Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vượng Sơn, Vượng Hướng trong Phong Thủy

Một điểm cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng" (hay "Đáo Sơn, Đáo Hướng”) này là tuy trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường coi những nhà có vượng khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau khi đã thiết lập được tinh bàn (hay trạch vận) cho 1 căn nhà thì điều trước tiên là phải xác định được những khu vực nào có sinh –vượng khí, cũng như những khu vực nào có suy - tử khí của căn nhà đó. Điều này cũng rất dễ dàng, vì chỉ cần căn cứ vào thời điểm lúc đang coi Phong thủy cho căn nhà là thuộc vận nào, rồi lấy vận đó làm chuẩn mốc. Kế đó nhìn vào hết 9 cung của trạch bàn.

Hễ thấy cung nào có Hướng tinh cùng 1 số với đương Vận (tức vận hiện tại) thì khu vực đó được xem là có VƯỢNG KHÍ. Những cung nào có 2 số tiếp theo sau vượng khí thì được xem là có SINH KHÍ. Những cung nào có số trước số của vượng khí thì bị coi là có SUY KHÍ. Còn những cung nào có những số trước vượng khí từ 2 số trở lên thì đều bị coi là có TỬ KHÍ. Những điều này được áp dụng cho cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh, còn Vận tinh thì không mấy quan trọng nên không cần phải xét tới.

 Vượng Sơn Vượng Hướng

Thí dụ 1: Nhà tọa TÝ hướng NGỌ, xây xong và vào ở trong vận 8.


Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy Hướng tinh 8 tới phía NAM, nên phía NAM được xem là đắc VƯỢNG KHÍ (vì hướng tinh cùng 1 số với đương Vận, tức Vận 8). Còn phía ĐÔNG BẮC có hướng tinh số 9, phía TÂY có hướng tinh số 1, tức là 2 số tiếp theo sau số 8 (vì sau 8 là 9, sau 9 lại trở về 1) nên là 2 khu vực có SINH KHÍ. Còn phía BẮC có hướng tinh số 7, trước số 8 (đương vận) 1 số nên là khu vực có SUY KHÍ. Những phía còn lại có những hướng tinh 6, 5, 4, 3, 2, tức là những số trước số 8 tối thiểu là 2 số nên đều là những khu vực có TỬ KHÍ. Đó là mới chỉ xét về Hướng tinh. Sau đó lần lượt làm như vậy với Sơn tinh để tìm ra những khu vực có Sinh- Vượng khí hay Suy-Tử khí.

Thí dụ 2: Cũng nhà tọa TÝ hướng NGỌ, xây xong và vào ở năm 2000 (tức vận 7).

Đến năm 2007 mới coi Phong thủy. Vì nhà còn mới, chưa tu sửa gì nhiều, chủ nhà cũng chưa bao giờ đi xa quá 1 tháng, cho nên khi lập trạch vận thì vẫn phải dùng Vận 7 để lập Vận bàn. Sau đó lấy Tọa, Hướng bàn thì sẽ thấy Hướng tinh 7 tới phía BẮC, Hướng tinh 8 tới phía TÂY NAM. Hướng tinh 9 tới phía ĐÔNG, Hướng tinh 1 tới phía ĐÔNG NAM. Vì nhà này nhập trạch trong vận 7, nên lúc đó phía BẮC có Hướng tinh số 7, nên là 1 khu vực tốt (đắc VƯỢNG KHÍ). Còn phía ĐÔNG NAM có Hướng tinh số 1, lúc đó trong Vận 7 còn là Tử khí nên là 1 khu vực xấu. Nhưng đến năm 2007 mới coi Phong thủy thì đã qua Vận 8, nên lúc đó khu vực phía BẮC có số 7 là bị SUY KHÍ, nên đã biến thành xấu. Còn khu vực phía TÂY NAM có hướng tinh số 8, lúc này đã trở thành VƯỢNG KHÍ, nên là khu vực tốt nhất của căn nhà. Rồi Hướng tinh số 1 đang là TỬ KHÍ của vận 7 trở thành SINH KHÍ của vận 8, nên khu vực phía ĐÔNG NAM cũng đang từ xấu mà biến thành tốt.

Cho nên sự biến đổi của Sơn, Hướng tinh: từ Sinh-Vượng thành Suy-Tử, rồi từ Suy-Tử trở thành Sinh-Vượng là điều mà người học Huyền Không cần để ý, và nó cũng là 1 trong những yếu tố giúp cho việc giải đoán Phong thủy thêm phần linh hoạt và uyển chuyển, chính xác hơn.

Sau khi đã phân biệt Cửu khí thành SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ cho mỗi vận thì mới xét tới mức độ ảnh hưởng của chúng như sau:

- SINH KHÍ: có tác dụng tốt, tuy ảnh hưởng lâu dài và trong tương lai, nhưng cũng cần được phát huy.

- VƯỢNG KHÍ: có tác dụng tốt đẹp và mau chóng, nhất là trong lúc còn đương vận, cho nên cần được phát huy càng sớm càng tốt.

- SUY KHÍ: vì chỉ là khí suy nên tác dụng cũng chưa đến nổi xấu lắm (ngoại trừ các khí 2, 5, 7) cho nên tuy cần phải né tránh nhưng cũng không phải là tuyệt đối.

- TỬ KHÍ: là những khí xấu cần phải né tránh, nếu không sẽ có tai họa về nhân sự, sức khỏe hoặc tiền bạc.

Kế đó lại còn phải phân biệt những khí SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ đó là Sơn tinh hay Hướng tinh. Nếu là Sơn tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến nhân sự (số lượng người nhiều, ít, tài giỏi hay không...trong nhà). Nếu là Hướng tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe và tài lộc của gia đình đó.

Trong “Thiên ngọc kinh Ngoại thiên” của Dương công Chẩm có viết: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không chỉ có nghĩa là “núi”, mà còn là Sơn tinh của 1 trạch vận. Cũng như chữ “Thủy” không chỉ có ý nghĩa là “sông nước”, mà còn là Hướng tinh (do quan niệm phương tọa cần có núi, phía trước cần có thủy). Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, còn Hướng tinh chủ về tài lộc.

Vì đã gọi là “Sơn”, nên Sơn tinh nếu muốn phát huy tác dụng (hay đắc cách) thì cần phải có núi cao (hay nhà hoặc cây cao...). Vì đã gọi là “Thủy”, nên Hướng tinh nếu muốn phát huy tác dụng thì cần phải gặp nước (thủy). Nhưng không phải Sơn tinh nào cũng cần phải gặp núi, mà chỉ có những Sơn tinh đang là khí Sinh, Vượng mà thôi. Chẳng hạn như trong vận 1 thì các Sơn tinh 1 (vượng khí), 2, 3 (sinh khí) đóng ở khu vực nào thì cần có núi hay nhà cao ở tại khu vực đó. Có như vậy thì gia đình đó nhân đinh đông đúc, lại chủ xuất hiện người tài giỏi, có danh, có tiếng. Ngược lại, những khu vực có những Sơn tinh là Suy khí hay Tử khí thì lại cần thấp, trống hay bằng phẳng. Nếu tại những khu vực đó mà có núi hay nhà cao... thì sẽ có tai họa về nhân đinh như hiếm người, con cái khó lấy chồng, lấy vợ, hoặc trong nhà xuất hiện cảnh chia ly, góa bụa, cô quả...

Đó chỉ là riêng đối với các trường hợp khí SINH, VƯỢNG, SUY, TỬ của Sơn tinh. Còn đối với các trường hợp của Hướng tinh cũng thế. Tuy rằng Hướng tinh cần có Thủy, nhưng chỉ những khu vực nào có Sinh khí hay Vượng khí của Hướng tinh mới cần có Thủy như sông, hồ, ao, biển hoặc buồng tắm, nhà vệ sinh, đường xá, cửa ra vào... Nếu được như thế thì tài lộc dồi dào, của cải sung túc, công việc làm ăn ổn định... Ngược lại, nếu những khu vực có Suy, Tử khí của Hướng tinh mà lại có “THỦY” thì nhà đó tài lộc túng thiếu, dễ bị hao tán tiền của, công ăn việc làm lụn bại...

Thí dụ: nhà hướng 30 độ, tức tọa MÙI hướng SỬU, vào ở trong vận 8.

Nếu lập Trạch vận thì sẽ thấy các Hướng tinh 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) ở các khu vực phía ĐÔNG BẮC, TÂY và TÂY BẮC. Cho nên những khu vực này (bên trong hay bên ngoài nhà) cần có thủy của sông hồ, ao biển, buồng tắm, cửa ra vào ... Còn khu vực phía NAM có hướng tinh 7 (Suy khí) nên không nên có thủy, nếu có tất nhà sẽ dễ bị trộm cướp quấy phá. Những khu vực còn lại cũng toàn là Tử khí của Hướng tinh nên đều không nên có thủy hoặc cửa ra vào.

Kế đó lại xét tới những trường hợp của các Sơn tinh. Vì các Sơn tinh số 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) nằm tại các khu vực phía TÂY NAM, BẮC và NAM, nên nếu những khu vực này mà có núi hay nhà cao... thì nhà này sẽ đông con, nhiều cháu, con cái tài giỏi, nên người... Các khu vực còn lại thì chỉ toàn là Suy khí hay Tử khí của Sơn tinh, nên nếu có núi hay nhà cao tất sẽ làm phương hại tới nhân đinh của căn nhà này.

Sau khi đã biết và phân biệt được những yếu tố trên rồi mới có thề xét tới trường hợp cơ bản đầu tiên của Phong thủy Huyền Không là Vượng sơn, Vượng hướng. Như chúng ta đã biết, Phong thủy bắt đầu từ Hình tượng, rồi sau này mới phát triển lên tới Lý khí và Vận số. Mà Hình tượng phái (tức Loan đầu phái) thường chủ trương nhà cần có núi bao bọc, che chở nơi phía sau (Huyền Vũ), còn phía trước thì cần phải trống thoáng, có sông, hồ phản chiếu ánh sáng để tích tụ Long khí (Chu Tước), đồng thời có cửa ra vào để hấp thụ Long khí. Còn đối với Phong thủy Huyền không thì khi cất nhà phải chọn hướng như thế nào cho Vượng khí của Hướng tinh tới Hướng (tức phía trước), còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau. Phối hợp giữa Hình tượng với Lý khí (tức phi tinh) thì nhà này sẽ có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, đắc Thủy của sông hồ, lại có lối ngõ, cửa nẻo vào nhà nên tài lộc đại vượng. Còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau gặp núi nên chủ vượng nhân đinh, con cháu đông đúc, nhân tài xuất hiện nên là cách cục “phúc lộc song toàn”. Cho nên Vượng Sơn, Vượng Hướng (còn gọi là ĐÁO SƠN, ĐÁO HƯỚNG, vì vượng khí của Sơn tinh tới tọa, vượng khí của Hướng tinh tới hướng) là cách cục cơ bản của Phong thủy và Huyền Không. Những nhà có cách cục như vậy còn được gọi là những nhà có “Châu bảo tuyến” (hướng nhà quý như châu báu). Điểm quan trọng của những trường hợp này là giữa hình thế bên ngoài (Loan đầu) và phi tinh có sự tương phối thích hợp. Ngược lại, nếu 1 căn nhà phía trước cũng có sông hồ, phía sau cũng có núi cao. Nhưng do việc chọn hướng không thích hợp, hoặc do xây dựng không đúng lúc mà khi lập Trạch vận thì Vượng khí của Sơn tinh lại tới hướng (phía trước), còn vượng khí của Hướng tinh lại tới tọa (phía sau) thì tuy hình thế chung quanh của ngôi nhà là tốt, nhưng do không ứng hợp được với phi tinh nên lại chủ phá tài, tổn đinh, tan cửa nát nhà mà thôi. Đây còn gọi là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy” sẽ nói ở 1 phần khác.

Một điểm cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng" (hay "Đáo Sơn, Đáo Hướng”) này là tuy trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường coi những nhà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, còn vượng khí của Sơn tinh tới phía sau nhà là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”. Nhưng điều quan trọng là ngoại hình bên ngoài của căn nhà (Loan đầu) có phù hợp với vượng khí của Sơn và Hướng tinh hay không? Nếu phù hợp thì mới thật sự là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”, và nhà mới phát phúc, phát lộc. Còn nếu ngoại hình không phù hợp thì sẽ biến thành cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà gây ra hung họa đầy dãy. Nhưng thế nào là phù hợp hay không phù hợp? Như chúng ta đã biết, Sơn tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có núi cao. Còn Hướng tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có Thủy như sông biển hoặc đường đi hay cửa nẻo ra vào nhà... Cho nên những nhà mà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước thì còn đòi hỏi khu vực phía trước của nhà đó phải trống, thoáng, có thủy hay đường đi, cửa ra vào... Còn vượng khí của Sơn tinh đến phía sau cũng đòi hỏi khu vực phía sau nhà có núi hay nhà cao... Có như thế mới được coi là thật sự đắc cách “Đáo Sơn, Đáo Hướng” mà đinh, tài đều vượng. Ngược lại, nếu như nhà đó có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, nhưng phía trước nhà lại có núi hay nhà cao, hoặc bị gò đất nhô lên, hay bị cây cối rậm rạp, um tùm che chắn... tức là vượng khí của Hướng tinh không gặp “Thủy” mà lại gặp “Sơn”. Còn vượng khí của Sơn tinh tuy tới phía sau, nhưng phía sau nhà lại không có núi hay nhà cao, mà lại có sông, hồ, ao, biển, hoặc cống rãnh..., tức là vượng khí của Sơn tinh không gặp “Sơn” mà lại gặp “Thủy”. Đó đều là những cách cục suy bại về tài lộc và nhân đinh. Cho nên mới nói giữa phi tinh và ngoại hình Loan đầu bên ngoài phải có sự phù hợp là như vậy. Nếu phù hợp thì mới thật sự là “vượng”, và mọi sự mới được tốt đẹp. Còn nếu như trái ngược (tức không phù hợp) thì dù có “vượng” cũng sẽ thành “suy” và phát sinh ra muôn vàn tai họa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vượng Sơn, Vượng Hướng trong Phong Thủy

Những chòm sao nữ thích làm khó người theo đuổi mình –

Mỗi người sinh ra đều có một tính cách riêng biệt, trong tình yêu càng thế, họ luôn có sự khác nhau. Cũng như 12 cung hoàng đạo, mỗi cung có một tính cách riêng biệt. Trong tình yêu đôi lứa, Nữ Song Tử làm khó đối phương đơn thuần là do sự tinh nghịc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

h của cô ấy. Nhân Mã nhìn thì luôn vui tươi, cởi mở, nhưng đừng nghĩ rằng cô ấy sẽ dễ theo đuổi. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những chòm sao nữ thích làm khó người theo đuổi mình trong bài viết sau đây để biết thêm chi tiết nhé!

Nội dung

  • 1 Thứ 1. Xử Nữ
  • 2 Nhóm 2. Song Tử
  • 3 Nhóm 3. Thiên Bình
  • 4 Nhóm 4: Nhân Mã
  • 5 Nhóm 5. Bò Cạp

Thứ 1. Xử Nữ

xn-1985-1400667102

Những cô gái Xử Nữ, đặc biệt là những cô gái mệnh Kim cung Xử Nữ hay vô tình làm khó đối phương. Mặc dù thật ra cô ấy cũng thích đối phương nhưng vẫn sẽ giữ khoảng cách với họ. Thứ nhất là bởi cô ấy cho rằng, đối với con gái, cẩn thận là rất quan trọng. Thứ hai, cô ấy cho rằng không nên để đối phương thành công quá dễ dàng. Vì nếu như vậy thì bản thân sẽ chẳng còn giá trị gì trong mắt đối phương.

Chính vì thế, các cô gái Xử Nữ sẽ luôn cố gắng giữ khoảng cách với những người theo đuổi mình. Ngoài ra, suy nghĩ của những cô gái Xử Nữ cùng rất khác thường và là người theo đuổi chủ nghĩa hoàn hảo. Khi cô ấy cảm thấy đối phương vẫn chưa thực sự hoàn hảo, cô ấy sẽ tạo ra rất nhiều cửa ải để thử thách. Cô ấy cho rằng nếu đối phương có thể kiên trì đến cùng thì mới thể hiện được thành ý với mình. Khi ấy, cô ấy mới đồng ý nhận lời.

Nhóm 2. Song Tử

1-4461-1400819004

Nữ Song Tử làm khó đối phương đơn thuần là do sự tinh nghịch của cô ấy. Song Tử là một cô gái thông minh lanh lợi, làm sao họ có thể để bạn thành công một cách dễ dàng được chứ? Vì thế nếu bạn muốn theo đuổi Song Tử, trước hết nên luyện trái tim mình cho thật khoẻ. Bởi lẽ có thể hôm qua cô ấy vẫn vui vẻ, mặt mày hớn hở khi ở bên bạn, nhưng hôm nay lại có thể mặt u ám, phớt lờ bạn. Cô ấy mưa nắng thất thường, khó mà đoán trước được.

Cho dù không có chuyện gì cô ấy cũng muốn trêu đùa một chút, làm cho tim gan của người theo đuổi mình thấp thỏm không yên, còn mình thì lại trốn vào một góc mà cười thầm. “Ai bảo bạn muốn thử thách với độ khó cao chứ? Thử thách luôn có giá của nó. Muốn thành công thì phải có nghị lực để kiên trì và khả năng chống lại áp lực lớn”.

Nhóm 3. Thiên Bình

2-8791-1400819005

Nếu bạn có tính quyết đoán cao, khả năng phân tích nhạy bén, là người vô cùng nhẫn nại và muốn thử một thứ tình cảm cực kỳ mờ ảo thì hãy theo đuổi một nữ Thiên Bình. Cô ấy là người lúc nào cũng do dự, phân vân, lơ lửng, lúc nào cũng cảm thấy không chắc chắn.

Hơn nữa, cô ấy cũng rất hay có những suy nghĩ kỳ quặc, nhạy cảm. Có những lúc cô ấy lạnh nhạt với bạn hơn cả núi băng, có lúc lại bị cảm động bởi những hành động quan tâm nhỏ nhặt vô thức của bạn, hoặc có lúc cô ấy sẽ lập tức tuyệt giao với bạn chỉ vì bạn vừa ngoáy mũi. Cô ấy thật sự chưa bao giờ nghĩ đến việc làm khó ai, chỉ là vì cô ấy không có cảm giác an toàn và cũng rất dễ thay đổi mà thôi.

Nhóm 4: Nhân Mã

3-6683-1400819006

Đừng thấy nữ Nhân Mã nhìn thì luôn vui tươi, cởi mở, tùy tiện, dám nói dám làm, mà nghĩ rằng cô ấy sẽ dễ theo đuổi. Nhầm, thế thì bạn đã nhầm to rồi! Thật ra, những cô gái Nhân Mã là người luôn giữ vững quan điểm của mình. Cô ấy rất quan tâm đến việc đối phương liệu có phải là mẫu người mà mình cần hay không. Nếu như không phải, bạn có bỏ thêm bao nhiêu công sức, thời gian và tâm tư đi chăng nữa thì cũng vô ích.

Cho dù là bạn có dùng hết các chiêu trò mánh khóe của mình thì cô ấy cũng sẽ phá gỡ từng cái một. Thậm chí, cô ấy còn chủ động xuất chiêu, cố gắng nghĩ cách để bạn biết khó mà lùi. Không giống với Thiên Bình, đối mặt với các cô gái Nhân Mã, bạn càng kiên trì chịu đựng thương vong thì sẽ lại càng thất bại thảm hại hơn.

Nhóm 5. Bò Cạp

bc-6471-1400667103

Thông thường, nếu nữ Bò Cạp nhận lời hẹn hò với bạn thì có nghĩa bạn đã thành công được một nửa. Nhưng nếu cô ấy không có tình cảm với bạn thì phản ứng của cô ấy cũng sẽ rất kiên định. Nếu cô ấy không thích bạn, cô ấy thà ngồi ở nhà ôm bắp rang bơ xem phim truyền hình dài tập chứ không thèm ra rạp xem phim với bạn.

Cô ấy sẽ hành động rất nhẫn tâm với những người theo đuổi mà mình không thích. Nếu đã không thích mà bạn vẫn bám lấy, thì cho dù bạn có chân thành đến thế nào, cô ấy vẫn coi bạn là nỗi phiền phức. Cô ấy sẽ nghĩ cách để bạn phải dừng bước, tránh lãng phí thời gian của hai bên. Vì thế, Bò Cạp cũng khó tránh khỏi top những cô gái thích làm khó những người theo đuổi mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao nữ thích làm khó người theo đuổi mình –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Ý nghĩa sao Tả Phù

Sao Tả Phù tại Mệnh là người có tài năng, mưu trí, hay cứu giúp người khác, có nhiều sáng kiến, đảm đang, có nhiều vây cánh, bè bạn giúp đỡ, không ở nơi quê quán, hoặc sớm xa cách một trong hai thân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tả Phù

Ý nghĩa sao Tả Phù

Hành: Thổ

Loại: Phù Tinh Hoặc Hộ Tinh

Đặc Tính: Cứu giúp người khác, có tài, nhân hậu

Tên gọi tắt thường gặp: Tả

Là một sao phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Tả Phù và Hữu Bật. Gọi tắt là bộ Tả Hữu.

 

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Sao Tả Phù tại Mệnh là người có tài năng, mưu trí, hay cứu giúp người khác, có nhiều sáng kiến, đảm đang, có nhiều vây cánh, bè bạn giúp đỡ, không ở nơi quê quán, hoặc sớm xa cách một trong hai thân.

Công Danh Tài Lộc:

Tả Phù rất thích hợp nếu đóng ở các cung Mệnh, Thân, Quan sẽ có nghĩa như những người phò tá đắc lực, những người hậu thuẫn, giúp đỡ. Tả Phù tượng trưng cho sự giúp đỡ của người đời, còn Quang Quý tượng trưng cho sự che chở của linh thiêng. Trong ý nghĩa này Tả Phù đồng nghĩa với Thiên Quan Quý Nhân và Thiên Phúc Quý Nhân.

Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nên suốt đời được hưởng phúc, gặp nhiều may mắn và sống lâu.

Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, dù gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, hay gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, cũng phải sớm ly tổ hay sớm lìa bỏ gia đình, tự tay lập nghiệp ở phương xa.

 

Phúc Thọ Tai Họa:

Tả Phù là phù tinh hay hộ tinh, làm tăng ý nghĩa tốt hay xấu của những sao đi kèm. Do đó, Tả Phù là sao trung lập, không thuộc loại tốt hay xấu. Nếu đi với sao tốt thì tốt thêm, với sao xấu thì xấu thêm.

Tả, Hữu nếu gặp nhiều sao mờ ám xấu xa, hay sát tinh hội hợp, thì trong người có nhiều rỗ xẹo, thường mang tật, tính gian trá, hiểm độc, hay lừa đảo, hại người, cuộc đời cùng khổ, cô đơn, khó tránh tai họa, tuổi thọ bị chiết giảm.

 

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng sao Tả Phù:

Tả, Hữu gặp Tử, Phủ, Xương, Khúc, Khôi, Việt hội hợp cùng Khoa, Quyền, Lộc thì trong mình có nhiều nốt ruồi kín, hợp với quý tướng. Vậy cho nên được hưởng phú quý trọn đời, có danh tiếng lừng lẫy, tuổi thọ cũng gia tăng.

Tả, Hữu hội với Cơ Nguyệt Đồng Lương, Long, Phượng tất chuyên về nghề thuốc và sau rất khá giả.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng sao Tả Phù:

Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp sao Trinh, Dương hộp hợp, nên hay mắc tù tội và suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng.

 

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ khá giả, giúp đỡ con cái, có nhiều khả năng, nghề đặc biệt. Mình ra ngoài hay có quý nhân giúp đỡ, người lớn tuổi yêu thích, có cha mẹ đỡ đầu.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Phúc Đức:

Nếu gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Càng xa quê hương lại càng khá giả. Họ hàng quý hiển, giàu sang nhưng không được gần nhau.

Nếu gặp nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc, giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, hay phải sớm xa gia đình, may ra mới được yên thân. Trong họ có người cùng khổ, phiêu bạt. Họ hàng ngày càng ly tán, lụn bại.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Điền Trạch:

Gia tăng số lượng về nhà cửa.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Quan Lộc:

Gia tăng sự thuận lợi về công danh, chức vụ, thi cử, người có tài.

Được nhiều người nâng đỡ trên đường công danh.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Nô Bộc:

Ra ngoài có nhiều vây cánh, ngïïoại giao rộng, dễ được người mến chuộng, ưa sinh họat, hay ở chỗ đông người.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Thiên Di:

Ra ngoài có nhiều quý nhân giúp đỡ.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Tật Ách:

Gặp thầy thuốc hay, mau khỏi bệnh, nhưng nếu gặp các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Lưu Hà, Kiếp Sát, Phục Binh, Linh Tinh, Hỏa Tinh, chẳng những bệnh tật lâu dài khó chữa mà còn biến chứng qua bệnh khác.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Tài Bạch:

Gia tăng sự thuận lợi về mưu cầu tiền bạc, lợi lộc.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Tử Tức:

Gia tăng số lượng con cái, đông con, có con nuôi, con dị bào.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng lấy nhau dễ dàng, ở cùng xóm, cùng cơ quan, hoặc cùng tôn giáo. Nếu có thêm sao Địa Không, Địa Kiếp, thì có 2 đời, hoặc chấp nối, hoặc vợ chồng có tôn giáo khác nhau, hoặc làng xã khác nhau, luôn luôn có sự chênh lệch tuổi tác chứ không bằng tuổi, vợ thường lớn tuổi hơn chồng.

Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Huynh Đệ:

Có đông anh chị em, hoặc dị bào, hoặc anh chị em kết nghĩa.

Tả Phù Khi Vào Các Hạn:

Hạn gặp sao Tả Phù, Hữu Bật ở bốn Cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, là hạn thăng quan tiến chức, vinh hiển.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tả Phù

Điểm danh những con giáp càng về già càng may mắn

Khổ cực cả đời, ai cũng muốn về già được hạnh phúc vui vẻ, nhưng không phải con giáp nào cũng may mắn. Cùng điểm danh những con giáp càng về già càng may mắn.
Điểm danh những con giáp càng về già càng may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khổ cực cả đời, ai cũng hy vọng về già được hạnh phúc vui vẻ, nhận nhiều may mắn. Hãy cùng Lichngaytot. com điểm danh những con giáp sẽ gặp may mắn khi về già.

=> Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Diem danh con giap cang ve gia cang may man hinh anh
 
Hạng 1: Tuổi Dần

Diem danh con giap cang ve gia cang may man hinh anh 2
 
Người sinh năm Dần khoan dung đại lượng, nội tâm kiên cường, hành xử khí khái, có lòng hiệp nghĩa. Tiền vận đến trung vận của họ long đong, gặp nhiều biến cố, từ sau tuổi trung niên tạm thời đạt được những cơ hội tốt và về cuối đường đạt nhiều thành tựu và may mắn, nhận được nhiều sự ngưỡng mộ.    Dựa vào bát tự tìm người khởi nghiệp thành công
Từ góc nhìn bát tự tử vi, người muốn khởi nghiệp cũng cần một số yếu tố nhất định, hãy cùng ## tìm hiểu.

Hạng 2: Tuổi Tý
Diem danh con giap cang ve gia cang may man hinh anh 3
 
Mệnh chủ năm Tý là sao Thiên Quý nên thông minh lanh lợi. Cả đời họ tích lũy được nhiều tài phú và hạnh phúc, tuy nhiên mệnh lý đã nói: "Tứ quý khắc tử tôn", họ cần hòa thuận với mọi người, đến trung vận sẽ thuận buồm xuôi gió, đạt được thành công, vinh hoa phú quý.
  Hạng 3: Tuổi Sửu
Diem danh con giap cang ve gia cang may man hinh anh 4
 
Con giáp Sửu vốn có bản tính hiền lành, nhẫn nại, đối với mọi việc đều cố chấp, không quảng giao, nữ mệnh đặc biệt tin người nên gặp nhiều thất bại và hối hận không kịp. Tiền vận phải xa quê lập nghiệp, nhiều phúc nhưng đến trung vận phải phiền não nhưng về cuối đời sẽ được hưởng vinh hiển.

Hạng 4: Tuổi Dậu
Diem danh con giap cang ve gia cang may man hinh anh 5
 
Trong 12 con giáp thì người sinh năm Dậu thông minh, thành thật, giỏi giao tiếp nên dễ dàng nhận được sự đề bạt của cấp trên, tuy nhiên họ lại dễ dàng bỏ cuộc khi gặp phải thời điểm khó khăn. Tiền vận do chưa có chí nên nhiều gian nan, trung vận bắt đầu tốt lên và không ưu phiền khi đến khi về già.

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp càng về già càng may mắn

Những kiêng kị phong thủy khi kết hôn năm Ất Mùi

Ngoài việc xem tuổi, chọn ngày tháng, bạn nên chú ý một số những vấn đề về phong thủy trong tiệc cưới hỏi để có được ngày trọng đại hoàn hảo nhất của đời
Những kiêng kị phong thủy khi kết hôn năm Ất Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài việc xem tuổi, chọn ngày tháng, bạn nên chú ý một số những vấn đề về phong thủy trong tiệc cưới hỏi để có được  ngày trọng đại hoàn hảo nhất của đời mình.


1. Chọn ngày tốt theo mệnh

 
Trong phong thủy hôn nhân, việc đầu tiên và vô cùng trong trọng trước khi kết hôn, đó chính là chọn ngày lành tháng tốt. Dựa vào mệnh tướng của vợ chồng để quyết định chọn ngày phù hợp.

Ví dụ nếu là mệnh dương tướng hỏa, thì con số mang lại may mắn là số 1, 2, 4 và 5. Việc chọn ngày càng chuẩn, càng tốt lành bao nhiêu thì cuộc sống hôn nhân càng hạnh phúc và bền chặt bấy nhiêu. Do đó, nên kiêng kị những con số khắc mệnh tướng của mỗi người.

2. Kiêng kị tổ chức đám cưới dưới tầng hầm hoặc lòng đất
 
Địa điểm tổ chức đám cưới nên tránh những nơi như tầng hầm hoặc dưới lòng đất. Bởi theo phong thủy cưới hỏi, tổ chức hỉ sự ở những nơi này không những ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn dễ gặp phải điều xui xẻo. 

Nhung kieng ki phong thuy khi ket hon nam At Mui hinh anh
Tránh chọn địa điểm cưới dưới tầng hầm hoặc trong lòng đất

Ngoài ra, chọn địa điểm cưới hỏi nên kiêng kị và tránh xa các công trình kiến trúc như trường học, bệnh viện, nếu không sẽ bất lợi cho tình cảm vợ chồng mới cưới.
 
3. Kiêng kị trang trí tiệc cưới đơn lẻ
 
Số đơn lẻ là số đại kị trong phong thủy hôn nhân. Những đồ vật được dùng để bài trí hoặc trang trí tiệc cưới cần phải có đôi có cặp. Ngoài ra, tránh sử dụng các vật phẩm có hình dáng kì dị, mà nên dùng đồ đơn giản, hình dáng tròn đầy như bóng bay, hoa tươi…Đồng thời, cần bài trí đơn giản, tránh phức tạp, rối ren, sẽ ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng sau này.

Nhung kieng ki phong thuy khi ket hon nam At Mui hinh anh 2
Những vật phẩm dùng để trang trí tiệc cưới cần phải có đôi có cặp

4. Kiêng kị dùng đèn nhấp nháy, ánh sáng không đều trong tiệc cưới

 
Nếu tiệc cưới diễn ra vào buổi tuối hoặc trong phòng kín, nơi không đủ ánh sáng tự nhiên, thì mọi người hay dùng các loại đèn cưới. Để phục vụ các tiết mục văn nghệ, đèn cưới thường là đèn nháy, ánh sáng không đều (lúc sáng lúc tối). Điều này sẽ khiến tình cảm vợ chồng lúc tốt lúc xấu.
 
Ngoài ra, việc sử dụng đèn nháy trong tiệc cưới dễ mang lại sát khí, khiến một số người già đứng ngồi không yên. Đó là điềm báo không may mắn dành cho cặp vợ chồng mới cưới.
 
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kị phong thủy khi kết hôn năm Ất Mùi

Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ - Phong thủy - Xem Tử Vi

Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ, tu vi Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ

Trong một căn nhà thì sẽ có những phòng cực kỳ quan trọng cần sự chú ý của gia chủ khi sắp xếp. Tuy nhiên cũng có chỗ không quan trọng lắm nhưng cũng không thể làm cho qua loa được. Bởi lẽ một căn nhà xét về mặt phong thủy thì tất cả đều có liên quan tới gia chủ của chúng cho nên những lựa chọn cần chính xác và tốt nhất.

  Trong ngôi nhà, những người phụ nữ thường thích phòng có ban công bởi lẽ nó tạo cho họ cảm giác thư thái, gần gũi với thiên nhiên chứ không bị gò bó trong một không gian cố định. Vì thế nhiều bậc cha mẹ khi làm nhà vẫn luôn để ý tới bạn công. Xét về mặt phong thủy thì ban công của một ngôi nhà vẫn  ảnh hưởng về tài vận và sắc khí của gia chủ.   Trong phong thủy, ban công đại diện cho Minh đường. Một gia đình nếu có ban công trước phòng khách, có nghĩa là tài vận thuận , phong thủy cực tốt. Tại hướng này nếu gặp cát tinh, như năm 2015 hướng Đông, hướng Đông Bắc là hướng tốt, nếu ban công nằm ở phương vị của những cát tinh này thì đặc biệt chiêu tài.   Vì thế mỗi năm ban công lại có cát hung khác nhau, như ban công ở vị trí chính tài, năm này bạn nên thường xuyên ra ban công hóng gió hoặc ngắm cảnh, thậm chí là phải thường xuyên mở cửa chính hướng ra ban công đế hấp thu tài tinh ở hướng này.   Ví dụ, năm 2015 ban công nằm ở hướng mà Nhị hắc (Đông Nam), Ngũ hoàng (Tây) đến, năm này cửa số và cửa chính hướng ra ban công nên hạn chế mở, đồng thời nên đặt vật phong thủy để hóa giải. Vì thế dùng hay không dùng ban công, cần dựa vào việc lưu niên phi tinh của năm đó ảnh hưởng đến cát hung của ban công hay không để quyết định.   Điểm thứ hai phải lưu ý, đó là ban công đại diện cho Minh đường, từ ban công nhìn ra ngoài, phản ánh cát hung của một ngôi nhà. Những gì nhìn thấy từ ban công, tương đương với hướng tinh trong ngôi nhà.   Nhìn ra ngoài từ ban công, nếu bên trái có nhiều tòa nhà, có nghĩa là hướng Thanh long vượng. Bên phải có nhiều tòa nhà, có nghĩa là hướng Bạch hổ vượng. Nếu các tòa nhà bên phải cao hơn các tòa nhà bên trái, có nghĩa là Bạch hổ mạnh hơn Thanh long, chủ nữ giới ngang ngạnh và nhiều thị phi.   Trên đây là một số thông tin về cách chọn vị trí ban công và ảnh hưởng của nó tới tài vận gia chủ. Tuy nhiên người đọc vẫn có thể để lại chia sẻ của bản thân để giúp bài viết được đầy đủ và chính xác hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy về ban công và tài vận của gia chủ - Phong thủy - Xem Tử Vi

Cách treo chuông gió, gương bát quái để mang may mắn vào nhà

Theo phong thủy, chuông gió và bát quái là những vật đem lại may mắn, xóa giải vận rủi, nhưng nếu các bạn không biết cách treo sẽ nguy hiểm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuông gió 

Nhiều nguồn ý kiến cho rằng, chuông gió hay còn gọi là phong linh, là vật thu hút ma quỷ, điều đó hoàn toàn sai lầm. Chuông gió là đại diện của âm thanh trong phong thủy. Chuông gió được sử dụng rộng rãi nhằm khắc chế những nguồn năng lượng tiêu cực, xua tan ám khí, biến hung thành cát và đồng thời lưu chuyển những nguồn sinh khí, năng lượng tốt đến cho gia chủ. Chuông gió có 2 vai trò chính là chữa bệnh và tăng nguồn năng lượng. Chuông gió thuộc về không gian bên ngoài của ngôi nhà, ví dụ như ban công, hiên nhà, sân hoặc vườn.

me
Nhiều nguồn ý kiến cho rằng, chuông gió hay còn gọi là phong linh, là vật thu hút ma quỷ, điều đó hoàn toàn sai lầm.

Có 3 nguyên tắc chính chọn vị trí treo chuông gió hợp phong thủy nhất đó là: chất liệu, số thanh và biểu tượng mà nó tượng trưng. - Một chiếc chuông gió làm bằng kim loại có thể treo ở hướng Tây, Tây Bắc và Bắc. - Chuông gió làm bằng gỗ hoặc tre có thể treo được ở hướng Đông, Đông Nam và Nam. - Chuông gió làm bằng sứ hoặc đất nung, hãy treo chúng vào khu vực phong thủy dành cho gỗ và đất như trung tâm ngôi nhà, hướng Đông và Đông Nam. - Không nên treo chuông gió ở hai hướng Đông Bắc, Tây Nam vì hai hướng này là quỷ môn quan tức là hai cửa xấu. Lưu ý về số thanh và tác dụng của nó trong các mối quan hệ Để tăng cường vận may, nên dùng chuông gió có 6 hoặc 8 thanh.

Để tăng cường những thuận lợi về mặt quan hệ xã hội, hãy treo chuông gió gồm 2 hoặc 9 thanh bằng pha lê, hoặc gốm sứ ở góc Tây Nam của phòng khách. (Lưu ý, không áp dụng phương pháp này trong phòng ngủ hoặc phòng học) Để thu hút những người có nhiều ảnh hưởng và thế lực, nên dùng chuông gió có 6 hoặc 8 thanh kim loại và treo ở góc Tây Bắc của phòng khách.

Để ngăn chặn vận rủi gây ra bởi những cấu trúc đối nghịch hoặc những mũi tên độc, sử dụng chuông gió 5 thanh kim loại Trong trường hợp bạn không phân biệt rõ các hướng và những chi tiết ảnh hưởng, tốt nhất nên mời chuyên gia phonmg thủy hoặc những người có hiểu biết sâu sắc treo cho.

Một lưu ý nữa khi treo chuông gió là nên chọn loại chuông gió có số tầng phù hợp với không gian chứ không nên chọn loại chuông quá to. Thông thường, nên dùng chuông từ 1 - 3 tầng.

Gương bát quái

Trong phong thủy, gương bát quái chính là một loại pháp khí hội tụ năng lượng của vũ trụ nên có tác dụng trấn áp tà khí, biến hung thành cát. Chính vì vậy từ xa xưa, mọi người tin rằng chỉ cần treo gương bát quái ở những chỗ phạm là có thể hóa giải được điềm xui gở.
me
Trong phong thủy, gương bát quái chính là một loại pháp khí hội tụ năng lượng của vũ trụ nên có tác dụng trấn áp tà khí, biến hung thành cát.
Gương bát quái may mắn gồm gương lồi và gương lõm, thậm chí có gương bằng phẳng. Gương lồi có tác dụng đẩy sát khí, tà khí ra ngoài, còn gương lõm có tác dụng thu sinh khí vào trong. Tuy nhiên, hiện nay, người ta dùng nhiều gương lồi hơn. Gương bát quái được treo ở cửa chính của ngôi nhà và thông thường mỗi nhà chỉ treo 1 gương bát quái. Gương phẳng thì trung tính, dùng để thu hút cũng như phản chiếu năng lượng xấu.

Gương thường được treo vào ngày rằm hoặc mùng một chứ không phải treo ngày nào cũng được.

Gương bát quái lồi là loại gương bát quái có hình cầu lồi lên giống như mai rùa, gương bát quái lồi cũng là 1 công cụ hóa giải sát khí. Trong phong thủy có nhiều vật được cho là mang sát khí như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông hay ống khói...

Gương bắt quái lõm dùng trong các trường hợp nhà phạm hướng xấu hoặc kỵ với tuổi chủ nhà, mặt lõm thu những khí vẫn tốt trước nhà như ao, hồ, sông, biển. So với gương lồi có tác dụng "phân tán" thì gương lõm lại dùng để “tích tụ” năng lượng tốt.

Gương bát quái là biểu tượng của vũ trụ có tác dụng hóa giải nên không gây hại. Tuy nhiên nếu như gương bát quái có hình ảnh thần tướng cưỡi hổ, tay cầm binh khí hoặc hổ phụ ngậm binh khí thì lại vô cùng nguy hiểm vì loại gương này có mang sát khí. Khi treo loại gương bát quái này bên ngoài đối diện nhà người khác thì sẽ ảnh hưởng đến nhà đó.

Có một số những lưu ý căn bản để các gia đình có thể tìm ra những vị trí tốt nhất cho những chiếc gương bát quái của mình như: không nên treo một chiếc gương ở đối diện cửa ra vào, đặc biệt là phía sau bếp nấu… Tuy nhiên không phải ngôi nhà nào cũng cần phải treo gương bát quái vì nếu như hướng nhà đã hợp với gia chủ thì chẳng cần treo, nếu có treo lên cũng chỉ là “phú quý sinh lễ nghĩa”, thậm chí là còn tạo ra những sung khí cho ngôi nhà của mình. Tuy nhiên, riêng các ngôi nhà nằm gần nghĩa trang, bệnh viện, trường học hoặc những nơi nào sát khí mạnh thì cần phải treo gương bát quái vì nó sẽ ngăn chặn các luồng tà khí.

Hiện nay các loại gương bát quái khi sản xuất có gắn luôn cả điểm mấu để các gia đình cứ thế theo hướng mà treo. Tuy nhiên, khi đặt gương bát quái, mọi người cần chú ý tới vị trí chính diện của cửa để làm sao giúp cho vật dụng phong thủy này phát huy được hết công năng vốn có của nó.

Chính từ việc nhiều người không hiểu cặn kẽ về nguyên tắc hay các quy định phong thủy nên cứ có nhà là mua gương bát quái về treo, thậm chí là mua gương thông thường. Khi mà những gương này chiếu vào nhà đối diện sẽ tạo ra sự xung khắc nhất định, đây là một đại kỵ trong thuyết phong thủy. Nếu như cả hai nhà cùng treo gương thì sẽ chẳng bao giờ tốt vì lúc này nó sẽ tạo ra một cuộc chiến giữa các luồng sinh khí. Cách tốt nhất để giải quyết chuyện này là trồng cây giữa hai nhà, bụi cây sẽ hóa giải mọi xung khắc và cũng giúp cho hai gia đình tìm được hòa khí chung.

Theo Phunutoday
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo chuông gió, gương bát quái để mang may mắn vào nhà

Dọn nhà đón Tết: 3 không gian nên ưu tiên sửa sang

Việc sửa sang phòng, dọn nhà đón Tết trang trí nhà cửa luôn được xem là ưu tiên hàng đầu của mỗi gia đình. Dọn nhà ngày Tết bạn nên ưu tiên sửa 3 phòng này
Dọn nhà đón Tết: 3 không gian nên ưu tiên sửa sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Việc sửa sang phòng đón Tết trang trí nhà cửa luôn được xem là ưu tiên hàng đầu của mỗi gia đình. Bởi lẽ không gian sống có sạch sẽ, tươi mới thì sức khỏe mới đảm bạn và hơn thế nữa vận khí hanh thông.

Phong thủy ứng dụng coi trọng không gian sống hài hòa, nhất là ba khu vực phòng khách, phòng ngủ, phòng bếp. Chính vì thế bạn đừng quên sửa sang nhà cửa đón Tết nhé!


1. Sửa sang phòng khách đón tài lộc


Don nha don Tet 3 khong gian nen uu tien sua sang hinh anh
 
Nếu không có điều kiện làm mới nội thất phòng khách, thì việc dọn nhà đón Tết với không gian này hoàn toàn có thể “nhất cử lưỡng tiện bằng một số cách đơn giản mà tiết kiệm. Sơn mới là giải pháp thường được lựa chọn vì nó đảm bảo tính thẩm mỹ cũng như sự đa dạng về màu sắc. Hiện nay có rất nhiều loại sơn chất lượng, đẹp với giá thành phải chăng. Nếu tiết kiệm kinh phí và thời gian hơn, bạn có thể chọn cách làm mới không gian phòng khách bằng giấy dán tường. Giải pháp này hướng tới tính thẩm mỹ đa dạng, phong cách tươi trẻ với nhiều họa tiết bắt mắt. Tất nhiên cách này không thể bền bằng việc sử dụng sơn.    Sử dụng tranh ảnh, lịch… treo tường là giải pháp tốt trong việc sửa sang phòng đón Tết,  vừa góp phần tạo dựng không gian với phong cách riêng, vừa thể hiện gu thẩm mỹ đặc sắc của bạn. Tuy nhiên cần lưu ý tính phong thủy khi lựa chọn tranh treo trong phòng khách. Cần có sự kết hợp hài hòa giữa mệnh tuổi của gia chủ và màu sắc lựa chọn để sơn hay giấy dán trang trí cũng như các nội dụng các bức tranh treo trên tường.    Việc xem lại trần nhà cũng là giải pháp cải thiện phong thủy cho không gian phòng khách. Bạn có thể lắp trần thạch cao, đèn hắt trần để tạo sự sang trọng và cảm giác thông thoáng, sáng sủa. Việc lắp đèn trang trí cũng được xem là phương pháp tạo vận khí được hanh thông. Ngày Tết, nhiều gia đình thường ưu tiên lựa chọn đèn trang trí màu sắc, đèn chùm lộng lẫy hay đèn nhấp nháy. Tuy nhiên nguyên tắc là nên kết hợp hài hòa với không gian, tránh rối mắt, tránh các hiệu ứng nhấp nháy quá liên tục có thể gây hại mắt.

2. Sửa sang phòng bếp đón sức khỏe, bình an

  Bên cạnh phòng khách vốn là không gian chung của đại gia đình, phòng bếp cũng là nơi rất được coi trọng trong phong thủy. Một không gian bếp sạch sẽ, thoáng đãng không những tốt cho người mẹ, người phụ nữ trong gia đình mà còn là không gian tốt để kết nối tình cảm của đại gia đình, là nơi chăm sóc sức khỏe cho mọi người trong nhà.
 
Bộ bàn ăn được coi là trung tâm của phòng bếp, do đó việc sửa sang phòng bếp đón Tết có thể bắt đầu từ phần này. Thay mới bàn ăn là cách tốt nhưng nếu điều kiện không cho phép bạn có thể sơn lại bàn ghế hoặc sửa sang, gia cố nếu bàn và ghế ăn không chắc chắn. Nên chú ý ghế ngồi có phần lưng tựa là tốt nhất, độ cao bàn và ghế phù hợp vừa tạo cảm giác thoải mái khi ngồi ăn, vừa tốt theo quan niệm phong thủy. 
 
Ngoài bàn ghế ngồi ăn, các đồ dùng hay đồ bày biện trang trí khác trong phòng bếp nếu quá cũ cũng nên được thay mới, thể hiện tấm lòng hân hoan đón mừng năm mới với nhiều điều mới mẻ, may mắn.
 
Đặc biệt với việc sửa sang phòng bếp, hãy chú ý nơi bếp đun. Bếp ga hay bếp đun nên được lau chùi thường xuyên, tránh bụi bặm hay các vết bẩn khác do dầu mỡ, đồ ăn rơi rớt lại… Tủ bát cũng cần được vệ sinh sạch sẽ mỗi ngày và tổng vệ sinh vào những dịp nhất định trong tuần, trong tháng và nhất là dịp sắp Tết.
 
Xu hướng chung cho một căn bếp từ bài trí không gian cho đến vật dụng là không cần cầu kỳ, tráng lệ mà quan trọng là hướng đến yếu tố giản dị nhưng ấm cúng.   

3. Sửa sang phòng ngủ tăng hạnh phúc, nhân duyên


Don nha don Tet 3 khong gian nen uu tien sua sang hinh anh 2
 
Sửa sang phòng đón Tết, bạn không nên quên phòng ngủ bởi đây là không gian gắn bó nhiều nhất với mỗi cá nhân do đó bạn nên ưu tiên không gian này. Đây là không gian riêng nên bạn có thể tùy thích sửa sang, trang trí theo sở thích của mình. Tất nhiên cũng không nên quá phá cách vì có thể phạm vào một số yếu tố bất lợi về phong thủy màu sắc, phương hướng…    Việc làm mới không gian có thể bắt đầu bằng sơn lại tường hay dán tranh trang trí. Cũng có thể là thay mới vật dụng trong phòng từ đèn ngủ, đèn thắp sáng cho đến tranh ảnh treo trên tường. Thay mới chăn ga gói đệm hoặc giặt giũ sạch sẽ các đồ dùng này dịp Tết đến là điều nên làm. Rèm cửa cũng là đồ vật mang tính phong thủy cao và bạn nên chú ý thay mới hay giặt mới cho vật dụng này. Đảm bảo các đồ dùng trong phòng ngủ không bị rách nát, bị rạn vỡ là nguyên tắc quan trọng về mặt phong thủy khi sửa sang phòng ngủ đón Tết.   Trong năm mới nếu gia đình bạn chuẩn bị đón thêm thành viên mới hoặc muốn tạo thêm không gian riêng cho một thành viên nào đó trong gia đình thì việc ngăn phòng nên được chú ý. Việc tạo phòng ngủ mới nên được tiến hành sớm trước Tết 1-2 tháng để việc dọn dẹp, sửa trang gọn gàng, chu tất tránh tình trạng bừa bộn vừa gây khó khăn cho sinh hoạt vừa rất bất lợi về mặt phong thủy.

► Mời các bạn xem tuổi xông nhà 2017 hợp tuổi gia chủ để rước tài, rước lộc vào nhà

Lichngaytot
  30 điều kiêng kỵ ngày Tết cần tránh xa nếu không muốn đen đủi
Xuất phát từ quan niệm chú ý hành xử trong ngày đầu năm để có một năm may mắn thì nhiều người đặc biệt chú ý kiêng kị ngày Tết. Cùng Lịch Ngày Tốt điểm tên 30

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dọn nhà đón Tết: 3 không gian nên ưu tiên sửa sang

3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

Dưỡng sinh là một trong những cách tu thân của nhà Phật. Dưới đây là 3 nguyên tắc sống lành mạnh của Phật giáo, bạn đọc nên tham khảo và áp dụng.
3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưỡng sinh là một trong những cách tu thân của nhà Phật. Thân thể có khỏe mạnh thì chất lượng cuộc sống mới được nâng cao. Dưới đây là 3 nguyên tắc sống lành mạnh của Phật giáo, bạn đọc nên tham khảo và áp dụng.


3 nguyen tac duong sinh cua Phat giao giup song tho  hinh anh
 
Phật giáo nổi tiếng với lối sống lành mạnh, nghiêm khắc với bản thân nên có rất nhiều nhà sư trường thọ. Bí quyết chính là 3 nguyên tắc dưỡng sinh cơ bản dưới đây.   1. Ăn chay   Nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo chính là ăn chay, ăn các loại thực phẩm tốt cho sức khỏe, thanh đạm. Người theo Phật thức ăn chủ yếu là thực vật, rau xanh chứa nhiều vitamin và khoáng chất thiết yếu rất có lợi đối với cơ thể. Việc bài trừ thực phẩm có nguồn gốc động vật trong bữa ăn hàng ngày có tác dụng tránh vi khuẩn xâm nhập, hạn chế u xơ và những loại bệnh do dư thừa chất béo gây ra. Ngoài ra, người tu hành cũng bổ sung đạm thông qua các nguồn thực phẩm khác như đậu, nấm nên vẫn đảm bảo cân bằng dinh dưỡng.  Người không ăn chay trường có thể lựa chọn ăn chay tuần, ăn chay cách nhật hoặc đôi lúc có những tuần chay để thanh lọc cơ thể, đẩy độc tố ra bên ngoài.   2. Đi bộ hàng ngày   Vận động là một trong những phương pháp sống lâu và sống khỏe đặc biệt hiệu quả. Kém vận động sẽ khiến cơ thể trì trệ, thân thể rệu rã, ảnh hưởng tới hoạt động của tất cả các cơ quan.   Phật giáo khuyến khích Phật tử đi bộ hàng ngày và tự làm các công việc trong nhà. Đi bộ không chỉ giúp tăng cường sức khỏe mà còn là hình thức dưỡng tâm, thanh tỉnh tâm hồn, sảng khoái tinh thần. Vận động chân tay thì đầu óc cũng tỉnh táo.   Chọn chuẩn cách dưỡng sinh theo mùa Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 5) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 4) 12 nguyên tắc không cần ăn chay trường mà vẫn khỏe mạnh
3. Thường xuyên mơ hồ

3 nguyen tac duong sinh cua Phat giao giup song tho  hinh anh
 
Tâm tính khỏe mạnh tức là đời sống tinh thần bình an, dưỡng sinh quý ở dưỡng tâm, dưỡng thành một tâm an lạc. Nhân sinh vốn lắm quanh co, khó có thể cầu toàn mà tròn vẹn, không thể chuyện gì cũng được như ý nên người sống trên đời không thể cưỡng cầu bản thân mười phân vẹn mười, phải hướng tới sự tích cực, nhìn vào ưu điểm thay vì khuyết điểm.   Truy tìm danh lợi mỏi mệt, tính toán chi li lắm muộn phiền, lo được lo mất rất khổ, oán trời trách đất chỉ càng khổ tâm. Tức giận người khác là trừng phạt chính mình, phiền não vì khuyết điểm của mình chỉ tự làm mình khổ tâm. Hối hận là bất đắc dĩ tàn phá bản thân, sầu lo chỉ dùng để khiến mình thêm lo lắng.   Vì thế, đôi khi mơ hồ một chút, bình thản một chút, rộng rãi một chút thì cuộc sống dễ dàng hơn, chính mình cũng hạnh phúc hơn. Không cần cố chấp, không cần hoàn mĩ, xem nhẹ thế sự, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không có, để bản thân được an khang.    Người hướng Phật chỉ một lòng tín Phật, không quản chuyện nhân gian nên ít bận lòng. Người thường cũng có thể để bản thân mơ hồ, chuyện cho qua được thì để nó trôi qua.    Ăn chay - đường Phật dẫn dưỡng sinh, dưỡng tâm Sinh hoạt chuẩn ngũ hành cho cơ thể luôn khỏe mạnh
► Cùng đọc châm ngôn cuộc sống và suy ngẫm

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

Treo tranh kỵ mệnh, lưu ý "đỏ" về phong thủy

Để trang hoàng cho một ngôi nhà hiện đại không thể thiếu những bức tranh đầy màu sắc. Nhưng để treo tranh cho hợp phong thủy thì không phải dễ. Có nhiều điều cần lưu ý trong treo tranh bạn cần biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn nên:

1. Lựa chọn các vị trí treo tranh

Nếu bạn treo tranh ở vị trí cát trong nhà sẽ giúp cho vị trí đó thêm may mắn, còn nếu bạn treo tranh ở vị trí hung, tranh có khả năng áp chế hung khí, tránh sát khí sản sinh trong không gian sống nhà bạn. Vị trí ở phía trên ghế sofa được xem là thích hợp hơn cả.

Các vị trí hung và cát trong nhà theo phong thủy năm 2015 được phân bố lần lượt như sau:

Đại Cát

Hướng Bắc, hướng Tây Nam

Tiểu Cát

Hướng Đông, hướng Đông Bắc

Tiểu Hưng

Hướng Nam, hướng Tây Bắc và chính giữa

Đại Hung

Hướng Tây, hướng Đông Nam

 

treo tranh trong phong thủy
Treo tranh cần lưu ý kĩ về phong thủy

2. Lưu ý Ngũ hành của gia chủ để quyết định việc treo tranh

Bạn nên chọn các loại tranh tương ứng với Ngũ Hành chứ không nên tương khắc với Ngũ Hành.

Chẳng hạn:

- Với gia chủ có Ngũ hành thiếu Mộc: Rất thích hợp để treo tranh liên quan đến cây cối như loại tranh "trúc báo bình an", vận thế của gia đình sẽ thêm hưng khi treo loại tranh này.

- Còn nếu gia chủ có Ngũ hành kỵ Mộc, thì không nên treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh cây cối hoa cỏ, các loại tranh này không những đem đến phong thủy không tốt mà còn có thể áp chế vận thế của chủ nhân, khiến cho mọi việc trong nhà đều trở nên khó khăn hơn thường ngày.

treo tranh theo phong thủy 1
Nếu bạn có Ngũ hành kỵ Mộc thì nên kiêng treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh
cây cối hoa cỏ trong nhà

Tương tự:

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thủy: Nên treo tranh có liên quan đến yếu tố nước như Cửu Ngư quần hội, Hoàng Hà Trường Giang...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Kim: Nên treo tranh liên quan đến yếu tố vàng và kim loại như Chiêu tài tiến bảo...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Hỏa: Nên treo tranh có màu sắc mạnh như Mẫu đơn đỏ hoặc Bát tuấn đồ...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thổ: Nên treo tranh liên quan đến các công trình kiến trúc như Vạn lý trường thành...

Bạn không nên:

1. Treo tranh ở dưới cửa sổ và điều hòa.

2. Treo quá nhiều tranh, nếu bạn làm vậy sẽ sẽ phản tác dụng, vận thế của gia đình sẽ bị ảnh hưởng, hơn nữa khi làm việc sẽ tự tạo áp lực cho bản thân trong học tập, công việc và cuộc sống.

treo tranh theo phong thủy 2
Vận thế của những người trong gia đình bị ảnh hưởng nếu treo quá nhiều tranh

3. Bạn cũng không nên treo trong nhà các loại tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng, các bức tranh này sẽ khiến cho các thành viên trong gia đình bị ám ảnh và căng thẳng về tinh thần, trừ khi gia đình bạn là gia đình họa sĩ.

treo tranh theo phong thủy 5
Các thành viên trong gia đình sẽ có ảnh hưởng không tốt về tinh thần nếu trong nhà
treo tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng

4. Về màu sắc của tranh, bạn lưu ý không nên dùng tranh có màu quá đậm hoặc sử dụng quá nhiều màu đen sẽ không tốt. Màu sắc của tranh như vậy có thể khiến cho người ta có cảm giác rất nặng nề, ngoài ra còn có thể khiến cho ý chí của con người bị giảm sút, làm việc hay học tập sẽ dễ dẫn đến thiếu quyết tâm.

treo tranh theo phong thủy 89
Ý chí của bạn có thể bị ảnh hưởng nếu sử dụng tranh có quá nhiều màu đậm hoặc đen

Những lưu ý trên cũng có thể giúp bạn chọn được bức tranh hoàn hảo làm quà Tết cho người thân, bạn bè trong dịp Tết Nguyên đán.

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh kỵ mệnh, lưu ý "đỏ" về phong thủy

Trang trí gì ở huyền quan để chiêu tài, nạp phúc?

Huyền quan là vị trí tiếp nối giữa trong và ngoài nhà, nên muốn nghênh đón cát khí thì hãy bày những vật phẩm phong thủy cát tường này ở đấy nhé.
Trang trí gì ở huyền quan để chiêu tài, nạp phúc?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyền quan là vị trí tiếp nối giữa trong và ngoài nhà, nên muốn nghênh đón cát khí thì hãy bày những vật phẩm phong thủy cát tường này ở đấy nhé.


Trang tri gi o huyen quan de chieu tai, nap phuc hinh anh
 
1. Vật phẩm phong thủy chiêu tài   Huyền quan gần với cửa lớn, là không gian đệm tiếp nối giữa cửa và phòng khách. Ở đây nên đặt bình phong hoặc tủ kệ để ngăn cách cửa và phóng khách, vừa tránh thất thoát tài khí, vừa chặn hung khí xâm nhập vào nhà. Lưu ý, bình phong phải cao vừa phải, tủ kệ nên sử dụng loại rỗng, dùng để bày đồ trang trí để khí lưu chuyển.   Trên kệ có thể bày những vật phẩm phong thủy cát tường, mang tới nhiều phúc khí. Bày hồ lô giúp chiêu tài, hưởng phúc, chắn sát. Bày thần thú phong thủy như Kỳ Lân, Sư Tử làm thần hộ mệnh. Những thần thú này có linh khí mạnh, tác dụng phong thủy lớn, có thể bổ khuyết những thiếu sót của phong thủy huyền quan, nâng cao vận khí, chiêu tài, nhất là đối với những hộ kinh doanh, buôn bán. Chú ý, không nên bày thần thú tương xung với bản mệnh của gia chủ về ngũ hành, sẽ làm vận thế suy giảm hoặc mang lại bệnh tật cho người trong nhà.    Ngoài ra, có một số vật trang trí tốt lành khác mà gia chủ có thể chọn để trang trí huyền quan như bể cá, tranh vẽ, ảnh chụp, gương. Tất cả đều có tác dụng nâng cao phong thủy huyền quan, giúp không gian này thoáng đãng, sinh động và đẹp đẽ hơn.
Hướng dẫn trang trí trần huyền quan đón cát tránh hung Hướng dẫn bố trí huyền quan hợp phong thủy
2. Cây phong thủy nạp phúc  
Trang tri gi o huyen quan de chieu tai, nap phuc hinh anh
 
Cây xanh và hoa tươi là không thể thiếu trong phong thủy nhà ở. Tại huyền quan, nếu không dựng bình phong hay tủ kệ thì kê một hàng cây xanh ngăn giữa cửa với phòng khách, vừa đẹp không gian lại đẹp phong thủy. Cây xanh có thể nâng cao phong thủy của huyền quan, cải thiện phúc tài. Có thêm hoa tươi nở rộ thì càng thêm may mắn.
  Ở huyền quan đặt một chậu cây đang bừng bừng sức sống thì gia đình tụ tài, lộc phúc đầy đủ. Các loại cây phong thủy tốt lành nên dùng là vạn tuế, phát tài, hoàng kim cát,... Hãy nhớ thường xuyên tưới nước và chăm sóc cây khỏe mạnh.   Lưu ý khi trang trí huyền quan bằng cây xanh là không dùng cây xương rồng và cây hoa hồng. Nếu hoa tàn, héo, khô thì phải lập tức thay mới, không nên lưu lại, ảnh hưởng tới vận khí.
Một số cấm kỵ khi bố trí huyền quan Các hình thức thiết kế huyền quan Có phải mọi cửa hàng đều cần thiết kế huyền quan?
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí gì ở huyền quan để chiêu tài, nạp phúc?

Nuôi chó theo phong thủy, dễ mà khó

Chó luôn là loài động vật trung thành, được nhiều gia đình nuôi để bảo vệ nhà, làm bạn với gia chủ. Việc nuôi chó theo phong thủy không phải
Nuôi chó theo phong thủy, dễ mà khó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ trước đến nay, chó luôn là loài động vật trung thành, được nhiều gia đình nuôi để bảo vệ nhà, làm bạn với gia chủ. Tuy nhiên, đối với việc nuôi chó theo phong thủy không phải ai cũng nắm rõ. Hãy cùng ## tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.


nuoi cho theo phong thuy hinh anh
 
Đối với người sinh vào mùa đông tức có bát tự cực hàn, nên họ cần hơi ấm của Hỏa để hài hòa. Trong các loài vật nuôi, chỉ có Chó và Dê là hai loài động vật đại biểu cho Nhiệt Nê. Hay nói cách khác, nếu người đó ăn thịt dê và nuôi chó sẽ rất tốt cho vận thế của họ. Vậy nên, theo quy tắc phong thủy với việc nuôi chó, những người sinh ngày 8/11 đến 18/2 năm sau rất thích hợp nuôi chó.

30 câu nói của Thiền sư Thích Nhất Hạnh giúp bạn sống hạnh phúc hơn
Có hàng ngàn bí kíp chúng ta có thể vận dụng để sống một cuộc đời hạnh phúc. Với 30 câu nói của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau đây sẽ giúp bạn tiến đến gần hơn

Trong khi đó, những người sinh trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 hoặc từ ngày 8/10 đến 7/11 chính là tháng Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất do sở hữu nhiều Hỏa Thổ nên không thích hợp nuôi chó, cũng không nên ôm ấp chó. Ngoài ra, mệnh cách sinh vào tháng Thìn, tức là từ  5/4 đến 5/5, đặc biệt là xuất hiện tổ hợp: Giáp Kỷ, Ất Canh, Bính Tân hoặc Quý Mậu là cục diện tốt  thì không nên nuôi chó trong nhà. Do Tuất và Thìn tương khắc, nếu trong bát tự có Thìn thì Tuất sẽ phá hoại cục diện tốt đẹp đó, điều này không có lợi cho mệnh chủ.
 
nuoi cho theo phong thuy hinh anh 2
 
Trong địa chi, Chó thuộc chữ "Tuất", phù hợp với "Dần" và "Ngọ", sau đó đến "Mão". "Tuất" nằm tại Càn vị, chính là hướng Đông Bắc. Trong khi đó, "Dần" hướng Cần, hay là Đông Bắc; "Ngọ" tọa Ly vị (chính Nam); "Mão" trụ chính Đông. Bốn phương vị trên tương hợp với việc nuôi chó. Nếu cổng chính của căn nhà hướng bốn phương trên, thì việc nuôi chó càng có lợi hơn.   Phương vị của "Thìn" là Tốn, hay chính là Đông Nam. Nếu căn nhà hướng Đông Nam, chính là tương xung với Tuất, việc nuôi chó sẽ đem lại nhiều bệnh tật cho gia chủ. Ngoài ra, "Sửu" nằm tại hướng Cấn (Đông Bắc). Nếu cửa ra vào hướng Đông Bắc, cũng không nên nuôi chó trong nhà.   
nuoi cho theo phong thuy hinh anh 3
 
Bên cạnh đó, chuồng chó không nên dùng vật có tính Kim để dựng nên, bởi lẽ trong 12 địa chi, "Tuất" thuộc hành Thổ. Kim và Thổ vốn tương khắc trong Ngũ hành, nếu gia chủ nuôi chó trong chuồng bằng kim loại sẽ khiến sức khỏe của vật nuôi ngày càng giảm sút.   Từ góc độ của vạn vật giai linh, bất kể là nuôi chó, mèo hay bất kỳ động vật nào, gia chủ đều cần phải chăm sóc đến sinh linh đó vì đã có duyên tương ngộ, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến Nghiệp của cả đôi bên.
► Xem phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương

Chi Nguyễn


Xem Clip tìm hiểu về: Làm phước


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi chó theo phong thủy, dễ mà khó

Những việc phải học cả đời, không có khái niệm tốt nghiệp

Những việc phải học cả đời, không có khái niệm tốt nghiệp là gì, cùng ## tìm hiểu.
Những việc phải học cả đời, không có khái niệm tốt nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Học để tích lũy kiến thức, thành tựu, bằng cấp khó nhưng sao bằng cách học chuyển hóa bản tính bất thiện của chính mình trở nên hoàn thiện, đó là học việc học làm người, suốt đời chẳng thể tốt nghiệp được.


Học làm người là việc học cả đời, không có bằng cấp hay thành tựu nào có thể đánh giá khóa học làm người ấy. Cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp, nhiệm màu và hạnh phúc hơn khi mỗi người tự biết quan tâm tới việc hoàn thiện chính bản thân mình bằng cách nỗ lực trong việc học làm người.

1. Học nhận lỗi


Có ai trên đời lại chịu nhận lỗi lầm, phần thu thiệt về mình bao giờ. Tất cả mọi lỗi lầm, điều xấu đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, mới hoàn hảo. Thật ra, không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn nhất.

Nhung viec phai hoc ca doi, khong co khai niem tot nghiep hinh anh
 
2. Học tĩnh tâm, nhu hòa

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên. Cây to lớn trước gió dễ dàng bị quật ngã nhưng những cành trúc, cành tre nhỏ bé lại bền bỉ dẻo dai.

Bởi thế cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

3. Học chữ “Nhẫn”

Mọi việc trên thế gian này, nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

Nhung viec phai hoc ca doi, khong co khai niem tot nghiep hinh anh 2
 
4. Học thấu hiểu, bao dung

Cuộc sống thiếu thấu hiểu, ít bao dung sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm phức tạp. Mọi người cần thấu hiểu, thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ nhau cùng hướng tới cuộc sống bình an, tốt đẹp. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5. Học buông bỏ

Cuộc đời được ví như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống. Có người lúc cần đặt xuống thì lại không chịu buông tay, bản thân không được tự tại, trái lại, luôn mệt mỏi vì lúc nào cũng đèo bòng túi hành lý nặng nề.

Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được, tâm mới yên tịnh, cuộc sống mới an lạc.

Infographic: 10 nguyên tắc làm người vượt xa phong thủy học
Nhân sinh vô thường, thiên hạ bao la. Ông bà ta có dạy biết thì thưa thớt, không biết dựa cột mà nghe. Từ lâu trong cuộc sống đã tồn tại
6. Học cách đồng cảm

Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên đồng cảm. Đồng cảm là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề. Trong cuộc đời có chứng kiến những chuyện cảm động, lời nói cảm động thì bản thân cần nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động, đồng cảm để tất cả cùng nhau hướng thiện.

7. Học sinh tồn

Thân thể là mẹ cha cho, đâu vì chút thất vọng, buồn bực của bản thân mà nghĩ tới điều tiêu cực hay muốn lìa xa trần thế.

Để sinh tồn, chúng ta phải sống và duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh. Khi thân thể khỏe mạnh, không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm. Đó cũng được coi là hành vi hiếu đễ với người thân.

► Tập hợp những câu nói hay về cuộc sống đáng suy ngẫm

An Nhiên


Xem thêm video: Học làm phước hướng thiện, ai ai cũng khắc ghi
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những việc phải học cả đời, không có khái niệm tốt nghiệp

Màu sắc nội thất hợp với người mệnh Thổ

Theo quan niệm phong thủy, người mệnh Thổ hợp với không gian nội thất mộc mạc, đơn giản và được bài trí gọn gàng, tự nhiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi bắt đầu khám phá hay sử dụng không gian, màu sắc có nhiều tác động trực tiếp tới thị giác. Trong nhà ở, việc chọn lựa màu sắc thường dựa trên nhiều yếu tố và tiêu chuẩn nhưng điều quan trọng nhất là phải phù hợp với tính cách, cảm xúc và sở thích của người dùng. Đặc biệt, đối với người Á Đông, còn tính toán màu sắc ngôi nhà dựa trên quy luật Ngũ hành tương khắc, tương sinh theo quan niệm phong thủy.

màu sắc nội thất 
Chủ nhà mệnh Thổ trên 40 tuổi nên sử dụng khhông gian nội thất này

Theo phong thủy, màu sắc sẽ hình thành nên những trường năng lượng tác động tới môi trường nhà ở và các thành viên trong gia đình. Vì thế, chọn màu sắc phù hợp có thể giúp hài hòa, cân bằng nguồn năng lượng âm dương, phát huy điều tốt và hạn chế những bất lợi từ môi trường tới cuộc sống con người.

Hành Thổ tượng trưng cho trái đất, có tính cân bằng và trung tâm. Hành Thổ cũng là biểu tượng, nguồn gốc của việc nuôi dưỡng, ươm trồng và phát triển, giúp hướng tới nguồn cội, vững chải của sự sống. Vì thế, năng lượng từ hành Thổ mang sự vững chải, người có mệnh Thổ thường có tính cách điềm đạm, ôn hòa, sâu sắc và thận trọng. Sự kiên nhẫn, thủy chung, bền bỉ và trung thành cũng là những tính cách nổi bật của người mệnh Thổ.

trang trí nhà 
Gia chủ mệnh Thổ nên chọn màu bản mệnh như cam đất, nâu, nâu đất
hoặc màu tím, đỏ, hồng của mệnh hỏa

Theo đó, gia chủ mệnh Thổ nên lựa chọn màu sắc căn nhà như sau:

- Chọn màu tím, hồng, đỏ của mệnh Hỏa vì Hỏa sinh Thổ (theo nguyên tắc tương sinh với bản mệnh).

- Chọn màu bản mệnh của Thổ gồm cam đất, nâu, nâu đất.

- Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc bởi Mộc khắc Thổ (theo nguyên tắc tương khắc với bản mệnh).

trang trí nhà theo phong thủy 
Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc vì Mộc khắc Thổ

Ngoài việc lựa chọn màu sắc, gia chủ mệnh Thổ nên chú ý tới phong cách thiết kế của căn nhà và vật liệu sử dụng trong nhà. Phong cách thiết kế thô mộc, truyền thống hoặc thô mộc hiện đại (modern brutalism, modern rustic) phù hợp hơn cả. Các gam màu trung tính nóng như nâu nhạt, cam nhạt, xám nâu, vàng nhạt, vừa được người Việt Nam ưa chuộng vừa ăn ý với không gian theo mệnh Thổ. Chúng được dùng khá nhiều trên các sàn, mảng tường, trần, gắn với sự mộc mạc, ấm cúng và mang đến cảm giác sạch sẽ. Đặc biệt, màu nâu đậm chỉ nên nhấn vào một vài vị trí nhỏ như ghế sofa, một mảng tường đặc biệt, gối, thảm, bộ bàn ghế ăn hoặc các vật dụng trang trí.

màu sắc nhà đẹp 

Người mệnh Thổ hợp với không gian nội thất dành cho thường khá mộc mạc, đơn giản, ít phá cách, không cầu kỳ và được bài trí gọn gàng, ngăn nắp, tự nhiên. Không gian hướng tới sự thoải mái, tiện nghi và tiện dụng cho người dùng, ưu tiên yếu tố công năng. Vật liệu đá, đất, gạch, sỏi, bê tông, sành sứ thường phù hợp với không gian này, chất mộc mạc có khả năng kết nối ngôi nhà với môi trường thiên nhiên.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc nội thất hợp với người mệnh Thổ

Mưa bụi và mưa rào

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện thứ nhất:

Người đệ tử vì không câu nệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

“Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!” Người đệ tử nhanh nhảu đáp.

“Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu.” Vị thiền sư nói.

“Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?” Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.

“Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo.”

Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.

Vị thiền sư giảng: “Trong đối nhân xử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt ‘quần áo’ của người khác”, tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do ‘ướt’ sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất.”

Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.

Cảm ngộ: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” –  Nghĩa là “Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. “Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn” – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.

Câu chuyện thứ hai:

Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: “Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?”. “Thiên không (Bầu trời)” Đệ tử đáp.

Vị thiền sư lại nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!”

Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: “Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?”

Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: “Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ.”

Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.

Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mưa bụi và mưa rào

Nhân quả báo ứng: Thoát chết nhờ làm nhiều việc Thiện

Chắc chắn Tiết Nhĩ đã làm việc rất tốt, nên sẽ được sống lâu hơn trong tương lai. Qua đó, ta có thể ngộ ra đạo lý “làm việc tốt có thể kéo dài mạng sống”
Nhân quả báo ứng: Thoát chết nhờ làm nhiều việc Thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào thời Quang Tự nhà Thanh, có một thầy bói nổi tiếng tên là Trần Kỳ sống ở Hàng Châu. Thuật coi tướng của ông rất hiệu nghiệm nên người ta gọi ông biệt danh là “Kỳ mắt ma”.

Thời gian đó, có một doanh nhân giàu có tên là Tiết Nhĩ ở Hàng Châu. Anh ta mời hai người bạn đi xem bói. Người thầy bói là Kỳ mắt ma đã nói với một trong hai người bạn của Tiết Nhĩ rằng: “Anh sẽ được thăng chức vào mùa thu!” Ông nói với người bạn còn lại: “Trong thời gian một tháng, anh sẽ nhận được cả một gia tài!”

Rồi ông nhìn Tiết Nhĩ và ngạc nhiên nói: “Mặt của anh trông đen như vữa, tôi sợ rằng anh không thoát khỏi cái chết trong 50 ngày nữa – anh sẽ không sống được đến Trung Thu!”

Người bạn đầu tiên của Tiết Nhĩ là một viên quan triều đình. Một ngày nọ trong khi đi dạo trên núi, nghe tin quan tổng đốc đang đi săn, nên anh dừng lại để nhìn xung quanh. Anh ta nhanh chóng trông thấy một con gấu xám đang đuổi theo một người đàn ông. Để cứu người đàn ông, anh nhặt lấy cành cây bên đường và lao vào đánh nhau với con gấu xám. Một lát sau, vài người lính đến giúp anh giết con gấu. Lúc đó anh ta mới nhận ra người đàn ông bị gấu đuổi là quan tổng đốc. Để cảm ơn người cứu mạng mình, quan tổng đốc hứa sẽ thăng chức anh làm quan phủ.

Người bạn thứ hai của Tiết Nhĩ là một học giả. Khi ông của anh ta sắp chết, các con cháu của cụ sống ở xa được yêu cầu chuẩn bị đám tang cho ông. Ông cụ bảo với gia đình của mình: “Ai về nhà trước tiên sẽ được 5.000 lạng (250kg) vàng chôn ở sân sau”. Mong muốn vinh danh cha mình của người học giả rất lớn, nên ngay trong đêm đó anh quay về nhà. Lúc anh quay về, ông của anh vẫn chưa chết và ngay lập tức cho anh 5.000 lạng vàng.

Sau khi chứng kiến lời tiên đoán về hai người bạn của mình trở thành sự thật. Tiết Nhĩ nghĩ rằng mình sẽ không thoát được điềm gở được báo trước. Nên anh lấy tiền của mình đi làm nhiều việc thiện: xây cầu và cấp quan tài, thuốc men cho người nghèo. Anh nghĩ rằng cái chết của mình sẽ đến không sớm thì muộn, nên không có gì để lo lắng hay cảm thấy bất an.

Một ngày nọ, Tiết Nhĩ đi đến sông Tiền Đường, anh nhìn thấy một người đàn ông có ý định nhảy sông tự vẫn. Lập tức anh chạy đến và ôm chặt người đàn ông, rồi hỏi lý do vì sao tự tử. Người đàn ông kể rằng tên là Hồ Thanh, sinh ở Dương Châu. Ông đã cầm tiền của mấy người anh em trai đến Hàng Châu mua hàng, nhưng trong đêm đó một cơn bão đã làm chìm thuyền của ông. Mặc dù thoát chết nhưng ông không dám về nhà và định nhảy sông tự vẫn. Nghe xong câu chuyện, Tiết Nhĩ ân cần khuyên bảo và đưa ông ta 2.500 lạng (125kg) bạc. Hồ Thanh hỏi tên Tiết Nhĩ để sau này có thể trả lại số tiền, nhưng Tiết Nhĩ không cho biết tên.

Một ngày cách Trung Thu nửa tháng, khi Tiết Nhĩ đang dạo phố, anh gặp lại thầy bói Kỳ mắt ma. Vị thầy bói ngạc nhiên nói với anh: sắc đen trên khuôn mặt đã biến mất – anh được định số phải chết, nhưng lại không chết. Chắc chắn anh đã làm vài việc rất tốt, nên sẽ được sống lâu hơn trong tương lai. Nghe vậy, Tiết Nhĩ ngộ ra đạo lý “làm việc tốt có thể kéo dài mạng sống” là đúng. Anh mỉm cười và giải thích chuyện gì đã xảy ra sau lần gặp trước. Anh cảm ơn vị thầy bói về lời khuyên quý báu.

Kể từ đó, Tiết Nhĩ chân thành làm nhiều điều tốt, ông sống đến năm 90 tuổi và qua đời vì tuổi già.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhân quả báo ứng: Thoát chết nhờ làm nhiều việc Thiện

Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 2)

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp ngay để biết số mệnh của mình trong tương lai sẽ như thế nào.
Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp ngay để biết số mệnh của mình trong tương lai sẽ như thế nào.


Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 2 hinh anh
 
Lục Thập Hoa Giáp là một tổ hợp tử vi kết hợp giữa thiên can và địa chi. Dựa vào đó có thể xem tử vi, biết tương lai, đoán số phận, là phương pháp luận mệnh rất được tin tưởng.
  11. Đinh Dậu: tọa trường sinh, Thiên Tài, Văn Xương, chủ nhân cao quý, thông minh, kiến thức uyên thâm, được người khác khâm phục tôn kính, có tính cách nổi loạn.   12. Kỷ Hợi: tọa Chính Tài Chính Quan, là Tài Quan song mĩ, chủ quý. Nữ mệnh Kỷ Hợi sẽ lấy được quý phu.   13. Quý Mão: tọa trường sinh, ngày quý, thực thần thanh tú, chủ nhân thông minh, có văn tài. Nữ mệnh Quý Mão công danh thành công.   14. Ất Tị: Ất Mộc hướng dương, anh hoa phát ra ngoài, chủ nhân thông minh nhưng nhụt chí, lợi cho người, bất lợi cho mình. Tọa Thương Quan, Chính Tài, Chính Quan thuận sinh, có tiền, giàu có. Nam mệnh Ất Tị kết hôn muộn, gặp hiền thê, nhưng chi hại Quan gặp Quan, quá mức kiên cường, không tuân thủ kỷ luật, võ tướng hỉ khai sát giới.   15. Kỷ Dậu: tọa trường sinh, Văn Xương, chủ nhân thích văn học, thông minh, có văn tài, Thổ Kim tương sinh, chủ nhân thân thể tốt, nhưng nhụt chí, lợi hại đều có.
Can chi là gì? Cách tính mệnh theo can chi Cát, hung của thái tuế Lý giải vận mệnh và tính tuổi xung theo Lục Thập Hoa Giáp

16. Giáp Dần: tọa lộc, thân vượng, tọa Thương Quan phát tài, chủ phú quý, nhưng Tỷ Kiên đoạt tài, văn tài kém một chút. Nữ mệnh Giáp Dần thân cường khắc phu.
  17. Ất Mão: tọa lộc, thân vượng, tọa Tỷ Kiên, vô tài, thanh quý không phú quý, văn tài tốt, người thanh tú, tay chân khéo léo.   18. Bính Thìn: thân tọa khôi địa, chi giấu Chính Ấn, Thực Thần, Thất Sát, chủ nhân thông minh, lanh lợi, Thìn là âm Thổ, Bính là Thái Dương, ánh mặt trời chiếu khắp, vạn vật thành công, thông minh, hiếu động.   19. Canh Thân: tọa lộc, thân thể tốt, chủ phú quý. Tháng Sửu Canh Thân là Thiên Nguyệt song Đức, chủ nhân cả đời thân thể tráng kiện, ít tật bệnh. Nữ mệnh Canh Thân mang Thiên Nguyệt song Đức, tất sinh quý tử, thông minh.   20. Tân Dậu: tọa lộc, được trợ giúp, thông minh có văn tài, có năng lực.  
Giải mã vận mệnh người tuổi Bính Ngọ theo Lục Thập Hoa Giáp Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 5) Giải mã vận mệnh của người tuổi Đinh Tỵ theo Lục Thập Hoa Giáp Trình Trình
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 2)

Hốt bạc ầm ầm trong tháng 6 với 6 tuyệt chiêu phong thủy

Nếu gia chủ tranh thủ thời gian thay đổi theo tuyệt chiêu phong thủy thì tài vận trong tháng 6 chắc chắn sẽ được nâng cao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong phong thủy, luồng không khí tượng trưng cho dòng chảy tài lộc giúp bạn giàu có. Do đó, khí trong ngôi nhà phải được lưu thông, di chuyển khắp ngõ ngách để phát triển thịnh vượng. Hãy dọn dẹp nhà cửa thật gọn gàng, tránh để đồ quá bành trướng hoặc quá lộn xộn làm cản trở dòng khí tốt trong nhà.

1. Đồ dùng trong phòng bếp đầy đủ

Phòng bếp đại diện cho tài vận của gia đình, vậy nên các đồ vật như chạn bát, tủ lạnh,…phải luôn đầy đủ, như vậy sẽ có tác dụng chiêu tài tụ tài cho gia chủ.

2. Thực phẩm không thiếu

Đồ dùng trong bếp đầy đủ, tủ lạnh đầy ắp thức ăn...sẽ mang lại điềm lành cho sự no ấm đầy đủ

Tủ lạnh trong nhà không thể trống rỗng, thùng gạo cũng luôn được lấp đầy. Hai đồ vật này có mối quan hệ mật thiết đối với nguồn lương thực trong nhà, khi thỏa mãn hai điều trên thì gia chủ không phải lo lắng cơm áo gạo tiền.

3. Cây chiêu tài

Những cây chiêu tài

Cây mang đến vượng tài là cây có lá tròn, to hoặc mọc hướng lên... phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động), chẳng hạn trúc phú quý, lan... Cây lá tròn giúp tái tạo dòng năng lượng và kích thích phát triển dòng chảy của tiền. Bạn hãy nhớ là luôn giữ cho cây được khỏe mạnh và không được ngập quá nhiều nước. Những cây lá tròn này sẽ được đặt trong chậu màu tím là tốt nhất, và nó còn giúp làm đẹp cho góc tài lộc của nhà bạn đấy. Một số cây lá tròn được nhiều gia chủ chọn bày trong nhà như cây ngọc bích, cây kim tiền..

4. Đá quý và đá phong thủy

Đá quý và đá phong thủy là biểu tượng của giàu sang, phú quý. Bạn nên giữ kim cương hay đồ trang sức bằng đá quý vào một chiếc hộp có màu tím hoặc màu vàng trong góc tài lộc của phòng ngủ. Phía trên chiếc hộp nên đặt chuông gió. Trong phong thủy, điều này có nghĩa là sự sang trọng, giàu có sẽ bị hút vào cuộc sống của bạn. Trong các loại đá quý thì đá thạch anh tím có màu sắc rất đẹp, vừa dùng trang trí, vừa là biểu tượng của phú quý.

Đá phong thủy các loại, các mệnh

Nếu tình hình tài chính gia đình bạn không mấy ổn định, hay bạn thường xuyên phải suy nghĩ về nó, hãy đặt những vật nặng như đá tròn hay tượng ở góc tài lộc sẽ giúp bạn cải thiện tài chính của gia đình.

5. Luồng khí hanh thông

 

Trong phong thủy, luồng khí ngụ ý cho tài vận, vậy nên khi luồng khí trong nhà hanh thông mới có thể vượng tài vận của gia chủ. Thông thường, sau khi mở cửa luồng gió từ ngoài vào nhà không nên quá mạnh, tốt nhất là khí ôn hòa. Ngoài ra, ngôi nhà đông ấm hạ mát là sự lựa chọn hoàn hảo để duy trì luồng khí hanh thông.

6. Chú ý đến ánh sáng trong nhà

Ánh sáng có thể giúp bạn cải thiện tình hình tài chính, nhất là đối với những công việc đang bị bế tắc. Hãy giữ ánh sáng ở hướng Đông Nam hoặc hướng Nam bằng cách mở cửa sổ hoặc dùng đèn chiếu sáng ở những hướng này thường xuyên.

Theo: khỏe & Đẹp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hốt bạc ầm ầm trong tháng 6 với 6 tuyệt chiêu phong thủy

Thiên nguyên và cách xác lập 1 lá số theo Tứ Trụ

Các can và chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương, trong đục của trời đất. Thiên can chủ về lộc. Địa chi chủ về thân. Con người là vật trong trời đất, trong địa chi vốn đã tàng chứa khí trung hòa bẩm sinh của âm dương ngũ hành, là chủ mệnh. Sự phán đoán tổng hợp là một thể thống nhất trong mệnh lý học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thông qua sự khảo sát về can chi của một người, ta có thể chỉ ra gần như toàn bộ cát hung, tiền đồ, họa phúc, thuận nghịch của cả đời người đó. Bản thân mệnh của con người vốn gắn chặt với các thông tin từ tứ trụ - “Đó là tổng hợp của mọi phép tắc”. Tất cả mọi suy đoán đều lấy Can Chi trong tứ trụ làm cơ sở. Nếu kết hợp với tướng tay, tướng mặt trạch vận… thì có thể đạt tới sự chính xác, và chi tiết tới kỳ diệu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thiên nguyên tức là hàng can trong năm tháng ngày giờ sinh trong tứ trụ. Địa nguyên là hàng chi trong năm tháng ngày giờ sinh. Và nhân nguyên là khí trung hòa bẩm sinh của âm dương ngũ hành trong địa chi – Nó tựa như Can tàng trong chi vậy. Sự suy đoán về thiên nguyên, chủ yếu thông qua sự luận đoán về sự hóa hợp hình xung sinh khắc của ngũ hành giữu can ngày với ba can còn lại, cũng là sự ước đoán vè mười thần, nó là sự suy luận để phán đoán về sự mạnh yếu, tổn hại hay có ích của sự việc tương úng mà can Ngày làm chủ được lộ tra trong tứ trụ.

Từ trong thiên tượng, có thể thấy được mức độ trong sáng, nặng nhẹ của khí bẩm sinh con người. Trong mười thần lộ ra, dưới điều kiện tiên quyết với độ mạnh yếu, vượng hay suy của tứ trụ không bị phá vỡ bởi sụ xung khắc hay hình hại thì tổ hợp đó trong sáng.

Tứ trụ lộ ra là Thực (thương) sinh Tài; Tài sinh Quan (sát); Quan (sát) sin Ấn; và Ấn sinh Thân (nhật chủ) – Hoặc giả là Thực thần chế Sát – Thương quan hợp Sát; Thương quan (thực thần) mang Ấn (phủ ấn) – Nghĩa là sự trình diễn của của ngũ hành qua nguyên tắc sinh khắc chế hóa là có tình (thuận quy tắc) – Đó là những yếu tố ám chỉ một mệnh số Phú Quý.

Những tổ hợp còn lại thì cần căn cứ vào sự khác nhau mà kết luận.
Thiên can lộ ra tức là thiên can của tứ trụ xác định mười thần.
 
Ví dụ: một người sinh hồi 2g ngày 13 tháng 12 năm 1973 âm lịch.
Thuật dự đoán tứ trụ thiết lập một mẫu log (bảng biểu) như ở dưới:
Nó bao gồm một bảng biểu bốn cột dọc và hai cột ngang:

Tính từ trái qua phải:
-- Cột dọc thứ nhất: ghi nhận các thông tin xuất hiện liên quan tới năm sinh – gọi là trụ năm
-- Cột dọc thứ hai: tương tự cho trụ tháng
-- Cột dọc thứ ba: tương cho trụ ngày
-- Cột dọc thứ tư: tương thự cho trụ giờ.

Tính từ trên xuống dưới:

-- Hàng ngang thứ nhất:
+ Dòng thứ nhất ghi mười thần lộ ra theo bốn can của năm tháng ngày giờ sinh của người đó – Độ vượng suy của 12 cung ký sinh theo trụ tháng
+ Dòng thứ hai ghi trị số của năm tháng ngày giờ sinh của người đó và tên gọi Can chi của năm tháng ngày giờ sinh (ghi theo âm lịch).
+ Dòng thứ ba ghi các Can tàng phục trong chi theo các chi từng cột dọc tương ứng.
+ Dòng thứ tư ghi mười thầ theo các can tàng trong chi theo các cột tương ứng.
-- Hàng ngang thứ hai: Ghi các sao hoặc thần xuất hiện theo các can chi với các quy nạp khác.
 
Dưới đây là hiển thị đầy đủ cho tứ trụ này





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên nguyên và cách xác lập 1 lá số theo Tứ Trụ

Sao Thiên Mã và công danh trong cuộc đời

Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt.

Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

sao thiên mã

 Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.

Cách an sao Thiên Mã

Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã

Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
1-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.

Đi tìm ảnh hưởng của Mã

Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.

Thiên Mã tại cung Dần

Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.

Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:

-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tị

Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.

Thiên Mã tại cung Thân

Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi

Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ
Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.

Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:

1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới thành đạt.

trích (KHHB) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Mã và công danh trong cuộc đời

Những ngoại lệ của khoa Tử vi

Khi phân tích đối tượng con người, ta co 1dị thấy rằng khoaTử-Vi chỉ chú mục tìm hiểu kiếp số của con người sống, của con người toàn diện,của con người thế tục mà thôi. Như vậy, không phải ất cứ ai cũng là đối tượngcủa Tử-Vi. Mặc dù nào cũng có một lá số, nhưng có vài loại nằm ngoài tầm nghiêncứu của khoa Tử-Vi. Những ngoại lệ này gồm có: bào thai, người chết, người áinam ái nữ, tu sĩ, cư sĩ và thuật sĩ. Tấtcả các loại người này được xem như ngoại lệ ?
Những ngoại lệ của khoa Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1– Bào thai

Bào thai dù là người sống, nhưng chưa sinh. Vì chưa sinh nên chưa có cuộc sống ngoài thế gian, nhất là chưa thể biết được nam hay nữ, chưa có ngày, tháng, giờ, năm sinh để lấy lá số. Khoa Tử-Vi không nghiên cứu bào thai. Sau này chưa có ai thử làm công việc này. Có người cho rằng có thể lấy ngày thụ thai làm ngày sinh cho bào thai, căn cứ vào đó mà lấy lá số cho bào thai để tìm hiểu vận kiếp của bào thai suốt thời gian 9 tháng trong bụng mẹ.

Tuy nhiên, sự nới rộng phạm vi nghiên cứu con người từ lúc chưa sinh gặp nhiều khó khăn và nghịch thế. Khó khăn vì khó biết được giờ thụ thai chính xác. Lúc đậu thai không có triệu chứng gì báo hiệu thời điểm tinh trùng vào quả trứng. Nghịch thế là, vì dù có lấy lá số cho bào thai được đi nữa, người giải đoán làm cách nào để gạn lọc các sao áp dụng cho bào thai, các sao không áp dụng cho bào thai ? Các sao trong lá số bao hàm các biến cố và cá tính của người đã sinh chớ không phải của người chưa sinh.

2-  Người chết

Phật lý cho rằng người chết còn có một kiếp sống ở thế giới khác để chờ luân hồi đầu thai lại trên một người mới. Nhưng, khoa Tử-Vi không chấp nhận phật lý luân hồi. Người nào chết là hết kiếp sống trần gian. Khoa Tử-Vi không dùng ngày giờ chết để lấy số cho một âm hồn. Lý do là vì khoa Tử-Vi không phải là khoa học huyền bí, không khảo sát cõi âm, không cho rằng con người còn có kiếp sống nào khác hơn trần thế. Khoa Tử-Vi không có kỹ thuật nào truy tầm linh hồn kẻ quá vãng để biết nó phiêu bạt nơi đâu. Vì vậy, thuật cầu cơ rất trái ngược với quan niệm thế tục của Tử-Vi. Tuy khoa này có chịu ít nhiều ảnh hưởng của khoa địa lý Trung Hoa, nhưng vẫn không cảm nhận ảnh hưởng nào của người đã chết trên cuộc đời người còn sống. Tử-Vi học chỉ vay mượn nơi khoa điạ lý vài ý niệm để xét âm phần (địa thế, hình sắc và thế đất) để giải đoán về mồ mả tổ tiên, nhưng lại không cho điều đó có một hiệu lực gì đáng kể trên con người và đời người. Có quan điểm nhân bản gạt bỏ hẳn phần giải đoán mồ mả tổ tiên trong giải đoán Tử-Vi, vì nó không bổ ích gì mà còn làm cho khoa này trở nên thần bí.

Tóm lại, theo chủ thuyết sinh của Khổng học, khoa Tử-Vi chỉ nghiên cứu người còn sống. Kẻ chết là một ngoại lệ, ngòai phạm vi khảo sát.

3.– Những người ái nam, ái nữ

Đó là những người mà ta thường gọi là lại cái.

Tuy họ có một ngày sinh, có một kiếp sống hẳn hòi, nhưng họ không có phái nhất định: có thể xem họ là nam, cũng thể cho là nữ. Duy vì kỹ thuật lấy số đòi hỏi tính chất nam hay nữ cho rõ rệt để có thể an sao, cho nên gặp trường hợp ái nam ái nữ, không có thể lấy số được.

Kỹ thuật y học giải phẫu ngày nay có thể giúp xác định phái của người ái nam ái nữ. Có lẽ kể từ ngày được xác định, lá số có thể lấy được, dựa vào ngày sinh. Nhưng, vì trường hợp này quá ư hiếm hoi và quá ư đặc biệt cho nên... chưa có ai rút tỉa kinh nghiệm trong việc tìm tòi điểm đó.

4.– Những tu sĩ, cư sĩ và thuật sĩ

Ba loại người này tự ý đặt mình và ra ngoài vòng tục lụy, không màng đến phú quý vinh hoa, không sợ chết, sợ khổ, lấy sự tiết chế tình dục làm phương châm sinh hoạt.

Tu sĩ và cư sĩ đã chọn một ý thức hệ  vọng đạo chớ không theo đời, thoát tục chớ không vướng tục, xem nhân thế như tạm bợ, xem niết bàn như cứu cánh. Nhãn quan phi thế tục của họ khiến họ trở thành người ngoại lệ của đối tượng Tử-Vi.

Thuật sĩ là người chống lại bản năng, cố ý tìm sự khổ nhục thể xác để tập sự cho linh hồn chịu đựng giỏi hơn, cũng không mang đến vinh hoa phú quý. Ý thức hệ của họ khác với nhân sinh quan của đại chúng.

Đó là nói về các tu sĩ, cư sĩ tu Phật hay tu tiên chân chính, không cần biết đến số kiếp, vận mạng. Còn đối với vài lối tu theo Tin Lành, tu mà còn sống với đời để sửa đời, còn làm bóng xã hội, còn có vợ con (Tin Lành) thì vẫn còn áp dụng được lá số Tử-Vi.

Đối với thuật sĩ cơ hội hay tài tử, chỉ tập khổ nhục để biểu diễn, kỳ dư vẫn sống như phàm nhân thì vẫn là đối tượng của Tử-Vi.

5. – Tập thể

Có người cho rằng Tử-Vi có thể áp dụng để xem vận mệnh ch một tập thể nào đó, dùng ngày thành lập làm ngày sinh để lấy số, dùng lối suy luận tương tự để đoán số. Ví dụ như đối với một hiệp hội hoặc một nội các thì lấy ngày giờ ra mắt chính thức làm thời điểm lấy số. Rồi tùy theo các sao quý, phú, bệnh, họa mà suy luận về sự thịnh, suy, nguy, diệt cho hiệp hội hoặc nội các.

Cũng theo quan điểm này, cũng có thể xem vận mệnh cho một quốc gia bằng Tử-Vi, cũng lấy ngày sinh cho lá số quốc gia.

Đây là một quan điểm mới mẻ và táo bạo, cho đến nay chưa thấy ai áp dụng hay thí nghiệm. Duy pải công nhận rằng việc áp dụng Tử-Vi cho tập thể bao hàm nhiều cách, hoặc dựa vào ngày giờ cho phép lập hội, ngày giờ ký Sắc lệnh lập Nội các, hoặc dựa vào ngày giờ hội hoặc nội các ra mắt quốc dân. Còn đối với quốc gia, ngày sinh sẽ phức tạp hơn nhiều. Ví dụ như đối với Việt Nam, có thể chọn ngày Giỗ Tổ Hùng Vương hay ngày Quốc Khánh cũng hữu lý cả. Vì vậy, việc suy đoán vận mệnh dễ sai lầm. Hơn nữa, đời sống của một tập thể, của quốc gia không giống đời sống của một cá nhân. Trên một lá số nào đó, có thể đoán ngày chết của cá nhân, nhưng không ai dám quả quyết rằng tập thể hay quốc gia trúng số sẽ bị tiêu diệt cùng lúc.

Vì vậy, có thể nói rằng Tử-Vi không áp dụng cho tập thể và càng không áp dụng được cho quốc gia.

Lược trích cuốn "Tử vi tổng hợp" của Nguyễn Phát Lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ngoại lệ của khoa Tử vi

Top 5 con giáp rủng rỉnh tiền xài trong tháng 8

Người tuổi Thìn và tuổi Dần đứng đầu bảng những người rủng rỉnh tiền tiêu nhất trong tháng tới.
Top 5 con giáp rủng rỉnh tiền xài trong tháng 8

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1. Tuổi Thìn

Trong tháng 8, vận thế của người tuổi Thìn ổn định, so với những tháng trước đó, tài vận khởi sắc mạnh. Điều đó sẽ mang lại thuận lợi và may mắn về vấn đề tiền bạc cho con giáp này. Tuy nhiên, nếu có ý định kinh doanh buôn bán mặt hàng mới nào đó, bạn cần để sang tháng tới, khi nguồn vốn đã thực sự ổn định nhé.

Thin-9617-1438075526.jpg

No2. Tuổi Dần

Sau bao nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm những cách kiếm tiền mới, cuối cùng người tuổi Dần cũng tìm được phương án tối ưu, có thể kiếm được bộn tiền trong tháng 8.

Ngoài ra, trong tháng này bạn vượng vận quý nhân, làm việc gì cũng được mọi người giúp đỡ nên dễ dàng gặt hái được thành công.

No3. Tuổi Ngọ

Vận thế của người tuổi Ngọ trong tháng 8 cực sáng nên hay gặp những cơ hội bất ngờ về tiền bạc, không bao giờ phải lo tình trạng “viêm màng túi”. Không những vậy, thái độ học tập và làm việc chủ động, tích cực còn giúp bạn đạt được thành công rực rỡ trên con đường thi cử và sự nghiệp của mình.

Ngo-3910-1438075526.jpg

No4. Tuổi Dậu

Gặp tháng thiên thời địa lợi nhân hòa, dù chưa thực sự trưởng thành về tư tưởng nhưng hàng loạt cơ hội kiếm bộn tiền đang chờ đón người tuổi Dậu ở phía trước. Nếu biết nắm bắt cơ hội, chắc chắn bạn sẽ “rinh” về khoản tiền kha khá, đủ để tiêu xài thoải mái cho chuyến du lịch sắp tới.

No5. Tuổi Sửu

Dù tài vận trong tháng 8 của người tuổi Sửu cực tốt, nhưng nếu không kiểm soát ham muốn mua sắm, túi tiền của bạn sẽ vơi đi trông thấy. Thói quen vung tay quá trán sẽ khiến con giáp này khó có thể thực hiện những kế hoạch kinh doanh hay vui chơi đã ấp ủ bấy lâu nay.

Mr.Bull (theo MGSP)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp rủng rỉnh tiền xài trong tháng 8

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Dậu/Tuất - Ít hiểu nhau Dậu Tuất không có khả năng giao lưu trong năm 2014, và kể cả nếu có thể, hai người sẽ như đang đi trên những đường thẳng song song, rất ít sự hiểu biết. Năm nay Tuất gây hại cho Dậu. Vì lợi ích của cả hai, tốt nhất là không nê
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tuất năm 2014 –

Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Kiếp số là điều con người luôn e sợ nhưng không thể nào tránh khỏi. Theo các chuyên gia tử vi, kiếp nạn của 12 con giáp sẽ ập tới trong một thời điểm nhất định.
Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếp số là điều con người luôn e sợ nhưng không thể nào tránh khỏi. Theo các chuyên gia tử vi, mỗi con giáp tại thời điểm nhất định sẽ gặp kiếp số của mình, hãy cùng ## tìm hiểu.


Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh
 
Tuổi Tý
 
Trong 12 con giáp, người tuổi Tý thuộc Thủy, tương khắc với Ngọ và Mùi, vậy nên khi đến 30 và 31 tuổi là thời điểm tương khắc Thái tuế, làm việc không thuận lợi, đại tài không đến, tiểu tài tiêu tán. Khi đó, họ cần sự trợ giúp của quý nhân tuổi Sửu, Thìn, Thân.
Tuổi Sửu
 
Sửu thuộc Thổ, tương khắc Thìn, Ngọ. Khi đến tuổi 27 và 29 tương xung với Thái tuế, sự nghiệp gặp trở ngại lớn, dễ xung đột với người thân và người yêu, có thể chịu nỗi khổ chia ly. Để giảm thiểu kiếp số này, họ nên gặp người tuổi Dậu, Tý, Tỵ.
Tuổi Dần
 
Dần thuộc Mộc, tương khắc Tỵ và Thân, nên năm 36 tuổi và 39 tuổi họ cần đặc biệt chú ý, nhẹ thì tổn thất tài sản, nặng thì vợ chồng mâu thuẫn, gia đình gặp biến cố, tai nạn trùng trùng. Nhờ người tuổi Ngọ hoặc Tuất, họ có thể hóa giải một phần vận thế không tốt.   Tuổi Mão
Mão thuộc Mộc, tương khắc Thìn, Dậu. Mỗi khi đến năm Dần và Thìn đặc biệt là thời điểm 30 và 37 tuổi, họ vô cùng xui xẻo, sự nghiệp, hôn nhân và sức khỏe đều gặp vấn đề, vậy nên họ cần phải cẩn thận. Cách hóa giải vận kiếp này là mệnh chủ nên kết thân người tuổi Tuất, Hợi.
 
Năm loại quần khiến tài vận xa lánh bạn
Quần là vật dụng được sử dụng hàng ngày, song lại chứa rất nhiều yếu tố phong thủy. Nếu gia chủ không để tâm đến chiếc quần giản đơn đó, có thể tài vận đang

Tuổi Thìn

Thìn thuộc Thổ, tương khắc Tuất, Sửu, vậy nên đến năm 30 và 33 tuổi chính là năm Tuất và Sửu, vận thế của họ đặc biệt xấu, chỉ cần trải qua hai năm này thì sẽ có sự thay đổi tót. Họ nên cùng người tuổi Dậu, Tý, Thân tạo nên Tam hợp Lục hợp để giảm bớt hung tinh Thái tuế.
  Tuổi Tỵ
Tỵ thuộc Hỏa, tương khắc Dần, Thân, họ phải trải qua hai lần kiếp số đặc biệt nặng là 21 tuổi và 39 tuổi, gia sản và hôn nhân đều xảy ra hiện tương xấu, họ cần khắc chế bản thân và tích cực giao lưu với người tuổi Sửu và Dậu.

Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh 2
 
Tuổi Ngọ
 
Ngọ thuộc Hỏa, tương khắc Tý Sửu, họ an nhàn tiền vận, trung vận nhiều khổ cực. Đến năm 42 và 43 tuổi, mệnh chủ sẽ gặp kiếp số của mình, sự nghiệp và quan hệ gia đình luôn lục đục, vì tuổi tác khi đó đã cao nên họ cần khiêm nhường, và gặp người tuổi Dần, Mùi và Tuất để giảm nhẹ kiếp số.   Tuổi Mùi
 
Mùi thuộc Thổ, tương khắc Tý Tuất, nên năm 32 và 40 tuổi sẽ gặp vận kiếp của mình, đặc biệt là năm 32 tuổi, họ sẽ gặp nhiều tổn thất, bệnh tật liên miên. Bằng cách gặp con giáp tuổi Mão, Ngọ và Hợi, mệnh chủ có thể thuận lợi giảm nhẹ nguy cơ từ vận kiếp đem lại.   Tuổi Thân
 
Thân thuộc Kim, tương khắc Hợi, Dần. Đến năm 39 và 42 tuổi họ sẽ gặp vận kiếp, nếu là người làm ăn dễ phá sản, đại nghiệp gặp nguy cơ, gia đình mâu thuẫn, tiểu nhân ám toán, chỉ cần qua khoảng thời gian này sẽ ổn định. Bát tự trụ năm Thân nên gặp người tuổi Thìn, Tý để giúp bản thân.
Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh 3
 
Tuổi Dậu

Dậu thuộc Kim, tương khắc Mão Tuất, vậy trong năm 30 và 37 tuổi sẽ đem đến tai kiếp cho họ, công việc không thuận, nhân duyên kém, việc làm ăn có biến cố, dễ mắc bệnh. Khi tiếp xúc với người tuổi Sửu, Thìn, Tỵ giảm nhẹ khí xấu.   Tuổi Tuất

Tuất thuộc Thổ, tương khắc Dậu Mùi nên trong năm 33 và 35 tuổi dễ phạm sai lầm, tin nhầm tiểu nhân, tâm tình bất an, hôn nhân có biến, sự nghiệp trắc trở. Khi đến thời điểm đó, mệnh chủ nên gặp người tuổi Dần, Mão, Ngọ tất sẽ có lợi.   Tuổi Hợi

Hợi thuộc Thủy, tương khắc Tỵ Thân, đến năm 42 và 45 tuổi sẽ gặp vận kiếp của mình, khó khăn trùng trùng, phạm đào hoa, tỷ lệ bị lừa và bị thương rất lớn, tán sản. Vậy nên, họ cần làm bạn với người tuổi Mùi và Mão có lợi cho vận thế của bản thân.
Chi Nguyễn
 
3 con giáp phải học cách lùi một bước để tiến nhiều bước trong sự nghiệp 4 nàng giáp sẵn sàng cuộc sống một túp lều tranh, hai trái tim vàng Đối mặt với đại hung khi bắt gặp các dị tượng Nàng giáp đi tìm hạnh phúc khi qua hai lần đò Điểm mặt con giáp phải đau đầu vì phú quý khi tới Tứ tuần

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Doanh nhân tuổi Tý chọn đối tác làm ăn

Đối với doanh nhân tuổi Giáp Tý 1924, 1984, cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Giáp Tý, tuổi Bính Dần 1926, 1986, tuổi Kỷ Tỵ 1929, 1989,
Doanh nhân tuổi Tý chọn đối tác làm ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với doanh nhân tuổi Giáp Tý (1924, 1984), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Giáp Tý, tuổi Bính Dần (1926, 1986), tuổi Kỷ Tỵ (1929, 1989), tuổi Nhâm Thân 1932, 1992).

Tuoi Dan thuoc cung Song Ngu Nhay cam va kien tri

   
Đối với doanh nhân tuổi Bính Tý (1936, 1996), nam giới nên hợp với người tuổi Bính Tý, tuổi Tân Tỵ (1941, 2001), tuổi Ất Dậu (1945). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Bính Tý, Tân Tỵ.

Đối với doanh nhân tuổi Mậu Tý (1948), nam giới nên hợp tác với người tuổi Nhâm Tý (1972), tuổi Kỷ Sửu (1949), tuổi Quý Tỵ (1953). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Sửu, Quý Tỵ, Ất Mùi (1955).

Đối với doanh nhân tuổi Canh Tý (1960), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Tân Sửu (1961), tuổi Giáp Thìn (1964).

Đối với doanh nhân tuổi Nhâm Tý (1972), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Bính Thìn (1976), tuổi Giáp Dần (1974), tuổi Canh Thân (1980). Nữ giới còn nên hợp tác với người tuổi Nhâm Tuất (1982).

(Theo Tuyên Quang Online)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Tý chọn đối tác làm ăn

Các lễ hội ngày 1 tháng 1 Âm Lịch - Tết Nguyên Đán

Trong ngày mùng một tháng 1 âm lịch có tổ chức ba hội lễ hội đó là: Lễ Tết Nguyên Đán, Hội Xuân Gia Lạc, Hội Xuân Chợ Gò.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 1 tháng 1 Âm Lịch - Tết Nguyên Đán

Các lễ hội ngày 1 tháng 1 Âm Lịch - Tết Nguyên Đán

Trong ngày 1 tháng giêng có tổ chức ba hội lễ là:

1.TẾT NGUYÊN ĐÁN

Tết nguyên đán là lễ lớn nhất trong số các lễ hội tết cổ truyền của người Việt. Tết Nguyên Đán là thời điểm chuyển giao chu kì giữa năm cũ và năm mới. Đây cũng là dịp để con cháu có thời gian sum họp: Sự sum họp của tất cả các thành viên, sự gặp gỡ của các Gia Thần: Táo Quân, Thổ công, Tiên sư; sự trở về của các vong linh Tiên tổ.

Buổi sáng ngày mùng 1 tết các gia đình thường làm cỗ cúng gia tiên, cúng Thổ công, cúng Táo quân. Các gia đình bày cỗ cúng gia tiên tại bàn thờ gia tiên, gọi là lễ Chính Đán. Lễ phẩm gồm tất cả những thứ đã chuẩn bị từ trong tết. Chính đán là lễ cúng long trọng nhất mở đầu cho cả năm nên được các gia đình rất tôn trọng.

Lệ xưa cứ vào sáng mùng một, con cháu không phân biệt xa, gần đều phải thắp nhang tổ tiên mừng tuổi ông bà sau đó người nào mới làm việc của người đó. Đặc biệt, khi đi lối nào thì về lối đó. Có câu: "Mồng một thì ở nhà cha, mồng hai nhà mẹ, mồng ba nhà thầy". Hàm ý rằng mồng một thì thắp nhang bên nội, mồng 2 cúng lễ bên ngoại, mùng 3 thì đi lễ thầy.

Ngày mồng hai mồng ba thì đi chúc tết, hoặc lễ bái vãn cảnh ở đền, chùa, từ đường... Có nhà ăn tết 1, 2, 3 ngày... Tùy theo hoàn cảnh gia đình. Có nhà theo nếp cũ ăn tết tới bảy ngày cho tới lễ Khai hạ (Hạ cây niêu).

2.HỘI XUÂN GIA LẠC

Thời gian: tổ chức từ ngày mồng một đến ngày 3 thánh 1 âm lịch.

Địa điểm: Thôn Nam Thượng, Xã Phú Thượng, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh Định Viễn Công - Hoàng tử thứ 6, con vua Gia Long.

Nội Dung của lễ: Hội xuân Gia Lạc trước đây được tổ chức từ thời Minh Mạn nhưng chỉ dành cho những người trong phủ về sua dần trở thành hội chợ vui xuân dành cho cả nhân dân. Chợ họp từ sáng mùng một tết. Gia Lạc cách trung tâm thành phố Huế khoảng 3km, Về phía Vĩ Dạ. Hàng hoa phong phú, thay đổi theo từng năm, từ đồ gia dụng như chén bát, cơi trầu, ấm chén, hoa quả bánh trái đến đồ chơi trẻ em.

Ngoài ra, trong ngày hội còn diễn ra nhiều hoạt động vui chơi, ca hát như hát bài chòi, bài vè, hò dã gạo, hát đối nam nữ... Du khách khắp nơi về hội chợ xuân không chỉ để vui chơi mà còn để cầu may.

3.HỘI XUÂN CHỢ GÒ

Thời gian: tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 âm lịch. 

Địa điểm: Thôn Phong Thạnh, Thị trấn Tuy Phước, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định.

Nội Dung: Mọi người đến hội xuân chợ gò chủ yếu là để mua bán và vui chơi đầu xuân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 1 tháng 1 Âm Lịch - Tết Nguyên Đán

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd