Tuổi Tý và tuổi Hợi có hợp nhau không? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
ng người làm kinh doanh cũng vậy, khi lựa chọn địa điểm để mở cửa hàng, ngoài việc cân nhắc đến mối quan hệ giữa người với môi trường xung quanh, còn phải đặc biệt lưu ý đến môi trường kinh doanh.

– Chọn nơi sầm uất, tránh nơi hẻo lánh
Những nơi nào được coi là sầm uất? Đó chính là các khu vực ở thành thị, nơi có nhiều người qua lại. Theo cách nói của phong thủy, ở đâu có người ở đó có sự sống, người càng đông thì sinh khí càng mạnh, sinh khí nhiều sẽ kéo theo sự may mắn và phát đạt trong làm ăn kinh doanh.
Còn nếu xét từ góc độ kinh tế học thì những khu vực sầm uất ở thành thị chính là nơi hoạt động mua bán diễn ra tấp nập và sôi nổi nhất, ơ những nơi đó có rất nhiều người qua lại, sự có mặt của phần lớn những người trong số đó chính là để nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm. Chọn nơi sầm uất làm địa điểm mở cửa hàng đồng nghĩa với những người kinh doanh đã tự tạo cho mình một cơ hội tốt để có thể chủ động đưa sản phẩm của mình đên với người tiêu dùng, sản phẩm thu hút được khách hàng sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh theo chiều hướng tốt.
Ngược lại, nếu mở cửa hàng trên một khu phố hẻo lánh, ít người qua lại sẽ chẳng khác nào tránh mặt khách hàng. Như thế, ngay từ ngày đầu khai trương cửa hàng đã có rất ít người đến tham quan, cửa hàng sẽ trở nên vắng vẻ, thiếu sinh khí. Theo phong thủy học, sinh khí ít sẽ tạo nhiều âm khí. Sở dĩ cửa hàng làm ăn không hiệu quả chính là vì âm khí quá nhiều. Một cửa hàng nhiều âm khí như thế, không chỉ làm ăn thua lỗ mà nghiêm trọng hơn là nguyên khí của chủ cửa hàng bị tổn hại, dần dần dẫn đến phá sản.
– Chọn nơi rộng rãi, tránh nơi chật chội
Trong phong thủy học, khi chọn nơi làm nhà rất coi trọng yếu tố diện tích. Nhà cửa rộng rãi mới có thể tiếp nhận sinh khí từ khắp các hướng dồn về. Điều này có thể áp dụng trong việc mở cửa hàng kinh doanh. Cửa hàng có rộng rãi mới có thể thu hút được khách thập phương đổ về.
Dựa trên cơ sở nguyên tắc này, khi lựa chọn địa điểm mở cửa hàng cũng cần phải đảm bảo mặt tiền của cửa hàng phải rộng rãi, thông thoáng. Tuyệt đối không có các vật cản phía trước mặt như tường bao, cột điện, biển quảng cáo hay các cây to… Mặt tiền rộng thì mới có thể mở rộng được tầm nhìn của cửa hàng, khách bộ hành hay những người đi mua sắm chỉ cần đứng từ xa cũng có thể nhìn thấy được cửa hàng, như vậy sẽ rất có lợi cho việc quảng bá thông tin về sản phẩm đến người tiêu dùng ở khắp mọi nơi.
Phong thủy học gọi cách quảng bá sản phẩm đó là sự lưu động của không khí. Có sự lưu động của không khí thì sinh khí cũng sẽ tràn trề. Còn nếu nhìn từ góc độ kinh doanh thì khách bộ hành và những người mua sắm chỉ cần nắm bắt được thông tin về sản phẩm thì sẽ tìm đến để xem và mua hàng.
– Chọn hướng Đông Nam không chọn hướng Đông Bắc
Theo quan điểm phong thủy, khi xây nhà nên xây ở hướng Bắc nhưng nhìn về hướng Nam, mục đích là nhằm tránh ánh nắng gay gắt của mùa hè và những cơn gió lạnh lẽo của mùa đông. Khi chọn vị trí để mở cửa hàng cũng vậy, cần đảm bảo được các yếu tố chống nóng, chống lạnh. Do đó, vị trí tốt nhất để chọn lựa cũng là nằm ở hướng Bắc và nhìn về hướng Nam.
Một cửa hàng dùng vào mục đích kinh doanh thì trong suốt thời gian hoạt động phải luôn luôn mở rộng cửa. Nếu cửa của cửa hàng mở về hướng Đông Tây thì về mùa hè sẽ liên tục bị ánh nắng mặt trời chiếu vào; ánh nắng mùa hè rất gay gắt, trong phong thủy bị coi là sát khí. Luồng sát khí này rất không có lợi đối với hoạt động kinh doanh của cửa hàng.
Nếu là trường hợp bất đắc dĩ, buộc phải xây cửa hàng hướng về phía Đông Tây và đối diện vối hướng Bắc thì cần phải tìm biện pháp thích hợp để ngăn chặn luồng sát khí ấy. Khi mùa hè đến, có thể bật các cây ô to hay treo rèm chống nắng trước cửa hàng để tránh ánh nắng trực tiếp chiếu vào.Về mùa đông, nên sử dụng loại rèm cửa giữ ấm và lắp đặt hệ thống sưởi ấm bên trong để làm nhiệt độ trong phòng tăng trở lại, tạo điều kiện thuận lợi nhất để cho các hoạt động kinh doanh có thể diễn ra bình thường.
– Chọn nơi có đất mát
Trong phong thủy, khi chọn đất xây nhà đòi hỏi khu đất đó phải trong lành mát mẻ. Nhìn từ góc độ kiến trúc học hiện đại, khi chọn đất xây nhà, phải kiểm tra xem bề mặt đất có mát không, chủ yếu là nhằm khi chuyển đến ở, đất vẫn khô ráo và dễ thoát nước.
Nếu bề mặt đất biểu hiện không tốt hoặc bị trũng hoặc có đá lởm chởm, hoặc cỏ dại mọc um tùm hoặc bốc mùi hôi thối… thì sau khi nhà xây xong sẽ bị ẩm thấp hoặc nồm, khó thoát nước. Ngoài ra, bề mặt đất không tốt còn làm cho tâm lí của những người sống trong nhà không ổn định. Nếu thực sự muốn chọn vị trí này thì phải đắp cho đất cao lên hoặc loại bỏ các chất ô tạp.
– Tránh nơi ngã ba đường
Phong thủy học cho rằng, nếu xây nhà ở khu vực ngã ba đường thì ngôi nhà đó sẽ bị hoành hành bởi luồng sát khí đến từ những con đường. Sát khí sẽ quấy nhiễu mọi ngưòi trong gia đình, gây bực bội, khủng hoảng, từ đó dẫn đến mắc các căn bệnh nan y khó chữa.
Trong phong thủy có đề cập đến ảnh hưởng của các tạp âm phát ra từ ngoài đường như tiếng người, tiếng xe, tiếng còi… đến sự an nguy của ngôi nhà. Những người phải sống và làm việc trong một ngôi nhà bị ô nhiễm bởi đủ loại tạp âm như thế sẽ thường xuyên bị kích thích, thần kinh não suy giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng rất xấu đến giấc ngủ cũng như khả năng tập trung khi học tập, làm việc.
Vì thế trụ sở văn phòng của các công ty tốt nhất là không nên được xây dựng ở đây. Nhưng ở phần lớn các thành phô” lốn, các khu vực phồn hoa sầm uất nhất lại đều tập trung ở những nơi ngã ba đường. Nếu không mở cửa hàng kinh doanh tại đây , tức là sẽ tránh xa nguồn sinh khí có lợi cho việc làm giàu.
Vì thế, có nhà phong thủy học đã nghiên cứu một phương pháp để có thể kiểm soát luồng sát khí: Thứ nhất, xây thêm một bức bình phong ở phía trước cửa hàng, hoặc sửa lại cửa ra thành cửa ngách, nhằm ngăn chặn đồng thòi tránh khỏi bụi bặm từ ngoài đưòng thổi vào.
Thứ hai, trồng vài cây xanh hoặc hoa cỏ phía trưốc cửa để tăng thêm sinh khí và loại bỏ bụi bẩn. Thứ ba, thường xuyên phun nước phía trước cửa để rửa bỏ bụi bẩn, tạo bầu không khí trong lành. Ngoài ra, cũng cần thường xuyên quét dọn vệ sinh và lau chùi cửa sổ để loại bỏ bụi bẩn tích lại lâu ngày.
– Tránh nơi ngõ cụt
Phong thủy học cho rằng những nơi ngõ cụt là điểm tận cùng của sự lưu thông không khí, ỏ điểm tận cùng đó thì sinh khí rất ít. Sinh khí ít sẽ kéo theo sự xuất hiện của tử khí và tử khí vốn là một điềm dữ. Vì thế, quan điểm phong thủy cho rằng không xây dựng nơi ở tại các ngõ cụt. Còn nếu nhìn nhận theo quan điểm văn hóa hiện đại, nhà ở ngõ cụt, trước là ra vào rất bất tiện, khó cập nhật thông tin, sau là khi có ai muốn tìm bạn có việc cần bàn cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Mã: Có tài năng, số xuất ngoại. Tuy trung niên vất vả nhưng thành công, hưng vượng.
|
| Chữ Mai là người tài năng, thông minh |
Mạch: Là nguời hay ưu tư, phiền não trong tình cảm, tuy số vất vả nhưng cuối đời hưởng phúc từ con cái.
Mai: Có tài năng, thông minh nhưng phải bôn ba vất vả. Trung niên vì trọng tình mà gặp nhiều điều không may, cuối đời cát tường.
Mại: Thuở nhỏ khó khăn, trung niên vất vả, cuối đời thịnh vượng. Ra ngoài gặp quý nhân phù trợ, có số làm quan hoặc xuất ngoại.
Mẫn: Là người ôn hòa, số tài hoa, thanh nhàn, phú quý, tuy nhiên hay sầu muộn. Nếu xuất ngoại sẽ được thành công.
Mạnh: Thuở nhỏ vất vả, trung niên dễ gặp tai ương, cuối đời cát tường.
Mao: Là người tài trí, cuộc đời thanh nhàn, bình dị, phú quý. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời may mắn.
Mão: Tính khí ôn hòa, trọng tình nghĩa, số khắc bạn đời, hiếm muộn con cái. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời phát tài, phát lộc.
Mạt: Là người đa sầu, đa cảm, số kỵ xe cộ, kỵ nước. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời gặp nhiều may mắn.
Mẫu: Thuở nhỏ vất vả, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời ưu tư, vất vả. Số khắc cha mẹ.
Mậu: Tính cách quyết đoán, cuộc đời thanh nhàn. Trung niên gặp trắc trở trong chuyện tình duyên, cuối đời cát tường.
Mâu: Tính cách quyết đoán, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Mâu: Tính tình cương trực, mau miệng, cẩn thận gặp họa tù lao.
Mễ: Bản tính thông minh, đa tài, nếu xuất ngoại sẽ đại cát. Trung niên sống bình dị, cuối đời phát tài, phát lộc.
Mi: Ôn hòa, hiền hậu, có số thanh nhàn, tuy nhiên cẩn thận gặp họa trong tình ái. Trung niên thành công, hưng vượng.
Miên: Đa tài, nhanh trí, ôn hòa, hiền hậu. Trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Minh: Là người tài năng, nhanh nhẹn, có số thanh nhàn. Trung niên có thể gặp trắc trở trong tình cảm nhưng cuối đời được hưởng phúc.
Mỗ: Nếu là nam giới thì số phú quý, trung niên thành công, hưng vượng, có 2 con thì cát tường. Nếu là phụ nữ thì bất hạnh, tái giá.
Mô: Là người tài, đức vẹn toàn. Trung niên thành công, có số xuất ngoại.
Mộc: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, gia cảnh tốt, số 2 vợ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc.
Môn: Số lận đận, vất vả. Trung niên có thể gặp lắm trắc trở, cuối đời cát tường.
Mục: Số lận đận, tuy thành công nhưng rất vất vả. Trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời cát tường.
Muội: Tuy đa tài nhưng vất vả, cuối đời mới được hưởng phúc. Là người trọng tín nghĩa nhưng dễ gặp rắc rối trong tình cảm.
Mưu: Thông minh, lanh lợi nhưng không gặp thời hoặc gặp lắm tai ương. Cuối đời an nhàn hưởng phúc.
Mỹ: Thanh tú, có tài, tính tình hiền hậu. Trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.
Na: Thanh tú, nhanh nhẹn, kết hôn muộn sẽ cát tường, cẩn thận họa trong tình cảm, cuối đời hưng vượng.
(Theo Tên hay thời vận tốt)
Theo phong thủy, khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn.
Dưới đây là bảng tra Ngũ hành theo năm sinh:
1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức)
1972, 1973, 2032, 2033: Tang đố Mộc (Gỗ cây dâu)
1974, 1975, 2034, 2035: Đại khê Thủy (Nước dưới khe lớn)
1976, 1977, 2036, 2037: Sa trung Thổ (Đất lẫn trong cát)
1978, 1979, 2038, 2039: Thiên thượng Hỏa (Lửa trên trời)
1980, 1981, 2040, 2041: Thạch lựu Mộc (Cây thạch lựu)
1982, 1983, 2042, 2043: Đại hải Thủy (Nước đại dương)
1984, 1985, 2044, 2045: Hải trung Kim (Vàng dưới biển)
1986, 1987, 2046, 2047: Lộ trung Hỏa (Lửa trong lò)
1988, 1989, 2048, 2049: Đại lâm Mộc (Cây trong rừng lớn)
1990, 1991, 2050, 2051, 1930, 1931: Lộ bàng Thổ (Đất giữa đường)
1992, 1993, 2052, 2053, 1932, 1933: Kiếm phong Kim (Vàng đầu mũi kiếm)
1994, 1995, 2054, 2055, 1934, 1935: Sơn đầu Hỏa (Lửa trên núi)
1996, 1997, 2056, 2057, 1936, 1937: Giản hạ Thủy (Nước dưới khe)
1998, 1999, 2058, 2059, 1938, 1939: Thành đầu Thổ (Đất trên thành)
2000, 2001, 2060, 2061, 1940, 1941: Bạch lạp Kim (Vàng trong nến rắn)
Bảng mầu tương hợp

Ví dụ: Bạn sinh năm 1980 ==> mạng Thạch Lựu Mộc, tức là cây cối, mạng tương sinh ra bạn là mạng Thủy (nước), tương khắc với bạn là Kim (kim lọai).
Vậy màu hợp với bạn gồm màu xanh lá cây (màu của bạn), màu của thủy gồm không màu (như kim cương, pha lê), đen, xanh dương. Màu khắc với bạn là màu bạc, màu óng ánh.
Khi mua xe, nên chọn xe có màu tương sinh hay cùng hành, kỵ mua xe màu tương khắc với mạng của chủ nhân.
– Mua chiếc xe có màu tương sinh với mạng người chủ thì chiếc xe đó thường đem lại lợi lộc, khi lái xe sẽ thoải mái trong lòng, ít khi bị hư hỏng bất ngờ và nếu rủi ro có bị tai nạn thì thường bị nhẹ hơn màu tương khắc.
– Mua chiếc xe có màu cùng hành với người chủ cũng tốt, nó ít khi gây phiền phức nhưng cũng không được lợi bằng màu sinh nhập (cùng hành là cùng màu theo ngũ hành).
– Mua xe có màu tương khắc với mạng người chủ, thường làm cho sức khỏe người chủ trở nên suy yếu, trong lòng bực bội khi ngồi vào tay lái, bị buộc phải lái đi làm những việc mà trong lòng không muốn. Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề có khi phải vứt bỏ.
Ngũ hành tương sinh

Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Tương sinh không có nghĩa là hành này sinh ra hành khác, mà là nuôi dưỡng, trợ giúp, làm cho hành kia có lợi. Thí dụ như: Thủy sinh Mộc, nước sẽ làm cho cây tươi tốt. Mộc sinh Hỏa, cây khô dễ cháy tạo nên lửa…
Sự tương sinh của ngũ hành có hai trường hợp:
– Sinh nhập: Hành khác làm lợi cho hành của mình.
– Sinh xuất: Hành của mình làm lợi cho hành khác.
Mộc sinh Hỏa: Hỏa được sinh nhập (được lợi), Mộc bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).
Hỏa sinh Thổ: Thổ được sinh nhập (được lợi), Hỏa bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).
Thổ sinh Kim: Kim được sinh nhập (được lợi), Thổ bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe)
Kim sinh Thủy: Thủy được sinh nhập (được lợi), Kim bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).
Thủy sinh Mộc: Mộc được sinh nhập (được lợi), Thủy bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).
Ngũ hành tương khắc
Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Tương khắc có nghĩa là hành này làm hao mòn, diệt dần hay khống chế hành khác. Thí dụ như: Mộc khắc Thổ, rễ cây sẽ ăn hết phân của đất. Thổ khắc Thủy, đất sẽ ngăn chận làm cho nước không thể chảy qua được…
Sự tương khắc của ngũ hành cũng có hai trường hợp:
– Khắc nhập: Hành khác gây tổn hại hoặc kềm chế hành của mình. (Khi đi xe không hợp mệnh có thể dễ bị tai nạn)
– Khắc xuất: Hành của mình kềm chế hay gây tổn hại cho hành khác (Mình không bị hại nhưng xe dễ hỏng).
Mộc khắc Thổ: Thổ bị khắc nhập (bị hại), Mộc khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).
Thổ khắc Thủy: Thủy bị khắc nhập (bị hại), Thổ khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).
Thủy khắc Hỏa: Hỏa bị khắc nhập (bị hại), Thủy khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).
Hỏa khắc Kim: Kim bị khắc nhập (bị hại), Hỏa khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).
Kim khắc Mộc: Mộc bị khắc nhập (bị hại), Kim khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).
Màu sắc theo ngũ hành
– Mộc: Màu xanh lá cây nhạt hoặc đậm (green).
– Hỏa: Màu đỏ hay màu huyết dụ (burgundy).
– Thổ: Màu vàng, da cam gạch nhạt hay đậm hoặc màu vàng nhũ (gold).
– Kim: Màu trắng, màu bạc hay xám nhạt (gray hoặc silver).
– Thủy: Màu đen, tím thẫm hay xanh da trời nhạt hoặc đậm (blue).
Mạng theo ngũ hành
Mạng Kim, gồm có các tuổi:
Nhâm Thân 1932 và Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 và Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 và Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 và Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 và Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 và Ất Sửu 1985.
Mạng Mộc gồm có các tuổi:
Nhâm Ngọ 1942 và Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 và Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 và Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý1972 và Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 và Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 và Kỷ Tỵ 1989.
Mạng Thủy gồm có các tuổi:
Bính Tý 1936 và Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 và Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 và Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 và Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 và Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 và Quý Hợi 1983.
Mạng Hỏa gồm có các tuổi:
Giáp Tuất 1934 và Ất Hợi 1935; Mậu Tý1948 và Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 và Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 và Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 và Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 và Đinh Mão 1987.
Mạng Thổ gồm có các tuổi:
Mậu Dần 1938 và Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 và Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 và Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 và Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 và Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 và Tân Mùi 1991.
Nhìn vào bảng liệt kê các mạng, biết tuổi mình thuộc mạng gì, so với màu của ngũ hành để lấy màu sinh nhập cho mạng mình thì biết được mình hợp với màu nào, nên mua xe theo màu đó. Nếu khó tìm màu sinh nhập, chọn màu cùng hành cũng tốt. Ví dụ: Người mạng Thổ sinh năm 1968 có thể đi xe màu đỏ, màu vàng, màu trắng, tránh các màu xanh, đen.
Màu sắc của đồ vật sử dụng như xe máy, ô tô, quần áo giày dép, đồ dùng thường xuyên… cũng có tác động gián tiếp ức chế hay tăng cường đối với ngũ hành của bản mệnh. Nếu chọn lựa màu sắc của trang phục, các đồ vật sử dụng phù hợp với ngũ hành bản mệnh thì cũng mang lại những kết quả tốt, góp phần cải thiện được những thiếu khuyết của bản mệnh.
1. Vân Tài vận Vân Tài vận chính là đường vân nằm ngay dưới ngón tay đeo nhẫn kéo dài theo phương thẳng đứng xuống phía lòng bàn tay.
Người có đường vân Tài vận thường có tài kinh doanh buôn bán thiên bẩm, nếu làm trong lĩnh vực này thì tiền tài nhiều như nước, dồi dào mãi không cạn. Ngoài ra, người này cũng giỏi về các giao dịch tài chính khác. 2. Vân hình sao Nếu trên bàn tay có vân hình sao nằm ngay gò Thủy Tinh (bên dưới ngón tay út) là dấu hiệu phát tài bất ngờ, dù là nguồn chính tài hay phụ tài đều tăng đột biến. Ngoài ra, con cái của người này cũng có tài vận tốt, cuộc sống sung túc, giàu có. Theo đó, người này được hưởng phúc lộc con cháu khi về già.
![]() |
| 9 vân tay mang lại sự giàu có |
![]() |
![]() |
| => Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Khu dân cư kỵ địa hình tam giác. (Địa hình này dễ khiến người trung niên mắc bệnh). Cách hóa giải địa hình này: Cần trồng nhiều cây cỏ ở góc nhọn.
Địa hình khu dân cư kỵ trái rộng, phải hẹp (Ngụ ý trước giàu sau nghèo). Hóa giải bằng cách : Nên trổ một lối đi ở tường sau và cửa cần để rộng.

Khu dân cư kỵ trước rộng sau hẹp : Gặp phải loại địa hình này trước giàu sau nghèo. Nếu gặp phải nên hóa giải bằng cách xây một bức tường hình vong cung để tụ hợp tài khí.
Khu dân cư kỵ trước thấp sau cao. Đường tài lộc bị cản trở, vận khí không thông, lớn bé không có tôn ti trật tự. Nên : đặt kính ngửa lên ở mái trên của tòa nhà để phản xạ anh sáng, lấn át sự tối tăn do địa thế quá thấp.
Khu dân cư bị hai con đường kẹp vào giữa. Vận mệnh bị thất tán. Nên chọn nơi khác để định cư. Khi lựa chọn một nơi để định cư, thì nên chú ý đến việc xem hướng nhà và chọn ngày tốt nhập trạch để đón được nhiều cát lợi, vượng khí vào nhà, hóa giái các kỵ khí.
Khu dân cư kỵ bị những tòa cao ốc xung quanh dồn vào giữa. Cát khí không lan tỏa tới, mà hung khí tích tụ, tù hãm. Người ở đó tinh thần sa sút, vận khí bế tắc, khốn đốn, cần đặt bể nước trên tầng cao nhất để đón những luồng không khí cát lợi may mắn từ bốn phương.
Khu dân cư kỵ nằm sâu trong hẻm cụt, tiền đồ bị cản trở, tương lai túng bí, phương hướng mịt mờ, cần mở rộng thêm hẻm, làm cho cửa chính và hẻm chia tách ra
Khu dân cư kỵ tường bao bọc quá cao, người ở khốn đốn, tinh thần sa sút. Nên hạ thấp độ cao của tường.
Khu dân cư kỵ cổng chính mở về hướng Tây. Hướng Tây hành Kim, là hướng Bạch hổ, cửa mở về hướng này, chủ tất bị hình thương, tình cảm lục thân cũng hình khắc chia ly. Gặp trường hợp này nên thay đổi phương hướng, có thể tham khảo việc chọn hướng cổng theo phong thủy sân vườn. Nếu không thể thì làm cho tường bao thông thoáng, và mở một cửa khác theo hướng Nam – Bắc.
Trước nhà kỵ có con đường hình chữ Y, đó là thế đất gọng kìm lửa, rất hung. Phải trồng nhiều cây xanh và thảm cỏ ở ngã ba đường, đồng thời xây một bức tường trang trí mới hóa giải được những rủi ro.
Tổng hợp
Kiếp Sát gặp Thiên Lương, Thiên Thọ trở nên vô hiệu. Kiếp Sát ảnh hưởng vào Tật Ách mạnh hơn cả, có Kiếp Sát ở cung này dễ bị các bệnh hiểm nghèo khó chữa.
Kiếp Sát gặp song Hao ở vận hạn tiền bạc hao tán nặng. Kiếp Sát gặp Thiên Hình làm cho tranh tụng dữ dội. Kiếp Sát gặp Văn Khúc, Hóa Kị hay bị lừa gạt.
Những sao Hoa Cái, Giải Thần, Thiên Thọ, Thiên Lương có sức hóa giải sao Kiếp Sát hơn Tả Hữu Hóa Khoa. Kiếp Sát bị Tuần Triệt hoặc các sao Không trở thành vô hiệu, sức phá hoại của nó bị hủy diệt.Kiếp Sát thuộc hỏa đóng ở Mệnh cung nóng tính hay làm ẩu. Kiếp Sát đi với các sao đào hoa vào vận hạn tăng thêm những khó khăn cho tình duyên.
Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên hương khói trong những ngày giỗ, tết. Nhưng ngày xưa vối nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, ngưòi nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là "biệt quán ly hương", vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.

Xuất phát từ chữ "Vọng bái", nghĩa là vái lạy từ xa:; Khi có những điển lễ lớn của triều đình, các quan trong triều tập trung trưóc sân rồng làm lễ, các quan ỏ các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời. Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ỏ Vạn Kiếp, Đức Thánh Mẫu ỏ Đền Sòng... dần dần về sau đường sá xa xôi cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến đền thờ chính xin bát hương về thờ. Những đền thờ đó gọi là Vọng từ (thí dụ ỏ số nhà 35 Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là đền thờ vọng của Núi Sòng, tức là thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng thờ ông bà cha mẹ chỉ lập khi con cháu sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn, nếu sống gần quê, trên đất tổ lưu lại thì đến ngày giỗ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ, không có nhà thờ thì đến bàn thờ nhà con trưỏng mà làm lễ, cho dù cửa trưỏng chỉ thuộc hàng cháu, các chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối vối cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người thứ hai thế trưỏng được quyền lập bàn thờ chính, mà bàn thờ ở nhà người anh cả xa quê lại là bàn thờ vọng.
Phong trào này rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ "hiếu" đi đôi với chữ "đễ". Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muôn anh chị em sống hoà thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, thì đó là mầm mỗng của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản được.
Nhà nào nếu có nhà riêng tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ỏ phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách, nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, thì bàn thờ vọng gia tiên phải thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Bàn thờ vọng thường hướng lưng về quê chính, để khi người gia trưỏng thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ: Người quê miền Trung bộ, Nam bộ sống ỏ Hà Nội thì đặt bàn thờ vọng phía nam căn phòng, hay ngoài sân, ngoài hiên, hướng về nam. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối đi. Đối với những gia đình ỏ tầng khu tập thể nếu câu nệ quá thì không còn chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hướng đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp, rộng hẹp ra sao.
![]() |
![]() |
![]() |
Theo cung Hoàng đạo của người Việt, con đầu tiên là chuột (Tý), sau đó là trâu (Sửu) và tiếp đến theo thứ tự là hổ (Dần), mèo (Mão), rồng (Thìn), rắn (Tỵ), ngựa (Ngọ), dê (Mùi), khỉ (Thân), gà (Dậu), chó (Tuất) và cuối cùng là lợn (Hợi). Trong số các con giáp này thì Thìn (con rồng) là con vật thần thoại và Tý, Dần, Tỵ, và Thân là những con vật sống hoang dã và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là những vật nuôi trong nhà. Cứ mỗi chu kỳ 12 năm thì lại mang tên con vật cũ.
Ngoài ra, người Việt còn tính theo chu kỳ 60 năm. Chu kỳ này được lập theo sự kết hợp của mười hai con vật là các biểu tượng cụ thể theo cung hoàng đạo của người Việt và 10 dấu hiệu của bầu trời. Lịch của người châu Á được lập theo chu kỳ 60 năm tương đương với chu kỳ một thế kỷ 100 năm của người châu Âu. Mỗi năm ảnh hưởng đối với con người tùy theo những biểu tượng của họ là hội tụ hay phân kỳ. Sau đây là 12 con vật đại diện 2 giờ đồng hồ trong một ngày 24 tiếng.
Năm Tý được cho là năm có nhiều hỗn loạn. Người mang tuổi này rất duyên dáng và hấp dẫn người khác phái. Tuy nhiên, họ rất sợ ánh sáng và tiếng động. Người mang tuổi này rất tích cực và năng động nhưng họ cũng thường gặp lắm chuyện vặt vãnh. Người mang tuổi Tý cũng có mặt mạnh vì nếu chuột xuất hiện có nghĩa là phải có lúa trong bồ. Vì chuột là con vật sống về đêm nên giờ Tý bắt đầu từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng
Trâu tượng trưng cho sự siêng năng và lòng kiên nhẫn. Năm này có tiến triển vững vàng nhưng chậm và một sức mạnh bền bỉ; Người mang tuổi Sửu thường có tính cách thích hợp để trở thành một nhà khoa học. Trâu biểu tượng cho mùa xuân và nông nghiệp vì gắn liền với cái cày và thích đầm mình trong bùn. Người mang tuổi này thường điềm tĩnh và rất kiên định nhưng rất bướng bỉnh. Giờ Sửu bắt đầu từ 1 giờ đến 3 giờ sáng.
Những người mang tuổi cọp thường rất dễ nổi giận, thiếu lập trường nhưng họ có thể rất mềm mỏng và xoay chuyển cá tính cho thích nghi với hoàn cảnh. Cọp là chúa tể rừng xanh, thường sống về đêm và gợi lên những hình ảnh về bóng đen và giông tố. Giờ Dần bắt đầu từ 3 giờ đến 5 giờ sáng khi cọp trở về hang sau khi đi rình mò trong đêm.
Mèo tượng trưng cho những người ăn nói nhẹ nhàng, nhiều tài năng, nhiều tham vọng và sẽ thành công trên con đường học vấn. Họ rất xung khắc với người tuổi Tý. Người tuổi Mão có tinh thần mềm dẻo, tính kiên nhẫn và biết chờ thời cơ trước khi hành động. Giờ Mão bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng khi mèo bắt đầu đi kiếm ăn.
Con rồng trong huyền thoại của người phương Đông là tính Dương của vũ trụ, biểu tượng uy quyền hoàng gia. Theo đó, rồng hiện diện ở khắp mọi nơi, dưới nước, trên mặt đất và không trung. Rồng là biểu tượng của nước và là dấu hiệu thuận lợi cho nông nghiệp. Người tuổi Rồng rất trung thực, năng nổ nhưng rất nóng tính và bướng bỉnh. Họ là biểu tượng của quyền lực, sự giàu có, thịnh vượng và của hoàng tộc. Có một câu tục ngữ nói rằng "vào năm Thìn, mọi người phải dự trữ lương thực cho mình". Vì vào những năm Thìn nạn đói kém thường xảy ra. Giờ Thìn bắt đầu từ 7 giờ đến 9 giờ sáng.
Người tuổi rắn nói ít nhưng rất thông thái. Họ thích hợp với vùng đất ẩm ướt. Rắn tượng trưng cho sự tiến hóa vĩnh cửu của tuổi tác và sự kế vị, sự phân hủy và sự nối tiếp các thế hệ của nhân loại. Người tuổi rắn rất điềm tĩnh, hiền lành, sâu sắc và cảm thông nhưng thỉnh thoảng cũng hay nổi giận điên cuồng. Họ rất kiên quyết và cố chấp. Giờ Tỵ bắt đầu từ 9 giờ đến 11 giờ sáng.
Người tuổi Ngọ thường ăn nói dịu dàng và rất nóng nảy: thoải mái và rộng lượng. Do đó, họ dễ được nhiều người mến chuộng nhưng họ ít khi nghe lời khuyên can. Người tuổi này thường có tính khí rất nóng nảy. Tốc độ chạy của ngựa làm người ta liên tưởng đến mặt trời rọi đến trái đất hàng ngày. Trong thần thoại, mặt trời được cho là liên quan đến những con ngựa đang nổi cơn cuồng nộ. Tuổi này thường được cho là có tính thanh sạch, cao quý và thông thái. Người tuổi này thường được quý trọng do thông minh, mạnh mẽ và đầy thân ái tình người. Giờ Ngọ bắt đầu lúc giữa trưa khi mặt trời lên cao nhất (từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều).
Người mang tuổi Mùi thường rất điềm tĩnh nhưng nhút nhát, rất khiêm tốn nhưng không có lập trường. Họ ăn nói rất vụng về, vì thế họ không thể là người bán hàng giỏi nhưng họ rất cảm thương người hoạn nạn và thường hay giúp đỡ mọi người. Họ thường có lợi thế vì tính tốt bụng và nhút nhát tự nhiên của họ. Giờ Mùi là từ 1 giờ đến 3 giờ chiều.
Người tuổi Thân thường là một nhân tài có tính cách thất thường. Họ rất tài ba và khéo léo trong các vụ giao dịch tiền bạc. Người tuổi này thường rất vui vẻ, khéo tay, tò mò và nhiều sáng kiến, nhưng họ lại nói quá nhiều nên dễ bị người khác xem thường và khinh ghét. Khuyết điểm của họ nằm trong tính khí thất thường và không nhất quán. Giờ Thân bắt đầu từ 3 giờ đến 5 giờ chiều.
Năm Dậu tượng trưng cho một giai đoạn hoạt động lao động cần cù siêng năng vì gà phải bận rộn từ sáng đến tối. Cái mào của nó là một dấu hiệu của sự cực kỳ thông minh và một trí tuệ bác học. Người sinh vào năm Dậu được xem là người có tư duy sâu sắc. Đồng thời, Gà được coi là sự bảo vệ chống lại lửa. Người sinh vào năm Dậu thường kiếm sống nhờ kinh doanh nhỏ, làm ăn cần cù như "một chú gà bươi đất tìm sâu". Giờ Dậu bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ tối.
Năm Tuất cho biết một tương lai thịnh vượng. Trên khắp thế giới, chó được dùng để giữ nhà chống lại những kẻ xâm nhập. Những cặp chó đá thường được đặt hai bên cổng làng để bảo vệ. Năm Tuất được tin là năm rất an toàn. Giờ Tuất bắt đầu từ 7 giờ đến 9 giờ đêm, lúc này những người dân ở vùng nông thôn Việt Nam thường đi ngủ và giao nhà cửa lại cho những chú chó trông coi.
Lợn tượng trưng cho sự giàu có vì loài lợn rừng thường làm hang trong những khu rừng. Người tuổi Hợi rất hào hiệp, ga-lăng, tốt bụng và dũng cảm nhưng thường rất bướng bỉnh, nóng tính nhưng siêng năng và chịu lắng nghe. Giờ Hợi bắt đầu từ 9h đến 11h đêm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
"Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu"
|
| Lễ hội chọi trâu |
"chôn rau cắt rốn". Nơi có lễ hội truyền thống "độc nhất vô nhị" tại Việt Nam. Đó là lễ hội chọi trâu được tổ chức hàng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn.
Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo họ thì điều quan trọng nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. Thông thường, sau Tết Nguyên Đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Cạn... mới tìm được con trâu vừa ý.
Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường "giật" giải nhiều hơn. Bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu.
Chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỷ mỉ. Trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng chống chịu được đòn của đối phương. Thông thường, những chú trâu da đồng, lông móc, một khoang 4 khoáy, hàm đen là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như 2 cánh cung, giữa 2 sừng có túm lông hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay.
Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu thường là những người có nhiều kinh nghiệm. Trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà, cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó.
Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét. Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo. Sau khi huấn luyện, trâu nào được chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là "ông trâu". Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn lên thành "cụ trâu".
Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi. Những người này được coi là nghệ nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của "ông trâu"…
Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thủy thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ.
Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi… Từ 2 phía của sới chọi, "ông trâu" được dẫn ra có người che lọng và múa cờ 2 bên. Khi 2 "ông trâu" cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Đôi trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, đôi trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân Đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là lá cờ vóc hồng thêu 2 chữ "Thượng Đẳng" bằng kim tuyến và bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.
Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần... Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc…
Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một điểm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương đến với Hải Phòng. Chính vì vậy lễ hội chọi trâu đã được nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước.
(Theo Baomoi)
![]() |
Lựa chọn loại xe có lẽ không khiến nhiều người vất vả nhưng màu sắc lại là một vấn đề. Trong khi nhiều người trung thành với màu sắc yêu thích thì có những người khác xem xét các yếu tố thực tế khác nhau như khí hậu, khả năng lộ bụi bẩn. Nếu như bạn vẫn chưa quyết định được màu sắc thích hợp thì nên cân nhắc đến cả yếu tố phong thủy.
Trong phong thủy, mỗi người có một con số “huyền bí” tương ứng được gọi là “quái số”. Quái số được quy định theo bát quái cho phép mọi người xác định điểm may mắn nhất cho bản thân, giúp thăng hoa cho sự nghiệp, các mối quan hệ, giao dịch kinh doanh và trong bất kì tình huống thực tế nào phát sinh trong cuộc sống.
1. Cách tính “Quái số”
- Cộng hai số cuối của năm sinh của bạn lại với nhau. Ví dụ: nếu bạn được sinh vào năm 1974, bạn sẽ lấy 7 + 4 = 11.
- Nếu được kết quả là số có hai chữ số, cộng tiếp hai số đó lại với nhau. Sử dụng ví dụ trên sẽ là: 7 + 4 = 11, sau đó 1 + 1 = 2.
+ Nếu bạn là phụ nữ, cộng thêm 5 với kết quả thứ hai. Riêng đối với nữ sinh sau năm 2000, thì cộng 6.
+ Nếu bạn là nam giới, lấy 10 trừ đi số kết quả thứ hai. Đối với nam sinh sau năm 2000 lấy 9 trừ đi tổng số
Bằng ví dụ trên, ta có kết quả như sau:
+ Phụ nữ sinh năm 1974:
7 + 4 = 11.
1 + 1 = 2.
2 + 5 = 7.
Như vậy, 7 là “quái số” của bạn.
+ Đàn ông sinh năm 1974:
7 + 4 = 11.
1 + 1 = 2.
10 - 2 = 8.
Như vậy, 8 là “quái số” của bạn.
2. Chọn màu xe thích hợp dựa trên Quái số
Mỗi quái số tượng trưng cho một nguồn năng lượng nhất định ứng theo chu kỳ tự nhiên. Mọi người thường thấy mình hợp với một số hơn so với các số khác. Mỗi số như vậy lại tương ứng với những màu nhất định.
Một chiếc xe có màu sắc hợp phong thủy sẽ giúp gia đình an lành hơn trên từng cây số.
Có thể từ Ngũ hành của hạng mục kinh doanh làm xuất phát điểm để tiến hành đặt tên.
Phải chọn trong tên họ của chủ tiệm lấy một đến hai chữ kết hợp với đặc sắc của hạng mục kinh doanh làm căn cứ đặt tên.

Lấy mùa vụ của khai nghiệp kết hợp với Ngũ hành số mệnh của chủ tiệm.
Có thể đặt tên xuất phát điểm từ hướng của cửa hàng.
Nếu như mở cửa hàng là cửa hàng liên hợp thống nhất đặt tên, tên của cửa hàng lại không hợp với Ngũ hành tương mệnh của người kinh doanh thì cố gắng lấy một tên hậu xuyết, nếu như không làm được như vậy thì có thể thêm tên hậu xuyết ẩn bên trong cửa hàng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh là thầy phong thủy địa lý cao tay nổi tiếng nhất nhì Việt Nam. Những giai thoại về Tả Ao được lưu truyền rộng rãi cho đến tận ngày nay, trở thành những câu chuyện hết sức li kì.
![]() |
Dạy dỗ kẻ tham lam
Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ. Các vị chức sắc trong làng biết danh Tả Ao nên khẩn khoản nhờ ông đổi lại hướng đình làng để cả làng phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay.
Tả Ao nghe xong chỉ cười, sau đó ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong cáo biệt đi thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: làng Đoạn Xá, xã Đông Hải, huyện An Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, đức thánh Trần (Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Nội dung: Hằng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch, nhân dân địa phương lại tổ chức hội chùa để tưởng nhớ đến công lao của Trần Hưng Đạo. Trong những ngày lễ hội, người ta thường chuẩn bị hoa quả, đèn hương và đặc biệt là bánh đa. Tục truyền rằng ngày xưa Trần Hưng Đạo thường cho rắc hạt vừng lên bánh tao thành hình bản đồ để gửi cho binh sỹ, theo đó binh sỹ vừa biết được tình hình lại có lương ăn. Lễ hội chùa Vẽ thường kéo dài trong vòng 10 ngày với rất nhiều trò vui nhộn thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương về dự.
Khi bạn nghĩ tới con người Song Ngư đó là sự nhẹ nhàng, an yên, tình cảm và có thể nói họ đứng đầu danh sách một trong những chòm sao lãng mạn nhất, nhưng để giữ cho sự lãng mạn còn mãi bạn nên nhớ một số điều nên và không nên làm sau đây:
![]() |
![]() |
Tủ tường có cao, có thấp, có dài, có ngắn nên rất khó đưa ra kết luận chung. Tuy nhiên, phòng khách rộng thì nên kê tủ tường cao và dài. Ngược lại, phòng khách hẹp thì nên kê tủ tường nhỏ và thấp. Nghĩa là cần chọn tủ tường có kích cỡ phù hợp với diện tích của phòng khách. Bởi lẽ, kê tủ tường nhỏ ở phòng khách rộng thì sẽ tạo cảm giác trống vắng, còn kê tủ tường to ở phòng khách hẹp thì sẽ tạo cảm giác chật chội, khó chịu.
|
Theo phong thủy thì cao là sơn, thấp là thủy. Trong phòng khách có cao có thấp, có sơn có thủy mới mang lại hiệu ứng phong thủy tốt đẹp.
Trong phòng khách thì ghế sofa thấp là thủy, còn tủ tường cao là sơn, đây là sự kết hợp lý tưởng. Tuy nhiên, nếu tủ tường thấp kết hợp với ghế sofa thấp thì sẽ tạo nên cục diện có thủy mà không có sơn, do đó nhất thiết phải thay đổi.
Cách hóa giải là đặt 1 bức tranh theo chiều dọc trên tủ tường thấp để khiến tủ tường cao hơn ghế salon, như vậy vừa đơn giản lại có hiệu quả. Treo tranh ở tủ tường thấp nên chọn tranh có chủ đề về sơn thủy. Về nguyên tắc, nếu phòng khách thiết kế theo kiểu phương Đông thì nên chọn tranh liên quan tới sông núi, còn nếu phòng khách thiết kế theo kiểu phương Tây thì lại nên chọn tranh sơn dầu, tranh màu nước liên quan tới cảnh rừng núi, ao hồ.
Một số người thích bày bể cá trên tủ tường thấp. Trong trường hợp này nên đặt bể cá ở bên đầu tủ gần phía cửa sổ. Nghĩa là, nếu cửa sổ ở bên trái tủ tường thì nên đặt bể cá ở góc trái trên mặt tủ, còn nếu cửa sổ ở bên phải tủ tường thì nên đặt bể cá ở góc phải trên mặt tủ. Nên chọn loại bể cá nhỏ, hình chữ nhật.
Nếu phòng khách rộng mà tủ ngắn thì sẽ chừa khoảng trống khá lớn ở 2 bên tủ, do đó khí vượng đến rồi lại đi, khó mà tụ, nên không phải là cục diện may mắn. Gặp trường hợp này, có thể đặt 2 chậu cây cảnh lá to, có sức sống như cây phát tài, cây thiên tuế ở 2 bên để bù lấp khoảng không gian trống trải. Đặt 2 chậu cây lá to ở 2 bên tủ ngắn như vậy sẽ giống như 2 cánh tay ngắn được nối dài ra, phong thủy học gọi chúng là Thanh long Bạch Hổ, có thể giúp thu tài nạp khí.
Sự kết hợp giữa tủ tường cao và ghế sofa trong phòng khách sẽ là cục diện lý tưởng trong phong thủy vì 1 cao 1 thấp, 1 thực 1 hư.
Rất nhiều gia đình mua tủ cao về bày trong phòng khách, vừa tiện ích lại vừa có thể làm đẹp không gian. Tuy nhiên, nếu phòng khách hẹp thì lại không nên kê tủ tường cao vì như vậy sẽ tạo cảm giác chật chội, bức bí. Cần thay tủ tường có chiều cao thấp hơn, nên đảm bảo khoảng cách từ đỉnh tủ tới trần nhà khoảng 60cm. Như vậy, trông phòng khách sẽ thoáng đãng hơn. Khoảng không gian 60cm này khá quan trọng trong phong thủy, “sinh khí” sẽ có chỗ tự do đi lại mà không sợ bị cản trở. Còn về mặt thiết kế thì khoảng không gian 60cm này được giới họa sĩ gọi là “lộ bạch”, sẽ khiến toàn bộ kết cấu phòng khách trở nên linh hoạt hơn.
Nếu phòng khách nhỏ mà lại thích chọn tủ tường cao thì nên chọn loại tủ tường ở giữa rỗng. Đặc điểm của loại tủ này là dưới nặng trên nhẹ, giữa rỗng. “Dưới nặng” là chỉ nửa phía dưới khá to, còn “trên nhẹ” là chỉ nửa trên nhỏ, “giữa rỗng” là chỉ ở giữa trống không. Nói cách khác, “lộ bạch” di chuyển từ vị trí đỉnh xuống vị trí giữa. Mặc dù tủ tường ở giữa rỗng cao chạm trần nhà, song ở giữa vẫn có 1 khoảng trống, do đó không tạo cảm giác bức bí hay chật chội. Nửa dưới tủ có thể dùng để cất giữ đồ vật, do đó cần có cánh tủ che chắn, còn nửa trên được dùng để bày các đồ vật trang trí, lưu niệm. Khoang trống ở giữa để ti vi hoặc dàn âm thanh.
(Theo Rước lộc vào nhà)
|
Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá.
Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.”
Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức.
Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”
Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống.
“Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”
Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn.
Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường.
Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.”
Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn.
Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.
Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”
Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai.
“Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.
“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”
Theo Bài Học Cuộc Sống
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hiện nay có rất nhiều người đã biết tới tầm quan trọng của phong thủy và bắt đầu thử nghiệm trong nhà hoặc nơi làm việc của mình, mong muốn đón cát tránh hung.
![]() |
![]() |
![]() |

Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: làng An Mô, xã An Sinh, huyện Kinh Môn, Tỉnh Hải Dương.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Chu Huy Công, Chu Phúc Uy là những tướng giỏi của Lý Bôn.
Nội dung: Hội đền tổ chức lễ dnag6 hương cúng giỗ hai vị thành hoàng làng: cúng tế hầu bóng ở đền. Bên ngoài đền tổ chức thi với các trò chơi dân gian như: cờ tướng, chọi gà.
Người Việt cổ tin rằng, tùy theo việc khi còn sống làm mà người mất sẽ được đầu thai kiếp khác hay bị đày xuống địa ngục, thậm chí lang thang quấy rối người thường. Cũng như quan niệm xưa, con người dù đã gây ra những tội ác gì thì trong quá trình chịu trừng phạt, quả báo, cũng có được một ngày xá tội, để đỡ khổ cực, đau đớn…Từ đó, thường gọi là ngày xá tội, tháng cô hồn là thế.
Theo quan niệm của nhiều gia đình Việt, việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận. Đó là ý nghĩa mang tính nhân văn rất cao trong văn hóa Việt.
Dưới góc độ Đạo giáo, tục cúng cô hồn bắt nguồn từ tích cổ Trung Hoa. Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng 2/7, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì “thả cửa” để cho ma quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7 thì kết thúc và các ma quỷ phải quay lại địa ngục.
Theo truyền thuyết dân gian, Diêm Vương cai quản địa ngục sẽ mở cửa Quỷ môn quan tháng 7 hàng năm. Do đó, vào tháng 7 âm lịch, người ta quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo, muối hối lộ cho chúng để chúng không quấy nhiễu cuộc sống bình thường. Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được thực hiện vào ngày 14 tháng 7 Âm lịch, còn ở Việt Nam, thời gian này kéo dài nguyên một tháng.
Một chuyện khác kể rằng, một đại đệ tử của Phật là đức A Nan Đà một buổi tối đang ngồi trong tịnh thấy thì thấy một con ngạ quỷ (quỷ đói) người gầy quắt, cổ dài, miệng nhả ra lửa bước vào, nói rằng 3 ngày nữa A Nan Đà sẽ chết và cũng trở thành quỷ miệng lửa (diệm khẩu) như nó. Quỷ nói: “Nếu muốn tránh thì ông phải bố thí cho lũ ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc đồ ăn, và cúng dường Tam bảo giúp chúng tôi, để chúng tôi được tái sinh vào cõi trên, thì ông cũng được tăng thọ”.
Tôn giả A Nan Đà đem chuyện này nói với đức Phật. Phật bèn làm một bài chú đem tụng trong lễ cúng tam bảo để cầu siêu thoát cho quỷ đói miệng lửa. Về sau, dân gian hiểu rộng ra thành lệ cúng và cầu phúc cho vong nhân nói chung. Lễ cúng dần dần thành xá tội vong nhân – thể hiện lòng kính trọng, vị tha của người còn sống đối với những người đã khuất, dẫu cho những hành động quá khứ lỗi lầm xưa kia…
Cũng trong tháng 7, người ta thường truyền tai nhau về 18 điều cấm kỵ như: không để chuông gió trước đầu giường, đi đêm không được gọi tên thật, không được chụp ảnh buổi tối... Cũng không ít người quan niệm rằng tháng này đen đủi, không nên dựng nhà, sửa cửa, đám cưới… Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng những quan niệm này chưa được bất kỳ khoa học nào chứng minh là đúng. "Mọi người có thể có được đức tin song không nên sa đà vào mê tín. Nhiều khi chính sự sa đà sẽ khiến họ vuột mất cơ hội tốt", GS. TS Phạm Đức Dương, chuyên gia về Ngôn ngữ dân tộc và Đông Nam Á học chia sẻ trên Infonet.
Trong năm, lễ cúng cô hồn vào tháng 7 âm lịch là lớn nhất, thường trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo. Rằm tháng 7 hay còn gọi là lễ Xá tội vong nhân trùng với lễ Vu Lan, báo hiếu cha mẹ. Bản chất của ngày Rằm này rất nhân bản, là lòng yêu thương con người với con người. Ngày có ý nghĩa mọi người tưởng nhớ, tỏ lòng biết ơn với tổ tiên.
Chuyện kể rằng, Bồ Tát Mục Kiền Liên vốn là một vị cao tăng thần thông quảng đại, hiếu nghĩa vô cùng. Khi mẹ của ông là bà Thanh Đề qua đời, ông nhớ mẹ da diết và cố gắng đi tìm mẹ.
Vì khi còn sống mẹ ông gây nhiều nghiệp ác nên khi chết đi, bà phải làm quỷ đói và bị hành hạ rất thương tâm. Thương mẹ, ông đem cơm đến dâng mẹ, tuy nhiên cứ khi nào đồ ăn được dâng tới tận miệng thì chúng lại hóa thành than lửa, mẹ ông không tài nào ăn được.
Bồ tát khẩn thiết kêu van xin Phật tìm cách cứu mẹ, lúc đó ông được biết ngày Rằm tháng 7 là ngày thích hợp để mang đồ cho mẹ ăn và ông đã cứu mẹ thành công. Lễ Vu lan Rằm tháng 7 là một trong những ngày trọng đại và thiêng liêng nhất của Phật giáo.
Mạng của hai vợ chồng hợp nhau trong lá số Tử vi. Lấy thiên can tuổi của người vợ, tính xem bộ Lộc Tồn, Kình Đà, Khôi Việt, Tuần Triệt, Tứ Hóa nằm vào những cung nào trong lá số người chồng. Tuy là hợp nhau nhưng cũng không ai được thập phần hoàn hảo. Lợi nhiều về điểm này thì có sự sút giảm chút ít về cung khác.
Thí dụ mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Cung Tài trong lá số người chồng có Lộc Tồn. Do ảnh hưởng của Thiên Can tuổi người vợ lại được thêm Hóa Lộc chiếu vào cung Tài, thì sự hợp này sẽ có thêm tiền tài... cứ như thế mà kết hợp các "sao" để gia giảm các cung khác.

Thí dụ cụ thể: người chồng tuổi Canh Tuất, sinh tháng 6, ngày 4, giờ Dậu, người vợ tuổi Nhâm Tý.
Canh Tuất thuộc Thoa Xuyến Kim, Nhâm Tý thuộc Tang Đỗ Mộc thấy có sự tương khác dù là khắc ít. Cung Thê của người chồng có Đồng Lương Lộc Mã, gặp Không Kiếp đắc địa, có Tang Điếu Hư Khốc, Hóa Kị. Người vợ tuổi Nhâm thì sao Thiên Lương ở cung Thê người chồng có thêm ảnh hưởng của Hóa Lộc (Hóa "Diệu"). Hai vợ chồng lục đục với nhau suốt đời, nhưng vẫn ăn nên làm ra, có sự nghiệp vững vàng cho đến lúc chết. Trong cái khắc vẫn có khi có điểm lợi.
Phương pháp luận đóa này của Cụ tôi, và một số người nghiên cứu Tử Vi trước kia vẫn áp dụng, thấy rất thâm thúy. Tuy nhiên, cần có một tâm hồn quảng đại và cần có quan niệm rõ ràng rằng Thiên Can của người hôn phối chỉ tạo nên ảnh hưởng tương đối, chứ không tạo nên ảnh hưởng quyết định. Lá số của mình vẫn có ảnh hưởng chính yếu. Đừng vì thấy Thiên Can của người hôn phối tạo nên Triệt ở Mệnh Thân của mình mà đi đến những ý nghĩ cố chấp, những thành kiến thất đức. Trong cái khắc vẫn có những điểm lợi về những phương diện khác. Dù có gặp sự khắc thì cũng tìm biết được điểm lợi những phương diện nào để phát triển thêm. Tôi sẽ viết thêm về cách luận đoán này để bạn có thể tìm nguồn an ủi, nhìn thấy rằng trong cái khắc vẫn có điểm tốt, điểm lợi, do đó sẽ tránh được những ý nghĩa hẹp hòi.
Trong bài này, tôi hãy xin nói về Tinh, Diệu, Thần.
Chữ Thần là nói chung về Thần khí do nhiều ngôi sao hợp lại, hoặc là chỉ về một khí lực trong vũ trụ chứ không phải là chỉ riêng một ngôi sao nào. Thí dụ như Thanh Long không phải là một "ông sao" mà là khí lực của một chòm sao. HOặc như là Thần khí, trong quẻ Dịch, chúng ta có Nhật Thần, đây là Thần khí của cái ngày đó, chứ không phải nói về một ông sao nào.
Vòng Tràng Sinh cũng gọi là Thập nhị Thần, là mười hai khí lực, thần khí, chứ không phải là mười hai ông Thần. Riêng về vòng Tràng Sinh tôi xin nói thêm ở đoạn sau bài này.
Tinh, Diệu, Thần tuy ba mà một, tuy một mà ba. Vì thế tôi phải lấy tên của bài này là "Sao không phải là Sao". Xét về tác dụng, thì cả ba đều có ảnh hưởng đến vận mệnh con người nên gọi chung là "sao" cho tiện. Xét về căn nguyên thì có khác nhau. Xét về căn nguyên sẽ có cái lợi là đưa người nghiên cứu đến chỗ lý giải có ý thức, có quan niệm mạch lạc về các phương hướng, vai trò, các yếu tố trong một lá số. Chứ không phải chỉ đoán đúng một vài tiểu tiết nhờ thuộc lòng một số công thức, hoặc đung đâu đoán đó, rồi nhờ "ông ứng" vẫn tiên tri như Thần.
Tôi quan niệm rằng tư tưởng hướng dẫn hành động. Xem Tử Vi thì cần có một quan niệm rõ rệt về công dụng, về giá trị của Tử Vi: nó là cái khoa gì, dùng nó trong trường hợp nào cái tên gọi trong Tử Vi là cái ngụ ý gì...
Sở dĩ người xưa xem Tử Vi chỉ nói một câu mà đúng chung thân cuộc đời, là nhờ có một tinh thần diễn dịch rộng rãi, một quan niệm thâm thúy về các tên gọi trong Tử Vi. Chứ không phải là chỉ dựa vào công thức, thấy Song Hao hãm thì nói là hao tài, thấy Song Lộc thì đoán là có tài lộc. Việc này quý bạn nào mới nhập môn Tử Vi cũng có thể đoán được.
Trong cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" xuất bản tại Đài Bắc, tác giả có nói rằng Tinh, Diệu, Thần, tuy ba mà một, đó là xét về tác dụng. Xét về căn nguyên, chúng ta sẽ có một sự diễn dịch thâm thúy hơn.
Cũng trong cuốn này, tác giả có kể đến Thập cửu chính diệu, đó là: Tử Cơ Dương Vũ Đồng Liêm Phủ Âm Tham Cự Tướng Lương Sát Phá Tả Hữu Xương Khúc và Tồn.
Xin quý bạn Tử Vi đừng vội hoang mang trước quan niệm này. Tôi không đề cao cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" như một "Thần Thư" làm tiêu chuẩn để đi tìm chân lý Tử Vi. Tôi chỉ muốn dẫn chứng rằng Tử Vi không phải chỉ gồm có một số công thức giản dị, mà còn có nhiều sự diễn dịch sâu xa của nhiều học giả lý số khác nhau. Điều cần thiết là một sự bình tâm nhẫn nại tìm hiểu các quan iệm rồi từ các quan niệm ấy, chúng ta sẽ tiến đến việc nghiên cứu Tử Vi một cách có ý thức chứ không phải chỉ vội vã áp dụng các công thức một cách nông cạn. Từ quan niệm "Mệnh vô chính diệu dĩ Mệnh vi chủ, đối tinh vi Tân" đến quan niệm Mệnh vô chính diệu, có hung tinh sát tinh nổi bật, đến quan niệm Mệnh có chính tinh mà bị khắc hãm quá, vai trò của chính tinh bị suy yếu, lu mờ, nên ví như vô chính diệu, phải xét đến các phù trợ tin khác, có biết bao nhiêu quan niệm tế nhị, mà người nghiên cứu cần tìm hiểu thêm. Không thể vội cố chấp vào cuốn sách này, hay công thức nọ.
trích Báo KHHB số 35
| ► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
![]() |
| Ảnh minh họa |