Tướng người nghèo khổ –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
ước vào cửa đã nhìn thấy cầu thang, như vậy sẽ phạm vào nguyên tắc “hỉ hồi hoàn, kỵ trực xung”, có hại cho việc kinh doanh.
Màu sắc của cửa hàng phải chú ý những điểm nào? Trang trí màu sắc cho cửa hàng cũng rất đáng được coi trọng, có rất nhiều cửa hàng chú trọng đến màu sắc bên trong cửa hàng. Có những thương gia cho rằng màu đỏ, màu vàng là những màu sắc tương đối sáng sủa sẽ khiến cho tâm trạng con người hưng phấn, kích thích nhu cầu mua sắm của con người. Từ góc độ phong thủy mà nói: Màu sắc bên trong cửa hàng phải hợp với mệnh của chủ tiệm, với hướng của cửa hàng và thuộc tính Ngũ hành của hàng hoá buôn bán. Thuộc tính của hàng hoá thuộc năm loại lớn là Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Kim, sau đó dựa vào ngũ hành vận mệnh của chủ tiệm và hướng cụ thể của cửa hàng để xác định màu sắc trang trí chính cho cửa hàng.
Nơi quan trọng của cửa hàng khi thiết kế phải chú ý những điểm nào? Cửa của cửa hàng là nơi quan trọng hay còn gọi là yết hầu của cửa hàng, là chỗ lưu thông của khách hàng và hàng hoá xuất nhập. Cửa của cửa hàng mỗi ngày nghênh tiễn hao nhiêu khách hàng, nên nó quyết định đến thịnh suy của cửa hàng. Do đó, để nâng cao lưu lượng khách đến cửa hàng thì cửa của cửa hàng không nên quá nhỏ. Nếu làm quá nhỏ, theo quan điểm của phong thủy chính là thu nhỏ khẩu khí của nhà cửa, không có lợi cho việc tiếp nạp khí, làm cho lưu thông khí vừa ít vừa chậm, từ đó sinh khí trong phòng bị giảm bớt. Vì vậy, trong khi thiết kế nhất thiết phải chú ý đến vấn đề này.
Trong cuộc sống sẽ có lúc bạn cảm thấy tuyệt vọng và bế tắc. 8 điều dưới đây sẽ giúp bạn lấy lại được tinh thần nếu rơi vào tình trạng khủng hoảng đó.
1. Không ai khôn lớn mà chưa từng trải qua nỗi đau
Đôi khi cuộc sống đóng một cánh cửa lại vì đó là lúc để cho bạn tiến về phía trước. Gặp khó khăn không có nghĩa là bạn đang thất bại.
Hãy nhớ rằng nỗi đau có hai loại: loại làm bạn tổn thương và loại khiến bạn thay đổi. Thay vì kháng cự hai loại nỗi đau này, hãy chấp nhận chúng vì chúng đều khiến bạn trưởng thành hơn.
2. Tất cả mọi thứ trong cuộc sống chỉ là tạm thời
Trời mưa rồi cũng sẽ tạnh. Vết thương rồi cũng sẽ được chữa lành. Sau màn đêm tăm tối là ánh sáng của buổi bình minh. Không có gì kéo dài mãi mãi cả.
Mỗi khoảnh khắc đều mang lại cho bạn một khởi đầu mới và một kết thúc mới. Mỗi giây trôi qua bạn lại có một cơ hội mới. Bạn chỉ cần nắm bắt cơ hội đó và tận dụng nó.
3. Lo lắng và phàn nàn cũng không thay đổi được gì
Những người hay phàn nàn là những người ít được việc nhất. Bạn có dành cả ngày hôm nay để than vãn về ngày hôm qua thì ngày mai của bạn cũng không khởi sắc được. Thay vào đó hãy bắt tay hành động.
4. Vết sẹo của bạn là biểu tượng của sức mạnh
Một vết sẹo có nghĩa là một nỗi đau qua đi và vết thương đã lành. Nó có nghĩa là bạn đã chinh phục nỗi đau, đã học được một bài học, lớn mạnh hơn, và tiến về phía trước.
Hãy bắt đầu xem những vết sẹo của bạn như là một dấu hiệu của sức mạnh chứ không phải là dấu vết của những nỗi đau.
5. Cuộc đời là một chuỗi những cuộc đấu tranh
Kiên nhẫn không phải là chờ đợi mà là khả năng duy trì một thái độ tích cực trong khi theo đuổi giấc mơ.
Bạn có thể mất đi sự ổn định và thoải mái trong một thời gian dài, thậm chí là “ăn không ngon, ngủ không yên ”. Bạn có thể phải hy sinh các mối quan hệ và tất cả những gì thân thuộc.
Đôi khi bạn phải chấp nhận sự chế giễu từ người khác. Nhưng rồi bạn sẽ nhận ra rằng con đường của bạn được xây dựng nên từ những cuộc đấu tranh với những điều nhỏ nhặt nhất.
6. Bạn không cần phải để tâm đến sự tiêu cực của người khác
Khi xung quanh bạn tràn ngập sự tiêu cực, thì bạn hãy tỏ ra tích cực. Mỉm cười khi ai đó cố tình dìm bạn xuống.
Hãy luôn là chính mình dù ai đó đối xử với bạn tồi tệ. Đừng bao giờ để cho sự cay nghiệt của người khác thay đổi con người bạn. Người ta vẫn sẽ xì xầm về bạn cho dù bạn đã làm tốt như thế nào.
Vì vậy, hãy nghĩ về bản thân trước khi nghĩ về những gì đang diễn ra trong đầu người khác. Hãy làm những gì khiến bạn hạnh phúc và ở bên cạnh bất cứ ai làm cho bạn thường xuyên mỉm cười.
7. Chuyện gì cần đến sẽ đến
Hãy tận hưởng cuộc sống đang mở ra trước mắt bạn. Bạn có thể không đến được nơi mà bạn muốn, nhưng cuối cùng bạn sẽ chắc chắn đến được nơi mà bạn cần.
8. Điều tốt nhất bạn có thể làm là tiếp tục bước đi
Đừng ngần ngại nhận sự giúp đỡ từ ai đó. Đừng ngần ngại yêu thêm một lần nữa. Hãy tìm thấy động lực để cười mỗi ngày và làm cho người khác mỉm cười theo.
Hãy nhớ rằng bạn không cần nhiều người trong cuộc sống, mà chỉ cần một vài người thật sự quan trọng với bạn mà thôi. Chấp nhận khi bạn sai và học hỏi từ nó. Luôn luôn nhìn lại và xem bạn đã trưởng thành được bao nhiêu, và tự hào về chính mình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Thời gian: tổ chức vào ngày 12 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: 14 phố Cát Linh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Tiên Ông Trần Tú Uyên.
Nội dung: Hàng năm, nhân dân ở đây mở hội tế vào ngày 4/2, ngày thành đạo của Tiên Ông, ngày 3/6 kỷ niệm ngày chân nhân bay về trời, ngày 12/8 ngày sinh của Tiên Ông cũng là lễ hội chính của đền. Trong ngày hội chính có các chương trình lễ tụng kinh thỉnh Phật, thỉnh Thánh của các bà Vãi của đền. Tiếp đó là các cụ ông trong đội tế Nam An Trạch – Bích Câu trong trang phục áo thụng xanh, đầu đội mũ thư sinh, đi hài xanh làm lễ tế. Tiếp đó là chương trình văn nghệ biễu diễn ca trù và hoạt cảnh diễn lại cảnh Tiên Ông tu học, làm thuốc cứu người và gặp tiên nữ. Buổi chiều dành cho dân làng và khách thập phương vào dâng hương làm lễ.
Lễ hội đền Bích Câu mang đậm nét đạo giáo của Việt Nam, giữ gìn được nguyên vẹn theo lối xưa. Bích Câu Đạo Quán cũng được biết đến là một trong những điểm duy trì và phát triển ca trù của Hà Nội.
thiên mã (Hỏa)
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa vật dụng:
3. Ý nghĩa tài năng:
4. Ý nghĩa về sự thay đổi:
5. Ý nghĩa của thiên mã và một số sao khác:
a. Những cách tốt:
- Mã Nhật Nguyệt sáng sủa: gọi là cách Thư hùng mã, chủ việc gặp vận hội tốt, công danh tiến đạt, suông sẻ.
- Mã Lộc Tồn đồng cung hoặc Tồn hay Lộc chiếu: chủ sự hanh thông về quan trường, tài lộc. Thường thì đây là cách thương gia đắc tài đắc lộc.
- Mã Hỏa hay Linh đồng cung: đắc địa thì chủ về quân sự, binh quyền hiển đạt. Nếu hãm địa thì bôn ba, chật vật, có thể bị thương tích.
- Mã Khốc Khách: chỉ sự thao lược, chinh chiến dũng mãnh, lập công lớn, hay gặp thời vận may mắn.
- Mã, Tướng: làm nên vinh hiển
- Mã và Lưu Mã: thăng quan tiến chức; thêm tài lộc, huy chương; có xuất ngoại, hay thay đổi chỗ ở, chỗ làm.
b. Những cách xấu:
- Mã Tuyệt đồng cung hay hội chiếu (Chiết Túc mã - ngựa què): suy bại, ngăn trở trong mọi công việc, gây tai họa.
- Mã, Tuần, Triệt (Tử Mã): rất hung hãn, gây tai họa, bại hoại, chết chóc, thương tích tay chân.
- Mã ở Hợi (Mã cùng đường - ngựa bí lối): như Mã Tuyệt.
6. Ý nghĩa của thiên mã ở các cung:
a. ở Di, Quan:
b. ở Phu Thê:
c. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Tắm gội là hành động loại bỏ các chất bẩn trên người. Trong giấc mơ, điều này có ý nghĩa rằng bạn sẽ ‘rửa trôi’ mọi bệnh tật để có được sức khỏe tốt. Củ thể như thế nào thì hãy đọc bài viết dưới đây để biết ý nghĩa giấc mơ thấy tắm gội.
Nội dung
Mơ thấy bản thân mình đang tắm, tín hiệu đáng mừng cho thấy cơ thể bạn đang trong trạng thái vô cùng khỏe mạnh.
Nếu mơ thấy ai đó tắm gội, có ý nghĩa là bạn đang giúp đỡ người khác giải quyết mọi rắc rối mà họ đang gặp phải. Kết quả khiến mọi người thêm yêu quý và nể phục bạn hơn.
Trong giấc mơ thấy mình đang tắm tại nhà, vận may trong các mối quan hệ xã giao sẽ đến với bạn. Bạn sẽ nhận được sự công nhận và khen thưởng của tất cả mọi người xung quanh.
Nếu mơ thấy mình đang tắm sông hoặc tắm biển, là điềm báo vô cùng tốt lành dành cho bạn. Danh tiếng của bạn sẽ vang danh bốn phương, sự may mắn về tiền tài của bạn đạt mức đỉnh điểm.
Mơ thấy bản thân đang tắm nước nóng, điều này báo hiệu hạnh phúc sẽ đến với bạn. Còn nếu tắm bằng nước lạnh, tài năng của bạn được đông đảo mọi người thừa nhận.
Trong mơ thấy mình chuẩn bị đi tắm, nhưng cuối cùng không được tắm gội, cho thấy bạn đang gặp khó khăn trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nếu cố gắng và kiên trì, bạn sẽ nhanh chóng vượt qua nó.
![]() |
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 |
Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Chocopie (theo QQ)
Hướng kê giường Tuổi Giáp Ngọ 1954
– Năm sinh dương lịch: 1954
– Năm sinh âm lịch: Giáp Ngọ
– Quẻ mệnh: Khảm Thủy
– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Ôn tửu trảm Hoa Hùng
Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.
Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương. Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.
Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến. Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.
![]() |
Quan Vân Trường "ôn tửu trảm Hoa Hùng". |
Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng. Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới. Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"
Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!". Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.
Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu. "Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa. Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất. Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".
Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?
Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.
Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.
Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác. Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.
Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này. Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.
![]() |
Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công". |
Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.
Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.
Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.
Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.
Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?
Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.
Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.
"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".
Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác. Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.
Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu. Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.
Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.
![]() |
Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng". |
Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này. Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.
Lữ Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần. Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.
Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.
Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.
Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.
Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:
Uy chấn càn khôn đệ nhất công,
Viên môn họa cổ hưởng đông đông.
Vân Trường đình trản thi anh dũng,
Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.
► Xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ để biết tính cách, vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
![]() |
– Bỗng một ngày nào đó, những dấu hiệu dưới đây xuất hiện, bạn nên chuẩn bị sẵn “phương án tác chiến” trước những xui rủi sắp gặp phải.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Bói nốt ruồi đoán tính cách chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Phương pháp tính toán nam mệnh và nữ mệnh có sự khác nhau, hiện nay theo thứ tự người ta liệt kê ra 100 năm của thế kỷ 20 , trong đó có quẻ nam, nữ mệnh của một năm phụ thuộc.
Năm 1901 – Tân Sửu, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1902 – Nhâm Dần, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1903 – Quý Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1904 – Giáp Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1905 – Ất Tị, nam thuộc khôn thổ, nừ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1906 – Bính Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1907 – Đinh Mùi, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1908 – Mậu Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1909 – Kỷ Dậu, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1910 – Canh Tuất, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1911 – Tân Hợi, nam thuộc cân thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1912 – Nhâm Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1913 – Quý Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1914 – Giáp Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1915 – Ất Mão, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1916 – Bính Thìn, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1917 – Đinh Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1918 – Mậu Ngọ, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1919 – Kỷ Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1920 – Canh thân, Nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1921 – Tân Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1922 – Nhâm Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1923 – Quý Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1924 – Giáp Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1925 – Ất Sửu, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1926 – Bính Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1927 – Đinh Mão, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1928 – Mậu Thìn, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1929 – Kỷ Tỵ, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1930 – Canh Ngọ, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc chân thổ.
Năm 1931 – Tân Mùi, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1932 – Nhâm Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1933 – Quý Dậu, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thố.
Năm 1934 – Giáp Tuất, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1935 – Ất Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1936 – Bính Tý, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cân thổ.
Năm 1937 – Đinh Sửu, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1938 – Mậu Dần, nam thuộc cân thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1939 – Kỷ Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1940 – Canh Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1941 – Tân Tỵ, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1942 – Nhâm Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1943 – Quý Mùi, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1944 – Giáp Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1945 – Ất Dậu, nam thuộc khẩm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1946 – Bính Tuất, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1947 – Đinh Hợi, nam thuộc cấn thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1948 – Mậu Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1949 – Ký Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1950 – Canh Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1951 – Tân Mão, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1952 – Nhâm Thìn, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1953 – Quý Tỵ, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1954 – Giáp Ngọ, nam thuộc khảm thủy, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1955 – Ất Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1956 – Bính Thân, nam thuộc cấn thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1957 – Đinh Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1958 – Mậu Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1959 – Kỷ Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm mộc.
Năm I960 – Canh Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1961 – Tân Sửu, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1962 – Nhâm Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1963 – Quý Mão, nam thuộc khám mộc, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1964 – Giáp Thìn, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1965 – Ất Tỵ, nam thuộc câri thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1966 – Bính Ngọ, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1967 – Đinh Mùi, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1968 – Mậu Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1969 – Kỷ Dậu, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1970 – Canh Tuất, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1971 – Tân Hợi, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1972 – Nhâm Tý, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cân thổ.
Năm 1973 – Quý Sửu, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1974 – Giáp Dần, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1975 – Ất Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1976 – Bính Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1977 – Đinh Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khám thuý.
Năm 1978 – Mậu Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thố.
Năm 1979 – Kỷ Mùi, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1980 – Canh Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1981 – Tân Dậu, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thố.
Năm 1982 – Nhâm Tuất, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1983 – Quý Hợi, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1984 – Giáp Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1985 – Ất Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1986 – Bính Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc càn thuý.
Năm 1987 – Đinh Mão, nam thuộc tôn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1988 – Mậu Thìn, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1989 – Kỷ Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1990 – Canh Ngọ, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1991 – Tân Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1992 – Nhâm Thân, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1993 – Quý Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1994 – Giáp Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1995 – Ất Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1996 – Bính Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1997 – Đinh Sửu, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1998 – Mậu Dần, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1999 – Kỷ Mão, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 2000 – Canh Thìn, Nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Sau 2 năm và 3 tháng dư ai, chọn một ngày tốt làm lễ: Đắp sửa mộ dài thành mộ tròn, cất khăn tang, huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
Hôm nay là ngày…….tháng………năm ………..
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………
Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày Lễ Đàm Tế theo nghi lễ cổ truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển………………chân linh
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Than ôi! Nhớ bóng phụ thân (hoặc mẫu thân);
Cách miền trần thế
Tủi mắt nhà Thung (nếu là cha hoặc nhà Huyền nếu là mẹ)
mây khóa, thăm thẳm sầu phiền.
Đau lòng núi Hỗ (nếu là cha hoặc núi Dĩ nếu là mẹ)
sao mờ, đầm đìa ai lệ
Kể năm đã quá Đại Tường;
Tính tháng nay làm Đàm Tế.
Tuy lẽ hung biến cát; tang phục kết trừ;
Song nhân tử sự thân, hiếu tâm lưu để.
Lễ bạc, kính dâng gọi chút, há dám quên, cây cội nước nguồn,
Suối vàng, như có thấu chăng, họa may tỏ,
trời kinh đất nghĩa.
Xin kính mời: Hiển………………
Hiển………………………………
Hiển………………………………
Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về hâm hưởng.
Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo Quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ tư Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.
Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem bói năm 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
► Tham khảo thêm cách bố trí phong thủy phòng ngủ để an lành, may mắn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nên treo gương ở phòng khách |
![]() |
Không nên treo gương trong phòng ngủ |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Cốt lõi của "tam phân thiên hạ"
Ngày này, có nhiều ý kiến cho rằng sự sụp đổ của Thục Hán xuất phát từ sự kiện Quan Vũ để mất Kinh Châu về tay Đông Ngô, khiến Thục gần như bị "bế quan tỏa cảng", không còn cách đột phá ra khỏi lãnh thổ của mình.
Sự kiện này có thể coi là điểm mấu chốt trong sự sụp đổ của toàn bộ "Long Trung đối sách" nhằm duy trì thế "tam phân thiên hạ" của Gia Cát Lượng.
Tuy nhiên, có quan điểm nói rằng, sự thất bại thực sự của Khổng Minh đã đến từ trước đó rất lâu, khi ông không thể thuyết phục Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu khi khu vực này còn nằm trong tay Lưu Biểu, chứ chưa sáp nhập vào Đông Ngô.
"Long Trung đối sách" là chiến lược căn bản mà Gia Cát Lượng vạch ra cho Lưu Bị từ khi ông còn ở "lều cỏ". Mục tiêu của chiến lược này là "liên Ngô kháng Tào".
Trong khi đó, Khổng Minh cũng chỉ ra, điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu nói trên là phải có được Kinh Châu trong tay.
"Long Trung đối" của Khổng Minh đã bị ông thực hiện thất bại từ đầu?
Dù sau đại chiến Xích Bích, Lưu Bị cũng "mượn" được Kinh Châu từ Tôn Quyền, song thời thế đã không còn như trước. Khổng Minh hiểu rõ, cùng là một miếng đất, nhưng đoạt lấy khi nào và từ tay ai lại mang ý nghĩa chiến lược hoàn toàn khác biệt.
Đương thời, Tào Tháo còn mải bình định phương Bắc, chưa thể xua quân Nam hạ, trong khi Tôn Quyền và Lưu Biểu diễn ra tranh chấp.
Nếu tại thời điểm này, Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu từ tay Biểu thì ông có thể dễ dàng sở hữu một địa bàn độc lập mà không phát sinh vấn đề chủ quyền, dẫn đến xung đột với Đông Ngô như sau này.
Như vậy, với việc Tào Tháo tấn công Giang Đông, sự liên kết của Tôn Quyền và Lưu Bị cũng sẽ được hiện thực hóa trong vai vế bình đẳng hơn.
Ngược lại, trên thực tế, quân đội Lưu Bị đã bị Tào Tháo đè bẹp ở Tân Dã, buộc ông phải cử Khổng Minh làm thuyết khách đến cầu viện Đông Ngô. Về lý thuyết, Lưu Bị luôn ở "chiếu dưới" trong quan hệ đồng minh với Tôn Quyền.
Ngay trong chiến dịch Xích Bích, quân đội chủ đạo đem lại thế thắng cho "liên quân" thực chất cũng là thủy quân của Chu Du.
Qua các điểm này, có thể thấy được ý nghĩa lớn nhất của việc "không bỏ lỡ thời cơ đoạt Kinh Châu" chính là Lưu Bị sẽ được "danh chính ngôn thuận" sử dụng Kinh Châu mà không vấp phải sự chất vấn chủ quyền từ Giang Đông. Có như vậy, "Long Trung đối" mới được thực thi triệt để.
Nếu đoạt sớm Kinh Châu, có thể diễn biến lịch sử đã khác đối với Lưu Bị.
"Sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô"
Khi "cơ hội vàng" trôi qua, lịch sử Tam Quốc đã ghi nhận tranh chấp chủ quyền cực lớn giữa Thục và Ngô tại Kinh Châu.
Việc Gia Cát Lượng buộc dựa vào mưu lược để "mượn sức" Đông Ngô đoạt lấy Kinh Tương vô hình trung đã thừa nhận sự góp phần và ăn chia hợp lý của Giang Đông tại khu vực này.
Kinh Châu được Thục tận dụng hiệu quả trong suốt 10 năm trời, nhờ đó thôn tính địa bàn chiến lược thứ 2 là Ích Châu, đủ thấy giá trị địa - chính trị của Kinh Châu không gì thay thế được.
Nhưng mối ẩn họa đối với Thục Hán là sự ổn định khu vực này chỉ là tạm thời. Đông Ngô nhiều lần dùng các biện pháp ngoại giao yêu cầu hoàn trả Kinh Châu, trong khi Khổng Minh chỉ có thể "khất lần" để nuôi dưỡng thực lực với mục đích nuốt trọn được địa bàn này.
Có quan điểm nói rằng điều Khổng Minh lo ngại nhất mà không thể ngăn được chính là Quan Vũ trở thành đại tướng trấn thủ Kinh Châu.
Việc Quan Vũ "đổ thêm dầu vào lửa" dẫn tới xung đột bùng phát và ông để mất Kinh Châu là thực tế, nhưng chỉ là hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn âm ỉ trong suốt 10 năm trời.
Nguyên nhân rất đơn giản, Lưu Bị là phe được lợi và đương nhiên muốn duy trì hiện trạng Kinh Châu, đồng thời "hợp tác hòa bình" với Đông Ngô.
Trong khi đó, Giang Đông là phe chịu thiệt và thậm chí còn bị lợi dụng. Do đó, việc Tôn Quyền phát binh lấy Kinh Châu chỉ là vấn đề thời gian, Thục Hán hy vọng dùng các chính sách ngoại giao để "lần lữa" chỉ là phương án câu giờ, hoàn toàn không xử lý được vấn đề.
Chính vì vậy, có quan điểm bênh vực Quan Vũ nói rằng, việc đoạt lại Kinh Châu từ Thục đã là chiến lược tất yếu của Đông Ngô, cho nên việc Quan Vân Trường có thủ Kinh Châu hay thậm chí là Khổng Minh trực tiếp trấn giữ cũng không thay đổi được gì.
Cho dù Quan Vân Trường không thua trước Lữ Mông, Lục Tốn năm 219 và Kinh Châu chưa mất, thì những năm sau đó, đây vẫn sẽ là khu vực "nóng" nhất trong mâu thuẫn Ngô - Thục.
Để thua trước Lữ Mông là thất bại của Quan Vũ, song để dẫn đến mâu thuẫn Ngô - Thục lại là sai sót của Khổng Minh và Lưu Bị.
Cũng có ý kiến nói rằng, không phải Gia Cát Lượng không muốn sớm đoạt Kinh Châu. Ông từng nhiều lần thuyết phục Lưu Bị ra tay nhưng không được nghe theo.
Nhiều sự kiện về sau đã chứng minh, Lưu Bị chắc chắn là người sẵn sàng đi ngược lại đạo đức để hành sự. Điều mà Khổng Minh thất bại chính là không đưa ra được một cái cớ hợp lý để Bị thực hiện việc đó với Lưu Biểu.
Trong một hoàn cảnh tương tự, Bàng Thống - nhân vật tề danh cùng Khổng Minh - đã giúp Bị tìm được một lý do "danh chính ngôn thuân", giúp ông ta vượt qua "trở ngại đạo đức" mà đoạt lấy Tây Xuyên.
Câu nói "sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô (Kinh Châu)" mà Khổng Minh nói với Lưu Bị xem ra đã trở thành trò cười, bởi thất bại của họ rất có khả năng xuất phát từ chính thời điểm "sớm muộn" đó mà thôi.
Theo Trí Thức Trẻ
![]() |
Ảnh minh họa |
► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn |