Xem tướng biết trước tương lai họa phúc –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Cửa trước, hoặc cửa chính có vai trò rất quan trọng trong phong thủy. Đó là nơi đón luồng năng lượng từ vũ trụ vào nhà. Do đó, cửa trước càng mạnh mẽ, càng cân đối thì chất lượng nguồn năng lượng càng tốt cho những người sống trong nhà. Vậy thế nào là một cánh cửa trước tốt nhất cho phong thủy? Dưới đây là 5 tính chất bạn có thể tham khảo để giúp gia tăng sức mạnh cho ngôi nhà của bạn.
Mở dòng chảy cho năng lượng Một dòng chảy năng lượng tràn trề không bị cản trở sẽ đi qua cửa chính để vào nhà của bạn. Điều này có nghĩa là không được phép đặt thùng rác, chậu cũ đã nứt vỡ, những cái cây đã chết hoặc bất kỳ vật nào có thể ngăn cản dòng chảy năng lượng phong thủy.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
![]() |
=> ## cung cấp công cụ Xem tử vi chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Chúng ta vẫn thường nói về chiêm tinh học Phương Tây và chiêm tinh học Phương Đông với cách tính theo 12 cung hoàng đạo hay 12 con giáp. Thế nhưng, Myanmar – một quốc gia nhỏ bé ở châu Á, cũng sở hữu nền chiêm tinh học của riêng mình.
Các cung này tương ứng với 7 ngày trong tuần, trong đó ngày thứ tư là ngày đặc biệt khi nó chứa đựng đồng thời cả 2 cung. Bạn hãy nhanh chóng kiểm tra lịch xem mình được sinh ra vào ngày thứ mấy trong tuần, và thuộc cung hoàng đạo nào của người Miến Điện cổ nhé!
Thứ hai – Hổ
Bạn có trực giác mạnh mẽ, đó chính là chiếc “kim chỉ nam” giúp bạn có những hướng đi đúng đắn trong cuộc đời. Không cần sự tác động từ người khác, bạn luôn tự đặt ra những mục tiêu cho mình và làm việc chăm chỉ để đạt được thành công. Bạn ghét những ai cố tình cản trở bạn trên con đường đã chọn và sẽ nỗ lực cho tới khi họ bị “hất văng” khỏi đường bạn đi thì thôi. Bạn sống thực tế và sòng phẳng, “chơi đúng luật” trong mọi vấn đề và mong muốn người khác cũng làm như vậy. Trong trường hợp họ “giở trò”, đừng mong nhận được sự khoan dung nào từ bạn. Nếu có, sự khoan dung ấy cũng rất nhỏ và hiếm hoi.
Thứ ba – Sư tử
vansu.net thấy bạn sở hữu năng khiếu lãnh đạo bẩm sinh và phong cách sống rất khác người. Bạn mong muốn mọi thứ liên quan tới cuộc sống của mình đều phải chuẩn mực và hoàn hảo tối đa, bởi bạn là người cầu toàn và khó tính. Bạn luôn tin vào danh dự, sự dũng cảm và quyết đoán của bản thân. Mạnh mẽ và kiên quyết là tốt, nhưng đôi khi bạn thể hiện chúng thái quá và tự mình đánh mất cơ hội tốt hơn. Gia đình chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim bạn và bạn sẵn sàng làm tất cả, kể cả hy sinh bản thân để những người mình yêu thương được hạnh phúc.
Thứ tư (từ 0h sáng – 12h trưa) – Voi có ngà
Ưu điểm nổi bật nhất của bạn là sự độc lập và tinh thần cầu tiến. Một khi đã lên kế hoạch cho bản thân, bạn sẽ hoàn toàn tập trung vào mục tiêu. Dù tâm trạng có hay thay đổi thất thường, bạn lúc nào cũng giữ thái độ tích cực và suy nghĩ cởi mở trong mọi vấn đề. Bạn có nhiều đam mê cũng như sở thích và khi hứng thú với điều gì, bạn sẽ lao vào thực hiện nó ngay mà không cần suy nghĩ. Điều đó có thể gây rắc rối cho bạn đấy. Dù vậy, nhờ tinh thần lạc quan, bạn luôn tìm được nhiều niềm vui trong cuộc sống.
Thứ tư (từ 12:01 trưa cho tới trước 12h đêm) – Voi không ngà
Bạn thích ở một mình chứ không thích hòa chung vào đám đông sôi động. Khi gặp khó khăn, bạn cũng không thích chia sẻ cùng ai mà muốn tự lực cánh sinh giải quyết mọi vấn đề. Với tính cách trầm lặng và lạnh lùng, bạn muốn cuộc sống là của riêng mình và không thích sự can thiệp của người khác. Đây cũng là nguyên nhân chính gây nên những khó khăn, khúc mắc trên con đường hiện thực hóa mục tiêu trong cuộc sống của bạn. Bạn cực kỳ bản lĩnh và có năng lực, nhưng nếu có thể hòa mình và chịu khó lắng nghe ý kiến của người khác thì khả năng thành công của bạn còn cao hơn.
Thứ năm – Chuột đồng
Bạn thú vị, hài hước và luôn có cái nhìn lạc quan về cuộc sống. Đặc biệt, bạn có khả năng ứng biến và xoay sở linh hoạt trong mọi tình huống, bởi thế tinh thần của bạn lúc nào cũng cân bằng và sáng suốt. Bạn sống thực tế, phân biệt rõ những gì mình cần và những gì mình muốn nên cuộc sống thoải mái mà không cần phải cố gắng nhiều. Một ưu điểm nổi trội khác của bạn là trực giác tốt. Trực giác này không chỉ giúp bạn gặp nhiều may mắn trong cuộc sống mà còn giúp mọi người tránh khỏi những điều tiêu cực. Bởi thế, bạn thường được nhiều người yêu mến và tin cậy.
Thứ sáu – Chuột lang
## thấy bạn thuộc tuýp người quảng giao, rất dễ làm quen và kết bạn. Bạn nhạy cảm, hay mơ mộng và rất thu hút, đặc biệt là đối với những người khác giới. Nhờ có óc sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú, bạn rất có duyên và có tiềm năng với các hoạt động nghệ thuật. Bạn yêu thích và đam mê nhiều thứ, hay mất tập trung nhưng không hề cả thèm chóng chán. Với ý chí mạnh mẽ, một khi đã bắt đầu thực hiện điều gì, bạn sẽ theo đuổi mục tiêu tới cùng, dù gặp phải khó khăn tới mức nào đi chăng nữa. “Chán nản” hay “bỏ cuộc” là hai từ hoàn toàn không tồn tại trong từ điển sống của bạn.
Thứ bảy – Rồng
Bạn là một “chú ong chăm chỉ”, luôn cần mẫn và thích làm việc một mình vì không thích bị người khác can thiệp, gây mất tập trung hoặc làm nao núng tinh thần của bản thân. Bạn cũng rất tự tin, luôn cho rằng mình có thể làm được mọi thứ mà không cần ai giúp đỡ. Ngoại trừ công việc, trong các vấn đề khác, bạn thoải mái, phóng khoáng và không có nhiều ý kiến. Bạn cũng rất tâm lý, tinh ý và nắm bắt tâm lý người khác rất chuẩn. Nhờ thế mạnh này mà khi chủ động “cầm cưa” ai đó, bạn không gặp quá nhiều khó khăn.
Chủ Nhật – Đại bàng cánh vàng (Kim Sí Điểu)
Đại bàng cánh vàng hay còn gọi là Kim Sí Điểu chính là loài chim thần Garuda thường xuất hiện trong truyền thuyết và được tôn thờ tại nhiều quốc gia, nhiều nền văn minh cũng như nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới. Dưới sự bảo hộ của đại bàng Garuda, bạn được sinh ra như để trở thành nguồn động lực và cảm hứng vô tận đối với mọi người xung quanh. Cuộc sống của bạn có rất nhiều biến cố và thử thách, nhưng với cá tính mạnh mẽ, bạn sẽ không bao giờ lùi bước. Khó khăn càng lớn, ý chí và sự bền bỉ của bạn càng được tôi luyện và dạn dày theo năm tháng. Nhờ thế, khi tuổi càng cao, bạn sẽ càng gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống.
![]() |
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Có thể bạn không biết nhưng có hẳn một môn khoa học đằng sau việc chúng ta ăn kem, hay cà rem - một trong những món được yêu thích nhất mọi thời đại, bất kể tuổi tác. Và từ môn khoa học đó, người ta đã phát hiện ra rằng cách chúng ta ăn kem có liên hệ trực tiếp tới tính cách.
Hãy xem bạn thuộc kiểu nào dưới đây, và chuẩn bị bất ngờ nhé:
(Ảnh: Internet)
Người ăn kem không cần khăn
Bạn biết họ, bạn đã thấy họ, bạn cũng có thể là một trong số họ - người hoàn toàn không muốn có gì ngăn giữa mình với que kem yêu thích, cũng không thèm quan tâm đến việc có bị dây bẩn hay không, tất cả mọi việc khác ngoài ăn kem đều để tính sau!
Người ăn kem không cần khăn, trong cuộc sống cũng vậy, sẽ không để bất cứ ai hay bất cứ thứ gì ngăn cản mình đạt được điều mà mình muốn. Họ thường là những người có tâm hồn tự do, trẻ trung, không để những “chuẩn mực bình thường” cản trở mình tận hưởng cuộc sống cũng như thể hiện bản thân. Tuy vậy, cũng giống như khi ăn kem không cần khăn có thể bị dây bẩn, vấn đề của những người không cần khăn là tính bốc đồng, họ rất dễ đưa ra những quyết định khinh suất.
Người ăn kem trong cốc
Người ăn kem trong cốc thường được coi như người mẹ của nhóm, do có trách nhiệm đầy mình, cẩn thận, tỉ mỉ, có trật tự, và thường tận hưởng kem đến muỗng cuối cùng. Không chỉ thế, đây cũng thường là người đa nhiệm, cần rảnh tay để làm thêm những việc khác.
Bạn sẽ không bao giờ thấy người ăn kem trong cốc dây bẩn ra ngoài, ra tay hay ra bàn. Trong cuộc sống cũng vậy, cuộc sống của họ khá gọn gàng, trước sau đều cẩn thận nên ít khổ não về những điều lộn xộn chính mình gây ra, do đó có thể tận hưởng một cách thanh thản, thoải mái. Tuy vậy, điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ giảm bớt được việc quá bận tâm vào các quy chuẩn và thể diện của mình.
(Ảnh: Internet)
Người ăn kem kiểu liếm trên chặn dưới
Nhóm này khá đông: họ nhanh chóng chọn 1-2 vị kem yêu thích, sau đó liếm lên, liếm xuống, thỉnh thoảng liếm chặn cuối que kem để đảm bảo không bỏ sót một giọt chảy ra.
Đây thường là những người thoải mái, lạc quan, thích vui vẻ, sẽ cố gắng để giữ mọi thứ sạch sẽ, gọn gàng nhưng không quá ám ảnh với việc đó. Tuy vậy, có một vấn đề là họ không dễ bứt khỏi vùng an toàn của mình, thường chỉ đi theo những thói quen vốn có, không sẵn sàng đón nhận thêm hương vị mới vào que kem, và nói chung cả cuộc sống của mình.
Người ăn kem vòng quanh
Xem những người này ăn kem là một trải nghiệm khá vui. Vì sao? Họ thích thì họ ăn thôi, có thể cắn vòng quanh không lường trước được, nên chỉ việc ăn kem thôi cũng không khác nào là trải nghiệm toàn cơ thể - nghiêng đầu, vặn cổ tay, nghiêng vai và cả vô thức bước về trước.
Như cái tên mô tả, người kiểu này di chuyển toàn bộ cơ thể của mình để ăn kem - có thể để được nhiều nhất, hoặc để ăn được phần mình muốn trước, hoặc bất cứ mục đích gì khác. Trong cuộc sống, những người này cũng rất năng động và sôi nổi, họ không yên tay yên chân, năng động, do đó có nhiều khá năng đạt được điều mình muốn. Tuy vậy, có một vấn đề bạn, nếu bạn ăn kem theo cách này, cần quan tâm hơn là dáng vẻ của bạn khi ăn, hay nói rộng hơn là cách thể hiện của bạn khi hướng đến mục tiêu của mình.
Người ăn kem bằng cách cắn, chứ không liếm
Nhóm này, tuy hiếm nhất và bí ẩn nhất, nhưng họ có tồn tại. Bằng cách nào đó, những người này được sinh ra với men răng không thể bị tấn công. Họ có thể cắn ngay vào que kem lạnh mà không hề nao núng, lo sợ bị buốt răng, cũng chẳng sợ gì nguy cơ có thể bị đông não sau đó.
Đây cũng là kiểu người mà bạn muốn có bên mình, nhất là khi có xung đột. Họ không sợ hãi và không ngại đối đầu - đặc điểm tính cách này khiến khó ai hoặc việc gì có thể kiềm chân được họ, tuy rằng đôi khi nó trở nên quá khích, hung hăng không cần thiết.
Bạn đã thấy mình ở nhóm nào kể trên chưa? Và sẵn sàng thưởng cho mình một cây kem cho đã cơn thèm chưa nào?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Kính lạy chư vị Bồ Tát đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Phật Từ Di mẫu, Kiều Ðàm Di đại Bồ Tát.
Kính lạy Thầy Cưu Ma La Thập dịch kinh này.
1. Zeus và Hera
Thần Zeus có hàng chục người con với 12 vị thần, chưa kể là rất nhiều người phàm, tiên nữ khác. Trong đó, người vợ quyền lực nhất phải kể tới nữ thần Hera, cũng là chị của thần Zeus.
Sau khi được giải cứu khỏi tên vua cha bạo chúa, Hera sống xa kinh thành Olympus một thời gian dài, cho đến khi Zeus vĩ đại tình cờ nhìn thấy nàng trong chuyến du hành của mình. Ban đầu, Hera không chấp nhận Zeus làm chồng vì dù sao đây cũng là em trai nàng. Hơn thế nữa, Hera đã chứng kiến Zeus nuốt vợ cả của mình là Metis Titaness nên nàng đã từ chối Zeus trong 300 năm.
Khi hết thời hạn 300 năm dài đằng đẵng ấy, Zeus trở lại và tạo nên một trận bão rất lớn. Thần tự biến mình thành một chú chim nhỏ, bay lạc vào cửa sổ căn phòng của Hera. Hera thấy chú chim đáng thương liền ôm vào ngực vỗ về. Zeus ngay lập tức trở về hình dạng chính mình và quyết liệt tán tỉnh Hera. Chỉ đến lúc này, Hera mới đồng ý làm vợ thần Zeus.
Các vị thần đã tổ chức cho họ một đám cưới linh đình. Nữ thần Cầu Vồng Iris cùng các Nữ thần Duyên Dáng mặc cho Hera bộ váy áo đẹp nhất, làm cho nàng đẹp lộng lẫy và rạng rỡ hẳn lên giữa các thần linh trên núi Olympus.
Zeus và Hera xung quanh các con trên đỉnh Olympus.
Hera và Zeus có 4 người con là Ares (thần Chiến tranh), Hebe, Eris, Eileithyia (thần Kỹ nghệ). Theo truyền thuyết, Hera là một bà vợ rất nóng tính và hay ghen. Khi Zeus đem lòng yêu thần sông Nin (Ios), sợ bị Hera phát hiện nên Zeus đã biến Ios thành một con bò trắng. Hera thấy vậy nên đã mang con bò trắng về, nhờ người khổng lồ Argos với các con mắt dày đặc trên người canh giữ ngày đêm.
Ngoài ra, vì không ưa Hercules, là con trai của Zeus với một người phàm trần, nên Hera cũng đã gây ra rất nhiều bi kịch cho cuộc đời Hercules.
Máu ghen của nữ thần Hera "kinh khủng" đến nỗi thần Zeus cũng phải sợ.
Hera là Nữ thần Hôn nhân, bảo trợ cho sự bền vững và thánh thiện của cuộc sống gia đình. Cũng như chồng, Hera toàn quyền thống trị như một vị Nữ hoàng trên đỉnh Olympus.
2. Bi kịch anh hùng Hercules và công chúa Deianeira
Hercules là con của thần Zeus với một phụ nữ phàm trần tên là Alcmena. Vì là một á thần (một nửa là thần tiên, một nửa là người phàm trần) nên Hercules có sức khỏe phi thường. Nhưng cũng chính từ đây mà chuỗi bi kịch gia đình của chàng bắt đầu.
Người vợ đầu tiên của Hercules là công chúa Megara (con gái vua Creon, chúa thành Thebes). Họ có với nhau ba cậu con trai kháu khỉnh. Những tưởng hạnh phúc đã đến thì trên đỉnh Olympus, Hera nguyền cho Hercules hóa điên, khiến chàng ra tay giết chết vợ và con của mình.
Hercules anh hùng là thế nhưng vẫn không tránh được bi kịch gia đình.
Để rửa sạch tội lỗi, Hercules đã phải thực hiện 12 nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Trải qua nhiều gian truân, Hercules trở về quê hương rồi đến Calidon cầu hôn công chúa Deianeira (Deana). Với tiếng tăm anh hùng của mình, chàng đã nhận được lời đồng ý của công chúa và nhà vua.
Trong một ngày đẹp trời, Hercules dắt vợ đến thành Tyrins chơi. Họ đến một khúc sông chảy xiết. Từ đây, mâu thuẫn bắt đầu được nhen nhóm. Khi Nesxus (tên Nhân mã làm nghề chở người qua khúc sông này) nảy sinh lòng tham, định bắt cóc nàng Daena, hắn đã bị Hercules hạ gục ngay tức khắc. Tuy nhiên, trong lúc hấp hối, Nesxus đã kịp hứng lấy một ít máu của mình, trao cho Daena và nói rằng đây là phương thuốc giúp nàng công chúa giữ chồng.
Tranh miêu tả nhân mã Nesxus cướp nàng Daena khỏi tay Hercules.
Ít lâu sau, trong cuộc chinh phạt xứ Okhali, Hercules bắt sống được công chúa Ioler, người con gái sắc nước hương trời. Sợ chồng bị Ioler mê hoặc, Deana đã nhỏ những giọt máu xưa kia vào bộ lễ phục của Hercules.
Ngay khi khoác áo vào người, Hercules bỗng cảm thấy toàn thân mình nóng như lửa đốt. Máu long xà Hydra hòa với máu Nhân mã đã tạo thành một chất độc khủng khiếp. Biết mình không qua khỏi, Hercules đã lập giàn thiêu cho mình. Về phía Deianeira, do quá tủi nhục nên đã vào phòng riêng thắt cổ.
Khi Hercules lên giàn thiêu, chàng được cha mình là Zeus cứu sống. Sau đó, chàng đã sống hạnh phúc với người vợ thứ 3 của mình là Hebes (con gái Zeus và Hera) trên đỉnh Olympus.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tiên minh cách cuộc
Thứ khán ác tinh
Yêu tri nhất thế chi vinh khô
Định khán ngũ hành chi cung vị
Đệ nhất thị khán thân mạng
Tài tam tế khảo thiên di
Phân đối cung chi thể dụng
ĐỊnh tam hợp chi nguyên lưu
Mạng vô chính diệu yểu chiết cô bần
Cát hữu hung tinh mỹ ngọc hà điếm
Ký đắc căn cơ kiên cố
Tu tri hợp cuộc tương sinh
Kiên cố tắc phú quý diên thọ
Tương sinh tắc tài quan chiêu trước
Mệnh hảo thân hảo hạn hảo đáo lão vinh xương
Mệnh suy thân suy hạn suy, chung thân khất cái
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
Giáp Kình giáp Đà vi khất cái
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
Liêm Trinh hãm, hà tiện cô hàn
Thái Âm vượng, nhất sinh khoái lạc
Tiền bần hậu phú Vũ Tham đồng thân mạng chi cung
Tiền phú hậu bần chỉ vị vận hạn phùng Kiếp Sát
Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ tài quan chi vị
Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài Phúc chi hương
Văn Khúc Văn Xương vi nhân đa học đa năng
Tả Phụ Hữu Bật bình tính khắc khoan khắc hậu
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần
Vi sĩ vi quan, định chủ hanh thông chi triệu
Miêu nhi bất tú, Khoa danh hãm ở hung thần
Phát bất chủ tài, Lộc chủ triền ư nhược địa (Tý Ngọ Thân Dậu là nhược địa của Hoá Lộc)
Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh xương
Tử Phủ đồng cung, chung thân phúc hậu
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu, vị chí công khanh
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim ý tử
Khoa Quyền Lộc củng, danh dự chiêu chương
Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá
Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung
Bính Tân nhân ngộ phúc hưng long
Cự Cơ đồng cung, công khanh chi vị
Tham Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ
Tham Lang Hoả tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại
Tử Phủ triều viên, thực lộc vạn chung
Khoa Quyền đối củng, dược tam cấp ư Vũ Môn (cá hoá rồng)
Nhật Nguyệt tịch minh, tá cửu trùng kim điện
Phủ Tứơng đồng lai hội mạng cung, toàn gia thực lộc
Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ổn bộ thiềm cung
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí
Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mạng trung phùng
Tam phương vô cát phước nan hưng
Nhược hoàn cát hoá phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng
Thiên Lương Thiêm Mã hãm, phiêu đãng vô nghi
Liêm Trinh, sát bất gia, uy danh viễn bá
NHật chiếu Lôi môn, phú quý vinh hoa
Nguyệt lãng Thiên môn tiến tước phong hầu
Dần phùng Phủ Tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quý
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển
Khúc ngộ Lương tinh vị chí đài cương
Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập tướng
Văn tinh ám củng, Giả Nghị doãn hỷ đăng khoa
Kình Dương Hoả Tinh, uy quyền xuất chúng
Đồng hành Tham Vũ uy áp biên di
Lý Quảng nan phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ
Nhan Hồi yểu chiết, Văn Xương hãm ư Thiên Thương
Tử Vũ tài năng, Cự tú, Đồng Lương xung thả hợp
Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cụ Môn
Lộc đảo Mã đảo, kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không
Vận suy hạn suy hỷ Tử Vi chi giải hung ác
Cô bần đa hữu thọ
Phú quý uc yểu vong
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu truy lâu chi ách
Quan Phù Thái Tuế, Công Dã hữu luy tiết chi ưu
Hạn chí Thiên La Địa Võng, Khuất Nguyên nịch thủy chi vong
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không, Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm chỉ táng mạng yểu niên
Mạng Không, hạn Không vô cát tấu, công danh tắng đắng
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết xứ
Mạng trung ngộ Kiếp cáp như lãng lý hành thuyền
Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên Không nhi táng quốc
Thạch Sùng cự phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia
Lữ Hậu chuyên quyền, lưỡng phùng Thiên Lộc, Thiên Mã
Dương Phi hảo sắc, tam hợp Văn Khúc Văn Xương
Thiên Lương ngộ Mã, nữ mạng tiện nhi thả dâm
Văn Khúc giáp Trì, nam mạng quý nhi thả hiền
Cực cư Mão Dậu, đa vi thoát tục chi tăng
Trinh cư Mão Dậu, định thị công tư tại bối
Tả Phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng
Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai
Đặng Thông ngã tử, vận hành Đại Háo (Hao) chi hương
Phu Tử tuyệt lương hán đáo Thiên Thương chi nội
Linh Xương La Vũ, hạn chí đầu hà
Cự Hoả Kình Dương, chung thân ải tử
Mạng lý phùng Không, bất phiêu lưu tất chủ tất khổ
Mã đầu đới kiếm, phi yểu chiết tắc chủ hình thương
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc
Xương Tham cư mạng, phấn cốt thoái chi
Triều đẩu ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa
Đan Trì Quế TRì tảo loại thanh vân chi chí
Hợp Lộc củng Lộc đôi kim ngọc
Tước lộc cao thiên ý cẩm bào
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa
Phụ Bật ngộ tài quan, y phi trước tử
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tính
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh
Vũ Khúc nhân cung đa xảo nghệ
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân
Khôi tinh lâm mạng, vị liệt tam thai
Vũ Khúc cư Càn, Tuất Hợi thượng
Tối pha Thái Âm phùng Tham Lang
Hoá Lộc hoàn vị hảo
Hưu tướng mộ trung tàng
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc
Minh Lộc Ám Lộc cẩm thượng thêu hoa
Toạ thủ là minh nhị hợp là ám
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân
Phú nhi bất thật hữu hư danh
Xương Khúc Phá Quân phùng
Hình khắc đa lao lục
Tham Vũ mộ trung cư
Tam Thập tài phát phúc
(Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân
Vận quá tam thập phương diên thọ)
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối
Đinh nhân hoá cát chủ đại quý
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa
Tân nhân hoá cát lộc tranh vanh
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, nãi vị thất huy
Thân Mạng định yếu tinh cầu, khủng sai phân số
Âm chất diên niên tăng bách phúc
Chí ư hãm địa bất tao thương
Mạng thật, hạn kiên, cảo điền đắc vũ
Mạng suy, hạn nhược, nộn thảo tao sương
Luận mạng tất suy tính thiện ác
Cự Phá Kình Dương tính tất cương
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo
Hoả Kiếp Không Tham tính bất thường
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp, khúc toàn cố quý
Dương Đà Thất Sát tương tạp, hỗ kiến tắc thượng
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung
Hoả Tinh Linh tinh chuyên tác hoạ
Kiếp Không Thương Sứ hoạ trùng trùng
Cự Môn Kỵ tinh giai bất cát
Vận thân, mạng, hạn kỵ tương phùng
Cánh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ
Quản giao tai bệnh nhi tương công
Thất Sát thủ thân chung thị yểu
Tham Lang nhập mạng tất vi xương
Tâm hảo Mệnh vi diệc chủ thọ
Tâm độc mạng hậu diệc yểu vương
Kim nhân mạng hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu trường
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.
khác gọi là dương trạch. Phong thuỷ ảnh hưởng đến môi trường nơi ở chủ yếu biểu hiện trên 3 mặt sau: Thứ nhất là chọn đất cho nhà, tức là nhu cầu một điều kiện địa hình có thể thoả mãn về sinh lý và tâm lý; thứ hai là việc xử lý hình thái sắp xếp nơi ở, bao gồm các nhân tố: lợi dụng và cải tạo môi trường tự nhiên, hướng, vị trí, kích thước, độ cao thấp, cửa cổng, đường đi, cấp nước, thoát nước v.v… thứ ba là trên cơ sở thêm vào một phù hiệu gì đó để thoả mãn nhu cầu về tâm lý tránh hung gặp cát.
Cốt lõi của phong thuỷ còn là khảo sát thăm dò chọn đất xây dựng nhà, tức là khảo sát về mối quan hệ hài hoà giữa hướng, bố cục với tự nhiên, mệnh vận của con người. Nó đưa mệnh đề triết học của người Trung Quốc xưa “Trời đất và con người hợp thành một” vào với các kiến trúc, sức chú ý của nó không đặt hạn chế ở một môi trường nào đó, mà là chú ý đến sự cảm ứng của con người đối với môi trường, và hướng dẫn cho con người tiếp nhận những cảm ứng này như thế nào để giải quyết từ việc chọn địa điểm đến việc xây dựng nhà. Ở đây, việc chọn vị trí, san lấp mặt bằng và bố trí không gian, phải tuân theo một “bản vẽ” và “trật tự” nào đó – trật tự của “trời”, trật tự của “đất”, trật tự của “cơ thể con người”. Như vậy con người mới có thể hoà cùng với nhà ở và toàn bộ môi trường tự nhiên làm một, từ đó có được sự cân bằng về tâm lý. Điều gọi là “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà” là cũng từ nó mà kiến trúc có được một sức sống mạnh mẽ.
Có học giả cho biết, hạt nhân của thuật phong thủy thể hiện tinh hoa lý luận kiến trúc cổ đại Trung Quốc. Thuật phong thuỷ trên thực tế là lý luận thiết kế quy hoạch kiến trúc cổ đại có tính tổng hợp và thống nhất rất mạnh các nhân tố bao gồm địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, mỹ học.
Thuật phong thuỷ cũng như những thuật toán khác đều có cội nguồn từ xa xưa, trải qua những năm tháng dài lâu dần dần hình thành nên hai loại lớn đó là lý pháp và hình pháp. Mà trong hai loại pháp này mỗi loại đều có nguồn gốc của nó. Giữa chúng khó có thể tách rời mà luôn có những liên hệ cơ địa, bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
Hàng ngàn năm nay, thuật phong thuỷ đã được truyền bá rộng khắp nơi mà không hề suy, vẫn luôn giữ được sức sống mạnh mẽ. Được như vậy bởi nó có thể cho chúng ta biết được trời đất con người luôn hoà làm một, con người sống trong trời đất phải làm thế nào để chọn được môi trường sống tốt nhất. Một kiến trúc đẹp nhất là kiến trúc mà mọi vấn đề nhà ở, sinh hoạt, công tác, học tập của con người đều vì trời, vì đất và vì con người, làm cho người ta luôn gặp được chuyện tốt lành tránh được điều xấu ác, tạo điều kiện cho thế hệ sau có môi trường sống, làm việc, học tập giao tiếp tốt hơn.
Trong bảng “Ngũ Hành hiệp hôn” sau đây tính độ cát hung cho các cung mệnh Ngũ Hành nam nữ khi cưới vợ lấy chồng. Để biết sự Sinh Khắc của Ngũ Hành, xin xem bài “Ngũ Hành và Ngũ mệnh đặc quái”.
Ngoài những cách sinh khắc nói trong biện chứng, Ngũ hành còn có thuyết tuy cùng một hành nhưng có sinh (tương hợp) có khắc (xung, hình, khắc), tuổi nào hợp nhau và cân được hành nào hô trợ để có cách hợp, hay hóa giải cách khắc, như sau :
Tương Sinh
- LƯỠNG KIM thành khí (hợp thành vật dụng)
- LƯỠNG THỔ thành sơn (hợp lại thành núi)
- LƯỠNG MỘC thành lâm (hợp lại thành rừng cây)
- LƯỠNG HỎA thành viên (hợp thành sức nóng)
- LƯỠNG THỦY thành xuyên (hợp lại thành sông)
Tương Khắc
- Lưỡng KIM khuyết (bể mất một)
- Lưỡng MỘC chiết (gảy mất một)
- Lưỡng THỦY kiệt (khô cạn hết)
- Lưỡng HỎA diệt (tắt tất cả)
- Lưỡng THỔ liệt (nhảo nát không dùng được)
Nên khi xét biện chứng của ngũ hành, chúng ta nên xét đến yếu tố nạp âm, vì khắc chưa phải đã hung, còn sinh chưa hẳn đã tốt.
Khi luận các cách sinh khắc trên, người xưa đã lây biện chứng đê giải thích :
Nói về HÀNH KIM :
Muốn lưỡng Kim thành khí, mệnh phải thuộc Hải Trung Kim, Sa Trung Kim hoặc Bạch Lạp Kim tức kim loại chưa tinh chế, phải nhờ có Hỏa mới thành khí, nhưng phải là Lư Trung Hỏa hay Phù Đăng Hỏa mới thích hợp.
Những Hỏa khác khắc kỵ với Kim (Hỏa khắc Kim). Như Thoa Xuyến Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạch Kim gặp Thiên Thượng Hỏa, Tích Lịch Hỏa trở thành Kim khuyết, ví như kim loại mà gặp lửa sẽ bị nóng chảy hay sứt mẻ.
Nói về HÀNH MỘC :
Khi muốn lưỡng Mộc thành lâm, tức phải có nhiều cây chụm lại mới thành rừng, gồm những cây như Tùng Bá Mộc, Dương Liễu Mộc hay Bình Địa Mộc, nhưng phải nhờ Đại Trạch Thổ, Sa Trung Thổ hay Lộ Bàng Thổ thuộc những vùng đất lớn, nên Tùng Bá và Dương Liễu Mộc không khắc Thổ, trái lại phải nhờ Thổ. Còn Đại Lâm Mộc khắc với ba hành Thổ trên (khắc xuất), nhưng gặp Kim sẽ thành Mộc chiết (khắc nhập).
Nói về HÀNH THỦY :
Khi lưỡng Thủy thành xuyên phải là Tuyền Trung Thủy phối hợp với Đại Khê Thủy hay Giang Hà Thủy phối hợp với Trường Lưu Thủy, hoặc cả hai phối hợp với Đại Hải Thủy mới thành sông to, biển lớn. Những hành Thủy này tạo dựng thành công bằng chính bản thân không nhờ ai (như Kim, Mộc), chỉ có Thiên Hà Thủy không phối hợp được với bất cứ mệnh Thủy nào khác.
Thổ chỉ khắc được Thủy làm Thủy kiệt, với các hành như Tuyền Trung Thủy, Đại Khê Thủy, Trường Lưu Thủy, đất bồi làm mất dòng chảy của nước; nhưng không chế ngự được với Giang Hà Thủy, Đại Hải Thủy những sông to biển lớn hay Thiên Hà Thủy nước trên trời.
Nói về HÀNH HỎA :
Để được lưỡng Hỏa thành viên phải có Lư Trung Hỏa phối hợp với Phù Đăng Hỏa, hay Sơn Đầu Hỏa với Sơn Hạ Hỏa, hoặc Tích Lịch Hỏa với Thiên Thượng Hỏa. Về 4 mệnh Hỏa đầu cần có thêm Mộc để đạt đến mục đích lửa to cháy lớn, được sinh nhập (Mộc sinh Hỏa), còn hai hành Hỏa từ trên trời không cần đến Mộc vẫn phát huy được tính cách lưỡng Hỏa thành viên của mình.
Còn Hỏa diệt khi Lư Trung, Phù Đăng, Sơn Đầu, Sơn Hạ Hỏa gặp phải nước (Thủy khắc Hỏa) là khắc nhập. Riêng Tích Lịch Hỏa, Thiên Thượng Hỏa chỉ khắc Thiên Hà Thủy.
Nói về HÀNH THỔ :
Muốn lưỡng Thổ thành sơn, chỉ có Lộ Bàng Thổ, Sa Trung Thổ hay Đại Trạch Thổ phối hợp nhau không cần sự tiếp tay của những hành khác, 3 mệnh Thổ còn lại không thể thành núi vì những Thổ này rời rạc và nhỏ bé, muốn thành núi phải nhờ đến Hỏa tiếp tay diệt Mộc, tức lửa đốt cháy cây để thành đất. 3 mệnh Lộ Bàng, Sa Trung, Đại Trạch Thổ nếu có Hỏa sẽ thêm tốt, công danh sự nghiệp sẽ phất càng cao thêm.
Tính đến Thổ liêt cả lục Thổ đều kỵ Mộc, tức khắc nhập (Mộc khắc Thổ), cây có thể mọc khắp nơi trên mọi loại đất, từ đất nóc nhà, đất bờ tường, đầu thành hay đất đầm lầy, bãi cát, đường lộ; ngoài Mộc nhiêu mệnh Thổ còn đại kỵ khi gặp phải các hành Thủy sau đây, dù là khắc xuất nhưng từ thứ hung sang đại hung :
- Lộ Bàng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp Giang Hà Thủy và Trường Lưu Thủy, sẽ làm cho đất lỡ lún.
- Sa Trung Thổ gặp Đại Khê Thủy hay Tuyền Trung Thủy làm cho sói mòn.
- Thành Đầu Thổ, Bích Thượng Thổ và Ốc Thượng Thổ rất sợ Thiên Hà Thủy làm cho đất nhão nhoẹt đến hủy diệt.
Biện pháp hóa giải xung khắc:
Để thành công qua các cách trên, như lưỡng Kim thành khí phải nhờ có Hỏa, lưỡng Mộc thành lâm phải có Thổ, lưỡng Hỏa thành viên phải có Mộc và lưỡng Thổ thành sơn phải có Hỏa, còn lưỡng Thủy thành xuyên không cần mệnh nào gián tiếp hỗ trợ.
Những hành gián tiếp hỗ trợ được hiểu theo nghĩa đen như sau: trong công việc kinh doanh hai người cùng hợp tác, nếu cùng một mệnh cần thêm người thứ ba phục vụ, hành Kim tìm người mệnh Hỏa, hành Mộc tìm người mệnh Thổ, hành Hỏa tìm người mệnh Mộc, hành Thổ tìm người mệnh Hỏa. Trong đó nên tránh những mệnh tương khắc.
Còn trong hôn sự, cổ nhân thường có câu “nhất gái lớn hai, nhì trai hơn một” qua những điển hình sau.
Thí dụ : trai Kỷ Sửu lấy gái Canh Dần (trai hơn một), hay gái Canh Dần lấy trai Nhâm Thìn (gái lớn hai) sẽ hợp tốt theo câu phú trên.
Tính về sinh khắc: trai Kỷ Sửu mang hành Hỏa (Tích Lịch Hỏa) lấy gái Canh Dần (Tùng Bá Mộc) là Mộc sinh Hỏa, ở cách này người con gái sẽ trở thành nô lệ hơn là vợ chồng hạnh phúc, do gặp cảnh chồng chúa vợ tôi. Hậu quả về sau gia đạo thường bất hòa, trước tốt sau hung.
Còn gái Canh Dần lấy trai Nhâm Thìn (Trường Lưu Thủy) là Thủy sinh Mộc, tức người chồng sẽ lo cho vợ con, gia đình hòa thuận, cùng nhau “tát bể đông cũng cạn”, sẽ mang đến giàu sang phú quý. Bởi lẽ thường người vợ lớn tuổi hơn chồng trước sẽ biết tự lo cho bản thân, sau lo cho chồng con, không thụ động theo cảnh thường thấy ở những đôi vợ chồng. Còn người chồng tuy nhỏ tuổi nhưng lại là gia trưởng cũng biết lo lắng cho gia đình. Cả hai cùng bươn trải xây dựng cơ ngơi, không ai thụ động, nên của cải càng thêm lớn.
Còn vợ chồng đồng mệnh (không theo tuổi tác chỉ tính theo Ngũ Hành nạp âm), nên xem diễn giải sinh khắc đã nói, và sinh con theo tính tương hợp là tốt, còn sinh theo tính tương khắc là xấu. Trong công việc còn có thể thay đổi người thứ ba, với con cái chúng sẽ theo đuổi vận mệnh vợ chồng đến cuối đời.
Trong hôn nhân phần xem tuổi vợ chồng qua Ngũ Hành sinh khắc, nhiều người thường lo lắng như trai mệnh Thổ lấy gái mệnh Mộc (Mộc khắc Thổ) sẽ yểu thọ, vì cây sẽ hút hết chất màu mở của đất v.v…
Tuy nhiên, trong 5 hành đều có tính chất riêng là phần nạp âm, như Thổ có Lộ bàng Thổ, Sa trung Thổ, Đại trạch Thổ v.v… Nên khi gặp khắc mà tốt, còn thấy sinh lại xấu. Sau đây là tính chất sinh khắc của nạp âm :
HÀNH KIM :
Kiếm, Sa Kim phong lưỡng ban kim
Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm
Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa
Kiếm sa vô Hỏa bất thành hình.
Giải thích : Đừng nghĩ Hỏa khắc Kim, nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim mà hợp cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân, lại tốt đẹp vô cùng.
Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa TrungKim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng. Nhưng cả hai khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hình kỵ, dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc) nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại.
4 hành Kim còn lại là Hải Trung Kim (vàng trong biển), Bạch Lạp Kim (vàng trong sáp), Thoa Xuyến Kim (vàng trang sức) và Kim Bạch Kim (kim loại màu) đều kỵ hành Hỏa.
HÀNH HỎA :
Phù Đăng, Lư Trung dữ Sơn Đầu
Tam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưu
Thiên Thượng, Tích , Sơn hạ Hỏa
Thủy trung nhất ngô cân vương hâu
Giải thích : Ba loại Phù Đăng Hỏa (lửa đèn dầu), Lư Trung Hỏa (lửa bếp lò) và Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi) gặp hành Thủy sẽ khắc kỵ. Khi gặp nước ba thứ lửa trên sẽ bị dập tắt, đúng nghĩa Thủy khắc Hỏa, thuộc diện khắc nhập mất phần phúc.
Còn Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) và Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét) lại cần phối hợp với hành Thủy, bởi có nước thì càng phát huy được tính chất, khí âm (thủy) gặp khí dương (hỏa) sẽ gây ra sấm sét.
HÀNH MỘC :
Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh
Bất phùng Kim giả bất năng thành
Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại
Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh
Giải thích : Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc), mà còn cần hòa hợp mới thành vật hữu dụng (cưa, búa đẻo gọt cây thành vật để dùng như tủ, bàn, ghế).
Những loại Mộc còn lại như Tù̀ng Bá Mộc (cây tùng già), Dương Liễu Mộc (cây dương liễu), Tang Đố Mộc (cây dâu tằm), Thạch Lựu Mộc (cây mọc trên đá) và Đại Lâm Mộc (cây trong rừng già) đều sợ Kim, nếu phối hợp sẽ tử biệt hay nghèo khổ suốt đời (Hưu Tù Tử). Những loại cây trong rừng (Đại Lâm, Tùng Bá), những cây sống chùm gửi (Thạch Lựu), cây còi (Dương Liễu) rất hay bị đốn chặt, khai quang.
HÀNH THỦY :
Đại Hải Thủy, Thiên Hà Thủy lưu
Nhị ban bất dữ Thổ vi cửu
Ngoại giả đô lai toàn kỵ Thổ
Phùng chi y lộc tất nan cầu.
Giải thích : Đại Hải Thủy (nước biển), Thiên Hà Thủy (nước trên trời) không sợ gặp Thổ dù Thổ khắc Thủy (Thủy hao Thổ lợi) vì đất không ở biển lớn hay trên trời, cả hai phối hợp cùng Thổ càng mau thành công, nếu thành vợ chồng sẽ dễ hiển đạt đường công danh phú quý.
Còn Trường Lưu Thủy (sông dài), Giang Hà Thủy (sông cái), Tuyền Trung Thủy (nước suối) và Đại Khê Thủy (nước khe) đều kỵ Thổ, nước chỉ làm lợi cho đất, số sẽ vất vả, nghèo khó, vì nước mất mát cho đất thêm màu mở.
HÀNH THỔ :
Lộ Bàng, Đại Trạch, Sa Trung Thổ
Đắc Mộc như đạt thanh vân lộ
Ngoại hữu tam ban phách Mộc gia
Phùng chi tất mệnh tu nhập mộ.
Giải thích : Lộ Bàng Thổ (đất đường lộ), Đại Trạch Thổ (đất đầm lầy) và Sa Trung Thổ (đất bãi cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường cái quan hay trên bãi cát, đầm lầy. Cả ba hành Thổ này nếu gặp Mộc không khắc dù Mộc khắc Thổ, Thổ hao Mộc lợi, trái lại còn có đường công danh, tài lộc thăng tiến không ngừng.
Thành Đầu Thổ (đất bờ thành), Bích Thượng Thổ (đất trên tường) và Ốc Thượng Thổ (đất nóc nhà) đều sợ Mộc, nhất là Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc, như thân tự chôn xuống mộ. 3 hành Thổ này tuy không sợ Bình Địa Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bá Mộc nhưng không bền vững vì hình kỵ.
Thiên Việt
Lược trích từ thienviet.wordpress.com.
hì nên nằm ở những vụ trí khác nhau:
– Bể hình vuông hoặc hình chữ nhật: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.
– Bể hình tam giác: đặt ở góc nhà.
– Bể hình vuông: đặt ở giữa nhà hoặc chỗ cạnh cửa ra vào.
– Bể hình lục giác: không nên dùng loại bể này vì có “sát khí” lớn.
– Bể hình bán nguyệt: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.
Về độ cao thấp của bể cá cũng cần phải chú ý. Nếu tính theo kích thước của phong thủy thì bể cá cao nhất cũng chỉ có thể ngang với vị trí của tim, thấp nhất là ngang bụng. Nếu mực nước trong bể cao hơn vị trí tim của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị bệnh tim, tư duy kém minh mẫn, tài vận không tốt. Còn nếu mực nước trong bể thấp hơn phần bụng của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị các bệnh ở chân như tê phù hoặc nấm kẽ chân; ngoài ra thì nhà đó sẽ kém linh khí phong thủy, vận mệnh kém may mắn.
Phương Vị: Nam Đẩu TinhHành: HỏaLoại: Quý TinhĐặc Tính: Khoa giáp, quyền tước.Tên gọi tắt thường gặp: Việt
Phụ Tinh. Cùng với sao Thiên Khôi thành bộ Thiên Ất Quý Nhân.
Ý Nghĩa Thiên Việt Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người uy nghi, mô phạm, hiền lương, thông minh, tài năng, thanh bạch, khoan hòa, là con trưởng hoặc đoạt trưởng, hoặc trong nhà, ngoài đời giữ chức vụ quan trọng, gần người quyền quý, cao thượng.
Phúc Thọ Tai Họa
Thiên Việt có thể hóa giải được bất lợi của một số sao hãm địa như Âm Dương hãm, chính tinh hãm.
Nếu tọa thủ ở cung Phúc Đức thì được linh thần che chở luôn luôn, tai nạn được giải trừ, có hiệu lực giống Quang Quý.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những lợi điểm trên chỉ có nếu Thiên Việt không bị Tuần, Triệt, Hóa Kỵ, Thiên Hình và sát tinh xâm phạm.
Ý Nghĩa Thiên Việt Với Các Sao Khác
Gan bàn tay màu hồng nhuận
Nếu bàn tay của bạn có màu hồng hào, tươi sáng đồng thời sắc hồng phân bố đều trên toàn bộ gan bàn tay thì bạn đang sở hữu một đôi bàn tay mang lại nhiều may mắn cho mình. Những người có đặc điểm này thường rất nghiêm túc và có trách nhiệm với mọi việc mình làm. Việc gì họ cũng muốn làm tốt nhất có thể và tự mình hoàn thành mà không muốn nhờ vả hay cần bất kì ai giúp đỡ. Điều này cũng thể hiện rằng họ khá đa nghi và thiếu sự tin tưởng đối với những người xung quanh. Do đó họ thường khá vất vả, chật vật vì không chịu mở lời hợp tác với mọi người, tâm thế cũng thường xuyên trong trạng thái bất ổn, thiếu cân bằng, tuy nhiên đến cuối cùng họ vẫn đạt được thành công muốn có, hoàn toàn dựa vào năng lực và bản lĩnh của chính mình. Gan bàn tay tối màu
Những người sở hữu đôi bàn tay có gam màu tối và bàn tay khô, thô ráp thường là những người khá nhút nhát, rụt rè. Họ thường muốn ở trong vỏ bọc yên ổn, an toàn mà ngại đương đầu với những thử thách. Tốt nhất họ không nên tham gia vào những công việc có sự mạo hiểm như đầu tư vào tài chính, kinh doanh hay các công việc tiềm ẩn những nguy hiểm nhất định để tránh rước phải những tổn thất nặng nề. Nếu gan bàn tay của bạn dần dần chuyển sang màu sáng hơn thì chúc mừng bạn, vận mệnh của bạn đang tiến triển theo hướng rất tích cực đấy. Gan bàn tay màu vàng nhạt
Những người có gan bàn tay màu vàng nhạt chứng tỏ sức khỏe của họ đang gặp phải vấn đề khá lớn, đặc biệt là liên quan đến tuyến gan và tụy. Bạn cần đi khám sức khỏe để có hướng điều trị dứt điểm, khắc phục điều bất lợi này nếu không cả sức khỏe, tài vận cũng như công việc của bạn sẽ “xuống dốc không phanh” trong một khoảng thời gian rất ngắn. Gan bàn tay sáng trắng
Nếu bạn có đôi bàn tay có gam màu sáng trắng thì xin chúc mừng, bạn đang sở hữu đôi bàn tay mang lại nhiều may mắn cho bản thân. Những người có đặc điểm này thường gặp nhiều may mắn trong tiền bạc, họ dễ thành công trong việc kinh doanh, buôn bán cũng như đầu tư tài chính. Họ thường có cuộc đời sung túc, viên mãn mà ít gặp phải khó khăn, trắc trở. Nếu gan bàn tay càng ngày càng ngả sang màu trắng sáng thì chứng tỏ bạn ngày càng may mắn và thành công cả trong công việc và cuộc sống.
Gan bàn tay xanh xao
Những người có đôi bàn tay xanh xao thường có tính cách khá đặc biệt. Họ thường khá nhỏ mọn, hẹp hòi và ít khi giúp đỡ người khác. Tiếp xúc với họ phải khá thận trọng vì họ dễ nảy sinh sự đố kị và có thể hại bạn để vượt lên trên những thành công của bạn. Họ cũng khá ỷ lại, thiếu sự chủ động trong công việc, luôn muốn được người khác nâng đỡ mà ít cố gắng, vì thế những nhà quản lí cũng có thể dựa vào đặc điểm nhân tướng này cộng với quan sát tỷ mỉ để đưa ra quyết định đúng đắn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Kim cương Koh-i-Noor và lời nguyền chỉ dành cho đàn ông
Viên kim cương Koh-i-noor được mệnh danh là viên kim cương đẹp nhất thế giới. Hiện nó đang được gắn lên vương miện của nữ hoàng Anh.
Theo lời đồn đại, bất kỳ người đàn ông nào mang viên kim cương này đều có một kết cục thảm thương, chỉ có Thượng đế hoặc những người phụ nữ mới có thể mang nó mà không bị trừng phạt.
Sự thật về viên kim cương đẹp nhất thế giới
Lời nguyền đã thực sự xảy ra vào thế kỉ 16, vua Mughal sở hữu viên kim cương đã bị trục xuất khỏi vương quốc. Người kế vị là Shah Jahan sau đó đã gắn nó lên ngai vàng và bị con trai giam giữ tới già. Tiểu vương Duleep Singh cống nạp Koh-i-Noor cho Anh, đã được nhận khoản tiền 50.000 bảng Anh/năm, nhưng rồi cũng phải chết trong cảnh nghèo đói tại Pháp năm 1893.
Đến nay, viên kim cương Koh-i-Noor thuộc quyền sở hữu của nữ hoàng Anh Elizabeth II. Nó được bảo quản trong Tháp Luân Đôn như một phần trong bộ sưu tập châu báu của Hoàng gia Anh.
2. Viên kim cương Hope
Hope (Hi vọng) là một viên kim cương đặc biệt nặng 45,52 carat, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian, Washington. Bằng mắt thường, nó có màu xanh đậm. Khi soi dưới ánh đèn tia cực tím, nó sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ. Hiện tại, viên kim cương đang được sử dụng làm mặt của một sợi dây chuyền được gắn 61 viên kim cương khác.
Truyền thuyết kể rằng, viên kim cương này ban đầu được gắn vào một bên mắt của nữ thần Sita linh thiêng của người Hindu và nặng tới 123 carat. Sau đó, nó đã bị những tên trộm lấy đi mất. Lập tức, các trưởng lão Bà la môn đã sử dụng bùa chú, reo rắc lời nguyền khủng khiếp giáng xuống đầu bất cứ kẻ nào nắm giữ viên đá quý.
Liên tiếp những người chủ sở hữu của viên đá quý gặp tai họa, như vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette bị chém đầu; nhà buôn Simon Frankel gặp rất nhiều khó khăn về tài chính và phải bán kim cương; và tai ương nhất là quý bà Evalyn Walsh McLean bị khánh kiệt, chồng li dị, con trai gặp tai nạn ô tô qua đời, con gái chết vì sốc thuốc.
Sau đó, không ai dám sở hữu viên đá quý này và nó đã được hiến tặng lại cho Bảo tàng Smithsonian.
3. Con bọ hung bằng ngọc và lời nguyền chết chóc
Người Ai Cập cổ đại luôn nổi tiếng với những lời nguyền nhằm bảo vệ lăng mộ Pharaong khỏi đạo tặc. Một trong số đó là lời nguyền lên viên ngọc hình con bọ hung bằng ngọc của vua Tutankhamun :"Kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của Pharaoh, đều phải chết!"
Một linh hải quân người Nam Phi sau đó đã sở hữu viên ngọc quý. Theo ghi nhận, người lính này đã bị chết đuối trong một lần đi biển. Không lâu sau, con gái ông ta cũng qua đời vì bệnh máu trắng.
Do quá sợ hãi, vợ của người lính hải quân đã bán lại con bọ hung bằng ngọc cho một người phụ nữ Nam Phi khác. Con gái của người này cũng bị chết vì bệnh máu trắng, còn chồng bà thì qua đời đột ngột không rõ nguyên nhân. Bà ta sau đó đành phải giao lại con bọ hung bằng ngọc cho Chính phủ.
4. Thạch anh tím Delhi
Viên đá thạch anh tím Delhi được mang từ Delhi, Ấn Độ tới Anh bởi một Đại tá người Bengal có tên W. Ferris. Từ khi sở hữu viên đá, gia đình của ông dần dần khánh kiệt, bản thân ông sức khỏe ngày càng suy sụp và chết. Viên đá được trao lại cho vị con trưởng, nhưng không ngờ một thời gian sau, ông cũng bị thiệt hại tài sản rất nặng, phải sống trong nghèo khổ tới cuối đời.
Những người sở hữu sau của viên đá cũng nhận phải nhiều tai ương đó là nhà khoa học Heron Allen và sau đó là hai người bạn khác của ông. Đến năm 1904, ông đã phải chôn viên đá và dặn con cháu đào lên sau khi ông chết được 30 năm.
Con gái ông làm theo và nhận được lời cảnh báo đi kèm viên đá của cha rằng “Hãy ném chiếc hộp cùng viên đá xuống biển”. Tuy nhiên, bà đã không ném đi mà tặng cho Bảo tàng Lịch sử tự nhiên.
Nhiều năm sau, một cựu Giám Giám đốc thư viện tên là John Whittaker đã mang câu chuyện kỳ lạ về viên đá đến một hội nghị chuyên đề về nhà khoa học Heron Allen.
Sau khi buổi hội nghị lần thứ nhất, hai vợ chồng ông gặp phải trận mưa bão kì lạ. Đêm trước khi hội nghị thứ hai, ông đã phải chịu một trận đau nặng và phải vào viện phẫu thuật. Đến hội nghị thứ ba thì ông không thể đến dự vì bệnh sỏi thận và phải phẫu thuật lần hai.
Theo Tạp Chí Tâm Linh Bốn Phương
1- CÁCH SẮP XẾP CỦA NAM SINH NĂM DƯƠNG
Bước thứ nhất. Đầu tiên lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ .
Ví dụ .
Nam sinh
Tháng 4 Ngày 16 Giờ thìn
Năm 1990
Quan Sát Nhật nguyên Quan
Canh ngọ Tân tị Ất hợi Canh thìn
Đinh kỉ Bính mậu canh Nhâm giáp Ất mậu quý
Thực tài Thương tài quan An kiếp Tỉ tài kiêu
Bước thứ hai. Tính số đại vận.
Căn cứ nguyên tắc nam sinh năm dương lấy chiều thuận tức tính từ ngày sinh đến tiết lệnh sau đó xem có tất cả bao nhiêu ngày, rồi chia cho 3, số kết quả là số của đại vận .
Trong ví dụ trên đếm từ ngày 16 tháng 4 đến giờ thìn ngày 13 tháng 5 có tất cả 27 ngày. Lấy 27 chia 3 được 9 tức người con trai đó 9 tuổi lấy đại vận .
Bước thứ ba. Sắp xếp vận trình cho cả cuộc đời.
Căn cứ nguyên tắc con trai sinh năm dương lấy chiều thuận tức bắt đầu xếp từ can chi của tháng sau, xếp theo chiều thuận, nói chung xếp theo vận 8 bước. Tháng sinh là tân tị, can chi sau tân tị là nhâm ngọ nên 9 tuổi lấy vận là nhâm ngọ.
An Kiêu Kiếp Tỉ Thương Thực Tài Tài
Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỉ
Ngọ mùi thân dậu tuất hợi tí sửu
9 19 29 39 49 59 69 79
Đinh, kỷ |
At, kỉ, Đinh |
Mậu,canh Nhâm |
Tân |
Mậu,tân Đinh |
Nhâm giáp |
Quý |
Quý, tân Kỉ |
Thực, tài |
Tỉ, tài, An |
Tài, quan, ấn |
Sát |
Tài, sát, Thực |
An, kiếp |
Kiêu |
Kiêu,sát, tài |
Bước thứ tư. Phối với lục thân.
Sau khi xếp xong đại vận , căn cứ lục thân của Tứ trụ , lấy can làm chuẩn, ghi ra lục thân của can từng 10 năm vận và lục thân của thiên can ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân của thiên can ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân trong Tứ trụ tức ngày can âm gặp vận can dương là chính ( tức là ngay ) ngày can âm gặp vận can âm là thiên ( tức là lệch ). Sau đó có thể căn cứ tổ hợp sắp xếp trong Tứ trụ và kết hợp với thiên can địa chi của từng đại vận mà dự đoán cát hung.
1. CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM DƯƠNG
Bước thứ nhất. Lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ . Ví dụ :
Nữ sinh Năm 1990 Quan |
Tháng 4 Sát |
Ngày 16 Nhật nguyên |
Giờ thìn Quan |
Canh ngọ
Đinh kỉ Thực tài |
Tân tị Bính mậu canh Thương tài quan |
At hợi Nhâm giáp An kiếp |
Canh thìn At mậu quý Tỉ tài kiêu |
Bước thứ hai. Tính số đại vận .
Căn cứ nguyên tắc năm dương sinh nữ tính chiều ngược , tức bắt đầu tính từ ngày sinh đếm ngược đến tiết lệnh phía trước, xem tất cả bao nhiêu ngày, sau đó chia cho 3, kết quả phép chia là số của đại vận
Ở ví dụ trên từ ngày 16 tháng 4 đếm ngược đến 12 tháng 4 ( giờ sửu lập hạ ), tất cả có 4 ngày, chia 3 được 1, thừa 1 ngày bỏ qua không tính. Người con gái này một tuổi đã lập vận.
Bước thứ ba. Sắp xếp vận trình cả cuộc đời.
Năm dương sinh nữ thì xếp ngược, tức là bắt đầu xếp từ can chi củ tháng trước tháng sinh, cứ thế đi ngược mà xếp. Em gái đó tháng sinh là tân tị, can chi phía trên tân tị là canh thìn, nên một tuổi vận là canh thìn.
Quan |
Tài |
Tài |
Thực |
Thương |
Tỉ |
Kiếp |
Kiêu |
Canh thìn |
Kỉ mão |
Mậu dần |
Đinh sửu |
Bính tí |
At hợi |
Giáp tuất |
Quý Dậu |
1 |
11 |
21 |
31 |
41 |
51 |
61 |
71 |
At mậu quý ất Tỉ tài kiêu tỉ |
Giáp bính mậu Kiếp thương tài |
Quý tân kỉ quý Kiêu sát tài kiêu |
Nhâm giáp An kiếp |
Tân đinh mậu tân Thực tài sát sát |
Bước thứ tư. Phối hợp với lục thân.
Xếp xong đại vận, căn cứ lục thân trong Tứ trụ ghi ra lục thân trong vận và lục thân của thiên can ẩn trong địa chi, sau đó căn cứ tổ hợp sắp xếp của Tứ trụ kết hợp với can chi của từng đại vận để đoán cát hung.
2. CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM ÂM
Nữ sinh năm âm thì theo ngày sinh đếm xuống đến tiết lệnh dưới, xem có tất cả bao nhiêu ngày, chia cho 3, được số của đại vận . Ví dụ.
Nữ sinh năm 1991, tháng 12, ngày 2, giờ thìn, Giờ tị ngày 2 tháng tháng 12 năm 1991 là tiết lệnh tiểu hàn, chỉ cách một giờ. Theo cách tính cổ, một giờ này vẫn quy đổi thành một ngày, rồi thêm vào hai ngày để chia cho 3 được đại vận từ 1 tuổi. Tăng lên thành ba ngày để tính một tuổi như thế tức là đã kém mất 35 giờ, như thế lấy số của đại vận sai số lớn quá. Thực tế thì nên lấy 1 giờ tính thành 10 ngày tức cô gái này sau khi sinh được 10 ngày đã lấy đại vận, tức tính đại vận một tuổi từ giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 1991, đến giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 2001 bắt đầu hành vận 11 tuổi.
Trên đây là cách lấy đại vận của nam sinh năm dương, nữ sinh năm dương, nữ sinh năm âm. Cách lấy đại vận của nam sinh năm âm giống như cách lấy cho nữ sinh năm dương nên không giải thích nữa.
Trong tính toán dùng số ngày chia cho 3, nếu thừa 1 ngày thì bỏ đi, thiếu 1 ngày thì thêm vào cho chẵn. Ví dụ 23 ngày chia 3, thiếu 1 ngày đầy 8 lần nên thêm một ngày cho đủ 24 ngày, chia được 8, tức 8 tuổi bắt đầu tính đại vận .
Lại ví dụ nếu giờ sinh vào trước hay sau giao tiết lệnh mấy giờ, nếu người tính thuận thì không đủ một ngày hoặc chỉ có một ngày, trong trường hợp đặc biệt đó có thể thêm vào hai ngày cộng thành 3 ngày, sau đó chia 3 được 1, tức 1 tuổi bắt đầu tính đại vận. Đối với các trường hợp khác không được thêm vào hai ngày.
Số ngày chia cho 3 tức là cứ 3 ngày được tính thành 1 tuổi. Số ngày tính đại vận nói chung là tính số ngày trọn đủ giờ. Ở ví dụ 1 trên đây chính là lấy số ngày đủ giờ để tính.
Trong ví dụ 1 là 9 tuổi bắt đầu tính vận tức từ giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 1999 bắt đầu vận 9 tuổi, đến giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 2009 chuyển sang vận 19 tuổi.
Tính đại vận cũng lấy tròn tuổi làm chuẩn. Ngoài ra còn có cách tính chính xác hơn. Như ví dụ 2 từ giờ sinh là thìn đến giao tiết lệnh thực tế là 4 ngày ba giờ, nhưng tính theo 3 ngày là 1 ngày, như vậy 3 giờ là 30 ngày vừa đúng 1 tháng. nên ví dụ 2 chính xác hơn là 1 tuổi 5 tháng bắt đầu đại vận, tức bắt đầu từ giờ thìn ngày 16 tháng 9 năm 1991 bắt đầu tính vận quan.
Còn có cách tính vận lấy ba ngày quy đổi thành 1 tuổi, 5 ngày là 1 tuổi thừa 2 ngày tức 1 tuổi 8 tháng thì bắt đầu đại vận. Như nữ sinh giờ tị ngày 27 tháng 11 năm 1991 thuận đếm đến tiết tiểu hàn tức giờ tị ngày 2 tháng 12, cộng đủ 5 ngày, chia cho 3 còn thừa 2 ngày, hai ngày quy đổi thành 8 tháng tức 1 tuổi 8 tháng bắt đầu đại vận , đó là ngày 2 tháng 8 năm 1992 vậy.
Lược trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa.
Hiện tượng: Phía sau bàn thờ là phòng bếp, như vậy sẽ dẫn đến thần linh giống như bị nướng trên bếp lửa, thần linh ngồi không vững, nên gia vận cũng không vững, nghiêm trọng hơn là dẫn đến thoái thần, gia vận dần dần giảm sút.
Phương pháp hóa giải:
Giữa bàn thờ và phòng bếp nên để cách ra một khoảng không gian để hóa giải, hoặc di dời bàn thờ sang vị trí khác.
Ngưu Lang - Chức Nữ hay Ông Ngâu - Bà Ngâu là một câu truyện cổ tích. Truyện có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy Âm lịch ở Việt Nam.
Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.
Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy Âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong.
Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.
Tuy nhiên sau một thời gian vì cảm thương cho sự chia lìa của cặp vợ chồng, Ngọc Hoàng đã trả lại hình hài cho những người thợ mộc và ra lệnh họ phải làm một cây cầu thật vững chắc để Ngưu Lang và Chức Nữ có thể gặp nhau.Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ được sống bên nhau Có lẽ do tích này mà vùng Bình Định (miền Trung Việt Nam) có từ "quạ làm xâu" nói về những con quạ vắng đi đâu một thời gian rồi trở về với cái đầu trọc lóc trong rất khôi hài Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra…
Truyện cổ tích Việt Nam lại kể rằng: Ngày xưa, ở làng Ngưu Gia nằm ở phía Tây Nam Dương có một chàng trai thông minh, trung hậu, tên là Ngưu Lang, vì cha mẹ qua đời sớm, Ngưu Lang đành phải sống cùng với anh trai và chị dâu. Chị dâu họ Mã, là người rất độc ác, thường hành hạ Ngưu Lang, bắt Ngưu Lang làm việc cật lực.
Một năm vào mùa thu, chị dâu bắt Ngưu Lang phải đi chăn bò, chị dâu chỉ cho Ngưu Lang mang theo 9 con bò, nhưng lại yêu cầu Ngưu Lang lúc về phải có 10 con mới được về nhà, Ngưu Lang không còn cách khác, buộc phải cùng với đàn bò, rời khỏi làng.
Ngưu Lang một mình chăn bò trên núi. Ở núi có cây cỏ tươi tốt um tùm, Ngưu Lang ngồi dưới gốc cây, rất buồn rầu lo lắng, không biết đến lúc nào mới có được 10 con bò, để có thể được về nhà. Bỗng nhiên, một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt Ngưu Lang, hỏi Ngưu Lang vì sao đau lòng. Sau khi biết câu chuyện của Ngưu Lang, cụ già vừa cười vừa nói với Ngưu Lang rằng: “Cháu đừng buồn nữa nhé, ở núi Phục Ngưu có một con bò già ốm nặng, cháu hãy cố chăm sóc và nuôi nấng nó. Khi con bò khỏi bệnh, cháu có thể dẫn nó về nhà.”
Ngưu Lang trèo đèo vượt núi, đi rất xa, cuối cùng đã tìm thấy con bò già ốm nặng. Ngưu Lang thấy bệnh tình của con bò già rất nặng, bèn vội vàng đi cắt cỏ cho bò ăn, suốt 3 ngày liền, con bò già được ăn no, từ từ ngẩng đầu lên nói với Ngưu Lang rằng: Ta vốn là bò tiên xám, vì vi phạm vào luật cấm trên thiên đình, bị đày xuống trần gian. Vì bị ngã gãy chân, không động đậy được, muốn dậy được phải dùng giọt sương trên hoa rửa vết thương 1 tháng mới khỏi được.
Ngưu Lang nghe vậy, không ngại vất vả, chăm sóc cẩn thận bò già một tháng, buổi sáng đi hái hoa, thu tập giọt sương, rửa vết thương cho bò già, buổi tối thì ngả vào bò già ngủ. Sau khi bò già khỏi bệnh, Ngưu Lang rất vui mừng, dẫn 10 con bò về nhà.
Sau khi về tới nhà, chị dâu vẫn đối xử thậm tệ với Ngưu Lang, nhiều lần muốn làm hại Ngưu Lang, may mà lần nào cũng được bò già tìm cách cứu giúp, cuối cùng chị dâu tức quá hoá giận, đuổi Ngưu Lang ra khỏi nhà, Ngưu Lang chỉ yêu cầu mang theo bò già ra đi.
Một hôm, Chức Nữ và các nàng tiên trên trời xuống trần gian chơi, đi tắm ở sông. Dưới sự giúp đỡ của bò già, Ngưu Lang đã làm quen với Chức Nữ, sau đó hai người đã có tình cảm với nhau. Rồi Chức Nữ lén xuống trần gian, trở thành vợ của Ngưu Lang. Chức Nữ còn mang tằm từ thiên đình xuống cho dân làng, và dạy dân làng biện pháp nuôi tằm, rút tơ, dệt vải lụa mịn màng và bóng đẹp.
Sau khi lấy nhau, Ngưu Lang ngày ngày làm ruộng, Chức Nữ dệt vải, tình cảm rất sâu đậm, hai người sinh được một trai một gái, cuộc sống gia đình rất hạnh phúc. Nhưng cuộc sống hạnh phúc không thể kéo dài, chuyện này bị Ngọc Hoàng Đại Đế biết được, Vương Mẫu Nương Nương đích thân xuống trần gian, ép Chức Nữ về thiên đình, hai vợ chồng đằm thắm với nhau bị cách xa.
Ngưu Lang không lên thiên đình được, bò già cho Ngưu Lang biết, sau khi nó chết, Ngưu Lang hãy dùng da của nó làm giầy, đi giầy da này thì có thể lên thiên đình. Ngưu Lang nghe theo lời bò, đi giầy làm bằng da bò, mang theo hai đứa con, cưỡi mây lướt gió lên thiên đình đi tìm Chức Nữ. Khi Ngưu Lang sắp đuổi kịp Chức Nữ, Vương Mẫu Nương Nương lấy trâm vàng cài trên tóc vạch một đường, bèn xuất hiện dòng sông Thiên Hà có sóng cuồn cuộn, Ngưu Lang và Chức Nữ bị ngăn cách ở hai bờ sông, hai người chỉ có thể nhìn nhau, rơi nước mắt.
Tình yêu chung thủy của họ đã làm chim khách cảm động, hàng nghìn hàng vạn chim khách bay đến và bắc cầu Thước Kiều, để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp mặt tại Thước Kiều. Vương Mẫu Nương Nương đành chịu, cho phép hai người gặp mặt tại Thước Kiều vào mồng 7 tháng 7 hàng năm.
Sau đó, cứ đến mồng 7 tháng 7 Âm lịch, ngày Chức Nữ và Ngưu Lang gặp mặt tại Thước Kiều, các cô gái lại rủ nhau nhìn trời ngắm sao, tìm sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ ở hai bờ dải Ngân Hà, mong được chứng kiến buổi gặp mặt một năm một lần của họ, cầu mong ông trời cho mình tài năng sáng dạ và khéo tay như Chức Nữ, cũng cầu mong mình có được mối lương duyên tốt đẹp. Do vậy, Tết Thất Tịch 07-7 đã hình thành.
Mọi người ai cũng muốn mua được một ngôi nhà tốt, đã có thầy phong thuỷ tổng kết và đúc rút ra những nét đặc trưng quý giá của nhà ở, xin cung cấp để mọi người cùng tham khảo:
1. Tựa núi gần nước (Y sơn bàng thủy)
Trước có con sông nhỏ , sau có dốc núi là một môi trường lý tưởng nhất cho nhà ở. Núi phía sau để tựa có thể tàng phong tụ khí; địa hình vừng chắc “trước thấp sau cao”, vững như thái sơn, phía trước minh đường rộng thoáng, tầm nhìn tốt, sông chảy uốn khúc vừa hợp là “thuỷ hữu tình”. Tục ngữ có nói “Uốn khúc thì có tình.” Không nhanh không chậm, đai ngọc 9 khúc uốn lượn vây quanh mang đến tài phú, là bố cục phong thuỷ nhà hợp lý nhất, nhưng hiện nay tìm được bố cục như vậy ở thành phố là quá khó khăn.
Cần phải chí ra thêm rằng, phong thuỷ học chia nước ra làm hai loại là nước sống và nước chết (hoạt thuỷ và tử thuỷ).
Hoạt thuỷ là chỉ nước sạch lưu động với tốc độ vừa phải, có năng lượng sống phong phú. Tứ thuỷ là chỉ nước đục, ô nhiễm, nước có mùi hôi thối, thiếu năng lượng sống, dễ dẫn dụ con người rơi vào con đường tội lỗi.
Dùng gương soi, có thể lợi dụng nước sống, xử lý nước chết có hiệu quả. Ví dụ, điều chỉnh góc độ gương phản chiếu dẫn hình ảnh nước chảy trên sông vào nhà, tức là dẫn tài khí vào nhà. Ngược lại, chiếu gương vào nước chết làm cho tà khí phản xạ ra khỏi nước.
Ngoài ra, còn phải chú ý đến hình thái nước. Rốt cuộc thì nhà ở hợp với mặt nước hồ phẳng lặng hay là mặt nước biển sóng trào? Nếu nước lưu động ôn hoà là phong thủy tốt; trái lại, hình thế nước gấp gáp mạnh mẽ thì nguồn của cải trong nhà không ổn định, chóng thành mà cũng nhanh bại.
Từ đó có thể thấy, nhà ở phía trước có mặt nước, nếu là mặt nước biển hàng ngày sóng trào mạnh mẽ thì sẽ thiếu không khí may mắn ôn hoà, ở cạnh biển như vậy về phong thuỷ học ngoài sự bất ổn về nguồn của cải ra, còn ảnh hưởng đến sự yên ổn tâm lý con người. Nếu sóng biển quá mạnh cũng có nghĩa là gió lớn, ngày nào cũng ở nơi sóng to gió lớn như vậy thử hỏi có yên ổn được không ? Ở lâu trong môi trường như vậy tinh thần người ta trớ nên căng thẳng, âu lo. Vì vậy, nếu muốn chọn nhà ở gần biển thì nên chọn ở vùng biển sóng lặng mới là nơi phong thuỷ tốt.
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý không nên ở quá gần biển, nhà ở quá gần với biển sẽ phạm phải cát cước sát, vận nhà không được lâu bền, khó tụ được tài khí.
2. Trước nhà có công viên
Công viên trước nhà, minh đường rộng rãi, là sự lựa chọn tốt nhất. Ở nơi đô thị có thể tìm được nơi có nhiều màu xanh cây lá thì thật là đáng quý. Minh đường thoáng rộng, tinh thần sảng khoái, vận khí hanh thông, tầm nhìn xa rộng, chỉ cần bố cục nhà tốt nữa thôi thì đây sẽ là nơi ở lý tưởng. Tuy nhiên công viên ở dây phải là loại không hoang dã, nếu không tác dụng sẽ ngược lại. Hoặc nếu nhà ở quá gần công viên, hoạt động buổi sáng sớm dễ bị ảnh hưởng, chẳng hạn như bị nhiễu bởi những âm thanh luyện khí công, dàn, hát v.v… cần phải xem xét kỹ.
3. Bên trái, bên phải có điểm tựa
Nhà ở mà bên trái và bên phải đều có nhà khác tức là nhà có điểm tựa trái phải. Hai bên trái phải tiêu biểu cho quý nhân, có thể nhận được sự giúp đỡ, đề bạt từ bạn bè, quá trình phân đấu không phải gian khó lắm. Trái phải sơ lược là tiền đồ, nó giống như ghế ngồi hai bên có tay vịn, trước mặt có không gian thoáng rộng, nếu phía sau lại có núi (toà nhà) để tựa, bố cục nội thất tốt thì đó là một ngôi nhà có phong thuỷ tốt nhất ở thành phố. Phong thuỷ học nhìn nhận nhà ở từ bên ngoài, bên trái có thanh long, bên phải có bạch hổ, phía trước có chu tước, phía sau có huyền vũ, bốn xung quanh có thể hộ ứng cho nhau, hoà quyện với nhau được xem là nhà ở tôn quý.
Cửa chính ngược với hành Kim
Hướng Tây và Tây Bắc thuộc hành Kim, là hướng không tốt cho người thuộc Đông tứ mệnh. Ngũ hành của Đông tứ mệnh lần lượt thuộc các hành Mộc, Thủy và Hỏa.
Nếu là hành Hỏa, do Hỏa khắc Kim nên ta có thể trực tiếp sử dụng màu sắc của hành Hỏa để khắc chế Kim. Màu sắc chủ yếu của hành Hỏa là đỏ, cam đậm... Những màu sắc này tương đối nóng, do vậy, tốt nhất là sơn ở giữa cửa màu đỏ hoặc cam, xung quanh thì sơn màu khác nhạt hơn.
|
(Ảnh minh họa) |
Cửa chính ở hướng ngược với hành Mộc
Hướng Đông và Đông Nam thuộc hành Mộc nên kỵ với người Tây tứ mệnh. Ngũ hành của Tây tứ mệnh lần lượt là hành Kim và hành Thổ. Người thuộc hành Kim thì cửa chính nên đặt ở hướng của hành Mộc. Do Kim khắc Mộc nên có thể sử dụng màu sắc của hành Kim để trừ tà, đó là màu trắng, màu hạt dẻ.
Nếu chủ nhà thuộc hành Thổ, do Mộc khắc Thổ nên có thể dùng màu sắc của hành Kim để trang trí. Cửa chính ở hướng ngược với hành Thổ Tây Nam và Đông Bắc thuộc hành Thổ, cũng là hướng bất lợi cho Đông tứ mệnh thuộc hành Mộc. Do Mộc khắc Thổ nên có thể dùng màu sắc thuộc hành Mộc để sơn cửa, chủ yếu là màu xanh lá cây.Cửa chính ở hướng ngược với hành Thủy
Hướng Bắc là hành Thủy, cũng là hướng kỵ với Tây tứ mệnh. Kim sinh Thủy nên người thuộc hành Kim không nên dùng màu của hành này.
Thổ khắc Thủy, nên người thuộc hành Kim hay Thổ có thể dùng màu sắc của hành Thổ để khắc chế hành Thủy. Trong trường hợp này, có thể dùng màu vàng hoặc màu cọ.
Cửa chính ở hướng ngược với hành Hỏa
Hướng Nam thuộc hành Hỏa, cũng là hướng kỵ với Tây tứ mệnh. Hỏa khắc Kim, người thuộc hành Kim không thể dùng màu của hành Kim để khắc chế Hỏa. Nhưng do Hỏa sinh Thổ nên có thể dùng màu của hành Thổ để hóa giải tà khí.
Người thuộc hành Kim cũng có thể dùng hành Thổ để làm cho ngũ hành của mình hưng vượng. Nếu khó thay đổi màu sắc cho cửa, bạn có thể gắn lên cửa những bức tranh hoặc đặt tấm thảm màu sắc đặc biệt nhằm giảm bớt khí xấu.
(Theo Khai vận cho ngôi nhà theo phong thủy)
Hãy nếm thử lời nói của mình trước khi tuôn ra. Lời nói làm tổn thương và gây sẹo nhiều hơn bạn nghĩ, vì vậy hãy ” nghĩ ” trước khi nói. Và nên nhớ, những điều bạn nói về người khác cũng nói lên tất cả về chính bạn.
1- Một số quan hệ sẽ hạnh phúc – Một số khác sẽ trở thành bài học.
Dù thế nào thì bạn cũng đừng hối tiếc vì biết một người . Mỗi người bạn gặp đều dạy cho bạn một đều gì đó rất quan trọng.
2- Đến lúc khó khăn – Một số người sẽ rời bỏ bạn.
Sẽ có rất nhiều người ở xung quanh bạn lúc thuận lợi, nhưng lúc bạn khó khăn, ai ở lại với bạn, giúp đỡ bạn thì mới thật sự là người bạn tốt của bạn.
3- Một số người chỉ tử tế với bản thân họ
Đó là những người chỉ gọi điện khi họ cần gì đó hoặc chỉ tạt qua chơi khi có lợi cho họ.
4- Một số người nói thì rất hay nhưng hành động thì…còn phải xét lại!
Đặt niềm tin vào họ chỉ phí cuộc đời bạn!
5- Có những người mà bạn ít giao du với họ thì cuộc sống của bạn càng tốt lên.
Đừng trở thành ” giờ nghỉ “, ” thời gian rảnh “, hoặc ” đôi khi ” của ai đó.
6- Lời lẽ cay nghiệt làm người ta tổn thương hơn cả đau đớn thể xác.
Hãy nếm thử lời nói của mình trước khi tuôn ra. Lời nói làm tổn thương và gây sẹo nhiều hơn bạn nghĩ, vì vậy hãy ” nghĩ ” trước khi nói. Và nên nhớ, những điều bạn nói về người khác cũng nói lên tất cả về chính bạn.
7- Sai lầm là một tai nạn – Gian lận và dối trá không phải là sai lầm.
Vì đó là những lựa chọn cố tình. Hãy chấm dứt trốn sau từ ” sai lầm” và ” xin lỗi “. Và chấm dứt tha thứ cho những con người như thế.
8- Tự tạo hạnh phúc cho bản thân
Những mảnh vỡ bạn mang theo đó là những mảnh bạn phải tự vá lại cho mình. Hạnh phúc đơn thuần là chuyện xảy ra trong nội tâm con người bạn.
9- Khi mọi người khó chịu với bạn – thường thì tốt nhất là bỏ đi.
Khi có người coi bạn không ra gì, đừng để ý và đừng coi đó là chuyện cá nhân. Chuyện đó không nói lên điều gì về bạn và không ăn miếng trả miếng. Bạn chỉ cần biết mình tốt hơn thế và bỏ đi.
10- Mọi người sẽ đối xử với bạn theo cách bạn cho phép họ.
Bạn không thể kiểm soát họ, nhưng bạn có thể kiểm soát điều bạn có thể chịu đựng. Những điều tốt đẹp đến khi bạn tránh xa những người xấu. Làm như thế không có nghĩa là bạn ghét họ, đơn giản có nghĩa là bạn tôn trọng bản thân mình.
11- Lựa chọn cho mình một mối quan hệ
Một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất trong đời là gỡ bỏ một người ra khỏi trái tim mình.
Nhưng nên nhớ rằng, không có mối quan hệ nào là lãng phí thời gian cả. Các quan hệ sai lầm dạy bạn những bài học chuẩn bị cho bạn gặp được người phù hợp nhất với mình.
12- Sự thật về sự oán giận
Oán giận làm tổn thương bạn – không phải họ.
13- Im lặng và cười nhếch mép có thể che giấu rất nhiều nỗi đau với thế giới bên ngoài.
Hãy chú ý tới những người mà bạn quan tâm. Thỉnh thoảng khi một người bạn nói ” Mình ổn “, thì điều đó có nghĩa là họ cần bạn nhìn sâu vào mắt họ, cần bạn ôm họ thật chặt và trả lời ” Mình biết là không phải thế “.
14- Ngay cả mối quan hệ tốt đẹp nhất cũng không kéo dài mãi mãi.
Không ai sống suốt đời mà không mất người họ yêu, người họ cần, hay điều gì đó mà họ nghĩ vốn là của họ. Con người không sống mãi mãi. Hãy đánh giá cao cái bạn có, người yêu bạn, và người quan tâm đến bạn. Bạn sẽ không bao giờ biết họ có ý nghĩa với mình như thế nào cho đến ngày họ không còn ở bên bạn nữa. Và nên nhớ, không thể chỉ vì có những thứ không tồn tại mãi mãi thì có nghĩa là nó không đáng để bạn mất thời gian.
ủa cửa trước không chỉ đơn thuần là để ra vào nhà.
Khỏi cần phải nói, cửa trước có thể làm thật to, trang trí thật đẹp, đều là chuyện đơn giản, thế nhưng để nó có thể mang lại tốt lành cho nhà thì phải mất khá nhiều công sức. Cửa trước tuvệt đối không được đặt hướng quỷ môn của phương vị Tây Nam (từ trung tâm nhà nhìn ra), một khi nằm ở hướng này nó sẽ thành hung tướng. Suy nghĩ của người trong nhà thiếu sự cân nhắc chu đáo, nhẹ dạ nhận giúp đỡ người khác việc mà mình không đủ sức làm, hoặc vào lúc tinh thần phấn khích mù quáng làm những việc không hay. Kết quả tất nhiên là phí công vô ích, mất lòng tin với người khác, vận khí suy thoái. Đồng thời, rất dễ bị lừa gạt, nhiều lần làm việc không công cho người khác. Đó đều là do cửa trước hướng Tây Nam, rất ít người tốt vào nhà, tự nhiên mang lại điều xấu. Đối với loại cửa trước như vậy nên chuyển nó sang hướng Đông, Đông Nam hoặc Nam Bắc. Nếu không thể thì chỉ có thể cải tạo thay đổi hướng đi. Nếu ở hướng Tây Nam, có thể căn cứ vào hướng cửa sẵn có, điều chỉnh làm cho mặt cửa hướng sang Tây hoặc Tây Bắc, điểm này rất dễ làm dược. Phải đặc biệt chú ý không được để đường bẻ góc của 4 góc cửa hướng sang phía Tây Nam là được. Cửa trước đặt theo hướng Đông Bắc cũng thuộc hung tướng. Phương pháp cải thiện giống như trên, nếu nhà hướng Bắc thì phải đặt cửa hướng Đồng, Đông Nam hoặc Tây Bắc. Nếu cửa hướng Đông Bắc, mặt cửa có thể hướng về Đông, Đông Nam hoặc Nam. Cửa trước ở hướng Bắc hoặc Đông Bắc, lối ra vào cửa không được qua đường chính trung. Ngoài ra, cửa trước ở hướng thuộc 1 trong 12 chi của chủ nhà cũng là hung tướng. Ví dụ, cửa trước được tính toán đặt ở hướng cát tường là hướng Đông, nếu như chủ nhà sinh năm Mão thì cửa đó sẽ biến thành hung tướng. Mọi người cần hết sức chú ý điểm này. Người sinh năm Thìn và người sinh năm Tị, cửa trước hướng Đông Nam là hung tướng. Người sinh năm Ngọ, cửa trước hướng Nam là hung tướng. Trong trường hợp này cần phải cải tạo lại cửa để giảm thiểu hung. Nguyên tắc thông thường là lối ra vào cửa trước không được qua đường chính trung, đường quỷ mồn, đường tứ ngung của trung tâm phương vị của nó. về điểm này thì cửa trước ở bất kỳ phương vị nào cũng đều phải chú ý.
Tử Vi Đẩu Số lấy các tổ hợp sao làm chủ, cho nên 14 chính diệu tổ hợp thành sáu mươi tinh hệ có tính chất khác nhau, sau đó thêm vào các sao phụ, tá, khiến cho tính chất của chúng xảy ra sự biến hoá, hình thành một tính chất khác cụ thể hơn. Về phương diện, tạp diệu cũng có tác dụng khá quan trọng. Dưới đây xin trình bày tính chất cơ bản của các tạp diệu.
Thiên Thương thuộc dương thuỷ, Thiên Sứ thuộc âm thuỷ, là các sao của Trung Thiên, tính chất thường là, Thiên Thương chủ về hư hao, Thiên Sứ chủ về nạn tai, bệnh tật.
Thiên Thương và Thiên Sứ luôn luôn giáp cung thiên di. Dương nam, âm nữ đi thuận, an Thiên Thương ở cung giao hữu, an Thiên Sứ ở cung tật ách; âm nam, dương nữ đi ngược, an Thiên Thương ở cung tật ách, an Thiên Sứ ở cung giao hữu.
(1) Cung vị Thiên Thương và Thiên Sứ giáp, nếu là chính diệu Hoá Kỵ, hoặc có tứ sát tinh cùng hội chiếu, bị các sao sát, kỵ của lưu niên xung khởi, sẽ chủ về tai nạn tật ách.
(2) Thiên Cơ hoặc Cự Môn, cũng không ưa Thiên Thương và Thiên Sứ giáp cung, chủ về nhiều bệnh; gặp các sao sát, kỵ thì càng đúng.
(3) Thiên Thương và Thiên Sứ giáp cung thiên di, ắt sẽ đồng thời hội chiếu cung huynh đệ và cung phụ mẫu, nếu trong đại vận gặp tiểu hạn rơi vào cung bị Thiên Thương và Thiên Sứ giáp (chú ý, là tiểu hạn, chứ không phải là cung mệnh của lưu niên), cần phải quan sát cung huynh đệ và cung phụ mẫu xem có tinh hệ "Thiên Cơ, Cự Môn" toạ thủ hay không; có tứ sát và Hoá Kỵ hay không. Nếu có, mà các sao sát, kỵ lại nặng, thì có thể anh em hoặc cha mẹ mắc bệnh tử vong. Nhưng vì dùng tiểu hạn để luận đoán, nên ứng nghiệm dễ bị sai lệch một hai năm.
(4) Thiên Thương và Thiên Sứ có phân biệt hoạ nhẹ và hoạ khẩn. Thiên Thương ưa kim cục (tức ba cung Tị, Dậu, Sửu), không ưa phương hoả (tức hai cung Ngọ, Mùi); Thiên Sứ ưa ba cung Tí, Ngọ, Mùi mà không ưa ba cung Thìn, dậu, Tuất.
(5) Người sinh năm dương không ưa Lưu Lộc đồng cung với Thiên Thương hay Thiên Sứ, chủ về bệnh hoạn.
Thiên Hình thuộc dương hoả, Thiên Diêu thuộc âm thuỷ, Thiên Hình chủ về tự kềm chế, Thiên Diêu chủ về phóng túng, là cặp sao đôi có bản chất trái ngược nhau.
Thiên Hình ưa Văn Xương, Văn Khúc kết thành đôi hội chiếu hoặc đồng độ, chủ về tự kềm chế mà không có sát khí. Nếu Thiên Hình ở các cung Dần, Mão, Dậu, Tuất là nhập miếu; gặp Văn Xương, Văn Khúc, cổ nhân gọi là "chấp chưởng biên cương", nhưng lại không phải là võ tướng, phần nhiều chủ về chức võ mà nghiệp văn, tương tự như hải quan ngày nay.
Thiên Hình hội hợp với "Thái Dương, Cự Môn" là sao chấp chưởng hình pháp.
Thiên Hình hội hợp với "Thái Dương, Thiên Lương", gặp thêm các sao sát, kỵ, lại chủ về phạm pháp kiện tụng, mà không chủ về chấp chưởng hình pháp, không giống trường hợp hội hợp với "Thái Dương, Cự Môn".
Tử Vi hội Tham Lang ở hai cung Tí hoặc Ngọ, hoặc đồng độ với Tham Lang ở hai cung Mão hoặc Dậu, ưa gặp Thiên Hình, không phải là "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về có thể tự kềm chế.
"Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ với Kình Dương, lại có Thiên Hình cùng bay đến, cổ nhân nói là dùng dụng cụ sắc bén để kiếm tiền, như thợ cắt tóc, đồ tể, thời hiện đại cũng có thể là bác sĩ ngoại khoa, nha sĩ.
Thiên Hình ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có sắc thái "cô độc và hình khắc", bất lợi đối với lục thân, cần phải xem xét kỹ các cung lục thân mà định.
Cung tật ách có Thiên Hình, lại có các sao sát, kỵ xung hội, đề phòng tuổi trẻ tàn tật, hoặc sinh ra đã bị dị tật. Cung tật ách của lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên Hình, bị Lưu Dương xung hội, chủ về phải phẫu thuật.
Thiên Diêu chủ về đào hoa, có duyên gặp gỡ, hoặc có tính chất "tiếng sét ái tình". Gặp thêm Hàm Trì, Đại Hao, Mộc Dục, có thể làm mạnh thêm bệnh của Thiên Diêu, như hiếu sắc, trùng hôn (tức cùng lúc kết hôn với hai người), bệnh về tính dục. Gặp thêm Hồng Loan, Thiên Hỉ thì có thể giảm nhẹ những bệnh này, có lúc chủ về có duyên với người khác giới, hay được người khác giới chào đón.
Thiên Diêu cũng không ưa thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về dễ quyến luyến chốn phong hoa tuyết nguyệt.
Văn Xương, Văn KHúc đồng độ với Thiên Diêu, ắt là người phong lưu, tự đánh giá mình cao.
Thiên Diêu đồng độ với Văn Xương, Văn Khúc và Thiên Hình thì có thể hành động một cách thiết thực.
Thiên Diêu hội các sao sát, kỵ, sẽ làm mạnh thêm tính chất vì sắc mà gây ra hoạ; cần phải xem xét kỹ tính chất của tổ hợp tinh hệ chính diệu, và xem ở cung nào mà định. Nếu ở cung tài bạch, chủ về vì tửu sắc mà phá tài, ở cung điền trạch, chủ về sản nghiệp của ông bà hay cha mẹ bị phá tán, ở cung phu thê, chủ về trùng hôn, tái hôn, ở cung phúc đức, chủ về tư tưởng dễ bị hỗn loạn.
Thiên Diêu thủ cung thiên di, có sao cát cùng bay đến, tổ hợp tinh hệ chính diệu cũng cát, chủ về đi xa, chuyển dời đến nơi khác sẽ gặp nhiều cơ hội, và được người ở tha hương trợ lực.
Cung Thiên Diêu toạ thủ, có Mộc Dục, Hàm trì, Đại Hao đồng độ, lưu niên mà gặp chúng, chủ về đau khổ mang tính chất đào hoa.
Thiên Khốc thuộc dương kim, chủ về hình khắc, buồn đau; Thiên Hư thuộc âm thổ, chủ về lo nghĩ, trống rỗng.
Thiên Khốc là sao tình cảm, chủ về đau khổ nội tâm, vì vậy không nên ở cung phúc đức.
Thiên Hư là sao có tính vật chất, chủ về thiếu thốn vật chất. Vì vậy Thiên Hư không nên ở cung tài bạch, cũng không ưa ở cung tật ách, chủ về thân thể hư nhược, hoặc bệnh tật có tính hao tổn.
"Thiên Khốc, Thiên Hư" đồng độ với Lộc Tồn hoặc Hoá Lộc, nếu ở hai cung Mão hoặc Thân, tinh hệ chính diệu có tài khí vượng, sẽ chủ về nhờ tiền bạc mà tăng tiếng tăm; hoặc dễ có tiền của, ắt sẽ làm cho người ngoài biết.
Tinh hệ Thiên Đồng thủ cung huynh đệ, có "Thiên Khốc, Thiên Hư" cùng bay đến, chủ về anh chị em bất hoà với người phối ngẫu.
Hồng Loan thuộc âm thuỷ, Thiên Hỉ thuộc dương thuỷ, Hồng Loan chủ về hôn nhân, Thiên Hỉ chủ về sinh con cái. Hai sao này vĩnh viễn đối nhau, cho nên tính chất của chúng ảnh hưởng lẫn nhau.
Nữ cung mệnh gặp Hồng Loan thì kiều diễm, gặp Thiên Hỉ thì có vẻ đẹp lạnh lùng.
Ở cung tử nữ gặp Hồng Loan hay Thiên Hỉ, chủ về nhiều con gái, ít con trai.
Tử Vi có Hồng Loan hay Thiên Hỉ đồng độ, lại gặp cát tinh, tuổi trẻ thì chủ về kết hôn, tuổi già thì chủ về được phong hàm danh.
Cung tài bạch có chính diệu cát, gặp Hồng Loan hay Thiên Hỉ, chủ về "hoan hỉ tài" (như tiền thắng cá cược hay ăn cờ bạc); cũng thích hợp với những nghề liên quan đến "hỉ khánh" (chuyện mừng).
Về luận đoán thời gian kết hôn và mang thai, có thể lấy cung mệnh hoặc cung phu thê của lưu niên có Hồng Loan, Thiên Hỉ bay đến làm ứng kỳ, nhưng cần phải có tinh hệ chính diệu cát lợi ổn định mới đúng, nếu không, nên trì hoãn một hai năm, chờ đến khi cung mệnh hoặc cung phu thê của lưu niên có tổ hợp tinh hệ cát lợi mới ứng nghiệm.
Hồng Loan hay Thiên Hỉ bay đến cung điền trạch của lưu niên, chủ về có thêm nhân khẩu (thời cổ đại là mua nô tì, sinh con cái), nếu gặp thêm Tả Phụ, Hữu Bật, là có khách đến tá túc.
Tam Thai thuộc dương thổ, Bát Toạ thuộc âm thổ, đều là sao "nghi trượng", cần phải kết thành đôi để hội chiếu, mới chủ về tăng cao địa vị.
Cho nên Tam Thai, Bát Toạ ưa hội hợp các chính diệu như Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, chủ về quý hiển, hội hợp Thiên Lương cũng thích hợp.
Nếu Tam Thai, Bát Toạ hội hợp cung phụ mẫu, gặp chính diệu cát, chủ về gia thế cao quý, xuất thân trâm anh thế phiệt. Nếu tinh hệ chính diệu không cát tường, lại gặp sao lẻ phụ tá, hoặc có các sao đào hoa cùng bay đến, chủ về cha mẹ "lưỡng trùng".
Tam Thai, Bát Toạ không ưa ở cung phu thê, nếu nguyên cục có các sao không cát tường, sẽ làm mạnh thêm tính chất bất lợi của chúng.
Long Trì thuộc dương thuỷ, Phượng Các thuộc dương thổ, đều là sao văn minh, nếu kết thành đôi hội nhập, chủ về tài nghệ.
Long Trì, Phượng Các hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, có thể làm tăng sức mạnh, lợi về thi cử, cạnh tranh.
Long Trì Phượng Các giáp cung tài bạch hoặc cung sự nghiệp, mà không có Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung, hoặc Văn Xương, Văn Khúc giáp cung, chủ về có danh tiếng trước rồi có tiền của sau, hoặc tiền của do danh tiếng mà có, hoặc nhờ tài nghệ mà có tiền của.
Long Trì, Phượng Các chủ về "thanh quý" (sang quý thanh cao) mà không phải là "phú quý" (giàu sang), cũng chủ về nghệ thuật, kiến trúc, xây dựng.
Long Trì, Phượng Các ưa giáp Thiên Phủ, Thiên Tướng, chủ về làm tăng phong thái văn nhã.
Thất Sát và Long Trì cùng ở cung mệnh hoặc cung tật ách, tuổi già chủ về tai điếc; Thất Sát đồng độ với Phượng Các, chủ về rối loạn khứu giác và vị giác. Cần phải có lưu sát tinh xung khởi mới đúng.
Cô Thần thuộc dương hoả, Quả Tú thuộc âm hoả, chủ về cô quả, không ưa bay đến cung phụ mẫu và cung phu thê.
Nếu tinh hệ chính diệu là tổ hợp Vũ Khúc, Thiên Lương, Thiên Cơ, Cự Môn, Thất sát, Phá Quân, thì có thể phát huy tính chất của Cô Thần, Quả Tú, chủ về sớm mồ côi hoặc vợ chồng hình khắc, rời xa quê hương, con cái phân ly. Vì vậy, cung phu thê mà gặp các tổ hợp kể trên, cần phải kết hôn muộn mới có thể tránh sinh ly tử biệt, hoặc bằng mặt mà không bằng lòng.
Nữ mệnh có cung phu thê là Vũ Khúc Hoá Kỵ, Cô Thần và Quả Tú hội hợp, chủ về không có đời sống vợ chồng.
Cung phúc đức gặp Cô Thần, Quả Tú, chủ về tinh thần trống rỗng; nhưng cũng chủ về tư tưởng độc lập, cần phải xem bản chất của tổ hợp tinh hệ chính diệu mà định.
Cung tài bạch gặp cát tinh, có Cô Thần, chủ về tuổi trẽ tự lập gia nghiệp.
Cung sự nghiệp gặp cát tinh, có Quả Tú, chủ về tuổi trẻ tự lập, không hưởng phúc ấm của cha anh.
Ân Quang thuộc dương hoả, Thiên Quý thuộc dương thổ; chủ về vinh dự đặc biệt, tước lộc, có tính chất được tưởng thưởng; không giống như Tam Thai, Bát Toạ thuần tuý chủ về địa vị, nhưng nhờ được tưởng thưởng mà địa vị tăng cao một cách tương ứng.
Ân Quang, Thiên Quý có thể mang lại lợi ích thực tế, như trợ giúp cạnh tranh đắc lợi, thi cử đỗ đạt.
Rất ưa hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Âm, Thái Dương hoặc giáp cung có các tinh hệ kể trên.
Hai sao Ân Quang, Thiên Quý giáp cung sự nghiệp, lại được Thiên Khôi, Thiên Việt cùng giáp cung, ở thời cổ đại là chủ về được thế tập chức tước của cha. Ở thời hiện đại thì lợi về phát triển chuyên môn, cũng lợi về chuyên nghiệp. Nếu giáp cung tài bạch, thì danh lợi song thu, hoặc nhờ có danh mà đạt được lợi.
Ân Quang, Thiên Quý hội chiếu cung phu thê, nếu có "Lộc trùng điệp", chủ về được tiền của là nhờ vợ.
Ân Quang, Thiên Quý giao hội với Văn Xương, Văn Khúc, lợi về thi cử.
(Nguồn: sưu tầm)
Bạn cần xem xét rất nhiều yếu tố trước khi quyết định chọn một tấm thảm cho không gian của mình, việc này đỏi hỏi sự kĩ lưỡng, nhưng cũng rất đang để bõ thời gian quan tâm.
Vị trí và mục đích
Trước tiên, bạn phải xác định được vị trí trải thảm và mục đích của việc đó là gì ?! Hai yếu tố này đóng vai trò rất quan trọng đối với loại thảm mà bạn cần sử dụng.
Chất liệu
Có rất nhiều loại thảm được dệt từ nhiều loại chất liệu khác nhau, từ sợi tự nhiên, len sợi, sợi tổng hợp, len pha... Bạn cần xem xét kĩ không gian của bạn sẽ hợp với loại thảm nào? Ngoài ra, bạn cũng có thể lựa chọn chất liệu dựa trên sở thích của bản thân và gia đình, ví dụ, nếu thích cảm giác ấm áp và em ái cho đôi chân khi đi trong nhà, bạn có thể chọn loại thảm len được dệt từ lông cừu, chúng khá đắt tiền nhưng là một khoản đầu tư rất xứng đáng.
Kích thước
Sau khi xem xét kĩ các yếu tố trên, bạn đã có thể xác định được kích thước tấm thảm mà mình sẽ mua. Ngoài ra, bạn cũng nên suy nghĩ đến những ý tưởng, cảm hứng mà bạn muốn truyền đạt trong không gian của gia đình mình để quyết định kích thước của tấm thảm. Nếu bạn muốn che đi một số khuyết điểm của không gian, một tấm thảm lớn và ấn tượng là một lựa chọn tốt, hoặc nếu bạn muốn một chút cảm giác ấm áp cho căn phòng, một tấm thảm nhỏ nơi đặt bàn cà phê chính là những gì bạn cần.
Màu sắc
Đây cũng là một yếu tố không thể bỏ qua khi lựa chọn thảm. Tùy vào những đồ nội thất có sẵn, cũng như màu tường mà bạn chọn cho không gian của mình một tấm thảm phù hợp nhất.
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Phong thủy luôn là vấn đề bạn cần phải lưu ý khi xây nhà, nếu để ý và làm đúng theo phong thủy, bạn có thể hạn chế được những rủi ro thường thấy khi xây dựng và làm mới ngôi nhà thân yêu của mình.
Phong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì địa khí sẽ quyết định được mảnh đất đó có tốt cho việc phát triển công danh tài lộc, sức khỏe hay không. Nếu mảnh đất đó mà có “xạ khí” tức là tử khí thì cần phải hóa giải khí đất trước khi xây dựng. Nếu gia chủ không kiểm tra địa khí và thiết kế phong thủy trước khi xây dựng thì khi làm nhà trên đó sẽ rất nguy hiểm và khó hóa giải.
Một ngôi nhà hợp phong thủy tối thiểu phải đáp ứng được những yếu tố sau:
1./ Về vị trí ngôi nhà
Ngôi nhà đẹp trước tiên phải được tọa lạc trên miếng đất bằng phẳng nằm ở địa thế cao, tránh xậy nhà trên miếng đất nghiêng như thế sẽ khiến những người sống trong căn hộ đó cảm giác lo lắng. Nhà ở nơi đất thấp ngoài việc bị lụt lội mùa mưa, còn bị ẩm mốc mùa hè.
Xét từ góc độ khoa học, ngôi nhà được xây trên thế đất bằng phẳng sẽ có khả năng chịu lực tốt và công trình sẽ có tuổi thọ lâu hơn. Nhưng nếu phải xây nhà trên mảnh đất dốc thì lựa chọn cần chú ý quan sát môi trường xung quanh.
Ngôi nhà đẹp hợp phong thủy không chỉ hài hoà từ hướng nhà, hướng cửa mà còn từ tổng thể phối cảnh xung quanh ngôi nhà.
Khi xây nhà nên có một chút đất trống ở hướng Nam, điều này sẽ rất tốt đối với gia chủ. Dù cho mảnh đất đó để không hoặc sử dụng làm vườn hoa đều đem lại những điều tốt cho mọi nhà. Nếu mặt phía Nam của ngôi nhà đối diện với một vườn hoa thì càng tốt. Nó sẽ tạo ra một không gian thư thái, thoáng mát để nghỉ ngơi cho nhà bạn và đặc biệt cát lợi về mặt phong thủy .
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
2./ Về thiết kế ngôi nhà
Thiết kế phong thủy trước khi xây dựng là để việc phân phòng, phân cổng, cửa, hướng nhà, hướng bếp, hướng ban thờ, phòng ngủ, đường nước vào và ra đúng với nguyên lý và kỹ thuật phong thủy, nhằm đảm bảo ngôi nhà xây xong thì mọi người sống trên đó được khỏe mạnh, tinh thần luôn ở trạng thái tốt.
Lưu ý phong thủy cho cổng ngôi nhà
Thiết kế phong thủy trước cũng là việc lựa chọn được các số đo đẹp cho cửa cổng, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ, ban thờ sao cho lấy được các số đẹp mang lại may mắn. Ngoài ra, bạn sẽ không phải phá gian nhà này để làm phòng bếp hay thay đổi thiết kế lại ngôi nhà trong quá trình sử dụng. Việc chuẩn bị trước còn tạo cho bạn tư tưởng yên tâm và thoải mái để công việc cũng như cuộc sống được tươi mới hơn.
Khi làm nhà, bạn nên cân đối tỉ lệ giữa diện tích nhà và cửa chính, cổng chính. Không nên thiết kế cống chính và cửa chính quá lớn so với diện tích căn nhà. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ ngôi nhà mà còn khiến nhà bị hao tài, tán của…
Mái che mưa (thường ở sân trước nhà) nên làm thành hình vòng cung, tránh làm thành mũi nhọn nếu không sẽ làm bất lợi cho chủ nhà, đặc biệt về sức khỏe.
Ánh sáng trong phòng phải đầy đủ, tránh xa cảnh tối tăm ẩm thấp. Mỗi căn phòng đều cần có ánh sáng mặt trời hay đèn chiếu sáng, nếu có hành lang gấp khúc cần bố trí đèn tại các vị trí thiếu sáng.
Không khí trong nhà ở cần phải thường xuyên được thay mới, có sự lưu thông với bên ngoài. Không nên sợ bụi bặm vào nhà mà không mở cửa sổ vì dễ sinh bệnh tật.
Nhiệt độ nhà bếp không nên quá cao dễ làm con người bực tức, nóng nảy, sản sinh mâu thuẫn, xung đột. Nên bố trí ở vị trí thoáng đãng, hoặc lắp quạt thông để giữ cho nhiệt độ điều hoà.
Nhà vệ sinh không được ẩm ướt, tích tụ lưu lại các mùi vị khó chịu. Nên lắp đặt quạt hút gió. Rác thải cũng nên được thường xuyên dọn dẹp.
Phòng ngủ không nên đối viện với cửa ra vào chính. Nếu không dễ dẫn đến làm chủ nhân thất thoát tài sản hoặc sinh bệnh tật. Trên cửa phòng ở nên bố trí rèm và quạt thông gió.
Không nên bố trí các cửa phòng ngủ đối diện nhau dế sinh bầu không khí cạnh tranh cao thấp. Nên lắp rèm che hoặc luôn đóng của buồng.
Trước cửa lớn kị rác bẩn tích tụ. Không để đồ vật cản trở ở cửa chính dẽ làm người sinh bệnh tật.
Tư thế giường nằm nên dựa vào núi hoặc bức tường. Tránh mộng mỵ, tính tình thất thường.
Muốn tránh thất thoát tài sản quý giá, những vị trí bị sứt mẻ, rò rỉ, nứt nở cần sửa chữa ngay. Phòng ở cần sạch sẽ ngăn nắp, tránh côn trùng, chuột rắn ở trong phòng.
Khi làm nhà, nếu thiết kế không hợp phong thủy sẽ làm gia chủ hao tiền, tốn của.
Những cấm kị khi xây nhà
Có an cư mới lạc nghiệp, do vậy chuyện an cư này cũng cần phải xét đến các yếu tố phong thủy vốn có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp, sức khỏe của gia chủ khi sống trong ngôi nhà đã xây. Dưới đây là những đại kỵ bạn cần tránh:
1./ Về kiểu nhà, cần tránh các kiểu
Đại kị nhà xây theo kiểu chữ hỏa
2./ Về dáng nhà, cần tránh
3. Số phòng và số bậc thang trong nhà
Số phòng và số bậc thang trong nhà liên quan đến chuyện lành dữ. Do đó cần tuân theo số may mắn để được phúc:
Số phòng cần tránh lấy số chắn, lấy số lẻ
*Với số phòng
Quy lại, số phòng cần tránh chẵn, lấy số lẻ.
*Với số cầu thang:
Cần tính theo các giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử mà đếm. Nếu bậc cuối cùng là sinh thì tốt. Nếu là bệnh và tử thì sẽ rất xấu. Ngoài ra, nếu có bậc tam cấp cần tránh con số 4 vì nó trùng âm với chữ "tử".
4. Những kiêng kỵ khác