Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tướng số tổng hợp –

Nghệ thuật xem tướng số tổng quát. Tự tin vào bản thân,có ý chí thì có thể tránh được những gì xấu có thể xảy ra, phát huy những điều tốt đẹp Nghệ thuật xem tướng số tổng quát Tự tin vào bản thân,có ý chí thì có thể tránh được những gì xấu có thể xảy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghệ thuật xem tướng số tổng quát. Tự tin vào bản thân,có ý chí thì có thể tránh được những gì xấu có thể xảy ra, phát huy những điều tốt đẹp

Nghệ thuật xem tướng số tổng quát

image_39087_not_ruoi1

Tự tin vào bản thân,có ý chí thì có thể tránh được những gì xấu có thể xảy ra, phát huy những điều tốt đẹp sẵn có. Tương lai tươi sáng vẫn đang chờ đợi ta ở phía trước.Bằng vốn tri thức khoa học, hiểu biết của bản thân chúng ta làm việc sao cho lòng cảm thấy thanh thản, lạc quan làm được nhiều việc tốt, không mưu hại ai là điều rất tốt. Có câu: “Đức năng thắng số” Số mệnh là điều hoàn toàn có thể thay đổi: tùy thuộc vào đức của mỗi người, đức do ông bà cha mẹ truyền lại. Nghệ thuật coi tướng được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn năm của Trung Quốc. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người chúng ta. Ví dụ: Con người ai cũng thích người đẹp, không thích người xấu. Những người mặt mũi sáng sủa thì bao giờ cũng được trọng hơn những người mặt mày tối tăm. Hay những người cao lớn, dung mạo đẹp đẽ thì bất luận già trẻ lớn bé, giàu nghèo, sang hèn ai ai trông thấy cũng mến, cũng thích. Xét ở mặt đối lập, chưa hẳn xấu xí chưa hẳn đã là bất lợi. Như thầy bói Quỷ Cốc Tử thuộc loại quái tướng, mặt mũi cực kì xấu xí, lộ hầu, lộ răng nhưng tài năng thì đã trở thành bất tử, lưu truyền hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên, những gì thuộc về tướng mạo, số mệnh, vận mệnh chỉ nên xem như tham khảo, góp một phần nhỏ vào việc biết mình, biết người vậy. Giống như tôn giáo, nghệ thuật nhân dạng đã ra đời từ hàng ngàn năm nay, có liên quan đến đời sống tinh thần của con người. Tướng thuật hoàn toàn không phải ra đời từ các nguyên nhân thần bí mà dựa trên cơ sở những sự tương quan nhất định, những kinh nghiệm được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử Trung Quốc cổ đại.Tuy nhiên trải qua một thời gian lâu dài, xã hội phát triển càng nhanh. Các nhân tố không thể đóan định được xuất hiện ngày càng nhiều. Ngành nhân dạng học ngày càng nhiều. Ngành nhân dạng học ngày càng bị biến tướng để trục lợi . Đó là một điều rất đáng tiếc”. Tướng Phú Quý, Giàu Sang: Tướng này có người sinh ra đã có, có người do tu tâm dưỡng tính, làm nhiều việc thiện, do gặp vận may, hay do đức của cha mẹ truyền lại mà có: + Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầy đặn, thẳng. + Da trơn, bụng to, răng trâu, đi nhu ngỗng, mày thanh tú, mắt nhãn ướt át. + Ngồi vững như tảng đá, đi nhẹ như trên mây. + Người nhỏ nhưng tiếng vang, mặt như mặt con rồng, trán vững như tường, mắt sáng như sao, mũi thẳng, da thịt tỏa hương như hoa + Da óng mịn, mắt đen nhánh, lưỡi dài, tóc mai dài, hổ tụ rồng bay, tay dài quá gối, lưỡng quyền bằng phẳng, ngọc chẩm đầy đặn, mặt đẹp như ngọc đều là tướng quý. + Đầu to mà tròn, mắt to mà không thô, bụng to mà ít sệ, tai to nhưng có vành quách, miệng to nhưng môi không mỏng, ngược lại thì sẽ gặp khó. + Đầu nhọn, trán vuông mà rộng, mày thưa mà dài, thanh tú, mũi thẳng, lưng thẳng đầy, nhần trung rõ ràng, khí hòa mà thuận, thanh tròn mà vang xa,tiến thoái có lễ, làm việc điều độ, có tiền của nhưng không lãng phí… tất cả đều là tướng. Mười cái Đẹp Làm Nên Tướng Mạng Giàu Sang Là: 1- Lông tóc mềm mại như tơ, mắt thanh tú có thần, miệng rộng có hình tròn đẹp 2- Thân hình tựa ngọc, tựa châu. 3- Thân gầy nhưng đầu tròn. 4- Tai đầy đặn, vành tai đứng thẳng. 5- Da trơn, như tỏa hương thơm, khí sắc tươi tắn. 6- Thân đen mặt trắng, trong âm có dương. Lưng đen đầy đặn. 7- Người khác nhìn vào mắt thấy có thần, môi hồng tươi. 8- Thân tuy nhỏ nhưng tiếng nói hùng tráng. 9- Mắt như có ánh sáng, trong bóng tối có thể nhìn thấy vật. 10-Sinh ra đã thanh tú, mặt đẹp như ngọc. Mười Cái Thanh Tú Là: 1- Tiếng nói hoành tráng, trước nhỏ sau to, không được càng nói càng nhỏ đi. 2- Lông tóc nhỏ mềm, không quá thô cứng. 3- Răng nhỏ đều đặn, răng trắng như ngọc. 4- Tay dài, vân bàn tay như tơ. 5- Tai trắng như mặt,, sắc hòa tươi tắn. 6- Lông mày đen, đầu tóc gọn gàng ngay ngắn. 7- Thanh có thần, môi đỏ tươi tắn. 8- Tuy gầy nhưng không lộ xương, khí huyết tươi tắn, da đỏ hồng. 9- Thân tuy gầy nhưng ngực tròn. 10- Bụng to, rốn sâu. Nghèo Hèn: Không có địa vị trong xã hội, nghèo khó,túng quẩn, không đủ ăn như thế là nghèo hèn.Các nhà tướng thuật điều thống nhất cho rằng tướng nghèo hèn tương phản với tướng giàu sang là do quá nhiều thiếu hụt hoặc không hài hoà.Năng làm việc thiện có thể khắc phục, tạo phúc cho con cháu. +Trán nhỏ có góc. +Lưng và ngực đều lép. +Thanh âm loãng không tụ + Mắt lấm lét. + Mũi cong, tẹt. + Mắt kkhông có sắc. + Mặt mày tăm tối. Tướng Hung Bạo: + Mặt như người uống rượu say + Không có người mà tự nói một mình. + Không có đờm mà thường cố ý khạc nhổ. + Mắt thường có tia đỏ, lộ ánh hung bạo. + Tinh thần hỗn loạn, cả ngày chìm đắm trong mê muội. + Tiếng nói gầm gừ như sài lang. + Không có mép. + Mũi khoằm, lỗ mũi trống hoác. Tướng Đẹp Của Người Phụ Nữ: + Trán bằng, đầu tròn. + Xương nhỏ, da mịn. + Môi hồng, răng trắng. + Mắt dài, mi đẹp. + Ngón tay dài, thon, bắp tay tròn. + Tiếng nói trong như nước chảy. + Cười không lộ răng. + Đi đứng khoan thai. + Làn da mỏmg, mịn. Tuong xau cua nguoi phu nu : + Mặt xấu, lưỡng quyền nhô cao. + Lộ hầu, lộ răng. + Đầu nhỏ, tóc rối tung. + Đi như rắn, như chuột. + Mày dài, thô. + Mũi nhăn, mặt dê, mắt trắng dã. + Tiếng nói nhỏ dần, môi thâm sì. Tất cả những điều này chỉ có tính tương đối. Một người có thể có cùng lúc có nhiều tướng đẹp, xấu vì vậy cần phải quan sát kĩ, từ đó mới có thể đưa ra dự đoán tương đối chính xác nhất. Ví dụ: Những người trán rộng không phải ai cũng là bậc tài trí, ngược lại những người trán nhỏ nhưng đường nét từ đỉnh trán đến sống mũi rất ngay thẳng thì hoạt động tinh thần rất phong phú, đa mưu túc kế. Tổng Quan Về Khuôn Mặt Lông mày: Lông mày dài quá đuôi mắt: THÔNG MINH – Từ đuôi mắt gióng thẳng lên trên. Nếu đuôi mày dài quá đường gióng đó thì xin chúc mừng bạn, bạn đích thị là một người rất thông minh. Việc gì vào tay bạn thì cũng chỉ…5 phút, thế là xong. Đi cùng một bộ não đầy chất xám và và lắm nếp nhăn ấy nên là một tâm hồn bao dung nhân hậu, tớ đoán là cậu cũng có cái đó mà. Hai đầu lông mày cách xa nhau: THAM VỌNG – Ngay từ hồi mẫu giáo cậu đã hùng hồn tuyên bố với cái bọn thò lò mũi xanh là sau này cậu sẽ trở thành…giám đốc, bọn nhóc đã ko thể hiểu nổi liệu giám đốc thì có to hơn…cô giáo không. Cậu là cậu thích mấy cái trò trưởng lớp rồi bí thư hay trưởng nhóm lắm đấy. Tin tớ đi, hãy hướng mấy cái tham vọng của cậu tới việc có ích cho xã hội, cậu dư sức làm được. Hơn nữa, như thế mới biết là tham vọng. Lông mày dài, đậm: HÀI HƯỚC – Bạn là nụ cười, niềm vui cho bạn bè và người thân, óc hài hước và tính lạc quan của bạn chính là mật mã. Bạn là một phần tất yếu của lớp và gia đình. Tính cách đáng quý này sẽ giúp bạn vượt qua những thời điểm khủng hoảng để đạt được mục đích của mình. Lông mày ngắn, mờ: NĂNG ĐỘNG – Bạn đã thành lập đến hàng chục cái Co.Ltd lớn nhỏ kinh doanh tạp pí lù? Hay là bạn từng chạy bở hơi tai để xin tài trợ cho mấy cái chương trình ca nhạc, thời trang hay hội chợ…của trường? Nếu bạn trả lời là “Đúng” thì bạn đang sở hữu một cái đầu bùng nổ đấy. Đầy sáng tạo, tự tin iỏi ngoại giao và hoạt động ko ngừng nghỉ chính là chân dung của bạn. Còn nếu bạn trả lời là “Không” ư? Rõ ràng quá rồi, bộ óc của bạn chưa được bật công tắc thôi. Hãy kích hoạt mạnh mẽ hơn thì bạn sẽ bất ngờ trước chính khả năng của mình mà. Lông mày mảnh và dài LÃNG MẠN – Bạn biết nhìn thấy những vẻ đẹp mà người khác ko nhìn thấy. Khả năng đặc biệt này khiến bạn rất dễ thành công trong những lĩnh vực nghệ thuật và sáng tạo. Trong cả những lĩnh vực kinh doanh và khoa học thì bạn cũng gặt hái kha khá nhờ vào tài tưởng tượng của bạn. Bạn còn là một người bạn tuyệt vời bởi bạn rất coi trọng tình cảm, luôn lắng nghe và luôn thấu hiểu. Dĩ nhiên: Bạn phải căn cứ trên cặp lông mày lúc còn gin của bạn đấy nhé, không tỉa tót tô vẽ gì hết! Tướng Đại Nhân: 1. Lòng bàn chân bằng phẳng. 2. Dưới hai lòng bàn chân có hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, trục xe và 1000 căm xe. 3. Gót chân thon dài . 4. Ngón tay ngón chân dài. 5. Tay chân mềm mại. 6. Tay chân có chỉ giăng như màn lưới. 7. Mắt cá chân dáng như con sò. 8. Ống chân thon thả như chân hươu. 9. Ðứng thẳng không khom xuống, cũng có thể với bàn tày sờ chạm đầu gối. 10. Ngọc hành ẩn kín trong bọc da. 11. Màu da sáng ánh như vàng ròng. 12. Da thật láng mịn, bụi bặm không bám. 13. Mỗi lỗ chân lông mọc chỉ một sợi lông. 14. Lông mọc hướng về phía trên, các lông có màu xanh đen và xoáy tròn chiều bên hữu. 15. Thân hình ngay thẳng như thân phạm thiên. 16. Bảy chỗ là cổ, 2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 bả vai, đều no đầy. 17. Bán thân trên tựa như mình sư tử hẩu. 18. Lưng bằng phẳng. 19. Thân cân đối như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân. 20. Vị giác nhạy bén, tức là thần kinh lưỡi cực nhạy dễ dàng hấp thụ hương vị thức ăn. 21. Cần cổ tròn trịa, thẳng đều. 22. Càm tròn như càm sư tử. 23. Có 40 cái răng, mỗi hàm 20 cái. 24. Răng bằng và đều. 25. Răng mọc khít khao. 26. Bốn chiếc răng nhọn thật trắng sạch. 27. Lưỡi rộng dài. 28. Tiếng nói trong ấm rõ ràng như tiếng nói của phạm thiên hoặc như tiếng chim karavika. 29. Tròng mắt đen huyền. 30. Lông mi dài mịn như mi mắt con bê. 31. Giữa đôi lông mày có chùm lông trắng mềm như bông. 32. Ðầu có nhục kế, là xương đỉnh đầu nổi vung lên trông như đội mão.
MŨI Chúng ta nhận thấy ở người nữ, mũi tương đối nhỏ hơn ở người nam về hình thức, nghĩa là chiều dài, chiều rộng và sự to, nhỏ luôn luôn thay đổi đến tuổi thật lớn mới ngừng lại . Hình thức của mũi là điểm cần yếu được chúng ta chú ý nhứt trong việc nghiên cứu về gía trị của mũi . Chúng ta có những chi tiết như sau: – Mũi ngắn, người nhạy cảm, dễ bắt chước, nhanh nhẹn về tư tưởng cũng như về hành động . – Mũi dài, người đằm thắm, già dặn về suy nghĩ, nhiều tư cách . – Mũi khum, người đa dâm – Mũi trũng, người kém khả năng vật chất . – Mũi dày, người có tư tưởng mạnh, nhân ái, hay thố lộ tánh tình . – Mũi mỏng, người dễ xúc động, khéo léo, kín đáo nhưng ích kỷ . – Mũi lõm, người đa cảm, mềm yếu, bất nhứt, dễ khích động nhưng cũng giỏi bắt chước . – Mũi quặp, người tham lam, can đảm, có khả năng trí thức, có óc chinh phục . – Mũi ngắn, lõm và dày, người thích ở nguyên 1 chỗ . – Mũi ngắn, quặp và mỏng, người thích rày đây mai đó . – Mũi dài, quặp và dày, người ham thực hiện . – Mũi dài, quặp và mỏng, người suy tư . – Mũi to quá mức, người tự hào, tự phụ . – Mũi dày quá mức, người can đảm, chững chạc nhưng ô về và có óc phá hoại . – Mũi mỏ két, người gan dạ nhưng có tánh cướp bóc . – Mũi hơi cong, người nhiều thông minh và nhân ái . – Mũi gân guốt, hơi quặp, người sống động . – Mũi con, hơi nhọn ở chót, người luôn luôn nhân từ – Mũi cong ở gốc, người máy móc . Ngoài giá trị tổng quát về hình thức, chúng ta còn giá trị riêng rẽ từng phần của mũi, bắt đầu bằng gốc mũi: – Gốc mũi thẳng với trán, người thực tế, thiếu mềm mỏng . – Gốc mũi lõm, người rộng rãi, thích hoạt động xã hội . – Gốc mũi dày, người tế nhị, thông minh có giới hạn . – Gốc mũi mỏng, người dễ xúc cảm, khéo tay nhưng lắm lúc cũng ích kỷ . – Gốc mũi có nếp đứng, người hay tập trung ý chí, chịu suy nghĩ . – Gốc mũi có nếp ngang, người nhác gan, hay run sợ . Về sống mũi, chỉ có 2 hình thức giá trị: – Sống mũi rộng, người có khả năng trí thức, giàu cốt cách . – Sống mũi cong ở phần giữa, người thông minh, nhanh trí . Sau sống mũi, đến chót mũi: – Chót mũi mỏng, người ích kỷ nhưng có tài ngoại giao và trực giác . – Chót mũi nhọn, cong xuống, người hà tiện . – Chót mũi vuông, người tích cực . – Chót mũi tròn, người thật thà . – Chót mũi như viên đạn, người dâm dật . – Chót mũi thịt, người đa dâm . – Chót mũi tẹt, người dâm đãng táo bạo . 2 bên sống mũi có phần da dày bao lỗ mũi gọi là cánh mũi . Cánh mũi có những giá trị sau: – Cánh mũi ốm, người sống về tinh thần . – Cánh mũi nhiều thịt, người ham lạc thú, thích hưởng thụ – Cánh mũi rộng, người có khả năng vật chất . – Cánh mũi hẹp, người khiếm khuyết khả năng vật chất . Sau cùng trong phần mũi là 2 lỗ: – Lỗ mũi yếu, người bạc nhược . – Lỗ mũi kín như khép lại, người lạnh nhạt . – Lỗ mũi rộng như mở ra, người hăng hái . – Lỗ mũi không lay động, người thờ ơ – Lỗ mũi lay động, người đa tình . – Lỗ mũi trống (trông thấy ở phần trong), người chua chát, lãnh đạm, bạo tàn . MÁ – Má tròn và đầy, người hiền hậu, trầm lặng, êm dịu – Má thịt, người đa dâm, nhẹ dạ . – Má thịt, cao: người nhân từ, độ lượng, nhưng cũng có nhiều dâm tính . – Má thỏn, người mê tín dị đoan . – Má hóp, lưỡng quyền cao: người tánh tình hay dời đổi, nhiều khát vọng . – Má lưỡng quyền rộng và xương, người ích kỷ, dữ dằn, tàn bạo . – Má lưỡng quyền cao, thái dương (màng tang) hóp: người kém tinh thần . – Má lưỡng quyền đầy, gân guốc: người dâm dật, có thú tính . – Má có những lằn dài theo 2 bên lỗ mũi: người có mãnh lực phá hoại . MIỆNG Miệng càng mở, việc giao dịch càng lợi; miệng càng khép, người càng vắng lặng trong việc xã giao. Người trầm mặc, ham ăn có miệng rộng và dày . Người hoạt động, rộng xã giao, bặt thiệp, có miệng với môi nhiều thịt . Người có khả năng thực hiện, tập trung tư tưởng, hay châm chích, có miệng như hình lưỡi dao. Người suy tư, thủ phận, miệng có môi mỏng, khoé môi xệ . Nghiên cứu về miệng, chúng ta cũng cần tìm hiểu giá trị về khoảng cách giữa môi trên và cậy mũi, nghĩa là phần dưới 2 lỗ mũi . Trung bình chiều cao của phần này chiếm 1/3 của hàm . Nếu phần này thật lớn, người học rộng, uyên bác, tự chủ, hay suy nghĩ và can đảm . Phần này thật nhỏ, người có tánh xung động, dễ bị kích thích, ương ngạnh, bướng bỉnh, ngoan cố . Phần này thẳng hay mô, người chặt dạ . Nghiên cứu về miệng cũng cần biết về khuôn khổ của 1 chiếc miệng trung bình như thế nào, để dễ nhận xét thế nào là miệng to, miệng nhỏ, miệng rộng, miệng hẹp … Trung bình 1 chiếc miệng, chiều dài được kể từ khoé này đến khoé kia. Kinh nghiệm cho biết với người đàn ông, chiều dài của miệng là 52 mm; với người bạn gái, chiều dài trung bình là 47 mm. Chiều cao được tính từ chót vành môi trên đến chót vành môi dưới, trung bình 1/4 của ni tất trên. Thông thường thì môi trên có phần lồi và ít thịt hơn môi dưới . Môi trên là bộ phận giữ gìn, cầm, nắm . Môi dưới là bộ phận thu nhận, tiếp đón, thụ hưởng . Người mê tẩu, thân kinh cương rất nhiều nước miếng . – Miệng đều đặn, khéo đóng: người quân bình tư tưởng cũng như ý chí . – Miệng đóng không khéo, có vẻ như nhăn nhó: người đau khổ, đa tình . – Miệng rộng: người hoạt động, rộng xã giao, dễ phát biểu tư tưởng – Miệng hẹp: người câu ngạnh, gút mắt – Miệng hở: người thiếu can đảm, hay làm những việcgàn dở . – Miệng kín: người hà tiện, ít nói . – Miệng như hình trái tim: người nhẹ dạ, nông nổi, có hoàn toàn nữ tánh . – Miệng thẳng: người trầm tĩnh, khách quan. – Miệng có nhiều nếp xếp, người chủ quan . – Miệng vảnh lên, người lạc quan . – Miệng xệ xuống, người bi quan . – Miệng lệch, méo: người có tánh thù oán, hay mai mỉa . – Miệng phía mặt đầy hơn phía trái: người nghiêng về trí óc hơn, người duy tâm . – Miệng phía trái đầy hơn phía mặt, người nghiêng về vật chất hơn, người duy vật . – Miệng như hé mở: người dễ bị xúc động, người đa cảm . – Miệng như mím lại: người lạnh nhạt, khô khan tình cảm . – Góc miệng xệ xuống, người đa sầu . – Miệng quặp xuống như không thấy môi dưới: người chuyên chế, có óc độc tài, tàn bạo . MÔI – Môi dày: người chủ quan, thực tế, hay lộ tánh tình . – Môi mỏng: người khách quan, kín đáo, biết tự chủ, không hề bộc lộ tánh tình . – Môi trên dày hơn, người can đảm, nhân từ, nhưng tham vọng và dâm dục . – Môi dưới dày hơn: người ham ăn, cứng đầu, đa dâm . – Môi kín: người giàu nghị lực . – Môi mềm, người ham mê sắc dục . – Môi trên cao ở giữa: người dễ bị kích thích dâm tính . – Môi trên hình vòng cung, người mau mắn, giàu nghĩa cử . – Môi dưới đưa ra: người nhân từ . – Môi có vẻ nặng và chù vù: người đa dâm, ham ăn . – Môi có những lằn thật nhỏ như những chỉ song song nằm ngang: người hăng hái . – Những đường dọc chung quanh môi, người ham hoà mình với bạn bè, xã hội CẰM Về phương diện nhận xét tổng quát, cằm là môi trường tìm hiểu khả năng trí thức cũng như sự tinh khôn của mỗi người . – Cằm đầy, người giàu ý chí . – Cằm thiếu, người thiếu khả năng vật chất . – Cằm cao, người biển lận, ham ăn . – Cằm ngắn, người thiếu kiên nhẫn, có óc gây sự . – Cằm đứng, người quân bình ý chí, tự chủ . – Cằm nhô ra, người có ý chí mạnh, có óc chinh phục, có sức chiến đấu . – Cằm thụt vào, người yếu tinh thần, kín đáo, thâm hiểm . – Cằm rộng, người có óc tự chủ, thích chống chọi . – Cằm hẹp, người ít hăng hái, tỉ mỉ, mềm mỏng, qủi quyệt – Cằm tròn, người nhân từ – Cằm nhọn, người hung ác, nham hiểm – Cằm đôi hay cằm ba, người đa dâm, ham ăn . – Cằm có nún đứng, người can đảm, có tài ngoại giao . – Cằm có nún ngang, người ham chuộng hoa bình – Cằm như viên đạn, người hay nản chí, dễ bị xúc cảm – Cằm xương, to, có góc cạnh: người chặt dạ, nhiều suy xét, ham hoạt động về tinh thần, có nam tính – Cằm rộng, đầy, nặng: người ô về, cộc cằn, thô lỗ . – Căm nhỏ, tròn và hơi nhô ra: người rụt rè, tánh tình bất nhứt . HÀM – Hàm mạnh, người giàu ý chí, có nhiều khả năng hoạt động . – Hàm yếu, người bạt nhược, thiếu tinh thần hăng hái . – Hàm xương, người hoạt động nhưng nóng nảy, dễ xúc động . – Hàm nhiều mỡ, người nhạy cảm, ham ăn, không chịu dời đổi . – Hàm tròn, người mềm mỏng, dịu ngọt – Hàm đứng, có góc, người ham chiến đấu . TAI Tai có 1 tác dụng như miệng, nhưng chỉ có thụ cảm mà không có xuất cảm . Tai được nghiên cứu về mọi khía cạnh, từ hình thức, vị trí, ni tấc đến chiều đóng và màu sắc, mỗi hình thức đều có ý nghĩa khác nhau . Kinh nghiệm cho biết chiều cao của 1 lỗ tai trung bình = với chiều dài của mũi . Cũng có thể dài hơn, nhỏ hơn hoặc lớn hơn, tùy theo mỗi hình thức, chúng ta xách định sự lớn, rộng, hẹp của tai Chiều rộng của lỗ tai, thông thường = 2/3 chiều cao . Về chiều đứng, chúng ta có thể tính như sau: Lỗ tai trung bình là lỗ tai nghiêng theo chiều sọ không hơn 5 độ, từ 15 độ gọi là xếp, trên 30 độ gọi là giảo – Lỗ tai đứng, người chăm chỉ, cẩn thận, khách quan, tập trung ý chí . – Lỗ tai giảo, người chịu hiểu, chịu suy xét, biết bắt chước . – Lỗ tai xếp, người dễ bị gợi cảm, dễ bị khích động . – Lỗ tai đóng cao, người nhặm lẹ, nhanh trí, linh hoạt, sắc sảo – Lỗ tai đóng thấp, người đa sầu đa cảm, ưu tư, nặng nề, đần động . – Lỗ tai như dán vào sọ, người nhạy cảm, vô kỷ luật, tàn bạo, thiếu tự chủ . – Lỗ tai dán phần trên, người dễ bị khích động, có những ý nghĩ kỳ quặc, lập dị . – Lỗ tai dán phần giữa, người dễ dung hoà, cũng dễ hờn giận . – Lỗ tai dán phần dưới, người đa tình, nhân hậu, tốt bụng . – Lỗ tai bằng phẳng, không đều đặn, người bất nhứt, thiếu bình tĩnh – Lỗ tai dán như có quai, người hay xáo trộn về tinh thần . – Lỗ tai có vành trong to, người phách lối, sống về tinh thần . – Lỗ tai có nhánh to, người hoà hoãn, chịu nghe, có trực giác, hay làm vui lòng người – Lỗ tai có trái tai to, người có óc mỹ thuật, thích hoà hợp màu sắc – Lỗ tai có vành vòng cung nhọn, người có tánh kiêu ngạo, chua chát, hay châm biếm . – Lỗ tai có vành viền đều, người tập trung ý chí, có óc thực tế, quân bình tư tưởng . – Lỗ tai có vành viền không đều, người thiếu bình tĩnh, do dự, kỳ quặc – Lỗ tai có vành ngắn, người thiếu khả năng bắt chước, kém chăm chỉ, hay dài dòng . – Lỗ tai có vành dài, người hay chỉ trích . – Lỗ tai có vành trong lớn và mỏng, người sống về tinh thần . – Lỗ tai có vành trong nhỏ, người can đảm, có hậu nhưng kém khả năng sống về tinh thần – Lỗ tai có vành trong như chạm trỗ, người có khiếu mỹ thuật và âm nhạc . – Lỗ tai có vành nhỏ, người hay cương thần kinh, biết tùy thời . – Lỗ tai có nhánh rộng, người dễ mến, được thiện cảm của mọi người . – Lỗ tai có nhánh cao và rộng, người có khiếu âm nhạc, có khả năng nghiên cứu nhiều thứ tiếng – Lỗ tai có nhĩ to, người có nghị lực – Lỗ tai có tiền nhĩ to, người có tư cách, biết cư xử . – Lỗ tai có tiền nhĩ hơn nghiêng, người ham hoà mình với mọi người – Lỗ tai có tiền nhĩ ngã ngược, người nhác gan . – Lỗ tai thiếu tiền nhĩ, người cô độc . – Lỗ tai có trái tai ốm, người thiếu tinh thần hoạt động . – Lỗ tai có trái tai trung bình, người có khả năng hiểu biết, nhân từ, rộng rãi – Lỗ tai có trái tai to, người nhạy cảm, giàu tình thương, giàu nhân ái . – Lỗ tai có trái tai to và nở, người nhiều khả năng nhục dục, đa dâm, chú trọng về xác thịt, ích kỷ . – Lỗ tai có trái tai nở, người thực tế, có óc thực hiện . – Lỗ tai có trái tai nở, hình tam giác, người tích cực, ham kiến tạo . – Lỗ tai có trái tai nở, xệ, người tham vọng, thiếu tinh thần tha thứ . – Lỗ tai không có trái tai, người có trí óc mù mờ, không quyết định, thiếu khả năng hoạt động . – Lỗ tai có trái tai trũng, người nhu nhược, sợ phấn đấu . Về màu sắc của lỗ tai, chúng ta có những giá trị như sau: – Lỗ tai màu tái mét, người yếu ớt, ẻo lã – Lỗ tai màu hường, người quân bình ý chí . – Lỗ tai màu hồng, người có tánh giận dỗi, hay gây gỗ – Lỗ tai màu đất, người thiếu điều hoà về thần kinh . – Lỗ tai có trái tai tái mét, người hà tiện, biển lận . – Lỗ tai có trái tai ửng đỏ, người đa dâm . – Lỗ tai nhiều thịt, người giàu ý chí, nhiều sinh lực . – Lỗ tai mỏng, ít thịt, người bạc nhược, khô cạn tấmlòng . Ngoài những hình thức bình thường, chúng ta còn những hình thức bất thường của lỗ tai, dĩ nhiên lỗ tai thiếu hình thức bình thương là lỗ tai của người thiếu quyết định, tánh tình bất nhứt . Sau đây là những giá trị đó, tùy theo mỗi hình thức: – Lỗ tai mặt lớn hơn lỗ tai trái, người thiêng về trí não hơn . – Lỗ tai trái lớn hơn lỗ tai mặt, người thiêng về thể xác hơn . – Lỗ tai nhìn rõ ràng và trọn vẹn phần mặt, người dồi dào sinh lực . – Lỗ tai nhìn không trọn vẹn phần mặt, người khiếm khuyết sinh lực CỔ Kinh nghiệm cho biết vòng cổ trung bình của người Á Đông là 38 phân cho phái nam, 35 phân cho phái nữ . Vòng cổ người Âu Mỹ to hơn 2 phân ở mỗi phái, nghĩa là vòng cổ đàn ông trung bình 40 phân và đàn bà 37 phân . Về chiều cao thì rất phức tạp, không có ni tấc nhất định và sự dài ngắn cũng bất thường . Chúng ta có những giá trị về cổ sau đây: – Cổ bình thường, người quân bình mọi mặt, sức khoẻ bình thường – Cổ to, người giàu nghị lực . – Cổ to, dài, người dồi dào khả năng thực hiện . – Cổ to ngắn, người có tánh võ phu . – Cổ dài và ốm, người hèn yếu, dễ nghe theo, lắm lúc cũng dối láo . – Cổ mịn, mát, người hoàn toàn nữ tánh . – Cổ ngắn, người có tính cách trẻ con, hay châm biếm . – Cổ to, ửng hồng, người bạo ngược, đa dâm . – Cổ mảnh khảnh và ngắn, người nhát gan, đần độn – Cổ như chỉ có da với xương, người yếu đuối, chịu khuất phục . – Cổ trũng về phía dưới 2 lỗ tai, người yếu về phổi . – Cổ bầu về phía trước, người đa nghi, nóng nảy . – Cổ có ót ngắn, to và đỏ, người bạo dâm, có óc hãm hiếp . – Cổ có ót ngắn, mập và tái nhợt, người chú trọng về thể xác, ham xa hoa vật chất . – Cổ có ót ốm, người nghiêng về trí não, nhiều đức in – Cổ có trái cổ lồi xa ra, người có tánh do dự, hay thay đổi tính tình – Cổ có nhiều đường gân nổi lên, người dễ giận, dễ bị lôi cuốn – Cổ có những đường ngang, hoàn toàn nam tính . TÓC – Tóc thật nhiều, người có khả năng dồi dào về vật chất – Tóc ít, người có khả năng trí thức – Tóc rậm, chi chít, người có nghị lực nhưng ham gây gỗ – Tóc mịn, người dễ mến – Tóc ngắn và quăn, người cứng đầu – Tóc nhuyển, người duyên dáng nhưng kém sức lực . – Tóc bồm xồm, người khó tánh, bất phục tùng . – Tóc gút mắt, người mềm mỏng . – Tóc sậm hoặc đen huyền, người giàu nghĩ ngợi – Tóc màu hung (màu hạt dẻ), người tầm thường . – Tóc màu vàng hoe, người nhạy cảm, dễ cám dỗ . – Tóc đỏ hoe, người thích bềnh bồng, dễ giận . – Tóc trắng (không phải tóc bạc), người bạt nhược – Tóc óng ánh, người sang trọng, dồi dào sinh lực . – Tóc mờ, người suy yếu, thiếu nghị lực . MÀU DA Màu da là sắc thái quyết định tâm tánh của người trên phương diện hình thức, nó rất liên quan mật thiết với tướng mạo, vóc dáng và bàn tay . – Da mét lợt, người mềm yếu, thích ở 1 chỗ . – Da trắng hồng, người hoàn toàn nữ tính . – Da trắng dễ biến sang màu khác, người rất nhạy cảm, buồn vui vô chừng . – Da hồng bóng, người có óc luôn trẻ trung, mềm mỏng . – Da đỏ gay, người nóng nảy, thích rày đây mai đó, người thực tế, dễ sôi nổi . – Da đỏ sẫm, người có tánh quạu qọ, nghiêng về vật chất – Da màu đỏ ửng vàng, người hoạt động, hăng hái, quân bình ý chí . – Da mịn, người giàu thiện chí, nhân ái, dồi dào sinh lực cũng như trí thức . – Da nhám, người đa cảm, thông minh, có óc mỹ thuật – Da xám nhạt, người nghiêng về tinh thần, ham chuộng giáo lý . – Da màu đất, người bạc nhược, thiếu ý chí, không ham hoạt động – Da vàng ( không phải màu da của người Đông Phương, cần phân biệt điểm này), người có tánh chua chát, hay ghen tuông, đố kỵ . – Da đỏ hoe, người ẻo lả, dễ bị cám dỗ .
THÂN THỂ Nghiên cứu về thân thể, chúng ta có đối tượng rõ rệt giữa nam và nữ . Người nam bẩm sinh thân trên vuông lớn, thân dưới nhỏ; người nữ thân trên nhỏ, thân dưới tròn lớn . Ở người nữ, dạ dưới to hơn ở người nam và khum về phía trước, thắt lưng trở thành eo. Ở người nữ, đùi dài hơn người nam nhưng chân ngắn hơn người nam. Về người mập, chúng ta để ý như thế này: Người nam mập phần trên như cổ, ót, vai, bụng trên. Người nữ mập phần dưới: háng nở, bụng xệ, mông và đùi tròn Về người ốm cũng vậy: Người nam ốm ở cổ, ngực và tay. Người nữ thì xương háng lồi lên, vế và bắp chân teo lại . Biết qua những điểm đặc biệt về thể chất của 2 phái nam và nữ, chúng ta tìm hiểu về cá tánh riêng biệt của 2 phái về mọi phương diện, nó sẽ tùy theo vóc dáng, bộ phận trong thân thể, và cũng tùy hình thức mập ốm mà có những cá tánh đặc biệt, dĩ nhiên khác nhau. Chúng ta có những chiết tính sau đây về cá tánh mỗi người: – Người tác lớn cân đối: tánh chậm nhưng cương nghị – Người tác lớn không cân đối: tánh chậm và nhu nhược – Người tác trung cân đối: tánh sống động và tích cực . – Người tác trung không cân đối: tánh sống động như tiêu cực . – Người tác nhỏ cân đối: linh hoạt mau mắn – Người tác nhỏ không cân đối: tánh nóng nảy, dễ xúc động nhưng mau nguội . – Người tác lớn mập: chậm chạp thiếu ý chí . – Người tác lớn, tròn trịa: hoạt độ;ng đúng mức nhưng không liên tục . – Ngước tác lớn, ốm: không bền chí – Người tác trung, mập: hoạt động đúng mức nhưng mau bỏ cuộc – Người tác trung, tròn trịa: sống động, bình tĩnh . – Người tác trung, ốm: thật hoạt động nhưng không bền chí – Người tác nhỏ, mập: linh hoạt, trung trực . – Người tác nhỏ, tròn trịa: linh hoạt, trầm tĩnh – Người tác nhỏ, ốm: linh hoạt, nóng nảy, dễ xúc động . – Người có thắt lưng cao: phát triển về thực tế, có nữ tánh . – Người có thắt lưng thấp: phát triển về tinh thần, có nam tánh . – Người có ngang lớn: có khả năng thực hiện . – Người có ngang nhỏ: thiếu khả năng thực hiện . – Người có ót nở, vai rộng: cường tráng, giàu nghị lực – Người có ót hẹp, vai ốm: không thích hoạt động, hay mơ – Người có ngực nở phần trên: ham thực hiện – Người có ngực nở phần dưới: ham hoạt động – Người có ngực nhỏ hơn bụng: trầm mặc . – Người có ngực hẹp và ốm: suy tư . – Người có bụng bằng, thịt săn: ham thực hiện . – Người có bụng thẳng, nhiều thịt: ham hoạt động . – Người có bụng to: trầm mặc – Người có bụng nhão: suy tư. – Người có xương chân hẹp: nam tính – Người có xương chân rộng: nữ tính Người có đùi dài: nữ tính . – Người có đùi ngắn: nam tính . Trên đây là cá tánh tổng quát nghiên cứu theo hình thức vóc dáng, lần lượt chúng ta tìm hiểu về cá tánh của người tùy từng bộ phận riêng rẻ, dĩ nhiên là bộ phận bên ngoài như đầu, mặt, trán, chân mày, mắt, mũi, gò má, miệng, cằm, hàm, tai, cổ, tóc, màu da và sau cùng mới đến bàn tay là điểm chánh trong phần nghiên cứu về cuộc đời của người con gái, hay người n ữ hiện diện trong bàn tay. Chúng ta khởi sự bằng sự nghiên cứu về cá tánh của người qua hình thức của mỗi thứ đầu . ĐẦU Nghiên cứu về đầu, chúng ta phải nghiên cứu 2 phần chánh diện tức là nhìn trước mặt và bình diện tức nhìn nghiêng. Về chánh diện, chúng ta có những cá tánh sau đây, tùy theo mỗi hình thức: – Đầu rộng, quá mức bình thường (nghĩa là 2 bên xương tai gồ ra): giàu năng lực, rộng xã giao. – Đầu hẹp: thiếu năng lực, không hoạt bát – Đầu hình trái lê: trầm mặc . – Đầu trái xoan: tánh tình hay thay đổi . – Đầu vuông hay chữ nhựt: ham thực hiện, có khả năng. – Đầu hình tam giác: suy tư. – Đầu có những nét béo, mỡ: nặng nề, ham vật chất . – Đầu có những nét tròn hay trái xoan: dịu dàng, dễ cảm, nữ tánh . – Đầu có những nét gân guốc: nam tính – Đầu có những góc cạnh: dễ xúc động, nóng nảy . Về trắc diện, nghĩa là nhìn nghiêng, chúng ta có những cá tánh sau đây: – Phần trên nảy nở: nghiêng về tinh thần, chú trộng về thần bí, duy tâm. – Phần dưới nảy nở: chú trọng về thể xác, duy vật . – Phần trước nảy nở: nghiêng về hoạt động, có ý chí chinh phục . – Phần sau nảy nở: nghiêng về về thụ động, có ý chí tự vệ . – Phần trước, ở trên nảy nở: trí thức, chủ động . – Phần sau, ở trên nảy nở: trí thức, thụ hưởng – Phần trước, ở dưới nảy nở: có khả năng hoạt động về thể xác – Phần sau, ở dưới nảy nở: thực tế, nhưng thụ động . MẶT Đây là phần có thể được xem là trọng yếu vì đặt ra là con người, xấu rốt, sang hèn, cao thượng hay đê tiện đều do mặt và tay mà ra, nếu xét đoán về hình thức . Có câu: “trông mặt đặt lòng”. Nghĩa là chỉ xem qua gương mặt cũng có thể đoán được phần nào lòng dạ con người . Nói như thế có nghĩa là mặt giữ một phần tối yếu trong con người . Đối với bàn tay, mặt có một giá trị về bên ngoài, bàn tay có giá trị bên trong, cũng như một trái cây, vỏ và ruột hay tình thần vật chất cũng thế . Nghiên cứu về mặt, chúng ta có 4 thể thức phân chia khuôn mặt thành 4 phần nổi bật: 1- Khuôn mặt có phần hàm lớn hơn, tượng trưng cho bản tính tự nhiên. 2- Khuôn mặt có phần gu, tức phần giữa lấn hơn, tượng trưng cho bản tính đa cảm . 3- Khuôn mặt có phần trán lấn hơn, tượng trưng cho đời sống tinh thần . 4- Khuôn mặt cân xứng về các phần, tượng trưng cho sự hoà hoãn, quân bình cuộc sống . Cũng có những phần lớn hơn, bản tánh càng bộc lộ rõ rệt hơn. Thường thường ở người bạn gái, huôn mặt luôn nhỏ và có những nét lấn rất ít trông thấy, nhưng cành lớn tuổi những nét ấy càng thấy rõ hơn. TRÁN Chúng ta khởi đầu bằng việc nghiên cứu phần trên của trán, vì đó là phần quan trọng, có thể nói đó là sự phân biệt giữa người và vật . Dĩ nhiên một chiếc trán thấp là 1 hình thức tượng trưng sự kém về thông minh, thiếu ý chí và tất cả, có nghĩa là khiếm khuyết về mặt tinh thần . Về phương diện giá trị, chúng ta có những giá trị tổng quát như sau: – Trán to và rộng tượng trưng cho sự nảy nở và khả năng tinh thần, thụ cảm – Trán nhỏ và hẹp tượng trưng cho trí óc hẹp hòi, cừng đầu, có óc phe đảng . – Trán thấp tượng trưng cho sự ham muốn . – Trán cao và bằng: dễ xúc cảm, giàu tưởng tượng, lãn mạn . – Trán tròn: mơ mộng, mềm dịu, dễ thụ cảm . – Trán chữ nhật: thông minh, thực tế và có quy tắc – Trán bằng: thông minh tầm thường . – Trán vồ: thông minh, hoạt động, thực hiện . – Trán vuông có cạnh: chặt dạ, thiếu cảm giác . – Trán vuốt: nghiêng về thần bí, mộng ảo . – Trán có chiều nghiêng đưa ra: cứng đầu, có thái độ trẻ con, ương ngạnh, ngoan cố – Trán có chiều nghiêng hơi xiên: thông minh chững chạc . – Trán trợt: có óc thực tế nhanh trí, giàu tưởng tượng, nhiều ham muốn . – Trán trợt và tròn: dễ tin dị đoan, nhiều mê tín . Cũng như khuôn mặt, nghiên cứu về trán chúng ta có thể chia vầng trán thành 3 khu vực để tìm hiểu chính xác về ý nghĩa của từng khu vực . Ba khu vực đó là: 1- Khu vực trên – Khu vực trên là khu vực rất nhạy cảm, có thể nói đây là khu vực cao nhất trong con người chịu ảnh hưởng trực tiếp về tinh thần . – Khu vực này nảy nở về phần trên, người sẽ nghiêng về thần học, về huyền bí . – Khu vực này tròn người giàu tưởng tượng . – Khu vực này lồi, người lý thuyết mơ hồ . 2- Khu vực giữa nằm ở giữa khu vực trên và khu vực dưới . Khu vực này không thấy rõ người có một khả năng trí thức tầm thường . Khu vực này trong thấy rõ, người có nhiều suy nghĩ . Khu vực này có một lằn ngang, người có những suy nghĩ thái quá hay quá đáng cũng thế . Trán lồi ở khu vực này, người rất thẳng thắn, chân thật, cao thượng và nhất là ham thích đạo giáo . Trán tròn ở khu vực này: người sẽ có 1 trí nhớ dồi dào . Trán bằng ở khu vực này, người sống động . Trán lõm ở khu vực này, người có tánh do dự, đa nghi và lắm chuyện . 3- Khu vực dưới nằm trên chân mày . Nếu khu vực này chồm ra, sát với chân mày, người sẽ có khả năng đáng kể về cảm giác và rất nhạy cảm . Khu vực này nổi nhiều chừng nào, người có óc thực tế nhiều chừng ấy . Khu vực trên chân mày như có bướu, người có óc thực hiện, chịu phê bình, chỉ trích . Khu vực này có những nếp nhăn từ mũi đứng lên, người hay tập trung tư tưởng, có thiện chí . Trán tròn ở khu vực này, người có tánh kín đáo . Những nếp nhăn nằm vắt ngang khu vực này, người thiếu khả năng quan sát, thiếu thực tế . Ngoài giá trị riêng biệt của từng khu vực trên đây về trán, chúng ta còn để ý những nếp nhăn, gần như luôn luôn có trên vầng trán của mỗi người, nếu lúc còn trẻ tuổi không lộ ra, vào lúc trung tuần cũng thấy rõ . Cũng như những hình thức của trán, nếp nhăn có nhiều ý nghĩa khác nhau: – Nếu trán không có nếp nhăn: người sẽ kém khả năng hoạt động về tinh thần – Trán nhiều nếp nhăn, dĩ nhiên là ngược lại với trán không nếp nhăn, người sẽ có một khả năng rộng rãi về hoạt động tinh thần . – Trong phần dưới của trán có những nếp nhăn nằm ngang, người có óc miệt thị, tự hào – Trán có nhiều nếp nhăn tréo nhau, người có tánh kỳ quặc, tinh thần luôn luôn giao động . – Trán có nhiều nếp nhăn song song và nghiêng, người đểu giả, , gây rối và đa nghi – Trán có nhiều nếp nhăn đứng và nghiêng chen lẫn nhau, người có óc đê tiện, cứng đầu . – Trán có những nếp nhăn đứng giữa 2 chân mày, người luôn luôn tập trung suy nghĩ trong bất cứ việc gì – Trán có nhiều nếp nhăn ngang ở chí gốc mũi, người lỳ lợm CHÂN MÀY Muốn nghiên cứu về chân mày, chúng ta cần phân tách làm 4 sắc thái riêng rẽ nhau để nghiên cứu . Đó là chiều dài, chiều cao, chiều dày và hình thức . Chiếu theo những sắc thái đó, chúng ta có những giá trị khác nhau về chân mày như sau: – Chân mày lá liễu, người mềm mại, duy tâm, hoàn toàn nữ tánh . – Chân mày ngang, người thực tế, hay tìm tòi, thông minh, ngăn nắp, tự chủ và có óc sáng tạo – Chân mày ngang, ngắn, người giàu thiện chí, can đảm về tinh thần cũng như vật chất . – Chân mày xiên quớt về phía trên, tánh tình bất nhứt, đa nghi, giọng chua chát và hay châm biếm . – Chân mày xiên xuống, người có óc bi quan, duy ngã, bần tiện, ghét đời, khiếp nhược – Chân mày nhiều và dài, người nhiều khí chất, kiên gan, tiến thủ . – Chân mày nhiều và ngắn, người ham hoạt động, tế nhị, dễ khích động nhưng trong thời gian không lâu. – Chân mày mỏ và dài, người bình dị, mềm mỏng, kiên trì – Chân mày mỏng và ngắng, người lãnh đạm, hờ hững, kém hoạt động . – Chân mày lá liễu, thưa và nhuyễn, người nhu nhược, thích trầm lặng – Chân mày rậm, cứng, người bồng bột không ngăn được, lanh lợi, hoạt động . – Chân mày lợt, người yếu ớt – Chân mày đậm, người mạnh dán . – Chân mày đứng chấm tới gốc mũi, người cứng cỏi, đanh thép, không chịu bắt chước, nhưng lắm lúc phải trụy lạc về tinh thần cũng như về luân lý . – Chân mày thiếu đều đặn, người sắc thái mất quân bình . – Chân mày dang ra, người nhác nhúa, thiếu suy xét . – Chân mày gần lại, người hay tập trung ý nghĩ, chịu suy xét . – Chân mày chấm nhau, người có tánh ghen tuông, thâm hiểm, đố kỵ . – Chân mày thật đều, đồng thanh đồng thủ trên mắt, người nhát gan, không rõ ràng, nhẹ dạ, dễ khích động, hay thay đổi, thiếu xét đoán nhưng rất trong trắng và thật thà . – Chân mày thật gần với mắt, người bướng bỉnh, ưa phê bình, khinh người, nhưng chịu suy nghĩ và sáng suốt . Những giá trị trên đây là gía trị căn cứ trên sự điều hoà về hình thức . Nói một cách khác, đó là giá trị của các loại chân mày đều đặn, dù bên mặt hay bên trái . Nhưng trên thực tế, còn có những chân mày không đều đặn mà chúng ta cần phải nghiên cứu cho đầy đủ . Trường hợp chân mày không đều đặn, trước nhất sự nghiên cứu phải được căn cứ theo từng chi tiết thiếu đều đặn ấy dung hoà với nhau, tìm kết quả sau cùng, tức là giá trị của hình thức chân mày ấy trên thực tế . Về chân mày không đều đặn, chúng ta có như thế này về giá trị: – Chân mày phía mặt xác nhận bản năng tinh thần mong muốn – Chân mày phía trái xác nhận khả năng vật chất nhứt định . Căn cứ 2 phương thức trên, chúng ta sẽ dễ dàng phân tách giá trị của chân mày, dĩ nhiên phần thiếu đều đặn ở đâu, sẽ chiếu theo giá trị ở đấy có quyết định sau cùng . Một phần khác nữa rất cần thiết . Đó là đối với người sử dụng tay trái, việc nghiên cứu về trường hợp chân mày không đều đặn sẽ được áp dụng ngược lại với phương thức trên. Nghĩa là chân mày phía mặt xác nhận khả năng vật chất, chân mày phía trái xác nhận bản năng tinh thần . Dĩ nhiên là thực tế và kinh nghiệm chứng minh rất ít có những chân mày thật đều đặn, mà ngược lại vẫn có những chân mày xiên quớt về phía trên, lại có đuôi lá liễu . Trường hợp này phải được nghiên cứu hỗn hợp gía trị của 2 mẫu chân mày xiên quớt và lá liễu và đương nhiên sự chen lẫn ở chân mày phía nào, sẽ nghiên cứu giá trị hoả hợp của chân mày phía ấy . Chúng ta có 1 thí dụ cụ thể cho 1 mẫu chân mày tượng trưng như thế này: chân mày trái lá liễu, chân mày mặt ngang và xiên xuống . Giá trị sau cùng của nó là: người duy tâm, thông minh, mực thước, tự hiểu giá trị của chính mình . Dĩ nhiên người này có đức tánh là chịu suy xét, biết kiềm hãm dục vọng của mình . MẮT Chân mày khoa trương sự kiều diễm của khuôn mặt, thì mắt lại là một thứ nhỡn tuyến sắc bén của linh hồn, phát xuất từ linh hông và nói lên tâm não . Do mắt, chúng ta có thể đọc được dễ dàng bản tánh cũng như phản ứng trong tâm não của mỗi người . Chúng ta có thể qui định giá trị cho đôi mắt như thế này: mắt thông minh, mắt lãnh đạm, mắt khờ khạo, mắt đa tình … Đó là tâm lý xét đoán . Không chỉ thuần có đôi mắt, mà còn phải dung hoà với những nét phô bày trên khuôn mặt nữa . Về phương diện phân tách đôi mắt, chúng thử lấy 1 thí dụ như thế này: thử vẽ trên giấy 2 khuôn mặt giống nhau, mắt cũng giống nhau. Nhưng trong 1 khuôn mặt chúng ta vẽ miệng xệ xuống, khuôn mặt kia miệng lại vảnh lên . Chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng ở trường hợp: – Trường hợp thứ nhứt, đôi mắt buồn . – Trường hợp thứ hai, đôi mắt tươi cười . Chỉ 2 thí dụ cụ thể như trên, cũng đủ để chúng ta có 1 kết luận: đôi mắt là cánh cửa sổ mở cho thấy tâm hồn của con người . Chúng ta còn 1 điểm đặc biệt khác, dùng quan sát giá trị của mắt là: -Với đôi mắt bình thường, khoảng cách nhau sẽ bằng với chiều ngang của 1 mắt và chiều cao của 1 mắt đo theo 2 mí trên và dưới khi mắt mở ra, sẽ bằng phân 1/2 của chiều dài mắt ấy . Chúng ta có những giá trị khác nhau về đôi mắt như thế này: – Mắt dang ra, người giàu tưởng tượng . – Mắt gần lại, người có qui cũ, có óc minh bạch . – Mắt mặt dang xa gốc mũi hơn mắt trái, người có nhiều tưởng tượng đẹp về tinh thần . – Mắt trái dang xa gốc mũi hơn mắt mặt, người giàu tưởng tượng và nhiều trực giác . – Mắt gần chân mày, người có tánh khinh thường, hay chỉ trích . – Mắt xa chân mày, người nhẹ dạ, nhát gan – Mắt lộ, người bồng bột quá đáng, hay hành động nghịch thường . – Mắt cùng màu sắc với da, người ưa mơ mộng, hay vẽ vời những sự mộng ảo . – Mắt sâu, người có nghị lực, chịu suy nghĩ, ít nói . – Mắt lồi (hay mắt ốc), người rắc rối, lắm lời . – Mắt lồi có vẻ lờ đờ, mi dày, người ham ăn, đần độn, dâm dật . – Mắt như mở to, người khẩu khí, trung trực – Mắt chìm trong mi, người quỉ quyệt, nhiều tính toán nhưng có tài giao thiệp . – Mắt nhỏ, tròn, sâu, lóng lánh, người minh mẫn, sáng suốt, khéo léo . – Mắt nhiều tròng trắng bao quanh con ngươi, người bồng bột, khát vọng, dễ hờn giận . Ngoài những cá tánh trên, mắt còn có những giá trị khác nhau tùy theo hình thức, màu sắc và cái liếc nhìn nữa . Về hình thức, chúng ta nghiên cứu được như sau: – Mắt to, người tiêu cực, duy tâm. – Mắt nhỏ, người tích cực, hoạt động . – Mắt nghiêng có đuôi quớt lên, người sống động, vui tính . – Mắt nghiêng, đuôi cong về phía dưới, người yếu bóng vía, mơ mộng, dễ chán nản . – Mắt ngang, người thiết thực, bình dị, tích cực . – Mắt có con ngươi to, người thần kinh dễ căng thẳng . Về màu sắc, chúng ta tìm thấy: – Mắt trong, người nhác nhúa, mềm dịu, thiếu cương quyết – Mắt xanh trong, người kín đáo, nhu mì – Mắt xanh, người thích ở 1 chỗ . – Mắt màu măng, người thích rày đây mai đó . – Mắt màu đất lợt, người bạo dạn, hung hăng. – Mắt màu đất sậm, người giàu nghị lực tinh thần cũng như vật chất, ham xoay sở . – Mắt màu xám hoặc xanh lợt, người suy tư . – Mắt đen, người hách dịch, bồng bột . Chót hết, cái liếc của một người, nhứt là phái nữ, càng có nhiều ý nghĩa, mà chúng ta cần ghi nhận: – Cái nhìn nóng bỏng, người dạt dào tình thương – Cái nhìn nguội lạnh, người thiếu tình cảm – Cái nhìn đục, người khờ khạo, nhu nhược và đa sầu – Cái nhìn tươi, người nhanh trí . – Cái nhìn chăm chú, người trầm mặc – Cái nhìn sâu, người thâm hiểm – Cái nhìn óng ánh, người vui tính, thông minh. Một phần dính liền với mắt như môi với răng là đôi mi. Mi không khác nào 2 chiếc cửa khép của mắt, nên mi rất đầy đủ ý nghĩa và giá trị . Khi nhìn ở đôi mi 1 người nào, chúng ta có thể xét được 1 phần tánh tình của người ấy: – Mi có chiều cong xuống, người nhọc nhằn – Mi cong ở mắt trái, người nhọc nhằn về vật chất – Mi cong ở mắt phải, người nhọc nhằn về trí não . – Mi vảnh lên về gốc mũi, người độ lượng, chững chạc, chịu nghe lời phê bình . – Mi dưới đưa ra, người ham gây, ưa hoài nghi. – Mi trên bầu, người ham chuộc màu sắc, nhạy cảm . – Mi trên bầu và cong vào mắt, người có khả năng diễn tả, rành việc so sánh giá trị của bất cứ việc gì – Mi dày, người láu ăn, đa dâm – Mi sâu, rõ và vòng cung, người quí phái . Sau mi mắt, đến lông nheo. Chúng ta có những giá trị về lông nheo như sau, độc đáo về nam tính và nữ tính cho 1 người bạn gái: – Lông nheo dài và cong, người có dâm tính dồi dào, nữ tính . – Lông nheo dài và ngay, người có dâm tính dồi dào, nam tính – Lông nheo ngắn và ngay, người kém khả năng dâm dục, hoàn toàn nam tính . – Lông nheo và cong, người kém khả năng dâm dục, hoàn toàn nữ tính .
Tóc Có tính di truyền rất mạnh. Tình hình sinh trưởng tóc của mỗi người thường rất giống với bố mẹ. Có thể có cứ để nói rằng: tóc là bộ phận thể hiện cá tính rõ nhất. Tóc nói ở đây bao gồm: dày, mỏng, thô, mịn, cứng, mềm, màu sắc và độ xoan. Tóc tuy không cố định suốt đời như vân tay, nhưng cũng biểu thị những đặc trưng tính cách khác nhau khá rõ. Tóc của mỗi người khác xa với hình dạng của người đó. Nếu phân tích tóc của mỗi người một cách khoa học, chúng ta có thể rút ra được những nét đặc trưng trong tính cách của họ. Tóc dày Nói chung mỗi người có khoảng từ 10 – 11 vạn cây tóc. Bình quân 1 cm, mọc khoảng 200 cây tóc trở lên thì gọi là tóc dày. Người như thế có những đặc điểm tính cách sau. – Tính tình ôn hoà: Người tóc dày ngoài đời rất trọng tình nghĩa, ứng xử lễ độ đầy tình người, tính tình ôn hoà. Vì vậy rất dễ được mọi người ưa thích, kính trọng. – Hồn nhiên, chất phác: Người tóc dày có tính cách cởi mở, hoạt bát, tích cực, hiếu động. Tuy bề ngoài họ tỏ ra mạnh mẽ, nhưng trong tính cách lại khá mềm mỏng, hồn nhiên, chất phác. – Có tài lãnh đạo: Nói và làm nhất trí, nói đến đâu làm đến đó, có tài lãnh đạo. Tuy khéo léo ra mệnh lệnh nhưng tính cách của họ cũng rất đằm thắm, ít lãng mạn mà thiên về hiện thực. – Nghiêm túc, cẩn thận: Người nhiều tóc bề ngoài có vẻ là hướng nội, nhưng trên thực tế lại rất mạnh mẽ. Khi mà họ đã cố ý cẩn thận thì cũng rất cố chấp. Tuy tính cách mạnh mẽ, nhưng lại có lòng độ lượng nghiêm túc, và chặt chẽ. Tóc cứng Tóc cứng là chỉ tóc cứng, thẳng. Người có loại tóc này có các đặc điểm tính cách sau. – Cá tính mạnh mẽ: Người có tóc cứng tính cách rất thoải mái, trái phải rõ ràng. Một khi họ đã thích việc gì hoặc vật gì thì nhiệt tình đến cùng. Nói chung người tóc cứng hay cố chấp, bảo thủ, tuy cầu an, vô sự, nhưng trong nội tâm không thỏa hiệp. Đặc biệt là khi rơi vào hoàn cảnh khó khǎn hay bước đường cùng thì tính cách đó lại càng trở nên mạnh mẽ. – Không sợ khổ, không sợ mất lòng: Người tóc cứng đối với công việc thường tỷ mỉ, không sợ khổ, không sợ mất lòng, thái độ trước sau như một, không vì một khó khǎn nào đó mà dao động. Đáng tiếc là có một số người rất bảo thủ, thiếu sự linh hoạt cần thiết. – Giàu lòng thông cảm: Người tóc cứng giàu lòng thông cảm, ôn hoà. Nói chung họ thường nhiệt tình giúp đỡ người khác. Tóc mỏng Tóc mỏng là chỉ tóc ít và thưa. Người có mái tóc như thế thường có những tính cách dưới đây. – Tính cách hai mặt: Người có tóc mỏng về nhiều mặt thường có tính cách hai mặt. Họ không quen nói chuyện trước mặt người khác, hoặc không chủ động tiếp xúc, cũng không muốn người khác đi lại với mình. Đối với bất cứ việc gì đều thiên về thái độ tiêu cực. Tuy bình thường là hướng nội, rất ít bộc lộ chân tướng của mình, nhưng một khi họ tức lên thì không ai cản nổi. – Thiếu bền bỉ, dẻo dai: Người tóc mỏng cho dù là làm việc hay học tập đều thiếu sự bền bỉ, dẻo dai cần thiết. Mới đạt được một chút thành tích đã thoả mãn. – Nhạy cảm: Người tóc mỏng đối với các sự vật bên ngoài thường rất nhạy cảm, đặc biệt là về mặt tiền tài. Nói chung loại người này thường cầu an vô sự, ít tranh chấp. Tóc thô Độ to nhỏ của tóc thường khoảng 0,05 đến 0,15mm. Tóc người bình thường khoảng 0,08 đến 0,09 mm. Người tóc thô thường là trên 0,1mm. Người tóc thô có đặc điểm tính cách sau. – Tính cách hào phóng: Người tóc thô tính cách hào phóng, lòng tự trọng cao. Vì vậy thường không chịu nghe những lời nói thật của người khác. Trong gia đình hay biểu hiện tính cách gia trưởng. – Không sợ trắc trở: Người tóc thô làm việc mau chóng. Khi gặp trắc trở cũng không nản chí, có thể kịp thời rút kinh nghiệm để quay lại từ đầu. – Độc đoán, chuyên quyền: Độc đoán chuyên quyền là mặt làm cho người ta không ưa người tóc thô, vì họ thường tự cao tự đại. Tóc mịn Tóc mịn là chỉ các sợi tóc nhỏ khoảng từ 0,06 đến 0,07mm. Người tóc mịn có những đặc tính tính cách dưới đây. – Ham muốn mạnh mẽ: Nói chung người tóc mịn tham vọng rất nhiều. Họ luôn luôn quan tâm tô vẽ cho mình, nhưng lại không muốn lộ mặt ra. – Tính cách hướng nội: Người tóc mịn thường có tính cách hướng nội, không quen ra lệnh. Khi xử lý vấn đề thường thiếu tính quyết đoán. Một khi đã quyết định thì rất khó thay đổi. – Thiếu chính kiến: Nói chung người tóc mịn thường thiếu chính kiến, hay dựa vào người khác, dễ dao động. Nếu gặp được người lãnh đạo tốt thì họ có thể phát huy đầy đủ sở trường của mình. – Tính tình ôn hoà: Người tóc mịn tính tình ôn hoà, giàu lòng thông cảm. Ơ’ ngoài đời họ chǎm chỉ, thành thực nên dễ được mọi người yêu mến. Nhưng nhược điểm là hay ảo tưởng, hay lãng mạn. Tóc xoǎn Tóc xoǎn là chỉ tóc xoǎn bẩm sinh. Tính cách của người tóc xoǎn phụ thuộc vào mức độ xoǎn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau. Nhưng xét một cách tổng quát người tóc xoǎn tính cách thường bướng bỉnh. – Tính tình bướng bỉnh: Nói chung người tóc xoǎn tính tình bướng bỉnh, cho dù trong công việc, học tập hay trong giao tiếp họ đều rất khó làm vui lòng người khác. Mức độ xoǎn càng cao thì tính cách này càng rõ rệt. – Tự cao, tự đại: Người tóc xoǎn có tật hay tự cao tự đại. Họ thích móc máy vào nhược điểm của người khác, lật đi lật lại thất thường, lúc sang trái, lúc lại sang phải, hơn nữa nhiều khi việc nhỏ cũng xé ra to. Thích nói những điều đao to búa lớn hù doạ người. Không hay lên mặt: Người tóc xoǎn không hay lên mặt: rất ghét xuất đầu lộ diện, nhưng lại nhiệt tình, sâu sắc với bạn tri âm. Tóc đen mà thô Màu sắc của tóc cũng có quan hệ nhất định với tính cách con người. Người tóc đen mà thô có các đặc điểm tính cách dưới đây. – Tính tình quyết đoán: Loại người này có tính cách khoáng đạt, có dũng khí và có tinh thần dám làm, dám quyết đoán. Đối với những điều mà mình tin tưởng thì quyết tâm thực hiện đến cùng. Nhưng cũng có lúc biểu hiện tính ham đấu đá. – Có tài lãnh đạo: Nói chung người tóc đen và thô thường có tài lãnh đạo. Trong cuộc sống thuộc loại người thành đạt. – Lúc nóng, lúc lạnh: Người tóc đen và thô dù nam hay nữ thường có tính lúc nóng lúc lạnh, dễ nổi cáu. Tóc màu nâu Người tóc màu nâu thường tóc đều và mịn. Những người này có đặc điểm tính cách sau. – Tính tình ôn hoà: Đây là loại người thuộc dạng tiêu cực, không thích xuất đầu lộ diện, thường ngày chỉ biết cặm cụi làm việc, tính cách ôn hoà, nên dễ được người khác cảm tình. – Sống cần kiệm: Nếu là nữ giới, về mặt tiền tài thường tiết kiệm, có thể tận tâm tận lực vì chồng con, cố gắng xây dựng một gia đình hạnh phúc, tốt đẹp. – Thiếu tính quyết đoán: Nếu là nam giới thì đó là loại người bạc nhược, thiếu tính quyết đoán cần thiết, không thích hợp làm lãnh đạo. Nếu gặp người lãnh đạo tốt thì sẽ thành đạt. Ba xoáy Xoáy tức là chỉ tóc trên đỉnh đầu tóc xoáy thành một trung tâm. Nói chung mỗi người chỉ có một xoáy, hơn nữa hướng của xoáy thuận chiều kim đồng hồ. Nhưng cũng có người có ba xoáy, hai xoáy hoặc xoáy trước trán và xoáy ngược với chiều kim đồng hồ. Người có ba xoáy có đặc điểm tính cách sau. – Làm việc có kế hoạch, chu đáo: Người có ba xoáy có khả nǎng phản ứng nhanh, có kế hoạch và chu đáo. Họ có nǎng lực thực tế rất mạnh. – Lòng tự tin mạnh: Người có ba xoáy lòng tự tin rất mạnh, tính khoáng đạt. Nhưng cũng vì thế mà dễ độc đoán chuyên quyền, có lúc gây ra thất bại không đáng có. – Thích riêng rẽ: Người có ba xoáy thường không hiểu người khác, cũng không biết động viên lòng nhiệt tình làm việc của người khác. Có lúc thích riêng rẽ. Hai xoáy Hai xoáy là chỉ người sau đỉnh đầu có hai xoáy. Người có hai xoáy có đặc điểm tính cách như sau. – Tính cách cứng rắn: Nói chung người hai xoáy có tố chất dũng cảm. Tuy cuộc đời gập ghềnh nhưng cũng không khuất phục được ý chí phấn đấu của họ. – Sức sống mạnh mẽ: Tính cách người hai xoáy là cởi mở, có sức sống mạnh mẽ. Nói chung thường sống thân ái với người khác. Xoáy trước trán Xoáy trước trán là chỉ chân tóc trước trán có xoáy. Người như thế có những đặc điểm tính cách sau. – Ham tò mò: Người xoáy trước trán rất thích tò mò. Họ có dũng khí và tinh thần khai phá mở đường. Nhưng nhược điểm là quá tự tin nên dễ gặp thất bại không đáng có. – Tình cảm mềm yếu: Người xoáy trước trán có tình cảm mềm yếu và dễ thương cảm. Nếu chú ý giữ gìn lời nói và việc làm thì cũng dễ thành đạt. Xoáy trái chiều Nói chung xoáy thường thuận theo chiều kim đồng hồ, nhưng có người lại ngược chiều kim đồng hồ. Người đó có đặc điểm tính cách dưới đây. – Tính khí thất thường: Người xoáy hướng trái chiều tính khí không ổn định. Cho dù trong công tác hay giao thiệp thường mắc phải tật hay thay đổi ý kiến. Trong công tác họ rất ít khi hoàn thành công việc được một cách trọn vẹn. – Không có chính kiến: Người xoáy hướng trái không có chính kiến, thường phụ hoạ theo người khác, hơn nữa còn hay chia rẽ với người khác. Đó chủ yếu là vì tính cách không bình tĩnh 2. Tướng phát đạt Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dội,Tam đình bình ổn Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc ( trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu ) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng). Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng ( vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục ) kể trên phải đồng thời kiêm bị. Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là : – Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu ) – Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn ) – Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm ) – Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm ) – Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong ) Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn *chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ lộ mà : – Mắt lộ nhưng không có thần quang – Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ – Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng – Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh – Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt . Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ ** mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên ( tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình ) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán. Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt ( nếu hội đủ cả hình lẫn chất ) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Hình thì như đã đã miêu tả trong quyển I, còn chất thì đó là những điểm độc đáo về nội dung đã nói ở chương nguyên lý về thanh trọc. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “ Trọc trung hữu thanh “, Thanh và trọc tương đối dễ phân biệt, nhưng “ thanh trung hữu trọc và trọc trung hữu thanh “ thì lại rất khó tìm ra. Trong chương nói về thanh trọc, soạn giả đã cố gắng tổng hợp các điều liên quan đến thanh trọc tản mát trong các sách vở về tướng, nhưng thực tế không phải chỉ có bấy nhiêu. Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “ Tâm lĩnh thần hội” nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phần hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền. Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn năng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “ đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ” kia mà. 3. Tướng phá bại Các dấu hiệu của sự phá bại – Chữ phá bại dùng ở đây có nghĩa rộng rãi, bao gồm : – Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ – Tâm tính thấp hèn, ngu muội quá mức bình thường – Kết quả cuộc đời thường bi thảm : chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết thảm, đói rách, bị khinh rẻ … Đứng về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây : – Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa – Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn … – Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt heo thì sẽ chết không toàn thây. – Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hùng quang chủ về chết thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm – Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp, hoặc có gân có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuống thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại , quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ. – Miệng nhỏ, môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch, lớn mà thường há hoác ra không khép kín lại đều chủ về cô đơn, nghèo hèn. Môi túm lại và nhô cao lên, khoé miệng trễ xuống, pháp lệnh ăn vào khoé miệng đều có ý nghĩa tương tự. Riêng pháp lệnh ăn vào khoé miệng gọi là “ Đằng xà nhập khẩu “ dù các bộ vị khác có tốt nhưng chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ. – Tai không có Luân, Quách rõ ràng minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về nghèo túng, đen đủi, thấp, lệch chủ về hèn mọn chết non. Đại để những kẻ mà ngũ Quan đều vấp phải một trong các khuyết điểm của từng Quan kể trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng người phá bại. Ngoài tướng phá bại vì Ngũ Quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt sau đây cũng bị xếp loại vào tướng phá bại. a) Lục cực – Đó là kẻ có một trong sáu dáng dấp cực đoan sau đây : – Đầu lớn nhưng cổ nhỏ : chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số goá bụa, làm bé. – Mặt lớn, đầu nhỏ : chủ về nghèo và tính nết độc ác. – Thân thể phì nộm cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng, chủ về vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng. – Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm : chủ về hậu vận không ra gì – Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của thể : chủ về nghèo hèn không con cái. b) Lục tiện – Xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong các khuyết điểm sau về đức hạnh cũng thuộc về tướng phá bại : – Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý. – Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại) – Thích châm chích những khuyết điểm của người. – Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng. – Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc – Lúc ăn hay nói chuyện huyên thuyên trên trời dưới đất (đây phải là một có tật bẩm sinh mới kể. Còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung quanh thì không kể) c) Lục nại – Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt chủ về hay bị hình phạm. – Ngay giữa Sơn căn có một lằn sâu chạy xuyên qua Aán đường lên tới giữa trán, Sống mũi cao gầy trơ xương : chủ về khổ sở, tai nạn. – Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ : chủ về hình khắc. – Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên chủ về trung niên phá tán, long đong vất vả. – Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt đời. – Xương lộ, thịt xệ và thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn. d ) Lục ác – Đầu quá nhỏ, bần tiện, ngu độn. – Mắt dê : chết thảm hoặc đoản mệnh – Môi túm cong lên, răng lởm chởm : nghèo túng – Yết hầu lộ : khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ. – Tam đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ, cô đơn lúc tuổi già – Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi : long đong khốn quẫn. e ) Thập sát – Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc. – Thần khí hôn ám thô bỉ – Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm. – Lỗ hếch hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt – Vô bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm. – Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria – Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi. – Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại. – Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru. – Bị bệnh hôi nách (ở đây phải hiểu là riêng nách có mùi hôi vì bệnh tật, còn các bộ phận khác không có mới kể vào thập sát. Nếu như vì không năng tắm gội mà toàn thân có mùi hôi hám thì không kể) Bất kể phạm vào một trong thập ác nào thì cuộc đời cũng thường gặp hung hiểm, bất trắc ( hoặc về gia đạo, bạn bè, công danh, sự nghiệp v.v…). Càng gặp nhiều sát thì mức độ hung hiểm càng gia tăng và sự giải đoán càng thêm chính xác*. Ngoài những nét tướng hình thể ở vị thế tĩnh hoặc bán tĩnh, bán động đề cập ở mục vừa kể liên quan đến phát đạt hay phá bại, ta còn phải kể đến những nét tướng về thần, khí sắc ( đặc biệt là khí, sắc ) ở từng bộ vị một. Những điểm này soạn giả đã trình bày khá tường tận ở chương “ Thần khí, sắc và khí phách” cho nên mục này không nhắc lại. Độc giả nên tham chiếu chương đó để việc giải đoán thêm phong phú. *Trên đây là ý nghĩa thập sát của Phong Vân Tử, tác giả cuốn Giám nhân thuật Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ư vị ( cuốn 4 trang 148 ) thì lại cho rằng “thập sát” là : – Dáng đi chậm chạm như người say – Mũi khấp khúc – Da mặt thô, đen đúa – Mắt sần sùi như trái qua lâu (tên một loại dưa) – Lông mày quá đậm – Tiếng lanh như chó sói tru – Giọng nói the thé – Gian môn lõm và hãm – Miệng quá rộng – Mắt quá lớn.
4. Tướng thọ, yểu Tướng người trường thọ Tướng người trường thọ phải hội đủ tối thiểu bảy điều kiện sau đây – Lông mày phối hợp thích nghi với râu và tóc, càng về già càng dài lại là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, dưới 30 tuổi mà lông mày đột nhiên dài ra một cách bất thường lại là chứng yểu mạng – Tai có Luân Quách rõ ràng, lớn và dầy, rắn chắc, sắc tươi nhuận – Sống mũi ( Phần Niên thượng, Thọ thượng ) đầy và có thịt – Nhân trung sâu và rộng – Răng chắc chắn – Tiếng nói rõ ràng, vang dội – Thần khí sung túc Ngoài ra, những dấu hiệu sau đây cũng liên quan khá mật thiết tới việc giải đoán thọ mạng: – Cổ phía dưới có thêm lớp da trễ xuống vai ( trường hợp khí người đứng tuổi và mập ). – Nếu là lộ hầu thì âm thanh phải trong trẻo và cao – Xương Lưỡng quyền vững vàng và ăn thông lên ngang phía – Xương hai bên đầu phía trên và sau tai nổi cao rõ rệt – Ngũ nhạc đầy đặn và đúng cách tục – Đến tuổi trung niên ( khoảng ngoài 30 tuổi ) Tai mọc lông dài hoặc Lông mày bắt đầu mọc dài và sắc thái tươi nhuận – Lưng rộng, bụng dầy Người có đầy đủ tất cả các điều kiện kể trên chắc chắn là tướng trường thọ trong trường hợp bình thường. Tướng người non yểu Một cá nhân bị xem là tướng non yểu nếu đồng thời phạm bảy khuyết điểm sau đây : Lông mày đẹp đẽ về hình thức nhưng hỏng về thực chất ( chẳng hạn sợi thô vàng, sắc khô héo ), Lông mày mọc xệ xuống phía dưới mi cốt, dáng vẻ lạnh lẽo. – Tai nhỏ, úp xuống phía trước mặt, Tai quá mềm và sắc không xạm, tai quá mỏng, nhĩ căn bạc nhược. – Mũi gãy khúc, Sơn căn gập xuống, Chuẩn đầu nhỏ nhọn, khiến mũi trở thành liệt thế. – Đầu nhỏ, cổ dài, trán nhỏ nhọn và nổi gân xanh, thiếu niên mà đi hoặc ngồi co đầu rụt cổ. – Nhân trung ngắn nông cạn – Tiếng nói đứt đoạn, giọng nói gấp mà hời hợt như người thiếu hơi, âm điệu buồn tẻ như người không có sinh khí. – Ánh mắt đờ đẫn như kẻ si ngốc hoặc người ngái ngủ, ngồi thì lưng như gục ngã, đứng nhìn thì chân không có gân cốt, đi thì thân hình xiêu vẹo, bước chân thiếu vững vàng. Tất cả những dạng thức trên đều là biểu hiện của “Thần suy nhược, hôn ám đoản xúc” nên không thể nào sống quá 50 tuổi. Bởi lẽ đó, có người tuy về hình tướng rất đẹp đẽ phương phi mà chết yểu chỉ vì khí chất không quân xứng. Ngoài cách cục tổng quát về non yểu kể trên, tác giả Phong Vân Tử trong cuốn Giám Nhân Thuật còn liệt kê một vài hạn tuổi non yểu với một số hiệu đặc biệt rất dễ nhận xét như sau : a ) Chết yểu trong vòng 10 tuổi trở lại : Phàm tướng người non yểu trong tuổi trên được thể hiện qua đầu và trán nhỏ quá mức so với thân mình, trán nổi gân xanh quá rõ rệt, phía sauđầu xương bị lõm xuống b ) Chết yểu trong vòng 20 tuổi trở lại : Tác người lớn con mà đầu lại nhỏ bé cộng thêm với tiếng nói quá nhỏ là tướng khó sống qua năm 15 tuổi. Tai mỏng như giấy, nhĩ căn bạc nhược, da mỏng và bóng như bôi dầu khó vượt qua quãng 16, 19 tuổi, Mắt lồi mà lòng đen ít, lòng trắng nhiều, nhĩ căn xạm đen, tai mỏng và hướng về phía trước, khó sống qua tuổi 20. c ) Chết yểu trong vòng 30 tuổi : Lông mày ngắn, mặt ngắn không thọ quá 25 tuổi. Mày thưa thớt, xâm phá Aán đường, mắt không có thần, môi xám đều là tướng đoản thọ trong vòng 26 tuổi. Mắt nhỏ, quyền thấp, xương thô, thịt teo mà mắt thoát thần, môi vẩu mà môi trên lại ngắn, da mặt quá mỏng đều là tướng khó sống được quá 30 tuổi. d ) Chết yểu trong vòng 40 tuổi : Mắt lồi, lông mày ngắn, mà đại các quá dài không tương xứng với khuôn mặt khó sống qua 32 tuổi. Mắt thì lúc như lộ chân quang, lúc thì lại như chìm xuống. Lông mày vừa thô vừa ngắn lại thêm hạ đình dài hẹp: không quá 34 tuổi. Mắt lộ mà lộ hầu, xương nhỏ mà người mập: không quá 36 tuổi. Mắt lộ hung quang hừng hực, tính tình thô bạo thì dẫu mũi cao, sơn căn không gẫy khúc thì cũng chỉ đến năm 39 tuổi khó tránh được số trời. e ) Tướng mạng vong trong khoảng 50 tuổi : Con người quá 50 tuổi mà chết thì theo câu nói vẫn thường truyền tụng “ nhân sinh thấp thập cổ lai hy “ không còn gọi là yểu tử nữa mà nên gọi là mạng vong hay thọ chung. Thông thường, kẻ sống mũi không ngay ngắn (có chiều hướng lệch sang bên trái hay bên phải ) ít khi sống quá 42 tuổi. Mắt nhỏ, mày co rút lại không tương xứng với khuôn mặt, sơn căn lại đầy đặn thường sống đến khoảng 42, 44 tuổi. Bắt đầu phát phì mà thần khí lại có vẻ co rút thì khó qua được tuổi 49 và 50. 5. Đoán tưởng tiểu nhi Con nít vì cơ thể chưa phát triển đầy đủ nên không thể căn cứ vào ngũ quan, Lục phủ để định tốt xấu như người đã thành niên. Việc coi tướng trẻ em phần lớn chỉ dựa vào thần khí, cử chỉ nên chỉ có tính cách phỏng chừng. Ở mục này, soạn giả cố gắng tổng hợp các nét chính về tướng tiểu nhi phân thành từng trọng điểm để độc giả tiện tham khảo. 1 – Tướng trẻ sơ sinh dễ nuôi Hầu hết trẻ em dễ nuôi và sống đến tuổi thành niên, trong hoàn cảnh bình thường đều có bảy nét tướng chính yếu sau : – Mới sinh ra tóc dài tới sát lông mày – Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen – Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh, lúc ngủ ngậm miệng – Mắt có thần, khi cất tiếng khóc mới đầu giọng cao, tiếng lớn có âm lượng . – Con trai, hai trứng dái ( âm nang ) đàn hồi và có nhiều nếp xếp – Tai và miệng lớn – Mũi cao, môi hồng và dầy cân xứng 2 – Tướng trẻ sơ sinh khó nuôi – Da đầu trông có vẻ quá mỏng và căng – Lông mày quá lớn so với – Đầu và mũi quá thấp đường chỉ thấy có phần chuẩn đầu – Mắt thay vì có màu đen bóng như hạt huyền lại có màu lạt như đậu đỏ – Khuôn mặt tròn như mắt gà – Tai nhỏ và mềm như bún – Không có bắp chân – Khi cất tiếng khóc mới đầu rất lớn , về sau nhỏ dần – Thịt nhiều, bệu, xương quá ít – Môi mỏng như giấy và phía sau tai không có Sự dễ nuôi và có khả năng sống đến tuổi thành niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của tiểu nhi ta cần đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây – Xương chẩm ( phía sau đầu , trên xương gáy ) – Sơn căn – Tỵ lương ( Sống mũi ) Xương chẩm nổi rõ và rộng, Sơn căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của lưỡng quyền, sống mũi ở ngay giữa khuôn mặt và không lệch là dấu hiệu bề ngoài về mặt hình thể cho biết đó là cát tướng. Ngược lại là yểu tướng. 3 – Tướng tiểu nhi phúc hậu Từ khi bắt đầu biết đi đến 5 tuổi muốn biết phúc phận trẻ em dầy mỏng ra sao thì coi thần khí. Thần khí nói ở đây bao gồm tọa thần, ngọa thần và mục thần nghĩa là ánh mắt hoà ái, nói năng thong thả trong trẻo, đi đứng nằm ngồi có vẻ nhàn hạ là tướng phúc hậu. Sau 6 tuổi coi thêm Nam, Trung và Bắc nhạc. Nam nhạc cao rộng đúng cách chủ về sơ vận phúc lộc tốt, Trung nhạc đắc thế thì trung vận khá giả, Bắc nhạc đầy đặn cân xứng thi vãn vận hưởng phúc. Tóm lại cuộc đời về sau của trẻ em có thể biết trước được một cách khái quát ngay từ khi chúng còn thơ ấu. 4 – Tướng tiểu nhi tương lai nghèo hèn Lúc còn nằm trong nôi mà tiếng khóc không trong trẻo chủ về lớn lên vừa nghèo khổ vừa khó nên người, tiếng khóc mà âm thanh tản mát, lớn lên thì vô tài bất tướng. Thần khí bất túc, biết đi quá sớm cũng cùng một ý nghĩa như trên . Từ 3, 4 tuổi trở lên không thích quần áo sang trọng, không phân biệt sạch bẩn Nam, Trung và Bắc nhạc lệch hãm ….đều là dấu hiệu báo trước rằng khi lớn lên khó có thể khá giả. 5 – Tướng tiểu nhi trong bệnh Góc trán có sắc xanh xám, hai mắt thất thần, Thiên thương và ấn đường sắc đỏ, môi miệng xám đen. Khi thấy có những màu sắc trên bắt đầu xuất hiện là phải đề phòng trọng bệnh. Khi bị bệnh nặng, nếu thấy Sơn căn, Tỵ lương, môi, miệng đều xám xanh một lúc là dấu hiệu sẽ chết trong vòng năm, bảy ngày tới. Các bộ vị trên đều từ xám xanh chuyển dần sang màu vàng nghệ thì khoảng ba bốn ngày khó tránh khỏi tuyệt mạng. Nếu mắt lộ phù quang, gián đài, đình uý khô cằn, chuẩn đầu đen, môi miệng vàng là dấu hiệu sắp chết nội trong ngày. Ngược lại, bệnh dù nặng, nhưng màu đỏ của ấn đừơng biến dần sang màu vàng, môi miệng từ đen xạm sang hồng lạt là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh tạng bắt đầu thuyên giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm. 6 – Tướng trẻ em trai khắc cha – Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật nệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường – Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng – Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm – Quyền trái lộ – Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược – Nhân trung lệch về bên trái – Khoé miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó 7 – Tướng trẻ em trai khắc mẹ – Nguyệt giác thấp, lệch, lẹm có lông măng quá đậm – Lông mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường 6. Tướng phụ nữ a ) Tương quan giữa vài nét tướng mặt và cơ thể Đời Đường (618 – 907), Nhất Hạnh Thiền sư, một nhà tướng học khét tiếng thời đó mà nay một phần tác phẩm về tướng vẫn còn được lưu truyền, có lẽ là người đầu tiên phổ biến quan niệm cho rằng có thể căn cứ vào một số nét tướng trên thân mình. Để phân biệt con người thưc tế với con người thu gọn trên khuôn mặt, thiền sư mệnh danh hình ảnh đó là Tiểu Hình Nhân. Trải qua nhiều sóng gió của thời cuộc, công trình độc đáo của Nhất Hạnh Thiền sư bị binh lửa Trung Nguyên làm thất truyền khiến cho các sách tướng cổ điển của Trung Hoa không còn tài liệu độc đáo này. Tuy vậy, một số người Nhật giao thương với Trung Hoa thời đó may mắn sưu tập được một vài di cảo của Nhất Hạnh đem về nước nghiên cứu và phát huy thêm. Thành thử, nguyên cảo Trung Hoa bị thất lạc chỉ còn lời đồn, may nhờ Nhật giữ hộ mà không bị mai một vĩnh viễn. Từ công trình khảo sát sơ khởi của Nhất Hạnh đem ra nghiên cứu tướng đàn bà bổ túc thêm cho hợp với nữ giới. Người Trung Hoa đầu tiên du nhập lại kiến thức này là Tô Lãng Trai, tác giả quyển Ngũ quan tướng tĩnh nghiên cứu. tướng đàn bà bổ túc thêm cho hợp với nữ giới. Người Trung Hoa đầu tiên du nhập lại kiến thức này là Tô Lãng Trai, tác giả quyển Ngũ quan tướng tĩnh nghiên cứu. Những điều trình bày trong mục này phần lớn căn cứ vào các tác phẩm của Ngũ Vị Trai và Tô Lăng Thiên cả. Muốn có tiểu hình nhân ta lấy khuôn mặt làm mẫu mực, miệng là đầu, hai mi cốt (xương lông mày) là hai chân, hai pháp lệnh là hai tay, nhân trung là cổ, mũi là toàn thể thân mình. 1 – Hai cánh mũi Phàm hai cánh mũi phụ nữ cân xứng thì nhũ hoa cũng cân xứng. Hai cánh mũi nẩy nở tròn trịa thì ngực nở, nhũ hoa lớn. Ngược lại, Chuẩn đầu thấp, gián đài, đình uý nhỏ hẹp thì nhũ hoa cũng nhỏ hẹp. Đàn bà mũi xẹp cánh mũi mỏng và nhỏ mà có bộ ngực núi lửa thì đó chẳng qua chỉ là phần nhân tạo chứ không phải là phần thiên bẩm. Hơn nữa, màu sắc của hai cánh mũi còn cho ta biết được nữ giới hiện đang ở thời kỳ kinh nguyệt hay không. Đang lúc hành kinh cánh mũi bao giờ cũng có sắc ửng hồng mà ngày thường không có. Những điểm trình bày trên đây đúc kết từ những nhận xét của các nhà y học nhằm mục đích giúp bạn trai những kiến thức giải hữu ích cần thiết tránh được những hành vi tổn thương đến đời sống gia đình chỉ vì ngộ nhận thiện chí của nhau. Nói chung sơn căn cho ta biết phần co lưng, sống mũi cho ta biết nửa phần thân trên. 2 – Nhân trung Nhân trung và môi miệng giúp ta biết được một cách khái quát về cơ cấu sinh dục cũng như khả năng sinh dục của phụ nữ. Nói một cách tổng quát muốn biết việc sinh sản dễ dàng hay khó khăn, ta cần nhớ là : Nhân trung ngay ngắn, rõ ràng cộng thêm với lộc thượng, thực thương, Tả Hữu Tiên Khố tề chỉnh, đầy đặn và cân xứng là những dấu hiệu chắc chắn của việc sinh sản bình thường, ít gặp hiểm nghèo vì thai sản. Hai bờ nhân trung đàn bà đều rõ tạo thành hình dạng trên hẹp dưới rộng là dấu hiệu nhiều con và sinh sản dễ. Nếu có thêm chỗ gần tiếp giáp với miệng trũng xuống như vùng trâu đằm thì con trai ít hơn con gái. Nếu hai lằn gồ cao của nhân trung gần giáp với môi trên lại nổi cao và rõ thì sinh trai nhiều hơn gái. Nhân trung đàn bà trung bình và không có có đặc điểm trũng xuống hay nổi cao vừa kể thì số con trai và gái gần như ngang nhau nhưng không quá nhiều. Dĩ nhiên, những nhận định nào không áp dụng cho các trường hợp giải phẫu thẩm mỹ. Nhân trung quá mờ hoặc bị vạch ngang là dấu hiệu khá chắc chắn của kẻ có khả năng sinh dục không đáng kể. Quá mờ lại có vạch ngang rõ rệt là tướng không con vì lý do thiên nhiên bất túc. 3 – Nốt ruồi ở nhân trung Nốt ruồi đàn bà xuất hiện ở nhân trung cũng là nét tướng có ý nghĩa quan trọng cần được đặc biệt lưu ý : Bất kể hình dạng Nhân trung ra sao bỗng nhiên có nốt ruồi đen đọng lại vị trí 1, là tướng đoản mệnh, hay chết sớm vì thai sản hoặc bệnh liên quan đến tử cung. Nốt ruồi ở vị trí 2 là dấu hiệu tử cung không được ổn, dễ bị bệnh phụ nữ. Đồng thời về mặt mạng vận là điềm báo trước ít nhất cũng phải dang dở hay tái giá mới được an thân. Nốt ruồi ở vị trí 3 dù lệch sang phải hay trái, không liên hệ đến tử cung nhưng liên quan đến mật thiết đường tình dục. Đàn bà có nốt ruồi đen như vậy phần lớn là không chung thuỷ, ít khi thoả mãn tình dục với một người khác phái. Nốt ruồi ở vị trí số 4 dấu dâm đãng. Theo Ngũ vị trai, kẻ có nốt ruồi đó nếu thêm mặt có đào hoa sắc thì trước khi kết hôn đã chung chạ chăn gối, có chồng rồi vẫn còn bướm ngõ ong tường, chồng ra cửa trước rước rước người tình ở sau. Về đường tử tức, ít khi có con. Thỉnh thỏang hoặc có thì về già cũng cô độc kể như không có. 4 – Mội, Miệng Tướng học hiện đại Á Đông dựa trên các nhận xét của khoa học thân thể. Khác với tiếng học gia thời xưa, các tướng học gia Nhật bản ngày nay cũng là chuyên viên về y khoa và tâm lý. Nhờ đó, họ đã phong phú và hiện đại hoá tướng học Á Đông rất nhiều Tướng học Nhạt Bản cho rằng người ta có thể căn cứ vào mặt bất cứ nam nữ mà thôi cũng tạm đủ dữ kiện để phát đoán về toàn thể con người một cách tổng quát. Đối với tượng phái hình thể này, khuôn mặt là hình thể rút gọn của con người, từ khuôn mặt suy ra con người là một điều đáng rầt phù hợp với thực tế, không có gì đáng gọi là thần bí hoang đường cả. Tiếc thay quan điểm khoa học này bị một số người coi tướng giữ kín làm bí quyết sinh nhai và cố tình bí hoá nó khiến cho đa số quần chúng ngộ nhận là họ có tà thuật và coi tướng học như một môn thần bí học. Môn phái Nhật Bản cho rằng Môi, Miệng và hạ thể có nhiều tương đồng với hình thể và màu sắc . 5-Tai Vẫn theo tướng phái trên, rãnh tai và màu sắc của tai là dấu hiệu để xét định bộ phận sinh dục của phái nữ . Theo ngũ Vi Trai, tác giả cuốn Ngũ quan tướng tinh nghiên cứu vào những năm trước khi xảy ra cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Hoa, ông ta đã tự mình khảo nghiệm khoảng tám mươi trường hợp thực tiễn thấy rằng tuy không đúng hẳn 100 % nhưng đại đa số những điều phát biểu về lý thuyết đều phù hợp với thực tế . Những nét tường đặc trưng về phụ nữ của Viên Liễu Trang Cổ nhân Trung Hoa nặng đầu óc phong kiến, quá trọng nam quyền cho rằng chỉ đàn ông mới thanh khiết, mới đáng trọng và đáng giữ vai trò chỉ huy trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Quan niệm chuyển thế “ trọng nam khinh nữ “ này buộc đàn bà phải lệ thuộc và phục tùng tuyệt đối ở đàn ông, ở nhà phải nghe lời cha, lấy chồng phải nghe lời chồng, hoạt động gì (đặt biệt là hoạt động ngoài đời lẫn chủ động trong đời sống tình dục). Nói khác đi, dưới nhãn quang luân lý cổ điển khắt khe này, phụ nữ hoàn toàn bị động, phải tỏ ra vô tài cán. Có như thế mới coi là có đức: vì tục ngữ Trung Hoa : Nũ tử vô tài tiên thi đức (Con gái không có tài cán tức là có đức vậy ). Người đàn bà được trời phú tính thông tuệ, tư tưởng độc lập hoặc nhan sắc tự cho là mình có khả năng, không chịu hoàn toàn công nhận quyền tuyệt đối của nam giới, muốn tham gia vào đời sống cộng đồng một cách tương đối bình đẳng (tỷ như nghề nghiệp tình dục ), muốn sống theo lương tri và phát triển khả năng thiên phú theo ý riêng, dám bất đồng ý kiến với chồng đều coi là hình khắc tư dâm . 7. 36 tướng hình khắc – Tóc vàng khè, xoắn tít lại với nhau thành từng bụi một – Tròng đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ – Lưỡng quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác – Trán nổi từng cục u nhỏ như ốc bám – Trán cao, mặt hõm – Trán có vằn sâu hoặc thẹo – An đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá – Tuổi trẻ mà tóc rụng quá nhiều – Xương da khô, phá – Mắt dài, miệng lớn quá mức – Mặt gầy guộc nổi gân – Mặt hình tam giác – Tai chỉ có vành trong mà không có vành ngoài – Mặt choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp – Sắc mặt khô xạm trì trệ như đất bùn – Sơn căn thấp gẫy – Cằm nghiêng lệch – Cổ gầy, trơ xương nổi đốt – Tiếng oang oang như tiếng sấm – Tính nóng như lửa – Thần khí thô trọc – Trán rộng, cằm nhỏ và nhọn – Mắt có khí sắc lốm đốm màu trắng – Sống mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt – Thịt lạnh như nước đá – Tay lớn, xương thô – Vai lưng nghiêng lệch – Mắt tròn và quá lớn – Lộ hầu, răng như bàn cuốc – Xương thô cứng, tóc rễ tre – Đêm ngủ hay la hoảng – Miệng như thổi lửa – Lỗ mũi có lông dài thò ra ngoài – Trán gồ, mang tai bạnh – Xương che lỗ tai quá cao và đầy – Mắt trắng bệch, không huyết sắc
1. Những tướng cách phụ nữ Theo quan niệm “ Nam ngoại nữ nội” dưới nhãn quang tướng học Á đông, những tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn – Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất. – Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng. – Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn. Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái. Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu. Miệng không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt ruồi. Tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử. Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ đó*. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó, chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài. *Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ hàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc. Dưới nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ. Ngược lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu : “Mũi đàn bà là phu tinh”. Miệng quá lớn và mỏng, môi sáng hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con. Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng,thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v… người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn khổ. Về phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc. Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây : Loại hướng nội : Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ lạc quan, dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, không thích thủ đoạn. Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính thường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thuỷ với chồng. Loại hướng ngoại: Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao, môi mỏng cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui, dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán. Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ không ưa nấu nướng,kém tháo vát, dễ cáu kỉnh. Loại trung tính: Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khá mập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá mỏng. Các bộ phận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu của hai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát loại tướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác . Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng trong thực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phải đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lãnh vực bao gồm nhiều trọng đề dưới đây : a ) Lãnh vực cá tính 1 – Tướng người ham mê nhục dục Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt : – Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm – Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng – Phía dưới mắt ( Lệ đường ) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (Ngư vĩ ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm – Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo – Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm – Miệng lớn và khoé đi xuống lưng ong – Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đới ít ra cũng vài ba bận thông dâm – Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục – Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm – Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật – Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy – Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng – Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên một giá trị : có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp. Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc điểm này cầnphải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện của mình. Ngoài ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện được cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau : a ) Nhân trung có tía đỏ : Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giới . Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đó hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có gì rồi . b ) Mắt tam bạch : Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói. c ) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen. d ) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường. Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra. 2 – Tướng người trinh thục : Trong nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt, vì mắt là cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau : – Trán tròn nhưng không cao, không lồi – -Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể – Môi hồng, răng đều và trắng – Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao – Đi đứng, ngồi chững chạc, đoan trang – Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nói, ít cười 3 – Tướng người hung tợn Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau đây : – Miệng thô, môi lộ xỉ – Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít – Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể – Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang – Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm – Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông – Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn – Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều 4 – Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á đông là những kẻ có nét tướng sau : – Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, – Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao – Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp 5 – Tướng người cần kiệm Tóc den mướt, lông mày hình dạng vừa phả, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ….là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang tháo vát. 6 – Tướng người biếng nhác Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau : – Tóc nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau – Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít – Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu – Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ – Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi b ) Lãnh vực vận mạng 1 – Tướng người cao quý Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây – Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể. – Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt. – Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối có thể vững vàng, mang tai – Lông mày thanh nhã có thần khí. – Trán tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài. – Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều. – Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang – Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ. 2 – Tướng người phú túc Đàn bà có số no đủ thường có : khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài ( dán đài, đình uý rõ và cân xứng đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dày, bụng tròn, lưng nở, tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên. 3 – Tướng người khốn khổ Tướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây : – Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con – Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc – Mũi nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt – Môi quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô – Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm – Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông – Sơn căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu 4 – Tướng người có nhiều con Những bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường (còn gọi là Ngoa tàm), nhân trung, vú, mông, kế đó là hai mắt và hai tai. Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi, vú lớn và núm vú sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc : miệng đều đặn, môi có nhiều vằn, mông tương xứng với thân người. Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa con dầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt đầy hơn thì con đầu lòng là con gái. 1- Tướng người hiếm con hoặc không con Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể. Tại diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền mà không có mang tai thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới : nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ. Tai thân hình : vú gẫy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt : da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ. Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v… thì đó là tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,vú, Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái. 6 – Tướng đàn bà khắc chồng : Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnhvực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ. Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng – Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám . – Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). – Lông mày thưa vàng và ngắn . – Mày thô, mắt có sát khí – Hai mép miệng và và hai phát lệnh đều có nốt ruồi – Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu – Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên – Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe – Trán vuông, mày lớn cao và đậm – Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ – Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm – Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu – Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết – Mặt chè bè về chiều ngang ( phần Trung đình ) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống . – Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau – Trán có tật bẩm sinh ( vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu ) . – Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng – Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại ) – Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi – Tác có phù quang ( trơ trẽn không có sinh khí ), da trắng và khô mốc – Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu) – A án đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn . – Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu còn chân lông mày lớn ) – Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre – Xương che lỗ tai ( mạng môn cốt ) nổi cao. Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm hại chồng. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám ( tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết ) ở mang tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề. Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn gian làm mất lý trí. 7 -Tướng đàn bà vương phụ ích tử Đặc điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dú chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây – Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình, Ngũ nhạc và tứ đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy : – An đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh. – Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp. – Lòng bàn chân hoặc trong thân thể ( rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc son. – Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp. – Thường thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé ). Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau : Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng. – Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu. – Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai. Người đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).
Nguyên lý âm dương và ngũ hành ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA a ) Lược sử : Thuyết âm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung Hoa là kinh Dịch. Tuy vậy, kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truyền đến đời Khổng Tử. Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi. Theo truyền thuyết, người đầu tiên nhận thức được các lẽ âm dương biến hoá của Trời Đất, vạn vật là vua Phục Hy ( khoảng 44 thế kỷ trước Tây lịch ), người minh thị đề cập đến cái dụng của Ngũ hành là vua Hạ Vũ ( khoảng 22 thế kỷ trước Tây lịch ). Đến thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề ( nay là tỉnh Sơn Đông ) có học giả Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và công dụng của Âm dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn cả vào việc người nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người khai sáng ra phái Âm Dương. Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số do các học giả đời Tống sau này sáng lập. Đến đời Hán, học giả Dương Hùng ( 53 trước Tây lịch – 20 Tây lịch ) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh. Đến đời Tống sơ ( khoảng thế kỷ thứ 10 ) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia là Trần Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số học của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ trụ, lấy tượng số mà xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp dụng các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng học đế giải đoán tâm tình, vận số của con người , mở đầu cho Lý Số và Tướng số học. Từ đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật. b ) Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành Theo cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ ban thế cuả nó ra sao). Tuy nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vì song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất ( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật. Vì Âm Dương phối hợp, đun đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành thiên hình vạn trạng). Theo cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn : a ) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá b ) Hạnh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố c ) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng d ) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật Biến hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái quát như sau : “ Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh ra hai Nghi ( Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn Tượng (bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ) bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ) tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Nú, Nước, Đất ) tám Quẻ sinh ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ). Khởi đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản : a ) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương b ) Vạch gián đoạn ( – – ) tượng trưng cho Âm Trong phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây : 1 – Kiền tượng trưng cho Trời 2 – Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao 3 – Ly tượng trưng cho Lửa 4 – Chấn tượng trưng cho Sấm 5 – Tốn tượng trưng cho Gió 6 – Cấn tượng trưng cho Núi 7 – Khảm tượng trưng cho Nước 8 – Khôn tượng trưng cho Đất Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là “ Tiên thiên Bát quái “ do vua Phục Hy ( 4477 – 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 – 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù ( chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Tới đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc ngườ . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của kẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới có ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi. Đến đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 – 478 trước Tây lịch ) đem kiến giảu cảu mình bổ xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành. Căn cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây : Dương : Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn ông ….. Âm : Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm, đàn bà …. Kim : Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc Mộc : Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất Thủy : Nước và nói rộng ra là các chất lỏng Hỏa : Lửa, hơi ấm Thổ : Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại Về phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu …. Về phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự Kim, Mộc, Thủy, Hoả, ngoài tìm cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt. Trong tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ theo cả hai ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng. c ) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hoá sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích và gán ghép các đặc tính của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây : 1 – Phương hướng, màu sắc, bốn mùa a ) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt đất về Mùa Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở phương đông. Tất cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với Dương lấn lướt Âm một cách tương đối trong cái trung dung của Âm Dương ( Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới sinh ). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông. b ) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam Mùa hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc trưng của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và phương Nam vậy. c ) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây Mùa Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá, không lạnh lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt trời lặn ở phương Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ, nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu trắng và phương Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim. d ) Thủy tiêu biểu cho mùa Đông , màu đen , phương Bắc Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, giá buốt, cảnh vật ảm đạm, cửa nẻo đóng kín, tối tăm. Tuyết là một trạng thái của nước, phương Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình, chuyển ý, cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy để tượng trưng cho mùa Đông, màu Đen, phương Bắc. e ) Thổ tiêu biểu cho Đất , màu Vàng , Trung ương Người Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng ( hoàng thổ ) nên dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát, tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là Trung quốc nên màu vàng, vàng là màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà vạn vật ( Sông núi, muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ). 2 – Năm đức tính căn bản của con người Trên bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với kẻ bại hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa vào ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường người ta đã đi đến chỗ Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín . a ) Nhân ứng với Mộc : Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không cạnh tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động cạnh tranh, loài tùng bách quanh năm xanh tươ , bất chấp gió sương, nóng lạnh, tượng trưng cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để người che mưa tránh nắng, không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được. Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân của bậc thức giả nên Mộc được coi là biểu tượng của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói “ Nhân giả nhạo sơn ( Bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật. b ) Nghĩa ứng với Kim : Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn, khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng vậy, phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa. c ) Lễ ứng với Hỏa : Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép, tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành, Tế tự là một hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong những cái ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng ( về phương diện ý nghĩa triết học ) của Hoả và Lễ tương đồng, nên Lễ ứng với Hoả. d ) Trí ứng với Thủy : Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước không đâu là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách đầy biểu tượng “ Trí giả nhao Thủy ( Bậc trí giả thích nước ). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí. e) Tín ứng với Thổ : Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cây cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo vật, không bao giờ sai chạy. Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tướng đồng. 3 – Năm cung bậc trong âm nhạc a ) Cung ( âm thấp nhất ) ứng với Thổ b ) Thương ứng với Kim c ) Giốc ứng với Mộc d ) Chủy ứng với Hỏa e ) Vũ ứng với Thủy ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC Âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Âm, cứng là Dương, mềm là Âm …….Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm Dương. Đàn ông được xem là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái lược. Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Âm và Dương nữa. Toàn thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại là Âm nên mới có danh là âm hộ. Xương được coi là Dương, thịt được coi là Âm Phía mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm Phía trên của khuôn mặt ( kể từ chính giữa thần mũi ) thuộc Dương, phía dưới thuộc Âm. Phần thân trước là Dương, phần thân sau là Âm Trong khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương, mắt phải là Âm Những phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm. Dương thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an hoà, Âm cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại. Âm Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về phúc thọ. Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên ( chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn cỗi ) thì gọi là Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy ( thịt nhiều mà bệu, xương lại nhỏ và yếu, không cân xứng ) hoặc Dương cường Âm nhược ( cốt lộ, thịt ít ) đều là các tướng phản lại nguyên tắc Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất tường. Nói một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người ( hình tướng, tính cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lý Âm Dương chi phối. Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà vốn thuộc Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông chỉ có thể Dương thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần thiết, đàn bà chỉ có Âm nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không tự tiến triển được. Tuy nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng Âm không được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là Dương sai. Âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm ( vốn là phần căn bản ) thì trường hợp đó mệnh danh là Âm thác. Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong con người. Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý Âm Dương thích nghi. Nói khác đi, không được phạm vào Âm thác hoặc Dương sai. a ) Dương hoà Tính cách Dương mạnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà, Dương hoà bao gồm : – Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng – Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức, trán có xương tròn nổi lên rất rõ – Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu, Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán đường – Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực, lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù lông mày gập cong lại như hình chữ, chứ không cong như chữ ) – Sợi lông mày hơi hướng về phía trên – Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần – Sắc diện hoà ái, chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên – Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện, tư tưởng khoáng đạt, lâm sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh, đi đứng thung dung . b ) Âm thuận Tính cách Âm rất rõ ràng nhưng không quá ủy mị hèn yếu thì gọi là Âm thuận. Được coi là Âm thuận khi : – Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẫn không xoá hẳn được những nét tròn trịa – Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó ) – Sơn căn mạnh mẽ có thế. Aán đướng bằng phẳng, rộng – Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài ( không được quá dài ) – Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo – Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng không nhanh nhưng không quá trễ hoặc lỳ lợm – Sắc diện hoà nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cả – Xử sự ôn hoà c ) Kháng Dương Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương. Các chỉ dấu của Kháng Dương bao gồm : – Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn – Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục – Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn, nhỏ – Lông mày ngắn mà cong vòng hoặc ngắn mà thế của mày lại hướng lên – Mắt lồi và tia mắt long lanh – Tai nhọn và dựng đứng – Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè – Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ xuất, không nghĩ trước, không lo sau khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ . d ) Cô Âm Chỉ có những cách Âm thuần túy mà không có Dương tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Âm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau đây : – Toàn thể đầu và khuôn mặt đều chỉ có hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ không tương xứng – Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống – Mắt sâu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm mà ngắn – Râu ria quá râm rạp, không thích nghi với tóc – Tiếng nói như có vẻ khò khè ở cuống họng, điệu nói chậm rãi mà trong đó lại xen kẽ âm thanh chói tai hoặc thanh mà đứt đoạn – Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài thoáng thấyđã nhận ra ngay là con người ác hiểm. e ) Âm thác, Dương sai Bản chất căn bản là Âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương tính khiến phần Âm trở thành thứ yếu thì gọi là Âm thác. Ngược lạ , bản chất căn bản là Dương mà Dương tính quá yếu khiến Âm chất lấn át rõ rệt thì gọi là Dương sai. Dưới đây là các dấu hiệu bề ngoài cảu các hiện tượng trên – Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Âm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy ( ót ) thuộc Âm cho nên đầu lớn mặt nhỏ, phía trước lớn mà phía sau nhỏ thì gọi là Dương sai – Đầu vuông thuộc Âm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch thì gọi là Âm thác – Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc Âm . Do đó, nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở, cao ráo mà Trung nhạc lại trũng xuống thì gọi là Dương sa . Trái lạ , bốn Nhạc phụ tuỳ đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung nhạc nổi cao một mình thì gọi là Âm thác – Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương sai – Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lam xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp, Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ……đều được mệnh danh là Âm thác – Mặt tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương sa . Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng cỏi như nam giới thì gọi là Âm thác Tóm lại, vấn đề Âm thác, Dương sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương sai, Âm thác như sau : 1 – Đàn ông được gọi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể về phương diện gì : đi, đứng, ăn, nói …..) khá rõ thì gọi là Chính Dương sai 2 – Đàn bà được coi là thuần Âm nếu, pha trộn nam tính ( dù về phương diện gì cũng vậy ) quá lộ liễu thì gọi là Chính Âm thác Từ hai nguyên tắc căn bản trên, ta đi đến bốn hệ luận : a ) Bất kể nam, nữ đều lấy đầu, âm thanh, cốt cách tượng trưng cho Dương chất. Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách trầm ổn, vững chãi, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì dầu thân hình lớn hay nhỏ đều không đáng kể gì tới vì đó là hung tướng, tượng trưng cho Dương sai. b ) Bất kể nam nữ, đếu lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương, cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu thô bỉ, râu tóc và lông mày thích nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm, râu ria và lông mày quá đậm là hung tướng vì đó bị gọi là Âm thác c ) Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp, xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nể tiểu tiết, không biết quyền biến, đó là Dương không khống chế được Âm nên gọi là Dương sai d ) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn, khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần thiết thì đó là Âm không kiềm chế được Dương nên gọi là âm thác
Tương quan giữa sắc và con người a ) Về mặt kiện khang 1 – Nguyên tắc quan sát Quan sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần chú ý đến hai điều cấm kỵ sau đây, được gọi là ngũ kỵ và ngũ tuyệt NGŨ KỴ – Kỵ môi xám mà lưỡi đen – Kỵ yết hầu nổi màu đen hoặc đỏ mà ngày thường khoẻ mạnh hay khi mới bị bệnh chưa thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu – Kỵ sắc đen xạm hiện ra ở thiên thương và Địa các – Kỵ khoé miệng có màu vàng nghệ – Kỵ lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn Lúc chưa bị bệnh, gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó tránh bị mắc bệnh. Nếu đã bị bệnh mà phạm vào một hay nhiều điều cấm kỵ trên thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu phạm vào cả năm điều trên thì xác suất càng cao hơn nữa. NGŨ TUYỆT Trong lúc bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong mau lành, sắc càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả Ngũ tạng đều kiệt lực. – Tâm tuyệt : Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy tuần hoàn sắp ngưng hoạt động – Can tuyệt : Bệnh nhân cứng miệng há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong mắt nốt ruồi sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt – Tỳ tuyệt : Môi xám xanh mà thu hẹp lại , sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu cho biết khí ở tỳ vị sắp tuyệt – Phế tuyệt : Mũi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn – Thận tuyệt : Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳn nướu răng đổ máu và răng khô là được khí ở thận đã dứt. 2 – Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh Dưới đây là lược huật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết được căn nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của bệnh. Bệnh ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, Sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen. Bệnh ở gan: Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm Bệnh ở khu vực tỳ vị: Sắc mặt ( Bao gồm tất cả mọi bộ vị ) xanh pha vàng thuộc loại tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệnh ăn uống kém Bệnh ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xạm đen và khô cằn, lúc nóng, lúc lạnh thất thường Bệnh ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường, mục quang hôn ám Chứng khật khùng: Mắt lồi, trong mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết trong lịch sử Việt Nam cuối thể kỷ 19 Chứng thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gầy và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm Chứng hoại huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô ( mà bản chất không phải là loại Hoả hình ) tóc rụng nhiều Chứng thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mặt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận suy yếu và hiện ra các khí sắc kể trên tại các bộ vị dẫn thượng Dấu hiệu bệnh nặng, nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo: Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà nhãn quang thanh thản, linh hoạt, còn ngươi đen láy, có thần khí, chắc chắn không có gì nguy hiểm đến tính mạng Triệu chứng sắp chết: Hai tai, miệng ( kể cả khu vực xung quanh ) đều xám đen và khô, hai mắt đờ đẫn, nhãn cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở Dấu hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra xung quanh, Chuẩn đầu ám đen và khô b ) Về mặt mạng vận 1 – Các trạng thái biến thiên của thời vận Trạng thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí cực thịnh gồm có – Mạng môn ( An đường ) chuẩn đầu đều màu hồng – An đường sáng sủa – Chuẩn đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng – Râu, lông mày tươi đẹp, có thần Có một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời cực vận cực thịnh. Làm quan sẽ thăng tiến, đi buôn sẽ thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự a ) Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài : Biểu hiện bề ngoài của loại vận khí này là: – Nhãn thần sung túc sáng sủa –Nhãn thần sung túc sáng sủa -Hai tụng lưỡng quyền Aán đường, chuẩn đầu, quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào hoặc mịn màng – Hai tụng lưỡng quyền An đường, chuẩn đầu, quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào hoặc mịn màng Có những dấu hiệu trên thì diện mạo, bộ vị đôi lúc bị hôn ám bề ngoài nhưng ẩn hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị khác trên mặt không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt. Người có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện làm điều gì cũng có lợi. b ) Trạng thái thời vận bắt đầu tu: Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu báo trước tài lộc sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. Ví dụ khi gặp các trạng thái sau : – Sắc mặt hôn ám, nhưng gián đài, đình úy sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt phương lẫn màu màu tía lạt. – Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng trắng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp. Trong trường hợp này, bất kể là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khí sắc thì chắc chắn tốt sắp phát hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai. c ) Trạng thái thời vận sắp biến chuyển từ xấu tới xa ra tốt: Nói cho đúng, đây là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó khăn nhưng rốt cuộc vẫn lướt qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là: – Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa – Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tươi mịn – Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn màu vàng lạt (hoặc hồng) tươi mịn Người có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đây, thất bại lại trở nên thành công, thất y trở thành đắc ý. d ) Trạng thái thời vận bắt đầu xấu: Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông hôn ám không ra hẳn hôn ám, hoặc câm có râu trắng hiện ra, hoặc câm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện ra màu hồng đâm thuần tuý không có màu vàng lạt đi kèm. Gặp trạng thái trên, nên cố giữ mức độ bình thường hoặc bảo trì hiện tại, tuyệt đối không nên vọng động vì càng vọng động thì càng đi đến hậu quả xấu hơn. đ ) Trạng thái thời vận sắp tàn lụi: Trạng thái này là giai đoạn kế tiếp của trạng thái kể trên, dấu hiệu bề ngoài có thể nhận thấy là : – Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái tạp loạn, không toàn vẹn – Mặt sáng nhưng hai tai và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu – Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch không có vẻ chân khí ẩn tàng. Đây là trạng thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí – Gặp loại khí sắc đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường không nên vong động, cố cưỡng lại chỉ nghĩ đến thất bại vô ích. e ) Trạng thái thời vận xấu: – Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn ám – Da mặt đen xạm khô khan – Khí sắc biến đổi thất thường ( hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày ) không phải vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện Đây là trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự, cầu danh trong giai đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện. 2 – Sắc và vận mạng qua thời gian a ) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA Mùa xuân : Ba tháng mùa xuân thuộc Mộc, sắc xanh, muốn coi vận mạng của con người ( Đây chỉ nói về đàn ông ) thì coi xương quyền bên trái. – Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thì trước lo lắng sau vui vẻ – Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh ( Mộc sinh Hỏa ) chủ về sự trước có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ý thỏa lòng – Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc ( Kim khắc Mộ ) chủ về tụng ngục, hoặc tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm – Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc (Mộc khắc Thổ ) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hoặc chết, nếu lưu niên vận hạn năm đó, mùa đó cũng là Quyền trái. Ngoài ra , trong ba tháng mùa xuân mà thấy : – Mũi có màu đỏ tươi : Thân mình bị tai nạn cây gẫy hoặc người nhà bị thương tích , đổ máu vì cây gẫy – Sơn căn có sắc ám đen chủ anh em gặp tai nạn, hoặc gia súc thất lạc – Khí sắc ám đen mà ăn lan cả lên Aán đường chủ về văn chương trì trệ – Khí sắc ám đen cả khu vực mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nhà có tang sự hoặc chết hụt – Mắt trái sắc xám xanh: Con trai bị tai ách, nếu là mắt phải chủ về tai ách của con gái – Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn, chủ về con trai lại có tin vui: vợ có mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái – Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen mà lại không được sáng sủa thì đó là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hiểm đến tính mạng thai nhi lẫn sản phụ – Nếu trong ba tháng mùa xuân mà bỗng nhiên môi trên từ sắc thái bình thường chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước về bệnh ruột – Nói chung, nếu mũi từ chuẩn đầu đến Aán đường) và trán về ba tháng mùa xuân có sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng từ 27 đến 47 nagỳ sẽ có tin lành đưa tới (hoặc là tiền bạc, nhà cửa, con cái …) Mùa hạ : Ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa, sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ ( biến thái là màu tía màu hồng ). Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng hè là trán – Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách, chủ về sự có lôi thôi khẩu thiệt, nhưng sau đó lại trở thành tốt lành. Tướng pháp gọi đó là tỷ hòa ( Hoả gặp hoả ) – Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ Mộc sinh Hỏa ) thì trước xấu sau tốt – Trán mà ba tháng hè có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi, dễ bị bệnh hoạn – Sắc tía hiện rõ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước cò nhiều sự bất trắc về quan tụng, đồ vật – Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày, pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an – Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm tật bệnh về khí huyết – Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật thất tán – An đường xanh vàng : Cầu công danh sẽ thất bại. Nếu có sắc đen pha tía lẫn lộn thì coi chừng xe cộ, sông nước – Dưới hai mắt có màu xanh vàng : Trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc đỏ là lôi thôi quan tụng, sắc vàng là tin vui – Đầu lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu – Trái lại, nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành, làm việc gì cũng đạt sở nguyện Tuy nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốn mùa cần phải xét xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh tướng khắc vào Ngũ hình để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này, sự đoán định mất hết giá trị, đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại. b ) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG *Tháng Giêng : ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần , trên Pháp lệnh phải ) tháng giêng thì diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng, điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt, chủ về vận khí đang lên. *Tháng hai : Trong tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt, vận khí hạnh thông. Xem khí sắc tháng hai phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa tai phải ). *Tháng ba : Bộ vị chủ yếu tại cung Thìn, nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối chân mày phải tới đầu tai bên phải ). Màu vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng màu sắc cần phải lạt. Thiên thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc trắng là tang chế, xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách. *Tháng tư : Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ phía trên mày phải tới mép tóc phải ). Màu tốt nhất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp, khí sắc trì trệ là bất tường Các màu khác đều khắc tỵ : màu đen chủ về chết chóc, xanh chủ về hình phạt, vàng chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay. *Tháng năm : Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên trán ) Màu đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt. Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý, thất là màu xanh. *Tháng sáu : Khí vận tu ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác ) Sắc chính trong tháng này là cung Mùi phải có màu vàng pha tía. Nếu có sắc xanh xạm hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hay gặp tai ách. *Tháng bảy : Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương ). Sắc chính là tốt là sắc vàng và trắng. Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm. Nếu sắc chính là trắng pha chút màu vàng hoặc tía chủ đại cát. *Tháng tám : Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu Khí sắc chính là ít vàng nhiều tía, không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt. Trong khoảng tháng tám, chẳng kỵ sắc hồng và đó ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ bộ vị nào nữa. *Tháng chín : Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất. Khí sắc chính là màu và hồng, kỵ màu đỏ, xanh, đen. Màu đen trong thời gian này chỉ tai họa. Màu vàng cần hiện ở ngoài, màu hồng thì mới tốt, ngược lại là xấu. *Tháng mười : Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi Màu trắng: chủ về tài lộc với điều kiện sáng sủa Màu đỏ: tai ách Màu vàng: bệnh tật Màu xanh: không may mắn về cầu công danh sự nghiệp *Tháng mười một : Khí vận coi tại cung Tý Màu sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười. Có màu xanh hoặc đen thuần túy sáng sủa là trung bình, tối kỵ màu hồng, màu đỏ dù là từng nảng hay từng chấm nhỏ cũng vậy *Tháng chạp : Khí vận tháng chạp coi tại cung Sửu (từ mép miệng phải chạy ngang má và chạy dọc xuống hạ đình) Màu sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh, màu vàng. Điều đáng chú ý nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngừng trệ bở sự xuất hiện bất chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung Sửu. Tuy nhiên vì hạn chung Tý, Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ mảu sắc giao liên của chúng. Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp cách. Tóm lại, khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu, cần phải nhớ các nguyên tắc căn bản sau đây : a ) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng, khí sắc mỗi tháng cũng biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có 2 tiết, mỗi năm 24 tiết ) : – Từ mồng 1 đến 15 mỗi tháng: Khí sắc tươi nhuận và rõ rệt – Từ 15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần b ) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển. Buổi sáng mới thức dậy: khí sắc trong sáng, buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh. c ) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng, hay hàng năm mà thôi. Khí sắc hàm dưỡng, hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh thần. Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG I – Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG Trong tướng học Á Đông, từ ngữ sắc bao trùm nhiều lãnh vực: a ) Màu da của từng cá nhân Tướng học Á Đông là kết quả tích luỹ các kinh nghiệm thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp dụng được cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể tầm vóc tương tự như người Trung Hoa và cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tập quán và văn hoá Trung Hoa như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam mà thôi. Nói chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà, sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong truyện cổ của người Trung Hoa. Về vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng. b ) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau : – Màu hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai – Màu đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày – Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen ) – Màu đỏ của các tia màu mắt …. c ) Sự đậm lạt của từng loại màu Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh, trắng ngà. Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được. d ) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần Cùng một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa. Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành. Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc. Sau hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về thành phần cấu tạo ( đối với các loại màu phức tạp ) qua thời gian. Chẳng màu da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám: tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ; cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì. Tóm lạ , khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.
II – CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Nói đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc: – màu đỏ – màu xanh – màu vàng – màu hồng – màu trắng – màu tía – màu đen Ba màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng. Màu xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại người hình Mộc. Màu trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản của người hình Kim. Màu đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người hình Thủy. Sau cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ. a ) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người Theo sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt như sau: – Màu xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã – Màu đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai – Màu đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc – Màu trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh – Màu hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn ngoài ý liệu – Màu vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói “ vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc”. Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hoac do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận. Nói tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó – Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắca nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó – Tính cách thanh trọc của sắc – Hư sắc hay thực sắc – Bộ vị xuất hiện – Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình tướng ) – Phối hợp hay không phối hợp với màu – Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt – Đơn thuần hay tạp sắc … Chẳng hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài. Màu đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác. b ) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung. Ngoài các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là : 1 – Hư sắc và thực sắc Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí. Trái lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo. Trong tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể. 2 – Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc Bất cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong ba trạng thái trên. *Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt. *Trệ sắc : Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt). Trong tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu. Như danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát -Kim trệ : Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điem báo trước vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải. Mộc trễ : Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa . Thuỷ trệ : Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi. -Hỏa trệ : Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc. -Thổ trệ : Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành. *Hoại sắc : Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương khắc. 11. Bí ẩn lòng bàn tay Bí ẩn lòng bàn tay BÀN TAY LÀ GÌ ? 1 – Bàn tay giúp sự nhận xét bịnh tật . 2 – Bàn tay giúp sự xét đoán tâm lý cá nhân. 3 – Bàn tay giúp sự tiên đoán những điều nguy hại, cũng như thuận lợi cho người . Hai bàn tay mặt và trái được chia thành 2 địa hạt rõ rệt: tinh thần hay thiên định được ghi ở bàn tay trái; vật chất hay nhân lực được ghi trong bàn tay mặt . Sự mâu thuẫn giữa bàn tay nam và nữ được chứng minh qua những nguyên nhân sau: 1 – Khuôn khổ: với 1 mẫu bàn tay, chẳng hạn như vuông, dài, tròn, bầu, nhọn, mũi viết … giá trị sẽ khác nhau nếu không nói là trái ngược nhau giữa bàn tay nam và nữ . Thí dụ: 1 bàn tay mũi viết ở người bạn gái, đó là hình thức bàn tay gặp nhiều may mắn trong bất cứ trường hợp nào: tiền, tình, cũng như danh vọng . Ngược lại cũng bàn tay mũi viết ấy ở người bạn trai, giá trị lại như sau: giàu tưởng tượng, thiếu thức tế, do dự, đôi khi trở thành khiếp nhược, bỏ lỡ cơ hội vì nữ tánh của mình . 2 – Hình thức: 1 bàn tay mập và dày Ở người bạn trai sẽ nói lên sự may mắn và thành công về phương diện vật chất, sự nghiệp . Ở người bạn gái, nhiều dâm tính, lúc nào cũng tìm cách thoả màn nhục dục, do đó có thể là bàn tay của người bạn sa đoạ . 3 – Màu sắc: màu trắng Ở bàn tay người nữ là bàn tay thắng lợi về mọi phương diện . Ở bạn trai thì ít được may mắn, đó là mẫu bàn tay của người háo ăn, ham chưng diện, thích xa hoa, nhưng kém bình tĩnh và thản nhiên trước sự khốn khổ của người khác . NHỮNG NÉT ĐẠI CƯƠNG TRONG BÀN TAY Lưu ý: một đường chỉ, một ấn tượng trong bàn tay không đáng kể, mà trọn bàn tay mới đáng kể . Đường Chánh: Có 6 đường chánh trong bàn tay, không luận nam nữ 1 – Đường Sanh Đạo: bắt nguồn từ khoảng giữa 2 ngón cái và ngón trỏ, bọc vòng theo thân dưới ngón cái chạy như 1 hình vòng cung xuống cườm tay. 2 – Đường Trí Đạo: bắt nguồn từ 1 chỗ với đường Sanh Đạo, hoặc dính liền với đường này, hoặc phát nguồn rời ra và chảy về rìa bàn tay hoặc lên trên hoặc xuống dưới, nghĩa là đổ vào các gò nằm cận rìa bàn tay. 3 – Đường Tâm Đạo: phát nguồn từ rìa bàn tay, dưới ngón út chảy vào lòng bàn tay hoặc chấm dứt thật xa dưới ngón trỏ, hoặc chấm dứt lưng chừng dưới ngón giữa, dưới ngón áp út . Cũng có những đường Tâm Đạo quá ngắn, vừa phát ra là chấm dứt ngay tại thân dưới ngón út . Đây là 1 điểm cần đặc biệt để ý, vì rất dễ nhận định lầm với đường Hôn Nhân. 4 – Đường Định Mạng: nằm giữa ở thân giữa lòng bàn tay, phát nguồn từ cườm tay, hoặc ở lưng chừng khoảng trên cườm tay, hoặc ở lưng chừng khoảng trên cườm tay chảy đứng lên và chấm dứt ở nhiều nơi, thường thì đường này hay chấm dứt ở nhiều nơi, thường thì đường này hay chấm dứt chỗ đụng nhằm đường Trí Đạo, dài hơn 1 chút là chấm dứt chỗ đụng nhằm đường Tâm Đạo . 5 – Đường Thái Dương: phát nguồn từ lưng chừng bàn tay, gần như không bao giờ ở thân dưới bàn tay, mà từ giữa lòng bàn tay trở lên và chảy vào thân dưới ngón áp út, tức là gò Thái Dương. 1- Đường Trực Giác: luôn luôn nằm ở rìa bàn tay và phát nguồn trong gò Thái Âm thành hình vòng cung, bề cong ở phía lòng bàn tay, chảy lên gò Thủy Tinh tức gò nằm dưới ngón út và chấm dứt nơi đây. Đường Phụ: 1 – Vòng Kim Tinh: là 1 đường cong, nằm vắt ngang dưới 2 ngón giữa và áp út, hoặc dài hơn từ cạnh ngón trỏ đến thân dưới ngón út . Đường cong này có nhiều hình thức: cong như vòng cung, cong 1 đầu, thẳng 1 đầu hoặc 1 đường cong dài và 1 đường cong ngắn đi cặp ở khoảng đầu hay ở khoảng cuối . Cũng có những vòng Kim Tinh gần như ngay và bị cắt đứt nhiều khoảng, hoặc gồm những chỉ tay nhỏ vấn vào nhau như sợi nhợ se lại . Chiều cong của vòng Kim Tinh luôn nằm về phía dưới, gần như hình 1 lưỡi liềm, có 2 đầu vấn vào nhau như sợi nhợ se lại 2 Đường Xà Ngang (đường Xuyên): là những đường nhỏ, đa số là ngắn và thường phát nguồn từ gò Kim Tinh xuyên ngang đường Sanh Đạo, qua đường Trí Đạo . Vượt thẳng thêm lên đường Tâm Đạo, đường xuyên được xem là dài . Đường Sà luôn co 1 chiều cong ở thân dưới, chiều này luôn luôn hướng về phía ngón cái, đầu phát nguồn từ gò Kim Tinh hay đồng Hoả Tinh. 1- Đường Hôn Nhân: là những đường nhỏ, luôn luôn là ngắn, dài nhất trong đường Hôn Nhân là 1 đường chấm đến khu vực giao liên giữa 2 ngón út và áp út . Đường Hôn Nhân luôn luôn đóng thân trên đường Tâm Đạo, và phát nguồn từ rìa bàn tay, hoặc nhiều, hoặc ít, tối đa là 5. Có 3 hình thức: thẳng, cong về phía trên hoặc công xuống phía dưới . Một hình thức đặc biệt là chỗ cuối đường Hôn Nhân rẽ làm 2 (chỉ xuất hiện ở bàn tay nữ, rất ít ở bàn tay nam). 4 – Đường Hoả Tinh: luôn luôn nằm trong khu vực gò Hoả Tinh và không bao giờ vượt ra ngoài gò này . Phát nguồn từ rìa bàn tay và luôn luôn ngắn nhưng ngay thẳng, ít thấy cong. 5 – Đường Du Lịch: xuất hiện trong gò Thái Âm, vượt vào đồng Hoả Tinh và phát nguồn từ rìa bàn tay . Đường Du Lịch có thể nhiều, đôi khi chỉ có 1 và là đường dài hơn hết trong 2 đường Hông Nhân và Hoả Tinh. 6 – Đường Thủy Tinh (Sinh Lực): phát nguồn từ gò Thái Âm, nơi giáp giới giữa gò này và gò Kim Tinh hoặc trong đồng Hoả Tinh . Nằm nghiêng theo rìa bàn tay và lúc nào cũng chảy lên gò Thủy Tinh, ngắn nhứt cũng vừa chấm vào địa phận gò này . 7 – Sau đường Thủy Tinh là ngấn cườm tay. Đó là những đường nằm vắt ngang thân dưới lòng bàn tay, trong khu vực cườm tay. Nó có thể vượt lên khỏi cườm tay và đôi khi cũng rời khỏi bàn tay, lệch về phía dưới . Ngấn cườm tay ít nhất là 1, nhiều nhất là 3, cũng còn gọi là vòng Kỳ Diệu . 8 – Vòng Mộc Tinh: nằm vắt ngang dưới khu vực từ ngón trỏ qua ngón giữa . 9 – Vòng Thủy Tinh: nằm vắt ngang dưới khu vực từ ngón út qua ngón áp út . 10 – Đường Tử Tức: là những đường tí ti nằm lí nhí đứng trên đường Hôn Nhân. Những đường này có thể đóng cao trong khu vực lóng thứ 3 của ngón út . (Là đường duy nhất có giá trị trong bàn tay bạn gái mà vô nghĩ trong bàn tay bạn trai) Các Gò: 1 – Gò Kim Tinh: nằm trọn ở thân dưới ngón cái, và có đường Sanh Đạo bọc vòng theo . 2 – Gò Mộc Tinh: chiếm dưới thân ngón trỏ, dính liền với gò Thổ Tinh và giao tiếp với đồng Hoả Tinh. 3 – Gò Hoả Tinh Âm: là 1 khoảng cách rất nhỏ nằm ở gữa 2 gò Kim Tinh và Mộc Tinh. 4 – Gò Thổ Tinh: nằm dưới ngón giữa, giao tiếp với gò Mộc Tinh và dính liền với gò kế cận ngón áp út 5 – Gò (đồng) Hoả Tinh: nằm ở thân dưới gò Thổ Tinh. 6 – Gò Thái Dương: nói theo Gò Thổ Tinh, chiệm trọn thân dưới ngón út . 7 – Gò Hoả Tinh Dương: dọc theo rìa bàn tay, nằm ở lưng chừng . 8 – Gò Thái Âm: tiếp với cườm tay và gò Kim Tinh. Các ngón và khu vực khác: Trong bàn tay, ngoại trừ ngón cái được xem là ngón tượng trưng cho cá tánh của người, hay là ngón chỉ huy, các ngón khác đều có 1 tên của nó chiếu theo ảnh hưởng của hành tinh. – Ngón trỏ là ngón Mộc Tinh. – Ngón giữa là ngón Thổ Tinh. – Ngón áp út là ngón Thái Dương. – Ngón út là ngón Thủy Tinh. – Thân dưới ngón út chạy dọc đến cườm tay gọi là rìa bàn tay. – Khu vực nằm giữa 2 đường Tâm Đạo và Trí Đạo gọi là Hình Bốn Góc . – Khu vực nằm trong khoảng giao nhau giữa những đường Sanh Đạo, Trí Đạo và Trực Giác gọi là hình Tam Giác Lớn . – Góc tiếp giáp của 2 đường Sanh Đạo và Trí Đạo là góc Tối Cao. – Góc tiếp giáp của 2 đường Trí Đạo và Trực Giác gọi là góc Trung Gian hay Góc Trái . Góc còn lại nơi tiếp giáp giữa 2 đường SAnh Đạo và Trực Giác là Góc Hạ hay Góc Nội, hoặc Góc Mặt . – Khu vực nằm trong khoảng giao nhau giữa những đường Trí Đạo, Định Mạng và Trực Giác gọi là hình tam giác nhỏ . Trước hơn hết, chúng ta tìm hiểu về ni tấc của 1 bàn tay trung bình . Bàn tay gồm 2 mặt: – Mặt ngoài gọi là lưng bàn tay mà thông thường kêu là mu . – Mặt trong gọi là mặt bàn tay, hay gan bày tay cũng thế Lưng bàn tay không có gì đáng nói, ngoại trừ hình thức và màu sắc, vì thế trong việc tìm hiểu ni tấc lưng bàn tay không được đề cập đến Mặt bàn tay hay gan bàn tay được chia thành 2 phần rõ rệt không đồng nhau: 1- Lòng bàn tay được ghi nhận từ ngấn cườm tay đến chân ngón giữa . 2- Các ngón gồm mỗi ngón 3 lóng: lóng thứ 1, lòng nhì, lóng 3; hay lóng có móng, lóng giữa và lóng chót . Chiều dài của 1 lòng bàn tay trung bình được xác nhận là non 3/5 của chiều dài bàn tay . Trong lúc đó, chiều dài ngón giữa cũng được xác nhận là già 2/5 của chiều dài bàn tay . Chiều ngang bàn tay trung bình, như chúng ta đã biết về thể thức tìm chiều ngang, được đo từ đầu đường sanh đạo qua rìa bàn tay, sẽ già hơn chiều dài ngón giữa 1 chút Về chiều dài các ngón trong bàn tay trung bình, chúng ta được biết: – Ngón trỏ trung bình sẽ chấm dứt tại 1/3 đầu lóng có móng của ngón giữa . – Ngón út trung bình sẽ chấm dứt ở giữa lóng giữa của ngón giữa và ngang với mắt phân chia lóng có móng tay và lóng giữa của ngón áp út . – Ngón cái trung bình sẽ chấm dứt ở giữa lóng chót của ngón trỏ . – Chiều dài các lóng đối với ngón tay, được xác nhận như sau, bất cứ ngón nào đều như nhau: + Lóng có móng, 2.5 phần 10 của ngón tay . + Lóng giữa, 3.5 phần 10 ngón tay . + Lóng chót, 4 phần 10 của ngón tay . Về ni tấc của bàn tay, chúng ta được biết cùng 2 bàn tay của 1 người, ni tấc không bao giờ đồng nhau, mà bàn tay mặt luôn luôn trội hơn bàn tay trái, dù nam hay nữ . Chúng ta cũng được biết về phương diện phân tách bàn tay, bàn tay mặt được xem như sở đắc hay kiến thức của người hay nói cách khác, là khả năng tiến thủ của người . Bàn tay trái được xem như bẩm sinh hay thiên phú cũng thế, A – HÌNH THỨC BÀN TAY Các nhà giải phẫu bàn tay đều đồng ý, đối với người bạn gái, bàn tay được phân định thành 4 loại rõ ràng như sau: 1 – Người trầm mặc – Bàn tay dày, mềm, ướt và lạnh . – Da trắng, thỉnh thoảng có những chấm hồng – Lòng bàn tay rộng và mập, no đủ ở phần rìa bàn tay, nghĩa là thân dưới ngón út, khu vực từ gò Thủy Tinh đến hết gò Thái Âm – Ngón trắng và tròn trịa – Ngón rộng, mềm và nhạt . – Hình thức chung: hình trái lê . 2 – Người hoạt động – Bàn tay dày, săn, ướt và nóng – Da màu, có lông, nhứt là theo rìa bàn tay . – Lòng bàn tay rộng, nhiều thịt, gò Kim Tinh cũng như thân dưới ngón cái ở mu bàn tay đều dày và săn . – Ngón ngắn và búp măng – Móng cứng và hồng, phao có vết lưỡi liềm . – Hình thức chung: tròn, hột xoài hoặc lục giác . 3 – Người có óc thực hiện – Bàn tay săn, cứng, khô và nóng . – Da sạm, nám . – Lòng bàn tay ốm, gân guốc . – Ngón khá dài, mạnh, cứng, đầu vuông . Ngón cái, trỏ và giữa dài . – Móng chữ nhật và sậm . – Hình thức chung: chữ nhật . 4 – Người suy tư – Bàn tay dài, mỏng, lạnh và khô – Da xám và muớt . – Lòng hẹp và xương . – Ngón dài, ốm, có mắt . Ngón út và áp út dài . – Móng dài, hẹp và ửng . – Hình thức chung: tam giác Ngoài ra chúng ta còn có dịp để 2 sắc thái rõ rệt về bàn tay: 1- Hoàn toàn nữ tính: tròn, hình nón, láng, lòng rộng, ngón hẹp, màu sắc lúc nào cũng có cảm giác như mơn mởn . 2- Hoàn toàn nam tính: đẹp, vuông, gân guốc, ngón rộng, nhiều lông . B – THÀNH PHẦN BÀN TAY LÒNG BÀN TAY Lòng bàn tay diễn tả đời sống vật chất, khả năng tình cảm và sinh hoạt sinh lý của mỗi người . Khi lòng bàn tay và các ngón có chiều dài bằng nhau, người sẽ quân bình cá tánh . Khi lòng bàn tay trội hơn, vật chất sẽ quân bình cá tánh . Khi lòng bàn tay trội hơn, vật chất sẽ lãnh phần ưu thế . Khi các ngón dài hơn, tinh thần sẽ ngự trị . Lòng bàn tay được chia thành 3 khu vực: – Khu vực rìa bàn tay biểu dương vật chất, tiêu cực . – Khu vực phía trong ngón cái, biểu dương sinh lực . – Khu vực bàn tay dưới ngón cái, biểu dương ý chí, khả năng . CÁC NGÓN TAY Các ngón tay diễn tả đời sống giao dịch, khả năng trí thức và sinh hoạt tinh thần của mỗi người . Ngón cái và ngón trỏ biểu dương sự hoạt động của trí nào . Ngón áp út và út nói lên sự thụ hưởng của não óc . Bàn tay sè (các ngón căng thẳng ra) chỉ định giá trị của người về tinh thần . Bàn tay sè thật rộng, người sẽ có 1 kiến thức rộng rãi, thông minh, xét đoán và mau lẹ . Khoảng cách giữa các ngón cũng nói lên giá trị đặc biệt, tùy theo khoảng rộng hay hẹp khi các ngón sè thẳng ra . Đó là sự tiêu pha về mọi phương diện . – Khoảng cách giữa 2 ngón cái và trỏ mở ra rộng hay hẹp sẽ có ý nghĩa hoang phí hay tiêu xài đúng mức . Từ 90 độ trở lên được coi như người có mức tiêu pha quá độ . – Khoảng cách giữa 2 ngón trỏ và giữa chỉ định sự tiêu pha cho chính mình – Khoảng cách giữa 2 ngón giữa và áp út chỉ định sự tiêu pha cho người khác . – Khoảng cách giữa 2 ngón áp út và út chỉ định sự tiêu pha cho nhu cầu tinh thần . Ở mỗi đầu ngón tay đều có những chỉ nhỏ vận vào nhau, hình thức vận chuyển đều đặc, gọi là khu ốc . Khu ốc biểu dương sự khéo léo, điều may mắn, nhứt là linh tánh của 1 người trên mọi phương diện . Khu ốc đóng ở đầu ngón nào, giá trị sẽ được quyết định theo ngón ấy . Lật úp bàn tay lại, ở chỗ giao nhau của các lóng, trên mu bàn tay, thỉnh thoảng chúng ta thấy những nếp nhăn sâu đậm bám víu vào nhau như hình mắt, được gọi là mắt tay . Những mắt tương tự mà chúng ta trông thấy ở mặt bàn tay đều vô nghĩa nên sự nhận xét phải được ghi nhớ, để tránh sự đánh giá sai lầm . Mắng nằm chỗ giao nhau giữa lóng chót và lóng giữa được gọi là mắt duy vật . Mắt này biểu dương khả năng kiến tạo, thực hiện, sáng tác … có nghĩa là bất cứ hình thức tinh vi nào của vật chất đều được biểu dương bằng mắt duy vật . Mắt nằm chỗ giao nhau giữa lóng giữa và lóng nhứt tức là lóng có móng tay, được đặt tên là mắt triết lý . Như tên của nó, mắt triết lý khoa trương tất cả các khả năng và hình thức tuyệt vời về tinh thần, chẳng hạn như óc nghiên cứu luận chứng, về tâm linh, về thần học … Nghĩa là trên phương diện tinh thần hay duy tâm cũng thế . Mắt thứ 3 là mắt nằm tại gốc mỗi ngón tay, mắt này biểu dương cá tánh của người nội trợ giỏi, tinh vi, tính toán thần tình, nên được gọi là mắt nội trợ . Những người bạn gái khéo léo, hầu hết đều có mắt này . Sau những mắt tay, đến lóng tay . Nghiên cứu về giá trị lóng tay, chúng ta có 1 lập luận căn bản như thế này: càng lóng giữa dài thêm đối với lóng chót, càng lót có móng dài thêm đối với lóng giữa, người càng được sáng tỏ về mọi mặt: tiền, tình, danh vọng . Về giá trị riêng rẽ từng lóng, chúng ta có giá trị của mỗi lóng như sau: – Lóng 1, tức lóng có móng, diễn tả trí thông minh, khả năng sáng tác … nghĩa là sinh hoạt tinh thần . – Lóng 2, tức lóng giữa, diễn tả khả năng thu nhận thụ cảm … nghĩa là sinh hoạt tình cảm . – Lóng chót diễn tả khả năng thực hiện, phô trương … nghĩa là khả năng vật chất .
C – GIÁ TRỊ TỔNG QUÁT CỦA BÀN TAY 1 – Khuôn khổ Trong 1 bàn tay, khuôn khổ rất cần thiết trong sự dung hoà giá trị với các đường, các gò và các ấn tượng . Phân tách 1 bàn tay mà quên nói đến khuôn khổ thì thật là 1 điều khiếm khuyết không thể phủ nhận . Với khuôn khổ, chúng ta có như sau: – Bàn tay trung bình, người hoà hoãn, đứng đắn . – Bàn tay nhỏ, người dễ quên, bạt nhược . – Bàn tay to, người dễ kiếm địa vị . – Bàn tay ngắn, người dễ khích động, ham mê vật chất . – Bàn tay dài, người sống về tinh thần – Bàn tay thật dài, người say mê thần thánh đến trở thành mê tín . – Bàn tay hẹp, người tỉ mỉ . – Bàn tay quá hẹp, người suy yếu . – Bàn tay rộng, người chịu hùn hạp, thích kết bạn . – Bàn tay thật rộng, người nhác nhúa, nhưng cộc cằn, thô lỗ . – Bàn tay mỏng, người tinh vi, tế nhị, dễ thương. – Bàn tay dày, người đa tình, say mê nhục dục . – Bàn tay mỏng và dài, người có tài ngoại giao . – Bàn tay thật dài và hẹp, người suy yếu về tinh thần lẫn vật chất . 2 – Hình thức Hình thức bàn tay là sự tròn, vuông hay nhọn … của bàn tay . Nó cũng quan hệ không kém về phần khuôn khổ . Chúng ta có: – Bàn tay tròn, người ham vật chất nhưng chỉ thích ở 1 chỗ . – Bàn tay to, người đần độn, vũ phu . – Bàn tay hình hột xoài, người thích di chuyển, nhạy cảm, dễ xúc động và hoàn toàn nữ tính . – Bàn tay hình nón, người ưa vẻ đẹp, có khiếu thẩm mỹ, nhẹ dạ . – Bàn tay hình lục giác, người dễ khích động, ưa du ngoạn . – Bàn tay vuông, người có óc kiến tạo, ham chuộng sáng kiến – Bàn tay chữ nhật, ngắn: người có nghị lực, ưa thực tế . – Bàn tay chữ nhật, trung bình: người hay khinh thường, hoàn toàn nam tính . – Bàn tay chữ nhật, dài, người dễ hờn giận . – Bàn tay chữa nhật, rộng và ngắn: người cục mịch, ham vật chất . – Bàn tay chữ nhật, rộng và dài: người hoang phí, ham hơn thua . – Bàn tay hình tam giác: người sống về tinh thần . – Bàn tay hình tam giác, ngắn: người trầm mặc, dễ khích động – Bàn tay hình tam giác, dài: người dễ hờn giận, nhạy cảm, hay nản chí . – Bàn tay nhọn, người say mê thần học, mơ mộng, thơ ngây, thay đổi bất thường, nhưng có trực giác – Bàn tay gút mắt, người tò mò về tinh thần, hay tìm hiểu, nghiên cứu – Bàn tay như mở ra, người khiêm tốn . – Bàn tay như khép lại, người ích kỷ . 3 – Sắc thái – Bàn tay trắng: người lãnh đạm, tiêu cực . – Bàn tay hơi đỏ: người dồi dào sinh lực, nóng nảy – Bàn tay nhám, người tự phụ, hách dịch . – Bàn tay vàng, người dễ hờn giận . – Bàn tay xám 4 – Tình trạng – Bàn tay ốm, người tu tâm, linh tính nhưng đôi khi cũng tham vọng, biển lận . – Bàn tay nhiều thịt: người say mê vật chất, đa dâm . – Bàn tay mềm, người lười, thích im lặng – Bàn tay mịn, người chín chắn, khôn lanh – Bàn tay gân guốc, mịn: người có tài mê hoặc, khuyến dụ, sống động . – Bàn tay ướt thường xuyên, người trầm mặc, nhưng ham vật chất . – Bàn tay ướt giai đoạn, người dễ hờn giận, nhạy cảm . – Bàn tay khô, người sống về tinh thần, thiếu tình cảm . – Bàn tay lạnh, người suy tư – Bàn tay nóng, người chủ thuyết, chủ quan . – Bàn tay có nếp nhăn, người nhân từ . 5 – Lông Lông ở bàn tay biểu dương cá tánh của con người, tiêu biểu cho sự hơn kém nhau về tinh thần cũng như vật chất . – Bàn tay không lông, người suy nhược, hoàn toàn nữ tính . – Bàn tay có lông măng, người dễ cảm xúc, tao nhã – Bàn tay có lông, người dồi dào sinh lực, hoàn toàn nam tính – Bàn tay thật nhiều lông, người ham dâm dục – Bàn tay ít lông, những vẫn có lông: người bồng bột, nhẹ dạ . – Bàn tay có lông dày, người dễ hờn giận, dễ khích động . – Bàn tay nhiều lông ở ngón, rất ghen tuông về tình ái . – Bàn tay có lông ỏ các lóng, người nam tính . – Bàn tay có lông ở ngón cái, người nhân từ, vị tha . ĐỊNH LUẬT TƯƠNG ĐỐI TRONG VIỆC PHÂN TÍCH BÀN TAY Muốn tìm hiểu giá trị bàn tay cho một người, để xác định cuộc đời của người ấy trên các phương diện: tiền, tình, danh vọng, thân thế … không những trong quá khứ và hiện tại, mà còn trong tương lai nữa, thì việc nghiên cứu đơn thuần bàn tay sẽ đưa đến sự sai lạc hoàn toàn . Nói một cách khác, muốn tìm hiểu cuộc đời của một người trong bàn tay, nếu chỉ xem 2 bàn tay suông chưa đủ mà phải áp dụng sự dung hoà về mọi mặt 1 – vóc dáng 2 – diện mạo 3 – bàn tay 4 – cử chỉ 5 – tiếng nói Từng ấy yếu tố kết hợp lại mới xét đoán đầy đủ giá trị ghi sẵn trong 2 bàn tay, nhứt là bàn tay bạn gái lại càng cần thiết hơn. Những Mẫu Chữ Ký Thường Gặp 1. Đường nét thanh thảng tự nhiên không công quẹo, rung rẩy . Ngập ngừng hay đứt đoạn lệch lạc : Những chữ ký nào có nét ấy là những chữ ký của những người ngay thẳng đàng hoàng , người cao quí và thường có tiền của . Những chữ ký này đôi khi dễ đoán ra tên thật . 2. Chữ ký có đường nét ngập ngừng, run , nhiều dấu móc , có vẻ chần chừ, rời rạc, chậm chạp và nối với nhau bởi những đường nét vụng về là chữ ký chỉ rõ hạng người không dứt khoát . 3. Chữ ký có những đường nét vòng vo như khoanh lấy một số chữ là biểu hiện của người dể bị phạm luật pháp , tù tội , vất vã . 4. Chữ ký có những nét nhọn cắt nhau, nghiên đổ, có nhiều vòng tròn bao lấy và k hông đều (to, nhỏ, không thẳng hàng ) thì đó là chữ ký của những người bệnh tâm thần . 5. Chữ ký có đường nét ngang ở trên và dưới . Ngoài ra các chữ nằm giữa 2 nét trên dưới ấy có khi tạo thành một đoạn thẳng dọc xuống song song thì đây là mẫu chữ ký của người có óc nhìn đời rất thực tê”, biết làm ăn , vững chắc . Nếu là đàn bà thì đây là mẫu chữ ký của người có óc nhìn đời rất thực tê” , biết làm ăn vững chắc . 6. Chữ ký của người có tay thương mại lớn , thức thời, khôn ngoan , hăng say làm ăn và xa quê hươn g. Đây là chữ ký của người hoạt động suông sẽ, giàu thiện chí , được nhiều người yêu thích . Người có mẫu chữ ký này thường được thành công tốt đẹp trong lãnh vực công ăn việc làm , kể cả tình cảm . Nếu những vòng ấy không được liên tục mà hở ra thì đây là mẫu người muốn vược ra khỏi vòng cương toả, hay tự ý . 7 . Chữ ký mà những nét dọc chạy xuống cắt đường gạch dưới đít chữ ký là người bị thất bại chua cay 8 . Chữ ký có đường kéo xuống không cắt đường gạch dưới thường là chữ ký của người có công ăn việc làm lưng chừng . Tâm tính cũng vậy . Hay bỏ lỡ cơ hội , khó đi đến thành công . 1. Chữ ký có nét ngang phía trên đầu (ngắn ) thì đây là người không nhất tâm , mau thay lòng đổi dạ . 2. Chữ ký của người hay bị cản trở, đau khổ, và bị kẻ dưới ganh ghét, hãm hại thường có hai đường dọc thật ngă”n cắt lấy đườngang dưới . 3. Chữ ký có sự thay đổi công ăn việc làm hay chấm dứt công việc . Cuộc đời không xuông sẽ thường có dấu chấm chính giữa . 4. Chừ ký có những đường nét lên xuống, to nhỏ không đều , không thẳng hàng : đây là chữ ký của những người hay lo nghĩ , bồn chồn , hồi hợp . 5. Chữ ký có dấu chấm phía trên : người có vấn đề tinh thần ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống . Nếu cuối chữ ký có dấu chấm thì đó là dấu hiệu có sự cản trở ngăn chặn . Nhưng chính bản thân người ấy cũng thường hay dứt khoát , chấp nhận sự việc hay vấn đề một cách máy móc. 6. Chữ ký như bị gạch bỏ, chỉ người hấp tấp , hay căm giận, ghét, tức tối, thần kinh bị kích động , bị xáo trộn . Người hay tính chuyện trả đũa đối phương . Nếu nét cuối chữ ký quay lại cắt ngang chữ ký thì đây là người hay thất vọng , chán đời , chua cay, khinh bỉ mọi sự đên độ gàn bướng BÀN TAY VÀ TÍNH TÌNH Bàn Tay Chỉ tay (Trích đọan Thiên Đức) Theo khoa chỉ tay, đường sanh đạo biểu hiện cho sức khoẻ của mình, một đường sinh đạo rõ sâu không dứt khúc là người khoẻ mạnh, ít khi bị đau ốm nạn tai, những dấu hiệu bất thường trên đường sinh đạo như là lằn cắt ngang, đứt khúc, mờ nhạt, xoắn dây thừng, tam giác, cù lao, phân nhánh đi xuống thường báo hiệu sự đau ốm hay nạn tai trong cuộc đời, và cũng tuỳ theo vị trí của những dấu hiệu này trên đường sanh đạo mà xét định khoảng thời gian độ tuổi xảy ra, trung bình một đường sanh đạo dài bao hết gò kim tinh của ngón cái được tính là 60 tuổi. Thế nhưng xét đoán để biết qua được nạn tai hay đau ốm không, hoặc để được sống thọ thì phải phối hợp thêm các yếu tố khác trong bàn tay đó là gò kim tinh, các vòng cườm tay, màu sắc và thân nhiệt của lòng bàn tay nữa. Đường mạng đạo có người có, có người không, ý nghĩa thông thường là người có ý chí mạnh, tự mình chủ động lấy cuộc sống và xây dựng sự nghiệp. Nếu đầu đường mạng đạo phát xuất từ cườm tay thì có ý nghĩa là tự thân ra đời sớm không có nhờ cậy gia đình của mình cũng như gia đình chồng. Trường hợp phát xuất hay dính liền với đường sanh đạo có ý nghĩa là nhờ gia đình cha mẹ ruột giúp đỡ khi vào đời với nhiều may mắn. Trái lại phát xuất từ mép bàn tay gọi là gò Thái âm có ý nghĩa làm nên sự nghiệp sau khi lập gia đình và có sự hổ trợ của chồng, thế nhưng ở đây phải chú ý một điều nếu là ở bàn tay phải thì có số nhờ chồng, nhưng nếu là bàn tay trái là số giúp chồng thành công chứ bản thân của mình chưa hẳn đã thành cộng Nếu đường này sâu và thẳng là vận hạn hanh thông, nếu mờ nhạt hay đứt khúc là bị gián đoạn hay thăng trầm sự nghiệp tương ứng với thời gian ở vị trí đứt đoạn trong bàn tay. Theo khoa chỉ tay, một đường tâm đạo tốt thì phải rõ ràng sâu và không dứt khoảng, đường tâm đạo càng dài thường có ý nghĩa thuỷ chung và đa tình. Nếu trện đường tâm đạo nỗi lên những dấu hiệu đặc biệt như là cù lao có ý nghĩa tình tan vở mang nhiều đau thương, thế nhưng có đường song song với đường tâm đạo là người đa tình thường có nhiều cuộc tình trong một lúc thế nhưng tình yêu nhiếu chưa phải là yếu tố tạo nên hạnh phúc mà phải xét đến những dấu hiệu đặc biệt khác như đường hôn nhân và phần tâm đạo ở mép bàn tay. Nếu đầu đường tâm đạo này có nhiều nhánh chẻ ra như rễ cây là dấu hiệu mình phải lấy người mà chưa yêu thương hay nói khác đi là rơi vào trường hợp HÔN NHÂN ĐI TRƯỚC TÌNH YÊU nghĩa là do bạn bè hay thân nhân mai mối để lập gia đình sau đó mới có sự cảm nhận trong tình yệu Ngoài ra cũng nên xét đến đường hôn nhân có bền vững và hạnh phúc hay không thì phải dài sâu và không có chia nhánh, nếu cũng trên đường này có những nháh song song nhỏ thì đó là dấu hiệu rõ ràng để lập gia đình với người chưa thương yêu, để lại đằng sau nhiều kỷ niệm của người bạn tình ngậm ngùi khóc thầm ngẩn ngơ theo xác pháo hồng. Trái lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng hơi vuông – tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang vạng Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuông. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận tiêu hoá như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v. Móng tay (Trich luoc Tu Chi Tay) Giải đoán móng tay có hiệu quả cao nhất là về mặt sinh lý và sức khoẻ, kế đến là tính tình của người đó nhiều hơn là vận mệnh cuộc đời. Muốn giải đoán móng tay nên chú ý 3 điểm đó là kích thước, hình dáng và màu sắc tự nhiên của nó (chứ không phải là màu nước sơn móng tay). Điều chú ý trước tiên là chiều dài móng tay tính từ phao trở ra tới mức móng tay còn dính vào da thịt như vậy phần móng tay vượt ra ngoài da thịt không được tính kể cả móng tay giả. – Móng dài và hẹp là người thích phô trương nhưng rất mê tín – Trái lại móng dài và rộng là người giàu mộng tưởng, thích chuyện phiêu lưu tình cạm – Móng rộng mà ngắn lại là người nói nhiều ngoài sự thật – Móng hình chử nhật là người năng động thích làm việc, hơi tham lam nhưng ít sáng kiến – Móng vuông rộng đầu người đầy tự tin nhiều ý chí do vậy sức chịu đựng bền bỉ, vì thế thường đưa đến kiêu căng tự phụ – Móng dẹp và tròn ưa lời nói ngọt thiếu tự tin nên ít khi tự mình quyết đóan công việc Nói về màu sắc móng tay, màu đỏ là người nóng nảy bốc đồng, móng hồng tính cứng rắn cương quyết, móng màu tai tái là người ích kỷ, nhu nhược, móng xám sức khoẻ kém, móng màu tím về máu huyết không điều hòa. Hình dáng các bàn tay của Nam giới Bàn tay ngắn quá : nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có bàn tay dài hay to thì mới tương xứng. Người có bàn tay ngắn quá, thì việc làm và lời nói không đi đôi với nhau, nói một đường làm một nẻo, hoặc muốn làm khác người. Bàn tay dài quá, và ngón tay thì gút mắt, kẽ giữa các ngón tay thưa thớt, tướng cao lêu khêu, miệng rộng, răng to, râu thưa : Bàn tay như thế, mà cộng thêm với dáng người như vậy, thì đây là hạng người hay nói nhiều, nói dai, nhưng không có cái gì ăn khớp với cái gì, và hay thù vặt. Bàn tay dài quá, mà ngón tay lại ngắn, thô kịch, có gút mắt, và ngón tay út cũng quá ngắn : Ðây là hạng người nhẹ dạ, tính tình lại hay thay đổi và quá thiên về vật chất, coi tiền bạc nặng hơn tình nghĩa, hay nói càng xiên chẳng vị nể ai cả. Bàn tay đầy đặn và các đường chỉ tay rõ ràng không có những lằn cắt ngang dọc cộng thêm với tướng người cao vừa vặn cân đối, khoẻ mạnh, mắt không bị lộ, đây là tướng người có những đức tính tốt, trường thọ, phúc hậu, lời nói bao giờ cũng được suy nghĩ trước khi nói, và phải có lý thì mới phát biểu, chứ không bạ đâu nói đó, nói càng nói bậy. Bàn tay dài, lòng bàn tay hẹp, ngón tay không đều (ngón to ngón nhỏ, ngón mập ngón ốm) cong quẹo, đầu ngón tay cái nhọn vót, móng tay cứng, những đường chỉ trong lòng bàn tay không rõ ràng : ta đoán được những người như vậy có tính thái quá, thiếu chừng mực trong mọi việc, bạ đâu vui đó, không thuỷ chung, có khi còn càn bướng và láo khoét nữa. Bàn tay hơi vuông, đầu ngón tay cái và các ngón khác cũng hơi vuông, lòng bàn tay cứng và có ba dường chỉ chính (Sanh đạo, Trí đạo, và Tâm) rõ ràng. Cộng thêm ngón út dài, chiều dài của ngón út (mở bàn tay ra và khép các ngón tay lại) dài hơn hai lóng của ngón áp út (ngón đeo nhẫn), đầu ngón út hơi tròn và có vành cao lện Ðây là bàn tay của người siêng năng cần mẫn, việc làm rất chu đáo, biết xắp xếp, điều hoà mọi việc, biết giữ lời hứa, ít nói, tánh tình ngay thẳng, cương trực, đứng đắn, họ chịu đựng được môi hoàn cảnh của cuộc đời, cần kiệm, sống lâu, ăn uống hay chưng diện không loè loẹt, đơn giản. Bàn tay với lòng bàn tay cứng dẽ, các ngón tay hơi ngắn, móng cứng, có chỉ Tâm đạo xiả xuống giữa ngón trỏ và ngón giữa : đây là bàn tay của người có tánh lì lợm, kỳ khộo ít chịu phục tùng ai bao giờ, dầu cho lý lẽ của họ có sai bét đi chăng nữa, họ cũng không chịu thụa Vì sự cố chấp và cứng đầu của họ, nên cuộc đời họ gặp nhiều sóng gió, nhiều lần suy xụp, đảo điện Bàn tay mà mỏng manh, ngón tay ngắn quá, lưng bàn tay xanh xao, da mặt cũng xanh xao, răng thưa và hô, tướng ốm, tóc sợi nhỏ, lỗ mũi nhỏ và lộ xương, xương cuống họng ló ra dài, người như vậy rất có thể mang chứng bệnh lao, và chết yểu. Bàn tay vuông, các ngón tay cũng vuông, lòng bàn tay cứng de, có một đường chỉ (tâm đạo) nằm vắt ngang bàn tay như chữ nhất (-) đây là bàn tay của những người tánh tình nghêng ngang, hay gây sự, kiêu căng, phách lối, nhưng lại hay làm bộ hiền lành. Phần nhiều những người này lại hay sợ … vợ. Trái lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng hơi vuông – tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang vạng Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuộng. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận tiêu hoá như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v. Dáng đi Mỗi người đều có tư thế đi của mình. Tuy tư thế này trên mức độ rất lớn là do hình thể mỗi người khác nhau tạo nên, nhưng căn cứ vào bước đi, nhịp đi hoặc những đặc điểm khác mà nói, cũng vì mọi người có tâm tính và bẩm sinh khác nhau nên mơi có tư thế đi khác nhau. Có thể khẳng định rằng, tâm trạng, tính tình hoàn toàn có thể thay đổi tư thế đi của một người. Khi nhịp đi của người đó nhanh hơn bình thường, chúng ta có thể đoán rằng anh ta đang phấn khởi ; nếu một người đi lang thang thì nhất định anh ta đang bị cú sốc nào đó ; nếu một người đi hai vai rũ xuống, bước đi nặng nề thì khẳng đình trong lòng anh ta cũng đang nặng trĩu. Vậy bước đi, nhịp đi hoặc tư thế đi cụ thể của một người trong giao tiếp thường ngày đại biểu cho những đặc trưng tính cách và hàm nghĩa tâm lý cụ thể gì ? · Dáng đi chữ bát: Đi chữ bát tức là khi đi hai gót bàn chân hướng vào hai đầu bàn chân hướng ra thành hình chữ bát. Khi đi tuy dùng lực, nhưng tỏ ra rất vội vàng, nửa thân trên hay lắc sang trái sang phải. Dáng đi này có hàm nghĩa tâm lý và đặc trưng tính cách như sau: – Tính cách bảo thủ: Nói chung dáng đi chữ bát không đẹp tí nào, nhưng vì họ đã quen đi như thế, điều đó chứng tỏ: trong cuộc sống dù phát sinh sự việc gì họ cũng có thái độ chấp nhận. Họ không dễ dàng thay đổi hành vi của mình. – Không thích giao tiếp: Về điểm này, hiện nay vẫn chưa có một cách nói chuẩn xác, nhưng nhìn chung loại người này có đầu óc thông minh: làm việc khoa học mà không ồn ào. Có thể vì đầu óc thông minh nhưng tư thế đi không đẹp đã tạo cho họ thích kiểu đi lặng lẽ một mình này · Dáng đi lắc đảo: Dáng đi lắc đảo tức là bước đi rất tuỳ tiện, nói chung không có quy luật cố định nào. Có lúc họ đút hai tay trong túi, hai vai rụt lại mà đi; có lúc đánh tay thoải mái, ưỡn ngực. Qua bước đi của loại người này ta có thể đoán biết được thế giới nội tâm của họ như sau: – Tính cách hào phóng: Loại người này có tính cách giống như cách đi của họ, rất hào phóng, không câu nệ tiểu tiết. Xưa nay họ không vì những lời khen, chê của người khác mà thay đổi hành vi của mình. ” Đi theo cách của mình, ai nói gì kệ họ” là qui tắc hành động của loại người này. – Mong muốn cao xa: Người đi kiểu này nói chung rất thông minh. Họ có ý chí tạo dựng sự nghiệp, ước mong cao xa. Nhưng nhược điểm là có lúc quá đề cao vai trò của mình, vì thế mà hay tranh chấp, đặc biệt trong trường hợp họ có lý thì không dễ gì nhường nhịn người khác · Đi có tiếng dội: Đi có tiếng dội tức là chân đặt lên đất có tiếng kêu, khi đi ưỡn ngực, bước đi hơi nhanh. Người đi kiểu này có những hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau: – Giàu chí tiến thủ: Loại người này giàu chí tiến thủ. Tính cách giống như bước đi, cho người khác thấy rõ bản thân, họ thường không dấu giếm khuyết điểm của mình. Làm việc gì cũng đều coi trọng kết hợp giữa lý trí và tình cảm. – Đầu óc tản mạn: Người đi kiểu này, có một số người tinh thần tản mạn. Tuy trong lòng ôm ấp chí lớn, nhưng không chủ động tiến thoái mà thường có thái độ “đã thế thì đành sống thế”. · Dáng đi thẳng: Dáng đi thẳng tức là khi đi chân và tay song song nhau, người không lắc đảo, gây cho người khác cảm giác họ có tác phong nho nhã. Người đi kiểu này có tính cách hướng nội điển hình. Nói chung loại người này nhút bảo thủ, thiếu ý chí rộng lớn. Điều đáng nói là gặp việc họ thường bình tĩnh, không dễ cáu giận. Cho nên họ giao tiếp tốt với người khác. · Dáng xung phong: Thông qua tên gọi chúng ta cũng có thể tưởng tượng được dáng đi tiên phong là: bước chân nhanh, không lùi, cho dù chỗ chen chúc đông người hay chỗ yên tĩnh, vắng lặng. Loại người này khẳng định có tính cách nóng vội. Họ thẳng thắn, bộc bạch, thích giao kết bạn bè, ham nói chuyện, tuy nhiên tính cách nóng vội. Điều khiến người khác yên tâm là họ không làm sai lời hẹn. · Dáng đi song song: Dáng đi song song tức là chân bước chậm, giống như sợ trước mặt có hố sâu bất ngờ. Loại người này tính cách khá nhu nhược. Khi gặp việc thường đo trước đắn sau. Nhưng loại người này có cái tốt là nặng về tình cảm, có thể chọn làm bạn. · Dáng vừa đi vừa xem: Vừa đi vừa xem tức là dáng đi chậm chạp, thỉnh thoảng nhìn sang phải, ngó sang trái. Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau: – Không có chí lớn: Loại người này điển hình là không có chí lớn. Họ thích sống đơn độc. Đặc điểm nổi bật của họ là không thích giao tiếp bạn bè, hiệu suất công tác thấp. – Ngưỡng mộ hư vinh: Trong cuộc sống hiện thực, loại người này thường hay ngưỡng mộ những điều xa xôi, không làm việc một cách chắc chắn, thực sự. Tuy họ có tính hiếu kỳ, nhưng đáng tiếc là không có tính kiên nhẫn, thiếu ý chí bền bỉ. · Đi treo chân: Đi treo chân tức là đi như nhảy, hầu như gót chân không chạm đất. Người đi kiểu này có đặc trưng hàm nghĩa tâm lý sau: – Làm việc không chắc chắn: Tính cách loại người này giống như tư thế đi : trôi nổi, không có lực. Làm việc không chắc chắn. Tuy trong cuộc sống họ gặp được dịp tốt nhưng đều bỏ lỡ trong sự vội vàng, cập rập. – Tính tình không ổn định: Loại người đi như thế thường là người rất thông minh, nhưng ý chí bạc nhược, tính tình không ổn định. Họ thường làm việc đầu voi đuôi chuột một cách không tự giác, vì vậy dễ mất tín nhiệm đối với người khác. · Dáng đi lay người: Tư thế đi lay động, lắc lư như cây liễu gặp gió, trong mệnh tướng học cổ gọi là “rắn bò”. Tư thế đi này có những đặc điểm tính cách sau. – Hay giả vờ: Người đi như thế hay làm vẻ giả vờ. Họ làm việc nói chung không có tinh thần trách nhiệm. – Độ tin cậy thấp: Người đi kiểu này phần nhiều gian trá. Cho dù là làm việc hay trong giao tiếp đều gây cho người khác cảm giác khó tin cậy. Làm bạn với loại người này phải rất cẩn thận, nếu không dễ bị thiệt · Dáng đi lang thang: Dáng đi lang thang tức là bước đi thất thểu, lúc lên trước, lúc như lùi về sau. Loại người này thường là người sôi nổi. Đặc trưng tính cách của họ là ý chí bạc nhược, làm việc cẩu thả, vô ý. Tuy họ an phận giữ mình, nhưng cũng có quy tắc nhất định. Tuy tư tưởng đơn giản, nhưng làm việc cũng thường kín đáo. · Dáng đi chắp tay sau lưng: Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý sau: – Tính cách ôn hoà, hơi có thành tích: Loại người này trong sự nghiệp có những thành đạt nhất định. Nói chung tính cách của họ tương đối ôn hoà. Tư thế đi thể hiện lòng họ như cảm thấy tự mãn và thoải mái sau khi đã đạt được thành tích nào đó. – Thích làm thầy người khác: Người đi theo tư thế này còn có ý thích làm thầy người khác. Vì dáng đi chắp tay sau lưng thường để lại cho người ta ấn tượng là người tự cao tự đại, loại người này quả thực đúng như thế. · Dạng đi cúi đầu: Đi cúi đầu tức là khi đi đường đầu hơi cúi xuống, chân bước chậm. Người đi kiểu này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau: – Tính cách hướng nội: Loại người này tính cách hướng nội, ngoài đời thường không chủ động, cho nên ít bạn tri âm. – Suy nghĩ sâu sắc: Loại người này suy nghĩ chu đáo. Tục ngữ có câu: “Ngửa mặt là bà già, cúi đầu là hảo hán”,hảo hán đây chính là loại người này. Nói chung họ không muốn nhìn trực diện vào người khác và cũng không muốn người khác nhìn thấu tâm can mình, cho nên họ thường hay cúi đầu. · Dáng đi vội vàng: Dáng đi vội vàng tức là khi đi đường chân bước vội vàng, bước chân nặng nhưng không loạn nhịp. Người đi như thế có đặc điểm tính cách cởi mở, bụng thẳng miệng nhanh, có tài nǎng lãnh đạo. Nhưng có lúc vì tính tùy tiện của mình mà làm tổn thương đến người khác. · Dáng đi tự mãn: Dáng đi tự mãn tức là khi đi đường mặt hơi nâng lên, nhịp tay vung vẩy thoải mái, hai chân hơi cứng, bước đi thận trọng. Người có dáng đi như thế có đặc điểm tự cao tự đại điển hình. Dáng đi đó phản ánh chân thật thế giới nội tâm. Họ muốn thông qua cách đi đó để gây ấn tượng sâu sắc cho người khác. · Dáng đi như vác nặng: Dáng đi như vác nặng có tư thế điển hình sau: hai vai hơi nhô lên, đầu hơi chúi về phía trước, mắt như nhìn xuống chân. Người đi đường như thế có các đặc điểm tính cách, tâm lý sau. – Tự ý thức về mình sâu sắc: Loại người này tự ý thức mạnh mẽ. Nói chung họ ngưỡng mộ hư vinh. Ngoài đời họ quá tự tin, hay ǎn to nói lớn, dễ mắc lỗi nên thiếu bạn tri âm. – Cô độc và đau khổ: Người đi đường với tư thế ấy vì không nhìn thẳng vào cuộc đời cho nên cũng không nhìn thẳng vào mình, thường rơi vào hoàn cảnh cô độc và đau khổ. · Dáng đi còng lưng: Dáng đi còng lưng điển hình là nửa thân trên hơi hướng về phiá trước, để bảo đảm cho mắt nhìn được xa hơn thì phải ngẩng mặt lên. Người có kiểu đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau: – Không có lý tưởng cao xa: Loại người này nói chung không có lý tưởng rộng lớn, đối với tương lai cũng ít hy vọng, đối với chung quanh thiếu nhận thức tỉnh táo. – Mơ màng, hồ đồ: Loại người này đối với mọi việc chung quanh thường có thái độ bi quan, thất vọng. Làm việc gì cũng không có kế hoạch chu đáo. Họ thường làm theo cảm tính, suốt ngày sống một cách hồ đồ. · Đi từ từ chậm chạp: Dáng đi từ từ chậm chạp là tư thế đi : miệng hơi mở, hai tay buông thõng, tuy mắt nhìn phía trước nhưng nhãn thần bất định, tỏ ra rất mơ màng. Người đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau. – Đù đờ như người nộm: Loại người này điển hình là đù đờ không có hồn. Họ thường để lại cho người khác ấn tượng không có sinh khí, thiếu sức sống, đối với mọi việc chung quanh thờ ơ, không quan tâm, đồng thời thiếu khả nǎng ứng phó khi gặp sự biến. – Có sức mạnh tích tụ: Người đi đường như thế nội tâm tiềm tàng nǎng lượng tích tụ. Có lúc nguồn nǎng lượng này vì một nguyên nhân nào đó mà được giải phóng ra một cách bột phát mạnh mẽ. Nhưng điều không thể hiểu nổi là sau khi bột phát, họ lại trở về trạng thái ban đầu như chưa hề xảy ra việc gì · Dáng đi điệu đài các: Dáng đi điệu đài các là tư thế đi : hai vai như nhô lên do thở mạnh, nửa thân trên dùng lực gưỡng gạo. Người có dáng đi như thế thường có các đặc điểm tính cách và hàm nghĩa tâm lý sau: – Bụng dạ hẹp hòi: Khí chất của loại người này thường hẹp hòi, ý chí bạc nhược, muốn sống đơn độc. – Hư trương thanh thế: Loại người này thường hy vọng dựa vào sức mạnh của người khác hay tập thể để thể hiện mình. Bản thân họ không có bản lĩnh gì đáng kể, nhưng lại muốn núp dưới bóng của người khác mạnh hơn để đạt được mục đích “sói mượn oai hùm”. · Dáng đi quay đầu lại: Điển hình của dáng đi quay đầu lại là lúc đi, không phải quên cái gì, cũng không phải chia tay với người thân, càng không phải như đang tìm một vật gì đó nhưng vẫn thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn. Người có kiểu đi này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau: – Lưu luyến quá khứ: Đặc trưng tính cách của loại người này là thường nhớ lại quá khứ. Vì họ luôn nhớ đến từng kỉ niệm xưa nên đi đường hay quay đầu lại. – Tính cách cố chấp: Loại người này có tính cách cố chấp. Nói chung họ rất khó tiếp thu sự phê bình và chê trách của người khác


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng số tổng hợp –

Đọc vị tính cách của bạn qua nếp nhăn trên trán

Nếp nhăn trên trán không đơn thuần là biểu hiện của tuổi già, nó còn tiết lộ phần nào tính cách và cuộc đời mỗi con người.
Đọc vị tính cách của bạn qua nếp nhăn trên trán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

1. Trên trán có 3 nếp nhăn ngang có độ dài tương đương nhau   Nếu trên trán đột nhiên xuất hiện 3 nếp nhăn trên trán ngang có độ dài tương tự nhau, đây là dấu hiệu cho thấy chủ nhân là người coi trọng tình nghĩa, lối sống lí trí, công tâm, dám làm dám chịu, được nhiều người yêu mến và giao phó trọng trách.   Ngoài ra, vận thế của người này khá tốt, công danh sự nghiệp thành đạt. Chỉ cần tiết chế cảm xúc bản thân thì mọi việc thuận buồm xuôi gió, là chỗ dựa tinh thần cho người thân, bạn bè xung quanh.

Doc vi tinh cach cua ban qua nep nhan tren tran hinh anh
Đọc vị tính cách của bạn qua nếp nhăn trên trán

2. Trên trán có 3 nếp nhăn ngang có đội dài không bằng nhau   Trong Nhân tướng học, nếp nhăn phía trên cùng (sát với chân tóc) được gọi là Thiên văn. Nếp nhăn này càng dài thì chứng tỏ chủ nhân càng có tài làm lãnh đạo, lời nói đầy sức thuyết phục. Nếp nhăn ở giữa gọi là Nhân văn, đường vân này càng dài chứng tỏ nhân duyên càng tốt đẹp.

Nếp nhăn ở phía dưới cùng (gần với lông mày nhất) gọi là Địa văn. Địa văn dài thì người này nhận được sự quan tâm, chăm sóc chu đáo của người nhà, con cái sau này đều hiếu thuận.
  3. Trên trán có 2 nếp nhăn dọc   Nếu cả 2 nếp nhăn này đều nhô cao, tức nằm gần phần chân tóc, chứng tỏ người này không có tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, sau con cháu bất hiếu, không phụng dưỡng cha mẹ tuổi già.

Trường hợp 2 nếp nhăn nằm gần lông mày, đây là người không có thái độ tích cực trong công việc và thiếu sự hiếu thuận với cha mẹ.
  4. Trên trán có 1 nếp nhăn dọc   Nếu nếp nhăn trên trán dọc này nằm ở giữa trán, điều này có nghĩa đây là người không thích dựa dẫm vào người khác, tự tin vào bản thân và có thể tay trắng dựng cơ đồ.   5. Nếp nhăn trên trán bị đứt đoạn   Chủ nhân của kiểu nếp nhăn này có tính cách nóng lạnh thất thường, thông thường sẽ đi theo hai hướng cực đoan, một tốt một xấu chứ không có chuyện hài hòa ở giữa, lẫn lộn giữa tốt và xấu.    Công việc của người này bất ổn, nay đây mai đó, liên tục thay đổi chỗ làm. Tuy nhiên, đến hậu vận thì chuyển biến tích cực hơn, số mệnh thuộc hàng khổ tận cam lai (khổ trước sướng sau).   6. Trên trán có nếp nhăn hình chữ Vương   Đặc điểm dễ nhận thấy của nếp nhăn này là có 3 đường vân ngang song song nhau và 1 đường vân dọc chạy xuyên qua các đường vân ngang tạo thành chữ Vương (王). Nếu các đường vân không rối loạn mà nhìn ra chữ Vương rõ ràng thì đây là quý tướng.    Nếu ngũ quan đều tốt, không khuyết hãm thì người này có phong thái của lãnh đạo, vận thế tốt đẹp, được hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý. Nếu là nữ giới thì nhan sắc tuyệt trần, được nhiều người mến mộ.
7. Trên trán nhiều nếp nhăn rối ren, không thuộc những trường hợp trên   Người có nếp nhăn trên trán kiểu này thường không biết cách kiểm soát cảm xúc, làm việc thiếu kiên nhẫn và không có kế hoạch cụ thể. Hơn thế, người này không có chí tiến thủ nên cả đời khó làm nên nghiệp lớn.    An Khánh (Theo YJ95)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đọc vị tính cách của bạn qua nếp nhăn trên trán

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Những lời chúc tết hay, những câu chúc tết hay nhất và ý nghĩa nhất dành cho người thân, bạn bè khi xuân Đinh Dậu 2017 sắp tới đã được ## tổng hợp tại đây. Các bạn hãy lưu lại để chúc bạn bè người thân mình nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu xuân năm mới, ngoài việc lì xì cho nhau để mang lại may mắn thì những lời nói, những câu chúc tết là không thể thiếu. Những câu chúc tết hay còn được nhiều người sử dụng, xem đó là lời chúc là mong muốn mà mọi người gửi gắm đến nhau.

Những lời chúc tết hay, những câu chúc tết hay nhất và ý nghĩa nhất dành cho người thân, bạn bè khi xuân Đinh Dậu 2017 sắp tới đã được ## tổng hợp tại đây. Các bạn hãy lưu lại để chúc bạn bè người thân mình nhé.

1. Thơ chúc tết mọi người

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

2. Thơ chúc tết hay nhất năm 2017

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

3. Thơ chúc mừng năm mới xuân Đinh Dậu 2017

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

4. Các câu chúc Tết hay nhất năm 2017 cho bạn bè

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Xem thêm: Những bài thơ chúc Tết cho các bé

Trên đây là tuyển tập những câu chúc tết hay nhất cho năm 2017 mà Phong thủy số đã tổng hợp được. Nếu bạn đọc có những bài thơ chúc Tết hay có thể chia sẻ tới hòm thư hoặc Fanpage của Phongthuyso.vn

: Tết 2017 Những bài thơ chúc tết hay Những câu chúc tết hay Thơ chúc xuân hay Thơ chúcTết người yêu Những lời chúc năm mới hay
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Xem tướng người giỏi giao tiếp vận thế tốt

Xem tướng người giỏi giao tiếp có vận thế tốt là tướng mũi cao, lông mày cân đối dài qua mắt, nhật nguyệt giác đầy đặn và hai mắt to nhỏ phải đều nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những người lần đầu tiên gặp mặt bạn đã thấy họ dễ gần; có những người vừa mới tiếp xúc bạn đã muốn lánh xa. Thuật xem tướng đã đúc rút những kinh nghiệm quý báu về những người giỏi giao tiếp này. Bạn sẽ nhận thấy những điểm chung của họ về tướng mạo, thần khí, cái cách mà họ mang lại cho người đối diện một sự tin tưởng và cuốn hút lạ kỳ.

Trong xã hội hiện đại có sự phân công công việc rõ ràng như ngày nay, tuy thông tin truyền thông vô cùng thuận lợi nhưng cũng không thể xoá bỏ những giao tiếp xã giao, đặc biệt là đối với những người làm trong ngành kinh doanh lại càng phải tiếp xúc nhiều với các doanh nhân và khách hàng. Do đó cách giao tiếp và kết bạn cũng tự nhiên trở thành một môn học cần thiết và đáng để quan tâm suốt cuộc đời.

tướng người giỏi giao tiếp

Trong thời đại coi trọng tốc độ và hiệu suất như ngày nay con người không nhiều thời gian để tìm hiểu về nhau. Cho nên, bộ môn xem tướng học đã cung cấp khá nhiều tư liệu có ích để phán đoán một nguời nào đó có phải lá người đáng tin để kết bạn hay không.

1. Tướng người mũi cao: tính tình thẳng thắn

Sống mũi đại diện cho nội tâm của con người. 

- Xem tướng một người có mũi ngay ngắn thì thể hiện người này là người rất ngay thẳng, trong lòng không hề có tư lợi tà tâm, là người trung hậu, thật thà. Họ sẵn sàng hy sinh vì bạn bè khiến bạn bè thấy được sự quan tâm tận tình của mình.

- Ngược lại, người có mũi cong, vẹo là người ích kỷ, có tính chiếm hữu cao, làm việc không dựa vào sự nỗ lực của bản thân mà luôn dùng tiểu xảo để có được thành quả một cách dễ dàng. Chơi với bạn không thành thật, thường xuyên nói dối, lừa gạt, do đó những người này không được mọi người xung quanh yêu quý, quan hệ với mọi người xung quanh cũng rất căng thẳng.

2. Cung bạn hữu tốt: tướng người có quý nhân giúp đỡ

Cung bạn hữu nằm ở phía trên lông mày, đại diện cho vận thế trong việc giao tiếp với bạn bè. 

- Nếu cung bạn hữu không có sẹo hoặc nốt ruồi, sáng sủa đẹp đẽ cho thấy đây là tướng người có tính tình rộng rãi, khoáng đạt, có chí tiến thủ dù gặp khó khăn thế nào cũng vẫn tỏ ra lạc quan. Cho nên, người này rất được mọi người quý mến, bên cạnh có nhiều bạn tốt thầy giỏi và thường được quý nhân giúp đỡ.

- Ngược lại, nếu cung bạn hữu có nốt ruồi hoặc seo chứng tỏ người này là người tiêu cực, không cầu tiến, gặp khó khăn dễ bi quan. Do đó người này thường không được mọi người quý mến, thường kết giao với kẻ xấu nên bị liên lụy và không thể phát triến sự nghiệp, công việc.

tướng người có quý nhân trợ giúp

3. Tướng lông mày cân đối, thanh tú: là người trọng chữ tín

- Nếu lông mày thưa thớt, hoặc rậm, dày, hoặc độ dày không đều, ví dụ như đầu lông mày rậm, đuôi lông mày thưa thớt chúng tỏ người nay làm việc rất cực đoan, không hiểu về đạo trung dung. Do đó, quan hệ với những người xung quanh không tốt, không có quý nhân giúp đỡ. Khi gặp khó khăn cũng không có ai giúp đỡ.

- Ngược lại tướng lông mày cân đối, thể hiện người này là người thành thật, đáng tin cậy, giữ lời hứa; là người hiền lành. Do đó, người này được mọi người xung quanh yêu quý, có nhiều quý nhân bên cạnh, thường được bạn bè giúp đỡ. 

Một người đa nghi, thậm chí hơi có vấn đề về thần kinh thì trong cuộc sống không những gặp nhiều bất tiện, mà còn không có được cảm tình của những người xung quanh và không có nhiều bạn bè. Xét từ góc độ tình cảm cá nhân, do thường hoài nghi bạn đời lén lút làm điều bất bình thường thường nên đôi bên thường xảy ra cãi cọ. Nhưng họ không những không nhận thức được lỗi lầm mà còn biện hộ và giấu giếm. Điều này khiến cho người bạn đời rất khó chịu, xét từ góc độ công việc, sự nghiệp, do những người này không trọng chữ tín, nói lời không giữ lời nên sự nghiệp thường gặp phải khó khăn, thất bại. Xét từ góc độ quan hệ xã giao, những người này luôn thích bới móc sai lầm của người khác thậm chí khiến cho người khác bất mãn. Do đó, người này thường bị tẩy chay, không có nhiều bạn bè. Tóm lại, người mà có tướng đa nghi gặp nhiều bất lợi trong cuộc sống, thậm chí còn có thể mắc bệnh thần kinh hay bệnh hoang tưởng.

4. Lông mày cân đối: là tướng của người biết cách khen ngợi người khác

- Xem tướng có lông mày cân đối, tức là lông mày hai bên cao bằng nhau là người rộng lượng thoáng đạt, không so đo thiệt hơn, là tướng người thẳng thắn, chân thật. Họ biết tán thưởng người khác nên luôn nhận ra ưu điểm và sở trường của người khác và những thiếu sót của bản thân. Và cũng chính vì vậy những người này luôn được mọi người xung quanh quý mến, họ có rất nhiều bạn bè 

- Ngược lại hai lông mày cao thấp không đều nhau chứng tỏ người này tâm địa hẹp hòi không khoan dung với người khác. Do đó, họ chỉ nhìn thấy sai sót và khuyết điểm chứ không nhận thấy những ưu điểm của người khác, hoặc ghen tức đố kỵ với họ. Cũng chính vì vây mà những người này không được mọi người xung quanh quý mến không có nhiều bạn bè. Trên thực những biểu hiện kể trên của những người này chính là dấu hiệu của sự tự ti, thiếu tự tin.

5. Xem tướng hai mắt đều nhau: người này tâm lý thường rất ổn định

Đôi mắt là bộ phận quan trọng trong các ngũ quan, có ảnh hưởng lớn đến vậi khí của con người. 

- Nếu hai mắt to nhỏ đều nhau, thể hiện người này là người giữ chữ tín, nói đi đôi với làm, nói lời giữ lời, làm việc cẩn thận, tâm lý ổn định, tình cảm không dễ bị ảnh hưởng bởi các nhân tố bên ngoài mà thay đổi.

- Ngược lại, nếu tướng mắt to mắt nhỏ không đều, tức là một mắt to, một mắt nhỏ chứng tỏ người này rất dễ bị ảnh hưởng bởi các nhân tố bên ngoài, tình cảm hay dao động khiến người khác không thể hiểu được. Do vậy, những người này khó sống chung, hòa đồng với người khác. Trong vấn đề tình cảm cá nhân, thường xuyên thay đổi thái độ đối với bạn đời, đôi khi rất lạnh nhạt, thậm chí còn có khuynh hướng bạo lực.

6. Tướng người quanh mắt không có nốt ruồi: cuộc sống an nhàn

- Người mà quanh mắt không có nốt ruồi thì có cuộc sống bình an, thoải mái mà không phải vật lộn nhiều với cuộc sống hằng ngày.

- Nếu ở vùng xung quanh mắt có nốt ruồi thì thể hiện vận thế của người này không tốt, nên cuộc sống khá khó khăn, bận rộn. Trong một thời gian dài bôn ba kiếm sống, họ tỏ ra không tin tưởng những người bên cạnh, thường suy nghĩ một cách cực đoan, tâm trạng có sự thay đổi lớn khiến người khác cảm thấy họ có vấn đề thần kinh. Nếu trong cuộc sống gặp những sự kiện bất ngờ hoặc những tình huống khẩn cấp thường mất kiểm soát về cảm xúc. Do đó, những người này không có nhiều bạn.

Thông thường, những người ngay thuở nhỏ đã có nhân duyên tốt đẹp, được mọi người yêu mến chắc chắn sẽ được cha mẹ và người lớn quan tâm chăm sóc, che chở. Dù trong cuộc sống có gặp chuyện phiền phức gì thì cũng có người giúp đỡ giải quyết. Tướng người này được coi là có vận tốt trời sinh.

Ngược lại, những người ngay từ lúc nhỏ đã không được mọi người xung quanh yêu mến là người không có quý nhân trợ giúp. Trong cuộc sống, khi gặp phải bất cứ khó khăn nào, họ cũng đều phải tự dựa vào sức mình để giải quyết. Do vậy, cuộc sống của những người này tương đối vất vả, bận rộn.

Các nhà Nhân tướng học cho rằng có thể xem bói dựa vào tướng mặt để nhận biết quan hệ với bố mẹ của một người hoặc người này có quỷ nhân giúp đỡ hay không.

tướng người có vận thế tốt

7. Nhật nguyệt giác đầy đặn, thuở nhỏ có vận tốt

Nhật nguyệt giác là bộ phận quan trọng khi các nhà tướng học quan sát trán, bởi nó không chỉ phản ánh sự thông minh tài trí của con người mà còn đại diện cho cha mẹ, dựa vào nó có thể biết được vận thế thuở nhỏ của một người.

- Thông thường, xem tướng có nhật, nguyệt giác đầy đặn là người thông minh, ngay từ nhỏ đã học giỏi và làm việc có đầu có cuối, biết khiêm tốn tiếp thu ý kiến và lời khuyên của cha mẹ và người lớn; cư xử khéo léo, không cực đoan, có giá trị quan đúng đắn.

- Ngược lại, người có nhật, nguyệt giác xấu, không đày đặn là người lúc nhỏ có hành vi không đứng đắn, đạo đức thấp kém, phẩm chất xấu, thường gây chuyện phiền phức. Họ thường không nghe lời cha mẹ và không biết phân biệt phải trái, tốt xấu nên dễ đi vào con đường tội lỗi. 

 8. Tướng lông mày dài qua mắt: hoà thuận với người thân

Lông mày không chỉ phản ánh cá tính của một người mà còn đại diện cho quan hệ của người này đối với người thân trong gia đình.

- Thông thường, tướng người có lông mày dài hơn mắt là người có tình cảm thân thiết hoà thuận với người thân và được cha mẹ quan tâm chăm sóc, yêu thương, che chở.  Nếu lông mày mọc chếch lên trên chứng tỏ vận thế của người này càng ngày càng tốt đẹp, từ nhỏ đã được cha mẹ và người lớn dạy dỗ tử tế.

- Ngược lại, tướng lông mày ngắn hơn mắt có tình cảm không tốt, không hòa thuận với người thân, dễ tạo ra khoảng cách về thế hệ. Nếu lông mày mọc hướng xuống dưới chứng tỏ vận thế của người này càng ngày càng xấu, có thể sẽ liên lụy đến người thân. Cuộc sống của bản thân cũng vất vả, bận rộn. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người giỏi giao tiếp vận thế tốt

Sao Quan Phủ

Hành: Hỏa Loại: Phù Tinh, Hình Tinh Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sa...
Sao Quan Phủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: Hỏa
Loại: Phù Tinh, Hình Tinh
Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén

Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.
 
Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù. 
Ngoài các ý nghĩa tương tự sao Quan Phù, sao Quan Phủ nếu đồng cung (hội chiếu) với Thái Tuế sẽ khiến việc khiếu kiện, việc công vô cùng trắc trở, đặc biệt là kiện tụng, đấu tranh pháp lý...

Quan Phủ Thái Tuế một cung
Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Quan Phủ

Vận dụng triết lý ngũ hành trong Cuộc sống

Vận dụng triết lý tương sinh tương khắc của ngũ hành vào trong cuộc sống. Ứng dụng màu sắc ngũ hành để phối màu khi trang trí nhà cửa, vật dụng, quần áo hay trang sức cũng như phương tiện đi lại.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành với kim – mộc – thuỷ – hoả – thổ chứa những bí ẩn mà ngày nay, khi khoa học kỹ thuật càng hiện đại thì những ứng dụng của nó vào đời sống lại càng nhiều dưới các sắc thái khác nhau của nhịp sống mới. Chẳng phải là mê tín, nhưng những điều này làm cho cuộc sống trở nên thú vị hơn.

Mối quan hệ ngũ hành – cơ thể – sắc đẹp

Theo y học cổ truyền, các chức năng cơ thể con người chịu tác động khá lớn từ môi trường bên ngoài. Nếu thích nghi được với tất cả những sự thay đổi của môi trường thì cơ thể sẽ luôn đạt được sự cân bằng, còn ngược lại cân bằng bị phá vỡ sẽ sinh ra bệnh tật.

Trên nền tảng nhận thức cơ thể mỗi con người là một tiểu vũ trụ, phản ánh dòng chảy của tự nhiên, cơ thể sẽ đạt được trạng thái lý tưởng nhất như thuyết “thiên nhân hợp nhất” khi con người thích nghi hoàn toàn với mọi sự biến đổi của tự nhiên.

Theo y học cổ truyền, 5 yếu tố mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ là 5 vật chất cơ bản cấu thành nên hệ tự nhiên, gọi là ngũ hành.

  • Mộc: gỗ – ứng với mùa xuân, tuổi thơ. Trên cơ thể con người, mộc ứng với gan. 
  • Hoả: lửa – ứng với mùa hè, tuổi trẻ. Trên cơ thể con người, hoả ứng với tim.
  • Thổ: đất – ứng với mùa mưa, tuổi trưởng thành. Trên cơ thể con người, thổ ứng với dạ dày.
  • Kim: kim loại – ứng với mùa thu, tuổi trung niên. Trên cơ thể con người, kim ứng với phổi.
  • Thuỷ: nước – ứng với mùa đông, tuổi già. Trên cơ thể con người, thủy ứng với thận.

Sự thay đổi theo từng mùa sẽ liên quan mật thiết đến tính khí và cơ thể. Mùa xuân và mùa hè ngày dài hơn, khí vận tăng dần nên da trở nên mau mệt mỏi và cằn cỗi sau một ngày dài, rất mẫn cảm với các yếu tố gây kích ứng. Chăm sóc da là cần giữ cho da sạch sẽ, thông thoáng và cân bằng độ ẩm.

Vì vậy thời điểm này không thích hợp sử dụng những mỹ phẩm chứa nhiều chất dầu (vì chất dầu sẽ làm cản trở sự hô hấp của da). Những mỹ phẩm dạng gel trong có thể giúp hạn chế việc sử dụng chất dầu. Những mỹ phẩm chiết xuất từ thảo dược sẽ giúp bảo vệ da, giữ cho da sạch nên khi thoa đem lại cảm giác mát mẻ cho da. Những ngày xuân hè, làn da luôn có sắc diện hồng hào nên chỉ cần trang điểm nhẹ cũng làm đẹp cho con người.

Mùa thu đông ngày ngắn hơn, da dễ bị trạng thái trì trệ, chậm chạp của đêm dài làm mất đi vẻ tươi tắn, trẻ trung. Do thời tiết, da cũng dễ bị khô, bị dày lớp sừng tế bào chết. Do vậy cần bổ sung tối đa mỹ phẩm cung cấp chất tạo ẩm và chất dinh dưỡng nuôi da. Thường xuyên lấy đi lớp tế bào chết để da không bị lão hoá, không bị nhăn già. Mùa thu đông cần những tông màu trang điểm nóng và mạnh để làm ấm lên không khí chung quanh.

Ngũ hành với sắc màu đời sống

  • Màu sắc trang trí trong ngôi nhà luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với người Việt Nam, vì chính màu sắc sẽ giúp mang lại cảm giác thoải mái, tự tin, lấy lại sự bình yên sau những giờ làm việc căng thẳng mệt mỏi ở bên ngoài.
  • Màu sắc của từng bộ phận trong và ngoài ngôi nhà phải được phối một cách hài hoà tương sinh, tương hợp với môi trường xung quanh, với tâm lý tình cảm, sở thích…
  • Màu sắc cũng được phân loại trong thuyết âm dương ngũ hành. Các màu nóng như đỏ – cam – vàng là “màu dương”. Các màu lạnh như xanh dương – xanh lá cây là “màu âm”.

Màu xanh tượng trưng cho mộc, màu hồng tượng trưng cho hỏa, màu vàng tượng trưng cho thổ, màu trắng tượng trưng cho kim và màu tối tượng trưng cho thủy. 

Ứng dụng tính tương sinh và tương khắc, những người thuộc mộc của ngũ hành, ngoài việc có thể chọn màu mộc (xanh) để sử dụng còn có thể dùng màu thủy (xanh đậm) vì thủy sinh mộc và kiêng dùng màu trắng vì trắng là màu của kim mà kim lại khắc mộc.

Chọn màu sắc theo lược đồ ngũ hành thì màu đỏ và màu xanh mang về thêm tài lộc; xanh lá, đỏ và vàng giúp cho danh phận; đỏ và trắng cho hôn nhân; vàng, trắng và đen cho trẻ con; đen và trắng là quý nhân giúp sức; trắng, đen và xanh lá cho nghề nghiệp; đen và xanh lá tăng thêm trí thức; đen, xanh lá và đỏ giúp ích cho phần gia đình. 

Ứng dụng phối màu

Các hành tương sinh và có thể phối hợp với nhau:

Thuỷ và Mộc = Đen và Xanh lục.

Mộc và Hoả = Xanh lục và Đỏ.

Hoả và Thổ = Đỏ và Vàng.

Thổ và Kim = Vàng và Trắng.

Kim và Thuỷ = Trắng và Đen.

Các hành tương khắc và không thể phối hợp:

Thổ và Thuỷ = Vàng và Đen.

Thuỷ và Hoả = Đen và Đỏ.

Hoả và Kim = Đỏ và Trắng.

Kim và Mộc = Trắng và Xanh lục.

Mộc và Thổ = Xanh lục và Vàng.

Tương tự như vậy khi phối màu từ 2 màu trở lên người ta cũng áp dụng các nguyên tắc tương sinh và tương khắc.

Ví dụ:

Phối hợp ba hành để có sự tương sinh là:

Kim – Thuỷ – Mộc = Trắng – Đen – Xanh lục.

Mộc – Hoả – Thổ = Xanh lục – Đỏ – Vàng.

Thổ – Kim – Thuỷ = Vàng – Trắng – Đen

Tính tương sinh của ngũ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tính tương khắc của ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận dụng triết lý ngũ hành trong Cuộc sống

Tại sao mẹ đẻ kiêng đưa con gái về nhà chồng?

Những điều kiêng kỵ trong ngày cưới này đa phần đều ảnh hưởng từ những phong tục, tập quán trong xã hội xưa.
Tại sao mẹ đẻ kiêng đưa con gái về nhà chồng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm mẹ đẻ không đưa con gái về nhà chồng, dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ.

Một vài nơi, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tình cảnh này đã khiến người ta thường kiêng không cho mẹ tiễn con dâu đi lấy chồng, sợ lại xảy ra việc khóc lóc, không hay trong ngày vui trọng đại. Và cho đến bây giờ, tục ấy vẫn còn, mẹ đẻ không bao giờ tiễn con gái về nhà chồng.

Ngoài ra, người ta còn kiêng cô dâu khóc hoặc ngoái lại nhà mẹ đẻ. Trong ngày cưới, người xưa rất kiêng kỵ việc cô dâu khóc và ngoái lại nhà bố mẹ đẻ. Họ cho rằng cô dâu không được vương vấn gia đình vì điều này có thể khiến cô dâu bỏ nhà chồng về nhà mẹ đẻ hoặc cô dâu đó không chu toàn với nhà chồng. Nhưng ngày cưới, đa phần cô dau đều khóc. Nói là kiêng nhưng đây là thứ cảm xúc tự nhiên, không ai cấm đoán được. Thế nên, đã là con gái đi lấy chồng, vì chưa bao giờ xa nhà, thương nhớ bố mẹ thì khóc là chuyện đương nhiên dù rằng, người đàn ông đó là người cô ấy yêu thương và chọn gắn bó cả đời. Việc này không thể kiêng kỵ được.

Mẹ chồng cũng nhất định không được đi đón con dâu. Vì theo quan niệm xưa, mẹ chồng nàng dâu giáp mặt nhau sớm như vậy sẽ xảy ra mâu thuẫn sau này, cuộc sống và mối quan hệ không hòa thuận.

Cũng giống như vậy, việc cô dâu không được xuất hiện trước khi đón dâu, cũng là điều kiêng kỵ. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ thời dựng vợ gã chồng theo ý bố mẹ mà cô dâu chú rể không hề biết mặt nhau cho đến khi kết hôn. Vì vậy, nhiều gia đình cho rằng nhà trai thấy mặt cô dâu trước chú rể sẽ mất duyên và không còn coi trọng đám cưới nữa.

Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn. Thế nên, ở nhiều địa phương, những tục lệ này đã dần bị loại bỏ. Người ta tự ý làm theo cảm xúc cũng như mong muốn của mình. Trên thực tế, việc hạnh phúc trong hôn nhân hay không, mối quan hệ với mẹ chồng, nhà chồng có tốt hay không là phụ thuộc vào mỗi người, không phải dựa vào điều kiêng kỵ gì hết. Thế nên, muốn có cuộc sống ôn hòa, hãy thể hiện quan điểm sống rõ ràng, biết trước biết sau, đối xử chân thành với nhau dù là nhà mình hay nhà chồng đều vậy.

Theo Khám phá
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao mẹ đẻ kiêng đưa con gái về nhà chồng?

Thiên Đức quý nhân - quý hiển, nhân từ

Thiên Đức quý nhân là một trong những sao tốt nhất chủ về sự quý hiển, nhân từ. Người được Thiên Đức quý nhân phù trợ thì cuộc đời gặp nhiều may mắn, nếu có
Thiên Đức quý nhân - quý hiển, nhân từ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Đức quý nhân là một trong những sao tốt nhất chủ về sự quý hiển, nhân từ. Người được Thiên Đức quý nhân phù trợ thì cuộc đời gặp nhiều may mắn, nếu có gặp hung cũng sẽ được hóa giải.

Ba chữ "Phúc, Lộc, Thọ" hợp nhất

Cách tra Thiên Đức quý nhân là lấy chi của tháng sinh làm cơ sở để tra các thiên can và địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Thiên Đức nhập mệnh.

- Tháng Tý thấy chi Tỵ

- Tháng Sửu thấy can Canh

- Tháng Dần thấy can Đinh

- Tháng Mão thấy chi Thân

- Tháng Thìn thấy can Nhâm

- Tháng Tỵ thấy can Tân

- Tháng Ngọ thấy chi Hợi.

- Tháng Mùi thấy can Giáp.

- Tháng Thân thấy can Quý.

- Tháng Dậu thấy chi Dần.

- Tháng Tuất thấy can Bính.

-. Tháng Hợi thấy can Ất.

Người sinh vào ngày 6h ngày 21/9/1990 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Tân Mão, ngày Bính Tý, tháng Bính Tuất, năm Canh Ngọ.

Theo trường hợp 11, chi Tuất của tháng (Bính Tuất) gặp can Bính của ngày (Bính Tý) hoặc can Bính của tháng (Bính Tuất), do vậy tổ hợp này xuất hiện Thiên Đức quý nhân.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên Đức quý nhân - quý hiển, nhân từ

Mơ thấy quan hệ –

Giấc mơ về tình dục ám chỉ những bí mật và ý nghĩa của cuộc sống. Bạn có thể đang đối mặt với các vấn đề của sinh đẻ, hôn nhân, và/hoặc cái chết. Ngoài ra, nó cho thấy rằng bạn đang quan tâm về sự mất đi sự quyến rũ tình dục của mình Giấc mơ về tình
Mơ thấy quan hệ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quan hệ –

Mười bí quyết tìm dụng thần

Dưới đây, sẽ liệt kê ra mười bí quyết quan trọng khi tìm dụng thần, tức mười khái niệm cơ bản khi tìm dụng thần. Sau khi hiểu rõ cách tìm dụng thần, tôi sẽ dùng ví dụ thực tế về thiên can để giải thích cho mọi người hiểu rõ về sự biến hóa của dụng thần theo sự khác nhau của thiên can và tháng sinh.
Mười bí quyết tìm dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sát nặng thân nhẹ, nên dùng ấn hóa sắt; thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dũng kiếp   Gọi là "Sát nặng thân nhẹ", ví dụ nhật nguyên thuộc Mộc, thân nhẹ là chỉ thân nhược, sát nặng tức Kim cường vượng. Kim mạnh mẽ chặt vào Mộc yếu ớt, làm sao có thể cứu được Mộc? Nên lấy Ấn hóa sát. Thủy sinh Mộc,Thủy là Ấn của Mộc, tức là mẹ của Mộc. Thủy sinh Mộc, Mộc sẽ trở nên cường tráng. Khi Thủy xuất hiện, Kim mạnh sinh Thủy, Thủy nhiều có thể tiết bớt sức mạnh của Kim, khiến Kim bị tổn thương nguyên khí, không còn sức lực để khắc Mộc. Vì vậy, Thủy lúc này có hai công dụng, một là tiết khí của Kim mạnh, hai là sinh vượng Mộc của nhật nguyên. "Thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dùng Kiếp", ý nói là Mộc này rất yếu, nhưng Tài lại cực vượng. Mộc khắc Thổ là Tài, vậy phải dùng cách nào để vận tài? Tốt nhất dùng Kiếp, tức anh chị em, cũng là Mộc. Dùng Mộc mạnh để tiếp nhận Thổ mạnh, tự nhiên có thể cân bằng. Chắc hẳn sẽ có một số người cảm thấy nghi hoặc: "Tại sao không dùng Thủy để sinh Mộc"? Vì Ấn tinh là Thủy, mà Thổ rất mạnh, Thổ có thể khác Thủy, tức Thổ sẽ khắc chế Ấn tinh. Khi có Thủy đến sinh Mộc, Mộc đã rất yếu ớt rồi, cho dù có gặp Thủy cũng không thể tiếp tục sinh trưởng được nữa, vì vậy không thể dùng Ấn để cứu. Giả dụ bạn muốn trúng xổ số, nhưng bạn lại là thân nhược, muốn tìm một người mang tiền đi mua giúp, nhưng không nên tìm mẹ. Vì tôi đã nói với bạn rằng, thân nhược mà muốn kiếm được nhiều tiền, nếu tìm mẹ để hợp tác, sẽ không thể thành công. Bạn cần phải tìm anh chị em để hợp tác, mới có thể kiếm được món tiền lớn. Theo nguyên lý này, người thân nhược muốn kiếm nhiều tiền, cẩn phải tìm người hợp tác. Giả dụ bản thân thuộc Kim, người Kim vượng sẽ là đối tác tốt của bạn, người này có thể sinh vượng cho ngũ hành của bạn. Trên đây lấy Mộc làm ví dụ, những ngũ hành khác cũng tương tự như vậy. Trong Bát tự, thứ mà nam giới khắc sẽ là vợ, nếu như bạn chưa lập gia đình, bạn sẽ tìm được vợ trong tình huống nào? Không được tìm mẹ để giúp đỡ, mặc dù mẹ cũng rất sốt ruột. Muốn tìm vợ, phải nhờ anh em, bạn bè giới thiệu, mới có cơ hội gặp được người thích hợp. Áp dụng nguyên lý "Sát nặng thân nhẹ, nên dùng Ấn hóa Sát; thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dùng Kiếp" này vào trong quan hệ giao tiếp thường ngày, bạn sẽ hiểu rằng, tại sao mẹ và vợ bạn luôn xung khắc với nhau. Người thân cường có thể quản chế được vợ, còn người thân nhược sẽ không thể. Lúc này phải tìm ai để thuyết phục vợ? Có thể tìm anh chị em, nhưng không được tìm mẹ. Bạn là Mộc, mẹ là Thủy, Mộc khắc Thổ là vợ, mà Thổ khắc Thủy, mẹ bạn sẽ bị vợ khắc. Tại sao mẹ và vợ lại thường xuyên xung khắc nhau, có thể giải thích được từ nguyên lý Bát tự. Nếu như bạn thân nhược, lại tìm mẹ để hòa giải cho bạn và vợ, chắc chắn sê thất bại. Xuất phát từ Bát tự có thể lý giải mối quan hệ của rất nhiều người, bạn cứ tìm hiểu từng bước, bạn sẽ phát hiện được nhiều bí mật cuộc đời.   2. Nhật chủ cường vượng, ấn gặp nhiều, phải lấy tài tinh làm dụng   Câu nói có nghĩa là, khi nhật nguyên được sinh quá nhiều, nhất thiết không được dùng Quan Sát dể hóa giải, mà nên dùng Tài tinh. Ví dụ nhật nguyên là Mộc, Ấn đến nhiều, tức có rất nhiều Thủy sinh Mộc. "Lấy Tài tinh làm dụng" có nghĩa là, phải lất ngũ hành Thổ để khắc chế Thủy, khiến Thủy không tiếp tục lộng hành nữa. Giả dụ Mộc vượng mà dùng Sát, kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại, vì Kim khắc Mộc là Sát, nhưng Kim có thể sinh Thủy, sẽ tăng vượng cho Chính Ấn, vì vậy nhất định phải dùng Tài. Nói cách khác, khi cha có rất nhiều vợ, sẽ khiến con cái muốn rời khỏi nhà. Khi mẹ hung dữ, con cái sẽ mong sớm kết hôn. Mọi người hãy tiếp tục suy ngẫm, để tự lĩnh ngộ ra được huyền cơ trong đó.    3. Nhật vượng quan khinh, tài tinh là dụng   Nhật nguyên thuộc Mộc vốn dĩ rất vượng, nhưng không có Kim, tức Quan Sát rất nhẹ, thì lấy dụng thần là Thổ, vì Thổ có thể sinh Kim, có thể tăng cường Quan Sát.   4. Nhật vượng tỷ kiếp nhiều, nếu không có tài tinh, lấy thực thương làm dụng   Câu này có nghĩa là, nếu như bạn là Mộc, làm cách nào để giúp bạn có được thân cường? Đương nhiên phải dựa vào Thuỷ! Sau khi bạn đã trở nên cường tráng, Mộc khắc Thổ là Tài. Giả dụ trong Bát tự có tài, tức có rất nhiều Thổ, cho thấy bạn sẽ phát tài, nhưng tình huống này ít khi xảy ra. Làm cách nào mới có thể đại phát? Không phải gặp được Tài tinh, mà là gặp được ngũ hành sinh vượng Tài tinh. Loại ngũ hành nào càng vượng, thì càng có nhiều Hỏa để sinh vượng Thổ đó, liên tục ra sức trợ giúp, mới có thể khiến tài phú không bao giờ cạn, đậy mới là đại phát. Giả dụ đây là Bát tự của nữ giới, con cái sinh ra có thể làm tráng vượng Tài tinh, vì Mộc sinh Hỏa là con cái, Hỏa có thể sinh Thổ, Thổ là Tài tinh. Phụ nữ phải sinh con, chồng mới đem lại cho tài phú, bố chồng mới cho ruộng đất. Vì vậy phụ nữ phải sinh con mới có thể phát đạt. Giải thích dựa theo lý luận Bát tự, con cái có thể liên tục sinh vượng cho tài tinh của mẹ. Nguyên lý của Bát tự học là: Khi bản thân minh thân cường, điều cần làm trước tiên là cố gắng động não và sáng tạo, mới có thể liền tục có được tài phú. Nếu như là nam giới, Mộc sinh Hỏa tượng trưng cho sự nghiệp và sáng tạo, tượng trưng cho sự phấn đấu trong công việc. Nếu không cần cù làm việc và sản xuất, bao gồm cả việc sinh con cái, thì sẽ không thể có được tài phú.   5. Nhật chủ nhược, quan sát trọng, dùng ấn để cứu   Nhật nguyên rất yếu, có rất nhiều thị phi khắc chế nhật nguyên, phải dùng Ấn để giải cứu, tức tìm mẹ nhờ giúp đỡ. Giả dụ bạn thân nhược mà thường xuyên gặp kiện tụng thị phi, thậm chí thường xuyên gặp sự cố ngoài ý muốn. Bạn phải cố gắng luôn ở bên mẹ, cũng phải ngủ nhiều, ăn nhiều và tích cực lao động, tu dưỡng.   6. Nhật chủ nhược, thực thương nhiều, dùng ấn để cứu   Nhật nguyên rất yếu. Thực Thương nhiều, sẽ phải thường xuyên làm nhiều công việc, khiến cơ thể mệt mỏi quá độ tự nhiên thân sẽ yếu ớt. Nếu như thân quá nhược, sẽ rất khó tìm được chồng hoặc vợ. Phương pháp là dùng Ấn để cứu, thường xuyên ở bên cạnh mẹ, tốt nhất là ở cùng với mẹ. Rất nhiều người đã khá lớn tuổi mà vẫn còn ở cùng với mẹ, nguyên nhân rất lớn là do thân nhược, lại thường xuyên bận bịu với công việc, vì vậy cần phải ở chung với mẹ để trợ vượng cho bản thân mình.   7. Nhật chủ nhược, tài tinh nhiều, dùng tỷ kiếp trợ giúp   Anh em bạn bè là Tỷ Kiếp. Nhật chủ rất nhược, nhưng Tài tính lại nhiều, muốn tìm người để kết hôn, phải nhờ anh chị em giúp đỡ, mới có thể có được "thê tài".   8. Nhật chủ và quan sát tương đình, lấy thực thương làm dụng   "Tương đình" chỉ sức mạnh của hai bên ngang nhau. Nếu như nhật nguyên thuộc Mộc, bên cạnh có rất nhiều Kim, tức có rất nhiều Quan Sát, phải lấy Thực Thương làm dụng thần, tức lấy Thực Thương để khắc chế Quan Sát Chỉ cẩn chăm chỉ làm việc, tự nhiên có thể sinh Hỏa, Hỏa nhiều tự nhiên có thể thiêu đốt vào Kim của nhật nguyên, khiến Kim không tiếp tục lộng hành được nữa. Nếu như bạn là nữ thuộc Mộc, bạn hãy sinh con, như vậy sẽ không sợ bị chồng ức hiếp nữa, vì Kim khắc Mộc là chồng của bạn. Làm cách nào để tránh bị chồng khắc chế? Đó là hãy sinh ra một em bé để dịch chuyển sự chú ý của người chồng, tự nhiên chồng bạn sẽ đối xử với bạn khác trước, đây là điều kỳ diệu của Bát tự, tức từ nhật nguyên sinh ra một Hỏa để cân bằng Kim.   9. Nhật chủ và tài tinh mạnh ngang nhau, lấy tỷ kiếp làm dụng   Thân cường mà Tài tinh cũng cường vượng, phải tìm đến thật nhiều anh em, tức hợp tác với Tỷ Kiếp, mới có đủ khá năng để gánh vác tài.   10. Chi ngày hợp hóa, hóa thần không đủ, lấy thần trợ giúp hóa thần làm dụng; hóa thần dư thừa, lấy thần tiết khí hóa thần làm dụng      Giả dụ Bát tự dụng thần là Kim, trong Bát tự có hợp Kim đương nhiên sẽ là hợp cục tốt, Nhưng nếu như hợp cục thuộc Mộc mà không phải thuộc Kim, Mộc không phải là dụng thần, hợp cục Mộc đương nhiên sẽ có hại đối với bạn, vì vậy ban phải hóa tiết nó, khiến nó không thể hợp thành cục.

Nguồn: Lý Cư Minh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mười bí quyết tìm dụng thần

Căn hộ chung cư: cách hóa giải sát khí

Ngày nay, với nhịp sống công nghiệp, đất hẹp người đông, chọn lựa căn hộ chung cư là nhu cầu tất yếu. Nhưng vấn đề thiết kế căn hộ chung cư phạm rất nhiều kiêng kỵ theo thuật phong thủy, cũng như môi trường sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hóa giải phong thủy cho cửa đối nhau và hành lang dài xung chiếu:

Các căn hộ chung cư được thiết kế theo dãy, cửa chính thường đối diện nhau, nhà này xung thẳng sang nhà kia. Một số căn hộ còn ở vị trí bất an như cuối hàng lang dài hay chân cầu thang, và cửa chính thẳng với cửa ban công, do đó khí vận chuyển sẽ không được lưu thông tốt, và quá nhanh (tạo ra khí trường, lưu thông gấp) dễ dẫn đến người sống bên trong căn hộ thường xuyên bệnh hoạn, tán khí cũng có nghĩa tán tài, đó là những vấn đề thường gặp và là tối kỵ theo phong thủy học

Để khắc phụ tình trạng này có không ít người đã treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện. Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ đã dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngãi, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Điển hình như: một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải.
Phong thủy Căn hộ chung cư
Như thế sẽ dẫn đến việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi và gây ra sự bất hòa không cần thiết, mà kết quả không có gia đình nào được an ổn, theo bạn với việc sử dụng những pháp khí này như ra chiến trường đánh nhau thì có thể giải quyết bất ổn được không? Có nhiều cách hóa giải nhẹ nhàng và đạt hiệu quả tối ưu hơn những cách hóa giải trên. Việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó bạn không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là đặt bình phong trước cửa cho chính căn hộ mình hoặc trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương), vừa hiệu quả tốt vừa nhẹ nhàng mà còn có thiện cảm.
Bạn cũng có thể bàn với nhà hàng xóm cùng nhau thực hiện, như thế cả hai nhà cùng tự tạo phúc cho mình và có phúc lớn trời ban nữa, được như vậy thì tại sao không làm nhỉ?
Các bạn cũng có thể dùng cách hóa giải này cho căn hộ có cửa chính - cửa ra ban công thẳng hàng và cửa chính xung với hàng lang dài, cộng thêm yêu cầu ban quản lý thắp đèn sáng sủa để tránh âm khí.

Và khuyết điểm bố cục phong thủy nội thất:

Bất lợi đầu tiên ở căn hộ chung cư chính là người bên ngoài có thể quan sát thẳng vào phòng khách và nhà bếp khi mở cửa. Điều này không tốt theo thuật phong thủy. Tuy nhiên khả năng di chuyển bếp lại khó khăn bởi phụ thuộc vào hệ thống đường nước và kết cấu kiến trúc của cả tòa nhà. Bởi vậy, nên đặt những vách ngăn lửng phân chia không gian, có thể là bình phong, kệ tủ, vách gỗ… tách biệt giữa bếp và phòng khách.
Phong thuy phong bep
Phong thuy phong khach
Phòng ngủ và giường ngủ phải tránh đối diện với cửa nhà vệ sinh, đặc biệt là với những người có bát tự kỵ Thủy. Nhưng đối với căn hộ chung cư, diện tích nhỏ nên khó tránh khỏi vấn đề này. Biện pháp che chắn khuyết điểm này là bạn nên đóng cửa nhà tắm thường xuyên khi không sử dụng và tuyệt đối giữ vệ sinh sạch sẽ (và chú ý bồn cầu phải đây nắp khi sử dụng xong).
Phong thuy phong ngu
Các phòng không vuông vắn, có vát góc dẫn đến việc khó bố trí đồ dùng cho cân bằng, giải pháp là có thể đóng tủ, kệ vừa vặn với vị trí bị lệch hoặc kê chậu cây giúp che chắn cũng như tạo cân bằng khí tốt.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Căn hộ chung cư: cách hóa giải sát khí

Chọn tuổi xông nhà cho tuổi khắc năm Bính Thân

Những người tuổi Dần hay mang mệnh Kim sẽ gặp nhiều trắc trở trong năm nay. Ngày đầu năm mới, người đến xông nhà cần tương sinh về cả thiên can, địa chi, ngũ hành để giúp giảm bớt vận xui trong năm mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi xấu năm Bính Thân

Năm 2016 là năm Bính Thân (con khỉ), có ngũ hành năm sinh là Sơn Hạ Hoả (lửa chân núi). Năm nay, 'con khỉ lửa' có thể đem lại ánh sáng và hơi ấm hoặc có thể bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho sự phát triển mạnh mẽ. Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính hung hãn, hiếu chiến.

Nếu tính theo địa chi 12 con giáp, thì tam tai là Dần - Ngọ - Tuất chịu ảnh hưởng xấu nhiều nhất; sau đó mới đến các tuổi phạm Tứ hành xung là Dần - Thân - Tỵ - Hợi. Cuối cùng là Mão - Sửu. Như vậy, trong 12 con giáp, năm nay tuổi Dần chịu nhiều xung khắc nhất khi bước vào năm Bính Thân.

Xét về Can, thì năm Bính: "sinh Mậu, hợp Tân, khắc Canh, xung Nhâm". Như vậy, những người có can chi là Canh, Nhâm sẽ gặp nhiều vận xấu trong năm nay. Về ngũ hành, năm nay mệnh Hỏa nên những người sinh có mệnh Kim sẽ chịu ảnh hưởng nhiều. 

 chon tuoi xong nha cho tuoi khac nam binh than - 1

Tuổi khắc với Bính Thân nên chọn ai xông đất

Khi chọn người xông đất, gia chủ cần chú ý chọn mặt gửi vàng những người tương sinh với mệnh của mình và hợp với năm Bính Thân. 

- Về địa chi: Không nên chọn những người có tuổi xung sao Thái Tuế, hợp chiếu Thái Tuế và Tuế pha trong năm Bính Thân gồm các tuổi Dần – Thân – Hợi. Bạn nên cân nhắc các tuổi Tam hợp hoặc Nhị hợp với gia chủ. Ví dụ như gia chủ tuổi Dần nên chọn người tuổi Ngọ hoặc Tuất. 

- Về thiên can, có những cặp thiên can hòa hợp, bổ sung cho nhau. Theo đó, Ất hợp Canh, Bính hợp Tân, Đinh hợp Nhâm, Mậu hợp Quý, Kỷ hợp Giáp. Những người có thiên can Canh hoặc Nhâm cần chọn trúng người mang Can hợp là Ất và Đinh.

- Cuối cùng, cần chọn cả ngũ hành tương sinh là tốt nhất. Nếu năm Bính Thân, khách xông đất và chủ nhà đều xung nhau thì vẫn có cách để “hóa giải”, như bổ sung thêm thành phần ngũ hành thiếu để tạo thành vòng tương sinh khép kín. Ví dụ như năm Bính Thân hành Hỏa, gia chủ mệnh Kim, khách xông hành Mộc. Theo ngũ hành Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy. Ta có thể bổ sung thêm hai người nữa mang mệnh Thủy và Thổ để tạo vòng tương sinh. Có thể mời người trong nhà hoặc người ngoài để cùng nhau bước vào nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tuổi xông nhà cho tuổi khắc năm Bính Thân

Cách bài trí cây ngày Tết để rước tài lộc –

Trong các dịp xuân, mọi người thường chọn những loại cây cảnh để trưng trong nhà. Không đơn giản là làm đẹp nhà, mà những loại cây này đều có ý nghĩa may mắn riêng về mặt phong thủy. Cây quất (cây quýt) Mang ý nghĩa ttượng trưng cho sự thu hoạch và c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong các dịp xuân, mọi người thường chọn những loại cây cảnh để trưng trong nhà. Không đơn giản là làm đẹp nhà, mà những loại cây này đều có ý nghĩa may mắn riêng về mặt phong thủy.

Cây quất (cây quýt)
Mang ý nghĩa ttượng trưng cho sự thu hoạch và cũng là một khởi đầu tốt đẹp, vì thế, vào đầu năm mới, ta thường thấy mỗi gia đình mua một cây quất (quýt) quả vàng xum xuê, lá xanh tốt với mong muốn khởi đầu một năm mới tốt đẹp, giúp gia tăng tiền tài và vận may cho các thành viên trong gia đình.

cach-bai-tri-cay-ngay-tet-de-ruoc-tai-loc-4-XemBoi.Us-1Cây quất tượng trưng cho khởi đầu một năm mới tốt đẹp, no ấm.

Cây hoa đào
Nếu miền Nam chuộng hoa mai trong ngày Tết thì miền Bắc nước ta lại thường mua những cành đào để trang trí cho căn nhà vào những ngày đầu xuân. Hoa đào không chỉ có tác dụng xua đuổi tà ma mà còn có thể mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh và bình an trong năm mới.

cach-bai-tri-cay-ngay-tet-de-ruoc-tai-loc-5-XemBoi.Us-1Cành đào với ý nghĩa mang nguồn sinh khí mới, giúp mọi thành viên khỏe mạnh trong năm mới.

Cây tre
Theo các quan niệm phong thuỷ truyền thống, tre được dùng sẽ mang lại sức khoẻ, hạnh phúc, tình yêu và sự thịnh vượng. Ngày nay, tre không chỉ được dùng để trang trí trong gia đình, mà còn được sử dụng tại công sở, văn phòng làm việc…
Bạn có thể treo tranh cây tre trong nhà, văn phòng để tăng cường ý nghĩa tốt đẹp trên. Đối với công việc buôn bán, khi có sự hiện hữu của cây tre trong cửa hàng thì nó sẽ tạo năng lượng rất tốt cho chủ về sự bảo vệ và may mắn. Việc làm ăn của bạn sẽ vượt qua những giai đoạn khó khăn và ngày càng phát đạt.

Nụ tầm xuân

Mặc dù không nở hoa khoe sắc như các loại hoa khác nhưng nụ tầm xuân vẫn được nhiều người dân chọn mua về chưng trong những ngày tết, bởi nụ tầm xuân mang ý nghĩa may mắn và thịnh vượng.

cach-bai-tri-cay-ngay-tet-de-ruoc-tai-loc-6-XemBoi.Us-1

 

Thường nụ tầm xuân “nguyên thủy” có màu trắng. Sau khi nhập về, các chủ hoa ngâm nước màu cho nụ thêm “xuân”. Ngày tết hai màu đỏ và vàng được ưa chuộng nhất.

Cây kim tiền
Cây kim tiền có lá kép dạng to, lá dày, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 – 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy Kim Tiền được coi là cây “phát” – Kim phát tài.

cach-bai-tri-cay-ngay-tet-de-ruoc-tai-loc-7-XemBoi.Us-1

Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.

Được coi là loại cây “phú quý”, có tác dụng chiêu tài nên Kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương.

cach-bai-tri-cay-ngay-tet-de-ruoc-tai-loc-8-XemBoi.Us-1

Cây kim tiền nở hoa sẽ mang lại nhiều lộc và may mắn nhất. Nên bày cây ở hướng Đông, Đông-nam trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bài trí cây ngày Tết để rước tài lộc –

Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Thật lạ lùng là sau gần hai thế kỷ, giới khoa học vẫn chưa xác định xem thôi miên là hiện tượng tâm linh hay khoa học, nhưng tác dụng của nó thì là điều không
Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về thực chất, thôi miên là gì? Thật lạ lùng là sau gần hai thế kỷ khảo sát, giới khoa học vẫn chưa đạt được sự nhất trí trong vấn đề căn bản đó. Thậm chí, còn chưa thể xác định xem nó là hiện tượng tâm linh hay khoa học, nhưng tác dụng của thôi miên thì là điều không cần bàn cãi.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Thoi mien - hien tuong mo ho va tac dung thiet thuc hinh anh
 
Kiểm soát đau
Dưới thôi miên, bệnh nhân đau mãn tính được ám thị rằng, cơn đau giảm hay biến mất. Sự phân ly nhân cách dưới thôi miên như thế là một phương thức “đánh lạc hướng” các trung khu cảm nhận và giải đoán đau trong não, nên có tác dụng giảm đau tốt. Thôi miên rất có ích trong giảm đau khi sinh nở và khi chữa răng.
 
Cai nghiện thuốc lá Dù không thành công trong nghiện rượu và ma túy, thi thoảng thôi miên giúp cai nghiện thuốc lá. Người đang dưới thôi miên được ám thị rằng, mùi vị thuốc rất khó chịu. Cách khác là người nghiện tự thôi miên để từ bỏ thèm muốn hay tự ám thị rằng họ có cách bảo vệ bản thân khỏi sự độc hại của khói thuốc.
 
Điều trị một số rối loạn tâm lý Thôi miên thường dùng để tạo thư giãn, giảm lo âu hay sửa chữa các ý nghĩ tự hủy hoại ở một số rối loạn tâm thần.

Điều tra tội phạm Thôi miên được dùng để nhớ lại các tình tiết vụ án mà nhân chứng đã quên. Tuy nhiên thông tin thu được thường chỉ có ý nghĩa tham khảo chứ không có tính pháp lý.
 
Cải thiện thành tích thể thao Thỉnh thoảng giới vận động viên chuyên nghiệp dùng thôi miên để cải thiện thành tích. Chẳng hạn võ sĩ vô địch thế giới Ken Norton thường thôi miên trước lúc thượng đài, còn ngôi sao bóng rổ nhà nghề Mỹ Rod Carew dùng thôi miên để tăng sự tập trung trong thi đấu.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Trong đời sống hằng ngày ngôi mộ là nơi an nghỉ của ta ở thế giới cực lạc, nơi truốt bỏ hết mọi thứ về không còn ưa phiền của cuộc sống. Mơ thấy sự chết chóc cảm giác mang lại cho ta nỗi lo, nỗi sợ ẩn chứa nhiều điều tâm linh. Bạn có bao giờ hoang ma
Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Nốt ruồi sau gáy đàn ông, phụ nữ có ý nghĩa gì?

Ý nghĩa nốt ruồi sau gáy đàn ông và phụ nữ khá là khác biệt nhau. Nhưng khác nhau như thế nào, những người có nốt ruồi sau gáy tốt hay xấu, chúng ta cùng Phong thủy số tìm hiểu điều này nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa nốt ruồi sau gáy đàn ông và phụ nữ khá là khác biệt nhau. Nhưng khác nhau như thế nào, những người có nốt ruồi sau gáy tốt hay xấu, chúng ta cùng Phong thủy số tìm hiểu điều này nhé.

Nốt ruồi sau gáy đàn ông, phụ nữ có ý nghĩa gì?

Nhiều người quan niệm rằng nốt ruồi sau gáy thường sẽ khổ vì tình. Vị trí nốt ruồi sau gáy thường nằm trong khoảng bán kính 3cm xung quanh phía cổ sau. Nhưng thực tế không nhiều người có nốt ruồi ở gáy, nếu bị hoạt hóa thì nốt ruồi ở sau gáy cũng có thể biến hung thành cát, mang tới điềm phú quý cát tường.

Nốt ruồi sau gáy có ý nghĩa gì?

Theo quan niệm dân gian, nốt ruồi đằng sau gáy có ý nghĩa là những người khổ vì tình. Nguồn gốc xuất hiện nốt ruồi đằng sau gáy là khi kiếp trước của người này, lúc chết đi phải vượt qua cầu Nại Hà ( đây là cây cầu thứ 10 dưới địa ngục, là ranh dưới cuối cùng của địa ngục và trần gian, sau khi đi qua cầu thì linh hồn sẽ được đưa đến Phong Đô để đầu thai chuyển kiếp). Khi đứng tại đây họ phải bắt buộc thực hiện một nghi lễ và uống bát canh quên lãng Mạnh Bà, quên đi mọi chuyện của kiến trước. Những người có nốt ruồi sau gáy là những người được đánh dấu bởi họ không uống bát canh Mạnh Bà.

Theo quan niệm thì vì họ không uống bát canh Mạnh bà, nên không thể quên những người ở kiếp trước, những việc ở kiếp trước. Sau khi đầu thai có thẻ họ sẽ đi tìm những người có duyên với mình từ kiếp trước hoặc cũng có thể hoàn thành tâm nguyện mà kiếp trước họ chưa thực hiện được.

Nốt ruồi sau gáy đàn ông.

Đối với đàn ông thì nốt ruồi sau gáy đàn ông có ý nghĩa là đại diện cho quyền lực, có nền tảng hoặc có chỗ dựa vững chắc.

Nốt ruồi sau gáy phụ nữ

Với vị trí nốt ruồi sau gáy nữ thì có ý nghĩa là người khôn ngoan. Nếu thêm vài nét tướng pháp thì cho thấy người này có trí tuệ, thông minh và sâu sắc. Bằng không cũng là người hay đa đoan, suy nghĩ có cân nhắc, tỉ mỉ.

Xem tướng nốt ruồi sau gáy.

Đối với vị trí nốt ruồi sau gáy cả nam và nữ nếu xét về vị trí thì bạn là người may mắn khi sở hữu nốt ruồi này. Bởi ai sở hữu nốt ruồi sau gáy đều được quý nhân phù trợ trong công việc và sự nghiệp. Bản tính người này cũng rất khiêm nhường, không khoe mẽ hay ngạo mạn. Cho dù hậu vận có thành công thì vẫn luôn khiêm tốn. Xét về tính cách thì những người này thường là mẫu người lí tưởng, sống có trách nhiệm, biết cách cỗ vũ bản thân không ngừng phấn đấu nỗ lực tốt hơn.

Về tình duyên thường khá lận đận, gian nan, có nhiều sóng gió. Nhưng nếu kiên trì tới cùng thì sẽ gặp được tình yêu đích thực, hôn nhân từ đó cũng bền vững.

Xem thêm những bài viết liên quan khác tại đây:

+ Nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì?

+ Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu

+ Nốt ruồi ở vai phải có ý nghĩa gì?

Key liên quan: nốt ruồi sau gáy phụ nữ, nốt ruồi ở sau gáy, nốt ruồi đằng sau gáy, nốt ruồi sau gáy có ý nghĩa gì, nốt ruồi sau gáy tốt hay xấu, nốt ruồi sau gáy nam, nốt ruồi ở gáy, nốt ruồi sau gáy nữ, ý nghĩa nốt ruồi sau gáy, nốt ruồi đằng sau gáy có ý nghĩa gì, nốt ruồi giữa gáy, xem bói nốt ruồi sau gáy, xem nốt ruồi sau gáy, nốt ruồi sau gáy đàn ông, xem tướng nốt ruồi sau gáy đàn ông, nốt ruồi sau gáy bên trái đàn ông, nốt ruồi sau gáy đàn ông có ý nghĩa gì, đàn ông có nốt ruồi sau gáy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi sau gáy đàn ông, phụ nữ có ý nghĩa gì?

Tướng đàn ông phú quý –

Xem vận số người đàn ông qua tướng Điền Trạch để đoán biết cuộc sống gia đình, phẩm chất đạo đức và mối quan hệ tình cảm của mỗi người. Cung Điền Trạch nằm ở phần giữa lông mày và mắt, chính là phần thể hiện tài sản, đất đai, hoàn cảnh gia đình và da
Tướng đàn ông phú quý –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông phú quý –

Phương pháp sửa lỗi

Cái nhân của việc sửa lỗi Vào thời đại Xuân Thu, các quan chức của nhiều nước chư hầu thường có sự lai vãng giao hảo, khi thấy cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của một người nào, hoặc là lời khinh bạc, hoặc thái độ ôn hòa nhân hậu, họ có thể đàm luận về số phận của con người đó sẽ gặp họa hay phúc và lời suy đoán của họ không phải là không ứng nghiệm. Những sự tình như vậy đều có ghi rõ trong các sách sử như Tả truyện hay Quốc ngữ mà ta có thể đọc biết được.
Phương pháp sửa lỗi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại để những dự triệu biết trước các việc cát hung đã nẩy mầm ngay ở nơi tâm khi dấy khởi động niệm và phát xuất ra ngoài tứ chi, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc chỉ tham đồ cho riêng mình thường gặp họa. Người trần con mắt phàm nhãn quang bị che lấp nên không thấy được mà cho rằng họa phúc chưa nhất định hình thành thì không thể suy đoán trước được.

Một người có lòng chí cực thành thật là tương hợp với lòng trời, nên chỉ cần quan sát xem họ làm những điều thiện hay bất thiện thì đủ biết trước được là họ sẽ gặp phúc hay họa tới.

II– Nền tảng của việc sửa lỗi

1.  Lòng xấu hổ

Ngày nay, muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều thứ nhất cần phải biết tri sỉ, biết tự hổ thẹn. Nên biết rằng các bậc thánh hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta sao lại chịu thân tàn hủ bại. Đó là tự mình đắm say ngũ dục lục trần, nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa mà cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một ngày càng sa đọa vào vòng cầm thú mà chẳng tự biết.

Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự sỉ, biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi.

2.Lòng úy kính

Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Thiên địa quỷ thần khó mà có thể khi dễ, lỗi của chúng ta tuy ẩn nhẹm, kín đáo người đời không biết mà thiên địa quỷ thần đều có thể soi xét thấu rõ, nặng ắt sẽ giáng trăm điều tai ương, nhẹ ắt sẽ giảm phúc được hưởng. Chúng ta há chẳng đáng nên sợ hay sao!

Không những chỉ có vậy, ở những nơi thanh nhàn vắng vẻ chỉ riêng có độc một thân một mình cũng đều là bị quỷ thần giám sát, che đậy thật khéo mà thần minh cũng đã sớm thấu rõ đến tận gan phổi của mình, vậy nên khó mà có thể tự lừa dối lấy mình mãi mãi được; một khi bị người đời phát hiện sự dối trá che đậy giấu nhẹm của mình thì lúc đó thân phận mình chẳng đáng giá lấy một đồng xu. Vậy há không nên e dè úy kính hay sao!

Không những chỉ như vậy, khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều có thể sám hối cải sửa. Người xưa một đời làm ác, lúc gần lìa đất xa trời, phát một niệm thiện, thành tâm hối lỗi, bèn được an lành từ giã cõi đời, nên nói là chỉ một niệm dũng mãnh thật chí thành đủ để tẩy sạch được trăm năm tội ác, cũng tỷ như một hang cốc tối tăm hàng ngàn năm bỗng có một ngọn đèn chiếu rọi tới thì ngàn năm tăm tối đó đều bị tiêu trừ, cho nên không cần biết là tội đã phạm từ lâu nay, hay mới phạm gần đây, chỉ có phát tâm cải sửa mới là điều quý.

Bất quá cõi trần là vô thường không nhất định, thân huyết nhục dễ bị hủy hoại , nếu cứ cho là làm lỗi có thể sửa được mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó mới muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng e dè sợ sệt hay sao!

3.  Lòng dũng mãnh

Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi, đa số là vì phóng túng biết lỗi đấy mà bỏ đấy nên bị thoái hậu, thụt đầu lùi lại không đường tiến. Chúng ta cần phải phấn khởi, dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình không chờ đợi, không trù trừ hoài nghi nữa.

Lỗi nhỏ ví như cái gai đâm vào thịt phải mau chóng rút bỏ ra. Lỗi lớn tựa như rắn độc cắn vào ngón tay, cần phải quyết tâm chặt bỏ ngay không chút ngần ngừ do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ phong lôi trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy.

Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan.

III – Phương pháp sửa lỗi

1.Theo sự tướng

Tuy nhiên tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự việc như thế gọi là theo sự thực xảy ra mà cải sửa vậy.

Ngày nay phạm lỗi, ngày mai cố sửa, cứ theo sự việc xảy ra ở bên ngoài mà miễn cưỡng kiềm chế lấy mình để khỏi phạm nữa, thực là trăm phần khó vì chung cục bệnh căn vẫn tồn tại, bởi nay ở bên đông hết tội, mai tội lại nẩy sinh ra ở bên tây, cứu cánh không phải là đường lối hợp đạo lý, không trừ sạch được hết tội lỗi.

2.Theo lý cải sửa

Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết hãy nên biết rành rẽ đạo lý đã; như tội lỗi ở chỗ sát sinh thì nên tự nghĩ rằng thượng đế hiếu sinh, chúng vật đều luyến ái mạng sống, giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao ta có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nhiêu nỗi thống khổ đau đớn thấu nhập cốt tủy. Chúng ta sát hại chúng để nuôi dưỡng mình, để có la liệt những thứ cao lương mỹ vị miếng ngon vật quý, nhưng khi nuốt trôi khỏi cổ rồi thì giống như không, chẳng có gì nữa. Mà dùng rau đậu, canh dưa cũng đủ no đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình nữa.

Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống y như chúng ta; vả lại chúng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao làm cho chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạnh chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi.

Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm nỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân.

Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận.

Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa.

Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ.

3.Theo tâm địa

Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao!

Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không.

Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy.

4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi

Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có bạn tốt thường nhắc nhở để tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm.

Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ cừu thù mà hồi tâm chuyển ý vui vẻ không còn oán hận nữa, hoặc mộng thấy thở ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển.

Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó.

Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa.

Người mà tội ác quá sâu nặng sẽ thấy chứng nghiệm ngay; hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chỉ trong chớp mắt liền quên không nhớ nữa, hoặc chẳng có sự gì cả mà phiền não lo lắng; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường ngượng ngùng e thẹn mất tinh thần; hoặc nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý mà chẳng hoan hỷ vui vẻ ưu nghe; hoặc làm ơn lại bị oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc phấn khởi tinh thần dứt bỏ lỗi lầm cũ để mưu việc tự tu sửa canh tân, mong rằng đừng nên tự mình lại lừa dối mình.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp sửa lỗi

Chùa Hang - Nét Văn Hóa Thuần Việt Tại Thái Nguyên

Chùa Hang còn được gọi là “Tiên Lữ Phật Động”, Chùa Hang nằm cách thành phố Thái Nguyên 3 km về phía bắc, bên trái quốc lộ 1B, hướng Thái Nguyên đi Lạng Sơn
Chùa Hang - Nét Văn Hóa Thuần Việt Tại Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hang là một trong những ngôi chùa có thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ và linh thiêng tại trung tâm thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Nơi đây được trụ trì bởi Đại đức Thích Nguyên Thanh.

Chùa Hang nằm cách thành phố Thái Nguyên 3 km về phía bắc, bên trái quốc lộ 1B, hướng Thái Nguyên đi Lạng Sơn. Chùa có nhiều đặc thù của miền sơn cước, nên đã được chọn đưa vào tuyển tập 100 ngôi chùa Việt Nam tiêu biểu xuất bản lần đầu năm 2011. Chùa đã được xếp hạng di tích thắng cảnh cấp Quốc gia năm 1999.

Chùa Hang còn được gọi là “Tiên Lữ Phật Động”, tên chữ là “Kim Sơn Tự”. Di tích thắng cảnh Chùa Hang có ba ngọn núi đá lớn, độc lập trên vùng đất bằng phẳng…Ngọn núi đứng giữa có tên là “Huyền Vũ” cao to vững trãi, hai bên là hai ngọn “Thanh Long – Bạch Hổ” vươn cao uy nghi, ba ngọn kết nối nhau bởi dải yên ngựa chừng 1000m có diện tích chân núi chừng 2,7ha.

Lịch Sử: Tương truyền, chùa Hang có từ thời nhà Lý (thế kỷ XI), được coi là thời kỳ rất hưng thịnh của Phật giáo. Vào một buổi sáng mùa xuân năm Nhâm Tuất, vua Lý Thánh Tông thức dậy đã kể lại giấc mơ của mình cho Nguyên Phi Ỷ Lan chuyện đêm qua nằm mộng, được Phật dắt lên vùng đất địa linh ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Bà Nguyên Phi lập tức thực hiện chuyến kinh lí tham quan, thấy phong cảnh hữu tình, núi non kỳ vĩ, hang động rộng lớn, bèn cho lấy hang dựng chùa thờ Phật. Có lẽ “Kim Sơn Tự” ra đời từ đây, nhưng nhân dân thường gọi nôm là Chùa Hang vì chùa ở trong hang.

chua hang
Một góc Chùa Hang – Thái Nguyên

Kiến Trúc: Đi qua Tam quan chùa, hai bên trái phải có hai tượng Hộ pháp Khuyến thiện – Trừng ác, cưỡi voi cưỡi hổ uy nghi. Càng vào sâu, hang rộng dần, trên vòm hang nhũ đá tưởng như “Mây già quyện đá quái chơi vơi”, nhiều cột đá lớn sừng sững chống lên vòm hang như những trụ chống trời. Quanh vách hang nhiều nhũ đá nhô ra thành các bệ thờ và nhiều hình thù kỳ lạ hấp dẫn. Hang có nhiều ngóc ngách, có đường lên trời, đường xuống âm phủ, có cửa thông trước sau, nên không khí trong chùa rất trong lành, mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp, khói hương luôn toả mờ làm cho chùa càng trở nên thâm u kì bí.

Chùa Hang – Kim sơn tự với huyền thoại “Động tiên lữ” một bức trang thủy mạc đã say đắm bao tâm hồn của nhiểu danh dân, sĩ phu thuộc hàng “tao nhân mặc khách” từ đời Lê sơ đến Hậu nguyễn, hiện còn nhiều văn bia thơ phú bằng chữ hán khắc trên vách hang, ca ngợi cảnh đẹp thiên tạo vô song khi đến vãng cảnh nơi đây.

Chùa Hang sắp được xây dựng và trùng tu chia làm 5 khu, đó là khu bảo tồn gồm toàn bộ hang động, núi đá với tổng diện tích 2,7ha; khu trục chính đạo tâm linh, bao gồm 8 công trình là Chính điện Tam Bảo, nhà thờ tổ, giảng đường Hoằng pháp, Bảo tháp, lầu chuông, lầu trống, tam quan nội, tam quan ngoại; phía bên phải của chùa là khu thiền viện chuyên tu; trung tâm từ thiện xã hội; khu sân bãi để phục vụ lễ hội. Tổng kinh phí đầu tư khoảng 500 tỷ đồng bằng nguồn xã hội hoá.

Với tất cả những giá trị lịch sử vốn có ở nơi đây cùng tâm nguyện của sư trụ trì và toàn thể nhân dân, trong 3 năm qua đã có nhiều tăng ni phật tử, đơn vị, doanh nghiệp góp công, góp của để xây dựng chùa. Cả một quần thể kiến trúc chùa được sơn bao thuỷ bọc. Toàn bộ phía sau chùa là những dãy núi, phía trước chùa là dòng sông Cầu uốn lượn bao quanh. Các công trình chính điện tam bảo, cửa tam quan, lầu chuông, lầu trống đã và đang xây dựng hoàn thành sẽ sớm viên thành sở nguyện, góp phần gìn giữ một di sản văn hoá tâm linh, nâng tầm giá trị di tích tạo nên một danh lam thắng cảnh đẹp như bức tranh sơn thuỷ, thơ mộng chốn bồng lai.

Lễ hội Chùa Hang được mở hàng năm vào ngày 20 tháng Giêng trong khuôn viên di tích Chùa Hang, thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ và thường kéo dài khoảng 3 ngày, thu hút hàng vạn khách thập phương về dự. Trong lễ hội, phần lễ có lễ tắm phật, có rước kiệu Đức phật, chúng sinh dâng hương cầu kinh niệm phật trong chùa; phần hội có đấu vật, bắn cung, kéo co, ẩm thực trà, leo núi ngắm phong cảnh…

Với những giá trị to lớn của di tích thắng cảnh đẹp từ ngàn xưa, sau khi được trùng tu và mở rộng “Chùa Hang – Kim Sơn Tự” sẽ trở thành một trung tâm phật giáo lớn của tỉnh Thái Nguyên và là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hang - Nét Văn Hóa Thuần Việt Tại Thái Nguyên

Làm thế nòa để bố trí một phòng sách lý tưởng –

Cùng với sự phát triển của thời đại, nhận thức văn hoá của mọi người cũng không ngừng nâng cao, cơ hội đọc sách học tập tại nhà ngày càng nhiều, vì vậy khi thiết kế nhà, việc bố trí một phòng sách hoặc một góc học tập chu đáo trong nhà càng được chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trọng hơn. Dưới đây giới thiệu một số biện pháp bố trí phòng sách.
Nếu kinh tế nhà bạn khá, bố trí một căn phòng 8m2 độc lập làm phòng sách là thích hợp nhất. Trong phòng sách chuyên dụng, ngoài bàn viết, tủ sách còn có thể có thêm một vài đồ dùng có chức năng khác, ví dụ đồ dùng giúp cho nghỉ ngơi giải trí. Khi bố trí phòng loại này, đầu tiên phải xác định được vị trí dặt bàn bên cạnh cứa sổ nơi có điều kiện ánh sáng khá tốt. Đại đa số người ta viết bằng tay phải, cho nên khi ngồi bên bàn dọc sách hay viết gì đó ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng nhân tạo phải chiếu từ phía bên trái đến, tức là làm sao để cửa sổ ở bên trái phía trước bàn, và đèn bàn phải đặt bên trái bàn. Đèn dùng cho viết chữ nên dùng loại chiếu ánh sáng gián tiếp, tránh nguồn sáng chiếu thẳng vào mắt. Một phương pháp bố trí khác là kê sát bàn vào tường bên dưới cửa sổ, sẽ có được ánh sáng như ý. Khi cứa sổ đối diện thẳng hay đối diện lệch với cửa ra vào, bằng phương pháp này có thể loại bỏ được ảnh hưởng khi có người hoạt động ở cửa hay bên ngoài đối với người ngồi viết ở bàn, làm cho người đó vẫn an tâm tập trung tinh thần cho học tập hoặc làm việc. Điều này có thể thoả mãn yêu cầu cao hơn đối với môi trường học tập. Nếu để bàn sát vào cửa sổ thì cửa sổ nhất định phải có rèm che để ngăn ánh nắng ban ngày chiếu thẳng vào, bảo đảm cho thị lực bình thường.

funiture_a
Ở mặt tường hoặc góc khác của phòng sách có thể bố trí tủ sách, gần tủ sách có thể đặt 1 chiếc ghế đệm mềm hoặc ghế sồ-pha để tiện ngồi đọc sách hay nghỉ ngơi. Bên cạnh ghế cần có nguồn sáng, có thể sử dụng đèn cây hoặc đèn tường, làm thế nào để có đủ ánh sáng khi đọc sách.
Nếu có một phòng sách rộng khoảng 6m2 thì có thể bố trí thành một phòng sách có chức năng đơn nhất. Ngoài một chiếc tủ kê sát vào tường ra có thể đặt một chiếc bàn hình chữ L bên dưới cửa sổ, ưu điểm của nó là diện tích làm việc rộng, kinh tế mà môi trường học tập vẫn dễ chịu. Trong tương lai, máy tính ngày một phổ biến rộng rãi đến những gia đình bình thường, vì vậy hiện tại khi chọn bàn cần xem xét vị trí bố trí máy tính sau này, cần có khoảng trống dự phòng vì máy tính rất phù hợp đặt ở phòng sách. Tuy nhiên, bạn không được bố trí quá nhiều thứ trong phòng sách.
Các đồ dùng chính trong phòng sách có bàn, ghế, tứ và giá sách.
Bên trong bàn nên có nơi để cất giữ văn bản giây tờ và các đồ vật nhỏ. Thuận tiện nhất là loại bàn hai bên có giá kéo, khi cần kéo ra, không cần thì đẩy vào. Còn một loại bàn nữa rất tiện dụng, hai bên nó có ngăn kéo đứng, trong ngăn kéo có các kẹp giây bằng bìa cứng dùng cho việc cất giữ tài liệu.

Ánh sáng cho bàn trong phòng sách hết sức quan trọng. Ánh sáng phải dủ và đều. Độ sáng ở bàn và xung quanh không được tương phản mạnh, tốt nhất dùng loại đèn có thể thay đổi độ sáng và hướng chiếu sáng theo nhu cầu.
Bài trí trên giá sách không nhất định phải theo chuẩn tắc. Giá sách kiểu không cố định chỉ cần kê đặt ở chỗ nào lấy và cất sách được thuận tiện. Dùng giá sách kiểu gắn vào tường hoặc kiểu tủ treo sẽ lợi dụng được không gian, cũng có thể tổ hợp sử dụng cùng với giá để băng đĩa. Khi bài trí ở giá sách kiểu bán thân áp tường, nửa phía trên trống có thể kết hợp bố trí cùng một số đồ trang trí như tranh tường, bấy giờ giá sách sẽ kiêm chức năng trang trí, vì vậy sách chọn dể xếp ở dó nên là những cuốn còn vuông vắn thẳng nếp hoặc những sách chuyên ngành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nòa để bố trí một phòng sách lý tưởng –

Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống –

Đá thạch anh là loại đá quý được con người rất tin dụng. Đá thạch anh là một trong những loại đá được sử dụng để làm các món đồ trang sức không chỉ bởi vẻ đẹp lấp lánh mà nó còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và có ý nghĩa phong thủy rất quan t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá thạch anh là loại đá quý được con người rất tin dụng. Đá thạch anh là một trong những loại đá được sử dụng để làm các món đồ trang sức không chỉ bởi vẻ đẹp lấp lánh mà nó còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và có ý nghĩa phong thủy rất quan trọng trong cuộc sống. Thạch anh có rất nhiều loại màu sắc khác nhau như: tím, vàng , lục, hồng , sữa, pha lê …. Trong đó, có lẽ thạch anh tím là loại được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Vậy tại sao thạch anh tím lại được dùng phổ biến hơn so với các loại đá khác. Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống là gì? Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây để hiểu thêm nhé!

Nội dung

  • 1 Thạch anh tím
  • 2 Vai trò của đá thách anh tím
    • 2.1 Thạch anh tím có tác dụng kỳ diệu đối với sức khỏe
    • 2.2 Thạch anh tím là lá bùa hộ mệnh trong phong thủy
    • 2.3 Thạch anh tím vận hành phong thủy

Thạch anh tím

Thạch anh (silic điôxít, SiO2) hay còn gọi là thủy ngọc là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện silic – oxy (SiO4), trong đó mỗi oxy chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.

Thạch anh được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: điện tử, quang học,… và trong ngọc học. Các tinh thể thạch anh trong suốt có màu sắc đa dạng: tím, hồng, đen, vàng,… và được sử dụng làm đồ trang sức từ rất xa xưa.

Ametit loại biến thể màu tím của thạch anh được coi là đá quý của tháng hai và là loại được ưa chuộng nhất của họ thạch anh.

Vai trò của đá thách anh tím

Đá thạch anh tím là loại đá từ thiên nhiên rất quý hiếm tỏa ra năng lượng có công dụng rất tốt đối với sức khỏe con người và đặc biệt, trang sức từ đá thạch anh tím còn mang ý nghĩa mang lại nhiều điều may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống của chúng ta.

Thạch anh tím có tác dụng kỳ diệu đối với sức khỏe

Thạch anh tím là một tinh thể tỏa ra năng lượng. Vì vậy, khi đeo trang sức từ thạch anh tím sẽ có tác dụng cực kì tốt khi được dùng để giảm đau và giảm stress, giận dữ và khó chịu, làm dịu tâm tính, xoá bỏ các nỗi sợ và cảm giác tiêu cực. Thêm nữa, thạch anh tím còn có thể được đeo để bảo vệ ta khỏi những đòn tấn công tinh thần cũng như những tổn hại khác.

Ngoài ra, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đá thạch anh tím tỏa ra năng lượng kỳ diệu, giúp chúng ta tỉnh táo, nó rất tốt cho những người muốn cai nghiện thuốc lá, rượu bia hoặc những chất gây nghiện khác. Nó còn có thể được dùng cho các vấn đề về xương khớp, như giảm sưng tấy, thâm tím và giúp cho hô hấp, tiêu hoá cũng như da dẻ, đồng thời chữa các các rối loạn trong tim và tuần hoàn, thính giác và thị giác. Nó thường xuyên được dùng để chữa chứng đau đầu và cũng có thể được đặt dưới gối làm giảm chứng mất ngủ.

Thạch anh tím là lá bùa hộ mệnh trong phong thủy

Theo các nhà sư Phật giáo tin rằng thạch anh tím giúp đem lại sự thanh thản và được dùng làm các chuỗi hạt cầu nguyện ở Tây Tạng.

Thạch anh tím có tác dụng chống lại những ma thuật được sử dụng trong thời gian lâu dài cho việc khai hóa tâm linh và sự linh thiêng. Mỗi chuỗi hạt thạch anh tím giúp cho sự trầm tư mặc tưởng. Thạch anh tím còn được biết như thể là loại đá của Giám mục và vẫn còn được sử dụng bởi những Giám mục Công giáo, tượng trưng cho lòng thành kính, sự khiêm tốn, tính không ngôn, thành thật và thiêng liêng.

Thạch anh tím vận hành phong thủy

Ngày nay, thạch anh tím được sử dụng hàng ngày với ý nghĩa vận hành phong thủy. Đặt quả cầu thạch anh tím ở góc Đông-bắc của phòng học sẽ tăng cường vận may về đường học vấn. Đặt ở góc Tây-nam của phòng ngủ sẽ kích hoạt vận may về quan hệ tình cảm hoặc đời sống hôn nhân hạch phúc. Không nên đặt quá cao, tốt hơn nên đặt trên mặt bàn, nhất là bàn làm việc.

Sử dụng chùm thạch anh tím, hoặc quả cầu thạch anh tím đặt nới cửa sổ để đón nhận tia nắng thì rất có lợi cho việc duy trì năng lượng dương trong nhà. Chùm thạch anh tím đặt dưới ánh trăng để thu hút năng lượng sẽ mang lại sự điềm tĩnh hơn cho mọi người trong nhà.

Có thể thấy, đá phong thủy thạch anh tím vừa có tác dụng chữa bệnh rất tốt đối với sức khỏe vừa là lá bùa hộ mệnh mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc . Như vậy, thạch anh tím có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống –

6 sai lầm phổ biến khi lắp rèm cửa

Bề ngang của rèm bằng đúng kích thước cửa, thanh treo quá mảnh mai... là những điều bạn nên tránh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Không đo chính xác kích thước

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua

Thao tác đo đạc đơn giản giúp bạn tiết kiệm công sức và tiền bạc.

Điều đầu tiên bạn cần làm trước khi lắp rèm là đo kích thước cửa sổ và quyết định chọn rèm có chiều dài, rộng như thế nào. Làm cẩn thận ngay từ bước đầu giúp bạn không cần phải trở lại cửa hàng khi rèm và thanh treo không phù hợp.

2. Treo rèm quá thấp

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua-1

Cách treo rèm giúp nhà thoáng hơn.

Bạn nên treo rèm cao gần sát trần nhà để giúp cho căn hộ có cảm giác cao hơn, nhất là trong các phòng nhỏ. Đừng chỉ vì tiết kiệm chút vải mà bạn cảm thấy không ưng ý sau khi lắp rèm xong.

3. Rèm không đủ bề ngang

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua-2

Kích thước rèm luôn rộng hơn 2-2,5 lần cửa sổ.

Bạn đừng nghĩ rèm cần mua có kích thước ngang đúng bằng cửa sổ. Bởi khi kéo kín lại, bạn vẫn cần rèm có độ rủ nhất định. Theo kinh nghiệm của những người may rèm, chiều ngang rèm bằng 2-2,5 lần chiều ngang cửa sổ.

4. Không là ủi rèm trước khi treo

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua-3

Giặt là rèm là điều nên làm trước khi treo chúng lên cửa sổ.

Bạn quá háo hức để cửa sổ được mới mẻ, tránh được nắng gắt nên bỏ qua khâu giặt là. Tuy nhiên, chỉ một chút vội vã đó sẽ khiến khung cửa trở nên luộm thuộm, lộ sự cẩu thả của chủ nhà.

5. Chọn thanh treo sai

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua-4

Có nhiều loại thanh treo với kích thước, khả năng chịu lực và hình dạng khác nhau.

Tùy thuộc vào độ nặng, nhẹ của vải mà cần có thanh treo phù hợp, đủ khả năng đỡ. Nhiều người thích sử dụng các loại vải dày dặn nên nếu thiết bị quá mảnh mai sẽ nhanh bị hỏng. Ngoài ra, bạn cần chọn thanh treo có thiết kế, màu sắc phù hợp với rèm.

6. Sử dụng rèm phủ sàn với nhà có trẻ nhỏ và thú nuôi

6-sai-lam-pho-bien-khi-lap-rem-cua-5

Nhà có trẻ nhỏ nhưng sử dụng rèm quá dài sẽ nhanh hỏng.

Loại rèm phủ xuống mặt sàn đem tới phong cách sang trọng cho căn nhà. Tuy nhiên, bạn phải chắc chắn con nhỏ và các chú chó, mèo không quậy phá. Nếu không, rèm sẽ nhanh rách, bẩn, thậm chí bị kéo hỏng.

Lam Huyền (Theo House Beautiful)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 sai lầm phổ biến khi lắp rèm cửa

Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác.
Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác, hợp với gia chủ.


► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
1. Sinh Khí (Tham Lang) – Mộc   Sao Sinh Khí thuộc ngũ hành Mộc, thuộc Đông tứ trạch trong phong thủy nhà ở, là đại cát tinh số một. Đặc điểm của sao này là mạnh mẽ, tràn đầy tinh lực, tính cách bốc đồng, quyết đoán và nhiều tham vọng.    2. Diên Niên (Vũ Khúc) – Kim   Sao Diên Niên ngũ hành thuộc Kim, là đại cát tinh. Sao này hiền hòa, an nhàn, có tính nhẫn nại, thích tán thưởng người khác và biết khẳng định bản thân.   3. Thiên Y (Cự Môn) – Thổ   Sao Thiên Y ngũ hành thuộc Thổ, là Thổ tinh, đại cát tinh. Tính chất là an nhàn, ổn định, đủ ăn đủ mặc, thoải mái, ít phiền não, thân thể tráng kiện, có quý nhân tương trợ.   4. Phục Vị (Phụ Bật ) – Mộc   Sao Phụ Bật chia thành Tả Phụ Bật và Hữu Phụ Bật, thuộc loại trung cát tinh. Sao này tác dụng thấp hơn so với các sao ở trên, yêu gia đình, mẫn cảm, săn sóc, nghe lời cha mẹ, ít tham vọng.   Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 2) Thế nào là hướng nhà tốt xấu Mách bạn cách làm nhà vượng sơn - vượng hướng
5. Tuyệt Mệnh (Phá Quân) – Kim
  Sao Tuyệt Mệnh thuộc ngũ hành Kim, là đại hung tinh. Tính chất hỗn độn, tác dụng thất thường, vì việc nhỏ mà lo buồn, phiền muộn, trầm mặc, dễ nảy sinh áp lực trong lòng dẫn tới bệnh tâm lý.   6. Ngũ Quỷ (Liêm Trinh) – Hỏa   Sao Ngũ Quỷ thuộc ngũ hành Hỏa, không phải cát tinh. Sao này có tính chất cuồng bạo, dễ bị phiền nhiễu hay cùng người khác xung đột, vô ý đắc tội với người khác, phương diện nhân duyên không tốt, làm việc vô ích, không có hồi báo.  
Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
7. Họa Hại (Lộc Tồn) – Thổ
  Họa Hại thuộc ngũ hành Thổ, không phải cát tinh, có tính chất xâm hại. Sao này dễ bị việc vặt vãnh quấy nhiễu, dễ mệt mỏi, suy yếu, không tin tưởng bản thân, lười nhác.   8. Thất Sát (Văn Khúc) – Thủy   Sao Thất Sát ngũ hành thuộc Thủy, là hung tinh, có tính chất phá hoại. Thường xuyên gây thị phi, phiền não, dễ mất ngủ, ù tai, gây ra lỗi lầm. Nếu hướng bếp, hướng cửa mà ở phương này thì nam giới trong nhà ăn tàn phá hại.    Phong thủy bát trạch nhấn mạnh vào tính chất cát hung của các sao này để lựa chọn hướng đại cát. Hướng nhà, hướng cửa, hướng bếp thì phải chọn phương cát tinh. Hướng nhà vệ sinh thì hướng về phương hung tinh. 
Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 1) 4 tiêu chuẩn vàng xác định hướng nhà tốt Nhà chính hướng, phú quý cát tường
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Lá số tử vi Đức Phật Thích Ca

Đoạn trích về lá số tử vi của Đức Phật Thích Ca do cụ Thiên Lương luận giải phần nào giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tuệ giác của Đức Phật cũng như sự giác ngộ sâu rộng của ngài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

LÁ SỐ TỬ VI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA – MỘT VỊ ĐẠI LỰC, ĐẠI HÙNG, ĐẠI BI

Đây là đoạn trích dẫn trong tập sách tử vi của cụ THIÊN LƯƠNG, sau đây Xem Tướng chấm net xin giới thiệu đoạn dẫn này.

Ngày sinh: ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ

- Thưa tiên sinh sau một tời gian theo dõi đọc KHHB, nhất là số 11 ngày 15.10.73 vừa rồi, tôi đánh bạo đến đây mong rằng tiên sinh chỉ bảo cho biết thêm về tử vi.

- Bạch Đại Đức, hôm nay Đại Đức chiếu cố đến thật vinh dự cho tôi, biết đâu sau khi ra về, Đại Đức sẽ thấy thất vọng, cái tôi chỉ là thiểu học không căn bản. Xin thưa thật, sỡ dĩ tôi dám mạo muội trình bày ý kiến không ngòai mục đích tìm thầy mở lối.

- Xin tiên sinh đừng quá nhún nhường, tôi thật tình là một người tìm học tử vi, hôm nay có mang theo một lá số mà tôi có công sưu tầm theo sự hiểu biết của tôi, mong tiên sinh giải đáp cũng như những lá số tiên sinh đã phân tích lâu nay trên KHHB để làm thước ngọc khuôn vàng cho mức học của tôi. Không nói ra, chắc sau khi xem, tiên sinh cũng biết đây là số của đức Thế Tôn mà đời tôi đã trao trọn cho giáo thuyết của Ngài, căn cứ theo năm sinh là năm 563 trước dương lịch (Mậu Tuất) lấy ngày 8 tháng 4 giờ Ngọ để lập thành, xin tiên sinh cứ trung thực phân tách may ra tôi mới thêm phần nào ánh sáng.

(Trên đây là lời đàm thọai được ghi trong cuộc nói chuyện giữa cụ Thiên Lương và một vị Đại Đức, độc giả của giai phẩm KHHB)

Sau cuộc tiếp chuyện với Đại Đức không quen biết, không dám phụ lòng người thành thật đã chiếu cố, để đền đáp công người đến tận nhà khuyến khích và được biết lá số của Đức Phật, tôi cố tìm kiếm những điểm chính nào mà Ngài đã vượt hơn thế nhân gọi là tuệ giác.

- Tuổi Mậu Tuất, Mệnh Thân đồng cung tại Hợi, ở vị trí sáng suốt cùng với thiên địa cảm thông, như người có sứ mạng, có sự đồng minh của thiêng liêng để dìu dắt nhân loại (Thiếu Dương được Hồng Đào Hỉ). Thiên Không đây mới thật vấn đề tài tình. Ở vị trí Dần Thân Tỵ Hợi, Thiên Không phải phụ thuộc Hồng Loan, dầu đồng cung hay xung chiếu, là bản tính của người không ham phù vân, tự tu tự tỉnh biết trọng cái lý công bằng thiên nhiên, hễ vay là phải trả, muốn là phải khổ, mọi sự vật đều là không, là chân lý vô thường của nhà Phật, là chân lý thường diễn biến hàng giờ hàng phút, tất cả không có gì là không biến dịch từ cái sinh đến cái diệt cứ liên tục thay nhau bất tận của cái thế luân hồi.

- Phủ phùng không là cái phủ trống rỗng, là cái không có gì, ngay cái mệnh của Ngài coi cũng là Không, thiết tưởng Hồng – Lộc xung chiếu, Ngài còn thiết gì mà không ngăn cách bằng Tuần, huống chi Hồng Lộc là miếng mồi ở trong có thuốc độc (Hà-Sát) với Ngài là bậc tuệ giác làm sao mà không coi thường gạt bỏ.

- Thiên Không đã tài tình mà Cô Thần ở đây không kém phần đặc sắc. Người ta thường nói Nam kỵ Cô, nữ kỵ quả thì lý đương nhiên là người cô quạnh cho đến cả vợ con ruột thịt đồng bào nhân loại đại –đồng, dầu Đông hay Tây, Nam hay Bắc dưới tệ nhãn của Ngài (Thiếu Dương Thiên-Hỉ) đều là con người nay kiếp này, mai kiếp khác cũng như nhau, Ngài vẫn một tình thương âu yếm nhân hậu ( Thiên-Đức, Nguyệt –Đức, Long- Đức, Phúc-Đức).

- Khoa, Đào, Việt, Tả Hữu là vạn năng của Phật, dầu ở khía cạnh nào vẫn là tập trung ở cái nhân tứ đức, cái tuệ- giác quán thông của Ngài cùng trời đất( thân mệnh đồng cung).

- Thiên tướng cung Quan ở Mão là Thiên Tướng hãm, nếu là tuổi khác không được Thiếu-Dương, không được Tứ-Đức, có lẽ đây là 1 ông thầy tướng số có hạng. Với Đức Phật như lá số này (Mậu-Tuất) chỉ là một thầy tu khiêm tốn không quyền uy, không ép buộc, không khuyến dụ ai phải theo mình, ai hỏi thì nói, nói rồi coi cũng như không nói. Thiên Tướng đây có tính cách bình dân muốn để quần chúng tự ý giải thoát mình, chứ Ngài không muốn cho mình là người sáng ban phát ơn-huệ cho ai là người mê muội. Cái phẩm chất của Thiên Tướng (Mão Dậu) nó đã giản dị cặp thêm thiên quan có ý nghĩa thông cảm trời cao (Dương), Thiên-Phúc đất rộng (Âm) là sứ mạng của người thông đạt lý lẽ âm dương muốn mọi người hết mê để tự mình thành Phật hết cả.

- Nó thong thả tự do tự mình cởi mở lấy mình, ngay cả những lời Ngài nói đừng có tin ngay. Chứng nào thấy chắc chắn có giá trị thì hãy theo cũng có nghĩa căn bảo người ta chớ đừng sùng- tín dễ dàng để rồi dễ thành thành –kiến sai lạc cho học thuyết luân lý hay tôn giáo.

- Căn cứ theo số này người Dần Ngọ Tuất vận hành đến Tỵ Dậu Sửu là phải khắc phục và bị sa lầy, biết rằng Ngài giác Ngộ từ năm 29 tuổi và dấn thân vào khổ hạnh hành xác mất 6 năm tức là ở giai đọan 22-31 mất 3 năm chót và 3 năm đầu ở giai đọan 32-41. Ngài đắc đạo năm 35 tuổi thành một vị thế tôn. Ở vị trí Quan-Phù, Thai-Tuế, Bạch Hổ cùng ảnh hưởng của Thái Dương ở Dần là mặt trời ló dạng ở Chân trời, rồi từ đó mà đi cho đến ngày tịch ở tuổi 80 ở cung Ngọ được Nhân loại tôn sùng kính bái cho đến ngày nay trên 2.500 năm.

- Đời Đức Thế Tôn Thích Ca dĩ nhiên Ngài thành Phật là ở chỗ Tuệ-giác hơn người ( thân mệnh đồng cung ở vị trí Thiếu Dương, Thiên-Hỉ hội đủ Tả Hữu, Khoa,Đào, Việt, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức và cả bộ Thiên Quan, Thiên Phúc) mới dứt bỏ được địa vị cao sang, vợ đẹp con khôn phải là một người hùng, không ỷ lại vào đâu để tìm chân lý là người có nghị lực, song rồi chỉ có một hoài-bão sao cho nhân loại được giải-thoát trần ai khổ ải là đại từ bi.

- Bạch Đại Đức theo lá số này, cứ như thiển kiến của tôi, có lẽ hình ảnh Đức Thế Tôn có phần in đúng, thì dĩ nhiên sự giác ngộ sâu rộng của Đại Đức đã tiến gần Đức Thế Tôn. Vậy để tạ lòng chiếu cố, tôi xin tóm tắt trình Đại Đức, không dám nào đánh trống qua cửa nhà sấm.

Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi Đức Phật Thích Ca

Bài trí nhà đẹp với phong cách đồng quê

Ngôi nhà này được thiết kế theo phong cách đồng quê châu Mỹ. Không khí nhẹ nhàng và trong trẻo hòa quyện trong ánh sáng tự nhiên, phủ đầy cho một thế giới nội thất nhiều tình cảm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với Nhà thiết kế, quá trình lên ý tưởng và thực hiện nên không gian sống mang đậm phong cách đồng quê đã mang lại không ít hứng khởi cho chính bản thân anh. Việc đáp ứng và xoay chuyển khéo léo từ yêu cầu của gia đình anh để tạo thành một không gian nhiều tính thẩm mỹ quả chứa đựng thử thách nhưng cũng rất thú vị. Căn biệt thự nằm trong khu đô thị phía Nam thành phố và hạn chế ở phần mặt tiền bởi phải chịu sự gò bó nhất định theo quy hoạch chung. Thế nhưng, phía bên trong của những phào chỉ và chi tiết khá rườm rà đó, không gian nội thất thật nhẹ nhàng lại đang thong dong trong hình ảnh một chốn về bình yên. Không khí bàng bạc lãng mạn xuyên suốt trong các gian phòng, được tiếp nối và “giữ nhịp” liên tục qua những motif trang trí, màu sắc và đường nét nội thất.

Mặt tiền nhiều chi tiết như quy hoạch chung trở nên cuốn hút hơn khi đêm xuống. Giải pháp chiếu sáng giúp “giấu” đi những đường nét thừa khỏi tầm quan sát, khiến căn biệt thự trở nên ấm cúng và nhẹ nhàng hơn.

Mong muốn về một không gian sống êm đềm, cân bằng, mang hơi hướm cổ điển - mà đặc biệt là không cần phải quá cá tính hay ấn tượng - đã được hoàn thiện vượt ngoài mong đợi của gia đình anh. Những đặc trưng của phong cách đồng quê thân thiện và nhiều biến tấu đã thể hiện rõ tác dụng. Nhiều mảng tường trong căn biệt thự đều tạo thành điểm nhấn nhờ cách sơn mỹ thuật kẻ sọc trắng xám - xanh da trời, tạo hiệu ứng như sử dụng giấy dán tường. Những vòm cửa lớn mang đường cong uyển chuyển mà có tiết chế để thêm duyên cho không gian liên thông rộng lớn của khu vực phòng làm việc - tiếp khách - phòng ăn ở tầng trệt. Thế nhưng, việc đưa những vòm cửa này vào trong thiết kế còn là giải pháp cho một nhiệm vụ quan trọng khác: giấu đi hệ thống đà khô cứng vốn có của khung nhà. Trần nhà ở phòng làm việc còn trang trí bằng gờ nổi theo motif ô trám làm tăng thêm nét sinh động.

Các món nội thất được sử dụng cho căn biệt thự cũng góp phần không nhỏ trong việc thể hiện chất đồng quê mà nhà thiết kế hướng tới. Những đường cong, con tiện trên bàn ghế không tạo cảm giác kiêu kỳ như ở phong cách châu Âu cổ điển, mà ngược lại, đầy vẻ khỏe khoắn và duyên dáng. Màu xanh nhạt, xám và những hoa văn đơn giản trên bộ sofa; tấm kiếng màu ngăn giữa lối vào nhà và bếp ở phía sau; những gốc cây lá xanh tươi trang trí... đều góp thêm vào trong hình ảnh êm đềm của căn biệt thự. Phong vị đồng quê trong thiết kế nội thất còn tạo nên điểm nhấn qua khoảng passio có bàn cafe bên dưới giếng trời. Giữa những chiếc lá xanh, ánh sáng chan hòa và cảm hứng lãng mạn từ các món vật dụng, một không khí thôn dã pha trộn với tinh thần vintage đã khiến góc ngồi này trở nên thật đặc sắc.

Bên cạnh đó, Nhà thiết kế chọn cho căn biệt thự lối tổ chức không gian chức năng đơn giản và một trục giao thông mạch lạc. Những hiệu ứng có được ở nội thất còn là thành quả của nhiều giải pháp linh hoạt nhằm nhấn mạnh tính thông thoáng, khả năng lấy sáng và luôn quan tâm đến “chỗ” dành cho thiên nhiên. Chính những tiền đề lý tưởng này đã giúp cho phong cách nội thất có thể biểu đạt được hết cảm xúc và những ngôn ngữ của nó, đem lại cho căn biệt thự của gia đình chàng một không khí thật dễ chịu, trở thành một lựa chọn khác biệt cho hình ảnh “đồng quê” giữa khu đô thị mới.

Khoảng sân thượng thơ mộng với bàn nước đặt bên dưới mái hiên bằng kính và kết cấu đà gỗ bắt mắt.
Trục không gian chức năng của ngôi nhà được tạo thành từ phòng khách đến góc bàn café và ra đến khu vực bàn ăn - bếp.
Ngay cửa vào của căn biệt thự là phòng làm việc. Ánh sáng chan hòa từ hiên và mảnh vườn con ở phía trước chiếu qua mảng tường kính, càng làm cho gam màu xanh nhạt trên arm-chair và tường thêm nhẹ nhàng. Một cảm hứng đồng quê được báo hiệu khe khẽ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên.
Vách kính màu ngăn giữa hệ cầu thang với bếp ở phía sau. Giải pháp đơn giản tạo được hiệu ứng về ánh sáng và đem lại không khí hoài cổ.
Phòng sinh hoạt chung nhẹ nhàng và đơn giản, hướng nhiều đến chức năng như vẫn giữ tinh thần chung của thiết kế với ánh sáng tự nhiên và mảng tường sơn xanh - xám.
Khoảng passio thơ mộng, đậm không khí của phong cách đồng quê châu Mỹ ở góc nhìn từ trên cao.
Phòng tắm mở ra một thế giới riêng tư đầy thư giãn như ở các khu nghỉ dưỡng. Gam màu rượu vang trắng đồng nhất dùng cho hệ tủ của walk-in-closet và sàn nhà, kết hợp cùng màu trung tính của chất liệu đá ốp như ấm áp hơn dưới ánh đèn vàng.
Khu vực bàn ăn được bố trí liên kế với sân sau nên luôn thoáng gió. Mảng tường phía sau - như motif trang trí chính của toàn bộ căn biệt thự - được xử lý bằng sơn mỹ thuật với màu xanh dương nhạt và xám, tạo cảm giác như giấy dán tường, đây là một chi tiết mà Nhà thiết kế rất tâm đắc.
Phòng sinh hoạt chung với những mảng tường trang trí theo motif chung của cả ngôi biệt thự.
Phòng ngủ không cần nhiều diện tích nhưng vẫn đầy cảm giác thư giãn.

(Theo Đẹp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nhà đẹp với phong cách đồng quê

Cách họa, những sao gây họa.

1. Cách họa qua các sao : a. Sát tinh: gây họa nặng nhất. Sát tinh làm cho mất mạng, chấm dứt luôn sự nghiệp, tài sản, gia đạo, ảnh hưởng sâu rộng đến rất nhiều lĩnh vực. Đối với công danh, sát tinh tiêu diệt quý cách, chấm dứt cơ nghiệp. Đối với tài sản, sát tinh tiêu diệt phú cách. Sự hiện diện của sát tinh ở những cung chỉ phú quý có nghĩa là đương số vừa nghèo, vừa hèn tức là không có tài sản, không có chức phận. Đối với gia đạo, sự hiện diện của sát tinh ở Phu Thê báo hiệu cho sự sát phu, sát thê, sự gián đoạn vợ chồng dưới hình thức ly hôn, ly thân hoặc vợ chồng phải sống xa cách nhau lâu năm, chưa kể các trường hợp bị ruồng bỏ vì ngoại tình hoặc đâm chém nhau vì xung đột hay khảo của. Đối với con cái, sát tinh là dấu hiệu sự sát con, con cái không vẹn toàn, sinh nhiều nuôi ít, hoặc bị tàn tật hoặc thuộc thành phần côn đồ, du đãng, gây phiền nhiễu cho cha mẹ, phá tán tài sản, ăn hết di sản lại còn mắc nợ, tạo nợ cho cha mẹ. Được xem là sát tinh có 8 sao: Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Kiếp Sát. Càng hội tụ nhiều, càng bị hãm địa nhiều, những tai biến và thiệt hại kể trên càng dễ xảy ra sớm, mau, nặng nề. Sát tinh tụ hội ở cung nào thì cung đó bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Cách họa, những sao gây họa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


b. Hình tinh: tạo ra hình ngục, ảnh hưởng đến tự do cá nhân, kiện cáo di lụy đến uy tín cá nhân. Gặp hình tinh, trong trường hợp là nạn nhân, đương số sẽ bị giam cầm, tra tấn, đói khát, hành hạ thể xác và tinh thần, có thể bị đau ốm hay tật nguyền trong thời gian bị bắt giữ, có thể bị đầy ải ở chỗ rừng thiêng nước độc hoặc bị cầm cố ở xà lim chật hẹp, dơ dáy. Mức độ nhẹ hơn, hình tinh là dấu hiệu của sự kiện tụng, sự điều tra. Trong trường hợp này, uy tín, tài sản có thể bị hao hụt, chưa kể những lo lắng cạnh tranh, thù hằn phải gánh chịu. Hình tinh là các sao: Thiên Hình, Quan Phù, Thiên La, Địa Võng, Thái Tuế, Quan Phủ, Liêm Trinh (chỉ hình ngục, quan tụng một cách trực tiếp).

c. Bại, hao tinh: làm cho lụn bại, hao tán chẳng hạn như bị bệnh nan y, bị giáng chức, mất của, hao tài, tang khó, thân nhân đau ốm, tai nạn, vợ chồng nghi kỵ, anh em bất hòa, nhân tình ruồng bỏ. Hao bại tinh gồm có: Tang Môn, Bạch Hổ, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Khốc, Thiên Hư. Sát tinh và hình tinh nhất định góp phần tăng cường hiệu lực cho hao, bại tinh hoặc là nguyên nhân, hoặc là hậu quả của hao bại tinh.

d. ám tinh: là những sao gây trở ngại, trục trặc, ứng dụng cho cá nhân, ám tinh có thể là vài tính nết đặc biệt kìm hãm sự tiến thủ của con người về mặt công danh tài lộc. Trường hợp đương số là nạn nhân, ám tinh tượng trưng cho tiểu nhân, đố kỵ, phá hoại, ganh ghét làm cản trở bước tiến của mình. ứng dụng cho công danh, ám tinh chỉ sự cạnh tranh trong quan trường, sự trục trặc về thủ tục, hoàn cảnh bất lợi cho thăng tiến. Các hình thái này cũng ứng dụng cho tài lộc. ứng dụng cho gia đạo, ám tinh là sự cản trở hôn nhân, sự phá hoại hôn nhân hoặc là sự xâm nhập của một người thứ ba vào đời sống vợ chồng, sự bắt ghen, sự gièm pha, chim vợ/chồng người khác ... ám tinh gồm các sao: Hóa Kỵ, Cự Môn, Phục Binh, Thiên Riêu, Thiên Không Phá Quân, Thái Tuế, Tử Phù, Suy, Tử, Trực Phù, Tuần, Triệt, Cô Thần, Quả Tú, Tuế Phá, Thiên Thương, Thiên Sứ.

e. Sao trợ họa: Hầu hết sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đều hỗ trợ cho nhau để gây tác hại dây chuyền. Những sao trực tiếp trợ họa bao gồm: Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền, Quan Đới làm xấu thêm, nặng hơn. Riêng sao Thiên Tài thì làm xấu ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm miếu, vượng địa.

2. Họa cho cá nhân

a. Họa của phái nam:

+ Họa đến tính mạng hoặc cơ thể:
Không, Kiếp, Binh, Hỏa, Linh: tai nạn binh lửa. Có khi không cần phải hội đủ cả 5, chỉ cần 3 cũng đủ (tối thiểu phải có Địa Không hoặc Địa Kiếp và Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh). Kiếp Không chỉ các tai nạn bất khả kháng, dữ dằn, nặng nề, thủ phạm rất lợi hại và hung bạo, hành động bất ngờ và nhanh chóng. Phục Binh chỉ sự ám hại, phục kích, thường có tòng phạm giúp đỡ. Hỏa hay Linh chỉ họa lửa như phỏng lửa, chết cháy, bị bom, bị đạn, bị chất nổ ... Nếu có thêm sát tinh, hình tinh, hao bại tinh khác thì càng dễ chết. Nếu gặp trợ họa như Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền thì họa hại càng khó tránh. May ra gặp được nhiều sao giải mạnh mẽ hội tụ trong bối cảnh Phúc, Mệnh, Thân tốt mới khỏi, có thể chỉ bị thương.
Phi, Việt: hội với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp Hỏa, hai sao này chỉ lằn tên mũi đạn, đặc biệt là sao Phi Liêm. Bộ sao này thường ứng cho các tai nạn trên phi cơ hoặc họa về điện hay bị sét đánh.

Lưu Hà hoặc Cự, Kỵ: đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, Lưu Hà chỉ họa ở dưới nước.

Kình, Đà: ám chỉ thương phế nhưng đi với Không, Kiếp vẫn có thể chết. Thương phế thường xảy ra cho tay chân. Đi với Hỏa, Linh thì phỏng ở tay chân.

Hình, Kiếp Sát: chỉ tai nạn nói chung, cụ thể là thương tích có thể đi đến mổ, cưa. Đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, có thể chết vì binh đao hay vì bị mổ xẻ.

Quan Đới: đi với sát tinh chỉ cái chết bất đắc, chết mau chóng.

Tử, Tuyệt: chỉ cái chết nếu đi chung với sát tinh.

La, Võng: gặp sao tốt thì thành hung, từ đó góp phần gây họa vào các hạn xấu.

Thương, Sứ: chỉ dùng để xem hạn. Đi với sát tinh, Thương Sứ tác họa, không hẳn là họa binh đao.

Tướng, Hình - Tướng, Tuần hay Triệt: tác họa rất thảm khốc, cụ thể như chết trận, rớt máy bay, bị phục kích, thông thường chết nát thây có khi không tìm ra xác. Bộ sao này đóng ở Phúc, Mệnh, Thân, Tật hoặc Hạn đều nguy hại như nahu, không kém gì Không Kiếp Binh Hỏa Linh kể trên.

Mã, Hình: báo hiệu điềm bất tường, tai họa thảm thương.

Tướng, Binh, Tử, Tuyệt: chỉ họa binh đao hay họa chiến tranh.

Mã, Tuần hay Triệt hay Kình, Đà: chỉ thương tích tay chân do binh đao hay tai nạn.

Kình, Đà, Tuần hay Triệt hoặc Không, Kiếp: như trên.

Kiếp, Hình, Quan Đới: chết bất đắc, do mổ xẻ hoặc binh đao.

Sát, Hình hay sát tinh: bị ám sát, bị ám hại, tử trận.

Hỏa hay Linh, Kiếp, Không: tai họa rất dễ xảy ra, nhất là khi nhập hạn gặp phải.

Sát, Liêm ở Sửu Mùi - Sát, Hỏa, Hao - Phá, Hỏa, Hao - Sát (hay Phá), Việt, Hình: báo hiệu tai nạn binh đao.

+ Họa ngục hình, quan tụng hại đến tự do và uy tín cá nhân:

Thiên Hình: trừ phi đắc địa, trừ phi đương số hành nghề cảnh sát, thẩm phán, tình báo, trạng sư, Thiên Hình bao giờ cũng có nghĩa hình tù. Số tốt lắm thì Hình ứng về sự điều tra của cảnh sát, của tòa án, của giám sát viện hay của cơ quan an ninh tình báo. Trong trường hợp hành nghề thẩm phán, luật sư, cảnh sát, tình báo, tố tụng, Hình chỉ nghề nghiệp, chức vụ, quyền hành bắt giam hay xét xử người khác hoặc kiện thưa kẻ khác. Đi với cát tinh, hao bại tinh, ám tinh, hình tinh khác, Hình càng có nghĩa kiện và tù và bao giờ đương số cũng là nạn nhân. Có thêm sát tinh, tù tội nặng thêm, hình ngục khó thoát, làm cho tán mạng hay tán tài vì hình ngục. Đi với hao bại tinh, đương số khốn quẫn về tinh thần lẫn vật chất như lo sợ hoang mang, chán nản, tuyệt vọng, trốn tránh, mai danh ẩn tích mà lúc nào cũng sợ bị bắt, hoặc phải nuôi chí trả thù mà khổ sở. Cũng có thể hao bại tinh có nghĩa là trong thời gian thọ hình, đương số phải chịu nhiều cực hình như tra tấn, bỏ đói, hành hạ, đầy ải, mắc bệnh nan y.

Liêm Trinh hãm địa: chỉ sự bắt bớ, giam cầm, ở tù. Dù hành nghề gì mà Mệnh, Thân, Quan có Liêm hãm thì vẫn có thể bị hình tù như thường. Do đó, Liêm Trinh hãm địa ác hiểm hơn Thiên Hình nên đi với sát tinh rất dễ bị tù, bị kiện: Liêm, Kình, Đà, Linh, Hỏa - Liêm Hổ - Liêm, Kiếp, Hình ở Mão, Dậu - Liêm, Tham ở Tỵ và Hợi - Liêm, Kình - Liêm, Cự, Kỵ. Tuy nhiên, trường hợp Liêm Tham ở Tỵ và Hợi có Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt đồng cung sẽ hóa giải hình tù của Liêm.

Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: chỉ bị kiện, bị điều tra, bị chỉ trích, bị vu cáo, bị nói xấu. Đi với sát tinh, khó tránh tù hay thanh toán vì tư thù, thưa kiện rất lôi thôi. Quan tụng liên hệ đến ba sao này thường là tội lường gạt, bội tín, quỵt nợ, sang đoạt. Quan Phù, Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự lợi dụng lòng tin, sự xé lẻ, rã đám. Thái Tuế chỉ khẩu thiệt, cãi vã, chửi bới, chỉ trích, bút chiến, công kích.

Thiên La, Địa Võng: chỉ sự bắt bớ, giam cầm hoặc tối thiểu cũng gây trở ngại cho công việc, kìm hãm sự thăng tiến. Hình tụng, kiện tụng chỉ có khi La Võng đi kèm với sát hay hình tinh trong cục diện Mệnh, Thân xấu.

Hóa Kỵ: có nghĩa kiện tụng. Chất của Hóa Kỵ là ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, nói cấu, vu khống để hãm hại người khác một cách tiểu nhân, nhỏ mọn. Quan tụng của Hóa Kỵ tương tự như Thái Tuế. Đi với Thái Tuế, Hóa Kỵ luôn nói xấu thiên hạ, ngồi lê đôi mách, đưa đến đôi co, đối chất, kiện thưa vì ngôn ngữ bất cẩn.

Đà La: chỉ sự ngoan cố, ngỗ ngược, bướng bỉnh, hẹp hòi, câu chấp và có ý nghĩa kiện tụng. Đặc biệt đi với Kỵ, Tuế thì quan tụng rất rõ. Có Đà La, thua kiện cũng không đầu hàng, còn tìm cách chống án, chạy chọt, vận động cho được phần hơn.

Cự Môn hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ): có ý nghĩa kiện cáo, nhất là đi chung với Hóa Kỵ, Thiên Hình hoặc sát tinh, ý nghĩa giống như Hóa Kỵ.

Cách kiện tụng và ngục hình còn do một số bộ sao dưới đây quảng diễn: Xương, Khúc ở Tỵ và Hợi - Xương, Khúc, Phá ở Dần - Nhật, Nguyệt, Riêu, Đà, Kỵ - Binh, Kỵ, Hình - Binh, Phù, Hình.

+ Họa sắc dục:

Nếu cung Phúc có Tang Môn, Đào Hoa, Hồng Loan và Thai thì dòng họ có người chết vì thượng mã phong. Nếu 4 sao đó đóng ở Mệnh, Thân hoặc Tật thì họa đó xảy ra cho mình.

Họa bị đánh đập vì đam mê tửu sắc có ba bộ sao: Tham, Đà ở Tý - Tham, Đà ở Dần - Tham, Vũ đồng cung gặp Phá.

Đau khổ vì tình: Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư, Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư.

Ngăn trở ái tình: Phục Binh, Hóa Kỵ, Cự Môn, Thiên Không, Kình Dương, Đà La hãm địa, Tuần, Triệt.

Sao chỉ sự phản bội: Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế.

Sao chỉ sự xui xẻo: Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình

Sao thay cũ đổi mới: Thiên Mã, Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thai.

b. Họa của phái nữ:


+ Họa trinh tiết:

Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự hiếp dâm, có thể là hiếp tập thể.

Thai, Phục - Thai, Kiếp hay Không - Riêu, Phục - Riêu, Không, Kiếp - Tham, Phục - Tham, Không, Kiếp - Đào, Phục - Đào, Không, Kiếp - Đào Riêu, Không, Kiếp - Đào, Thai, Không, Kiếp: thất trinh thất tiết.

Đào, Riêu: lăng loàn, đàn bà ngoại tình, có khi không phải với một người. Hồng Loan, Riêu cũng có nghĩa tương tự.

Đào, Thai: tiền dâm hậu thú.

Đào, Thai, Riêu: gái giang hồ.

Cự, Kỵ hay Tham, Kỵ: ám chỉ sự mất trinh, sự bất hạnh trong tình ái.

Thai, Hình, Hỏa, Tang, Hổ, Kiếp: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, tượng trưng cho sự thanh toán vì tình, sự trả thù của tình nhân ác độc.

3. Họa cho nghề nghiệp:

a. Cách chức, thôi việc:

Tuần, Triệt ở cung Quan: trắc trở cho quan trường bằng nhiều hình thái: chậm công danh, công danh vất vả, thấp kém, không bền vững, thăng giáng thất thường. Sao Triệt báo hiệu sự gãy đổ ít nhất một lần trong sự nghiệp. Sao Tuần tác họa nhẹ hơn nhưng lâu dài hơn. Gặp cả Tuần, Triệt đồng cung thì tai họa nghề nghiệp vừa nặng, vừa nhiều. Tuy nhiên:
– Tuần, Triệt gặp Âm, Dương ở Sửu, Mùi thi không phá mà làm vượng quan.
– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hãm tối hay bại tinh mờ ám cũng làm vượng quan.
– Tuần, Triệt gặp Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa thì bất lợi cho chức vụ rất nhiều như chậm quan, chóng tàn, gặp hung họa, thăng giáng thất thường. Nếu tám sao trên mà hãm địa thì khá hơn, tức là gặp khó khăn, thất thường trong việc thăng tiến nhưng tựu chung có chức vị khá lớn, nhất là về sau.
– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa cũng còn đỡ khổ, không đáng lo ngại về sự thăng giáng hay gãy đổ sự nghiệp. Nếu hãm địa thì lại đẹp: công danh bộc phát mạnh mẽ.

Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.

Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.

Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.

Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...

Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương ...

Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.

b. Đè nén, đố kỵ:

Phục Binh: điển hình cho sự hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, sự đố kỵ, ghen ghét giữa đồng nghiệp hay giữa mình với cấp chỉ huy. Phục Binh còn có nghĩa âm mưu, kết bè, kết phái để đào thải, loại trừ đối thủ, có khi tổ chức phục kích, ám sát, thanh toán hoặc gài đương sự vào chỗ chết, chỗ kẹt, chỗ bị án, bị tù, bị quy trách. Thông thường, Phục Binh hay sử dụng mánh lới, thủ đoạn bất chính và bí mật để phá hoại đồng nghiệp, có khi liên kết với tòng phạm, bè cánh, tổ chức. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật đi kèm thì nạn nhân phải chạm trán với cả một hệ thống chằng chịt bao gồm nhiều tay sai ở nhiều ngõ ngách, muốn khiếu nại cũng không được như ý, nhiều khi chẳng đi đến đâu.

Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.

Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.

Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.

Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.

Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.

Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.

Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.


c. Bất dụng, sai dụng, thiểu dụng:

Lực Sỹ, Kình Dương: tượng trưng cho sự bỏ quên, việc ngồi chơi xơi nước, việc nghỉ giả hạn. Lực Sỹ chỉ tài năng, sự tháo vát, linh hoạt, lanh lợi đồng thời cũng ám chỉ thành tích, công lao, chiến tích. Kình Dương chỉ sự ngăn cản, trở lực, trục trặc trong công danh. Cả hai hội ý chỉ sự thi thố không hết mức tài năng, sự đãi ngộ bất xứng với thành tích, sự thiểu dụng, từ đó nảy sinh sự bất mãn, bất đắc chí. Kình Lực không nhất thiết ngụ ý người có tài mà lắm khi ngụ ý người tự cho rằng mình có tài, vì bị bạc đãi nên bất mãn. Kình Lực đôi khi chỉ tham vọng, sự cậy tài, sự ỷ lại quá đáng làm cho quần chúng ghét bỏ, xa lánh.

Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...

Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.

Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.

Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội.

Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách họa, những sao gây họa.

Top 5 con giáp lắm tiền nhiều của nhất

Tuổi Tý, Thân, Hợi, Dần, Mão giàu có nhờ số mệnh giàu sang thiên bẩm hoặc biết tích lũy, cần kiệm.
Top 5 con giáp lắm tiền nhiều của nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2-8916-1432021650.png 5-3888-1432021650.jpg 4-3530-1432021651.jpg 3-4642-1432021651.jpg 1-2356-1432021651.png
No.1 - Tuổi Tý No.2 - Tuổi Thân No.3 - Tuổi Hợi No.4 - Tuổi Dần No.5 - Tuổi Mão

Tuệ Anh (theo Diyixz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp lắm tiền nhiều của nhất

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd