh ” có ghi : ” Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó “ . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .

Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch –

Xem bói tay, ý nghĩa của Gò bàn tay

Gò bàn tay, tức là phần cơ thịt nổi lên trên một số bộ phận trên bàn tay. Khi xem lần lượt gò bàn tay chính là bắt đầu từ bình nguyên Hỏa tinh ớ giữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan sát bàn tay của mình, bạn sẽ thấy giữa lỏng bàn tay lõm xuống, xung quanh thì hơi nhô cao, nếu để bạn tùy ý phát huy sức tưởng tượng, bạn sẽ liên tưởng chúng thành những gò cao thấp trong tự nhiên.
Gò bàn tay, tức là phần cơ thịt nổi lên trên một số bộ phận trên bàn tay. Khi xem lần lượt gò bàn tay chính là bắt đầu từ bình nguyên Hỏa tinh ớ giữa lòng bàn tay, sau đó mới là gò Mộc tinh, gò Thổ tinh, gò Thái dương, gò Thủy tinh, gò Kim tinh, gò Hỏa tinh thứ nhất, gò Hỏa tinh thứ hai, gò Nguyệt và gò Địa, như hình vẽ:

xem boi go tay

Chín gò bàn tay đại diện cho điều gì?

Trên bàn tay của con người, vị trí thịt nhô lên được gọi là gò bàn tay. Lấy ngón tay và đường chỉ tay làm biên giới, nói chung có thể phân làm 9 gò, hơn nữa mỗi gò đều có một ngụ ý riêng. Thường thì, nếu gò nào có cơ thịt đầy đặn mà lại có tính đàn hồi, diện tích lớn, biểu thị nó đã bao hàm thông tin sâu sắc. Bàn tay lõm giữa, được bao quanh bởi các gò, bên trên được gọi là phương đình, phía dưới gọi là hỏa tinh nguyên.

Gò Mộc tinh
Nằm ở gốc ngón trỏ, đại diện cho khả năng lý trí, khát vọng quyền lực và mong muốn tạo dựng sự nghiệp của con người. Từ gò Mộc tinh có thể thấy trong công việc người này có chí tiến thủ hay không, đồng thời cũng có thể thấy cuối cùng người đó có thể đội trời đạp đất hay không.
Nói cụ thể hơn, nếu gò Mộc tinh nhô lên thích hợp, cho thấy đây là người yêu thiên nhiên, thích được du ngoạn, tính tình lương thiện, thành thực, đáng yêu, cho nên nhân duyên của họ cực tốt, có tác dụng trợ giúp cho sự nghiệp của bản thân. Nếu cơ thịt ở gò Mộc tinh đầy đặn, hơn nữa giữa đỉnh gò lại nhô cao, cho thấy người này có chí tiên thủ, mong muôn tạo dựng sự nghiệp cực mạnh, nhưng nếu bộ phận này nhô quá cao, lệch vế phía lòng bàn tay, cho thấy người này xử lý công việc quá vội vã, không thế sống hòa thuận với những người xung quanh. Ngoài ra, người có gò Mộc tinh lõm xuống thường sẽ có tính ỷ lại, thái độ sống tiêu cực.

Gò Thổ tinh
Nằm ở gốc ngón giữa, đại diện cho khả năng suy nghĩ chủ quan của con người. Căn cứ theo gò Thổ tinh sẽ thấy rõ một người trong trạng thái đột phá có thể điều chỉnh được bản thân mình hay không để giành được địa vị xã hội, vượt lên trên kẻ khác.
Nếu gò này nổi vừa phải biểu thị đây là người yêu thích nghệ thuật, xem trọng tu dưỡng nội tâm, có tầm hiểu biết rộng, còn có tín ngưỡng tôn giáo, có thể tiếp nhận sự vật thần bí. về mặt sự nghiệp, hôn nhân, gia đình họ có khả năng giao tiếp nhất định. Nếu gò Thổ tinh đầy đặn, hơn nữa chính giữa gò còn nhô cao cho thấy người này rất cẩn trọng trong việc đối nhân xử thế, luôn suy nghĩ thấu đáo. Nhưng nếu gò này nổi quá cao cũng sẽ giúp cho âm khí phát triển, dễ đa sầu đa cảm, nảy sinh hành vi kỳ quái. Nếu gò này quá mỏng đây thường là ngưòi không có mục tiêu, sống vất vưởng qua ngày, thiếu lòng tin đối với người xung quanh.

Gò Thái dương
Nằm ở gốc ngón vô danh, đại diện cho tài hoa, nghệ thuật, sức sáng tạo, tính tình, uy tín, danh dự. Từ gò Thái dương có thể phán đoán được người này có thể phát huy được sở trường của. mình hay không, có được mọi người công nhận hay không. Nếu gò nhô thích hợp cho thấy tính cách vui vẻ, lãng mạn, thích thiên nhiên, làm việc quang minh, lỗi lạc, luôn ra tay giúp đỡ kẻ yếu, vì vậy nhân duyên, tài vận đều tốt. Nếu gò Thái dương đầy đặn, đỉnh điểm nằm ở vị trí chính giữa điều này cho thấy đây là người có sức cuôh hút vô cùng, luôn nhận được, sự quan tâm chứ ý của mọi người. Nhưng nếu quá đầy đặn họ cũng có thể là người quá hư vinh, thích hơn người. Nếu gò này lõm quá thấp cho thấy họ dễ bị căng thẳng thần kinh, khó giữ được bình tĩnh, làm việc dễ bị dao động, vì danh dự không màng thủ đoạn. Khi bị rơi vào tình thế bất lợi họ thường rất yếu đuối, muốn trốn chạy.

Gò Thủy tỉnh
Nằm ở gốc ngón út, đại diện cho khả năng giao tiếp, kỹ năng làm việc, kỹ năng diễn thuyết. Từ gò Thủy tinh có thể đoán biết được khả năng ứng xử của một người đối với sự biến đổi của tự nhiên, có thể thấy được khả năng làm việc của người đó có sắc bén hay không. Nếu gò Thủy tinh nổi lên vừa phải, cho thấy khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt, khi làm việc có thể nắm được phần thắng, có khả năng giao tiếp nhất định. Trong lĩnh vực chuyên môn họ có thể tạo dựng được chỗ đứng cho mình, trở thành người có quyền uy, được mọi người kính trọng, có thế tiến xa trên con đường sự nghiệp.

Nếu gò Thủy tinh đầy đặn, đinh điểm ở chính giữa, cho thấy người này có trí óc, có thế lợi dụng tài ngoại giao của mình để giải quyết các vấn đề khó khăn, hoặc có thể thông qua kỹ năng ăn nói và ngôn từ đế thuyết phục người khác. Nhưng nếu gò này quá đầy đặn cho thấy người này mưu mô xảo quyệt, không thiện chí. Ngoài ra, nếu gò Thủy tinh bằng, cho thấy về mặt tài chính người này thiếu khả năng phán đoán, dễ bị động.

Gò Kim tinh
Nằm ở phía dưới ngón cái, hớn nữa phạm vi của nó dường như còn bao trùm cả phần dưới ngón cái, đại diện cho vấn đề tình cảm, khả năng thẩm mỹ, ý chí, thậm chí còn có thế hiển thị thể lực và khả năng sinh dục. Xem ra về mặt tình cảm thì dục vọng thể xác của họ còn cao hơn cả dục vọng tinh thần.
Nếu gò Kim tinh phát triển vừa phải cho thấy tình trạng sức khỏe của người này tốt, lạc quan, tích cực, có sức quyến rũ và cá tính nhất định. Họ giao lưu rộng rãi, đốì với bạn bè rất nghĩa khí, có thể tích lũy được quan hệ tình cảm nhất định. Nhưng nếu bề mặt diện tích của gò Kim tinh bao hàm quá lớn, cơ thịt quá phát triển cho thấy có biểu hiện kích động trong dục tính, sẽ gây hao tổn cho người bạn đời. Ngược lại, nếu gò Kim tinh mỏng thì cho thấy thể lực kém, không thể đáp ứng nhu cầu giói tính của người bạn đời.

Gò Hỏa tỉnh thứ nhất
Nằm ở giữa gò Mộc tinh và gò Kim tinh, đại diện cho khả năng quyết định sách lược và khả năng làm việc. Gò Hỏa tinh thứ nhất cho thấy ý thức cạnh tranh trong các lĩnh vực của người nàv, có thể phản ánh đầy đủ được phản ứng và khả năng ứng phó với khó khăn của họ trong hoàn cảnh nguy hiểm.
Nếu gò Hỏa tinh thứ nhất đầy đặn, tương đối phát triển cho thấy quan niệm tư tưởng của người này vô cùng tích cực, thích đối mặt với chính mình, tiếp xúc với những sự vật mới, do đó họ quả đoán quyết sách và có khả năng lãnh đạo nhất định, thích hợp với những công việc
quản lý. Nhưng nếu gò này quá phát triển cho thấy sự yêu thích cạnh tranh, hiếu thắng, có tham vọng đột phá nhất định, thậm chí người này còn có thể theo khuynh hướng bạo lực. Còn nếu gò này quá mỏng, hoặc trên gò có đường tạp cho thấy người này là người nhút nhát, khí lực không đủ, không thể phát huy được tài năng tiềm ẩn của mình.

Gò Hỏa tỉnh thứ hai
Nằm ở giữa gò Thủy tinh và gò Nguyệt, đại diện cho khả năng chịu đựng, tính kháng cự. Từ gò Hỏa tinh thứ hai có thể thấy người này có khả năng chống trọi với áp lực, nếu không thì cũng là khả năng chống chọi đến cùng với môi trường khắc nghiệt.
Nếu gò Hỏa tinh thứ hai phát triển bình thường cho thấy kiến thức của người này phong phú, học vấn xuất sắc, có khả năng phán đoán tốt, có trình độ đạo đức nhất định, có nguyên tắc và tiêu chuẩn xử lý công việc thống nhất, họ có thể đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Nếu gò Hỏa tinh thứ hai phát triển đầy đặn cho thấy người này có nhận thức tốt vể sự nguy hiểm, có thể phòng tránh được nhiều trở ngại và tai nạn, đồng thời có thế khống chế được sự cám dỗ, không bị cuốn theo đó. Nhưng, nếu gò này phát triển mạnh cũng thể thể hiện một mặt kiên cường bất khuất, một mặt thì tự do phóng khoáng. Người có gò Hỏa tinh không phát triển sức đề kháng và ý chí đều bạc nhược.

Gò Nguyệt
Gò Nguyệt đại diện cho phản ứng tình cảm, trạng thái tâm lý, sức tương tượng của con người. Càn cứ vào gò Nguyệt có thế đoán biết được thế giới tình cảm của một người, có thể thấy được người này có khả năng sáng tạo nhất định trong lĩnh vực nghệ thuật hay không, đồng thời cũng có thề phản ánh được họ có thể gặp phải chuyện ngoài ý muốn hoặc gặp khó khăn trên đường du lịch hay không.
Gò Nguyệt nằm ở phía dưới gò Hỏa tình thứ hai, đối xứng với gò Kim tinh, nếu gò này phát triển bình thường cho thấy đây là người có khả năng sáng tạo và khả năng liên tưởng nhất định, thích mưu cầu sự hoàn hảo. Hơn nữa khả năng cảm nhận của họ lại cực mạnh, trong xuất hành có thế linh hoạt không ngừng, rất thích hợp làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật để phát huy sở trường của mình. Nếu gò Nguyệt phát triển đầy đặn cho thấy khả năng sáng tạo của người này tốt, có tố chất nghệ sỹ, có thể đưa ra những ý niệm, kế hoạch tốt, có thể thu được thành tích tốt trong lĩnh vực văn học, hội họa, âm nhạc. Tuy nhiên, nếu gò này phát triển quá mạnh cho thấy người này có thể suốt ngày chìm đắm trong ảo tưởng, thoát ly thực tại, thậm chí vì vậy mà dễ bị mắc bệnh tinh thần. Người có gò Nguyệt không phát triển thường không hiểu biết về nghệ thuật, không biết chủ động đi tìm hương vị cuộc sống.

Gò Địa
Nằm ở phía dưới cùng của tay, đại diện phản ứng bản năng, tinh lực. Từ gò Địa có thể thấy được mong muốn tiềm ẩn trong con người, đồng thời có thế phân tích được nguồn tinh lực và khả năng chịu đựng của người này ra sao. Có nhiều đường tạp trên gò Địa biểu thị khí lực và thể lực của người này rất tốt, họ có vận đào hoa nhất định. Nhưng, nếu đường gò Địa vô cùng phức tạp, cho thấy tinh lực và thể lực của người này đều yếu.
Hỏa tỉnh nguyên và phương đình
Hỏa tinh nguyên và Phương đình là chỉ thung lùng được hình thành bởi chín gò vây quanh, phần này dày mỏng không đều, nếu săn chắc cho thấy tinh lực và thể lực đều rất dồi dào, có thể chiến thắng mọi khó khăn gặp phải trong cuộc đời, trở thành người chiến thắng tuyệt đối. Ngược lại, nếu chỗ này lõm xuống và mỏng mạnh cho thấy khi gặp khó khăn người này sẽ không đủ dũng khí, xử lý công việc cũng bị động, là người thất bại hoàn toàn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tay, ý nghĩa của Gò bàn tay

Từ bi và trí tuệ

Người tu nếu thiếu hai phần trí tuệ và từ bi thì không xứng đáng là người tu. Vậy mà có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt đời, tu tới chết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.

Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.

Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.

Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.

Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.

Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.

Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.

Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.

Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.

Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.

  • Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
  • Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
  • Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Phật
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.

Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.

Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.

Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.

Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.

Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.

Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.

Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.

Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.

Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.

Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.

Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:

– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:

– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

Các vị Bà-la-môn đáp:

– Được.

Lúc đó Phật nói thí dụ:

– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?

Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:

– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?

Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:

– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.

Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.

Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.

Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.

Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.

Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:

1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.

Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.

2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.

Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.

Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?

Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.

Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.

Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.

Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.

Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.

Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.

Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.

 trả nợ
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.

Trả nợ có hai cách:

Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.

Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.

Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.

Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.

Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.

Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.

Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.

Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.

Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?

Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.

Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.

Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.

Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.

Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.

Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.

Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.

Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.

Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.

Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.

Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Từ bi và trí tuệ

Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Xem tướng đàn ông để tìm người chồng chuẩn mực là chỗ dựa vững chắc cho người vợ, là trụ cột gia đình, tướng đàn ông biết thương vợ thành đạt đáng tin cậy
Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng đàn ông tìm ra được hình tượng người chồng chuẩn mực là ước mơ của biết bao phụ nữ. Theo nhân tướng học, đàn ông có những đặc điểm về tướng mạo sau chắc chắn là người sẽ thành công trong cả sự nghiệp lẫn hôn nhân.

Nếu bạn đang muốn tìm “một nửa”, ngoài việc tìm hiểu tính cách, quan điểm sống, có thể tham khảo thêm vài gợi ý dưới đây khi nhìn vẻ bề ngoài của chàng.

Xem tướng đàn ông đi tìm người chồng mẫu mực

Đàn ông có tướng trán vuông

Vầng trán vuông là đặc điểm thường gặp ở nam giới. Chủ nhân của dạng trán này thường sống rất thực tế, thận trọng trong công việc. Họ là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi.

Đàn ông có tướng trán vuông tính tình cương trực, thẳng thắn, phụ nữ có thể tin tưởng dựa vào.

Sự nghiệp của người đàn ông này gặp nhiều thuận lợi và bền vững. Dù làm ngành nghề gì thì họ đều có quý nhân phù trợ và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Đặc biệt, người đàn ông này thích bảo vệ phái yếu, luôn tôn trọng và cảm thông với mọi người xung quanh.

Đàn ông có tướng cằm đầy đặn vuông vức

Cằm cho biết vận mệnh cuối đời của một người, đổng thời còn tiết lộ quan niệm, tình cảm của người đó đối với gia đình. Người đàn ông có cằm đầy đặn vuông vức là người rất coi trọng hạnh phúc gia đình.

Không những thế, người đàn ông có tướng mạo này còn là người nhân hậu và thường có sức khỏe tốt. Nhưng nếu một người đàn ông có cằm nhọn có nghĩa họ thuộc mẫu người thích bay nhảy, không thích sự gò bó của gia đình và thường không chung thủy.

Xem tướng đàn ông có đôi mắt có thần, tinh nhanh nhạy bén

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Nam giới có mắt sáng, thần thái thanh thoát, đoan chính và nhạy bén là người có thể làm nên đại nghiệp. Người này có nghị lực kiên cường, ít nói nhưng lại hành động hiệu quả, chính xác. Họ giữ được thái độ điềm tĩnh trước mọi khó khăn và hay làm việc trượng nghĩa. Điều đó lý giải nguyên nhân mẫu đàn ông này lại thành công cả trong sự nghiệp và hôn nhân.

Đàn ông có tướng mũi đầy đặn, sống mũi cao

Chiếc mũi là đại diện cho tài vận, công danh sự nghiệp của đàn ông. Nếu mũi nhỏ gày, hai cánh mũi lại dẹt xuống, người đàn ông này dù có được thừa hưởng tài sản từ tổ tiên để lại cũng sẽ cạn kiệt và nghèo khó. Ngược lại, nếu dáng mũi to, đầy đặn, sống mũi cao, hai cánh mũi có thịt thì lại là người phúc hậu, tài vận hơn người, công danh sự nghiệp có thành tựu lớn và là người chồng, người cha tốt trong gia đình.

Xem tướng đàn ông có môi dày, miệng rộng và sắc môi hồng hào

Tướng đàn ông này thường tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định và giữ vị trí cao trong xã hội. Họ sống tình cảm, trọng tình nghĩa nên thường là người chồng tốt và biết xây dựng hạnh phúc hôn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Đặt tên cho con sinh năm con rắn –

Nếu em bé sinh năm Rắn, trước hết các bậc cha mẹ cần tìm hiểu đặc tính của con Rắn thì mới có thể hiểu được những điều tốt xấu trong tên họ. Rắn thích sống nơi hang hốc, đầu có mào nên có thể đội mũ, khoác áo quần màu sắc, có thể nắm giữ quyền lực. R

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu em bé sinh năm Rắn, trước hết các bậc cha mẹ cần tìm hiểu đặc tính của con Rắn thì mới có thể hiểu được những điều tốt xấu trong tên họ.

dat_ten_con

Rắn thích sống nơi hang hốc, đầu có mào nên có thể đội mũ, khoác áo quần màu sắc, có thể nắm giữ quyền lực. Rắn có thể ăn thịt và ăn no. Rắn thích rừng cây. Rắn kết hợp với Trâu, Gà thành tam hợp, phối hợp với Ngựa, Dê thành tam hội cũng rất tốt. Tên đặt cho bé sinh năm Rắn mà phù hợp với các điều kiện sau thì mới là tên đẹp:

1. Nên có các bộ hoặc chữ như Khẩu (口), Mịch (冖), Miên (宀), Hộ (戶), Quảng (广), Môn (門). Vì Rắn thích sống nơi hang động, là chốn nương thân, có thể nghỉ ngơi, ngủ đông, được coi là căn nhà ấm áp.

2. Nên có bộ thủ Mộc (木) vì Rắn thích bò lên cây, có ý lên cao, có khả năng biến thành Rồng khi gặp thời, như là được đề bạt, thăng cấp lại được người đời tôn sùng.

3. Nên có các bộ hoặc chữ như Sam (彡), Hệ (系), Y (衣), Thị (示), Thái (采), Cân (巾), Sơ (疋), Kỷ (几) là những vật tượng trưng để chuyển hóa thành Rồng, tăng thêm sự cao quý, có ý lên cao, được người người tôn sùng.

4. Nên có các chữ hoặc bộ chữ có hình dạng con Rắn như Xước (辶, 辵), Dẫn (廴), Cung (弓), Kỷ (几), Tị (巳), Trùng (虫), Ấp (邑) là vật đồng loại, có cảm giác được gia tộc bảo vệ, quý nhân trong đời rất nhiều.

5. Nên có các bộ chữ Tâm (忄, 心), Nhục (月, 肉) vì Rắn ăn thịt, mà Tâm là loại thịt thượng đẳng, hàm ý cuộc đời được nhiều no ấm.

6. Nên có các chữ mang hình chữ Long như Thìn (辰), Bối (貝), Dân (民), Lộc (鹿)… ám chỉ Rắn nhỏ biến thành Rồng lớn, có khí phách đảm đương việc lớn, dễ được cấp trên đề bạt.

7. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Dậu (酉), Vũ (羽), Kê (雞), Sửu (丑), Sinh (生), Ngưu (牛) vì địa chi Tị-Dậu-Sửu là tam hợp, mang hàm ý trong cuộc đời có nhiều quý nhân phù trợ.

8. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Mã (馬), Ngọ (午), Dương (羊), Mùi (未) vì địa chi Tị Ngọ Mùi là tam hội, có sức mạnh tương trợ.

Ngoài ra, cũng cần tìm hiểu Rắn không thích gì thì mới hiểu được tên họ tốt xấu ra sao. Người cầm tinh con Rắn không nên đặt các tên có chữ Nhân (亻,人) vì người gặp rắn hay sợ hãi, bất an. Rắn cũng không ăn ngũ cốc, hoa màu. Rắn đi với Hổ thì thành tương hại, đi với Lợn thành lục xung. Rắn gặp mặt trời thì sợ nóng quá. Nếu tên có chữ biểu thị vũ khí cũng không nên, vì sẽ gây sát thương. Nếu tên đặt mà phạm phải các yếu tố trên thì sẽ coi là phá cách, không có lợi cho số mệnh.

1. Cần tránh có bộ chữ Thảo (艸) vì tục ngữ có câu “đánh rắn động cỏ”. Rắn có thể chui rúc trong bụi cỏ, tuy có không gian để hoạt động nhưng dễ bị người ta phát hiện, dễ phải chịu mưa dập gió vùi, vô cùng vất vả.

2. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Thủy (水), Tí (子) vì địa chi Rắn thuộc hành Hỏa, nếu gặp các chữ có hành Thủy thì sẽ phạm vào thủy hỏa tương khắc, cuộc đời hay bị giày vò.

3. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Hợi (亥), Thỉ (豕) vì địa chi Rắn và Lợn đối xung, cuộc đời hay gặp những kẻ không ưa. Trong thực tế thì lợn vớ phải rắn thì nhai rau ráu.

4. Cần tránh dùng các chữ hoặc bộ thủ như Hổ (虎), Cấn (艮), Dần (寅), Thân (申), Viên (袁) vì Dần-Tị-Thân là tương hình hại, trong cuộc đời gặp toàn những kẻ không ưa.

5. Cần tránh bộ thủ Nhật (日) vì Rắn là động vật máu lạnh, sợ mặt trời quá nóng. Phần lớn Rắn đều thích sống trong hang động, bóng râm, rất ít khi lộ mình dưới ánh nắng mặt trời. Cho nên nếu rắn gặp mặt trời cũng tựa như là gặp ai cũng bị người ta ghét.

6. Cần tránh bộ chữ Nhân (亻,人), vì Rắn không thích chạm trán với người, người cũng là kẻ thù số một của Rắn. Loài người còn coi Rắn là biểu tượng của tà ác, nhìn thấy là đánh đuổi, cũng hàm ý rằng có rất nhiều tiểu nhân.

7. Cần tránh các chữ biểu thị ngũ cốc, hoa màu, đồ chay như Đậu (豆), Mễ (米), Hòa (禾) vì rắn là động vật ăn thịt, thích các món thịt như ếch, nhái…Đặc biệt là kỵ chữ Đậu (豆), nếu phạm phải thì ám chỉ người đó có nội tâm không chịu thua, tính khí ngang tàng, lại có cảm giác mất mát vì tuy là có đồ ăn nhưng lại không phải là thứ mình thích ăn hoặc không ăn được.

8. Cần tránh các bộ chữ hoặc chữ như Nghệ (乂), Nhập (入), Nhi (ㄦ), Bát (八) vì các nét này tựa như vẽ rắn thêm chân, làm ra những động tác thừa, tạo cảm giác làm việc rề rề, làm nhiều công ít.
Cần lưu ý thêm là, các chữ và bộ chữ nói trên chỉ có ý nghĩa tham khảo nhất định. Để chọn được tên hay tên đẹp còn cần phải xem xét nhiều yếu tố khác nữa như âm dương, ngũ hành, âm vận…chứ không đơn giản chỉ vận dụng yếu tố con giáp vào đặt tên, đổi tên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con sinh năm con rắn –

Mệnh Kim hợp màu gì? –

Trước khi muốn biết người mệnh Kim hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Kim sinh vào năm nào ?. Nhâm Thân (1932, 1992) Ất Mùi (1955, 2015) Giáp Tý (1984, 1924) Quý Dậu (1933, 1993) Nhâm Dần (1962, 2022) Ất Sửu (1985, 1925) Canh Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước khi muốn biết người mệnh Kim hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Kim sinh vào năm nào ?.

  • Nhâm Thân (1932, 1992)
  • Ất Mùi (1955, 2015)
  • Giáp Tý (1984, 1924)
  • Quý Dậu (1933, 1993)
  • Nhâm Dần (1962, 2022)
  • Ất Sửu (1985, 1925)
  • Canh Thìn (1940, 2000)
  • Quý Mão (1963, 2023)
  • Tân Tỵ (1941, 2001)
  • Canh Tuất (1970, 2030)
  • Giáp Ngọ (1954, 2014)
  • Tân Hợi (1971, 2031).

Quy luật Âm dương – Ngũ hành

Theo Ngũ hành mạng gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất), giữa các “hành” luôn có sự hỗ trợ hay kìm hãm lẫn nhau tạo quan hệ tương quan hay tương khắc.

Mỗi “hành” đều mang một màu sắc đặc trưng như: Kim-màu trắng, Mộc-màu xanh, Hỏa-màu đỏ…
Mỗi hành vừa thể hiện về tính chất, sự vận động biến đổi, vừa thể hiện vị trí trong không gian. Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào đó trong tự nhiên hay trong xã hội đều có thể quy về một hành nhất định và cũng đều chứa đựng yếu tố âm dương.

Theo nguyên lý ngũ hành thì môi trường gồm 5 yếu tố chính đó là Kim (Kim loại), Mộc (Cây cối), Thủy (Nước), Hỏa (Lửa), Thổ (Đất). Với mối quan hệ tương sinh các hành với nhau làm giúp cho hành kia được hình thành phát triển đó là Mộc sinh Hỏa (Cây cháy thì sinh ra lửa), Hỏa sinh Thổ (Lửa đốt cháy mọi vật thành tro và sau chuyển hóa thành đất – Màu đỏ). Thổ sinh Kim (Tức là kim loại hình thành từ trong lòng đất) – Màu vàng. Kim sinh Thủy (Tức là kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) – Màu trắng. Thủy sinh Mộc (Nước dùng để nuôi cây) – Màu xanh dương, màu xanh da trời.

Mối quan hệ tương khắc trong ngũ hành đó là Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Tức là nước thì có thể dập tắt được lửa, lửa có thể làm chảy kim loại, kim loại thì lại cắt được cây, cây thì hút chất màu của đất, đất thấm nước ngăn không cho nước chảy.

Người mệnh Kim hợp với màu gì?

  • Màu tương sinh: Do bạn là người thuộc mệnh Kim mà Thổ sinh Kim, vì vậy bạn nên sử dụng các màu của đất mẹ như màu nâu đất, màu vàng hoàng thổ.
  • Màu tương khắc: Vì Hỏa khắc Kim nên tốt nhất bạn nên tránh xa các màu của lửa hay các màu tương tự như màu hồng, màu đỏ. Bên cạnh đó, người mua cũng cần thận trọng khi mua bán và sử dụng các vật dụng, sản phẩm có màu tương khắc với mệnh để có thể an tâm khi sử dụng.

Mệnh Kim rất hợp với màu vàng. Vàng chính là màu của sự thuần khiết và trong sáng, là sự dung hòa của các màu khác nhau. Ngoài ra thì người mệnh Kim cũng hợp với màu xám nâu đất, màu sắc này tốt cho con cháu, quan lộc và có quý nhân phù trợ. Còn màu xám bạc tượng trưng cho sự tươi sáng, vẻ đẹp sạch sẽ, thanh cao. Màu sắc này cũng thể hiện rõ nét những đặc điểm tính cách nổi bật của người mệnh Kim như tinh tế, rõ nét và sâu sắc. Người mệnh Kim tốt nhất nên lựa chọn các đồ vật có gam màu sáng hay ánh kim vì đây chính là màu của bạn. Bạn cũng có thể kết hợp với màu nâu, màu vàng khi mua xe, sơn nhà,… bởi đây là những màu sắc sinh vượng.

Nếu lựa chọn màu sắc hợp với bản mệnh của mình sẽ giúp cho công việc của người mệnh Kim luôn được thuận lợi, tài lộc đến nhiều hơn, khi gặp khó khăn sẽ được quý nhân phù trợ. Không những vậy mà sức khỏe của bạn cũng sẽ tốt hơn, ít khi đau ốm và đường tình duyên cũng thuận lợi hơn, ít phải chịu cảnh chia ly, từ biệt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Kim hợp màu gì? –

Luận về sao Thái Âm

Tử vi đẩu số Toàn thư khi luận về sao Thái âm bao giờ cũng dựa trên 3 cơ sở :
Luận về sao Thái Âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a - Đứng đúng chỗ hay không? Miếu hay hãm địa?

b - Sinh ban ngày hay ban đêm?

c - Sinh vào thượng tuần, trung tuần hay hạ tuần trong tháng?


Thái âm đóng Hợi Tí Sửu tốt nhất; Thân Dậu Tuất thứ nhì; ở Dần Mão Thìn thì gọi là thất huy (mất vẻ sáng); ở Tỵ Ngọ Mùi là lạc hãm. Trong chỗ tốt nhất thì Hợi tốt hơn cả, cổ nhân đặt thành cách:”Nguyệt lãng thiên môn”

 


Sinh ban ngày hay ban đêm chia theo 2 nhóm giờ như sau:


1. Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi.

2. Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí, Sửu.


Về thượng tuần hay hạ tuần thì từ 1 đến rằm là thượng tuần, từ 16 đến ba mươi là hạ tuần. Thượng tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi tròn. Hạ tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi khuyết. Tròn tốt, khuyết xấu. Người sinh hôm rằm trăng tròn tới cực điểm lại không đẹp bằng người sinh ngày 13, 14.


Về Thái âm trong những câu luận đáng có một câu đáng chú ý là: “Thái âm tại Mệnh Thân cung tuỳ nương cải giá” – nghĩa là bỏ chồng về nhà mẹ đẻ? Điều này không phải cứ Thái âm là áp dụng. Còn phải tuỳ Thái âm có rơi vào hãm địa không đã. Nếu Thái âm ở Tỵ, lại sinh vào hạ tuần mà sinh vào ban ngày nữa thì lời luận đoán trên rất đúng về cái việc “tuỳ nương cải giá”, còn thêm sát tinh phụ hội thì lại càng đúng hơn, nhất là Hoả Tinh.


Cổ nhân còn viết: “Thái âm thủ mệnh bất lợi cho những người thân thuộc về phái nữ, vào số trai mẹ mất sớm, về cuối đời goá vợ, xa chị em gái; vào số gái cũng thế, ngoài ra còn ảnh hưởng đến cả bản thân nữa”. Điều này cũng chỉ có thể áp dụng qua tình trạng Thái âm lạc hãm, sinh thượng tuần, hạ tuần và sinh ban ngày ban đêm.


Thái âm vào cung Thân, ảnh hưởng còn nghiêm trọng hơn so với Thái Âm đóng Mệnh. Với trường hợp Thái âm tại Tỵ mà gặp Thái Dương Thiên Lương ở Dậu, rồi bên cạnh Thái Âm còn gặp sát tinh hội tụ nữa, ảnh hưởng nặng nề hẳn.


Với thời đại ngày nay, chuyện “tuỳ nương cải giá” không như ngày xưa nên khi nói về hậu quả của sự việc ấy phải rộng rãi hơn. nhiều hướng và nhiều ý nghĩa khác nữa. Nguyên tắc của Tử vi sao hay có cặp đôi thấy Thái Âm thì trước tiên hãy xem thế đứng của Thái Dương.


Trong bản số chỉ có 2 cung Thái Dương Thái Âm đứng một chỗ là Sửu và Mùi. Nếu tốt cả hai cùng tốt, mà xấu thì cả hai cùng xấu. Các sao đi cặp, hễ các sao xung chiếu bị ảnh hưởng tốt xấu đều phản xạ qua sao bên kia.


Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì ở Mùi tốt hơn ở Sửu. Tại sao? Vì Thái Dương ảnh hưởng mạnh hơn Thái âm mà Mùi cung thì Thái Dương không bị “thất huy” như ở Sửu mới có sức trợ giúp Thái âm. Cho nên Nhật Nguyệt ở Sửu, cuộc đời khó hiển đạt và lên xuống thất thường, còn Nhật Nguyệt ở Mùi thì an định hơn.

Nhật Nguyệt đồng cung mang nhiều khuyết điểm, vì cổ ca viết: Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hội, tịnh minh nghĩa là, Nhật Nguyệt đóng Mệnh không bằng chiếu Mệnh hoặc đứng hai chỗ cùng sáng như Thái Âm Hợi, Thái Dương Mão hoặc Thái Âm Tuất, Thái Dương Thìn.


Phú nói:


Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi

Tam phương vô cát phản vi hung.


Vậy thì cách Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần những sao tốt khác trợ lực mới đáng kể.


Thái âm gặp Cự Môn Hoá Kị bị nhiều phiền luỵ. Như trường hợp Mệnh VCD gặp Nhật đóng ở cung Thân, Nguyệt đóng ở cung Ngọ thì lúc ấy bên cạnh Nhật có Cự mà lại thêm Kị thì phá mất cái tốt của việc hợp chiếu. Thái Âm cũng không ưa Thiên Lương, trong trường hợp Thái Âm đóng ở Tỵ mà Dương Lương từ Dậu chiếu sang thường đưa đến tình trạng vợ chồng ly tán. Trường hợp Mệnh Cự Môn Thái Dương mà cung Phu thê có Đồng Âm gặp Hoá Kị duyên cũng khó bền.


Về Thái Âm cổ nhân còn tìm thấy cách “Minh châu xuất hải” (hòn ngọc sáng rực ngoài biển khơi). Cách này đòi hỏi Mệnh VCD tại Mùi, Thái Âm đóng Hợi, Thái Dương đóng Mão. Sách viết: “Nhật Mão Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung. Minh châu xuất hải vị tam công” (Thái Dương Mão, Thái Âm Mùi, Mệnh lập Mùi là cách minh châu xuất hải chức vị cao, quyền thế). Nhưng cách “Minh châu xuất hải” vẫn phải cần Tả Hữu đứng cùng Nhật Nguyệt mới toàn bích, thiếu Tả Hữu mà gặp thêm hung sát tinh thì chỉ bình thường.


Luận về Thái Dương Thái Âm còn phải chú ý đến các cách giáp mệnh. Như Thiên Phủ thủ Mệnh ở Sửu, Nguyệt tại Dần, Nhật tại Tí; Thiên Phủ Mùi, Nguyệt ở Thân, Nhật giáp từ cung Ngọ.


Rồi đến Nhật Nguyệt hiệp Mệnh như Tham Vũ ở Sửu và Mùi. Tham Vũ Sửu thì Thái Âm Tí, Thái Dương Dần. Tham Vũ Mùi thì Thái Âm Ngọ, Thái Dương Thân. Mệnh lập Sửu vẫn tốt hơn Mệnh lập Mùi. Hiệp với giáp vào cung vợ chồng không mấy tốt, nếu kèm theo hung sát tinh đưa đến tình trạng hôn nhân có biến.


Trường hợp Thiên Phủ ở cái thế kho lủng, kho rỗng, kho lộ mà giáp hiệp càng gây khó khăn hơn. Thái Âm là âm thủy chủ về điền sản, tiền bạc.

Thái Âm thủ Mệnh nữ hay nam đều có khuynh hướng về hưởng thụ. Công việc gì cần nhẫn nại gian khổ không thể giao cho người Thái Âm. Thái Âm vào nữ mạng sinh ban đêm là người đàn bà có nhan sắc, có cả Xương Khúc nữa càng mặn mà. Thái Âm trên khả năng thông tuệ nhưng lại thiếu nhẫn nại để mà học cao đến mức hiển đạt về học vấn.

Thái Âm hãm độc tọa thủ Mệnh vào nam mạng thì nội tâm đa nghi. Vì Thái Âm chủ về điền sản nên đắc địa vào cung điền trạch rất tốt. Thái Âm đắc địa thủ mệnh số trai dễ gần cận phái nữ không ồn ào mà âm thầm nhưng khi thành gia thất rồi, vợ nắm quyền.

Thái Âm nữ mạng đắc địa, đa tình lãng mạn, thiện lương nhưng thiếu chủ kiến, có tâm sự u uẩn phải bộc bạch ra mới yên, với bản chất qúy thủy (nước trong) nên bao giờ cũng thích làm dáng, ăn ngon mặc đẹp.

Thái Âm hãm thủ mệnh lại đứng cùng Văn Khúc hãm nữa chỉ thành tựu như một nghệ nhân tầm thường với cuộc sống phiêu bạt, kiếm chẳng đủ miệng ăn. Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn ghi một câu: Thái Âm cư Tí, thủy chừng quế ngạc, Bính Đinh nhân dạ sinh phú quí trung lương (Thái Âm đóng Tí như giọt sương mai đọng trên hoa quế, người tuổi Bính Đinh sinh vào ban đêm giàu sang, tâm địa trung lương vì tuổi Bính tuổi Đinh đều có gặp Lộc Quyền hay Lộc Tồn mà nên vậy)

Sau đây là những câu phú liên quan đến Thái Âm:

- Nguyệt diệu Thiên Lương nữ dâm bằng

(Thái Âm gặp Thiên Lương đàn bà đa dâm và nghèo. Câu này chỉ vào trường hợp Thái Âm ở Mão hay Tỵ, hội chiếu Thiên Lương từ Mùi hoặc Dậu, Thái Âm hãm mới kể)

- Nữ mệnh dung nhan mỹ tú, ái ngộ Nguyệt Lương

(Người đàn bà có nhan sắc là bởi Thái Âm Thiên Lương. Về nhan sắc thì Thái Âm hãm hay đắc địa như nhau, duy Thái Âm đắc địa dung nhan phúc hậu hơn)

- Nữ mệnh kị Nguyệt ngộ Đà

(Đàn bà rất kị Thái Âm gặp Đà La. Tại sao? Vì ưa loạn dâm. Thái Âm vốn dĩ đa tình lại có Đà La tượng trưng sinh thực khí của đàn bà tức kể như nữ tính quá phần mạnh mà loạn)

- Nguyệt tại Hợi cung minh châu xuất hải tu cần Quyền Kỵ Khúc Xương hạn đáo

(Nguyệt ở Hợi là cách minh châu xuất hải, để phấn phát còn cần gặp vận Khúc Xương Quyền Kỵ)

- Âm Dương lạc hãm tu cần không diệu tối kị sát tinh

(Âm Dương đứng không đúng chỗ cần gặp Tuần Triệt, Địa Không ngại gặp sát tinh hãm hại)

- Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán.

(Sao Thái Âm gặp Kình Dương Đà La thì nhân ly tài tán. Đây là nói về Thái Âm hãm thôi)

- Âm Tang Hồng Nhẫn Kỵ Riêu, tân liên hàm tiếu, hạn phùng Xương Vũ dâm tứ xuân tình liên xuất phát. (Thái Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Riêu Kỵ người đàn bà đẹp như đoá sen mới nở, nhưng hạn gặp Văn Xương, Văn Khúc tất sa ngã vì tình)

- Thanh kỳ Ngọc Thỏ tuy lạc hãm nhi bất bần

(Mệnh có sao Thái Âm dù không đắc địa, không bao giờ túng quẫn)

- Âm Dương lạc hãm gia Hình Kỵ Phu Thê ly biệt

(Cung phối Nhật hay Nguyệt hãm mà thêm Hình Kỵ vợ chồng không sống đời với nhau)

 - Nguyệt phùng Đà Kị Hổ Tang, thân mẫu thần trái nan toàn thọ mệnh

(Thái Âm gặp Đà La, Hóa Kị, Tang Hổ thì mẹ mất sớm)

- Thái Âm đồng Văn Khúc ư Thê cung thiềm cung triết quế

(Thê cung có Thái Âm đứng cùng Văn Khúc như lên cung trăng bẻ cành quế, lấy vợ đẹp và giàu sang. Nếu là Phu cung thì không được như vậy, tuy vẫn gọi là tốt)

- Duyên lành phò mã ngôi cao

Thái Âm đắc địa đóng vào Thê cung

- Vợ giàu của cải vô ngần

Thái Âm phùng Khúc Lộc Ấn Mã đồng

- Âm Dương Tuần Triệt tại tiền

Mẹ cha định đã chơi tiên chưa nảo

(Phải Âm Dương đắc địa mới kể)

- Âm Dương hội chiếu Mệnh Quan

Quyền cao chức trọng mọi đàng hanh thông.

- Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương Khúc

Việt Khôi Hóa Quyền Lộc Đào Hồng

Thiên Hỉ Tả Hữu song song

Giàu sang hổ dễ ai hòng giám tranh

- Thái Âm lạc hãm phải lo

Kỵ lâm thường thấy tay vò đăm chiêu

- Nguyệt gặp Long Trì ở cùng

Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân

- Thiên Cơ với Nguyệt cùng ngồi

Ở cung hãm địa ấy người dâm bôn

(Cơ và Thái Âm ở Dần, đẹp nhưng lãng mạn)

Về hai sao Thái Dương và Thái Âm còn có một luận đoán đáng kể mà không thấy ở các sách Tử Vi chính thống như sau:

Nam mạng Thái Âm thủ mệnh trên cử chỉ thái độ hao hao như nữ tử, trái lại nữ mạng Thái Dương thủ thì tính quyết liệt, động tĩnh nhiều nét nam tử

Nam mạng Thái Dương thường xung động Thái Âm ở cung đối chiếu thường có khuynh hướng tà dâm, đổi lại nữ mạng Thái Âm thủ xung động Thái Dương thường là thủy tính dương hoa (lẳng.lãng mạn) nhiều ít cũng còn phải tùy thuộc cung Phúc Đức. Nam mạng Thái Âm thủ ưa thân cận với nữ phái, ngược lại nữ mạng Thái Dương thủ thích giao du với nam phái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thái Âm

Cách nghèo và những sao nghèo

Cách nghèo và những sao nghèo trong khoa tử vi. Hãy cùng tìm hiểu xem bạn có thuộc cách này hay không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách nghèo và những sao nghèo

Cách nghèo và những sao nghèo

Cách nghèo qua các cung:

1. Cung Phúc đức:

Phúc đức xấu là một yếu tố nghèo. Vì cung phúc ăn thông với 3 cung Tài, Phu, Thê và Di, cho nên Phúc xấu có nghĩa là mình nghèo, tổ tiên, vợ chồng cũng nghèo và hoàn cảnh bên ngoài bất lợi cho việc kiếm ăn. Thuận lý là như thế.

Trong thực tế, có khi chỉ riêng cung Phúc xấu, còn 3 cung hội chiếu kia có thể tốt hơn. Trường hợp này không bắt buộc có nghĩa là nghèo vì dù sao, ba cung hội chiếu cũng bù chế được bất lợi của cung Phúc. Khoa Tử Vi, vốn hiểu danh từ phúc đức theo nghĩa rộng. Vì vậy, sự bạc phúc có thể liên quan tới nhiều lãnh vực (ví dụ như kém sức khỏe, vợ chồng đổ vỡ, nghịch cảnh xã hội, hiếm con...). Do đó, cung Phúc xấu không nhất thiết có nghĩa nghèo.

Còn nếu sự bạc phúc liên quan đến cái nghèo, thì đây chỉ là cái nghèo tiền kiếp của tổ phụ, họ hàng, chưa hẳn là cái nghèo của chính mình. Duy điều chắc chắn là mình phải tự lực cánh sinh, bước vào đời với hai bàn tay trắng, không có di sản thừa hưởng. Bước đầu như thế là một bất lợi.

2. Cung Phụ mẫu:

Cung Phụ Mẫu tiếp giáp với cung Mệnh. Vì ảnh hưởng của sự tiếp giáp không mạnh nên ta không thể nói cung Phụ Mẫu xấu thì chính mình nghèo. Cung Phụ Mẫu xấu chỉ có nghĩa cha mẹ không giàu.

Luận xa hơn ta thấy rằng, trong cung Phụ Mẫu, còn có nhiều khía cạnh khác phải xem xét, như sự thọ yếu, sự xung khắc của cha mẹ, chứ không phải chỉ có khía cạnh giàu nghèo của cha mẹ mà thôi. Thành thử, ý nghĩa tài sản trong cung Phụ Mẫu khá mơ hồ. Chỉ khi nào cung này có nhiều tài tinh thì cha mẹ mới mới có của cải. Duy, cho dù thiếu tài tinh điều đó không hẳn cha mẹ nghèo.

Cung Phụ Mẫu chỉ ảnh hưởng mạnh đến cung mệnh khi nào ở thế nhị hợp với cung Mệnh: đó là ở Tý, Sửu và Ngọ, Mùi. Lúc bấy giờ, hai cung thông đồng mật thiết, các sao ở hai cung có ảnh hưởng qua lại khăng khít hơn. Ý nghĩa tài sản ở cung Phụ Mẫu được nới rộng đến cung Mệnh của chính mình.

Chỉ trong trường hợp hai cung vừa tiếp giáp, vừa nhị hợp với nhau ta mới dám kết luận mạnh dạn. cái tốt của cung Phụ Mẫu tăng cường cho cung Mệnh hay bù chế một phần cái xấu của cung Mệnh. Ngược lại, sao xấu của cung Phụ Mẫu cũng làm cho Mệnh bớt tốt: đương số có thể gánh lấy bất hạnh của cha mẹ về nhiều phương diện, trong đó có phương diện của cải (ví dụ như trả nợ cho cha mẹ). 

3. Cung Mệnh:

Mệnh là thời niên thiếu, lúc con người chưa có sự nghiệp riêng, phải sống nhờ cha mẹ, anh em. Vì thế, về mặt tài sản, xem cung Mệnh phải liếc qua cung Phụ hay cung Bào để tìm cách đánh giá hạnh phúc của thiếu thời.

Tuy nhiên, cung Mệnh hàm chứa cá tính và khả năng con người, có ảnh hưởng đến sự tạo mãi hay giữ của cải. Một kẻ lười biếng, hoang phí, không lo xa, thiếu ý chí tranh đấu ít khi giàu có, ít khi tạo sự nổi tiếng riêng, hoặc không giữ gìn được di sản tổ tiên hay tài sản của mình. Trái lại, một người tháo vác, lanh lợi, đua chen, có chí phấn đấu thường tự lập mau chóng và duy trì được tài sản lâu dài. Như vậy, tính tình con người trong cung Mệnh có thể tiên đoán tình trạng sinh kế tương lai. Tuy nhiên, vì cung Mệnh chỉ là thời kỳ con người học việc, học nghề, chỉ là sự chuẩn bị cho sinh kế, cho nên không có ý nghĩa sinh kế một cách trực tiếp.

Tình trạng sinh kế này chỉ thể hiện rõ rệt ở cung Thân, cung Tài, cung Điền và các cung Hạn.

4. Cung Thân:

Thân là hậu vận, tức là thời kỳ con người lập thân, có nghề nghiệp riêng, sống tự lập ít nhiều với gia đình. Vì ý nghĩa đó cho nên cung Thân có tương quan mật thiết với cung Tài và cung Điền. Thân có thể đồng cung với Mệnh, Phúc, với Quan, Với Di, với Tài hoặc với Phu Thê.

Nếu chẳng may cung Thân gặp chỗ xấu, sao xấu thì tình trạng sinh kế phải kém sút, khó khăn, chậm chạp, làm nhiều hưởng ít, giữ của không bền. Vì thế, dù cung Tài hay Điền có tốt, cái tốt đẹp đó bị chế giảm. Vì cung Thân lệ thuộc vào 1 trong 6 cung vừa kể, cho nên xem Thân là xem cái tốt, xấu của 1 trong 6 cung đó. Ý nghĩa của hậu vận dù sao hãy còn có tính cách phụ tùy và gián tiếp. 

5. Cung Tài:

Cung Tài xấu thì không thể giàu. Về mặt tài sản, cung Tài biểu lộ cụ thể sự giàu nghèo rõ ràng hơn các cung khác.

Cung Tài xấu, nhất là khi Thân cư Tài, bao giờ cũng nghèo, dưới những hình thái và tiêu chuẩn đã nêu. Duy cái nghèo đó không nhất thiết kéo dài suốt cuộc đời: nó có những giai đoạn thịnh suy. Cung Tài chỉ diễn tả tình trạng sinh kế tổng quát của cuộc đời, chớ không nghèo trong chi tiết, trong từng thời kỳ, người xem số phải đoán các cung hạn.

6. Cung Điền:

Cung Điền dùng để chỉ các bất động sản như nhà của, ruộng vườn, xí nghiệp và cả các động sản liên hệ đến bất động sản như hoa màu, sản phẩm chế biến, đồng thời cũng chỉ xe cộ (dù xe cộ là động sản thuần túy). Thành thử, cung Điền xấu thì con người nghèo về nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, hoa màu, cơ xưởng làm ăn, vật phẩm sản xuất. Cung Điền xấu không có nghĩa là nghèo tiền bạc.

Chỉ khi nào hai cung Điền và Tài đều xấu cả thì mới nghèo tiền và nghèo của. Nếu cung Điền xấu mà cung Tài tốt thì cá nhân có thừa tiền nhưng khhong dư dả để sắm bất động sản. duy cũng nhờ Tài tốt nên cái xấu của Điền không đến nỗi tệ. 

7. Cung Quan:

Khi nói về cung Quan, nếu cung Quan xấu, điều này không có nghĩa là nghèo nói chung, mà chỉ có nghĩa là nghèo danh phận, nghèo quyền tước, cụ thể như làm chức nhỏ, thấp, có nghề nghiệp ít sinh lợi, hoặc hành nghề khó kiếm tiền, hoặc không có óc làm giàu bằng cách lợi dụng quan tước. Vì chữ Quan ngày nay được hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên ý nghĩa tài sản của cung Quan rất gián tiếp.

Tuy nhiên, nếu cung Quan có tài tinh thì nhất định tài lộc bắt nguồn từ chức vụ mà có, hoặc là đương số hành nghề kinh tế, tài chánh công hay nghề kinh doanh, buốn bán tư. Bấy giờ liên hệ giữa công danh và tiền bạc mới rõ ràng hơn. Xem thế, khoa Tử Vi rất linh động, không chối bỏ ảnh hưởng nào mà vẫn phân biệt được những ảnh hưởng khác nhau bằng cung, bằng các sao trong mỗi cung.

8. Các cung Hạn:

Nếu cung Tài, Điền chỉ tình trạng giàu nghèo một cách tổng quát, thì cung hạn đánh dấu thịnh suy về tiền bạc. Do đó, nếu Tài và Điền xấu, điều này không có nghĩa là suốt đời phải nghèo. Rơi vào hạn tốt, tiền bạc của cải có thể thịnh vượng hơn. Nhưng, sự thịnh vượng đó bị đóng khung trong bối cạnh nghèo của hai cung Tài và Điền, chứ chưa hẳn phá vỡ cái nghèo cố hữu để trở thành giàu có, trừ phi hai cung Tài, Điền không đến nỗi quá tệ.

Trong trường hợp Tài Điền trung bình mà gặp hạn tốt, có thể có nhiều tài lộc trong năm đó hay trong thập niên đó. Tuy nhiên, nếu hặp hạn xấu thì sa sút nhiều, từ sự hao hụt cho đến sự phá sản. 

Cách Nghèo Qua Các Sao:

Các sao nghèo mô tả nhiều cách nghèo, nhiều hình thái và mức độ nghèo túng. Có nhiều dấu hiệu để phỏng đoán cái nghèo nói chung.

Chính tinh ở những cung tài bị hãm địa. Nếu đó là tài tinh thì mức độ nghèo không mấy nặng, vì dù sao, tài tinh hãm địa thì cũng còn ít nhiều ý nghĩa tài lộc, nhất là hợp vị Tài, Điền. Sự hợp vị mà hãm địa vẫn còn đỡ hơn không hợp vị mà hãm địa. Có thể có hai trường hợp hãm địa gần như tương đương nhau: hoặc chính tinh miếu, vượng và đắc địa bị Tuần hay Triệt án ngữ, hoặc chính tinh hãm địa thiếu Tuần, Triệt án ngữ.

Những cung tài sản thiếu phụ tinh tốt hội chiếu, nhất là thiếu tài tinh. Trường hợp những cung này có tài hãm địa thì vẫn còn đỡ khổ hơn là thiếu cả tài tinh lẫn cát tinh khác.

Những cung tài sản thiếu sao giữ của. Nếu bị thêm sao hao (Đại, Tiểu Hao hãm địa) thì càng kém, nhất là khi hao tinh nằm ở Tài và Điền mà không gặp sao nào chế ngự.

Những cung tài sản thiếu sao trợ tài, sao may mắn, sao hưởng của.

Những cung tài sản bị sát tinh, hung tinh, bại tinh, hao tinh, hình tinh cùng hãm địa. Đây là trường hợp xấu nhất, đặc biệt là khi gặp tinh thứ hạng nặng lại không hợp cách của Mệnh, và cũng không bị sao nào khác chế ngự.

Có đủ 5 trường hợp trên thì mức nghèo sát ván: đó là hoàn cảnh của những người khốn khổ, không có gì để giữ, không có gì để mất. Họ dễ trở thành đạo tặc, trộm cướp.

Vì vây, lá số vô sản và lá số gian phi có nhiều điểm giống nhau.

Dưới đây là những sao điển hình của kiếp nghèo, khi đơn thủ, khi kết thành bộ với những sao khác.

Cách nghèo về điền trạch

Cách nghèo về nhà cửa, điền sản do cung Điền mô tả qua những sao dưới đây:

Phá quân ở Dần, Thân

Thất sát ở Thìn, Tuất

Thiên đồng, Cự môn đồng cung

Cự môn ở Tỵ, Thìn, Tuất

Vũ khúc, Thất sát đồng cung

Thái dương hãm địa

Thái âm hãm địa

Bảy bộ sao kể trên đều có nghĩa là không có tài sản. 

Tử vi, Thất sát đồng cung

Tử vi, Phá quân đồng cung

Liêm trinh ở Dần, Thân

Vũ khúc, Phá quân đồng cung

Cự môn, Thái dương ở Thân

Tham lang ở Dần, Thân, Tý, Ngọ

Thất sát ở Tý, Ngọ

Phá quân ở Thìn Tuất

Liêm trinh, Tham lang đồng cung

Đó là những trường hợp có ít nhiều di sản, nhưng không giữ được, bị phá sản, phải lìa bỏ tổ nghiệp, chỉ có thể tự lập mới có chút ít điền sản nhưng phải hết sức chật vật và chậm lụt, nhiều khi phải tha hương lập nghiệp.

Liêm trinh, Thiên phủ đồng cung

Liêm trinh, Thất sát đông cung

Thái dương, Thiên lương ở Dậu

Những cách kể trên tương đối khá hơn, cụ thể có di sản nhưng bị sa sút về sau (Liêm, phá), về già mới có nhà đât (Dương, Lương).

Dựa vào những bộ trên mà nhận xét, có thể nói rằng:

hầu như đa số sao của bộ Sát, Phá, Liêm, Tham không mấy gì có lợi cho điền sản;

càng không có lợi, nếu những sao đó đồng cung với nhau;

đi với Tử, Phủ hay Vũ, 4 sao nói trên cũng phá tán tài lộc của Tử, phủ, Vũ khá nhiều;

ám tinh như Cự Môn bị hãm địa thì xấu đã đành, mà khi đồng cung với phúc tinh (Thiên Đồng), quyền tinh hãm địa (Thái Dương) cũng không đẹp gì hơn bao nhiêu;

- chính tinh về tài sản như Tử, Phủ, Vũ không hợp với Sát, Phá, Liêm, Tham. Bốn sao này xem ra có hiệu lực phá tán mạnh hơn, và cả ba Tử, Phủ, Vũ cũng không bình quân được bất lợi đó.

Phụ tinh, nhưng sao chỉ số nghèo:

- Địa không, Địa kiếp hãm địa Đóng hay chiếu cung Điền, Kiếp, Không có nhiều giai tần ý nghĩa:

- Không có của cải, nhà đất, vô sản;

- bị chiếm hữu nhà đất (sang đoạt, truất hữu...);

- bị phá hủy nhà đất (tai nạn chiến tranh);

- bị tai họa lớn vì điền sản (bị đạo tặc cướp của giết người, bị cháy nhà lây...).

Kiêp, không hãm địa báo hiệu một đại họa bất khả kháng, có hậu quả lớn lao và lâu dài cho sở hữu chủ. Họa đó đến một cách hung hãn và bất ngờ (vi kiếp, Không là sao hỏa), không lường trước được, không thể tránh khỏi. Hai sao này là một nghiệp chướng thật sự về mặt điền sản.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách nghèo và những sao nghèo

Cửa nhà và phong thuỷ có mối quan hệ như thế nào? –

Cửa thường được gọi là bộ phận quan trọng nhất của nhà ở Thuật phong thuỷ rất quan trọng cửa vì nó là tiêu chí của sự thịnh suy Nó nôi liền hai không gian trong nhà với ngoài nhà, nó là “khí khẩu” và “khí đạo”. Thông qua cửa, thượng tiếp thiên khí, h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ạ tiếp địa khí, đón lành tránh dữ. Cửa có vượng môn và suy môn. Cửa coi trọng chỗ thông với đường lớn, vì khí sinh hộ thượng, vừa mở cửa là khí vào ngay.

Làm cửa là cả một nghệ thuật Theo nguyên lý “tụ khí” của thuật phong thuỷ, cửa phải vừa đắc khí vừa tụ khí lại không được đóng chết khí. Do đó các nhà phong thuỷ thường dùng la bàn để dẫn khí theo vượng phương, rồi mới quyết định mở cổng lớn. cổng phía trong cổng lớn phải thiết kế theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh, tránh tương khắc. Nhưng các cổng lại không được bố trí cùng một hướng, vì như vậy “khí” sẽ bị đại lậu.

mausaccuachinh

Người Phương Đông rất chú trọng kiến trúc và cảnh quan. Họ coi cửa sổ là nơi để quan thưởng cảnh tự nhiên, bồi bổ sức khoẻ, di dưỡng tinh thần. Do đó thuật phong thuỷ rất chú ý chọn hướng có sinh khí.

Các nhà Phong thuỷ còn cho rằng nhà lớn cửa nhỏ không hay, bất lợi cho thông khí, ra vào. Nhà nhỏ cửa to cũng không hay, tại cổng lớn tránh để đá dải trước.

Phía Nam nhà có cửa hoặc cửa sổ, tốt nhất nên có mái hiên che mặt trời.

Cửa sổ trên mái nhà không nên mở ở góc Tây Nam và Đông Bắc. Cũng không nên mở cửa quá nhiều vì dương khí quá thịnh.

Cửa sổ mở phía Bắc sẽ làm cho phụ nữ kinh nguyệt không đều.

Cửa cần phải mở, nước cần phải phóng ra, nếu thấy ở Phương Kiền, Khôn, cấn, Tốn, Dần, Thân, Kỷ, Hợi có núi vuông hoặc tròn trịa xinh tươi thì họ bảo khang ninh phú quý lâu dài không dứt.

Kích thước cổng và cửa rộng hay hẹp tuỳ ta lựa chọn, nhưng phải theo đúng thước tấc của cổ nhân, thì mới mong gia tài hưng thịnh. Tường vây ở hai bên cổng lớn không được thiên lệch, chếch xéo. Rất kỵ ba cửa thông liền một trục, sẽ bị tà ma, trộm cướp.

Mí cửa cao to mà tường vách thấp nhỏ là không thích hợp. Nếu cổng lớn mà vượt qua mí cửa, tai hoạ sẽ liên tiếp xảy ra, có tai hoạ kiện tụng, hình ngục, anh em bất hoà cổng lớn, bên trái nhỏ hẹp, nữ nhân gặp nạn; nếu hai bên đều đặn, tiền tài mới tăng tiến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa nhà và phong thuỷ có mối quan hệ như thế nào? –

Cách treo gương bát quái – Tất tần tật những điều cần biết

Bạn đã biết cách treo gương bát quái để hóa giải sát khí hay chưa? Khi dùng gương bát quái, nên lưu ý những điểm tối kị tuyệt đối không được mắc phải sau đây
Cách treo gương bát quái – Tất tần tật những điều cần biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn đã biết cách treo gương bát quái để hóa giải sát khí hay chưa? Khi dùng gương bát quái, nên lưu ý những điểm nào? Có gì tối kị tuyệt đối không được mắc phải khi làm? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu nhé.   Gương bát quái là một loại pháp khí trong phong thủy có thể hội tụ năng lượng của vũ trụ nhằm trấn áp tà khí, biến hung thành cát. Theo phong thủy nhà ở, gương bát quái được ứng dụng rất rộng rãi, có thể cản sát, hóa sát, thu sát và đấu sát. Bát quái là một tấm biển trên đó vẽ hình bát quái, bát quái chính là ám quẻ: Càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn, nét vẽ như sau: 
 
Càn: 3 gạch liền. 
 
Khôn: 6 gạch ngắt quãng. 
 
Khảm: ở giữa đầy.
 
Ly: ở giữa hở.
 
Chấn: như chiếc ống lật ngửa. 
 
Cấn: như bát úp
 
Đoài: khuyết ở trên. 
 
Tốn: đứt ở dưới.


Cach treo guong bat quai – Tat tan tat nhung dieu can biet hinh anh 2
 

Tác dụng của gương bát quái


Mỗi loại gương bát quái lại có tác dụng khác nhau, vì thế khi chọn gương bát quái, nên căn cứ vào mục đích sử dụng. Gương bát quái chủ yếu chia làm 3 loại: gương bát quái lồi, gương bát quái lõm và gương bát quái phẳng.
 
Nhiều người lầm tưởng rằng tất cả các gương bát quái đều có tác dụng phản chiếu. Kì thực không phải như vậy. Theo phong thủy, gương có mặt lõm sẽ tiếp nhận, thu hút khí lành, còn gương có mặt lồi sẽ phản xạ lại tà khí từ các vật bên ngoài.
 
Gương bát quái lồi có hình giống như mai rùa, là hình cầu lồi lên, thường được treo trước cửa nhà hay cửa sổ. Phần lồi lên là mặt gương, có thể đem sát khí ở phía đối diện khuếch tán ra xung quanh, nhờ đó hóa giải sát khí, bảo vệ cho gia chủ. 
 
Thông thường, gương bát quái lồi được dùng để hóa giải các vật nhọn sắc hay các vật thể mang sát khí trong phong thủy như cột đèn, cột cờ, con đường chạy thẳng vào nhà hay khoảng không giữa 2 tòa nhà…
 
Khi nhà ở bị các vật thể mang sát khí xung chiếu, gương lồi sẽ có tác dụng rất hữu hiệu. Nếu cửa chính hoặc cửa sổ bị các vật mang sát khí chiếu thẳng vào, có thể treo gương lồi trước cửa để hóa giải.
 
Gương bát quái lõm có mặt gương lõm vào,  dùng để thu những cát khí trước nhà như ao, hồ, sông, biển. Gương bát quái có biểu tượng Tiên Thiên Bát Quái hội tụ được năng lượng, có tác dụng trấn áp tà khí, biến hung thành cát.
 
Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.
 
Dùng gương bát quái lõm có thể khiến cho tà khí không thể xâm nhập vào cơ thể. Nhờ thế mà gia chủ không hay mắc bệnh tật, ngoài ra còn có thể khiến cho tinh thần sảng khoái, tràn trề sức sống.
 
Gương bát quái phẳng hội tụ ưu thế của cả 2 loại gương trên. Khi treo ngoài cửa tại phương vị bị xung sát, nó có tác dụng phản xạ, che chắn cho căn nhà khỏi những sát khí từ các hình khối kiến trúc xung quanh không tốt trong phong thủy. Khi treo trong nhà tại phương vị cát lợi, nó sẽ có khả năng thu hút năng lượng tốt, mang tài lộc, cát khí về cho gia chủ.

Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Mổ xe công dụng của gương bát quái
 

Cách treo gương bát quái hợp phong thủy



Gương bát quái lõm có thể hút tài hút lộc, nên treo ở trước cửa. Tuy nhiên, theo phong thủy, gương bát quái lõm chỉ nên treo ở những nơi kinh doanh chứ không hợp với nhà ở. Khi treo, nên mời thầy phong thủy về làm lễ để có tác dụng tốt nhất.
 
Gương bát quái lồi tác dụng ngược lại với gương bát quái lõm, có thể hóa giải sát khí, phản xạ khuếch tán tà khí ra xung quanh. Nhà ở có thể treo gương bát quái lồi, đặc biệt ở những vị trí không tốt về phong thủy để biến hung thành cát. Ví dụ, trước nhà có cột đèn, cột điện thì nên treo gương này.
 
Tuy nhiên, trước khi làm, cần tham khảo ý kiến của những người hiểu biết về phong thủy, nhờ họ phân tích hướng nhà để biết cách treo gương bát quái sao cho đúng. Bởi nếu trước nhà không có sát khí mà có lại có luồng cát khí thì treo gương bát quái lồi sẽ khiến khí tốt bị khuếch tán đi mất. Không nên treo gương này hướng vào nhà mà nên treo hướng ra ngoài.


Cach treo guong bat quai – Tat tan tat nhung dieu can biet hinh anh 2
 
Gương bát quái phẳng có thể xua đuổi tà khí, hóa giải mọi điềm gở, giúp gia đình của bạn có một cuộc sống yên bình khi sống trong những căn nhà có phong thủy không tốt, chẳng hạn như nhà gần nghĩa địa, nhà có cây to trước cửa, hay nhà có góc nhọn chĩa vào bên trong…   Treo gương bát quái thẳng trên cửa hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng thay đổi khí trường, ngăn chặn và loại bỏ ảnh hưởng xấu trong những trường hợp nhà có cửa sổ đối diện với góc cạnh, đường đi, sân nhà, cột điện, máy biến áp, ống khói, nhà cao tầng, dòng sông ô nhiễm… hay trong trường hợp cửa phòng trong nhà đối diện với nhà bếp, nhà vệ sinh…  

Những điều cần chú ý khi treo gương bát quái
 

Tuyệt đối không treo gương bát quái hướng vào nhà người khác, tránh đem sát khí chuyển sang nhà người. Dù làm vậy tránh được tà khí cho mình nhưng lại khiến cho người khác gặp chuyện không lành, gây những hậu quả không lường trước. Ngoài ra, làm vậy còn dễ gây bất đồng, tranh chấp trong quan hệ hàng xóm, tốt nhất nên tránh.
 
Gương bát quái nên treo ở các vị trí như trên tường hoặc gần mái nhà. Nên treo gương hướng ra ngoài, không nên hướng vào trong nhà hoặc trong phòng, đặc biệt là những nơi có nhiều người. Nhà không nên treo quá 3 gương bát quái.
 
Nên treo gương trước cửa nhà hoặc ngoài cửa sổ, hầu hết các gương bát quái đều không thích hợp đặt trong nhà.
 
Nếu cửa nhà đối diện với thang máy hoặc cầu thang, nên treo gương bát quái trước cửa. Nhưng nếu thang đối diện với phòng ngủ thì không cần thiết.
 
Cách chọn vị trí treo gương bát quái có liên quan nhiều đến ngũ hành bát quái. Theo phong thủy, nếu gia chủ ngũ hành bản mệnh Mộc thì nên chọn gương màu xanh lục đậm, treo về hướng Đông. Còn người mệnh Kim nên chọn gương đồng, treo ở hướng Tây. Người mệnh Hỏa chọn màu vàng, treo hướng Bắc… Nên tham khảo ý kiến của người có kiến thức phong thủy để chọn màu và vị trí treo cho đúng, treo gương bát quái sai cách sẽ rước họa vào nhà.

Cach treo guong bat quai – Tat tan tat nhung dieu can biet hinh anh 2
 
Nên treo gương vào lúc 12 giờ trưa, là thời điểm dương khí vượng nhất trong ngày. Khi treo nhớ giữ lòng thành kính, sau đó nên tích cực làm các việc thiện để phát huy công lực của gương mạnh nhất. Nhớ kĩ, tuyệt đối không được làm chuyện ác, nếu không gương bát quái sẽ phản tác dụng, tạo sát khí chiếu thẳng nhà người ác.
 
Hướng treo gương không nên quay về phía tượng thần tượng thánh, cách treo gương bát quái như vậy là bất kính với thánh thần. Cũng không nên treo quá nhiều gương bát quái, mỗi phương vị chỉ nên treo 1 gương, cả nhà không nên treo quá 3 gương, nếu không sẽ không cát phản hung, tự gây thương vong cho gia chủ.
 

Cách hóa giải khi nhà đối diện treo gương bát quái thẳng nhà mình


Trong trường hợp nhà đối diện với nhà bạn có treo gương bát quái, mà vị trí gương lại hướng thẳng vào nhà bạn, tốt nhất nên thương lượng được với chủ nhà bên đó, cả 2 nhà cùng xem xét để có cách xử lý tốt nhất, tạo phúc cho chính mình cũng như những người xung quanh. Nhưng nếu không thể thương lượng được với đối phương, bạn cũng có thể áp dụng những cách sau để hóa giải xung sát.
 
Với sát khí không quá mạnh, có thể dùng rèm cửa, trên rèm có hình cát tường. Ngoài ra, có thể tăng thêm một lớp màn sa để cách ly với nguồn sát khí.
 
Có thể đặt trước cửa một chậu cây lá kim hoặc các cây có gai như xương rồng để hóa giải sát khí. Tuy nhiên, nên chọn cây không khắc mệnh với gia chủ hoặc các thành viên trong nhà, nếu không cũng chẳng tạo được tốt lành.
 
Nếu sát khí quá mạnh, có thể treo trước cửa 1 gương bát quái lồi để đánh tan luồng khí xấu. Tuy nhiên, cần hết sức cẩn trọng, bởi treo gương bát quái hóa giải nhà đối diện là hạ sách bạn nhé! 
 
Theo các chuyên gia phong thủy, có một cách hóa giải vô cùng nhẹ nhàng tình trạng trên chính là đặt tấm bình phong trước cửa hoặc treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (có nghĩa là Trời ban phúc bốn phương) trên dạ cửa.  
 
Lưu ý: Gương bát quái là một vật phẩm phong thủy được sử dụng phổ biến với nhiều tác dụng nhưng không nên dùng tùy tiện. Tốt nhất, bạn nên nhờ người có kiến thức về phong thủy tư vấn cho cách treo gương bát quái đúng đắn và chính xác nhất.

Hy Vũ


Mọi điều cần biết về gương Bát quái phong thủy Lưu ý khi treo gương Bát quái

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo gương bát quái – Tất tần tật những điều cần biết

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mùi

Tử vi của người sinh ngày Kỷ Mùi sẽ nhanh chóng được giải mã dưới đây. Xem ngay vận mệnh của bản thân nào!
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Ky Mui hinh anh
 
Trụ ngày Kỷ Mùi có Thiên Nguyên tọa, mệnh giấu Bỉ Kiếp, Kiêu Sát, nạp âm là Thiên thượng Hỏa, có hình mà không có tiếng. Người này trọng lễ nghĩa trí tín, hay giúp đỡ người khác nhưng lại bị tiểu nhân ghen ghét.    Tử vi của người sinh ngày Kỷ Mùi có trụ ngày đối xứng là Giáp Ngọ, ở giữa Kim Tuế như người tốt gặp ngựa tốt, tâm đầu ý hợp. Kỷ Mùi quan mang, Tý Sửu Không Vong.    Người có bát tự trụ ngày Kỷ Mùi thì 40 tuổi gặp nhiều chuyện suy sụp, qua trung niên mới gặp cơ hội tốt. Làm người thông mình, có chuyên môn tài nghệ, quan hệ xã giao rộng mở. Nhưng tình cảm với người thân lại không tốt, cảm tình có nhiều tranh chấp, vợ chồng mâu thuẫn, li hợp không rõ ràng, khổ vì tình.   Nữ mệnh cả đời cô quạnh nơi khuê phòng, lấy chồng có tiền nhưng không mặn nồng.    Người sinh ngày Kỷ Mùi chủ cương nghị ngoan cố, dũng mãnh kiêu căng. Kỷ Thổ mặt trời lặn ở Mùi Thổ đất trên cao, vì thuộc loại khí nóng mà ngày lại Chính Nguyên vượng địa nên nguyên khí mười phần, khí thế bức người, cố chấp, Thổ vượng sinh Kim.    Người này không dễ hòa thuận với người khác, hơn nữa Mùi Thổ ở giữa có Thiên Quan Thất Sát, Ất Mộc nhược cằn không đủ để áp chế ngày chủ nên coi rẻ quyền quý, ngang ngược khoe tài, hữu dũng vô mưu, gấp gáp lỗ mãng, tính tình táo bạo, chỉ ưa mềm không ưa cứng.
Muốn biết được cậy nhờ con cái hay không, xem ngay cung Tử Tức
Cung Tử Tức trong tử vi chủ về mức độ tình cảm giữa bản thân và con cái. Cung này quyết định nhiều tới hậu vận của một người vì khi về già, đa phần nhờ cậy con

Nhưng người sinh ngày Kỷ Mùi lại có nghĩa khí, trung nghĩa. Đẹp nhất là sinh vào mùa thu, mùa thu thanh tú dẫn hóa vượng thế, hình thành tính cách kiên nghị, toàn tâm toàn ý theo đuổi mục tiêu, tích cực hướng về phía trước, hiếu học tiến tới.
  Người này thích hợp kết hôn với những người sinh ra trong các ngày: Giáp Thìn, Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Dậu, Ất Hợi, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Tý, Đinh Hợi, Đinh Sửu, Đinh Mão, Đinh Dậu, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Thân, Mậu Tý, Kỷ Mão, Kỷ Sửu, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Canh Ngọ, Canh Tuất, Canh Thìn, Tân Hợi, Tân Sửu, Tân Mùi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Quý dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ, Quý Mão,    Trần Hồng (Theo Azg168)

Xem Clip Lời Phật dạy về nhân sinh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mùi

Tình yêu của người tuổi Dần

Tình yêu của người tuổi Dần đẹp rực rỡ như những bông hoa hướng dương đang nở rộ trên thảo nguyên đầy nắng.
Tình yêu của người tuổi Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Khi yêu một ai đó, họ sẽ thể hiện tình yêu của mình một cách công khai. Họ là người khá lãng mạn. Nếu là bạn gái hay vợ của người tuổi Dần, bạn sẽ được trải nghiệm rất nhiều cảm xúc ngọt ngào.

Tinh yeu cua nguoi tuoi Dan hinh anh
Tình yêu của người tuổi Dần đẹp rực rỡ

 
Mặc dù khá lãng mạn trong tình yêu nhưng người tuổi Dần ít khi cảm thấy vui vẻ như ý. Tình cảm của họ có phần không ổn định. Họ thường thích một cuộc sống có nhiều thay đổi. Khi ghét ai, người tuổi Dần cũng thường thể hiện thái độ khá rõ ràng. Họ là người tình tuyệt vời nhưng đôi khi chính sự nhiệt tình thái quá của họ lại khiến đối phương cảm thấy... khó chịu. Nếu họ biết cân bằng hơn trong đời sống tình cảm thì mọi việc sẽ thật tuyệt vời!   Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của người tuổi Dần

Cần chú ý điều gì về ngưỡng cửa và màu sắc thảm trải sàn? –

Ngưỡng cửa là bộ phận phía dưới hoành ngang, ngăn chặn ngoại lực từ bên ngoài, có tác dụng tránh gió, tránh bụi và chặn các loại côn trùng từ ngoài bò vào trong. Theo phong thuỷ thì nó còn có khả năng phòng trừ tài khí của ngôi nhà lọt ra ngoài. Khi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngưỡng cửa là bộ phận phía dưới hoành ngang, ngăn chặn ngoại lực từ bên ngoài, có tác dụng tránh gió, tránh bụi và chặn các loại côn trùng từ ngoài bò vào trong. Theo phong thuỷ thì nó còn có khả năng phòng trừ tài khí của ngôi nhà lọt ra ngoài.

tham-trai-san-cham-bi-tu-che-cuc-dep

Khi làm ngưỡng cửa cần phải chú ý:

–   Màu sắc ngưỡng cửa cần phải có sự đồng bộ hài hoà với màu sắc cửa.

–  Tránh làm ngưỡng cửa bị đứt đoạn, chắp nối, vì như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng dưỡng trạch khí.

Trong phong thuỷ, màu sắc của thảm sàn cũng có một ảnh hưởng nhất định đến phong thuỷ ngôi nhà. Do vậy, tuỳ theo hướng cửa ta có thể chọn màu sắc của thảm như sau:

–  Cửa hướng Đông, Đông Bắc nên trải thảm màu đen.

–   Cửa hướng Nam, Đông Nam nên trải thảm màu lục.

–    Cửa hướng Tây, Tây Nam nên trải thảm màu vàng.

–  Cửa phía Bắc, Tây Bắc nên trải thảm màu trắng. Ngưỡng cửa có vai trò rõ rệt trong việc phân cách ngôi nhà với thế giới bên ngoài. Đồng thời ngưỡng cửa còn có tác dụng chắn gió, chắn bụi và ngăn các loài côn trùng, bò sát ở bên ngoài cổng. Bởi thế ngưỡng cửa có giá trị thực tế rất lớn, có tác dụng ngăn cản không cho những vật không có lợi vào nhà và ngăn không cho tài lộc chảy ra bên ngoài, theo phong thuỷ học thì có vai trò bảo vệ.

Ngưỡng cửa không nên bị đứt gãy, nếu bị đứt gãy sẽ giống như cột chống nhà bị rạn nứt, bị coi là rủi ro. Ngưỡng cửa hoàn chỉnh thì không khí trong nhà sẽ lưu thông thuận lợi, nếu đứt gãy thì không khí sẽ ngưng đọng. Do đó, nếu ngưỡng cửa bị đứt gãy phải tiến hành thay thế. Ngoài ra cần phải chú ý khi đặt ngưỡng cửa: màu sắc của ngưỡng cửa phải phù hợp với màu sắc của cổng nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cần chú ý điều gì về ngưỡng cửa và màu sắc thảm trải sàn? –

Phong thủy phòng khách cho người thành công và giàu có –

Phong thủy phòng khách không được đối thẳng với cửa sổ, cửa hậu. Như thế sẽ làm tài vận của gia chủ sẽ bị tổn hại, tiền chưa vào nhà đã bị thất thoát… Theo phong thuỷ, vị trí vượng khí của ngôi nhà nằm ở phòng khách, tập trung nhiều tại vị trí góc đố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng khách không được đối thẳng với cửa sổ, cửa hậu. Như thế sẽ làm tài vận của gia chủ sẽ bị tổn hại, tiền chưa vào nhà đã bị thất thoát…

Theo phong thuỷ, vị trí vượng khí của ngôi nhà nằm ở phòng khách, tập trung nhiều tại vị trí góc đối chéo với cửa chính. Để tăng thêm vận khí, tại không gian này nên đặt cây cảnh có màu xanh để hỗ trợ cho vận thế của ngôi nhà cho hợp lý

Dưới đây là một số mẹo nhỏ theo phong thủy trong bố trí phòng khách, giúp tăng tài vượng lộc:

1.Phòng khách phải đủ ánh sáng

Điều kiện tiên quyết cho phong thủy phòng khách là đủ ánh sáng, vì vậy trên bậu cửa sổ, bạn nên hạn chế tối đa việc bày biện những chậu hoa rậm rạp chắn ánh sáng. Phòng khách sáng sủa sẽ giúp vận khí ngôi nhà trở nên thịnh vượng, vì vậy, khi chọn màu sơn cho tường, bạn nên tránh những màu sắc quá tối.

DAE-khachtailoc

CBE-khachtailoc1

2.Màu sắc của phòng khách

Trần của phòng khách nên có màu nhạt vì theo phong thuỷ trần nhà phòng khách tượng trưng cho trời, nền nhà tượng trưng cho đất. Màu sắc của trần nên nhạt còn nền nhà lại có màu sắc đậm hơn để phù hợp với ý nghĩa “trời nhẹ, đất nặng”.

Màu sắc trong phòng khách mang ý nghĩa chủ đạo, có tác dụng điều hoà tất cả màu sắc trong ngôi nhà. Màu sắc của phòng khách phải phù hợp với phương hướng của phòng. Màu sơn vách tường trong phòng khách phải khéo léo hết hợp được với ánh sáng đèn làm phòng khách trở nên sáng sủa mới có thể đem lại thịnh vượng may mắn cho gia đình.

BF7-khachtailoc2

6E8-khachtailoc3

3.Trần phòng khách không nên có xà ngang

Nếu trên trần phòng khách có xà ngang vắt qua sẽ khiến chủ nhân ngôi nhà có cảm giác bị đè nén, nặng nề khó chịu. Khi ngồi ở vị trí ngay dưới xà ngang, con người thường lo lắng, căng thẳng, khiến vận thế kém khởi sắc.

Để khắc phục lỗi sai này, bạn có thể thiết kế trần thạch cao để che xà ngang phòng khách, hoặc chọn màu sơn nhạt để sơn phủ lên xà ngang giúp giảm bớt cảm giác nặng nề khi ở.

4DC-khachtailoc4

FD4-khachtailoc5

4.Làm cửa giả giữa cửa chính và phòng khách

Với những phòng khách có diện tích nhỏ, phong thủy rất “kỵ trực xung”. Vì vậy, để cải thiện, bạn nên thiết kế cửa giả hoặc đặt tủ thấp để che giữa cửa chính của căn nhà với phòng khách. Sự ngăn cách này sẽ có tác dụng “hoãn xung” giữa không gian bên ngoài – bên trong và giúp không khí sau khi đi vòng sẽ hội tụ tại phòng khách.

Sự che chắn khéo léo cũng đem lại sự kín đáo cần thiết cho căn phòng và tránh được sự nhòm ngó từ bên ngoài. Xét theo phong thủy, căn hộ kín đáo còn mang ý nghĩa phúc khí kéo dài.

DA3-khachtailoc6

5.Phòng khách không được đối thẳng với cửa sổ, cửa hậu hoặc nhà vệ sinh

Cửa và cửa sổ là những nơi không khí lưu thông ra vào phòng, vì vậy, vị trí phòng khách không thể nằm trên một trục thẳng với cửa sổ và cửa hậu. Nói cách khác, bố trí nhà theo dạng cửa trước cửa sau thông thẳng với nhau là điều cấm kỵ.

Kiểu thiết kế này khiến không khí xộc thẳng vào nhà rồi nhanh chóng thoát ra cửa sau, không tụ lại trong phòng. Do vậy, tiền tài, phúc lộc cũng khó mà kết tụ trong nhà.

Xét theo phong thủy, kiểu bố cục như vậy là bố cục thoát tài. Xét về bản chất, không gian nhà vệ sinh không được sạch sẽ, vì vậy, cửa chính trong nhà nên tránh hướng thẳng vào nhà vệ sinh. Nếu vô tình thiết kế theo hướng này, tài vận của gia chủ sẽ bị tổn hại, chủ nhân dễ mắc sai lầm khi đầu tư tài chính, tiền chưa vào nhà đã bị thất thoát…

6.Xác định vị trí vượng tài trong phòng khách

Vị trí vượng tài trong nhà thường là ở phòng khách, kể cả các căn hộ nhỏ. Điều kiện cơ bản của phòng khách là sạch sẽ, yên tĩnh và ổn định. Thông thường, vị trí vượng tài nhất trong phòng khách nằm ở góc chéo từ cửa chính bước vào. Do đó, bạn không nên treo gương tại vị trí này vì gương có tác dụng phản xạ, dễ gây cản trở tài vận, khiến bạn bỏ lỡ các cơ hội kiếm tiền.

Tại vị trí này, gia chủ nên bài trí các vật ngụ ý cát tường để tăng cường vận thế. Tốt nhất là đặt cây xanh có lá rộng, căng tràn nhựa sống, mọc xanh tốt quanh năm tại đây.

26A-khachtailoc7

7.Nội thất trong phòng khách

Phòng khách nhất thiết phải tạo không khí thân mật, hoà thuận và đoàn kết. Hình tròn trong phong thuỷ tượng trưng cho sự hài hoà, thống nhất, cho nên khi trang trí bằng các vật dụng có kiểu dáng hình tròn sẽ có tác dụng hỗ trợ thêm hòa khí. Nếu bàn ghế không “tròn”, hãy cố gắng làm mềm những góc nhọn bằng cách trải khăn hay đặt chậu cây cảnh xung quanh.

0F8-khachtailoc8

E1B-khachtailoc9

8.Sàn Phòng Khách

Khi làm sàn phòng khách bạn nên lưu ý tuyệt đối phải bằng phẳng, không được dốc, hoặc bậc cao, bậc thấp vì sàn chênh lệch sẽ dễ gây ra sóng gió cho gia đình của bạn.

C27-khachtailoc10

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng khách cho người thành công và giàu có –

Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Có những lỗi phong thủy về tiền bạc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng chúng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Ai cũng mong cầu cuộc sống giàu có, sung túc và cố gắng sống lương thiện để mong cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, đồng thời trong lúc đó, có nhiều việc tưởng như nhỏ nhặt như khi ăn cá, giặt đồ nhưng vì do sơ suất, không lưu tâm nên trở thành nguyên nhân chính khiến tiền bạc thất thoát, lộc tán, làm ăn bất lợi.   

Lật cá khiến tài vận xui xẻo 
 

Khi ăn cá, ăn hết một mặt của cá chúng ta thường có thói quen lật mặt bên kia của cá để ăn tiếp. Tuy nhiên, theo phong thủy điều này không mang lại may mắn. Đây được xem là lỗi phong thủy về tiền bạc thường gặp nhất. Do việc lật mặt cá trên bàn ăn tượng trưng cho điềm gở, chính vì thế khi ăn hết một bên cá, nên gỡ xương ra rồi ăn tiếp phần còn lại.     Đặc biệt, đối với những người đi xe hoặc người ở vùng biển, họ đặc biệt tránh hành động “lật” vì theo họ nếu như thế sẽ có điềm gở, lật xuồng, lật xe, lật tàu làm ảnh hưởng đến mạng sống của người đi biển, đi xe. Khi chiên cá họ cũng không lật con cá mà múc dầu/mỡ dội lên mặt trên con cá cho chín. 

Tham khảo thêm bài viết: Mẹo phong thủy nhà cửa để tiền bạc ào ạt chạy vào túi

Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh
 
 

Phá sản do lỗi phong thủy khi dùng máy giặt

  Khi giặt đồ nhớ ngoài lưu ý phong thủy về vị trí máy giặt, giữa cho máy giặt luôn sạch sẽ bạn còn phải lưu ý khi giặt đồ. Có nhiều người vì sơ suất nên khi thay đồ ra tiện tay vứt vào máy giặt mà không kiểm tra trong túi còn tiền hay không. Theo phong thủy, tiền bạc thuộc hành Kim, máy giặt thuộc hành Thủy, khi bạn quên tiền trong quần áo, dù là vài đồng tiền lẻ và bị máy giặt vò nát hoặc cho dù con nguyên thì điều này đồng nghĩa là mang tới vận xui, có thể phá hoại tài vận. Theo thời gian, vận may của bạn bị rửa sạch, “giặt” sạch trơn. Đây là nguyên nhân bạn thường xuyên đối mặt với việc bất ổn tiền bạc, dễ gặp họa, vận trình công danh suy thoái.

Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc do sự cẩu thả của bạn, vì thế, đừng nghĩ đơn giản, bởi đó là sự đãng trí đáng chê trách. 

Tham khảo thêm: 6 cấm kị phong thủy dẫn tới phá sản không thể không phòng
 
Tai van sa sut vi thoi quen lat ca trong bua an hinh anh 2

Quên tiền trong quần áo vứt vào máy giặt là lỗi phong thủy về tiền bạc bạn cần lưu tâm

 

Cửa chính đối diện với cửa sổ  

  Theo phong thủy nhà ở, cửa chính không chỉ là nơi mọi người ra vào mà còn là con đường thông dẫn khí từ bên ngoài vào bên trong ngôi nhà. Khi cửa chính đối diện với cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà, nhà bị tản khí, nguồn khí tốt không tụ lại trong nhà.
 
Điều này sẽ khiến luồng khí di chuyển nhanh và dễ mất đi. Khi cửa chính đối diện cửa sổ được xem là thế xuyên tâm sát, rất không tốt cho gia chủ và được xem là đại phá tài trong trường hợp xấu còn dẫn đến phá sản. 
 
Cửa chính của nhà để đón tài vận, may mắn, giàu có, vượng khí. Cửa chính là nơi tất cả mọi người trong nhà ra vào hàng ngày. Khi cửa chính ở vị trí tốt, thuận lợi, gió và không khí từ ngoài thổi vào cũng thuận và lành. Tuy nhiên, khi cửa chính đối diện cửa sổ nghĩa là những điều may mắn vừa đón vào sẽ ra đi thẳng theo cửa sổ. Vì thế, bạn sẽ không hiểu vì sao tiền của trong nhà cứ lần lượt đội nón ra đi, xui xẻo ập đến, công việc làm ăn gặp nhiều trở ngại, tài vận suy sụp.    Đây là lỗi phong thủy về tiền bạc rất đáng lưu tâm cho những ai chuẩn bị xây và sửa nhà. Do đó, khi thiết kế, bố trí cửa chính và cửa phòng trong nhà, tuyệt đối không để của chính và cửa sổ đối nhau hoặc nằm trên cùng một đường thẳng, tức bước vào cửa chính đã nhìn thấy cửa hậu hoặc cửa sổ ở cuối nhà.     Đặc biệt, nếu cửa sổ vừa nhiều lại vừa lớn, cát khí càng khó tụ, ảnh hưởng tới phong thủy ngôi nhà, vận mệnh những thành viên sống trong đó, tiền bạc cũng bị tổn hao dần.

Tham khảo thêm bài viết: Thoát nghèo không khó nhờ cải thiện những lỗi phong thủy thường gặp

Ha Na

Khó có thai, xem ngay phong thủy trong nhà Cách bày cây xanh ở ban công vượng tài vượng lộc, hóa sát bình an Hũ gạo đặt đúng chỗ, tài lộc đổ về nhà
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy về tiền bạc khiến bạn nghèo khó mãi không thôi

Hoàn thiện bản thân - Chương 3: Tu luyện tâm tính

CHƯƠNG III: TU LUYỆN TÂM TÍNH Tất cả các người tu Pháp Luân Công phải đặt sự tu luyện tâm tính lên hàng đầu, và tin chắc rằng tâm tính là chìa khóa để phát triển công. Ðây là nguyên lý về tu luyện ở cao tầng. Nói rõ hơn, công lực quyết định trình độ của một người không phải được phát triển qua sự luyện tập, nhưng qua sự tu luyện tâm tính. Sự tiến bộ về tâm tính nói dễ hơn là thực hành.
Hoàn thiện bản thân - Chương 3: Tu luyện tâm tính

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tu phải có thể buông bỏ thật nhiều, nâng cao bản chất giác ngộ của mình, chịu đựng đau khổ này đến đau khổ khác, và chấp nhận những gì hầu như không thể chấp nhận được, v..v. Tại sao nhiều người tu nhiều năm mà công của họ vẫn không tăng lên? Lý do căn bản là: thứ nhất họ không chú trọng vào tâm tính; và thứ nhì là họ không biết chính pháp ở cao tầng. Vấn đề này phải được nói rõ. Nhiều vị thầy dạy luyện Công có nói về tâm tính; họ đang giảng dạy rất đúng. Những người mà chỉ dạy các động tác và các kỹ thuật nhưng không bao giờ bàn về tâm tính, thật ra là đang dạy tu luyện theo tà pháp. Vì vậy, người tu phải cố gắng thật nhiều để nâng cao tâm tính của mình. Chỉ như vậy họ mới có thể bước vào sự tu luyện ở cao tầng.

1. Nội hàm của tâm tính

Tâm tính được bàn đến trong Pháp Luân Công không thể bị nhầm lẫn với Ðức hay được thay thế bởi một mình Ðức. Nó bao gồm nhiều điều hơn Ðức nữa. Nó gồm rất nhiều khía cạnh khác nhau kể cả Ðức. Ðức chỉ là một biểu thị của tâm tính, nên nếu chỉ dùng Ðức để hiểu rõ ý nghĩa của tâm tính thì chưa đủ. Tâm tính cũng bao gồm cách thức giải quyết giữa hai vấn đề "được" và "mất". "Ðược" là đạt được đúng theo đặc điểm của vũ trụ. Ðặc điểm cấu tạo nên vũ trụ là Chân-Thiện-Nhẫn. Mức độ hài hòa giữa người tu và đặc tính của vũ trụ được thể hiện qua Ðức của cá nhân đó. Mất là từ bỏ những ý nghĩ bệnh hoạn và tính tham lam, tư lợi, dâm dật, ham muốn, sát sinh, ấu đả, trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, tật đố, v..v. Nếu tu luyện ở cao tầng, người ta cũng cần buông bỏ sự chạy theo dục vọng và lừa lọc mà đã ăn sâu trong con người một cách tự nhiên. Nói khác đi, người ta phải từ bỏ tất cả mọi ràng buộc, và phải xem nhẹ tất cả danh và lợi cá nhân.

Một con người trọn vẹn gồm có cơ thể vật chất và cá tính. Vũ trụ cũng tương tự như vậy. Thêm vào sự hiện hữu của vật chất, đồng thời cũng còn có sự hiện diện của đặc tính "Chân-Thiện-Nhẫn" nữa. Mỗi phân tử trong không khí đều có chứa đặc tính này. Trong xã hội người thường, đặc tính này được phản ảnh bởi sự kiện là làm thiện hưởng phước và làm ác gặp quả báo. Ở cao tầng, đặc tính cũng biểu hiện trạng thái của các công năng. Người tự thích nghi với các đặc tính này là người tốt; những người đi ngược lại là người xấu. Người thuận theo nó và đồng hóa vào nó là những người đắc đạo. Vì vậy, người tu cần phải có tâm tính cực kỳ cao để theo đúng đặc tính này. Chỉ đi theo đường lối này mà người ta mới có thể tu luyện lên cao tầng.

Rất dễ để làm người tốt, nhưng không quá dễ dàng để tu luyện tâm tính như vậy. Người tu phải chuẩn bị tinh thần. Người ta phải thật lòng mong muốn trước khi cố gắng sửa đổi tính ý của mình. Vì con người sống trong thế giới này mà thế giới trở nên thật phức tạp. Quý vị muốn làm điều tốt, nhưng có người không muốn quý vị làm như vậy; quý vị không muốn hại người khác, nhưng người khác lại muốn hại quý vị vì các lý do khác nhau. Một số điều này xảy ra không do sự ngẫu nhiên. Quý vị sẽ hiểu tại sao? Quý vị phải làm gì? Phải đương đầu với mọi sự xung đột trong thế giới này làm cho tâm tính của quý vị bị đem ra khảo nghiệm từng phút giây. Khi đối đầu với sự nhục nhã không tả nổi, khi quyền lợi cá nhân bị xâm phạm, khi đương đầu với tiền của và lừa đảo, khi chống chọi với quyền lực, khi điên loạn và ganh ghét nổi lên do sự xung đột, khi các sự xung đột khác nhau trong xã hội và trong phạm vi gia đình xảy ra, và khi tất cả mọi thứ đau khổ xảy đến, quý vị có vẫn còn tự cư xử theo đúng đòi hỏi gắt gao của tâm tính hay không? Dĩ nhiên, nếu quý vị có thể làm tất cả các điều này thì quý vị đã là một người giác ngộ rồi. Rốt cùng, hầu hết người tu bắt đầu từ người thường. Sự tu luyện tâm tính cũng làm từ từ và tiến lên từng chút một. Người tu cương quyết phải chuẩn bị để chịu đựng những khổ đau to tát và đương đầu với các khó khăn bằng một ý chí vững chắc, và dĩ nhiên họ sẽ đạt được Chính Qủa. Tôi hy vọng mọi người tu giữ gìn tâm tính của mình kỹ lưỡng và sẽ nâng cao công lực của mình lên trong tương lai rất gần.

2. Mất và Ðược

Cả hai giới khí công và tôn giáo đều bàn về sự mất và được. Có người xem "mất" như là "làm việc thiện", làm hành động tốt hay là giúp người trong lúc khó khăn; "được" như là "đạt được công". Ngay cả các thầy tu trong chùa cũng cho rằng người ta phải làm việc thiện. Hiểu như vậy là ý nghĩa hạn hẹp của chữ "mất". Dù sao, "mất" mà chúng ta nói đây nó mang một ý nghĩa rộng hơn nhiều và cũng là điều ở trong một phạm vi lớn rộng hơn. Những điều chúng tôi đòi hỏi quý vị phải mất đi là những sự ràng buộc của người thường và tâm thức không chịu từ bỏ những điều ràng buộc đó. Nếu quý vị có thể buông bỏ những điều mà quý vị cho là quan trọng và buông bỏ những điều quý vị nghĩ rằng mình không thể buông bỏ được, đó mới là "mất" theo ý nghĩa thật sự của nó. Giúp người và làm việc thiện chỉ là một phần của "mất". Người thường, ai cũng muốn có chút tiếng tăm, tư lợi, một mức sống khá giả, nhiều tiện nghi và nhiều tiền. Ðây là những mục đích của người thường. Là người tu, chúng ta thì khác hẳn vì chúng ta đạt được công chứ không phải những thứ đó. Chúng ta cần phải để ý về tư lợi ít thôi, xem nhẹ nó đi, nhưng chúng tôi không yêu cầu quý vị phải hy sinh bất cứ quyền lợi vật chất nào. Chúng ta tu luyện trong xã hội người thường và cần phải sống như người thường. Chìa khóa là phải buông bỏ các sự ràng buộc của quý vị; quý vị không bị đòi hỏi phải mất điều gì. Những gì thuộc về quý vị, quý vị sẽ không mất nó, nhưng những gì không thuộc về quý vị thì quý vị cũng không có thể ôm giữ lấy nó được.

Nếu quý vị chiếm giữ được nó, nhưng nó cũng sẽ được trả về cho người khác. Nếu quý vị đạt được điều gì, quý vị phải mất đi một điều gì khác. Dĩ nhiên, không thể nào làm tất cả mọi việc rất tốt đẹp ngay lập tức, cũng như không thể nào trở nên giác ngộ trong một đêm. Nhưng, bằng cách tu nay một chút mai một chút và thăng tiến từng bước, nó có thể đạt được. Tuy nhiên quý vị sẽ được nhiều hơn là mất. Với thái độ xem nhẹ tư lợi, quý vị muốn thâu lợi ít hơn để có bình yên trong tâm hồn. Quý vị có thể chịu đựng một vài mất mát nào đó về quyền lợi vật chất, nhưng quý vị sẽ được thêm Ðức và Công. Sự thật là như vậy đó. Không phải quý vị cố ý để đạt được Ðức và Công bằng cách đánh đổi danh tiếng, tiền của và tư lợi. Ðiều này phải được hiểu thấu đáo hơn nữa qua kinh nghiệm sử dụng khả năng ngộ tính của quý vị.
Có một người tu theo Ðại Ðạo có lúc nói rằng: "Tôi không muốn những gì mà người khác muốn". Tôi không có những gì người khác có được; Tuy nhiên, tôi có những gì người khác không có. Tôi muốn những gì người khác không muốn. Là người thường, người ta thật khó mà có được một lúc nào đó mà họ cảm thấy hài lòng. Họ muốn tất cả mọi thứ, chỉ trừ những hòn đá sỏi nằm lăn lóc trên mặt đất là không ai buồn nhặt lên. Nhưng người Ðạo sĩ này nói rằng: "Vậy thì tôi sẽ nhặt viên đá này". Có câu châm ngôn: "Của hiếm thì quý và Của ít thì hiếm". Ðá không có giá trị ở đây, nhưng thật là đắt giá ở không gian khác. Ðấy là ông ta nói về một nguyên lý mà người thường không biết được. Nhiều vị cao nhân đại đức không mang theo bất cứ vật chất gì. Ðối với họ, họ không có gì để từ bỏ hết. Ði theo đường lối tu luyện là đúng nhất. Người tu thật ra là những người thông minh nhất. Những điều mà người thường tranh giành và các lợi lộc nhỏ nhoi mà họ sẽ kiếm được chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Ngay cả nếu quý vị có được qua sự tranh giành, lượm được, hay là kiếm được một ít lợi lộc đi nữa, rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Có câu tục ngữ trong dân gian như thế này: Khi chào đời, chúng ta không có mang cái gì xuống đây thì khi chết đi, chúng ta cũng không đem được cái gì theo chúng ta hết. Chúng ta chào đời với hai bàn tay không thì ra đi cũng sẽ với hai bàn tay không". Ngay cả khi xương cốt của quý vị sẽ bị đốt thành tro. Nó không là gì cả mặc dầu quý vị để lại một gia sản khổng lồ hay là quyền cao chức trọng, quý vị không thể mang theo gì sang thế giới bên kia hết. Nhưng công thì có thể được vì nó sản sinh trên thân của nguyên thần quý vị. Tôi nói cho quý vị biết, không dễ gì luyện được công. Nó vô cùng quý giá và thật khó khăn để đạt được nên nó không thể được trao đổi với bất cứ một số tiền khổng lồ nào. Khi công của quý vị đạt đến một trình độ thật cao, và nếu ngày nào đó quý vị quyết định không tu nữa, miễn là quý vị không làm điều xấu, công của quý vị có thể được đổi lấy quyền lợi vật chất nếu quý vị muốn. Quý vị có thể có tất cả. Nhưng, ngoại trừ những điều quý vị có thể có trong thế giới này, quý vị sẽ không có được những điều mà người tu có.
Có người, vì lợi lộc cá nhân, đã chiếm đoạt những thứ không thuộc về họ bằng các phương tiện bất chính. Họ nghĩ rằng họ có mối lợi lớn. Thật ra những quyền lợi mà họ đạt được là do sự trao đổi Ðức của họ với những người khác, nhưng họ lại không biết điều này. Ðối với người tu, nó phải bị khấu trừ từ công của họ; đối với người chưa tu, nó phải bị khấu trừ từ tuổi thọ của người đó hay là các phương diện khác. Nói tóm lại, trương mục sẽ được cân bằng. Ðây là chân lý của vũ trụ. Cũng có một số người luôn luôn bắt nạt kẻ khác hay hãm hại kẻ khác với những lời lẽ xấu xa, v..v. Khi những hành động này xảy ra, họ đang ném một mảnh Ðức của họ sang cho người nọ để đổi lấy những hành động gây thương tổn cho kẻ khác.

Có người cho rằng thật là thiệt thòi để làm một người tốt. Dưới cái nhìn của người thường thì họ bị thiệt thòi. Tuy vậy, họ có được những điều mà người thường không thể có được. Ðó là "Ðức " - một chất trắng cực kỳ quý giá. Không có Ðức thì cũng sẽ không có công; đó là một chân lý tuyệt đối. Tại sao nhiều người tu nhưng công của họ không phát triển được? chính là vì họ không tu luyện Ðức. Nhiều người nói về Ðức và sự cần thiết của Ðức, nhưng không giảng rõ nguyên tắc thật sự làm thế nào để biến đổi Ðức ra Công. Phần này được chừa lại để cho mỗi cá nhân tự tìm hiểu. Gần 10,000 quyển của Tam Tạng Kinh cũng như các nguyên lý chỉ dạy bởi Ðức Thích Ca Mâu Ni trong suốt hơn 40 năm lúc ngài còn sống, tất cả đều nói về một điều, đó là Ðức; các sách tu luyện xưa của Đạo Giáo tất cả đều bàn về Ðức; 5000 chữ trong cuốn Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử cũng phản ảnh Ðức trong đó. Tuy vậy, có người vẫn còn chưa hiểu.

Chúng ta nói về "mất". Khi quý vị được, quý vị phải mất. Khi quý vị muốn thật sự tu luyện, quý vị sẽ gặp những khổ nạn. Thí dụ thực tế là người ta có thể trải qua một chút đau đớn về thể xác, hay là cảm thấy khó chịu chỗ này chỗ nọ. Nhưng, nó không phải là cơn bệnh. Nó cũng có thể xảy ra ngoài xã hội, trong gia đình hay nơi làm việc, tất cả đều có thể như vậy. Xung đột bỗng nhiên nổi lên vì tư lợi hay va chạm tự ái, mục đích là để nâng cao tâm tính của quý vị. Những điều này thường xảy ra bất thình lình và trở nên rất căng thẳng. Nếu quý vị gặp những trở ngại, những điều bực mình, làm quý vị mất mặt, hay là đặt quý vị vào một vị trí khó xử, vậy quý vị phải đối xử như thế nào? Nếu quý vị giữ được bình tĩnh không nổi nóng, nếu quý vị có thể làm như vậy, Tâm tính của quý vị sẽ được nâng lên sau khi trải qua thử thách này. Ðồng thời công của quý vị sẽ được phát triển thêm bằng một khối lượng tương ứng. Nếu quý vị có thể làm xong một chút, quý vị sẽ được một chút vậy. Quý vị sẽ được bao nhiêu là tùy thuộc vào sự cố gắng ít nhiều của quý vị. Phần đông, khi đang bị khảo đảo, người ta khó mà có thể nhận thức được điều này. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức được nó, và không được lẫn lộn với người thường. Khi xung đột xuất hiện, chúng ta phải chọn một thái độ tốt đẹp hơn. Vì chúng ta tu luyện giữa người thường, tâm tính của chúng ta cũng sẽ bị ô nhiễm bởi người thường. Chúng ta sẽ phạm phải lỗi lầm và cũng rút kinh nghiệm từ đó. Công của quý vị không thể tăng trưởng khi chư vị thấy thoải mái và không gặp bất cứ vấn đề gì.

3. "Chân-Thiện-Nhẫn" đồng tu

Pháp môn của chúng ta tu luyện "Chân-Thiện-Nhẫn" tất cả cùng một lúc. "Chân" là nói thật, làm điều chân chính, trở về bản tính nguyên lai và sau cùng thành Chân nhân. "Thiện" là làm nảy sinh lòng từ bi thương người, làm những việc thiện và cứu người. Khả năng "Nhẫn" được đặc biệt nhấn mạnh ở đây. Chỉ với Nhẫn mà những người đức độ cao mới có thể tu luyện thành đạt được. Nhẫn là điều rất mạnh mẽ, vượt cả Chân và Thiện. Toàn bộ tiến trình tu luyện là làm cho quý vị phải nhịn nhục, giữ tâm tính của mình chứ không phải là làm theo sở thích.
Có thể nhịn nhục được khi đương đầu với các vấn đề quả thật không phải là dễ. Có người cho rằng nếu quý vị không đánh trả lại khi bị đánh hay là cãi lại khi bị vu khống, hay là nếu quý vị chịu khó nhịn nhục ngay cả khi quý vị bị mất mặt trước gia đình của quý vị, họ hàng và bạn bè của quý vị, quý vị có phải là "A-Q" không? Tôi nói rằng nếu quý vị cư xử bình thường trên mọi phương diện và sự khôn ngoan của quý vị không kém những người khác, nhưng quý vị chỉ xem nhẹ về phương diện lợi lộc cá nhân, không ai sẽ cho là quý vị ngu ngốc hết. Có thể nhẫn nhịn được không phải là yếu điểm, hay là "A-Q". Nó là biểu hiện của ý chí kiên cường và khả năng tự kiềm chế. Xưa ở Trung hoa có Hàn Tín, có lúc phải chịu nhục mà chui qua háng người ta. Ðó là nhẫn nhịn trong đại đạo. Có một câu tục ngữ: "Khi một người thường bị làm nhục, họ sẽ tuốt kiếm ra giao đấu". Họ sẽ vu khống và mạ lỵ đối thủ, và ném các quả đấm về phía đối thủ. Thật không dễ gì sống trong thế giới này. Có người sống theo phàm ngã của mình. Nó không đáng chút nào hết và cũng sẽ nhàm chán. Có câu tục ngữ Trung Hoa: Lui về sau một bước, quý vị sẽ khám phá ra một bầu trời biển bao la. Lui lại một bước khi quý vị phải đương đầu với các vấn đề nan giải. Khi làm được như vậy, quý vị sẽ thấy một tình trạng hoàn toàn khác hẳn.

Là người tu, quý vị không được chỉ tỏ ra nhẫn nhục đối với những người đang xung đột với quý vị và với những người làm cho quý vị khó xử, nhưng quý vị còn phải tỏ thái độ tốt hơn đối với họ ngay cả cảm ơn họ nữa. Nếu họ không dự phần vào cuộc xung đột với quý vị thì làm sao quý vị có thể nâng cao tâm tính của mình lên được? Làm sao chất đen được chuyển hóa thành chất trắng trong khi quý vị đang chịu đau khổ? Làm sao quý vị có thể phát triển công được? Nó rất là khó cho quý vị khi đang bị khảo đảo. Nhưng người ta phải tự kiềm chế mình ngay lúc đó vì công lực càng tăng thì khổ nạn cũng liên tục trở thành mạnh hơn nữa. Tất cả đều tùy thuộc vào nếu quý vị có thể nâng cao tâm tính của mình lên hay không? Lúc đầu, nó có thể làm cho quý vị bối rối, làm cho quý vị nóng giận không kiềm chế nổi, nóng giận đến nỗi ruột gan quý vị đau thắt lên. Nhưng nếu quý vị không mất bình tĩnh và có thể tha thứ được, đó là điều tốt. Quý vị đã bắt đầu nhịn nhục, cố ý nhịn nhục. Sau đó quý vị sẽ dần dần liên tục nâng cao tâm tính, và sẽ thật sự xem nhẹ những thứ này. Tới lúc đó nó sẽ là một sự tiến bộ còn lớn hơn nữa. Người thường gặp phải đụng chạm gì thì vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn nữa vì họ sống với bản ngã và không có thể dung tha bất cứ điều gì. Khi bị chọc giận, họ dám làm bất cứ điều gì. Nhưng là người tu, những thứ mà người thường xem trọng dường như trở nên rất, rất là tầm thường đối với quý vị, quá tầm thường, vì mục đích của quý vị vượt khỏi mục đích dài hạn của người thường và còn rất lâu họ mới đạt tới. Quý vị sẽ sống lâu cũng như vũ trụ này. Khi quý vị suy nghĩ lại về những điều này, nếu quý vị có nó cũng được; và nếu quý vị không có nó cũng được. Khi quý vị suy nghĩ rộng rãi hơn, quý vị có thể vượt qua tất cả những điều này.

4. Bỏ tâm tật đố (ganh tỵ)

Tâm tật đố là một trở ngại lớn cho sự tu luyện và có ảnh hưởng quan trọng đối với người tu. Nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến công lực của người tu, làm hại các bạn đồng tu và cản trở một cách nghiêm trọng sự tu luyện của chúng ta về cao tầng. Là người tu, nó phải được tiêu diệt một trăm phần trăm. Có người tu đến trình độ nào đó, tuy nhiên, họ chưa buông bỏ tâm ganh tỵ được. Hơn nữa, nó càng khó buông bỏ thì càng dễ dàng để cho quý vị trở nên mạnh hơn. Loại lực tương phản này làm cho người khác nâng cao phần tâm tính yếu kém của họ. Tại sao tâm tật đố được chọn ra để bàn cãi nơi đây? Vì tâm tật đố được biểu lộ mạnh mẽ nhất và nổi bật nhất giữa những người Hoa, chiếm phần lớn trong đầu của họ. Tuy nhiên, nhiều người không nhận thức được điều này. Ðược gọi là tật đố đông phương hay là tật đố châu Á, tâm tật đố là một đặc điểm của người đông phương. Người Trung Hoa rất là hướng nội, rất là bảo thủ và không cởi mở, điều đó rất dễ dẫn tới tâm tật đố. Mọi thứ đều có hai mặt. Theo đó, người sống nội tâm cũng có ưu điểm cũng như khuyết điểm. Người Tây phương tương đối hướng ngoại hơn. Chẳng hạn như, nếu một đứa trẻ được 100 điểm ở trường, nó sẽ rất sung sướng la lớn lên trên đường về nhà, "Con được 100 điểm!". Láng giềng sẽ mở cửa ra mừng nó: "Tom, chúc mừng cháu!". Tất cả mọi người đều mừng cho nó. Nếu điều này xảy ra ở Trung Hoa, hãy suy nghĩ điều này, người ta sẽ cảm thấy không vui khi nghe điều đó: "Nó được 100 điểm, có gì lạ đâu chứ? Có gì để khoe khoang đâu?" Phản ứng tuyệt nhiên khác hẵn khi một người có một tâm tật đố.
Người tật đố muốn hơn mọi người và không bằng lòng để ai hơn mình. Khi họ thấy ai có khả năng hơn họ, họ bắt đầu cảm thấy khó chịu, không nhìn nhận nó, và không chấp nhận sự thật. Họ muốn tăng lương cùng lúc với những người khác, muốn có cùng số tiền thưởng, và đổ lỗi cho mọi người khi có điều gì không đúng. Họ sẽ giận xanh mặt và ghen ghét khi thấy người khác kiếm nhiều tiền hơn họ. Tóm lại, chừng nào người khác còn làm khá hơn họ là họ sẽ không chấp nhận được. Có người lo sợ để nhận tiền thưởng khi họ hoàn tất các công trình nghiên cứu khoa học. Họ lo sợ những người khác sẽ trở nên ganh ghét; những người nhận được giải thưởng thì không dám hé môi tiết lộ, vì họ sợ ganh tỵ và dèm pha. Có thầy khí công không thích khi thấy những thầy khí công khác giảng dạy nên họ sẽ tìm cách quấy phá. Ðây là một vấn đề về tâm tính. Một nhóm đang cùng nhau tập luyện. Có người trong nhóm phát triển được các công năng sau khi tập luyện được một thời gian ngắn. Vì vậy, có người sẽ cho rằng: "Nó mà làm được gì? Tôi có nhiều năm tu luyện và một đống bằng cấp. Làm sao nó có thể phát triển công năng trước tôi cho được?" Ðó là tâm tật đố đã nổi lên. Tu luyện chú trọng vào bên trong. Người tu phải tự tu và tìm ra nguyên nhân của mọi vấn đề trong ta. Quý vị phải cố gắng cải tiến những lĩnh vực còn yếu kém và làm việc tận tâm hơn nữa. Nếu quý vị thử tìm nguyên nhân từ kẻ khác, sau khi họ hoàn tất sự tu luyện và đi lên rồi, quý vị sẽ là người bị bỏ xót lại đó. Phải chăng quý vị phung phí tất cả thời giờ của mình? Tu luyện là tu luyện chính mình.
Tâm tật đố cũng gây tai hại cho các bạn đồng tu, chẳng hạn như nói xấu làm cho người khác khó mà định được; khi một người có công năng, ngoài ganh ghét ra, họ có thể sử dụng chúng để gây trở ngại cho những bạn đồng tu của họ.

Ví dụ, một người ngồi đó đang tập luyện tương đối rất tốt. Vì họ có công, họ ngồi đó như là một tảng núi. Sau đó, có hai vị bay tới gần, một người lúc trước là một tăng sĩ, nhưng vì tật đố nên chưa giác ngộ. Khi họ đến gần người đang tu thiền kia, một người nói:"Người đó đang tu luyện nơi đây. Chúng ta hãy đi tránh qua một bên" Nhưng người khác đáp lại: "Tôi rất mạnh, trong quá khứ, tôi đã cắt lìa một góc của núi Thái Sơn" Ngay sau đó, hắn lập tức đánh vào người đang ngồi tu. Tuy nhiên, khi hắn vừa dơ tay lên, hắn ta không thể nào để tay xuống được. Vì người tu đang tu theo chính đạo và có tấm chắn bảo vệ, hắn ta không thể nào đánh trúng người tu đó được. Khi hắn muốn chạm tới người tu theo chính đạo, nó trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Hắn ta sẽ bị trừng phạt. Người tật đố sẽ làm hại mình và hại người khác.

5. Buông bỏ mọi ràng buộc

Bị ràng buộc (hay chấp trước) có nghĩa là khi người tu cố đeo đuổi một điều gì một cách thái quá hay là mục đích gì quá trớn, và không thể nào từ bỏ nó hay là ngay cả quá cứng đầu không muốn nghe bất cứ lời khuyên can nào. Có người chạy theo các công năng trong thế giới này và nhất định sẽ ảnh hưởng đến sự tu luyện của họ lên cao tầng. Tình cảm càng dồi dào thì càng khó mà từ bỏ và cảm giác càng bị mất quân bình và càng không ổn định được. Sau đó, họ sẽ cảm thấy họ không có gì cả và bắt đầu ngay cả nghi ngờ những điều mà họ đang học hỏi. Sự ràng buộc khởi lên từ sự ham muốn của con người. Bản tính của những sự ràng buộc này là vì mục tiêu hay là mục đích của nó rõ ràng là bị giới hạn, nó tương đối rõ ràng và dễ hiểu như vậy, và thường là người đó chính họ có lẽ cũng không nhận ra nó. Người thường có rất nhiều ràng buộc. Người ta có thể sử dụng bất cứ phương tiện cần thiết nào để theo đuổi điều gì đó và đạt được nó. Các ràng buộc của người tu được biểu lộ dưới một hình thức khác, chẳng hạn như theo đuổi một công năng nào đó, muốn thấy một linh ảnh nào đó, ám ảnh bởi một buổi biểu diễn nào đó, v..v. Là người tu, không kể là quý vị theo đuổi điều gì, nó đều không đúng. Ðiều này phải bị loại bỏ. Đạo Gia nói về chữ vô. Phật Gia bàn về chữ không và bước vào ngưỡng cửa hư không. Cuối cùng chúng ta muốn đạt được trạng thái vô vi và hư không, buông bỏ tất cả mọi sự ràng buộc. Ðiều gì mà quý vị không thể buông bỏ được, phải bỏ chúng đi, chẳng hạn như việc theo đuổi các công năng. Nếu quý vị theo đuổi nó, đó có nghĩa là quý vị muốn sử dụng nó. Trong thực tế, nó đi ngược lại với bản chất của vũ trụ của chúng ta. Nó thật sự vẫn còn là một vấn đề của tâm tính. Nếu quý vị muốn có nó, tức là quý vị thật sự muốn khoe nó và biểu diễn trước những người khác. Ðó không phải là điều để biểu diễn cho người khác xem.

Ngay cả mục đích sử dụng của quý vị rất trong sạch, chỉ muốn sử dụng nó để làm việc tốt, việc tốt mà quý vị làm có lẽ trở nên không tốt cho lắm. Nó không nhất thiết là một ý nghĩ tốt khi sử dụng các phương tiện siêu phàm để giải quyết các vấn đề của người thường. Sau khi người ta nghe tôi giảng là có 70% học viên trong lớp học được mở Thiên mục, họ bắt đầu tự hỏi: "Tại sao tôi không có cảm giác gì cả?" Khi họ trở về nhà và tập luyện, họ tập trung tư tưởng vào Thiên mục đến nỗi họ bị nhức đầu. Cuối cùng họ cũng không trông thấy gì cả. Ðây là một sự ràng buộc. Các cá nhân đều có thể chất khác nhau và căn cơ khác nhau. Không thể nào mà tất cả những người đó được nhìn thấy bằng Thiên mục cùng một lúc cho được, cũng không thể nào mở Thiên mục của họ ở cùng một cấp bậc. Có người có thể thấy được và có người không thể thấy được. Tất cả đó đều là bình thường.

Sự ràng buộc có thể cản trở sự phát triển công lực của người tu, làm nó chậm lại và không được vững vàng. Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, nó có thể ngay cả đưa đến hậu quả là người tu đi theo đường tà. Nhất là một số công năng có thể được sử dụng bởi người có tâm tính kém cỏi để làm điều xằng bậy. Có những trường hợp mà các hành động xấu được làm do việc sử dụng các công năng bởi những người có tâm tính chưa vững chắc. Một nơi nọ có một nam sinh viên phát triển được công năng kiểm soát tư tưởng. Với quyền năng này, anh ta có thể dùng ý nghĩ của mình để kiểm soát tư tưởng và hạnh kiểm kẻ khác. Và anh ta sử dụng nó để làm điều xấu. Khi một người đang tập luyện, họ có thể trông thấy vài hình ảnh xuất hiện. Họ luôn luôn muốn nhìn thấy rõ hơn và hiểu thấu nó. Ðây cũng là một hình thức của sự ràng buộc. Có người rất đam mê một trò chơi giải trí nào đó; họ không thể từ bỏ nó được. Ðó cũng là một hình thức của sự ràng buộc. Vì những khác biệt về căn cơ và mục đích, có người tu luyện để đạt đến trình độ cao nhất; nhưng cũng có người chỉ muốn được điều gì đó. Nghĩ như vậy chắc chắn sẽ giới hạn mục đích của sự tu luyện. Nếu không buông bỏ loại ràng buộc này thì công sẽ không phát triển được cho dù có tập luyện. Vì lẽ đó, người tu phải xem nhẹ quyền lợi vật chất, không đeo đuổi theo bất cứ điều gì, và để mọi việc xảy ra theo tự nhiên. Như vậy, sự biểu lộ của ràng buộc sẽ bị hủy diệt. Ðiều này tùy thuộc vào tâm tính của người tu. Nếu tâm tính không được nâng lên một cách vững chắc thì sự giác ngộ sẽ không thể đạt được với bất cứ hình thức ràng buộc nào.

6. Nghiệp Lực

(1) Nguồn gốc của nghiệp

Nghiệp là một thứ chất đen tương phản với Ðức. Trong Phật giáo, nó được gọi là ác nghiệp; ở đây, chúng ta chỉ gọi nó là "nghiệp". Vì vậy làm điều xấu được gọi là "tạo nghiệp". Nghiệp được tạo ra vì người ta làm điều xấu trong kiếp này hay trong tiền kiếp. Thí dụ như giết người, bắt nạt, ấu đả với người khác vì tranh giành tư lợi, nói xấu sau lưng người khác, hay là không thân thiện với kẻ khác,v..v., tất cả đều có thể tạo ra nghiệp. Thêm vào đó, có nghiệp truyền lại từ các đời trước, từ người thân trong gia đình hay bạn thân. Khi một người ném những cú đấm vào mặt người khác, anh ta cùng đồng thời ném một mảnh chất trắng cho người đó, và khoảng trống trên cơ thể của anh ta được lấp đầy bởi chất đen. Giết người là một việc làm tồi tệ nhất. Nó là việc làm sai trái và sẽ tạo nghiệp thật nặng nề. Nghiệp là yếu tố chính làm cho người ta bị bệnh. Dĩ nhiên, nó cũng không luôn luôn thể hiện dưới hình thức của bệnh tật; nó có thể biểu lộ dưới hình thức như là gặp phải những vấn đề rắc rối, v..v. Tất cả nó là nghiệp đang hoành hành. Vì vậy, người tu không được làm điều xấu. Bất cứ hành vi sai trái nào cũng sẽ dẫn đến kết quả xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tu luyện của quý vị.
Có người khuyến khích thu khí của cây cối. Khi họ dạy các động tác, họ cũng dạy cách để thu khí từ cây cối; cây nào có khí tốt hơn và màu khí của nhiều loại cây khác nhau cũng được bàn đến và được để ý rất nhiệt tình. Trong một công viên nọ ở vùng đông bắc, có người tập một loại khí công lạ mà tôi không biết loại gì. Họ lăn vòng trên mặt đất. Sau khi họ đứng dậy, họ đi vòng chung quanh các cây thông và thu khí của các cây thông này. Trong vòng nửa năm, cả khu rừng thông nhỏ này bị khô héo và trở nên vàng úa. Ðây là hành động tạo nghiệp! Nó cũng là sát sinh nữa! Dưới khía cạnh bảo trì sự quân bình trong thiên nhiên và làm cho khu vực được xanh tươi, hay là dưới khía cạnh ở cao tầng, sự thu khí của cây cối cũng đều không đúng. Vũ trụ rộng lớn và vô biên, Khí ở cùng khắp mọi nơi sẵn sàng cho quý vị thu hút. Hãy đưa tay ra và thu hút nó. Tại sao lạm dụng các cây cối? Là người tu, tâm độ lượng và lòng từ bi của quý vị ở đâu?

Mọi thứ đều có trí thông minh. Khoa học hiện nay công nhận rằng ngoại trừ đời sống, cây cối cũng có sự thông minh, ý nghĩ, cảm giác và ngay cả các khả năng cảm nhận. Khi Thiên mục của quý vị đạt tới trình độ "Pháp Nhãn", quý vị sẽ khám phá ra rằng thế giới là một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn. Khi quý vị đi ra ngoài, các viên đá, các bức tường và ngay cả cây cối cũng sẽ trò chuyện với quý vị. Với mỗi đồ vật đều có một linh thể tương ứng, tức là một sự sống đã được cho vào trong đó khi món đồ được tạo thành. Người trên trái đất chia vật chất ra làm chất hữu cơ và vô cơ. Người tu trong chùa rất là khó chịu khi họ làm bể một cái chén vì vừa lúc nó bị bể thì linh vật trong đó cũng được phóng thích. Nó chưa hoàn tất hành trình của cuộc đời và vì vậy không biết phải đi về đâu. Vì vậy nó sẽ ghét cay ghét đắng người đã hủy hoại nó. Nó càng nóng giận bao nhiêu thì người đó càng tạo nhiều nghiệp bấy nhiêu. Có "thầy khí công" cũng đi săn bắn. Lòng thương người và lòng từ bi của họ đi đâu rồi? Phật Gia và Đạo Gia không làm điều gì ngược lại với các luật của vũ trụ. Khi ông ta làm những điều này, nó là hành động sát sinh.

Có người cho rằng họ đã tạo rất nhiều nghiệp trong quá khứ, thí dụ như giết gà hay cá, cũng như câu cá, v..v. Ðiều này phải chăng là họ không thể nào tu luyện được? Không, nó không có nghĩa như vậy. Lúc trước quý vị không biết được hậu quả, vì vậy nó sẽ không tạo quá nhiều nghiệp. Chỉ không được tái phạm nữa trong tương lai, và như vậy là tốt rồi. Nếu quý vị tái phạm, quý vị đang vi phạm các nguyên lý này một cách ý thức, và điều đó sẽ là một vấn đề. Có người mắc phải loại nghiệp này. Sự hiện diện của quý vị trong lớp học của chúng tôi có nghĩa là quý vị có duyên tiền định; quý vị có thể tu tiến lên được. Chúng ta có quyền đập ruồi hay muỗi khi chúng bay vào trong nhà không? Nếu quý vị đập chúng chết, nó không bị xem là điều sai trái. Nếu quý vị không thể đuổi chúng ra được thì giết chúng cũng không có vấn đề gì. Khi đến thời điểm cái gì đó phải chết, để cho nó chết tự nhiên. Lúc Ðức Thích Ca Mâu Ni còn sống, một lần ngài muốn đi tắm và bảo người đệ tử lau chùi bồn tắm. Người đệ tử thấy có nhiều côn trùng trong bồn tắm, vì vậy nên quay trở lại và hỏi ngài nên phải làm gì. Ðức Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: "Ta muốn con đi rửa sạch bồn tắm cho ta." Người đệ tử hiểu rõ. Anh ta đi trở lại và chùi rửa bồn tắm. Quý vị không được xem một số vấn đề quá nghiêm trọng. Chúng tôi không muốn quý vị trở thành một người cẩn thận quá trớn. Trong một môi trường phức tạp, tôi không nghĩ là đúng nếu một lúc nào đó thần kinh của quý vị quá căng thẳng và quý vị sợ không dám làm điều gì đó vì cho rằng nó không đúng. Ðiều này là một hình thức của sự ràng buộc; lo sợ chính nó là một sự ràng buộc.
Chúng ta phải có lòng nhân đức và tâm từ bi khi đối phó với bất cứ điều gì. Theo đó nó không dễ gì tạo nên vấn đề. Xem nhẹ quyền lợi cá nhân và hãy có lòng thương người, và tâm từ bi của quý vị sẽ tránh cho quý vị khỏi làm điều sai trái. Tin hay không, quý vị sẽ khám phá ra rằng nếu quý vị luôn luôn giữ một thái độ ác cảm và luôn luôn muốn chiến đấu và chống chọi, quý vị sẽ ngay cả biến những điều tốt thành ra xấu. Tôi thường thấy có người, ngay khi họ làm đúng, cũng không hòa nhã với kẻ khác. Khi anh ta làm đúng, anh ta khư khư giữ lấy những điều như là muốn trừng phạt kẻ khác. Tương tự như vậy, chúng ta không được làm lớn chuyện nếu điều gì đó làm phật lòng chúng ta. Nhiều khi những điều quý vị không thích không nhất thiết là sai. Là người tu, khi quý vị liên tục nâng cấp của mình lên, mỗi câu quý vị nói ra mang theo năng lực. Quý vị có thể kiểm soát người thường, vì vậy quý vị không được phát ngôn bừa bãi. Nhất là khi quý vị không thể nhìn thấy sự thật của vấn đề và các liên hệ nghiệp lực, nó dễ làm cho quý vị phạm lỗi và tạo nghiệp.

(2) Tiêu trừ nghiệp

Các nguyên lý trong thế giới này cũng giống như ở trên thiên thượng. Dĩ nhiên quý vị phải trả hết những gì quý vị nợ kẻ khác. Ngay cả đối với người thường, họ cũng phải trả lại những gì họ thiếu kẻ khác. Qua một kiếp người, tất cả các khổ cực và vấn đề họ gặp phải là kết quả của nghiệp. Người đó phải trả lại. Ðối với người tu chân chính, đường đời sẽ thay đổi. Một lối đi mới thích hợp cho việc tu luyện của quý vị sẽ được xếp đặt. Một số nghiệp của quý vị sẽ được thầy của quý vị dẹp đi và những gì còn lại sẽ được dùng để nâng cao tâm tính của quý vị. Qua sự tập luyện và tu luyện về tâm tính, quý vị hoán đổi nó và trả dứt tất cả. Kể từ nay, các vấn đề quý vị gặp phải không phải xảy ra ngẫu nhiên, vì vậy xin hãy chuẩn bị tinh thần. Bằng cách chịu đựng một số khổ nạn, quý vị sẽ buông bỏ tất cả những điều mà người thường không thể nào bỏ được. Quý vị sẽ gặp phải nhiều vấn đề lộn xộn. Nhiều vấn đề sẽ xuất hiện từ mọi khía cạnh trong gia đình cũng như ngoài xã hội; hay là thình lình quý vị sẽ gặp một tai họa; hơn thế nữa, quý vị có thể sẽ bị khiển trách do lỗi của kẻ khác, vân vân và vân vân. Người tu không nhất thiết phải bị bệnh, nhưng thường xuyên, họ có thể bị một cơn bệnh rất nặng. Nó có thể hành hạ rất dữ dội, và họ ráng chịu đựng đến khi không thể chịu được nữa. Ngay cả khám nghiệm trong nhà thương cũng không thể đoán được bệnh gì. Nhưng sau đó vì lý do nào đó không biết, nó được hết bệnh mà không cần chữa trị gì cả. Thực ra, món nợ mà quý vị thiếu phải được trả bằng cách này. Có lẽ ngày nào đó, không một lý do gì cả, người phối ngẫu của quý vị bắt đầu gây gổ với quý vị và không còn bình tĩnh nữa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoàn thiện bản thân - Chương 3: Tu luyện tâm tính

Vì sao cá chép lại được chọn trong ngày “Ông Táo về trời”

Theo truyền thuyết thì cá chép vàng (còn có tên là cá chép tiên) là loài động vật sống trên thiên đình. Do phạm phải lỗi nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian tu hành để chuộc lại tội lỗi của mình gây ra. Sau khi tu thành chính quả, cá chép sẽ được hóa thân thành rồng và bay lên trời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ông Táo là do Ngọc Hoàng phái xuống trần tục theo dõi loài người, xem ai là người thiện, người ác. Các Táo muốn lên báo cáo với Ngọc Hoàng thì phải nhờ đến cá chép mới có thể đi được. Chính vì thế, các gia đình thường cúng cá chép vào ngày 23 tháng Chạp.


Ngày trước, cúng ông Công, ông Táo phải dùng cá chép chín, tức là đã kho hoặc rán. Nhưng đến nay, tập tục này đã được “chuyển thể” thành cá chép sống và hiện đại hơn là cá giấy để đốt hoá vàng.

Ngoài ra, các bạn còn có thể dâng hoa quả, kẹo, bánh mứt… miễn là đồ ngọt. Tùy các vùng khác nhau, có nơi thì cúng bánh cốm hoặc bánh mè (còn gọi là “thèo lèo”). Ở nơi của ad thì thường mọi người mua những cây mía để cúng đấy. Thế còn gia đình bạn, Tết ông Công ông Táo thì như thế nào nè?!? Mình cùng chia sẻ nhé!!!

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao cá chép lại được chọn trong ngày “Ông Táo về trời”

Chỉnh phong thủy phòng ngủ hâm nóng tình cảm vợ chồng

Phong thủy phòng ngủ đúng chuẩn không chỉ mang lại sự thoải mái khi nghỉ ngơi mà còn tốt cho tình cảm vợ chồng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là nơi vợ chồng nghỉ ngơi, thư giãn, cũng là nơi để chúng ta trút bỏ hết những mệt nhọc sau một ngày dài bận rộn. Dưới đây là những bí quyết phong thủy phòng ngủ giúp cho tình cảm vợ chồng bạn mặn nồng như thuở ban đầu mà bạn không nên bỏ qua. 

1. Không nên đặt quà của người yêu cũ trong phòng ngủ

Có vật ắt có linh cho dù là đôi bên đã chia tay và không còn quan hệ gì nữa. Những món quà do người yêu trước có thể đặt ở một nơi khác, nhưng tốt nhất là không nên đặt trong phòng ngủ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng hiện tại và rất dễ gây ra mâu thuẫn gia đình.

2. Đồ dùng, vật dụng trong phòng nên “có đôi có cặp”

Vì sao lại như vậy? Trong phòng đặt những đồ dùng mà luôn theo đôi theo cặp thì điều đó tượng trưng cho đôi bên cũng cũng nhau đồng cam cộng khổ và tình cảm bền chặt. Ví dụ như ghế ngồi, một số đồ trang trí như thiên nga, cặp uyên ương… nên là những con số 2.

 chinh phong thuy phong ngu ham nong tinh cam vo chong - 1

3. Trong phòng không nên có quá nhiều hoa tươi

Quá nhiều hoa tươi dễ dẫn đến việc “đứng núi này trông núi nọ”. Hoa trong phòng ngủ chỉ nên đặt ở một hoặc hai chỗ, khi chọn vị trí đặt bình hoa cũng không nên chọn đặt quá nhiều bình hoa tươi. Màu sắc bình hoa nên chọn màu nhã nhặn để tăng thêm vận khí cho con đường tình cảm, nếu không dễ dẫn đến tác dụng trái ngược. Không những hai bên không vui vẻ mà còn dễ nảy sinh sự đổi thay trong tình cảm.

4. Vật dụng trong phòng không nên có quá nhiều thứ hình góc nhọn hoặc không cân đối:

Những vật dụng có hình dáng không vuông vắn thường dẫn đến tình cảm không ổn định, dễ thay đổi, suy nghĩ kỳ quặc và dễ bất mãn với tình cảm hiện tại. Cố gắng tránh những vật dụng có hình thù sắc nhọn vì dễ làm tình cảm thay đổi hoặc dễ xuất hiện kẻ thứ 3.

 chinh phong thuy phong ngu ham nong tinh cam vo chong - 2

5. Phòng ngủ nên gọn gàng

Việc sắp xếp vật dụng trong phòng không được bừa bộn, một căn phòng quá lộn xộn thì cũng dễ nảy sinh những mối đa tình đa cảm hay một tình yêu không ổn định. Ngoài ra thì những đồ điện tử cũng không nên bày quá nhiều, những bức xạ của sóng điện từ không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn ảnh hưởng đến vận thế gia chủ, thậm chí là ảnh hưởng đến vận khí trên con đường tình cảm.

7. Chọn phòng vuông vắn làm phòng ngủ của vợ chồng:

Một căn phòng hình chữ nhật hoặc hình vuông thích hợp hơn là một căn phòng hình tam giác, hay hình góc nhọn. Phòng ngủ nhiều góc cạnh dễ dẫn đến những sóng gió không mong muốn trong tình cảm vợ chồng. Mức độ to nhỏ trong phòng ngủ cũng nên hài hòa, phòng ngủ quá nhỏ gây nhiều áp lực vì không gian quá ngột ngạt, phòng ngủ quá lớn lại không tập trung được tinh khí.

 chinh phong thuy phong ngu ham nong tinh cam vo chong - 3

8. Màu sắc phòng ngủ không nên quá nhiều, quá rực rỡ:

Một không gian màu sắc lòe loẹt thường dễ dẫn đến sự đa tình, màu sắc vật dụng và màu sắc tường nên có chung tông màu chủ đạo mới mong mưu cầu sự hài hòa trong tình cảm vợ chồng. Không nên chọn những màu sắc quá trầm, ví như màu đen, cảm giác u ám và nặng nề sẽ bao trùm nhiều hơn.

9. Trong phòng ngủ nên đặt những vật may mắn cho tình yêu:

Vật may mắn này nên hài hòa với những bức tranh trong phòng. Không nên treo vật dụng hay tranh ảnh liên quan đến đồ võ sĩ, hay những bức tranh động vật nhe nanh giơ vuốt. Điều này khiến người ta có cảm giác ghê rợn, trong quan hệ vợ chồng đôi bên cũng dễ xảy ra cãi vã, không có lợi cho tình cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉnh phong thủy phòng ngủ hâm nóng tình cảm vợ chồng

Sao Thái Tuế

Hành: Hỏa Loại: Phù Tinh, Hình Tinh Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén Tên gọi tắt thường gặp: Tuế Sao chủ của vòn...
Sao Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Phù Tinh, Hình TinhĐặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bénTên gọi tắt thường gặp: Tuế
Sao chủ của vòng sao Thái Tuế gồm 12 sao theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.
Công Danh Tài Lộc
Có lợi về công danh cho những nghề nghiệp cần dùng đến khoa ngôn ngữ như trạng sư, giáo sư, chính trị gia.
Phúc Thọ Tai Họa

  • Hay bị nói xấu, chỉ trích, công kích, cãi vã, bút chiến.
  • Hay bị kiện cáo.
Sao Thái Tuế bao giờ cũng hội chiếu với Quan Phù, chỉ sự báo oán vì mích lòng, kiện thưa vì lời nói chạm tự ái. Đây là hậu quả của tính nhiều chuyện, tính chỉ trích, nói xấu, gieo thù oán.
Thái Tuế nếu gặp Sát tinh: Tổn thọ, tổn danh, tổn tài hay bị kiện cáo, báo thù, tai nạn. Tóm lại, Thái Tuế là sao chủ về lời nói và những hậu quả tốt xấu do ngôn ngữ mà có.
Những Bộ Sao Tốt
Thái Tuế, Xương Khúc, Khôi Việt: năm sao này kết thành bộ văn tinh rất đẹp cho việc học hành, thi cử, làm quan.
Những Bộ Sao Xấu
  • Thái Tuế, Hoa Cái hay Thái Tuế , Hóa Kỵ: Ăn nói kiêu kỳ, mất cảm tình.
  • Thái Tuế, Đào, Hồng: Bị phụ tình, cô độc, thất tình.
  • Thái Tuế, Thiên Hình: Bị tai bay vạ gió, có thể bị kiện, bị tù.
  • Thái Tuế, Đà La, Hóa Kỵ: Người quê kệch, ngu độn; gây ngăn trở công việc hại đến quyền thế, tài lộc.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phụ Mẫu
Trong nhà thiếu hòa khí hay có sự tranh chấp. Cha mẹ và con không hợp tánh nhau. Nếu Thái Tuế gặp thêm nhiều Sát Tinh, nhất là Đà, Kỵ xâm phạm, cha mẹ xa cách nhau. Gia đình ly tán. Ngoài ra, cha mẹ thường hay gặp tai họa, đáng lo ngại nhất là mắc kiện cáo.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phúc Đức
Không được hưởng phúc, trong họ thiếu hoà khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Điền Trạch
Thái Tuế nếu gặp các sao tốt như Tam Thai, Bát Tọa, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì nhà cửa vững vàng. Đi với các sao xấu như Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Đại Hao, Tiểu Hao, lận đận về nhà cửa, xích mích, bị lừa.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Quan Lộc
Thường làm các nghề chủ về dùng lời nói, lý luận, hoặc nghề có liên quan đến pháp luật như nghề luật sư, giáo sư, thẩm phán, trưởng tòa. Nếu làm chính trị, thiên về đối lập, hay chỉ trích và bị chỉ trích trong nghề nghiệp.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Nô Bộc
Ra ngoài có nhiều tham vọng, ưa thích chơi với người có chức cao quyền rộng, hay kén chọn bạn bè. Người làm nghề nhà giáo có cách này, nếu có nhiều sao tốt, thì học trò của mình sau này công danh rực rỡ, làm nổi tiếng cho thầy.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Thiên Di
Thái Tuế ở cung Thiên Di thì hay bị miệng tiếng khẩu thiệt trong việc giao thiệp, hay bị kiện cáo, cãi vã với người ngoài.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tật Ách
Hay bị chuyện thị phi, kiện cáo, tù tội, đánh đập, mổ xẻ, tai nạn dọc đường.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tài Bạch
Đi với sao tốt thì dễ kiếm tiền, nói ra tiền. Đi với sao xấu như Đà La, Hóa Kỵ, Địa Không, Địa Kiếp thì hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tử Tức
Con cái không hợp tính cha mẹ.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng bất hòa, hay cãi vã, lắm lời, có thể ly dị, ly hôn, nếu gặp sao xấu, trừ phi vợ hay chồng hành nghề luật sư, thẩm phán.
  • Nương tựa nhau, dính dấp nhau nhiều vì quyền lợi, danh tiếng, địa vị, dư luận, ảnh hưởng bên ngoài rất nặng vào đời sống riêng tư.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Huynh Đệ
Anh chị em trong gia đình tuy có sự khắc khẩu, khác chí hướng, nhưng vẫn có sự giúp đỡ qua lại, trong anh chị em có người cô độc, đau bệnh.
Thái Tuế Khi Vào Các Hạn
  • Có cãi vã, đôi chối trong năm đó, có đi dạy học.
  • Bị thất tình, cô độc.
  • Nên cần cẩn thận khi lập gia đình.
  • Hạn gặp sao Thái Tuế thì hay sinh ra quan tụng, khẩu thiệt, ở Cung Mệnh thì thời vận gian truân vất vả.
  • Gặp sao Đà La, Kiếp Sát, là hạn ra ngoài lắm tai nạn, nguy hại đến tính mạng.
  • Ở Cung Dần hoặc Cung Dậu mà gặp sao Thái Tuế, Thiên Hình, Kình Dương thì hay gặp chuyện thị phi, tai bay vạ gió, khẩu thiệt, tai tiếng, tù tội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thái Tuế

Xem tướng tóc để biết tính cách, sức khỏe, giàu nghèo –

Trong tướng số, mái tóc không chỉ điểm tô cho ngoại hình mà từ hình dạng mái tóc, độ dày, thưa... đều có thể nhìn ra số phận của một người. Ở những bài trước chúng tôi có cập nhật các bài về xem tướng bàn tay, xem tướng khuôn mặt ... hôm nay chúng t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tướng số, mái tóc không chỉ điểm tô cho ngoại hình mà từ hình dạng mái tóc, độ dày, thưa… đều có thể nhìn ra số phận của một người. Ở những bài trước chúng tôi có cập nhật các bài về xem tướng bàn tay, xem tướng khuôn mặt …  hôm nay chúng ta hãy cùng xem tướng tóc của mình để biết tính cách, cũng như sức khỏe của mình nhé!

Nội dung

  • 1 Xem tướng tóc để biết tính cách, sức khỏe, giàu nghèo
    • 1.1 Mái tóc thô
    • 1.2 Tóc mỏng
    • 1.3 Tóc dày
    • 1.4 Tóc thưa mỏng
    • 1.5 Tóc cứng
    • 1.6 Tóc mềm
    • 1.7 Tóc bóng mượt
    • 1.8 Tóc không bóng mượt
    • 1.9 Mái tóc dày, đen và thô cứng
    • 1.10 Mái tóc mỏng và thưa nhưng mượt và sợi mảnh
    • 1.11 Chân tóc dày và rậm
    • 1.12 Chân tóc mỏng, thưa, mềm
    • 1.13 Tóc dày nhưng thân thể gầy gò
    • 1.14 Tóc thưa thớt, màu tóc không đen mà nâu sẫm

Xem tướng tóc để biết tính cách, sức khỏe, giàu nghèo

Mái tóc thô

Cơ thể khỏe mạnh. Tính cách ngoan cố, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn.

Tóc mỏng

Tính tình ôn thuận, khí chất nhã nhặn, nhưng cơ thể hơi yếu.

Tóc dày

Tính cách ôn thuận, tác phong làm việc rất kiên quyết, chăm chỉ làm việc. Cơ thể khỏe mạnh.

Tóc thưa mỏng

Người không thích suy nghĩ, thiếu tinh thần phấn đấu, khi làm việc thì sợ trước sợ sau, khiến công việc trì trệ.

Tóc cứng

Tính cách bướng bỉnh. Cơ thể khỏe mạnh, luôn tràn đầy năng lượng, thần thái luôn rạng rỡ, tươi sáng.

Tóc mềm

Tính cách dịu dàng, nhẹ nhàng nhưng ý chí có phần yếu đuối.

1-8781-1409125388

Tóc bóng mượt

Luôn khỏe mạnh, phấn chấn, tràn đầy sức sống.

Tóc không bóng mượt

Cần chú ý sức khỏe bản thân, tránh sinh bệnh.

Mái tóc dày, đen và thô cứng

Tính tình hung dữ, tính chiếm hữu cao, hành sự quyết đoán, dám nói dám làm.

Mái tóc mỏng và thưa nhưng mượt và sợi mảnh

Tính cách bị động, thông minh, nhưng dễ bị tổn thương.

Chân tóc dày và rậm

Tính tình lạc quan, chăm chỉ, nhưng không thích tụ tập. Họ thích một mình, nên dễ rơi vào tình cảnh cả đời vất vả.

Chân tóc mỏng, thưa, mềm

Tính cách dịu dàng, chịu thương chịu khó, có tính kiên nhẫn cao.

Tóc dày nhưng thân thể gầy gò

Thể chất yếu ớt dễ sinh bệnh.

Tóc thưa thớt, màu tóc không đen mà nâu sẫm

Đa số họ sẽ cô đơn khi về già, dễ không con không cháu, dù tài vận tốt cũng khó tránh được số phận cô đơn.

Mái tóc cũng liên quan đến phong thủy, nó là sự hấp dẫn và sức mạnh tinh thần của người con gái, cũng là chìa khóa quan trọng liên quan đến tài vận. Vì vậy, nếu có thể thì bạn nên nghiên cứu xem để kiểu tóc như thế nào mới phù hợp với ngũ hành của mình, từ đó bạn có thể thay đổi vận mệnh bản thân.

Xem thêm:

  • Xem Tướng Eo Và Tướng Mông Của Phụ Nữ
  • Xem Tướng Trẻ Em Có Số Phận Tốt Và Xấu 
  • Xem Tướng Khuôn Mặt Đoán Phúc Phận
  • Xem tướng khuôn mặt
  • Xem tướng cổ
  • Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay
  • Xem tướng nốt ruồi ở chân để biết giàu nghèo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tóc để biết tính cách, sức khỏe, giàu nghèo –

Thế nhà hợp thập - tốt nhờ hòa hợp âm dương

Nhà ở thế hợp thập vừa tốt vừa bền lâu, sự tốt của nó do đâu mà có? Cùng tham khảo bài viết dưới đây.
Thế nhà hợp thập - tốt nhờ hòa hợp âm dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết “Hợp thập – thế nhà còn tốt hơn vượng sơn vượng hướng” đã giúp bạn đọc cách xác định nhà ở thế hợp thập theo Phong thủy Huyền Không. Tuy nhiên, nhiều người còn thắc mắc, vì sao thế nhà này lại tốt? Xin giải đáp bằng bài viết dưới đây.


► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

The nha hop thap - tot nho hoa hop am duong hinh anh
 
Hợp thập tức là dùng Thập số (số 10) để thông với Ngũ Hoàng ở trung cung mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên - Địa, Phu - Phụ, Âm – Dương. Cho nên nơi nào có hợp thập là có thể làm cho thông khí (còn gọi là thông quái), toàn bàn đắc hợp thập có thể làm cho thông khí hết 8 cung, khiến cho toàn cục đang suy (vì không đắc vượng khí tới tọa - hướng) lại chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc song toàn. 
 
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nhà đắc cách hợp thập đều có thể sử dụng được, mà phải kết hợp với Loan đầu mới có thể vượng phát, còn nếu không thì cũng chỉ tầm thường hoặc suy bại mà thôi. 
 
Sau cùng, ngoài những cách hợp thập của Phi tinh đã nêu trên thì còn có cách hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này thì nếu lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa - hướng của căn nhà (hay mộ huyệt) để tạo thành một đường thẳng, nhà lại nằm tại trung tâm của thế đất để lấy Thiên tâm, tức địa thế hai bên đã được phân ra đồng đều thì cũng là cách hợp thập theo địa hình.  
 
Tuy nhiên, cách này đòi hỏi tọa - hướng của căn nhà cũng phải đắc vượng khí của sơn - hướng tinh, thực chất cũng chỉ là một trường hợp vượng sơn - vượng hướng mà thôi. Nhưng do hình cục đắc “Thiên tâm thập đạo” nên lúc đương vận có thể phát mạnh hơn những cuộc vượng sơn - vượng hướng bình thường, mà đến lúc thất vận cũng không đến nỗi suy tàn nhanh chóng. 
 
Nhưng muốn đắc cách hợp thập theo hình cục thì nhà cũng phải lập tọa - hướng theo đơn hướng, chứ không thể dùng kiêm hướng. Nếu kiêm hướng ắt thế "Thiên tâm thập đạo" sẽ bị phá bể mà phát sinh ra nhiều hung họa.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nhà hợp thập - tốt nhờ hòa hợp âm dương

Mơ thấy ruồi nhặng: Có kẻ thù quấy nhiều –

Ruồi nhặng gây phiền phức cho con người, tượng trưng kẻ thù dùng thủ đoạn gián tiếp làm hại bạn, thực hiện hành vi tiểu nhân sau lưng bạn. Mơ thấy nhiều ruồi nhặng dự báo kẻ thù ngày càng nhiều, hãy nghĩ cách tránh gây thù địch. Mơ thấy thoát khỏi đá
Mơ thấy ruồi nhặng: Có kẻ thù quấy nhiều –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ruồi nhặng: Có kẻ thù quấy nhiều –

Linh vật trừ tà, chế sát tà và trấn trạch

Việc trừ tà chế sát và trấn trạch đều mang ý nghĩa là hóa giải những “hung khí”, những “tà khí” và mang lại vận may, tài lộc và sức khỏe cho những người sống trong ngôi nhà đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.     Tượng Thanh long ( rồng) -  Rồng là linh vật linh thiêng nhất trong các linh vật. Rồng có nhiều khả năng như: Bay trên cao, phun lửa, bò dưới mặt đất, bơi dưới biển. Rồng là loài linh vật hay xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, các tiểu thuyết, Truyền thuyết, và luôn luôn là linh vật bảo vệ con người, mang lại may mắn, giúp đỡ con người, hóa giải các loại hung thú, và tà ma.                       -  Thanh long có tác dụng chế sát từ các luồng “tà khí”, “tiêu trừ tiểu nhân”, “tạo uy nghiêm”, mang lại vượng khí, mang lại tài lộc, kích thích công danh sự nghiệp. -   Thanh long tượng trưng cho “Thủy khí”, tức là tượng trưng cho tiền tài. -   Thanh long nên đặt tại phương vị “thanh long” (bên trái tính từ trong nhà nhìn ra ngoài) để tăng vượng khí tài lộc. Nếu gần sông, biển, đặt thanh long hướng ra sông, biển thì sẽ có tác dụng “thu thủy khí”, mà thu thủy là thu tiền tài. Có thể đặt thanh long tại phương Bắc, vì phương Bắc mang hành thủy, sẽ tăng cường “thủy khí”. Thanh long Nên đặt trên bàn làm việc bên trái của bàn (theo hướng người ngồi) để tạo uy nghiêm và tiêu trừ tiểu nhân trong công việc, tăng cường thế lực.
   
-  Thanh long không được đặt chĩa vào phòng ngủ. Người tuổi tuất không dùng thanh long, vì Thìn – tuất Trực xung nhau.   2. Tượng Sư tử -   Sư tử được coi là loài thú hiền lành. Tuy nhiên khi nhìn thấy Sư tử thì ai cũng rất sợ vì hình dáng và sự lợi hại của những chiếc nanh, chiếc móng vuốt và những tiếng gầm của nó. Chính vì thế mà tượng sư tử có tác dụng chế sát và trấn trạch rất tốt.                        
                                 

-  Khi đặt sư tử nên đặt cả đôi, một đực và một cái. Đầu của hai con sư tử phải hướng ra ngoài để hóa sát trừ tà. Khi một trong hai tượng sư tử bị vỡ thì phải thay cả đôi.
-  Tượng sư tử không nên đặt ở nhà các hộ dân, vì thần khí quá mạnh của hai tượng sư tử sẽ ảnh hưởng xấu đến những người sống trong nhà. -  Tượng sư tử nên đặt ở các cơ quan hành chính công, các doanh nghiệp lớn. Và chỉ đặt tượng sư tử ở ngoài cổng nhìn ra ngoài. Không được đặt tượng sư tử trong nhà. -  Trên cửa nhà có thể treo phù tượng đầu sư tử cũng có tác dụng chế sát.   3. Tượng Rùa -   Rùa là loài động vật có khả năng chế sát, biết chịu đựng, gặp nguy hiểm thì thu mình vào mai mà không xung sát. Mai rùa có tác dụng phòng vệ và hóa giải những dòng khí xấu.                                     
-   Có thể đặt một đôi rùa bằng đồng hoặc bằng đá cho những nhà phạm vào “thiên trảm sat”, “đao đình sát”, “phi tiễn sát”, “thương sát”… Trong những trường hợp này dùng Tượng rùa hơn là dùng sư tử, vì sư tử có tính chiến đấu và đấu chọi lại (sẽ không phải là giải pháp tối ưu). Còn Tượng rùa chỉ hóa sát chứ không đấu chọi (sẽ là giải pháp tốt nhất để hóa giải).   4. Tượng Long quy -   Long quy tức là đầu rồng và thân rùa. Đây là cách mà dân gian tưởng tượng và kết hợp giữa linh vật “rồng” là loài linh vật linh thiêng, mạnh mẽ, với linh vật “rùa” là loài linh vật biết chịu đựng và hóa sát. Sự kết hợp này tạo ra 1 linh vật mới là “Long quy”.                                                                                            
- Long quy có tác dụng chế sát như “Tượng rùa”, nhưng có tác dụng mạnh hơn. Vì thần khí của “đầu rồng” sẽ hóa sát tất cả các loại “tà khí”.
-  Long quy cũng có tác dụng chế sát khí ngôi nhà, công ty... phạm vào “thiên trảm sát”, “đao đình sát”, “thương sát”, “phi tiễn sát”… Bên cạnh đó việc dùng 1 đôi tượng long quy bằng đồng dưới khám thờ sẽ có tác dụng giúp gia tiên nhanh chóng “tu” và trở thành “chính quả”. Chính vì lẽ đó mà trong các ngôi chùa, đền thờ hay có tượng Long quy. Bởi Long quy là linh vật linh thiêng và có tác dụng chống lại tà khí nên mới được dùng.   5.  Tượng Gà trống -   Tượng gà trống đặt ở cửa nhà khi trước cửa nhà có con đường hay dòng nước chảy ngoằn nghèo như hình con rết, hay trước bếp có ống nước ngoằn nghèo như hình con rết. Chỉ cần đặt 1 tượng con gà và mỏ chía về hình con rết.                               -   Tượng gà trống có tác dụng xử lý vấn đề “Đào hoa”: Kém duyên hay số đào hoa có nhiều người khác giới theo. Nếu người nào kém duyên, lớn tuổi mà vẫn chưa có người yêu thì có thể đặt Tượng gà trống tại cung đào hoa của bản mệnh để kích hoạt tình duyên. Ngược lại nếu chồng mà hay “lăng nhăng” hay có nhiều gái theo thì hãy tìm cung đào hoa để đặt tượng gà trống sẽ có tác dụng hóa giải số đào hoa của chồng, sẽ giữ chồng ở bên mình. -  Người tuổi mèo không dùng tượng gà trống, vì Mão-Dậu trực xung nhau.     6.  Treo Hồ lô -   Hồ lô có thể được làm bằng từ quả bầu hoặc được làm bằng đồng, bằng đồng có loại hồ lô bát tiên.                                               
-  Hồ lô có tác dụng chế sát bằng việc hút “sát khí” kỳ diệu của quả hồ lô, bởi quả hồ lô sẽ có quỹ đạo hút khí theo hình chữ S, quả hồ lô sẽ hút và phá hủy “tà khí”. Chính vì thế mà khi ta cho rượu vào quả hồ lô và đậy nắp vào thì rượu sẽ ngon hơn, nhanh ngẫu hơn. -   Trong trường hợp bàn thờ hay giường ngủ, bàn học, bàn làm việc bị dầm nhà đè lên, “tà khí” từ dầm nhà sẽ bay xuống. Ta treo 2 quả hồ lô tại thành giường, đặt trên bàn thờ, đặt trên bàn làm việc hoặc bàn học để hút khí thu sát. -   Có thể treo 3 quả hồ lô tại cung thiên y hoặc cung sinh khí, diên niên, sẽ làm cho người trong nhà khỏe mạnh, tinh thần thoải mái, nhất là trong nhà có người mắc bệnh lâu dài. -   Quả hồ lô có thể treo ở trên cửa mà nơi đó gió thổi mạnh để hút bớt “sát khí”.   7.  Tượng chó

-   Chó là loài động vật rất thông minh và trung thành với con người. Từ ngày xưa con người đã thuần được loài chó hoang trở thành vật nuôi và bảo vệ trông giữ gia đình. Chó được dùng trong việc đi săn bắn, sử dụng trong việc chăn nuôi gia súc. Sức mạnh và sự nhanh nhẹn cũng như sự thông minh của loài chó đã được con người sử dụng vào cả công việc an ninh như: truy tìm tội phạm, bảo vệ cho gia đình.

-    Tượng chó thường làm bằng đá. Đặt ở trước cửa cổng và hướng ra ngoài, có tác dụng trấn an, mang lại điều may mắn và tốt lành cho nhà.      
-   Người tuổi Thìn không được đặt tượng chó, vì Thìn-Tuất xung nhau.
  8.  Tượng Hổ

-    Tượng hổ được coi là biểu tượng quyền lực công danh thăng tiến, có thể trị được tà ma, giải hạn. Tượng hổ có thể dùng tượng đá hoặc bằng đồng.               
             
-    Tượng hổ nên đặt ngoài vườn hướng ra cổng hoặc đặt trước cổng có đường chạy thẳng vào. Tượng nhỏ có thể để bàn, có tác dụng chế sát, trợ giúp kinh doanh thăng tiến. Treo tranh hổ trước cửa có hành lang chạy vào có tác dụng chế sát.   9. Bia Thái Sơn Thạch Cảm Đương  
                        
      
-   Đây là loại phù khắc chữ trên đá, có thể là tảng đá nguyên, có thể là bia đá, có thể là với tượng đồng kỳ lân hay đầu hổ, hay là tấm bia dán trên tường, trên gương bát quái… -   Thái Sơn Thạch Cảm Đương dùng trong trường hợp nhà có nhiều âm khí hình, tà khí.
Chuyện kể rằng từ xa xưa có một nhà vua ở đất bắc lãnh đạo dân chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nhưng không thành nên rút về núi Thái Sơn để lánh nạn. Nhà Trời thấy vậy bèn cử một thần tướng họ Thạch xuống giúp, hướng dẫn nhà vua kế để đánh giặc. Về sau chiến thắng, giặc thua phải rút chạy, vị thần tướng này trở về trời. Để tưởng nhớ công ơn, nhà vua cho dựng tượng vị thần tướng trên núi Thái Sơn để ghi công. Nhân dân đến viếng tượng Thần rất đông.

Một hôm có một thôn nữ sống ở chân núi Thái Sơn lên núi thấy tượng gãy một cánh tay, bèn tìm cách gắn lại. Sau này người thôn nữ sinh được một người con trai bèn đặt tên là Thạch Cảm Đương, lấy họ Thạch là họ của vị tướng thần. Thạch Cảm Đương lớn lên có tài thu phục tà ma. Nhà nào có ma ám, người nhà bèn cho mời ông đến giúp trừ tà. Thạch Cảm Đương bèn lên núi Thái Sơn lấy đá về đặt ở cổng trấn yểm trừ tà. Tà ma sợ phải chạy đi nơi khác.

Tiếng lành đồn xa, nhà nào nghi bị ma ám đều mời Thạch Cảm Đương đến, đến nỗi ông không đủ sức giúp hết. Ông bèn nghĩ ra cách cho người lên núi Thái Sơn lấy đá về và ông tự tay khắc chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương” rồi cho những người đến nhờ trừ tà ma mang về đặt ở cửa nhà hay cửa cổng để trừ tà. Và về sau này cho đến nay mọi người dùng tượng đá hay tượng đồng hoặc là bức phù giấy có chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương” để trừ tà.
  10. Chuông gió -   Chuông gió có nhiều loại: Bằng tre trúc, bằng nhựa cứng, bằng đồng. Nhưng chuông gió bằng kim loại là tốt nhất, vì kim sinh thủy và chuông gió bằng kim loại sẽ tạo ra âm thanh của kim – có tác dụng hóa sát khí của con đường, của luồng khí đen, và hóa giải sao rất tốt.

Nguồn: Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Linh vật trừ tà, chế sát tà và trấn trạch

Tác động của Hóa Quyền với các chủ tinh

CỰ MÔN HÓA QUYỀN Trong Đẩu Số, Cự Môn là “ám” diệu. Nó cần được Thái Dương miếu địa chiếu mới thật hay. Thiếu Thái Dương miếu thì dù Hóa Lộc hay Hóa Quyền kể là khuyết điểm. Cự Môn Hóa Lộc nặng tham vọng lợi lộc, vừa ham của lại vừa ganh của. Cự Môn Hóa Quyền nặng tham vọng chức vị quyền binh, vừa ham quyền lại vừa ganh quyền. Đứng với Hóa Lộc đôi lúc còn mềm dẻo biết lùi. Nhưng đứng với Hóa Quyền không biết thoái nhất bộ cứ hăm hở tiến tới một cách kém thực tế, tất phải gặp phản ứng và đố kị đưa đến tai họa phiền nhiễu.
Tác động của Hóa Quyền với các chủ tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh đừng bao giờ xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh nên giữ thái độ “bất tranh” rồi thì quyền chức tự đến.

Cự Quyền đóng cung Phúc Đức cũng đi đến tình trạng như trên. Các sách vở Trung Quốc đưa ra luận đoán sau đây:

Cự Môn Hóa Quyền đóng cung Tài Bạch thì cung Tử Tức (con cái) có Thiên Tướng thủ. Thiên Tướng phía trước là Thiên Lương, phía sau là Cự Môn. Nếu cung con ấy hội tụ nhiều sát tinh ắt sẽ bị “phá gia chi tử” con cái phá của. Sát tinh là: Linh Hỏa, Xương Kị, Kiếp Không.

Cự Môn có tài ăn nói, Hóa Quyền làm tăng cái tài ấy hơn Hóa Lộc. Cự Môn Hóa Quyền học luật pháp hợp cách nhưng đừng cậy vào tài ăn nói để mà lấn át sẽ chỉ gây oán ghét bất lợi.

Cự Môn vào cung lục thân thường xảy ra tranh cãi bất hòa, nhưng hễ có thêm Hóa Quyền thì những bất hòa tranh cãi kia không còn nữa mà lục thân khả dĩ là những thế lực trông cậy được.

Tỉ dụ như cung Phu Thê có Cự Môn khó thuận hòa, nhưng được Hóa Quyền thì vợ lại là con người đắc lực chẳng những với chồng còn với con nữa.

Cự Môn đứng với sát kị tinh ở Tật Ách, bệnh hay sinh từ thực đạo, dạ dày, ruột hoặc phổi, gặp Hóa Quyền giảm hẳn.

HÓA QUYỀN VŨ KHÚC

Vũ Khúc Hóa Quyền ở Mệnh tự tay gầy dựng, do hành động của chính mình mà nên công; tiền bạc cũng như chức vị nghề nghiệp. Vũ Khúc Hóa Quyền không phải là số nương tựa dựa dẫm. Có thể được đề bạt lên chức cao để phải làm nhiều hơn. Vì vậy Vũ Khúc Hóa Quyền thường là con người lịch lãm từng trải tân khổ, từ việc to đến việc nhỏ đều qua tay. Phối hợp với Phúc Đức cung thấy nhiều sát tinh thì điều từng trải lịch lãm tân khổ càng tăng cao.

Vũ Khúc Hóa Quyền khó nhọc thật nhưng cũng nắm thực quyền. Vũ Khúc Hóa Quyền vào võ chức hay mật vụ trị an hợp cách.

Vũ Khúc Hóa Quyền không hay bằng Vũ Khúc Hóa Lộc. Vì đi với Hóa Lộc làm giàu, tiền bạc dư, đi với Hóa Quyền gánh vác công việc nhiều. Vũ Quyền cần có Lộc Tồn thì mới hội đủ điều kiện cho một phú cách.

Vũ Khúc Hóa Quyền gặp sát tinh vào ngành máy móc kỹ nghệ rất hợp, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.

Vũ Khúc Hóa Quyền đóng Thê cung thường bị vợ đoạt quyền, nếu lại thêm sát tinh nữa thì vợ chồng chia tay, đôi khi người có số này bị mọc sừng như chàng Võ Đại Lang chồng Phan Kim Liên trong truyện Thủy Hử.
Nhưng Vũ Khúc Hóa Quyền đóng cung Thê mà lại có Lộc Tồn thì lấy vợ giàu hoặc vợ gây dựng cơ nghiệp của cải nhưng riêng mình vẫn ở trong cảnh thân lươn chẳng quản lấm đầu.

Vũ Khúc Hóa Quyền với hung sát tinh hội tụ vào cung Tử Tức thường có con hai dòng. Vũ Quyền đóng Bào Huynh với Không Kiếp anh em bất thuận.

HÓA QUYỀN TỬ VI

Tử Vi là đế tinh có Hóa Quyền ví như nắm thực quyền đó là ưu điểm tuy nhiên vẫn ẩn một khuyết điểm. Ưu điểm là giỏi quyết đoán lãnh đạo lực cao để có thể gánh vác trách nhiệm. Khuyết điểm là dễ rơi vào tư tâm và chủ quan, quyết định quá khích không vì người vì việc mà vì mình. Bởi vậy Tử Vi Hóa Quyền rất cần Tả Phụ Hữu Bật là hai gián quan hai vị phò tá giỏi để gánh bớt trách nhiệm, cản ngăn không để ông vua phạm sai lầm.

Tử Vi Hóa Quyền cần có Lộc Tồn thì mới thật hay. Vì thủ Mệnh Tử Vi Hóa Quyền tất nhiên cung Tài có Vũ Khúc Hóa Kị nếu vô Lộc ắt quyền uy thiếu thực chất. Tử Vi Hóa Quyền hội tụ với nhiều hung sát tinh lại càng cần thận trọng ví như ôg vua ưa hội tụ với tiểu nhân, nếu như không đủ sức trị nổi đám tiểu nhân có ngày uổng mạng. Trường hợp này, người mang số chớ nên ham quyền chức, vạ vào thân.

Tử Vi Hóa Quyền cần Văn Xương Văn Khúc để thêm thông minh tài trí. Nhưng quá thông minh tài trí mà không được Tả Hữu thì đôi khi cái thông minh lại dễ đem đến lầm lỡ như sách nói “Thông minh phản bị thông minh ngộ”

Tử Vi Hóa Quyền đóng cung lục thân thì những người thân trở nên chủ quan. Như vậy tối bất lợi khi vào cung Thê, nếu gặp cả Thất Sát Phá Quân nữa càng khốn, bị vợ coi như cỏ rác.

Tử Vi Hóa Quyền tọa lạc ở Tử Tức, con cái thành đạt nhưng bất hiếu nếu thấy cả hung sát tinh hội tụ. Tử Vi Hóa Quyền vào Nô Bộc hay Bào Huynh thì hãy kính nhi viễn chi, xuề xòa ăn uống thôi đừng cộng tác mà có ngày lâm vào cảnh cưỡi voi chung với đức ông.

Tử Vi Hóa Quyền đóng Tật Ách cung xuất hiện với sát tinh nhất là sao Thiên Hình, bệnh đến cấp kỳ và bị giải phẫu. Số nữ ưa bị ám tật.

HÓA QUYỀN THÁI DƯƠNG


Thái Dương đứng với Hóa Quyền tốt hơn đứng bên Hóa Lộc. Thái Dương Hóa Lộc tiền bạc đến nhờ quyền chức địa vị, có cuộc sống xa hoa. Nhưng Thái Dương Hóa Quyền mới là người thành công gây sự nghiệp.

Thái Dương Lộc Quyền Cự Môn là cách “dị tộc sinh tài” ra nước ngoài phấn phát. Dương Lương Xương Lộc được Hóa Quyền càng nhiều sáng kiến hay khi vào việc.

Thái Dương Thiên Lương không Văn Xương mà được Hóa Quyền là con người có uy vọng trong lãnh vực nào đó. Thái Dương Hóa Quyền đứng với Văn Xương lại gặp Hóa Kị, người làm việc xốc nổi, thiếu suy nghĩ chín chắn để thất bại. Thái Dương Hóa Quyền có khả năng khai sáng, nhưng bị khuyết điểm là thích người tâng bốc mình.

Thái Dương Hóa Quyền đóng Mệnh cung, tâm ý không chịu được tịch mịch cứ phải họp quây quần đông người, cho nên hay vội vã. Đáng lẽ nên thoái ẩn thì lại chường ra để mà bị phiền.

Thái Dương hãm địa được Hóa Quyền giảm đi những bất lợi, nếu đóng cung Thiên Di thì hãy rời khỏi quê hương bản quán để mà phát triển.

Thái Dương Hóa Quyền thủ Mệnh, tốt bụng thích giúp người khác nhưng nếu có luôn cả Văn Xương Hóa Kị thì mọi hành động thi ân đều chẳng đem lại lợi ích gì cho mình, chúng vay rồi quịt luôn.

Thái Dương đắc địa đứng với Hóa Quyền đóng cung lục thân dễ có trợ lực của các người thân thuộc nam tính. Vào Thê, vợ chồng xa cách. Vào Phu, có chồng xứng đáng trên phong thái, trên khả năng và tư cách. Vào Bào Huynh, có anh em trai trợ lực. Vào Phụ Mẫu hợp với bố.

Thái Dương Hóa Quyền đóng Tật Ách thường bị máu cao, thấy Hóa Kị Thiên Hình thì đề phòng bệnh mắt.

HÓA QUYỀN THAM LANG

Tham Lang chủ về giao tế, có Hóa Quyền lợi cho công tác giao tế nắm quyền chủ động. Tham Lang đứng cùng Vũ Khúc và Hóa Quyền Hóa Lộc là đẹp nhất, miễn không bị Kiếp Không phá rối.

Tham Lang Hóa Quyền mà vô Lộc thì hành động giao tế thiếu hào sảng, chăm chú vào tiểu lợi khó thành việc lớn. Bởi vậy Tham Lang Quyền Lộc phải đi cùng mới đắc lực.

Đến như cách Tham Hỏa Tinh hay Linh Tinh thì Hóa Lộc lại cần hơn Hóa Quyền. Thiếu Lộc chỉ có Quyền không thôi thành ra cách có tiếng không có miếng, hoặc bề ngoài phong quang sáng chói thanh thế đáng nể mà kho túi rỗng không, còn thêm nhọc mệt với công việc bộn bề, được người trọng vọng ngoài mặt thôi.


Tham Lang Hóa Quyền đi với Đào Hoa đứng chủ chốt ngành nghề trình diễn, như nhạc hội, nhà nhảy, quán rượu dễ thành công.

Tham Lang Đào Hoa ở cung con thường có con tư sinh, gặp Hóa Quyền thì chuyện tư sinh là công khai, không Hóa Quyền thành âm thầm.

Tham Lang Đào Hoa đóng Phụ Mẫu cung, mình là con của dòng thứ, nhưng Tham Lang Hóa Quyền không Đào Hoa ở Phụ Mẫu lại là tốt. Tham Lang Hóa Quyền bị sát tinh đóng Tật Ách bệnh ở gan, không Hóa Quyền bệnh ở mật.

HÓA QUYỀN THIÊN ĐỒNG

Thiên Đồng ưa Hóa Lộc hơn Hóa Quyền vì có Hóa Lộc đời sống an định êm ấm hơn gặp Hóa Quyền phải bươn chải khó nhọc. Nhưng tốt hơn Thiên Đồng nếu gặp được cả Lộc lẫn Quyền.

Thiên Đồng vốn là phúc tinh không chịu nổi những xáo trộn do Hóa Quyền gây ra, phải có Hóa Lộc chế hoá để cuộc phấn đấu thành tựu.

Thiên Đồng Hóa Quyền rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị đứng đối xung, hoặc Không Kiếp đứng cùng hay theo thế tam hợp. Quyền trong trường hợp này chỉ làm cho tai họa gay gắt mà thôi, chẳng giúp chi cho Thiên Đồng để chống đỡ. Trừ trường hợp cả Quyền Lộc Khoa hội tụ mới mong giải cứu.

Thiên Đồng đứng bên Thiên Lương mà gặp Hóa Quyền tốt hơn Thiên Đồng đứng một mình. Thiên Đồng chủ về tình tự, có Hóa Quyền tình tự trở nên đậm sắc, nó có hai phản ứng trái ngược tùy thuộc các sao cát hung đi kèm. Thiên Đồng Hóa Quyền đi với cát diệu thì tình tự ổn định, gặp việc có thể trầm tĩnh đối phó cho nên ung dung thanh thản.

Thiên Đồng Hóa Quyền đi với sát kị hoặc Kiếp Không thì tình tự thiếu hẳn ổn định, ứng phó đầu voi đuôi chuột hoặc lần khần bất quyết, đầu óc vớ vẩn.

Đồng Quyền ở Mệnh hay ở Phúc Đức cũng vậy, trừ trường hợp đi bên cạnh sao Thái Âm thì tình tự tương đối ổn định dù có bị kèm bởi hung sát kị.

Thiên Đồng Hóa Quyền vào Tài Bạch hay Quan Lộc có cát tinh thì cơ sự nghiệp tương đối hanh thông, gặp hung sát kị thường bất đắc chí, bất phùng thời, lắm lúc tính sảng lao vào những cơ hội viễn vông.

Thiên Đồng tình tự nhu nhược được Hóa Quyền cá tính vững lên, cả trên tình ái lẫn xử thế giao du. Số nữ Thiên Đồng Hóa Quyền hội với Đào Hoa Xương Kị hay Cự Môn Hóa Kị thì cuộc sống tình cảm duyên tơ rất lận đận.

Thiên Đồng cặp với Thái Âm và Hóa Lộc có thể xem là một phú cách, thêm Khôi Việt càng hay lắm nhưng làm giàu qua chức nghiệp dễ thành hơn làm giàu qua doanh thương.

Thiên Đồng Hóa Quyền mà gặp Tả Phụ Hữu Bật dễ được trợ lực từ bên ngoài. Thiên Đồng sợ thấy Đà La, hễ Đà La đứng bên, sự nghiệp cũng như nhân duyên bị khó khăn.

Thiên Đồng vào cung lục thân mà thấy cả Thiên Mã không thể hợp nhau dù là cha con hay anh em. Đến như vợ càng vô duyên. Thiên Đồng bản chất đã là canh cải vô thường rồi, nay Thiên Mã đến để khuấy động tình trạng canh cải vô thường ấy lên nữa.

Thiên Đồng Hóa Quyền bị Cự Môn Hóa Kị, bạn bè mới chơi thì thân sau thành thù, vợ chồng cho đến hết đời không yên dù lấy mấy bận, anh em sơ tán, con cái chia lìa.

Đồng Quyền Cự Kị vào cung Tật Ách dễ bị thần kinh, bệnh điên, gàn, dở hơi. Có Thiên Hình hay Không Kiếp mà không Cự Kị thì mang cái lo về thận bệnh.


Hóa quyền – Thiên Cơ

Thiên cơ bản chất phù động, giỏi biến hóa, có Hóa Quyền khả năng biến hóa càng linh hoạt. Thiên cơ cần Hóa quyền hơn Hóa Lộc. Đứng với Hóa Lộc dễ có tiền nhưng tiền tài cũng hay biến hóa nay ở mai đi.

Đứng với Hóa Quyền vẫn xoay sở ra tiền nhưng tiền bạc không bền bỉ. Thiên cơ là con người mưu lược, được Hóa Quyền, năng lực mưu lược tốt hơn, nếu có cả Văn Xương Hóa Khoa nữa thì mưu lược lên cao hẳn. Bởi vậy, khi Thiên Cơ đồng cung với Thiên Lương mà hội Xương Khoa Hóa Quyền chính là số của một chiến lược gia trên thực tế cũng như trên tư tưởng.

Cách Cự Cơ Đồng Lương mà Cơ cùng Hóa Quyền, Đồng có Hóa Lộc, rồi gặp Xương Khoa có thể làm cố vấn, hay trở thành nhân tài trong đám mạc liêu (Bộ tham mưu). Thiên Cơ Hóa Quyền kị gặp Linh Hỏa đứng cùng, bị Linh Hỏa kế hoạch như mất nền móng thành ra múa may thiếu thực chất.

Nhưng Thiên Cơ Hóa Quyền mà có Không Kiếp đắc địa lại như rồng gặp mây kế hoạch mưu lược thiên biến vạn hóa khiến người nể sợ.

Thiên Cơ Hóa Quyền đóng Tài bạch hay Quan lộc thường thấy mình kiêm chức kiêm nghề khác với lề lối kiêm chức của Phá Quân Hóa Lộc ở điểm Thiên Cơ nhàn nhã thong dong hơn Thiên Cơ Hóa Quyền mang đặc điểm giỏi đầu cơ nghĩa là bắt nhanh những cơ hộikho6ng những chỉ trên kinh tế thị trường mà còn trên chính trị ngoại giao.

Thiên Cơ bản chất tinh xảo nên nó hết sức nhạy ứng với những sao đứng chung, cát hay hung càng đậm nét. Thiên Cơ một mình bên Hóa Quyền gặp Không Kiếp đắc địa mới tốt, nếu có cả Hóa Khoa Hóa Lộc nữa thì Không Kiếp lại thành hung.

Cơ Lương đóng Phu Thê yêu nhau mà không kết hợp, nhưng có Hóa Quyền thì chuyện quyết ý lấy nhau phải thành, hoặc xa nhau rồi gương vỡ lại lành.

Thiên Cơ đóng Tử tức hãm địa khó thuận với con cái, nhưng có Hóa Quyền thì con cái lại thuận tòng. Thiên Cơ Hóa Quyền vào Phối cung gặp Tả Hữu thế nào cũng thành cuộc tình tay ba, có Đào Hoa nữa càng rõ rệt điều này.

Cự Cơ Hóa Quyền ở Phối cung, hôn nhân hôn nhân mỹ mãn nếu không bị sát kị. Thiên Cơ Hóa Kị thủ chiếu Tật ách, gan nóng, hoặc thần kinh suy nhược.

Hóa Quyền – Thiên Lương

Thiên Lương là sao thanh quý, cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Hóa Quyền đem cho Thiên Lương khả năng chỉ huy, quản trị. Nhưng Thiên Lương trên căn bản vẫn hài hòa với Hóa Khoa trên hết.

Thiên Lương Hóa Quyền mang một khuyết điểm: Dễ thành chủ quan đôi lúc ra cố chấp. Thiên Lương rất lợi nếu có Thái Dương đắc địa chiếu, Hóa Quyền nhờ thanh thế của Thái Dương mà mạnh hơn. Thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa, Quang Quý càng hay nữa.

Thiên Lương chủ danh không chủ lợi. Nhưng ở trường hợp Thiên Lương đóng Thiên di cùng với Hóa Quyền Hóa Lộc và Thiên Mã thì đi xa, đi ra nước ngoài lập nghiệp khả dĩ làm giàu. Bởi khi Thiên Lương đồng hành với Thiên Mã lại ra cách ly hương, ly hương mà có Quyền Lộc ắt được người nơi xa thưởng thức.

Thiên Lương Hóa Quyền làm việc thành công nhờ lòng thành tín không phải nhờ thủ đoạn mưu chước. Thiên Lương ngoài tính chất “Ấm” còn mang theo tính chất “Hình” bởi vậy nên vào lục thân đưa đến cô khắc nhất là lại có thêm Hóa Quyền. Thiên Lương mà mang tính chất “Hình” là căn cứ vào lý luận của Tử vi gia Trung Quốc đưa ra luận cứ của Nho gia bảo rằng: “Dĩ hình pháp ấm, trị bách tính” nghĩa là lấy hình pháp để răn đe và che chở trăm họ. Vậy cho nên “Ấm” (che chở) phải đi với “Hình”.

Thiên Lương vào thê cung người Trung Quốc cho rằng nếu vợ hơn hai ba tuổi thì tốt, có Hóa Quyền tuổi tác càng cách vời.

Thiên Lương đóng Tử tức mà gặp Linh Hỏa thường hay bị tiểu sản, có Hóa Quyền điều trên còn nặng hơn. Thiên Lương vào Tật ách đi với Hóa Quyền dễ mắc chứng tê thấp hay thần kinh thống không hiểm nguy nhưng kéo dài khó khỏi. Thiên Lương hay bị cảm mạo, nhưng Hóa Quyền lại chống lại cảm mạo bởi vậy không đau ốm vặt, nay sổ mũi mai nhức đầu bệnh vớ vẫn.

Hóa Quyền – Thái Âm

Thái Âm là tài tinh rất lợi cho công việc kế hoạch tài vụ, quản lý tài vụ được Hóa Quyền khả năng kể trên tăng gấp bội. Thái Âm Hóa Quyền không nhất thiết là người giàu có lớn, mà là người quản lý tài vụ, vận dụng tiền tài, tính toán thị trường.

Thái Âm Hóa Quyền nếu gặp Thiên Cơ Hóa Kị vất cả hơn hoặc không tự mình làm nhiều tiền chỉ tính toán tiền bạc cho người khác. Thái Âm Hóa Quyền được Hóa Khoa nhàn thân.

Thái Âm Hóa Quyền thủ mệnh theo các nhà tử vi Trung Quốc khi luận đoán cần phải phối hợp với cung Phúc Đức. Họ nêu lý do sau đây:

Thái Âm có Hóa Quyền cung Phúc mà thấy Cự Môn Hóa Kị, hoặc Thiên Cơ Hóa Kị những sao này ảnh hưởng đến toàn cục lá số khiến cho khi điều khiển tài vụ vì cố chấp thiên kiến không thực tế mà hỏng việc.

Thái Âm Hóa Quyền hội chiếu Thái dương Hóa Khoa do nổ lực mới lên địa vị khác khác với Thái Âm Hóa Khoa hội chiếu Thái Dương Hóa Quyền. Nhưng thiếu Hóa Lộc thì vẫn không thể giàu.

Thái Âm Hóa Quyền vào lục thân ảnh hưởng mạnh đối với thân thích thuộc nữ hơn nam. Nếu vào cung con mà thấy cả Không Kiếp Linh Hỏa sẽ bất thuận hoặc bị phiền lụy về con gái, vào cung Bào huynh Phụ mẫu cũng suy luận tương tự.

Thái Âm Hóa Quyền đóng thê đắc địa vợ giỏi và nắm quyền gia đình, nhưng hãm mà có Hỏa Linh Không Kiếp cuộc sống lứa đôi không trọn vẹn. Thái Âm Hóa Quyền đóng tật ách dễ bị chứng suy nhược, thần kinh quá mẫn mà ưa lo sợ vô cớ.

Hóa Quyền – Phá Quân

Đặc điểm của Phá Quân là sức mạnh khai sáng nhiều khả năng đột phá hiện trạng. Có Hóa Quyền sức mạnh và khả năng trên sung mãn hơn. Sự đột phá của Phá Quân thường do bị thúc bách của hoàn cảnh không thể không biến. Đứng với Hóa Quyền thì đột phá và khai sáng thành ra chủ động, đã thành công, đã yên ổn nhưng vẫn tiếp tục đi tìm những thành công mới. Bởi thế Phá Quân không thể nhàn.

Phá Quân đóng mệnh hay Quan lộc người xưa bảo hợp với nghiệp võ. Phá Quân Hóa Quyền đứng với Khôi Việt, Tả Hữu, Thiên hình, Thai Tọa, Quang Quý vinh thân qua võ nghiệp.

Thời nay Phá Quân cũng lợi vào chuyện theo đuổi công nghiệp, chỉ huy cơ xưởng. Phá Quân không chủ phú, nên có Hóa Quyền thì danh vẫn hơn lợi.

Phá Quân vốn ưa mạo hiểm, Phá Quân đi cùng Hóa Quyền và những hung sát tinh khác thường đắc lực với những công tác nguy hiểm. Tỉ dụ công tác “Lực lượng đặc biệt” chẳng hạn.

Phá Quân Hóa Quyền không gặp hung sát có thể hợp với chính trị. Phá Quân Hóa Quyền được Liêm Trinh Hóa Lộc lại có cả Tả Hữu thì hoạnh phát sớm chiều về mặt tiền bạc.

Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phúc đức bản chất con người mạo hiểm, thêm Không Kiếp nữa càng xông pha, không những trên hành động mà trên cả tư tưởng.

Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phối, lúc yêu thương hết sức đằm thắm tưởng như chẳng bao giờ rời, rồi đùng một cái đột biến phân ly, có Địa Kiếp càng mau rã gánh.

Phá Quân Hóa Quyền đóng cung con, khắc con, thêm Địa Kiếp con cái bất hiếu. Phá Quân Hóa Quyền đóng tật ách gặp Thiên Hình dễ bị giải phẩu do bạo bệnh.

Nguồn Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác động của Hóa Quyền với các chủ tinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd