Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tiết Thanh Minh

Tiết Thanh Minh đến sau khi lập xuân 45 ngày, sau đông chí 105 ngày. Theo âm lịch, ngày này thường rơi vào những ngày đầu tháng 3. Nếu nó rơi vào ngày mồng 3
Tiết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”

Câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du nhắc chúng ta cả về thời gian cũng như ý nghĩa của tiết Thanh Minh. Đây là lễ tiết hàng năm tồn tại không chỉ trong đời sống văn hóa của người Việt mà còn chung cho người Á Đông.

Thanh minh trong tiết tháng 3

Tiết Thanh Minh đến sau khi lập xuân 45 ngày, sau đông chí 105 ngày. Theo âm lịch, ngày này thường rơi vào những ngày đầu tháng 3. Nếu nó rơi vào ngày mồng 3 tháng 3 thì gọi đó là ngày Thanh Minh đích thực.

Tiết Thanh Minh có ý nghĩa đặc biệt đối với người Việt, đây là dịp để người ta tưởng nhớ về cội nguồn, thể hiện tình cảm và lòng biết ơn đối với những người đã khuất. Vì thế vào tiết Thanh Minh, người Việt có truyền thống đi tảo mộ.

Điều cốt lõi trong tục lệ Thanh Minh là thăm nom phần mộ của gia tiên và người thân. Ngoài việc sửa sang, xây dựng phần mộ, người ta còn lo sửa lễ tại nghĩa trang, cúng thần linh và mời vong linh về chứng giám cho tấm lòng thành của con cháu. Việc chăm sóc phần mộ cũng như cúng lễ trong tiết Thanh Minh đã phần nào nói lên đạo nghĩa của con người phương Đông.

Vào dịp Thanh Minh, trước khi đi tảo mộ, người dân thường sắm một lễ mặn nhỏ gồm: hương, đèn, trầu cau, rượu thịt và hoa quả. Tới nghĩa trang, gia chủ đặt lễ vào miếu thổ địa (hoặc am) của chung nghĩa trang, thắp đèn hương, vái 3 vái các vị thần linh, thổ địa, xin phép cho hương hồn người đã khuất về hưởng lễ với con cháu.

(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Thanh Minh

Người mệnh Mộc hợp màu gì nhất?

Mệnh Mộc hợp màu gì? Xem mạng Mộc hợp màu gì nhất theo ngũ hành tương sinh tương khắc. Mệnh Mộc hợp màu xanh dương, đen và các màu khác như...
Người mệnh Mộc hợp màu gì nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mệnh Mộc hợp màu gì? Màu sắc có vai trò cân bằng, hỗ trợ và điều hòa yếu tố âm dương trong phong thủy. Mỗi yếu tố ngũ hành khác nhau lại mang màu sắc đặc trưng không giống nhau. Hãy cùng tìm hiểu người mệnh Mộc hợp màu gì nhất nhé. 


Mệnh Mộc hợp màu gìCùng tìm hiểu mệnh Mộc hợp màu gì qua việc phân tích các yếu tố phong thủy, ngũ hành:
 

1. Ngũ hành

  Trong phong thủy, ngũ hành gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cỏ cây), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất). Giữa những yếu tố này lại có quan hệ tương sinh, tương khắc khác nhau. Nhưng dù sinh hay khắc, nếu hài hòa và hợp lý đều tạo ra sự cân bằng trong phong thủy cũng như tác động tích cực tới đời sống con người. Bạn xem thêm bài viết: Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì để hiểu hơn về bản chất của ngũ hành nhé!   
Nguoi menh Moc hop mau gi nhat hinh anh
 
Quan hệ tương sinh là yếu tố ngũ hành này làm cơ sở cho yếu tố ngũ hành kia hình thành, phát triển như:
 
- Mộc sinh Hỏa (cây cháy sinh lửa) - Màu xanh lá cây.
 
- Hỏa sinh Thổ (lửa đốt mọi vật thành tro, thành đất) - Màu đỏ.
 
- Thổ sinh Kim (kim loại hình thành trong đất) - Màu vàng.
 
- Kim sinh Thủy (kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) - Màu trắng.
 
- Thủy sinh Mộc (nước nuôi cây) - Màu xanh dương, màu xanh da trời.   Quan hệ tương khắc là yếu tố ngũ hành này hạn chế, gây trở ngại cho yếu tố ngũ hành kia.
 
- Thủy khắc Hỏa (nước dập tắt lửa).
 
- Hỏa khắc Kim (lửa làm chảy kim loại).
 
- Kim khắc Mộc (kim loại cắt được cây).
 
- Mộc khắc Thổ (cây hút chất màu của đất).
 
- Thổ khắc Thủy (đất ngăn nước).

Từ những quan điểm phân tích này có thể biết được mạng Mộc hợp màu gì nhất.
 
Nguoi menh Moc hop mau gi nhat hinh anh 2
 

2. Người mệnh Mộc hợp màu gì nhất?

  - Màu đặc trưng của hành Mộc: màu xanh lá cây  
Nguoi menh Moc hop mau gi nhat hinh anh 3
 

Màu tương sinh với mệnh Mộc


Ngũ hành Thủy sinh Mộc. Nước cung cấp sự sống, nuôi cho cây phát triển. Màu đặc trưng của hành Thủy là xanh dương và đen. Vì thế, người mệnh Mộc nên sử dụng những gam màu này trong ứng dụng cuộc sống hàng ngày để tạo ra sự cân bằng về mặt phong thủy. Trồng cây hợp mệnh Mộc cũng cần lưu ý đến yếu tố này.
 

Màu tương khắc với mệnh Mộc


Người mạng Mộc nên kiêng màu trắng vì màu trắng tượng trưng cho hành Kim, mà Kim khắc Mộc.
  Kết luận: Mệnh Mộc hợp màu gì? Màu sắc phù hợp với mệnh Mộc nhất là màu xanh dương, xanh lá, đen và xám. Những thứ liên quan đến mệnh này còn bao gồm những bề mặt phản chiếu như gương, kính, pha lê, hồ bơi, suối nước và bể nuôi thủy sinh.

Mời bạn xem thêm các bài liên quan đến người mệnh Mộc: 
Người mệnh Mộc hợp cây gì để phúc lộc đầy nhà? Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận Muốn phát tài, người mệnh Mộc chớ coi thường bàn làm việc Mẹo trang trí nhà cửa cho người mệnh Mộc
Có thể bạn quan tâm:
Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Kim Màu sắc phù hợp với người mệnh Thổ Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thủy
Ngọc Diệp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người mệnh Mộc hợp màu gì nhất?

Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí.
Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí chúng ta.  
Mỗi dịp Tết trung thu khắp những con phố nhỏ rộn ràng khúc hát: “Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu. Cán đây rất dài cán cao quá đầu. Em cầm đèn sao em hát vang vang. Đèn sao tươi màu của đềm rằm liên hoan! Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh..."

Đã từ lâu mặt nạ giấy bồi, đèn Trung thu hình ngôi sao là những món đồ không thể thiếu đối với trẻ em trong dịp Tết trung thu ngày trước. Ngày nay, tuy nhiều loại đồ chơi hiện đại xuất hiện nhưng những món đồ chơi này vẫn có một ý nghĩa đặc biệt với trẻ nhỏ.
 
Để làm một chiếc đèn Trung thu hoàn toàn bằng thủ công, người thợ phải làm nhiều công đoạn chi tiết và phức tạp, từ chẻ tre, vót tre, cắt khung, làm xương đèn, lắp cán đến in hoa văn, màu sắc trên giấy kính… mới tạo thành một chiếc lồng đèn hoàn chỉnh.

Tre làm lồng đèn phải là tre già ngâm với nước muối nhiều ngày để chống mối mọt, sau đó phơi khô, chuốt nan tùy theo kích cỡ của từng loại đèn. Giấy dán lồng đèn có nhiều màu, khi căng ra dán người thợ cần phải khéo léo để giấy thẳng góc và không bị rách.
 
 Tham khảo: Nét đẹp phong tục truyền thống trong Tết Trung Thu đất Việt
 

Y nghia cua den Trung thu truyen thong
 
Những công đoạn, như: chẻ tre, cột khung, ráp hình đã được chuẩn bị trước hàng tháng trời. Đến khi giáp Tết trung thu người ta chỉ cần dán dấy, nhấn nhá thêm vài nét vẽ nữa là hoàn thành. Từng chiếc lồng đèn hình con bướm, con cá, giỏ hoa, xe tăng… đủ màu sắc và ngộ nghĩnh được gia chủ treo lên trước cửa tiệm đã thu hút mọi ánh nhìn của người qua đường.

Làm lồng đèn là một nét đẹp văn hóa có từ lâu đời. Nét đẹp đó chỉ có thể duy trì nếu mỗi thế hệ biết giữ gìn, trân trọng. Đó là truyền thống kết tinh từ tình yêu, sức sáng tạo, từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào, hướng thiện trong mỗi con người.
 
Những đồ chơi này tuy không được gắn những con chíp điện tử để có thể phát sáng hoặc phát ra một đoạn nhạc như đồ chơi hiện đại ngày nay, nhưng chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ em. Đặc biệt là trước đây, nhiều gia đình thường tự làm những chiếc đèn Trung thu cho con cái, điều này mang lại những kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ với con trẻ.
 
 Tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung thu truyền thống của Việt Nam
 
Neu duoc tu tay lam den Trung thu se tang su sang tao cua tre
 
Lựa chọn Tết Trung thu để tạo kỷ niệm đẹp với con cái là một điều tuyệt vời. Con trẻ bao giờ cũng hiếu kỳ, thích khám phá. Cho nên các con sẽ vô cùng háo nức khi cùng cha mẹ làm lồng đèn. Nhờ đó, bé biết hy vọng vào một điều gì đấy, giống như việc chờ đợi ngày chiếc lồng đèn hoàn thành. Đơn giản vì trong tâm trí trẻ thơ, chúng tin rằng chiếc đèn lồng này là duy nhất và chỉ dành cho mình.   Đây là một dịp để gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui của ngày hội. Sau khi chiếc lồng đèn “ra lò”, mọi người trong gia đình hãy cùng nhau thắp đèn, hát 1 bài vui nhộn hay kể một câu chuyện ý nghĩa nào đó. Chắc chắn, kỷ niệm ngọt ngào này sẽ luôn được các thành viên nhớ về mỗi khi gặp chuyện không vui trong cuộc sống.   Việc mua lồng đèn có sẵn sẽ khiến trẻ cảm thấy chúng quá dễ có được, thậm chí trẻ sẽ không biết quý trọng những gì mình đang có, lại còn muốn đòi mua liên tục ba bốn cái khác nhau. Tuy nhiên lồng đèn do tự tay trẻ làm ra sẽ được trẻ giữ rất kỹ. Bởi lẽ trẻ cảm nhận được tình yêu, sự tâm huyết của mọi người dành cho trẻ. Thậm chí qua khỏi mùa Trung thu, trẻ vẫn giữ chiếc lồng đèn để tiếp tục thắp sáng trong những đêm thường.   Khi quan sát hoặc tự làm lồng đèn sẽ giúp trẻ có tư duy nhạy bén hơn. Đứa trẻ nào cũng rất tò mò, vậy nên nó sẽ xem xét lỹ lưỡng mọi thứ mà nó cảm thấy lạ. Và biết đâu trẻ sẽ “sáng chế” ra những chiếc lồng đèn mà hiện nay chưa có trên thị trường.   Dù thành quả thế nào, cuối cùng thì chiếc lồng đèn này vẫn là chiếc đèn lồng độc nhất trên hành tinh. Giống như tình cảm gia đình thiêng liêng được duy trì qua mỗi thế hệ.

Kate Nguyễn
Cách làm bánh Trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao Top 4 con giáp may mắn nhất trong dịp Tết Trung Thu 2017 Tết Trung Thu tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát tán tai, cầu an

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Giải mã ý nghĩa giấc mơ ăn cơm –

Khi con người mơ thấy ăn cơm liệu có ý nghĩa gì? Ăn thịt nấu chín là điềm tốt, ăn thịt sống là điềm xấu, ăn thịt những con vật chết sình là điềm chia ly trong gia đình. Nằm mơ thấy được ăn là điềm báo trước của nhiều việc. Ví dụ như mơ thấy ăn cơm ở
Giải mã ý nghĩa giấc mơ ăn cơm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa giấc mơ ăn cơm –

Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Muốn biết mức độ trung thực của đối phương trong tình yêu, cách tốt nhất là xem mí mắt của họ.
Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi: 

nhin-mi-mat-phan-chuyen-tinh-yeu

A. Mắt một mí

B. Bên một bên hai

C. Mắt hai mí

D. Mắt nhiều hơn hai mí

E. Mắt sụp mí

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Chùa Bà Ngô - Hà Nội

Chùa Bà Ngô là một ngôi chùa cổ có niên đại từ thời vua Lý Nhân Tông, có tên chữ là Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ, hiện nay tọa lạc số 128 phố Nguyễn Khuyến
Chùa Bà Ngô - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bà Ngô là một ngôi chùa cổ có niên đại từ thời vua Lý Nhân Tông, có tên chữ là Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ, hiện nay tọa lạc số 128 phố Nguyễn Khuyến, đường Văn Miếu, Hà Nội.

Qua gần 900 năm lịch sử, Chùa Bà Ngô lưu giữ được nhiều văn bia, câu đối và một khối lượng di vật rất lớn ở nhiều thể loại như long ngai, bài vị, các tế khí… Chùa là một kiến trúc tôn giáo đẹp, độc đáo gắn liền với nhiều sự tích và nhân vật trong tiến trình phát triển của lịch sử Thăng Long – Hà Nội.

Lịch sử: Theo cuốn Thăng Long cổ tích khảo thì chùa được xây dựng vào thời vua Lý Thần Tông (1127 – 1128). Cũng theo sách này, vào thời Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865…

Vào năm Ất Hợi (đời vua Bảo Đại, tức 1934), chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): “Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa, Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành”.
Sự tích kể rằng: có một lần Lê Thánh Tông thăm chùa, thấy trên gác chuông có bóng người đẹp ngâm 2 câu thơ:

“Ở đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.”

Cũng có thuyết nói rằng nhà vua thấy một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau:

“Bà Ngô Phong cảnh xinh thay
Đố ai cắt mối sầu này cho xong
Bao giờ về tới ngự cung
Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay.”

Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường Luật 8 câu trong đó có 2 câu:

“Chày kình mấy khắc tan niềm tục
Hồn bướm năm canh lẩn sự đời.”

Nàng xin phép sửa lại là:

“Gió xuân đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời.”

Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ. Lầu Vọng Tiên bị dỡ khi phá thành Thăng Long xây lại và được chuyển về số 120B phố Hàng Bông thành đền Vọng Tiên.

Một đêm nhà vua nằm mơ thấy Tiên hiện tới tự tình và nói ở nơi kinh thành lâu nay thường xảy ra tai dịch là bởi có con Thạch tinh ở dưới cái ao ngay trước quán , đã hóa ra một con gà bay đi tác quái khắp Kinh thành, phải kịp trừ ngay mới khỏi sinh tra hậu họa lớn.

Khi tỉnh dậy, nhà vua cho đào ngay ở giữa ao trước quán sâu tới 3 thước, đất đỏ như máu, thấy một một hòn đá, bèn đập vỡ tan, vứt ra ngoài sông rồi lấp phẳng ao đi. Từ đó kinh thành rất yên ổn.

Kiến trúc: Tam quan của Chùa Bà Ngô là gác chuông 2 tầng, 8 mái với 8 góc đao cong. Một quả chuông đồng đúc năm Canh Dần Thành Thái thứ 2 (1887) được treo ở giữa tam quan có dòng chữ Ngọc Hồ tự chung. Phật điện gồm tiền đường và hậu cung làm theo kiểu chữ Đinh. Hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn mở rộng bằng một vì vỏ cua, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Hậu cung 4 gian có nhiều của võng. Nhà Tổ, ngoài 2 ban thờ các sư tổ Bồ Đề đạt ma, các sư tổ của chùa đã viên tịch, còn có bàn thờ đức Văn Xương.

Điện Mẫu thờ các Mẫu, Ngọc Hoàng và vua Lê Thánh Tông ngồi trong ngai rồng. Hai bên thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. Tượng trong chùa hiện có 35 pho được sắp xếp dọc Phật điện. Ngoài những pho như Tam thế, A di Đà tam tôn, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Ngọc hoàng Thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, còn có 10 vị Diêm Vương và tượng Bà Ngô trang phục gần như tượng Mẫu. Tượng Tổ mang nhiều nét chân dung của sư nữ…

Đặc biệt, trước hai bên cổng chính của chùa là một câu đối chữ Nôm, điều rất hiếm gặp tại các chùa ở Hà Nội.

Chùa Bà Ngô được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bà Ngô - Hà Nội

Quy định trong động thổ và tế lễ –

Chọn nơi xây cất nhà là việc làm cần hết sức thận trọng, việc này đòi hỏi phải có kinh nghiệm phong thuỷ phong phú thăm dò cùng với thầy phong thuỷ kết hợp tứ trụ, vận mệnh của chủ nhà, thăm dò quan sát các mặt về long mạch của mảnh đất đó, lúc đó mớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i có thể chọn ra được nơi phù hợp nhất. Chí có thông qua nhừng nơi được chọn ra như vậy, mới được coi là đất quý hiếm, có duyên phận thâm sâu với gia chủ.

55156279-loandtkhoicongnhamayyamaha3

Chọn được đất tốt rồi, tiếp theo là chọn ngày động thổ đặt móng. Có điều gì huyền bí và kỳ diệu trong chuyên này chăng? Theo sách phong thuỷ truyền thống có ghi chép; thời xưa khi xây nhà, sau khi chọn được ngày cát giờ cát, người ta sẽ tiến hành động thổ đặt gạch. Việc “đặt gạch” trước đây tương tự như nghi thức đặt móng (bỏ móng) ngày nay. Nghi thức đặt móng bình thường ngày nay là đổ đất và cát mịn lên 4 xung quanh thân đất làm nhà tạo thành bờ tường vây cao 30cm, đặt trên thân đất một viên dá hình tròn có cuốn vải lụa màu dỏ. Trên mặt viên đá khắc thời gian xây dựng các hạng mục công trình, các đơn vị có liên quan, một bên đặt 9 chiếc xẻng sắt mới có cuốn vải lụa màu đỏ ở cán với hàm ý 99 qui về làm một. Đợi đến giờ tốt, trong tiếng nhạc vui, dưới ánh sáng của những chùm pháo hoa được bắn lên, các vị quan khách, lãnh đạo gồm 9 người được mời cầm 9 chiếc xẻng kia xúc vữa đổ vào móng nhà, vậy là xong nghi thức đặt móng.

Tương tự như vậy, việc đặt gạch trước đây là do những người lớn tuổi có vai vế và uy tín cao trong họ tộc đích thân cầm những viên gạch đặt xuống móng nhà theo một thứ tự nhất định. Họ làm như vậy là mong muốn cho nền móng của gia tộc luôn vững chắc, con cháu trong nhà hưng vượng, vận nhà mãi hanh thông. Vậy thì vấn đề thứ tự ở đây là như thế nào? Phong thuỷ học có nói “ngũ phương ngũ thổ”, ngũ phương nói đến ở đây là Đông, Nam, Tây, Bắc, trung. Người xưa khi chọn nơi ở, trước tiên nhà đó phải nằm ở vị trí trung cung, được gọi là trung cung vị. Trung cung vị chính là thần vị mà chúng ta nói đến ngày nay, là những hướng dùng để đặt bài vị tổ tiên và tượng, ảnh các vị thần tiên. Theo năm phương này người ta lại chia ra được 4 hướng là Đông bắc, Tây bắc, Đông nam, Tây nam. Người xưa theo 9 hướng này để chia bố cục không gian nhà ở, đồng thời cũng dựa vào chúng để xác định thứ tự đặt gạch cho móng nhà.

Ví dụ, trong một căn nhà thân toạ hướng bắc mặt quay về hướng nam, hướng trung tức trung cung vị là lớn nhất, đây cũng là trung đường của nhà này. Tại trung đường mọi người bày đồ tế lễ bắt đầu bước thứ nhất của nghi thức đặt gạch; đứng giữa trung đường mặt hướng ra cửa chính, góc Đông bắc bên trái phía trên là góc bên lớn, thực hiện việc dặt gạch tại góc này, đây là bước thứ hai của nghi thức dặt gạch; bước tiếp theo là thực hiện đến góc Tây bắc bên phải phía trên, đây là góc bên nhỏ; bước thứ tư là đến góc Đông nam bên trái phía dưới, đây cũng là góc bên lớn; tiếp đến là góc Tây nam bên phải phía dưới, đây là góc nhỏ và là bước thứ năm của nghi thức đặt gạch; bước cuối cùng của nghi thức đặt gạch là ở cứa chính, mục đích làm bước này là mong muốn nơi ra vào gia trạch luôn bình an. Nhà toạ ở các hướng khác cũng dựa theo phương pháp này để xác định thứ tự nghi thức đặt gạch.

Trong quá trình xây dựng nhà cửa trước đây, ngoài việc đặt gạch ra, mọi người còn phải thực hiện nhiều lần lễ bái. Công việc lễ bái thần cũng tuân theo một quy tắc nghiêm ngặt. Khi nhà xây cất xong và bắt đầu vào ở, bắt buộc mọi người phải thực hiện việc lễ bái theo đúng thứ tự. Sau khi vào ở rồi, mỗi lần lễ bái vẫn phải tuân theo thứ tự này.

Nhà cửa xưa kia phần nhiều có bố cục theo kiểu tứ hợp viện, phân chia vị trí tọa gồm: thượng, trung và hạ. Nhà lớn thường có hai giếng trời, nếu ít cũng phải có một chiếc. Giếng trời không chỉ có tác dụng lấy ánh sáng và thông gió, về phong thuỷ học nó được gọi là “tứ thuỷ quy đường”, tức là khí từ các hướng Đông, Nam, Tây, Bắc của tứ hợp viện sẽ quy về trong giếng trời và sau đó thoát ra, đây gọi là “khai thuỷ”. Vị trí của kiến trúc giếng trời khai thuỷ ngày xưa rất quan trọng, mở theo hướng nào cần phải cân nhắc kỹ, phải làm thế nào để khai thuỷ kết hợp được tất cả mệnh cách của mọi người trong nhà. Khá nhiều người hợp với khai trung thuỷ, tức là ở vị trí trung tâm mở một đường thoát nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy định trong động thổ và tế lễ –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Cách xem tướng 10 kiểu ngực của phụ nữ –

Phụ nữ ngực tròn sống nội tâm, không quan tâm đến cảm xúc của người khác, yêu thương chồng và có ham muốn tình dục cao. 1. Ngực lớn Người phụ nữ sở hữu những bầu ngực này không thích tù túng, có tính tự lập cao. Người phụ nữ ngực lớn rất dễ kết giao
Cách xem tướng 10 kiểu ngực của phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng 10 kiểu ngực của phụ nữ –

Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 mạng gì?

Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 là năm Tân Sửu, nạp âm Bích Thượng Thổ. Với những người đang có ý định sinh con trong năm này thì theo dõi ngay đặc điểm của tuổi này
Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 mạng gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 là năm Tân Sửu, nạp âm Bích Thượng Thổ. Với những người đang có ý định sinh con trong năm này thì nên theo dõi ngay những đặc điểm chính về tử vi của tuổi để chọn lựa năm ra đời đẹp nhất cho em bé của mình.  

1. Tính chất năm Tân Sửu


 
tan suu
 
Năm 2021 mạng gì là thắc mắc của không ít người. Năm Tân Sửu mạng Thổ, đất trên vách. Theo quẻ mệnh bát quái là mệnh Càn Kim thuộc Tây tứ mệnh.
  Người mệnh Thổ có tính cách đặc trưng là ổn định, chăm chỉ, có ý chí và có sự kiên định. Nhược điểm là bảo thủ, cố chấp và ngại thay đổi. Bích Thượng Thổ là đất trên vách nên tính chất mạnh mẽ, che mưa chắn bão, là trụ cột của ngôi nhà. Đây là Thổ vì gặp Thủy mà hóa thành bùn nhão dùng để trát vách tường nên trước mềm sau cứng, cần phải nương tựa vào Bình Địa Mộc.

Xem thêm bài viết Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Thổ
  Nếu thiếu chỗ dựa thì khó mà đứng vững thành vách tường nên người mang nạp âm Bích Thượng Thổ không thể làm ăn riêng lẻ mà phải hợp tác với người khác, không chủ về lãnh đạo như những mệnh Thổ khác mà chỉ làm người điều hành, cấp dưới, quản lý thì tốt hơn.   Xét về tính chất hợp xung của mệnh thì Tân Sửu Bích Thượng Thổ tương sinh Kim nhưng chỉ ưa Nhâm Dần, Quý Mão Kim Bạc Kim còn gặp Kiếm Phong Kim Nhâm Thân, Quý Dậu sẽ chịu tổn thương, các Kim khác vô dụng.   Thủy Thổ bất hòa nhưng gặp Giáp Thân Tịnh Tuyền Thủy là cát lợi nhất, gặp Ất Dậu Thiên Thượng Thủy cũng khá ổn vì đất vách cần có Thủy tiếp tế mới thành bùn, hữu dụng. Kị Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại Hải Thủy, nước lớn bùn trôi, cuộc đời bất định.  

2. Cuộc đời người sinh năm Tân Sửu

  Năm 2021 mệnh gì? Cuộc đời người mệnh Thổ nói chung, người mệnh Bích Thượng Thổ nói riêng có nhiều điểm tốt. Tính cách người mệnh Thổ: chăm chỉ và thích sự ổn định. Người này thông minh nhanh nhẹn lại có tài ăn nói, hiểu biết rộng, có giác quan thứ 6, nên theo đuổi những nghề như giáo viên, đoán mệnh.   Dù là nam hay nữ thì cuộc đời cũng có nhiều ưu đãi do Thổ có tính Thủy, ngoài cứng trong mềm, có chút linh hoạt hơn so với các loại Thổ khác. Nam mệnh tốt về công danh sự nghiệp, từ trung vận là phát đạt thành công. Nữ mệnh lại hưởng lợi về nhân duyên tình cảm, cuộc sống hôn nhân mỹ mãn hạnh phúc, trung vận bắt đầu có tiền, hậu vận an nhàn.   Nhìn chung, tuổi Tân Sửu của nam mệnh tốt hơn nữ mệnh bởi nữ giới có chút buồn khổ về tiền bạc, long đong vất vả một thời gian mới đi vào ổn định. Nữ giới càng ăn ở hiền lành thiện lương thì càng có phúc đức, vận trình sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều lần.   Người này vào những năm Ngọ, Mùi cần thận trọng, trong nhà dễ sinh chuyện, bản thân và người nhà bị tổn thương.    Chọn bạn đời nên lấy người sinh năm Giáp, Ất, không lấy người sinh năm Bính, Đinh. Quý Mão, Ất Tị, Kỷ Dậu, Canh Tý, Kỷ Hợi là những tuổi hợp, lấy nhau sẽ sinh phú quý. Tân Sửu, Đinh Mùi, Canh Tuất, Quý Sửu, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Ất Mùi là những tuổi không hợp kết hôn và làm ăn, thành ít bại nhiều.  

3. Có nên sinh con năm Tân Sửu


2021
 
Nhiều người muốn biết năm 2021 mệnh gì để sinh con hợp mệnh bố mẹ. Mệnh hợp với Thổ là Kim và Hỏa. Bố mẹ thuộc hai mệnh này sinh con năm Tân Sửu thì là tương sinh. Ngoài ra đứa trẻ mệnh Thổ có thể hóa giải mệnh xung khắc cho bố mẹ trong trường hợp bố mệnh Kim mẹ mệnh Hỏa.   Ngoài xem mệnh, bố mẹ nên xem tuổi hợp trước khi quyết định sinh con. Tuổi Sửu tam hợp với Tị và Dậu, tứ hành xung với Thìn, Tuất và Mùi. Bố mẹ có tuổi hợp thì rất tốt, gặp tuổi xung thì nên xem xét thêm. Tham khảo: Cách chọn năm sinh con hợp tuổi cha mẹ chuẩn xác theo vòng Tràng sinh   Nhìn chung năm Tân Sửu là năm tốt để sinh con, cuộc đời có nhiều ưu điểm, ít ưu phiền, đặc biệt là con trai. Mệnh Bích Thượng Thổ có ưu điểm của mệnh Thổ song khắc phục được nhược điểm của mệnh này nên cũng phần nào bớt vất vả trong vận trình.   Dẫu vậy con cái là lộc trời cho, năm tốt năm đẹp không bằng gặp năm, nếu có ý định mang thai, sinh con thì hãy thuận theo tự nhiên, đứa trẻ sẽ là nguồn vui vô tận, mang phúc khí tới cho gia đình.   Năm 2020 là năm con gì? Sinh năm 2020 mệnh gì? Năm 2018 là năm con gì? Sinh năm 2018 mệnh gì? Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?
Trần Hồng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 mạng gì?

Sự khác biệt thú vị về tục lệ đón Tết chào Xuân khắp 3 miền

Xuân mới đang đến gần, Tết đang gõ cửa, nhà nhà chuẩn bị đón Tết, người người rộn ràng chào Xuân. Hãy cùng ## khám phá những điều không hề mới lạ
Sự khác biệt thú vị về tục lệ đón Tết chào Xuân khắp 3 miền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  nhưng khá thú vị về Tết của 3 miền nhé!

Su khac biet thu vi ve tuc le don Tet chao Xuan khap 3 mien hinh anh goc
 
Su khac biet thu vi ve tuc le don Tet chao Xuan khap 3 mien hinh anh goc 2
 
Su khac biet thu vi ve tuc le don Tet chao Xuan khap 3 mien hinh anh goc 3
 
Su khac biet thu vi ve tuc le don Tet chao Xuan khap 3 mien hinh anh goc 4
 

=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất

Dương Nguyên

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự khác biệt thú vị về tục lệ đón Tết chào Xuân khắp 3 miền

Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

Dựa vào quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc theo quan niệm về phong thủy mà sử dụng các loại màu sắc phù hợp với bản mệnh mỗi người.
Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Bên cạnh các yếu tố như bố cục, phương hướng, bố trí không gian, chức năng… thì màu sắc của ngôi nhà cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường nhà ở và cá nhân con người sinh sống. Theo quan điểm phong thủy, màu sắc hình thành các trường năng lượng khác nhau, là tương sinh hoặc tương khắc với bản mệnh của mỗi người theo ngũ hành. Nếu là trường năng lượng tích cực sẽ giúp cân bằng hài hòa âm dương, từ đó phát huy những điều thuận lợi và hạn chế các bất lợi từ môi trường đến cuộc sống của người sử dụng và ngược lại.
  Dựa vào quy luật ngũ hành tương sinh và tương khắc theo quan niệm về phong thủy, khi xây dựng hoặc cải tạo màu sắc cho tường nhà, đồ nội thất… cần phải lưu ý những điểm dưới đây.   1. Hành Kim
 
- Biểu trưng của hành Kim trong phong thủy
 
Hành Kim thường biểu trưng cho những hình tượng liên quan đến mùa thu, sức mạnh tinh thần, sự quyết tâm. Người mệnh Kim thường có óc tổ chức và kỉ luật tốt, tinh thần tập trung cao độ và tư duy sắc sảo. 
 
- Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Kim
 
Dựa vào quan hệ tương sinh: Trong ngũ hành, Thổ sinh Kim, khi chọn màu sắc ngôi nhà theo ngũ hành nếu chủ nhà mệnh Kim có thể dùng các màu như: nâu, vàng đất, cam đất của hành Thổ để trang trí cho ngôi nhà. Ngoài ra các màu bản mệnh: trắng, vàng và các sắc ánh kim cũng phù hợp. Ngoài ra, nên sử dụng kết hợp các loại vật liệu xây dựng bằng kim loại, thủy tinh, đá hoa cương, đá cẩm thạch, gốm sứ…để tăng hiệu quả cân bằng ngũ hành trong ngôi nhà.
 
Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì Kim khắc Hỏa, do đó tránh sử dụng các màu của mệnh Hỏa: đỏ, hồng, tím.

Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh
Ảnh minh họa
 
Lưu ý: Phong cách nội thất phù hợp với người mệnh Kim là đương đại hoặc tối giản. Vì những phong cách này mang đến sự ngăn nắp, đơn giản nhưng sang trọng và tinh tế y như đặc trưng tính cách của người mệnh Kim.   2. Hành Mộc
 
- Biểu trưng của hành Mộc trong phong thủy
 
Hành Mộc là biểu trưng cho thế giới tự nhiên, năng lượng sinh ra từ hành Mộc có tính sinh sôi, mềm dẻo và phát triển không ngừng. Người thuộc mệnh Mộc có tính cách hướng ngoại, thích khám phá, du lịch, yêu thiên nhiên, nhiệt tình, cởi mở và có mục tiêu sống rõ ràng.
 
- Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Mộc
 
Dựa vào quan hệ tương sinh: Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh nước biển, đen của hành Thủy để trang trí cho ngôi nhà, vì Thủy sinh Mộc. Hoặc có thể dùng màu bản mệnh là xanh lá. Bên cạnh việc lựa chọn màu sắc, gia chủ nên chọn các loại vật liệu xây dựng phù hợp như: mây tre lá, giấy, gỗ, vài, các yếu tố cây xanh…
 
Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì Kim khắc Mộc, nên tránh sử dụng các màu thuộc hành Kim như: trắng, vàng, các sắc ánh kim.

Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 2
Ảnh minh họa
 
Lưu ý: Phong cách nội thất phù hợp cho người mệnh Mộc là xu hướng thô mộc pha trộn hiện đại để làm nổi bật sự mộc mạc chân phương, tính ngẫu hứng, cuộc sống yên bình và sự sống hồi sinh như cá tính tiềm ẩn của người mệnh Mộc.   3. Hành Thủy
 
- Biểu trưng của hành Thủy trong phong thủy
 
Hành Thủy là biểu tượng của mùa Đông, các yếu tố liên quan đến tính vật chất và tính hình tượng của nước. Người mệnh Thủy thường linh hoạt trong cuộc sống và công việc, có tư tưởng cấp tiến, đề cao sáng tạo, có khiếu nghệ thuật, tài ngoại giao và khả năng ứng biến, thích nghi tốt.
 
- Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Thủy
 
Dựa vào quan hệ tương sinh: Vì Kim sinh Thủy, nên gia chủ mệnh Thủy có thể chọn các màu: trắng, vàng, các sắc ánh kim trang trí cho ngôi nhà. Hoặc các màu bản mệnh Thủy: xanh nước biển, đen. Ngoài ra, nên phối kết hợp các loại vật liệu liên quan đến hành Kim và Thủy như thủy tinh, kim loại, gạch kính sáng bóng hoặc có tính phản chiếu…
 
Dựa vào quan hệ tương khắc: Thổ khắc Thủy, nên tránh sử dụng các màu của mệnh Thổ: nâu, nâu đất, cam đất.

Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 3
Ảnh minh họa
 
Lưu ý: Xu hướng đương đại, giải tỏa kết cấu, dòng chảy, hữu cơ là những phong cách phù hợp để thiết kế không gian nội thất cho người mệnh Thủy. Bởi chúng mang lại tính sáng tạo cao, hướng đến phong cách biến hóa đa dạng, không gian mang tính uyển chuyển, sự sáng tạo về hình khối, truyền tải cảm xúc mạnh mẽ và thư giãn.
 
4. Hành Hỏa

- Biểu trưng của hành Hỏa trong phong thủy
 
Hành Hỏa thường là biểu trưng cho những hình tượng liên quan đến lửa, sức nóng, mùa hè, sự may mắn, hạnh phúc, danh vọng và thành công. Nguồn năng lượng được sinh ra từ hành Hỏa luôn hồi sinh liên tục, bùng nổ và sáng tạo không ngừng. Người có mệnh tương ứng với  hành Hỏa thường có khả năng lãnh đạo, tự lập tự chủ, tư tưởng cấp tiến, làm việc nhiệt huyết và giàu tính khôi hài.
 
- Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Hỏa
 
Dựa vào quan hệ tương sinh: Chủ nhà mệnh Hỏa nên chọn màu sắc theo bản mệnh của Hỏa như đỏ, tím, hồng. Hoặc chọn theo mối quan hệ tương sinh Mộc sinh Hỏa, với những màu của hành Mộc là xanh lá. Ngoài ra, nên sử dụng kết hợp các loại vật liệu thuộc hành Mộc như gỗ, giấy, vải…để tăng mức độ hài hòa theo ngũ hành cho ngôi nhà.
 
Dựa vào quan hệ tương khắc: Vì người mệnh Hỏa khắc với hành Thủy (Thủy khắc Hỏa), nên tránh sử dụng các màu đặc trưng của mệnh Thủy như xanh nước biển, đen. 

Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 4
Ảnh minh họa
 
Lưu ý: Không nên sử dụng các gam màu quá nóng ấm với mật độ dày đặc, mà chỉ nên nhấn nhá vào một vài vị trí nhỏ, tránh gây phản tác dụng.
 
Phong cách nội thất phù hợp với người mệnh Hỏa là theo xu hướng đương đại, công nghệ cao hoặc hướng thô mộc để làm nổi bật không gian chứa đầy cảm xúc, đam mê, kích thích giác quan và tạo ấn tượng mạnh như tính cách đặc trưng của người mệnh Hỏa.
 
5. Hành Thổ
 
- Biểu trưng của hành Thổ trong phong thủy
 
Hành Thổ là biểu tượng của trái đất, có tính trung tâm, nguồn gốc của sự nuôi dưỡng, phát triển, hướng đến sự vững chãi, nguồi cội của sự sống. Người mệnh Thổ có tính cách ôn hòa, điềm đạm, trân trọng và sâu sắc. Đồng thời còn kiên trì, thủy chung và trung thành.

- Ứng dụng chọn màu sắc ngôi nhà cho người mệnh Thổ
 
Dựa vào quan hệ tương sinh: Vì Hỏa sinh Thổ, do đó chủ nhà mệnh Thổ nên lựa chọn màu: đỏ, hồng, tím của mệnh Hỏa, hoặc các màu của bản mệnh như: nâu đất, nâu, cam đất. Bên cạnh đó, nên kết hợp sử dụng các loại vật liệu mang tính chất của 2 hành này như đất, đá, gạch, sỏi, sành sứ, bê tông…
 
Dựa vào quan hệ tương khắc: Trong ngũ hành, Mộc khắc Thổ, do đó tránh sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc cho người mệnh Thổ.

Ung dung ngu hanh trong chon mau sac cho nha o hinh anh 5
Ảnh minh họa
 
Lưu ý: Không gian nội thất dành cho người mệnh Thổ đơn giản, mộc mạc, ít phá cách và nên được bài trí tự nhiên, gọn gàng. Do đó, phong cách thô mộc hoặc thô mộc kết hợp hiện đại là phù hợp với tính cách của người mệnh Thổ hơn cả.   ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng ngũ hành trong chọn màu sắc cho nhà ở

Để hóa giải kiêng kỵ phong thủy đạt hiệu quả

Phong thuỷ Nhà ở là một vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của chúng ta, một căn nhà tốt về mặt phong thủy đảm bảo cho gia đình được êm ấm hạnh phúc, tiền bạc làm ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo. Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống. Khi mua nhà hay thuê nhà ai ai cũng mong muốn có được một căn nhà hoàn chỉnh về phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau:
- Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt.
- Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời.
Vì thế khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và khoa phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.

Phương cách hóa giải phong thuỷ thì nhiều và đa dạng phong phú. Thế nhưng để chọn lựa phương cách hóa giải phong thuỷ phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà chúng ta cần phải nghiên cứu từng bước một.
Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm Phong thuỷ căn nhà:
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một điều sai lạc vô cùng. Một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà vượng Sơn vượng Hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác, đất nghiêng trủng, hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm sai vị trí các Cung (Linh Thần hoặc Chính Thần) thì cũng không tốt. Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không.
Khi xem phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ quên đặc điểm khác (Phong thuỷ Hình Thế và Phong thuỷ Lý Khí tương hợp).

Tìm biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau :
- Hình thể nhà và đất: Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm.
- Những tác hại xấu do bên ngoài: như là ngã ba đâm vào, đòn dông, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
- Âm dương (Linh & Chính): Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm: Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
- Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí các công nămg không đúng phương vị (Cung) hoặc như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
- Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
- Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Thế nhưng nếu bố trí nghịch vị thì cần phải có sự hóa giải đúng mức và kịp thời. Ví dụ như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa vv. Phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc.
Nhu cầu hạnh phúc của gia đình:

Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu. Ví dụ: Một gia đình lớn tuổi nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu có hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như là rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc.
Trái lại vợ chồng son trẻ có làm ăn ở nhà, không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Trở lại ví dụ đầu tiên, nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi.
Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình như sau : Tiền tài, hạnh phúc – sức khỏe, tuổi thọ – con cái (Phú - Quý - Gia Đạo). Tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình để chọn lựa những biểu tượng hóa giải thích hợp.
Phương cách hoá giải phong thuỷ:
Có nhiều phương cách hóa giải thế nhưng trước khi quyết định chọn lựa một phương cách hóa giải thích hợp cần phải quan tâm đến 2 điểm:
1) Khi dùng hóa giải tại cung nào nên chú ý đến ngũ hành của cung đó, để sử dụng các biểu tượng phong thủy thích hợp với hành của cung đó. Ví dụ khi muốn thay đổi hay phát triển công việc, thì công việc đầu tiên phải tăng cường cung Tài Lộc căn nhà, cung đó thuộc hành gì?, do Sao nào quản?. Do vậy những vật dụng tăng cường cung này phải tương sinh với Cung đó.
2) Khi hóa giải một khuyết điểm của căn nhà nên sử dụng đúng mức biện pháp hóa giải, để tránh những ảnh hưởng phụ do hóa giải quá độ gây ra. Ví dụ: khi hóa giải một phòng tắm xấu ở giữa nhà (trung cung) có thể che kiếng là đủ, chứ không nên vừa dùng kiếng, lại thêm cây kiểng hay dùng súng đại bác để bắn tiêu khuyết điểm này.
Ngoài hai yếu tố trên, chúng ta cũng không phải dễ dàng để chọn lựa một biểu tượng thích hợp vì rằng có nhiều biểu tượng hóa giải có cùng tác dụng thì biết chọn biểu tượng nào. Vì thế một biểu tượng hoàn hảo nhất để hóa giải phong thủy phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
Hợp Phong Thủy: Ðây là tiêu chuẩn quan yếu đầu tiên, cần phải đạt được. Trong trường hợp có nhiều biểu tượng có cùng tác dụng thì biết chọn lựa thứ nào. Ví dụ: để hóa giải một cái đòn dông đâm vào cửa chính chúng ta có thể dùng nhiều phương pháp như: trụ phun nước, dời cửa chính,... nhưng chúng ta chỉ nên chọn lựa một biểu tượng thích hợp nhất mà thôi. Do vậy trước khi quyết định chúng ta phải dựa đến tiêu chuẩn thứ hai.
* Hợp nhu cầu hạnh phúc gia đình: Như trên đã nói, đối với người lớn tuổi mong muốn bình an dĩ hòa vi quý thì nên chọn lựa những biểu tượng nhẹ nhàng, không gây tác hại cho người khác mà cũng có thể đạt mục đích yêu cầu của mình. Trở lại ví dụ trên, chúng ta có thể chọn lựa biện pháp trụ phun nước. Thay vì chúng ta chọn những biểu tượng công phá có thể gây hại cho người khác và cho chính mình mà thôi. Trường hợp có nhiều biểu tượng đạt được hai tiêu chuẩn trên thì biết chọn biểu tượng nào. Chúng ta nên chọn biểu tượng phù hợp với tiêu chuẩn thứ ba.
* Hợp thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa gia đình: Ngoài những biểu tượng căn bản chúng ta cũng có thể sáng tạo những biểu tượng khác đạt được mục đích trên lại phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, hay địa vị gia chủ trong xã hội nữa. Ví dụ: ở khu vực kinh doanh người Mỹ có khi chúng ta dùng những vật dụng đầy thẩm mỹ khác chẳng hạn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để hóa giải kiêng kỵ phong thủy đạt hiệu quả

Vận mệnh người tuổi Tân Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người tuổi Tân Dậu ngũ hành Kim, nạp âm Thạch lựu Mộc, là mệnh Kim kê.
Vận mệnh người tuổi Tân Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người tuổi Tân Dậu ngũ hành Kim, nạp âm Thạch lựu Mộc, là mệnh Kim kê.


Van menh nguoi tuoi Tan Dau theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Người tuổi Tân Dậu tài vận bình thường, đối với tiền tài không thể cưỡng cầu, tài đến tài đi, biến hóa rất lớn, nên thuận theo tự nhiên. Đầu tư phải đề phòng bị lừa gạt, quản lý tài sản cẩn thận để miễn trừ rủi ro.   Tử vi của người tuổi Tân Dậu nạp âm là Mộc, đời sống gặp nhiều gian khó, giao thiệp cũng không thuận lợi nhưng gặp Quý Mão lại tốt, có thể làm lãnh đạo, thi cử đỗ đạt vinh hiển. Canh Thân và tân Dậu hai Mộc, thiên can địa chi đều là Kim, trong Kim tàng Mộc nên có thể coi là Mộc nhờ Kim điêu khắc, rèn giũa mà thành tài.   3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bên nhau bền lâu
Giữa bộn bề những cuộc tình lãng mạn, say đắm nhưng chẳng mấy chốc lại đường ai nấy đi, 3 cặp đôi hoàng đạo dưới đây bên nhau rất bình lặng,

Tân Dậu gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tuyền trung Thủy thì sinh phù, phú quý đến nhà. Nếu sinh ngày Canh Thân thì năng lực phi phàm, nhiều đất dụng võ nhưng thiếu kiềm chế. Tân Dậu là Mộc bị nhốt trong Kim nên cuộc đời ắt gặp nhiều gian khó. 
Tân Dậu kị gặp nhiều Kim, gặp thủy Thổ thì tốt hơn, ghét gặp phải Giáp. Sinh hai mùa thu, hạ là đại cát.    
Van menh nguoi tuoi Tan Dau theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Xem tử vi thì bên người Tân Dậu có nhiều tiểu nhân, nên thỉnh đá mã não về chế tác thành bùa hộ mệnh đeo bên người để cầu phúc, bảo hộ bình an và gia tăng vận khí. Cũng có để đeo bùa làm bằng gỗ lựu để cầu quý nhân, tự trợ phúc cho bản mệnh trong sự nghiệp cùng tài vận.
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Tân Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Top 3 con giáp tốt toàn diện năm 2015

Những người tuổi Ngọ, Mão, Dần sẽ lên như diều gặp gió trong năm Mùi tới đây.
Top 3 con giáp tốt toàn diện năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Ngọ

Trong năm Mùi, người tuổi Ngọ sẽ có vận thế tốt nhất, mọi việc đều thuận lợi, như ý. Đặc biệt sẽ có quý nhân phù trợ để giúp họ gặt hái được nhiều thành công trên các phương diện của cuộc sống.

ngo-7454-1419521737.jpg

Về công việc, sự nghiệp, sẽ có nhiều người giúp đỡ, có nhiều khả năng được thăng chức hoặc điều động vị trí làm việc tốt hơn… Tiền bạc, tài chính đều rất tốt, tài khoản ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, khi muốn đầu tư, bạn cần phải thận trọng, tránh bị người khác lợi dụng.

Về tình cảm, nếu còn FA, bạn cần nắm bắt cơ hội để chủ động bày tỏ tình cảm. Đặc biệt là con gái tuổi Ngọ, vận đào hoa sẽ nở rộ trong năm nay. Nhất định, bạn sẽ tìm được ý chung nhân của đời mình. Nếu đã có “gấu”, tình cảm hai bên thêm mặn nồng và có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.

No2: Tuổi Mão

Nằm trong mối quan hệ tam hợp, vận thế người tuổi Mão trong năm Mùi sẽ vô cùng tốt đẹp, mang tới nhiều vận may hiếm thấy hơn nữa cho con giáp này. 

Về sự nghiệp, những việc còn dang dở trước kia, trong năm 2015 sẽ hoàn thành với thành công rất cao. Trong năm này, người tuổi Mão nên kinh doanh hoặc đầu tư vào lĩnh vực nào đó, chắn chắn sẽ phát triển không ngừng. 

mao-3431-1419521738.jpg

Về tình cảm, không sớm thì muộn, bạn sẽ kết thúc kiếp FA và tìm cho mình chàng bạch mã hoàng tử đã chờ đợi từ bấy lâu nay. Nếu đã có người yêu, hai bạn sẽ có những chuyến du lịch bên nhau thú vị và tình yêu ngày càng sâu đậm.

No3: Tuổi Dần

Trong năm Mùi, vận thế người tuổi Dần sẽ như diều gặp gió, đã tốt lại còn tốt hơn.

dan-6518-1419521738.jpg

Về sự nghiệp, người tuổi Dần không ngừng thăng tiến và được nhiều sự trợ giúp của quý nhân. Nhiều khả năng, bạn sẽ trở thành lãnh đạo hoặc trưởng nhóm nào đó. Tiền bạc bình thường trong 6 tháng đầu năm nhưng lại vô cùng phát đạt vào nửa cuối năm.

Về tình duyên, vận đào hoa khá tốt, nhưng phần lớn người tuổi Dần đều bỏ lỡ hoặc không biết cách nắm bắt cơ hội. Bạn cần chủ động và dành nhiều thời gian hơn cho đối phương. Hạn chế tối đa những lời nói lạnh lùng khiến nửa kia hiểu nhầm, dễ dẫn tới mâu thuẫn.

Mr.Bull (theo GS)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp tốt toàn diện năm 2015

‘Mổ xẻ’ công dụng của gương Bát quái đối với phong thuỷ

Gương Bát quái là sự lựa chọn thông minh để hóa giải thế nhà hoặc thế đất không thuận phong thủy. Có ba loại gương thường gặp.
‘Mổ xẻ’ công dụng của gương Bát quái đối với phong thuỷ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gương Bát quái là sự lựa chọn thông minh để hóa giải thế nhà hoặc thế đất không thuận phong thủy. Có ba loại gương thường gặp, mỗi loại lại phát huy những công dụng khác nhau.
 

► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Trong phong thủy nhà ở, việc sử dụng gương Bát quái như một phương thức hóa giải những khiếm khuyết về phong thủy. Nó mang ý nghĩa là biến đổi vật chất từ môi trường chưa phù hợp trở thành phù hợp để đạt được hiệu quả phong thủy hoàn thiện nhất, mang lại những điều tốt lành cho gia chủ. 
 
Gương Bát quái là biểu tượng của vũ trụ, sự giao thoa giữa con người với cảnh vật nên nó thực sự phát huy tác dụng với những trường hợp nhà thiết kế quá nhiều góc cạnh, đối diện với cột điện, máy biến áp, kiến trúc cao tầng khác, nhà vệ sinh, nhà bếp…giúp thay đổi trường khí, loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực. Gương Bát quái chỉ có tác dụng hóa giải, không có hại.
 
Có ba loại gương Bát quái thường gặp, mỗi loại có những công dụng hóa giải phong thủy khác nhau.
 
Loại gương lồi

Mo xe cong dung cua guong Bat quai hinh anh
Gương Bát quái lồi

Loại gương này nhìn giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, dùng cho phía ngoài nhà nhằm hóa giải các thế nhà xấu như nhà đối diện cột đèn, các vật nhọn, cầu thang máy, đường chạy thẳng vào nhà, cột điện, biển báo giao thông…
 
Lưu ý, loại gương Bát quái lồi dùng để “đánh lạc hướng”, làm phân tán những trường khí xấu, ngăn chúng không vào nhà. Do đó, không nên để gương này trong nhà, chỉ dùng cho bên ngoài.
 
Loại gương lõm

Mo xe cong dung cua guong Bat quai hinh anh 2
Gương Bát quái lõm

Loại gương Bát quái lõm nhằm mục đích thu hút những nguồn năng lượng tích cực vào ngôi nhà hoặc ngăn cản các nguồn khí thất tán ra bên ngoài. Ví dụ trường hợp cửa chính đối diện cầu thang, vượng khí trong nhà sẽ thất tán ra ngoài, theo đó treo gương Bát quái lõm ở trước cửa ra vào sẽ có lợi cho ngôi nhà.
 
Loại gương phẳng

Mo xe cong dung cua guong Bat quai hinh anh 3
Gương Bát quái phẳng

Loại gương Bát quái phẳng có cả hai tác dụng là thu hút và phân tán năng lượng tùy vào từng vị trí treo. Nếu treo ở phương vị cát lợi thì sẽ thu hút khí tốt, ngược lại, treo ở phương vị xung sát thì phát huy công dụng ngăn cản và hóa giải khí xấu. 
 
Lưu ý, chỉ nên đặt gương này bên ngoài nhà và không nên treo quá nhiều (cả ngôi nhà không quá 3 chiếc).

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ‘Mổ xẻ’ công dụng của gương Bát quái đối với phong thuỷ

Sao Triệt Không

Loại: Tùy Tinh Đặc Tính: Bế tắc, chướng ngại, chặn đứng. Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Kh...
Sao Triệt Không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Loại: Tùy TinhĐặc Tính: Bế tắc, chướng ngại, chặn đứng.
Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.
Ý Nghĩa Của Tuần Triệt
Tác dụng của Tuần, Triệt có tính cách toàn diện, không có biệt lệ, tức là hai sao này chi phối tất cả các sao đồng cung và tất cả các cung có Tuần, Triệt án ngữ, không vị nể một sao nào hay một cung nào. Tuy nhiên, có sự phân biệt ít nhiều ý nghĩa của hai sao này, từ đó, có ảnh hưởng trên sự luận đoán:
Sự Khác Biệt Ý Nghĩa Giữa Tuần, Triệt:
Tuần là Ám Tinh, Triệt là Không Tinh. Như vậy, ý nghĩa Tuần tất nhiên nhẹ hơn Triệt. Tuần báo hiệu sự trắc trở, khó khăn còn Triệt báo hiệu sự bế tắc, chướng ngại lớn, sự lụn bại nặng nề.
Tuần ảnh hưởng suốt đời, còn Triệt chỉ mạnh cho đến khoảng 30 tuổi, tuổi tam thập nhi lập, tuổi từ đó con người có thể tự lập thân, không còn chịu ảnh hưởng nặng của gia đình.
Tác Dụng Tương Đồng Của Tuần, Triệt:
Trong thời gian hai sao còn ảnh hưởng, Tuần, Triệt đóng ở bất cứ cung nào đều tiên quyết:
Gây trở ngại ít hay nhiều cho cung đó. Mức độ ít hay nhiều này tùy thuộc sự tốt, xấu của 3 cung Phúc, Mệnh, Thân. Điều này có ngoại lệ cho cung Tật sẽ nói đến sau này.
Tác họa ít nhiều trên các sao đồng cung. Sự tác hóa này có hai cường độ: hoặc biến hoàn toàn ý nghĩa của sao (như biến sao xấu thành tốt hay ngược lại) hoặc chỉ giảm ảnh hưởng của các sao (như làm cho bớt tốt, bớt xấu).
Tuy nhiên, tác dụng tiên quyết này có 3 ngoại lệ:

  • Nếu chính và phụ tinh tọa thủ vốn xấu mà gặp Tuần hay Triệt thì bớt xấu, có thể trở thành tốt được.
  • Tuần, Triệt đóng tại cung Tật rất tốt vì tiên quyết ngăn trở rất nhiều bệnh tật, tai họa lớn cho đương số, bất luận tại cung Tật có sao tốt hay xấu.
  • Tuần, Triệt đóng tại cung vô chính diệu thì lại hay. Nhưng ảnh hưởng tốt này cũng không tuyệt đối và tùy thuộc mức độ tốt của cung vô chính diệu. Nếu vô chính diệu mà được Tứ Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) thì rất đẹp, được Tam Không thì đẹp, đươc Nhị Không thì tầm thường, còn chỉ Nhất Không thì kém.
Tác Dụng Của Các Sao Khác Đối Với Sao Triệt:
Mặc dù sao Triệt chi phối tất cả các sao đồng cung nhưng sao này không phải bất khả xâm phạm, nó vẫn bị các sao kia chi phối lại, nhất là chính tinh. Có sự ảnh hưởng qua lại hai chiều cho nên kết luận giải đoán chung cuộc chỉ có thể đưa ra sau khi cân nhắc ảnh hưởng hai chiều đó với hàm số Phúc, Mệnh, Thân.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Mệnh
  • Tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm.
  • Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp.
  • Sinh bất phùng thời.
  • Nếu vô chính diệu có Tứ hay Tam Không thì làm nên danh phận nhưng không bền, tuổi niên thiếu vất vả.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mất sớm, nhất là nếu Nhật, Nguyệt lạc hãm hay bị Không Kiếp chiếu. Cần cân nhắc với hai sao Nhật, Nguyệt và cung Phụ Mẫu có Tuần, Triệt.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phúc Đức
  • Phúc đức bị trục trặc trên phương diện nào đó.
  • Triệt, Dương: Dòng họ thất tự, phải lập con nuôi.
Ý Nghĩa Triệt Cung Điền Trạch, Tài Bạch
Triệt ở hai cung Điền Trạch, Tài Bạch có thể có nhiều nghĩa:
  • Không có tài sản, hoặc chỉ có trong một giai đoạn nào đó.
  • Làm ra của nhưng phải chật vật.
  • Không được hưởng di sản tổ phụ.
  • Không có của để lại cho con.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh lận đận, khó nhọc mới làm nên.
  • Phải chịu vất vả trong một thời gian.
  • Thiên Tướng, Triệt, Tuần: Có thể bị bãi chức, hay bị tai nạn trong công vụ.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Nô Bộc
  • Triệt ở cung Nô có nghĩa là tôi tớ thay đổi, ra vào luôn, không ai ở lâu dài.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Tật Ách
  • Rất cần có Tuần, Triệt tại cung Tật Ách vì nhờ hai sao này mà bệnh, tật và họa sẽ tiêu tán hay giảm thiểu đi rất nhiều. Sức khỏe và may mắn sẽ được bảo đảm nhiều hơn.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Tử Tức
  • Sát con, nhất là con đầu lòng.
  • Sinh con đầu lòng khó khăn, khó nuôi.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phu Thê
  • Triệt ở cung này tiên quyết nói lên sự trắc trở hôn nhân, nhất là sự thất bại của mối tình đầu.
  • Lấy người khác làng, khác tỉnh mới tốt, nhưng nhân duyên phải gặp khó khăn.
  • Triệt gặp Mã: Vợ chồng bỏ nhau rất dễ dàng.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em xung khắc hoặc ít anh chị em.
  • Anh cả, chị cả mất sớm.
Triệt Khi Vào Các Hạn
  • Nếu gặp sao sáng sủa thì hạn lại mờ ám, mưu sự trắc trở, thất bại.
  • Nếu gặp sao xấu xa thì hạn được sáng sủa, dù có gặp trắc trở ban đầu.
Đặc biệt cung Hạn gặp Tuần, Triệt rất đáng lưu ý vì hai sao này có hiệu lực mạnh ở các đại, tiểu hạn.
Tóm lại, Triệt làsao hết sức quan trọng, chi phối các cung, các sao, biến tốt thành tương đối xấu, biến xấu thành tương đối tốt. Hiệu lực nghịch đảo đó có thể làm lạc hướng luận đoán nếu sự cân nhắc không tinh vị.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Triệt Không

9 tiêu chuẩn chọn vợ "chuẩn không cần chỉnh" theo nhân tướng học

Theo nhân tướng học, mỗi người có thể căn cứ vào 9 đặc điểm dưới đây để xem thử người con gái đó sẽ là mẫu người vợ lý tưởng hay không.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đàn ông thường được biết đến là dễ tính, là không chọn lựa kỹ càng như phái yếu, nhưng coi chừng, điều ấy không phải đúng trong mọi trường hợp, khi lấy vợ, một người đàn ông thành đạt đặt ra những tiêu chuẩn và cân nhắc kỹ lắm. Họ có thể nhìn rõ bản chất người phụ nữ chỉ trong thời gian ngắn để xác định đây sẽ là người yêu, vợ hay chỉ là người tình tạm thời.

1. Phụ nữ có chiếc cằm tròn đầy

Đàn ông chọn vợ
Ảnh minh họa
Nhân tướng học cho rằng phụ nữ sở hữu chiếc cằm tròn đầy thường là người rấtvui vẻ, hiền hòa, khoan dung, độ lượng và luôn biết suy nghĩ cho người khác. Những người này có thể sống hòa hợp với cha mẹ chồng, chăm sóc chu đáo cho cả nhà, không so đo tính toán, khiến gia đình luôn đầm ấm hạnh phúc.

2. Giọng nói thanh cao Giọng nói có liên quan khá nhiều đến tâm hồn người phụ nữ. Những người phụ nữ này tinh tế, nhỏ nhẹ và chín chắn. Với công việc của chồng chắc chắn sẽ giúp ích được nhiều trong việc phát triển sự nghiệp cũng như những lời khuyên hữu ích khi cần thiết.

3. Nhân trung Trước hết chúng ta cần nhận biết nhân trung là rãnh lõm chạy từ dưới mũi đến giữa môi trên. Một người có nhân trung tốt nhất là dài và sâu, trên hẹp dưới rộng. Đối với phụ nữ nhân trung có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu nhân trung sâu và dài thì thường có tính cách trung hậu đặc biệt khả năng sinh nở hoàn hảo. Theo đó, hầu hết phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì sinh nhiều con trai và rất dễ sinh. Vì vậy rất nhiều người đàn ông cảm thấy may mắn khi tìm được người phụ nữ có đặc điểm này.

4. Vai tròn, lưng đầy đặn Những người có vai tròn là những người hoạt ngôn, khéo léo. Người phụ nữ có kiểu vai này thường là những người giỏi quán xuyến việc nhà, chăm lo rất tốt cho chồng con. Có thể trở thành quân sư rất tốt trong công việc của chồng. Lưng đầy đặn là dấu hiệu của người có sức khỏe tốt, hay gặp may mắn trong cuộc sống, sẽ tạo nhân tố tốt cho sự phát triển của chồng.

5. Phụ nữ có hàm răng trắng, đều, đẹp
Đàn ông chọn vợ
Ảnh minh họa
Phụ nữ có hàm răng đều đặn, trắng thường tuân thủ khuôn phép, coi trọng khẩu đức, hiếm khi bàn luận thị phi về người khác, khi làm việc quan tâm đến đại cuộc chứ không so đo, tính toán những điều nhỏ nhặt và luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ.

6. Cánh mũi tròn đầy Cánh mũi tròn, đầy đặn là những người gặp rất nhiều may mắn trong cuộc sống, luôn có quý nhân phù trợ. Là người nhạy bén thông minh luôn biết cách xử lý mọi tình huống xảy ra một cách tốt đẹp nhất. Thêm vào đó họ là những người chân thật, chính trực, ngoại giao tốt nên rất hợp để làm kinh doanh. Nếu sự nghiệp của chồng cũng liên quan tới việc kinh doanh thì quả thực họ sẽ được nhờ rất nhiều từ vợ của mình.

7. Đôi mắt tươi sáng Nhìn chung những người có đôi mắt tươi sáng thông minh và khá nhạy bén trong công việc, khéo léo và biết cách làm hài lòng tất cả mọi người.

đàn ông chọn vợ
Ảnh minh họa
Riêng với phụ nữ sở hữu đôi mắt này còn rất có năng khiếu nghệ thuật, gu thẩm mỹ rất tốt, tính tình hoạt bát vui vẻ. Khá tinh ý trong tất cả mọi chuyện. Những phụ nữ này luôn giúp cho hôn nhân được ổn định, vững vàng.

8. Phụ nữ có thùy tai dày và lớn Người phụ nữ có dái tay dày, lớn và rủ xuống thường có tính cách trong sáng, tuân thủ lễ nghi, không buông thả, không ngang bướng, luôn thông cảm với chồng, biết được lúc nào nên nhượng bộ và phản kháng nên giữ được hòa khí gia đình êm ấm, tốt đẹp. Nhờ đó, người chồng có thể an tâm tập trung vào sự nghiệp.

9. Mặt tròn, miệng đầy đặn, môi đỏ Những người có khuôn mặt tròn được cho là người phụ nữ phúc hậu, luôn biết kính trên nhường dưới hiếm khi tranh cãi hay để nảy sinh mâu thuẫn trong gia đình. Thêm vào đó có một khuôn miệng đầy đặn là người thông minh, nhân hậu, tài năng hơn người, những người này sẽ giúp ích nhiều cho chồng trong việc phát triển sự nghiệp sau này. Môi đỏ biểu hiện của sức khỏe tốt đồng thời sẽ có nhiều sự may mắn trong tình yêu và cuộc sống hôn nhân.

Tất nhiên, tướng mệnh chỉ là một phần, do vậy, bạn chỉ nên coi các dấu hiệu này là thông tin tham khảo.

Theo Khỏe và Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 tiêu chuẩn chọn vợ "chuẩn không cần chỉnh" theo nhân tướng học

Xem bàn tay đoán tính cách của nam giới |

Quan sát hình dáng bàn tay, độ dài ngón tay, đường chỉ tay, có thể biết tính cách của người đàn ông 1. Bàn tay ngắn quá : Nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có b
Xem bàn tay đoán tính cách của nam giới |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bàn tay đoán tính cách của nam giới |

Bạn sẽ gặp tình yêu đích thực ở đâu

Bạn sẽ dễ gặp một nửa của mình ở hộp đêm, ở trường học, nơi làm việc hay chỗ nào?
Bạn sẽ gặp tình yêu đích thực ở đâu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân: “Mình sẽ gặp tình yêu đích thực ở đâu".

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

ban-se-gap-tinh-yeu-dich-thuc-o-dau ban-se-gap-tinh-yeu-dich-thuc-o-dau-1 ban-se-gap-tinh-yeu-dich-thuc-o-dau-2 ban-se-gap-tinh-yeu-dich-thuc-o-dau-3

Maruko (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn sẽ gặp tình yêu đích thực ở đâu

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào? Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào?

Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của khách hàng cũng chính là hướng đặt của cửa hàng, như vậy thì cửa của cửa hàng không còn nghi ngờ gì nữa chỉ có hướng Bắc và hướng Đông là đẹp.

Nhưng nếu như vậy thì cửa hàng lại phạm vào điều kỵ húy là cửa không nên hướng Bắc, hướng Đông, trong mùa hạ thì cửa hàng chịu nắng chiếu trực tiếp mạnh mẽ, mùa đông thì phải chịu sự xâm nhập và tiến công của những cơn gió bắc. Trong tình hình đó, có thể vận dụng xử lý định luật tương sinh tương khắc của Âm dương Ngũ hành.

2415135468207019TTTMe60f57b5c112aae

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào?

Nếu cửa hàng có tầng lầu, mà tầng hai sử dụng làm phòng làm việc, cửa của cửa hàng chiều hướng khách hàng, tiếng ồn ào từ phía cửa của cửa hàng có thể quấy nhiễu đến phòng làm việc của tầng hai. Để tránh điều đó, lối lên cầu thang không nên thiết kế đối diện với cửa chính của cửa hàng. Theo lý thuyết của phong thủy học, lối lên cầu thang mà đối với cửa lớn thì sẽ tích tụ sát khí ở cửa lớn (tiếng ồn ào) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người đi lên tầng hai.

Cách giải quyết lý tưởng đó là, bố trí cầu thang ở mặt bên, lối lên cầu thang tránh mở ở cửa chính, theo lối sát bên tường mà lên lầu. Nếu có thể, tốt nhất là đặt ở giữa lối lên cầu thang và cửa lớn một tấm bình phong để ngăn tiếng ổn ào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Má nằm ở hai bên khuôn mặt. Mơ thấy hai má nặng nề chảy xệ, bạn sẽ phải đương đầu với đồng nghiệp hay người thân nào đấy vì bị họ ức hiếp, nhưng bạn quyết không nhượng bước để bảo vệ quyền lợi của mình. Mơ thấy hai má không cân xứng, đó là biểu hiện
Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Xem nửa dưới đoán vận mệnh cuộc đời

Nhân tướng học không chỉ xem xét vận mệnh của một con người qua tướng mặt, tướng tay, hay nốt ruồi, mà còn xem cả bộ phận khác của cơ thể như mông, chân… Qua việc xem tướng nửa dưới cơ thể, bạn cũng có thể biết được vận mệnh cuộc đời của mình về sau ra sao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mông

Người gầy thì thường không có mông (mông lép), người béo thường có mông to. Nếu người gầy mà không có mông thì vận trình không bị ảnh hưởng lắm nhưng nếu người béo mà mông lại lép thì cả vận trình sức khỏe và vận trình sự nghiệp đều vô cùng xấu.    2. Chân dài và thẳng

Những người con gái mới lớn thường cho rằng phải gầy mới đẹp, nên luôn muốn mình gầy một chút. Theo nhân tướng học thì chân thon dài tất nhiên là đẹp nhưng nếu gầy quá mức thì không tốt, càng kiêng kỵ nếu “da bọc xương”, nhất là phần bụng chân.

Xem nua duoi doan van menh cuoc doi hinh anh
 
3. Đùi thon
Xét theo góc độ y tế thì đùi thon cho thấy cơ thể người phụ nữ đó bị thiếu chất dinh dưỡng, tâm trạng rất hay bồn chồn, lo lắng, dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, mất ngủ, suy nhược thần kinh, thậm chí là trầm cảm và có cách sống hơi lập dị một chút. 
 
Những người sở hữu một cặp đùi thon thường rất khôn ngoan nhưng đôi khi lại quá nhạy bén, gần như lố bịch. Đối với tình yêu thì với người này có cũng được mà không thì cũng chẳng sao, nói chung là không quan tâm. Cho nên, đùi thon chưa hẳn đã là may mắn. 
 
4. Chân rắn chắc

Chân tròn và rắn chắc, nhất là phần bụng chân, với phụ nữ thì đây là kiểu chân “bắp chuối”, không đẹp cho lắm nhưng thực ra lại rất tốt. Những người phụ nữ có chân như vậy thường rất kiên định, đoan trang, điềm tĩnh, kiên nhẫn và sống rất tình cảm. Ngoài ra, những người này còn rất giỏi trong việc tề gia nội trợ, họ luôn có thái độ lạc quan, vô cùng chung thủy trong tình yêu, đây đích thị là người mẹ hiền, người vợ đảm. 
 
5. Lưng ngắn chân dài

Những người này thường nay đây mai đó, cả đời lao lực vất vả, cuộc sống gia đình không ổn định. Người phụ nữ có nhan sắc một chút thì cũng sẽ được hưởng nhiều tài lộc nhưng khả năng tích lũy được tiền bạc là rất thấp.   6. Lưng dài chân ngắn

Lưng dài chân ngắn là người có quyền lực, rất có phúc khí, phù hợp với các công việc quyền cao chức trọng, phúc lộc song toàn, cả đời an nhàn và tài vận cũng vô cùng hanh thông.    Phương Thùy (Theo 99166)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem nửa dưới đoán vận mệnh cuộc đời

Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

Xem xét từ góc độ phong thủy thì vận mệnh thăng trầm là dấu hiệu của phong thủy âm trạch có vấn đề. Cùng xem phần mộ có ảnh hưởng thế nào tới hậu thế.
Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem xét từ góc độ phong thủy thì vận mệnh thăng trầm là dấu hiệu của phong thủy âm trạch có vấn đề. Vị trí huyệt mộ gặp tổn hại như bị yêm nước, ẩm ướt, ao hãm hoặc có ngoại vật xâm nhập thì vong linh bất an, sản sinh tác động xấu tới người ở dương thế. Cùng xem phần mộ có ảnh hưởng thế nào tới hậu thế, cát hung họa phúc ra sao.   Việc duy trì mộ bia và phần mộ hoàn chỉnh, yên tĩnh, sạch sẽ là rất quan trọng, vì thế mà mỗi năm vào dịp tiết Thanh Minh con cháu sẽ tới thăm viếng và sửa sang, chăm lo cho mộ ông bà tổ tiên. Truyền thống Thanh Minh tảo mộ này không chỉ xuất phát từ giá trị nhân văn hiếu lễ mà còn bắt nguồn từ việc coi trọng phong thủy âm trạch, tránh để phần mộ bị vùi lấp, xuống cấp.   Phần mộ có ảnh hưởng như thế nào tới hậu thế thể hiện rõ ràng nhất qua việc trong nhà sản sinh ra con cháu như thế nào.

Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 

1. Mộ phần sinh ra người mù

  Phần mộ mà phía trên có cây mọc ra, che kín mất mộ thì trong nhà có người trung tuổi, cao tuổi mắc bệnh về mắt. Rễ cây đâm vào mộ, quấn quanh hài cốt thì sinh ra người mù, trẻ có tật ở mắt.   Hướng Chính Nam, Tây Nam, Đông Nam của phần mộ nếu có quần thể núi, kiến trúc cao, vật thể đồ sộ, dòng sông lớn làm án sơn thì trong nhà nhiều người mắc bệnh mắt, có người cao tuổi bị mù lòa.   Phần mộ nhà mình và phần mộ khác chiếu thẳng vào nhau cũng sinh ra người mù trong nhà, nếu lệch trái thì ra nam mệnh có bệnh về mắt, nếu lệch phải thì ra nữ mệnh có bệnh về mắt.
Xem thêm bài viết 13 thế đất đại hung khi táng mộ
 

2. Mộ phần sinh ra người què

 

Mộ phần bất kể có hướng như thế nào mà ở bốn góc có chỗ ngoặt, đường rẽ thì sinh ra người què. Hoặc mộ phần nhìn ra đại lộ, chỗ ngoặt, phần đường bị chéo cũng sinh ra người què.   Trường hợp nữa là dòng sông từ xa chảy tới chiếu nghiêng qua, gọi là thế nước cắt chân, nước lớn thì có người què, nước nhỏ thì có người bị thương ở chân.   Phần mộ có hố nhỏ ở trên, quanh năm đọng nước cũng dễ sinh ra người què. Mộ có đường thẳng xuyên qua, không những sinh ra người què, người có bệnh ở chân, người bị tai nạn xe cộ, tai bay vạ gió mà người trong nhà còn phải đi ăn xin, xin cơm để sống.  

3. Mộ phần sinh ra người câm

  Mộ phần nhà mình và mộ phần nhà người khác chiếu thẳng vào nhau hoặc hai ngôi mộ tạo thành một đường thẳng nhưng nhà mình táng mộ muộn hơn thì sau 18 năm sẽ sản sinh ra người câm.   Dù mộ hướng về phía nào nhưng ở cung Cấn có giếng cổ, hố sâu thì trong nhà có nam mệnh bị câm. Nếu giếng ở cung Khôn thì sinh ra nữ mệnh bị câm, đặc biệt là thiếu nữ.
 
Phần mộ phía trước có sông nhỏ chảy qua, dòng phân nhánh thì trong nhà có người câm.  

4. Mộ phần sinh ra người điếc

  Theo phong thủy âm trạch, phía sau lưng mộ phần có nước xối vào thì sinh ra người điếc. Mộ tựa vào núi có nước chảy thẳng từ trên xuống xối vào mộ, dòng nước có tiếng vang thì người trong nhà không điếc cũng nặng khai, khó nghe.   Bất luận mộ quay hướng nào, nếu ở phương vị Càn có hố sâu lớn, vùng hộ sa có xuất hiện hố sâu thì sẽ sinh ra 5 loại người: người mù, người điếc, người chột, người què, người trọc, đồng thời đa số tuyệt hậu.  

5. Mộ phần sinh ra người thọt

  Phía trước minh đường có án sơn nghiêng lệch, thế núi ở hai bên minh đường nghiêng, không ngay ngắn, đa số sinh ra người có bước đi không bình thường, 90%  nam mệnh đau đầu, hai chân nghiêng lệch, mấy năm sau còn sinh ra nữ mệnh đi đứng nghiêng lệch. Chính là là ý sơn thủy bất chính, sinh người lệch chân.  

6. Mộ phần sinh ra người trọc

  Phía trước có sông suối ao hồ nhưng trời hạn thì khô, trời mưa có nước, ở bên trái thì sinh ra nam trọc, ở bên phải thì sinh ra nữ trọc, nếu trái phải đều có thì sinh ra người nam và nữ bị trọc.   Phần mộ táng trên đất trắng, đất phèn, màu đất thuần trắng giống vôi thì sinh ra người trọc. Màu đất hỗn tạp thì sinh ra người tóc thưa thớt. Nếu phát hiện tất cả khu mộ đều là đất trắng đất phèn thì bên trong có quý nhân, sinh ra người sắc mặt tái nhợt, không cao, thân hình mập, học hành rộng rãi.
Xem thêm bài viết Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát
 

7. Mộ phần sinh ra kẻ ngu si


Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 
Phía trước minh đường, trong cự ly 15m có chướng ngại thì trong nhà sinh ra người ngu si, bệnh thần kinh hoặc thầy cúng, bà đồng.   Phần mộ quanh năm âm u, nằm trong góc tối ám, bị cây cối hoặc kiến trúc lớn vây bọc cũng dễ dàng sinh ra người ngốc.   Trong mộ có rễ cây, tổ kiến, tổ mối cũng phạm lỗi phong thủy âm trạch, người nhà có trí tuệ không bình thường.  

8. Mộ phần sinh ra người quan hệ bất chính

  Trước hoặc sau mộ có núi, sông hình như cánh cung ngược, gọi là phản cung, chủ về nữ mệnh dâm tà, có qua lại bất chính với đàn ông. Phía trước phần mộ có đường nước quanh co uốn lượn tạo thành hình phản cung thì chủ nữ mệnh xa quê hương, nước lớn còn có thể xuất hiện tình trạng vợ giết chồng.   Bất luận mộ hướng về phía nào mà có nước lớn mênh mông như dòng sông lớn, hồ nước lớn, kênh mương thì nữ mệnh trong nhà có người bất chính hoặc nhà loạn, còn có thể xuất hiện người háo sắc, lăng nhăng, đào hoa, trong nhà thiếu quý tử, không có con trai tốt.   Phái trước minh đường có nước chảy từ hai phía tới, gọi là thế bát tự thủy, chủ nữ nhân tà dâm. Phong thủy âm trạch nhấn mạnh, thế bát tự thủy mà nước chảy mạnh thì vợ chồng không đi cùng đường tới già, tài sản tiêu tán, trong nhà có người bại vong.  

9. Mộ phần sinh ra người chết sớm

  Mộ phần dài ngắn không đều, phương dài phương ngắn thì trong nhà có người mất sớm. Bên trái dài hơn thì trưởng nữ mất sớm, nam mệnh thọ cao nhưng liên tục đổi vợ. Bên trái ngắn hơn thì nữ mệnh thọ cao nhưng đa số là thủ tiết nửa đời. Nếu lỗi này chiếm tới 1/3 số mộ tổ tiên thì xuất hiện trường hợp cả nhà mất sớm.   Nếu mộ phần ở vị trí mà bên trái và bên phải có những khoảng trống trải không giống nhau, độ chênh lệch quá lớn thì nam và nữ trong nhà có tuổi thọ cách biệt quá lớn.   Chỗ dựa phía sau mộ không đồng đều, một bên thấp một bên cao cũng xuất hiện tình trạng tuổi thọ dài ngắn không tương đồng.  

10. Mộ phần sinh ra người bị bệnh gan

  Mộ phần mà phía trước có đống đất nhô ra thành hình trứng gà thì trong nhà có người bị bệnh gan, đa số là chết vì chướng gan. Thế này gọi là thân chính sa, không những có người bệnh mà còn ảnh hưởng tới tài năng của con trai và xuất hiện quả phụ.   Trước mộ có hố nhỏ, nước nhỏ chảy tới đều dễ có người bị bệnh gan.
Xem thêm bài viết 15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải
 

11. Mộ phần sinh ra người bệnh phổi


Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 
Theo phong thủy âm trạch, phía trước phần mộ có hố sâu hố lớn, nhiều năm nước tồn đọng không chảy thì sinh ra người có bệnh gan, bệnh phổi.   

12. Mộ phần sinh ra người bệnh thận

  Phía trước phần mộ trong phạm vi 5m có hố sâu hố lớn, nhiều năm tồn đọng nước không thoát thì bất luận là hướng nào, đều sẽ sinh ra người bị bệnh thận. Nếu hố ở cung Khôn thì phụ nữ trong nhà bệnh nhiều năm, ở cung Càn thì người cao tuổi ốm đau, ở cung Cấn thì con trẻ có bệnh, ở cung Chấn thì xuất hiện người bị sét đánh chết.    Theo phong thủy truyền thống, phương Đông – phương Chấn là chấn động, tức là sấm, lôi công nâng chùy lên, đánh vào hố sâu. Phạm thế này thì hậu thế thiệt thòi lâu dài, không khá lên được.
2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt Những lưu ý chọn đất đặt mộ sau khi cải táng
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

10 việc thu hút may mắn cho năm mới bạn nên làm

Năm mới đánh dấu một khởi đầu mới. Hãy cùng ## thưc hiện một vài mẹo phong thủy nho nhỏ để có một năm tràn đầy may mắn và hạnh phúc nhé.
10 việc thu hút may mắn cho năm mới bạn nên làm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới đánh dấu một khởi đầu mới. Hãy cùng ## thực hiện một vài mẹo phong thủy nho nhỏ để có một năm tràn đầy may mắn và hạnh phúc nhé. 

10 viec thu hut may man cho nam moi ban nen lam hinh anh goc
 
10 viec thu hut may man cho nam moi ban nen lam hinh anh goc 2
 
10 viec thu hut may man cho nam moi ban nen lam hinh anh goc 3
 
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Lichngaytot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 việc thu hút may mắn cho năm mới bạn nên làm

Những điều kiêng kỵ khi sửa cửa sổ –

Cửa sổ cũng giống như cửa ra vào, là con đường để thu nạp ánh nắng mặt trời và dẫn không khí vào nhà, cũng là con đường kết thông sinh hoạt cá nhân với thế giới bên ngoài. Sống trong một môi trường thiếu ánh sáng thiên nhiên thì thế giới quan của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

có thể trở nên u ám, lệch lạc.

hung9

1. Kích cỡ cửa sổ phải đồng nhất

Cửa sổ phòng khách hoặc phòng ngủ quá lớn hoặc số lượng quá nhiều rất dễ làm cho mố quan hệ trong gia đình bị bất hòa, có thể lắp cửa chớp hoặc treo rèm cửa sổ để điều chỉnh khiêm khuyết này, song hiệu quả cửa chớp lớn hơn rèm cửa. Một chiếc cửa sổ lớn sát đất, mùa hạ sẽ thu nạp quá nhiều ánh sáng và nhiệt lượng, mùa đông thì lại làm cho nhiệt lượng trong phòng mất di quá nhiều, như vậy cần phải lắp rèm cửa sổ hoặc vật che chắn khác.

Cửa sổ tuy không nên quá lớn nhưng cũng không nên quá nhỏ. Căn phòng có cửa sổ quá nhỏ sẽ làm cho con người có cảm giác chế giễu tiểu khí, người sống trong nhà sẽ trở nên lòng dạ hẹp hòi,sống hướng nội.

2. Cửa sổ vở hỏng nhất định phải sữa chữa

Cửa sổ là “phong thủy chi nhãn” (mắt phong thủy) của một ngôi nhà. Để đảm bảo người sống trong nhà được khỏe mạnh, cửa sổ vỡ hỏng phải nhanh chóng được sửa chữa, không nên “vì việc nhỏ mà lỡ mất việc lớn”, tiết kiệm món tiền nhỏ sửa cửa sổ mà làm tốn hại đến sức khỏe cơ thể.

đỉnh cửa sổ nhất định phải cao hơn chiều cao người sống trong đó, như vậy có thể tăng lòng tự tin về phong thái của người sống trong đó, và khi ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài cửa sổ con người cũng không phải “khom lưng uốn gối”.

3. Cửa sổ hình vuông hoặc cửa sổ hình vòm

Cửa số hình tròn hoặc hình vòm sẽ làm cho con người có cảm giác yên tĩnh như giáo đường, thích hợp cho thiết kế trong phòng ngủ. Cửa sổ hình vuông làm cho con người có cảm giác phấn chấn, thích hợp thiết kế trong phòng ăn hoặc phòng làm việc. Bình thường nếu trong nhà có thể kết hợp thiết kế cả hai loại cửa sổ này thì sẽ thu lại kết quả rất tốt.

4. Phương thức mở cửa sổ kiêng kỵ mở vào trong

Cửa sổ phòng ngủ, phòng khách và phòng bếp trong căn nhà bạn là theo loại hình thức nào? Chúng mở hướng lên trên, mở sang hai bên hay bịt kín? về phong thủy mà nói: Phương thức mở cứa sổ là mở hướng ra ngoài hoặc hướng ra hai bên, lấy nguyên tắc Là không ảnh hưởng đến khu vực trước và sau cửa sổ. Cửa sổ mở vào trong sẽ làm cho người sống trong nhà trỏ nên nhát gan, hẹp hòi, hơn nữa cửa sổ mở vào trong thường bị rèm cửa sổ hoặc cửa chớp chặn lại, như vậy rất khó mở. Nếu cừa sổ nhà bạn mở vào trong thì phía dưới cửa sổ có thể đặt một bồn cảnh hoặc một máy ghi âm hay máy phóng thanh để hoạt hóa khí trường khu vực này.

Nếu cửa sổ trong nhà chỉ có thể mở hướng lên trên một nửa. không thể mở hết, sẽ làm cho môi trường trong nhà không tốt, công việc của người sống trong nhà không thuận lợi. Nêu gặp phải trường hợp này thì bệ cửa sổ có thể sơn màu sáng, lắp cửa chớp chắn nắng, tốt nhất là không nên treo rèm vải, cạnh cửa sổ đặt một bồn cảnh hoặc gương kính để hoạt hóa khí trường.

5. Màu sắc khung cửa sổ kiêng kỵ cùng màu với tường nhà

Cửa sổ nhà bạn lớn hay nhỏ? Rộng hay hẹp? Cao hay thấp? Một khung cửa sổ có thể nhìn ra ngoài thấy cảnh đẹp thì nào khác gì một bức tranh đẹp, vì thế khung cửa sổ không nên cùng màu với tường để mang lại sức sống và khả năng sáng tạo cho người sống trong nhà.

Ngoài ra, màu sắc khung cữa sổ nên tránh sơn màu đỏ, bời vì đó được gọi là sát khí nhà tù, dễ làm cho tinh thần người sống trong đó căng thẳng, vì vậy nên tránh loại sơn màu đỏ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều kiêng kỵ khi sửa cửa sổ –

Tán tài tán lộc với lỗi phong thủy trong nhà

Trong phong thủy, ngôi nhà luôn có quan hệ chặt chẽ với tài vận của gia chủ. Một số lỗi phong thủy nếu tồn tại trong nhà sẽ khiến gia đình phải tán tài tán
Tán tài tán lộc với lỗi phong thủy trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, ngôi nhà luôn có quan hệ chặt chẽ với tài vận của gia chủ. Một số lỗi phong thủy nếu tồn tại trong nhà sẽ khiến gia đình phải tán tài tán lộc.


Tan tai tan loc voi loi phong thuy trong nha hinh anh
 
1. Nhà có nhiều gương

Trong phong thủy, gương chính là đồ vật có tính âm hàn, dễ chiêu tà. Nếu trong gia đình có nhiều gương có thể khiến vợ chồng tán tài tàn lộc, cụ thể là tiêu tiền vào những món đồ xa xỉ, phù phiểm, thậm chí số tiền tiêu vượt quá thu nhập của cả hai vợ chồng, tình hình kinh tế của gia đình càng ngày càng kém.
2. Khung cửa và cánh cửa cong hoặc có vết nứt

Khung cửa và cánh cửa trong gia đình cong hoặc xuất hiện các vết nứt, điều này ngụ ý rằng Thần tài sẽ không tiến vào gia đình, theo đó tài vận của gia đình cũng dần dần kém.
Các bệnh cần phải cẩn thận khi vào tiết Lập Hạ
Khi vào tiết Lập Hạ, nhiệt độ và độ ẩm bắt đầu tăng cao, sự thay đổi về thời tiết này khiến nhiều bệnh phát sinh. Hãy cùng chỉ ra các bệnh thường gặp khi vào

3. Giường của vợ chồng có ba mặt giáp tường

Nhiều gia đình vì diện tích có hạn nên ba mặt giường của vợ chồng giáp tường, tuy nhiên cách bày trí này sẽ khiến gia chủ có cảm giác bị giam cầm. Hơn nữa, phòng ngủ đại diện cho tài vị, khi tài vị bị "kìm hãm" thì tiền tài khó đến với gia đình, gia chủ sẽ gặp áp lực về tài chính   4. Bếp hoặc nồi nấu cơm có vết nứt

Nhiều người có thói quen tiết kiệm nên khi phát hiện bếp hoặc nồi nấu có dấu hiệu nứt hỏng vẫn cố dùng, tuy nhiên đây chính là lỗi phong thủy, khiến mệnh chủ khó thay đổi hoàn cảnh bản thân, tài vị cũng không tìm đến họ.
Tan tai tan loc voi loi phong thuy trong nha hinh anh 2
 
5. Nhà có sông ngòi đi qua

Nhiều người do thích địa thế non sông hữu tình nên lựa chọn vị trí gần sông ngòi. Tuy nhiên, theo phong thủy, nhà ở không nên có sông ngòi đi qua vì đem đến tán sản vô cùng nghiêm trọng.
Chi Nguyễn

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tán tài tán lộc với lỗi phong thủy trong nhà

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd