Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Con giáp 'đáng sợ' nhất hậu chia tay

Bạn khó có được một cái kết êm đẹp với những con giáp này nếu lý do chia tay là phản bội.
Con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 Tuổi Dần

Khi yêu, người tuổi Dần sẽ yêu cuồng dại hết mình. Họ hiến dâng trái tim cho đối phương không chút lo toan, vụ lợi. Đổi lại, con giáp này không đòi hỏi cao sang hay quá nhiều ở người ấy, mà chỉ cần sự quan tâm nhẹ nhàng. Đặc biệt là sự chung thủy. Mọi suy nghĩ, hành động của nửa kia phải hướng về con giáp này.

Dan-6263-1429235918.jpg

Do vậy, việc người ấy dao động trước các "vệ tinh" xinh đẹp xung quanh khiến con giáp này bắt đầu nung nấu ý định gạt phăng tất cả. Nếu chàng phản bội, người tuổi Dần sẵn sàng trả đũa người ấy với những kế hoạch vô cùng tỉ mỉ.

No.2 Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi rất lý trí, khôn khéo và có sức chịu đựng vô cùng giỏi. Bạn khó mà đoán được tình cảm yêu, ghét của họ chỉ qua cử chỉ, cách giao tiếp trong xã hội. Đó chính là điểm lợi hại của con giáp này sau khi chia tay và họ sẽ “tung đòn hiểm” về mặt tâm lý khiến kẻ phản bội phải run sợ. 

Hoi-8625-1429235920.jpg

Thường thì những bài tâm lý của con giáp này rất cao siêu, được tính toán kỹ lưỡng, phòng tránh mọi trường hợp có thể xảy ra. Mục đích chính của họ sẽ là lật tẩy bộ mặt thật của người yêu lăng nhăng. Do vậy, việc người tuổi Hợi ra tay không chỉ khiến tình yêu hiện tại của nửa kia đổ vỡ, mà chàng sẽ gặp nhiều rắc rối sau này trong tình duyên khi luôn bị gắn mác Sở Khanh.

No.3 Tuổi Tỵ

Người tuổi Tỵ khôn khéo trong bất kỳ mối quan hệ nào. Đồng thời, con giáp này cũng thẳng thắn, bộc trực và rất tham vọng. Vậy nên, khi gặp kẻ phản bội trong tình yêu, họ cũng không bỏ qua dễ dàng. Người tuổi Tỵ suy nghĩ, nếu để mọi chuyện êm thấm qua đi, có nghĩa là người ấy sẽ làm tổn thương nhiều cô gái khác nữa, nên sẽ ra tay hành hiệp trượng nghĩa.

Ty-2615-1429235922.jpg

Khác với người tuổi Dần, tuổi Hợi, con giáp này sẽ trực tiếp xuất đầu lộ diện và đề cập thẳng thắn vấn đề. Họ sẽ đưa ra cái được và cái mất khi chàng dám phản bội tình yêu chân thành. Hoặc thậm chí con giáp này sẽ đánh vào kinh tế của người kia khiến họ gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.

Mr.Bull (theo Dzyx)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp 'đáng sợ' nhất hậu chia tay

Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Tâm linh dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại xuất phát từ
Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan niệm dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại xuất phát từ nguyên lý âm dương ngũ hành của phong thủy. 


Vi sao khong nen cat mong tay vao ban dem hinh anh
 
Theo quan niệm dân gian, không nên cắt móng tay vào ban đêm, đặc biệt với trẻ nhỏ còn không nên cắt vào lúc đang ngủ. Việc tưởng chừng như mang tính tâm linh này lại có cách lý giải theo phong thủy ngũ hành.   Theo khoa học, móng tay của con người là chất sừng, có tác dụng bảo vệ phần thịt mềm ở các đầu ngón tay, ngón chân phải tiếp xúc nhiều với các vật. Nó giống như tấm lá chắn, giữ gìn tính ổn định và an toàn cho các chi, tăng cường sự mẫn cảm cho các ngón tay trong khi tiếp xúc. Không những vậy, móng tay lại cần các dây thần kinh đầu ngón tay, có tác dụng điều tiết mạch máu và điều hòa nhiệt độ cơ thể.    Vì thế mà nên cắt móng tay vào ban ngày, khi hệ thần kinh của con người khá mẫn cảm, buổi tối thần kinh mệt mỏi lại tác động đến nơi này thì không nên. 

Con gái có được thờ cúng bố mẹ đẻ ở nhà chồng?
– Phong tục xưa cho rằng, nữ giới đã xuất giá là chỉ thờ cúng tổ tiên nhà chồng bởi một nhà không được thờ hai họ. Nhưng trên thực tế vẫn có

Còn dân gian thì thường truyền nhau, nếu cắt móng tay vào ban đêm sẽ dễ bị nấm móng hoặc bị mất hồn. Nguyên nhân của điều này là những câu chuyện dân gian mang đậm tính chất tâm linh, huyền bí hoặc dựa trên nguyên lý phong thủy âm dương ngũ hành.
  Về phong thủy, khi đứa trẻ chưa đủ 12 tuổi, tức là chưa hoàn tất một vòng cầm tinh thì chính là hồn xác chưa hoàn thiện. Nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì “điệu hồn” sẽ bay mất, khiến đứa trẻ ốm đau bệnh tật, thậm chí mất mạng. Kị nhất là sau 11 giờ đêm. Sau lan ra áp dụng cả với người trưởng thành.  
Vi sao khong nen cat mong tay vao ban dem hinh anh
 
Về mặt truyền thuyết, bắt nguồn từ câu chuyện một người phụ nữ xinh đẹp nhưng bị chồng mưu sát, trước khi chết người chồng cắt hết những chiếc móng xinh đẹp của nàng. Vì thế, nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì oan hồn người phụ nữ với đôi bàn tay cụt móng sẽ xuất hiện đòi báo thù. Tất nhiên, đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.  
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

Trình Trình

 
Xem Clip Những nghiệp báo khiến con người không thể đầu thai


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Để Tam tinh Phúc Lộc Thọ luôn ngự trị trong nhà, mang lại nhiều may mắn thì gia chủ bày tượng Tam Đa cần tuân thủ những cấm kị phong thủy, không đặt tuỳ tiện
Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để Tam tinh Phúc Lộc Thọ luôn ngự trị trong nhà, mang lại nhiều may mắn thì gia chủ cần bày tượng Tam Đa tuân thủ những cấm kị phong thủy, tuyệt đối không được tùy tiện thích đặt đâu thì đặt.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc

Trong nhiều gia đình Việt, bên cạnh Thần Phật nhiều gia đình hay thờ cúng hay bày tượng ba ông Tam Đa, hay còn gọi là ba ông Phúc - Lộc - Thọ. Ba ông luôn đi với nhau, đại diện cho những tham vọng không thay đổi của con người dù thời gian có trôi qua - giàu có (Lộc), may mắn (Phúc) và trường thọ (Thọ). 
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
- Ông Phúc làm đến chức Thừa tướng đời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm và có một gia đình hạnh phúc. Đến năm 83 tuổi là đã có ngũ đại đồng đường. Vì vậy, trên tay ông Phúc thường bế một đứa bé trai. Ông Phúc mang đến sự may mắn, an lành.    - Ông Lộc làm quan Thừa tướng nhà Tấn. Vàng bạc, châu báu trong nhà chất cao như núi. Ông thường mặc áo màu xanh lá cây vì "lộc" phát âm gần với "lục". Ông Lộc tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng.    - Ông Thọ làm Thừa tướng đời Hán, sống thọ đến 125 tuổi. Ông tượng trưng cho sự trường thọ với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào hoặc gậy chống.   

1. Chất liệu tượng Phúc - Lộc - Thọ

  Cũng giống như nhiều tượng Phật khác, tượng Tam Đa được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, đá, gốm sứ, mạ vàng, ngọc thạch, đồng nguyên chất… Do đó, gia đình có thể chọn mua bất kì loại tượng nào phù hợp với điều kiện tài chính. 
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tượng được làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất trong phong thủy.  

2. Thứ tự bày tượng Tam Đa

  Tượng ba ông Tam Đa luôn luôn phải đặt theo đúng thứ tự.    - Tượng Phúc Tinh: đặt bên phải   - Tượng Lộc Tinh: đặt ở giữa   - Tượng Thọ Tinh: đặt bên trái  

3. Vị trí đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ 

  - Đặt ở vị trí hợp tuổi gia chủ   Tượng Thần tiên tất nhiên nên đặt ở vị trí may mắn để thờ cúng. Tượng Thần Phật nếu đặt ở vị trí hung, kị với tuổi của chủ nhà sẽ gây hao tài tốn của và dính vào nhiều chuyện thị phi.   - Đặt ở hai bên cửa chính   Bạn nên đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính. Nếu đặt đối diện cửa chính sẽ khiến Thần tiên ra khỏi nhà.   - Đặt tượng hướng vào trong phòng
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
Cũng giống như việc không đặt tượng đối diện cửa chính, mặt tượng không được hướng ra ngoài. Mặt tượng hướng vào trong tức là đem tiền tài đến cho người trong nhà, nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.   - Đặt tượng trong phòng khách   Bạn nên đặt tượng ba ông Tam Đa trong những căn phòng chính của ngôi nhà như phòng khách; tránh phòng bếp, phòng ngủ, nhà tắm... Theo chuyên gia phong thủy, gia đình nên đặt tượng trên một cái bàn cao, trước một bức tường vững chắc.   - Đặt tượng trong phòng làm việc   Đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ trong văn phòng mang đến cho gia chủ nhiều vận may trong công việc. Tượng Phúc - Lộc - Thọ cần phải được đặt phía sau bàn làm việc.   - Đặt trong ô tô   Trong ô tô, bạn cũng có thể đặt bộ tượng Tam Đa nhỏ ở phía đằng trước, quay mặt lại phía người lái. Ba ông sẽ giúp bảo vệ sự an toàn của bạn trên những cung đường.  

4. Những chú ý cần nhớ khi đặt tượng Tam Đa

  - Cần có lư hương và đèn chong khi thờ cúng   Nếu muốn thờ cúng thì cần có lư hương và đèn chong thờ cúng làm bằng đồng. Đồ cúng ba ông Tam Đa nên dùng đồ ngọt, hoa tươi.   - Không đặt tượng thấp hơn đầu người   Cũng giống như Phật, ba ông Phúc - Lộc - Thọ là thần tiên trên trời. Do đó, nên cần đặt ở vị trí cao hơn đầu người, nếu không sẽ mạo phạm đến thần linh.   -  Không thờ cúng tượng Phúc Lộc Thọ chưa khai quang   Nếu như muốn Tam tinh phù hộ thì nhất định nên dùng tượng đã được chính thức khai quang, nếu không nó chẳng khác gì một món đồ trang trí cả. Khai quang là một nghi thức bỏ lớp vải đỏ trên mặt tượng ra để bắt đầu thờ cúng. Gia đình nên chọn ngày đẹp để làm lễ khai quang.

ST.
Thờ Tam đa đúng chuẩn để Phúc - Lộc - Thọ vào nhà Tam đa gia tăng Phúc Lộc Thọ Tam Đa mang lại vận may phúc, lộc, thọ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Ứng dụng thuật phong thủy để văn phòng không "rơi tài rớt lộc"

Để văn phòng không rơi lọt tiền tài. Một số nguyên tắc phong thủy sau sẽ giúp bạn tạo cơ sở tốt nhất cho sự phát triển của mình cũng như công ty.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Bên cạnh phòng của sếp không nên có vòi nước nhằm tránh “dột tiền tài”. Tương tự, nền nhà hay tường công sở bị thấm nước, rạn nứt cũng tượng trưng cho sự “rơi lọt tiền tài”. Cần có biện pháp khắc phục ngay.

- Vị trí tài lộc chính là góc chéo đối diện ngay cửa đi vào trong phòng. Vị trí này cần sáng và sạch sẽ; kiêng đặt hoa và cây cảnh giả.

- Cổng văn phòng tối kỵ đối diện cột điện, ống khói hoặc gốc cây to. Cũng không đặt nhà vệ sinh ngay cạnh cổng bởi toilet sẽ chặn luồng không khí mới vào văn phòng, ảnh hưởng xấu đến vận may và sự nghiệp.

- Nền nhà văn phòng kỵ quá thấp vì sẽ không đem lại may mắn trong làm ăn, đồng thời ảnh hưởng đến việc thông gió.

- Cầu thang tránh đối diện cổng vì như vậy luồng khí đến và đi sẽ xung đột, không tốt cho vận may và sức khỏe.

- Văn phòng không có cửa sổ là điều đặc biệt xấu vì khí không thể lưu thông.

- Bàn làm việc trong văn phòng kỵ nứt vỡ, tổn hại đường công danh; không đặt đối diện nhà vệ sinh sẽ bị ảnh hưởng khí xú uế. Bàn làm việc tốt nhất nên làm bằng gỗ, tránh bằng kim loại.

- Phía sau bàn làm việc tối kỵ cửa thông cửa (cả cửa ra vào lẫn cửa sổ), như vậy vừa không an toàn vừa dễ mất tập trung khi làm việc. Bàn làm việc tốt nhất nên có 1 góc dựa vào tường, tối kỵ đặt chéo.

- Phía sau văn phòng kỵ hành lang và nhiều người đi lại ồn ào. Tốt nhất nên là không gian tĩnh. Ngay cả trong phòng cũng cần không gian đó. Các chuyên gia cho rằng khi thiết kế phòng làm việc, dùng thảm trải nền và rèm kéo cũng mang lại hiệu quả trong cách âm.

- Tránh ánh sáng tối tăm. Ánh sáng trong văn phòng phải chan hòa, ánh sáng tự nhiên tốt hơn là đèn điện. Vì thời gian làm việc rất dài, cường độ ánh sáng mạnh yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị lực.

- Trong văn phòng ngoài bày tủ sách, máy tính, ghế ngồi cũng nên trang trí thêm các đồ thủ công mỹ nghệ, cây cảnh tạo không gian tươi sáng, trang nhã.

Nguồn: Phong Thuy Tong Hop


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng thuật phong thủy để văn phòng không "rơi tài rớt lộc"

Nghệ thuật xem tướng TAY, CHÂN

Tay chân là tướng hình tứ chi của thân thể, tứ chi là nhành rễ còn lông râu tóc là hoa lá. Tay chân ảnh hưởng với thân thể khiến cho sự phát lộ của tứ chi làm tiêu biểu, để đoán định sự giàu nghèo sang hèn khá đúng.
Nghệ thuật xem tướng TAY, CHÂN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tay

Tay dài quá gối là đại trí anh hùng, tay ngắn và dày thô là tham bỉ biển lận, tay dài mà nhỏ là thường giúp đỡ mọi người. Thân hình nhỏ bàn tay lớn có phước lộc.

Thân hình lớn tay nhỏ là người thanh cao: Tuy nghèo mà vẫn đầy đủ tư cách, tay thơm có hơi ẩm là người hào hoa, tình tứ. Tay hôi âm ĩ lạnh là ô trược, thô bỉ, háo dâm. Ngón tay thon nhỏ dài thiếu quyết đoán, nhưng khôn ngoan mưu trí.

Ngón tay ngắn cứng là cộc cằn nóng nảy, làm liều, làm sai, ngu xuẩn mà ngoan cố. Ngón tay sè ra kín đáo là tài cầm của. Ngón tay khô thưa sè ra có kẻ hở lớn là phá hại của cải không giữ lâu bền.

Đầu ngón tay nở lớn là người có phước lộc: tay mỏng ngón gầy khô như tre rừng là bần tiện nghèo hèn, vô tài bất trí. Tay nhuyễn là giàu sang.

Tay cứng cũng như móng bò là ngu si bần tiện, bàn tay dài, thân bàn tay và ngón tay đều, dài là người sang quí đài các, mỏng ngắn là bần hàn, dùi đục là thô bỉ cộc cằn.

Chung quanh thịt cao, lòng bàn tay sâu lỏm là người giàu có. Chung quanh thật thấp giữa lòng bàn tay no đầy là hao tài tán tài không có dư, bàn tay tươi mịn là phú quí, khô cằn là nghèo khổ.

Bàn tay sắc đỏ như son là giàu sang, dầu có nghèo cũng sạch, cũng sung sướng. Bàn tay màu vàng nghệ hay xanh xám là cùng khốn, nghèo hèn. Bàn tay trắng bệch là nghèo khổ bệnh tật.

Tóm lại bàn tay và ngón tay quí là no đủ đầy đặn, và dài kín ấm thơm và sắc hồng nhuận là thật tốt.

Xem chân

Chân là cột trụ chống đỡ thân mình. Chân cần thon, có dáng vóc vuông dài, thanh lịch mềm mại là người phú quí, nếu chân nhỏ cụt, mỏng và dáng thô và cứng ngắc, đó là người bần tiện.

Gót chân nứt nẻ là hạ tiện, dày mà rộng lớn bề ngang quá cũng nghèo khổ chớ không sang. Dưới gót có lằng như cái xoáy là có danh vọng lớn. Lòng bàn chân bằng như miếng gỗ là nghèo hèn cực khổ tới già.

Lòng bàn chân khuyết như chiếc thuyền úp, hay mặt trăng lưỡi liềm nằm giữa là người phú quí.

Ngón chơn dài, hơi thon nhọn là người trung nghĩa thuần hậu. Dưới bàn chân có nút ruồi là có uy quyền. Chân mà dẹp mỏng là hèn, chân thon nhỏ mà dầy cao là sang quí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng TAY, CHÂN

Ma quỷ sợ gì - Những thứ dùng để đối phó với ma quỷ

Ma quỷ cũng có những thứ khiến chúng sợ hãi và con người dùng để đối phó lại. Ma quỷ sợ gì? Ma quỷ sợ tiếng gà gáy, gỗ đào, ánh sáng mặt trời,...
Ma quỷ sợ gì - Những thứ dùng để đối phó với ma quỷ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ma quỷ là một hiện tượng tâm linh siêu bí ẩn, cho tới nay khoa học vẫn chưa giải thích được, và với con người, chúng thật đáng sợ. Nhưng ma quỷ sợ gì?



 

Xem thêm bài viết: Các nhà khoa học tuyên bố ma quỷ thực sự tồn tại

Ma quỷ có thể quấy phá ở dương gian, mang đến tai họa cho con người. Nhưng, không phải là không có cách để "trị" chúng. Biết ma quỷ sợ gì sẽ có cách đối phó với chúng.
 

Quỷ sợ ánh sáng Mặt trời

  Trong dân gian có cách nói “hai cõi âm dương”, chính là quan niệm rằng con người sống ở “dương gian”, ma quỷ sống ở “âm gian”. Con người chết đi sẽ thành ma quỷ, tức là đi về cõi âm, ma quỷ vẫn có thể chuyển sinh thành người (hoặc là những động vật khác) tức là quay trở lại dương gian.   Giữa người và quỷ, có thể có sự qua lại với nhau, ví như khi người ta nằm mộng hoặc khi linh hồn rời khỏi thân xác, có thể du ngoạn “âm tào địa phủ”, đến âm gian một chuyến. Còn ma quỷ vào lúc đêm tối hoặc những lúc âm u cũng lén lút mà chạy đến dương gian quậy phá tác quái một phen.   Tuy nhiên, thông thường thì người và quỷ không thể qua lại giao du với nhau được. Ở đây, ranh giới và chướng ngại lớn nhất chính là “ánh sáng Mặt trời”. Con người hoạt động vào ban ngày, hoạt động dưới ánh sáng Mặt trời, và Mặt trời lại là thứ mà quỷ hồn khiếp sợ nhất. Giữa thanh thiên bạch nhật, hết thảy ma quỷ đều không có nơi ẩn núp. Vậy nên khi Mặt trời sắp ló rạng, ma quỷ đã vội vàng bỏ chạy mất rồi.  

Ma quy so gi - Nhung thu dung de doi pho voi ma quy  hinh anh
 

Quỷ sợ lửa

 

Ánh lửa từ ngọn lửa đang cháy, loại ánh sáng này rất giống với ánh sáng Mặt trời, chỉ là không có cường độ ánh sáng mạnh mẽ như của Mặt trời, nhưng đối với ma quỷ cũng có sức uy hiếp rất lớn. Dân gian tương truyền rằng, buổi tối khi người ta đi đường, nếu như gặp phải ma quỷ chỉ cần đốt một cây đuốc sẽ dọa cho ma quỷ sợ hãi mà bỏ chạy đi mất. Khi không có mồi lửa, thì hãy dùng tay vò vò đầu tóc, bởi đốm sáng phát ra từ tóc cũng có khả năng đuổi quỷ tránh tà.   Có thể thấy phần lớn ma quỷ đều sợ ánh lửa. Bởi vậy, dân gian thường dùng cách đốt lửa để trừng trị ác quỷ.  

Quỷ sợ tiếng nổ

  Khi thanh gỗ, tre trúc dập tắt, sẽ phát ra tiếng vang “Bộp! Bộp! Bộp! Bộp!”. Người ta nói rằng, loại tiếng nổ này cũng là khiến cho ma quỷ phải kinh sợ. Trong dân gian khi xua đuổi tà ma thường hay đốt pháo, chính là dựa theo loại phong tục này.

 

Quỷ sợ màu đỏ

  Dân gian cho rằng ma quỷ không dám chạm vào vật có màu đỏ. Vậy nên dân gian thường dùng lấy vải đỏ, máu động vật để xua đuổi tà ma.


Ma quy so gi - Nhung thu dung de doi pho voi ma quy  hinh anh
 

Ma quỷ sợ đèn

  Đèn phát ra ánh sáng, tác dụng của nó có phần tương tự như Mặt trời. Những ngọn đèn thời xưa, thường là loại đèn dầu, là dùng ánh lửa để chiếu sáng. Vì vậy, nó là thứ khiến cho ma quỷ phải khiếp sợ.  

Ma quỷ sợ đồ đồng

  Có người cho rằng ma quỷ có khả năng né tránh viên đạn, nhưng trong súng lắp cái chốt bằng đồng, thì ma quỷ không thể tránh được. Trong phong tục cưới hỏi của dân tộc Hán thời xưa, tân nương trước khi bước lên kiệu, sẽ đeo một chiếc gương đồng cổ trước ngực, tục gọi là “kính chiếu yêu”. Người ta cho rằng, có tấm gương này rồi, một số yêu ma quỷ quái sẽ không dám đến quấy nhiễu cô dâu nữa.  

Ma quỷ sợ tiếng gà gáy

  Tục gọi là quỷ sợ gà, kỵ tiếng gà gáy. Nghe nói, ma quỷ mà nghe thấy tiếng gà gáy thì người co rút, hoảng loạn, trong tâm vô cùng khiếp sợ. Cách nói này rất có thể là bắt nguồn từ câu “gà gáy trời sẽ sáng”. Quỷ âm sợ Mặt trời, gà thuộc dương, gà gáy tức là Mặt trời sẽ ló rạng. Mặt trời ló rạng thì ma quỷ không còn chỗ ẩn náu nữa. Vậy nên nói, gà là thứ mà ma quỷ kiêng kỵ.


Ma quy so gi - Nhung thu dung de doi pho voi ma quy  hinh anh
 
 

Ma quỷ sợ hình con hổ

  Dân gian thường hay vẽ hổ ngay trước cửa nhà, hoặc là làm đồ trang sức có hình con hổ cho trẻ em (mang giày đầu hổ, đội mũ đầu hổ) thì có thể đuổi tà tránh quỷ. Có thể thấy trong tương truyền của dân gian, quỷ cũng sợ hổ, tránh hổ như tránh người vậy.  

Ma quỷ sợ gỗ đào

  Cây gì trừ ma quỷ? Theo tục lệ, vào ngày cuối năm mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu” có thể đuổi được ma quỷ.   Ngoài ra, dân gian cũng có thói quen lấy gỗ đào làm cung tên, đao, gậy, cũng là để đuổi tà trừ quỷ.  

Ma quỷ sợ gạo

  Dân gian cho rằng gạo có tác dụng xua quỷ tránh tà. Ở nhiều vùng có tục rằng, sản phụ đầy tháng trên đường về nhà mẹ đẻ, mỗi lần đi qua một giao lộ đều cần phải rải một nắm gạo. Nếu không làm vậy, người ta cho rằng sẽ bị ma quỷ tác quái làm hại. Ở Đài Loan, khi tân nương xuống kiệu cần người nhà giơ cái sàng gạo bát quái đội lên đầu mới có thể đi vào phòng lớn, đây cũng là phong tục dùng vật dụng có liên quan với gạo để xua đuổi tà ma, chiêu mời phúc lành.   Khi trẻ em té ngã, dân gian quen dùng muối và gạo rải xuống nơi trẻ té ngã, tin rằng như vậy liền có thể xua đuổi ta ma làm hại trẻ nhỏ. Khi chôn cất, sau khi rải muối gạo, quỷ hồn của người đã chết sẽ không làm hại những người khiêng quan tài được nữa. Trong phong tục “gọi hồn” ở vùng Giang Tô cũng thường dùng gạo thóc làm “đạo cụ” chủ yếu trong việc đuổi tà dẫn hồn. Có thể thấy, gạo thóc là vật khiến cho ma quỷ khiếp sợ. Tham khảo thêm: Những vật trừ tà đừng quên mang theo khi ra khỏi nhà.   Trên đây là những điều vẫn tương truyền trong dân gian, là những phong tục thường thấy ở nhiều vùng đất khác nhau.   Tuy nhiên, lại nói thêm rằng, ma quỷ chỉ có thể quấy nhiễu khi con người có tâm bất chính chiêu mời chúng đến mà thôi. Còn đối với một người sống cuộc sống lành mạnh, tâm gieo điều thiện, một lòng kính ngưỡng đối với Thần Phật, đặc biệt là những người tu luyện chân chính … thì sẽ không ma quỷ nào dám quấy nhiễu. Bởi ma quỷ sợ nhất chính là những người này.

ST.

Tại sao người chết đi lại bảo là người ấy về nơi chín suối? Âm binh có thực sự đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ? Sau khi chết, bạn sẽ thành MA hay thành THIÊN THẦN?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ma quỷ sợ gì - Những thứ dùng để đối phó với ma quỷ

Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Xem tướng. Người có đường Thái Dương dài sẽ có cuộc sống giàu có và luôn gặp may mắn. Cuộc đời của họ khá suôn sẻ, dễ thành công trong sự nghiệp. Đường Thái Dương thể hiện sự may mắn, thành công, tài năng và tiền bạc trong cuộc sống mỗi người. Hiếm k
Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Nằm mơ thấy bị công an giao thông bắt xe mình –

Giấc mơ được trở thành những chú công an giao thông giữ gìn trật tự an toàn giao thông là mơ ước của nhiều người. Nhưng khi mơ lại nằm mơ thấy bị công an giao thông bắt xe mình. Giải mã giấc mơ lại đi ngược với những gì mình mong muốn. Nằm mơ thấy mì
Nằm mơ thấy bị công an giao thông bắt xe mình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy bị công an giao thông bắt xe mình –

7 thói quen có thể giết chết hôn nhân của bạn

Thời gian bạn chia sẻ cùng người bạn đời trước khi đi ngủ được cho là sự tương tác quan trọng nhất trong ngày mà cả hai có thể dành cho nhau.
7 thói quen có thể giết chết hôn nhân của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì vậy, nếu bạn phạm phải 7 sai lầm dưới đây, theo The Huffington Post, thì hôn nhân của bạn có thể sẽ bị đe dọa.

Đi ngủ vào những khoảng thời gian khác nhau

Marcia Berger, nhà tâm lý học và là tác giả cuốn 30 phút để có mối quan hệ mà bạn luôn mong muốn giải thích, một trong những yếu tố để duy trì tình cảm trong mối quan hệ là khoảng thời gian hai người gần gũi, chia sẻ, nói chuyện với nhau trước khi đi ngủ, sau một ngày dài mệt mỏi ở bên ngoài.   Nếu tình trạng mỗi người đi ngủ vào một giờ khác nhau kéo dài thì vấn đề lúc này không chỉ nằm ở phạm vi thói quen sinh học mà cả hai đang tự tạo ra rào cản, khoảng cách về mặt tình cảm, nhu cầu sinh lý cho nhau.   Thiếu quan tâm đến thời gian, thói quen sinh hoạt trước khi đi ngủ của nhau

Nếu bạn thường xuyên xem truyền hình, lên internet hay làm việc riêng khi đã đến giờ chồng hoặc vợ của bạn chuẩn bị đi ngủ, thì bạn nên thay đổi.

Có thể bạn nên di chuyển ra khỏi phòng ngủ chung để tránh gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến người bạn đời, hoặc tốt hơn là hai người cần thống nhất để thay đổi và sắp xếp lại thói quen sinh hoạt trước khi đi ngủ để không xảy ra những xung đột không đáng có.

Không nói gì, hoặc nói rất ít với nhau

Sẽ không ai có thể đổ lỗi nếu bạn chỉ muốn lên giường đi ngủ sau một ngày dài làm việc, chăm sóc con cái. Tuy nhiên, việc này không nên diễn ra thường xuyên vì nó sẽ dẫn đến tình trạng thiếu kết nối giữa bạn và người bạn đời.

Mọi hoạt động trong hôn nhân đều là sự xây dựng, bạn không cần phải đợi có những điều hay mới nói chuyện, thay vào đó bạn hoàn toàn có thể trò chuyện về những điều đang khiến bạn mệt mỏi, chán nản để tìm được sự đồng cảm.

Ưu tiên thời gian dành cho “màn hình” hơn là bạn đời

Facebook, Instagram, email đang dần làm nhiều người xao lãng trước khi đi ngủ. Điều này sẽ làm tổn hại mối quan hệ của bạn theo hai cách. Thứ nhất, nó cô lập hai người với nhau. Thứ hai, kích thích từ màn hình và các thiết bị điện tử sẽ giữ cho bạn tỉnh táo, khiến bạn khó ngủ vì cơ thể đã qua giai đoạn cảm thấy buồn ngủ.

Khi không ngủ đủ giấc, chất lượng của giấc ngủ không cao sẽ dẫn đến tâm lý cáu gắt, ít khoan dung với nhau trong đời sống.

Chải chuốt, làm vệ sinh cơ thể trên giường

Điều này có vẻ khó hiểu, nhưng theo Becky Whetstone, bác sĩ trị liệu các vấn đề về hôn nhân, gia đình tại Arkansas (Mỹ), không gì có thể giết chết sự lãng mạn bằng việc chồng bấm móng chân hay vợ ngồi chải chuốt móng tay ở trên giường.

Ngay cả khi hai người đã có thể cư xử tự nhiên, thoải mái với nhau thì việc vệ sinh cơ thể, chăm sóc bản thân cũng vẫn nên được làm tại phòng tắm vào một lúc nào đó trong ngày, thay vì trước khi đi ngủ.

Ngày càng ít những cử chỉ thân mật

Nếu bạn cảm thấy bạn và chồng hoặc vợ giống như bạn cùng phòng hơn là người bạn đời của mình, hay bạn cố tình không đi ngủ cùng lúc, chuyển qua phòng khác ngủ để tránh quan hệ tình dục, thì hôn nhân của bạn đang thật sự có vấn đề.

Giải pháp trong trường hợp này là hãy cùng ngồi nói chuyện thẳng thắn với nhau để hiểu ra lý do thật sự.

Đi ngủ trong sự giận dữ

Bạn không nên dùng giấc ngủ như một cách để giải quyết tranh cãi, xung đột hết lần này đến lần khác. Vì điều này không giải quyết được vấn đề giữa hai người mà còn làm giảm chất lượng giấc ngủ cũng như sức khỏe và đời sống tình cảm, tinh thần.

Hãy cố gắng đừng nói về vấn đề có khả năng gây tranh cãi trước khi chuẩn bị ngủ. Hãy nói và giải quyết những vấn đề này vào khoảng thời gian khác trong ngày, khi cả hai còn nhiều năng lượng và tỉnh táo.

Một thế giới

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 thói quen có thể giết chết hôn nhân của bạn

Doanh nhân tuổi Sửu chọn đối tác

Đối với doanh nhân tuổi Ất Sửu (1985), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người cùng tuổi Ất Sửu, tuối Mậu Thìn (1928, 1988), tuổi Tân Mùi (1931, 1991).
Doanh nhân tuổi Sửu chọn đối tác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Đối với doanh nhân tuổi Đinh Sửu (1937), nam giới nên hợp tác với người tuổi Canh Dần (1950), Quý Tỵ (1953), Giáp Ngọ (1954), Bính Thân (1956). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Mậu Dần, Canh Thìn, Giáp Thân.

Đối với doanh nhân tuổi Kỷ Sửu (1949), nam giới nên hợp tác với người tuổi Canh Dần (1950), Quý Tỵ (1953), Giáp Ngọ (1954), Bính Thân (1956), Mậu Tý (1948), Đinh Hợi (1947). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ.

Đối với doanh nhân tuổi Tân Sửu (1961), nam giới nên hợp tác với người tuổi Quý Mão (1963), Ất Tỵ (1965), Bính Ngọ (1966). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu (1969).

Đối với doanh nhân tuổi Quý Sửu (1973), nên hợp tác với người tuổi Quý Sửu, Ất Mão (1975), Đinh Tỵ (1977), Kỷ Mùi (1979). Nữ giới nên hợp tác với người Quý Sửu, Ất Mão, Đinh Tỵ.

(Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Sửu chọn đối tác

Nằm mơ thấy quần áo là điềm gì? –

Nằm mơ thấy quần áo là điều bình thường, có rất nhiều người bỏ qua không màng đến giấc mơ ấy vì coi giấc mơ đó bình thường. Nhưng mấy ai hiểu rằng đằng sau giấc mơ là ẩn chứa nhiều điều mà chưa bao giờ bạn nghe đến. Giấc mơ thấy quần áo mang đến cho
Nằm mơ thấy quần áo là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy quần áo là điềm gì? –

Xem tướng: Dấu hiệu nhận biết những cô nàng ham muốn –

Dưới đây là những dấu hiệu thường thấy ở những người phụ nữ đam mê tình dục. Phụ nữ mang những nét tướng này thường có khuynh hướng quan hệ vụng trộm, bất chính, lăng nhăng và không chung thủy. Dựa theo đặc tính sinh lý trong cơ thể mỗi người mà tín
Xem tướng: Dấu hiệu nhận biết những cô nàng ham muốn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng: Dấu hiệu nhận biết những cô nàng ham muốn –

Giải mã vận mệnh người tuổi Canh Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người sinh năm Canh Thân, ngũ hành thuộc Kim, mệnh Thạch lựu Mộc, là người có số phát tài phát lộc.
Giải mã vận mệnh người tuổi Canh Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh năm Canh Thân, ngũ hành thuộc Kim, mệnh Thạch lựu Mộc, là người có số phát tài phát lộc.


Giai ma van menh nguoi tuoi Canh Than theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Người ngũ hành Kim có bí quyết phát tài ẩn giấu trong mình, tốc độ quay vòng tài chính nhanh nên đường làm ăn thuận lợi. Nhưng tử vi của người sinh năm Canh Thân là giàu có nhờ tích cóp và chăm chỉ làm ăn chứ không phải là phất lên nhanh chóng. Có tiền nên mua bất động sản, không nên cất giữ tiền mặt.   Thạch lựu Mộc tính tình cứng cỏi, mạnh mẽ và có nghĩa khí, nạp âm Mộc nhưng là Mộc cứng, không dễ dàng bị người khác khuất phục. Gặp Thổ thì hỉ dụng, có Bính tân Đinh Canh thì tương hỗ quan trường, có Mậu Tân thì trợ giúp ấn tín, chủ cát lợi về đường thăng tiến sự nghiệp, làm lãnh đạo, dấn thân quan trường.   Gặp Sa trung Kim là đại cát, chủ đại phú đại quý, trong nguy nan có quý nhân, trong sóng gió có thuyền lớn. Gặp Kiếm phong Kim cũng là đắc cách, trước có bụi vàng, có thể chế nguy thành an, không có hại. Gặp Tỉnh tuyền Thủy, Giản hạ Thủy, Đại hải Thủy thì phải có Thổ chế nước mới tốt, có thể hưởng cuộc sống an nhàn lâu dài, ít lo nghĩ âu sầu.
Phong thủy kinh tế năm Bính Thân 2016
Giống như bản chất hoạt bát của Khỉ, chứng khoán năm nay sẽ liên tục biến động. Trong khi đó, các ngành liên quan đến yếu tố Kim sẽ có nhiều cơ hội tốt.

Nếu người này sinh vào ngày tháng năm có Mộc, ngày có Hỏa thì chủ quý vì Thạch lựu Mộc dưỡng Hỏa, năm dưỡng ngày, đại cát đại lợi, cả đời không phải lo ăn lo mặc. Gặp Dương liễu Mộc, Tang đố Mộc thì xấu, duy có gặp Đại lâm Mộc thì tốt hơn, có thể tránh họa, cây to đón gió lớn, gặp biến không lui.
  Số mệnh người tuổi Canh Thân tiểu nhân bên người rất nhiều, giao tiếp xã hội không có hồi báo nên tự thân lập thân, không nhờ vả được ai. Nên dùng các vật phẩm phong thủy cát tường làm bằng đá hồng trúc, đá mã não mang bên mình để hộ thân, cầu bình an. Tốt nhất là đeo vòng tay hoặc bùa hộ mệnh.
Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Canh Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục sát tinh: bộ Kình Đà

Bài viết của tác giả Trần Việt Sơn trình bày kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về bộ Kình Đà trong bộ Lục Sát Tinh.
Lục sát tinh: bộ Kình Đà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trần Việt Sơn thuật theo cụ Thiên Lương

Sau bộ Không Kiếp, đến bộ Kinh Đà (Kình Dương, Đà La). Cũng như Không Kiếp có đắc địa mới ăn. Kình Đà chỉ ăn ở các cung đắc địa. Và phải có chính tinh chỉ huy. Như Phá Quân cùng với Không Kiếp đắc địa thì ăn lớn, Kình phải có Thất Sát mới ăn to. Kình, Đà đứng hai bên Lộc Tồn, cho nên không có trường hợp đồng cung. Chiếu thì lại không ăn to. Phải đóng ngay tại Mạng hoặc tại cung mà thôi. Cho nên cần phần biệt các trường hợp riêng rẽ.

TRƯỜNG HỢP KÌNH DƯƠNG

Ai cũng biết rằng có cách Hình, Sát thì oai hùng. Hình là Thiên Hình. Sát là Thất Sát. Được cách Hình Sát tại Mạng thì phát công danh lớn, thường về võ nghiệp.

Kình, Sát (Kình Dương, Thất Sát) cũng được hưởng như Hình, Sát (vì Kình đóng vai hình)

Về cách này, xin chú ý:

– Kình phải đóng tại Mạng cùng với Sát mới được.

– Hoặc là Mạng có Thất Sát, thì đến Đại Vận có Kình là ăn. Nếu chỉ gặp Đại Vận có Kình chiếu thì cũng hưởng, nhưng kém hơn

– Phải là Thất Sát mới chỉ huy được Kình, tức là mới vận dụng được Kình. Trong bộ Sát, Phá, Tham chỉ có Sát mới chỉ huy được Kình, còn các sao khác kém hơn, không đủ sức chỉ huy.

– Kình phải đắc địa tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì mới có ảnh hưởng tốt.

Kỳ trước, chúng tôi đã ghi rằng bộ Phá Quân, Không Kiếp đắc địa rất mạnh. Bộ Thất Sát, Kình cũng mạnh, nhưng kém hơn bộ Phá Quân, Không Kiếp. Nhưng kinh nghiệm lại cho biết rằng bộ Sát, Kình tuy ảnh hưởng kém mạnh, nhưng lại hay hơn bộ Phá Quân, Không Kiếp, là vì nó “phù hẳn”, chứ không “tráo trở” không phù mạnh rồi hạ xuống.

Nếu không có Thất Sát

Mệnh phải có Thất Sát, mới vận dụng được Kình.

Nhưng nếu không có Thất Sát, thì có Phá Quân cũng tạm được, nhưng ảnh hưởng tốt kém Thất Sát.

Họa hại vì Kình

Kình Dương kị các tuổi: Dậu, Tuất, Hợi.

Ba tuổi đó đến Đại vận có Kình Dương là gặp họa hại, phải coi chừng.

Ba tuổi đó, Mạng có Kình Dương, cũng phải coi chừng những họa hại.

TRƯỜNG HỢP ĐÀ LA

Đà La đắc địa tại: Dần, Thân, Tị, Hợi, ở cung Mạng vô chính diệu, không có Tuần Triệt là Đà La độc thủ, rất anh hùng. Tức là cho đương số phát mạnh, phát lớn, phần nhiều về võ nghiệp. Nhưng phải là người Kim Mệnh hay Thủy Mệnh thì mới ăn; chứ người Hỏa thì lại không được.

Trong trường hợp trên, Đà La độc thủ đã trở thành chính tinh, rực rỡ, cho nên phải không có Tuần Triệt tại đó mới được, có Tuần Triệt lại hỏng mất cách hay.

TRƯỜNG HỢP XẤU CỦA ĐÀ LA

Đà La ở hai cung Thìn, Tuất đóng vai trò La Võng chi địa.

Không phải cứ hai cung Thìn, Tuất là Thiên La, Địa Võng, tức là lưỡi trời ràng buộc các đương số, phải có Đà La đóng đó mà Đà La là lưới trời, thì hai cung đó mới là hai cung lưới trời trói buộc. Do đấy đừng thấy Mạng đóng tại Thìn Tuất mà bảo rằng Mạng bị ràng buộc. Mạng tại Thìn Tuất, mà có Đà La thì mới bị ràng buộc (phải Đà La ngay cung Mạng, chứ Đà La chiếu sang Mạng cũng không sao)

Đà La là lưới tại Thìn, Tuất thì các sao khỏe ở đấy như như Tử-Tướng, Phá Quân bị trói lại, không thi thố được nữa. Những sao yếu, hiền lại không bị Đà La trói buộc.

Cũng như Kình đóng vai trò của Thiên Hình, Đà đóng vai trò của Hóa Kị.

CÁCH AN KÌNH, ĐÀ

Theo kinh nghiệm của cụ Thiên Lương, cách an Kình Đà có hơi khác các sách, nhưng hợp lý ở chỗ phân biệt Âm, Dương.

Kình, Đà ở hai bên có Lộc Tồn, và theo nguyên tắc “Tiền Kình, hậu Đà”. Nhưng hướng trước sau phải tuỳ theo người tuổi Âm hay tuổi Dương. Như tuổi Âm thì an theo chiều ngược lấy chiều đó rồi, thì Kình đi trước cung có Lộc Tồn, và Đà La đi sau cung có Lộc Tồn. Vì dụ tuổi Ất Mùi, Lộc Tồn ở Mão thì Kình ở Dần, Đà La ở Thìn.. Tuổi Dương thì theo chiều Dương, và theo chiều đó, như tuổi Giáp Dần, Lộc Tồn ở Dần, thì Kình ở Mão, Đà La ở Sửu.

Theo cách an đó, nhớ là Kình Lực luôn luôn đi với nhau. Chỗ nào có Lực Sĩ là có Kình Dương.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lục sát tinh: bộ Kình Đà

Đoán tính cách qua tướng miệng

Qua một số quan sát của Nhân tướng học, có thể đoán tính cách của một người nào đó qua tướng miệng của họ. Miệng rộng thì hoan lộ hanh thông, miệng nhỏ thì lương thiện hài hước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Miệng chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi người, là cơ quan vừa dùng để ăn vừa dùng để nói. Thực ra, miệng cũng là một bộ phận quan trọng trong Nhân tướng học. Miệng biểu thị phúc lộc, vận thế của người đó khi về già cũng như cá tính, quan hệ xã hội, tài vận,... Ví dụ: Một người có miệng rộng thì hoan lộ hanh thông, cả đời phú quý; miệng nhỏ thì chỉ có được rất ít tiền tài; khoé miệng trễ thì sẽ không giỏi giao tiếp,... Vì vậy, trong khi tuyển dụng nhân tài, cẩn hết sức chú ý quan sát hình dạng của khuôn miệng để có sự lựa chọn đúng đắn nhất.

1. Miệng rộng: tướng soái đại tài

tướng miệng rộng

Tục ngữ có câu: "Đàn ông miệng rộng thì sang" nên hiển nhiên miệng rộng sẽ được đánh giá là tướng tốt. Người có miệng rộng thì tấm lòng cũng rất rộng mở, hào phóng, bao dung, thích trao đổi ý kiến với người khác. Họ cũng rất biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của mọi người xung quanh nên được nhiều người quý mến, tin yêu, họ có rất nhiều bạn và còn là một tướng soái đại tài, hữu dụng. Con đường hoạn lộ của họ rất hanh thông, thuận lợi, cả đời phú quý. 

2. Miệng nhỏ, hẹp: lương thiện, hài hước

Nếu một người có miệng nhỏ, hẹp so vớ ngũ quan thì tính tình sẽ rất lương thiện, hòa đồng, lại có đầu óc hài hước và nói chuyện rất duyên dáng, cuốn hút. Họ biết lắng nghe và tìm hiểu, không tham lam lợi ích cá nhân, không đưa ra những yêu cầu vô lý đối với mọi người nên được nhiều người yêu mến, kết bạn.

Nhược điểm của họ là không giỏi trong quản lý tiền bạc, không dám mạo hiểm nên cũng sẽ không tích lũy được nhiều tiền của, cả đời chỉ có được rất ít tiền mà thôi.

3. Môi mỏng: giỏi diễn thuyết

Những người có cặp môi mỏng thì cùng rất thông minh, ham học, biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế. Họ cũng có tư tưởng thống nhất nên sẽ hình thành nên một hệ thống triết học nhân sinh của riêng mình. Kiến thức uyên bác cộng thêm khả năng ăn nói bẩm sinh sẽ giúp họ trở nên rất cuốn hút và có sức ảnh hưởng tới những người xung quanh. Họ rất phù hợp để trở thành nhân viên marketing hoặc diễn giả, những ngành nghề đòi hỏi khả năng ăn nói trơn tru, thuyết phục.

Nhược điểm của họ là khá keo kiệt, đôi khi hay so đo tính toán thiệt hơn. Điều đó sẽ khiến mọi người có cảm giác họ đang tự tư tự lợi và không muốn tiếp xúc, kết bạn.

4. Môi dày: chân thật, đôn hậu

Nhũng người có cặp môi dày thường tạo cho người khác cảm giác về sự chân thực, đôn hậu. Họ cũng không thích nổi bật, luôn hành động dựa trên cảm giác của cá nhân mình, thiếu lý tính. Họ rất coi trọng chất lượng cuộc sống, thích sử dụng những sản phẩm, đồ dùng cao cấp dù phải chi ra rất nhiều tiền, nên họ cần cố gắng kiềm chế, hơn nữa ở phương diện này. Họ khá bảo thủ trong chuyên tình cảm nhưng cũng không loại khả năng sẽ là người đa tình.

5. Miệng lệch: gặp trở ngại trong sự nghiệp

Miệng lệch không phải là tướng tốt, cho thấy người này tính tình không ngay thẳng, trầm tĩnh và có phần thâm độc. Họ có rất nhiều khuyết điểm như luôn muốn tính toán thiệt hơn với người khác, khiến mọi người lâm vào cảnh dở khóc, dở cười, dân gian có câu: "thức lâu mới biết đêm dài; ở lâu mới biêt lòng người có nhân", một thời gian, tất cả mọi người đều sẽ không muốn giao thiệp, kết bạn với họ.Khi xảy ra mâu thuẫn, họ cũng nhất định không nhượng bộ nên sẽ thường xuyên va chạm với mọi người, dẫn đến xung đột gay gắt, khiến sự nghiệp gặp nhiều trở ngại. Ngay khi thất bại, họ cũng không nghe theo lời khuyên của mọi người nên sẽ không có nhiều thành tựu lớn.

6. Môi trên và môi dưới bằng nhau: luôn tuân thủ nguyên tắc

tướng miệng người nghiêm túc

Người có hai môi bằng nhau thường luôn tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy tắc trong khi làm việc, hành động đúng như kế hoạch đã đề ra, không bỏ qua bước khiến mọi người xung quanh rất an tâm, tin tưởng. Tuy nhiên, họ cũng khá cứng nhắc, không có khả năng ứng biến linh hoạt trong mọi tình huống, ít khi tức giận và cũng không biết điều chỉnh cảm xúc của mình.

7. Môi tròn: đơn giản, không toan tính

Người có môi hình tròn suy nghĩ đơn giản, trong sáng, không toan tính, lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan, không vụ lợi, thái độ ung dung tự tại của người này khiến mọi người ngưỡng mộ, hơn nữa người có môi hình tròn còn thích được giúp đỡ người khác, bởi vậy rất được mọi người yêu mến.

Khuyết điểm của họ chính là hơi cứng đầu, thường có tâm lý lo lắng, sợ sệt, bởi thiếu cảm giác an toàn. Thái độ dè chừng này của họ cũng sẽ khiến người khác phái ngại ngùng khi tiếp xúc với họ, từ đó ảnh hưởng sự phát triển của tình cảm.

8. Quanh miệng có nếp nhăn: phải vất vả mới thành công

Người có nếp nhăn ở quanh miệng thích lợi ích vật chất, do vậy họ rất tích cực kiếm tiền họ quan tâm tới bạn bè và coi trọng tình cảm tuy nhiên họ thường phải đau khổ về chuyện tiền bạc và gặp rắc rối trong chuyện tình cảm Về mặt công việc, họ thường gặp nhiêu trắc trở tuy nhiên sự nỗ lực hêt mình trong công việ' cuối cùng cũng sẽ được đền đáp, tức là họ phải trải qua nhiều sóng gió mới có thể thành công. Khi về già, họ dễ để xảy ra sai sót trong quản lý tài chính, do vậy, cần lên kế hoạch cặn kẽ, tỉ mỉ mới không rơi vào tình cảnh khó khăn.

9. Khoé miệng hướng lên trên: sự nghiệp phát triển nhanh chóng

Người có khoé miệng hướng lên thường tích cực lạc quan, gặp phải thất bại cũng sẽ không kêu ca oán thán hay nhụt chí, dù làm việc gì họ cũng rất nỗ lực và ham học hỏi, do vậy họ tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm và tài nghệ. Họ rất tốt với bạn bè, không keo kiệt chuyện tiền bạc, bởi vì mối quan hệ của họ với mọi người rất tốt đẹp. Họ thường gặp may mắn, được quý nhân giúp đỡ, do đó sự nghiệp thăng tiến rất nhanh. Đương nhiên nếu không được quý nhân giúp đỡ thì họ vẫn có thể bước những bước vững chãi trên đường bằng chính đôi chân của mình. 

10. Khoé miệng trễ xuống: không giỏi giao tiếp

Người khoé miệng trễ xuống thường bảo thủ, cố chấp, không giỏi quan hệ, vụng về trong đối nhân xử thế, thích làm mọi việc một mình, tuy nhiên họ lại có thể dũng cảm phá vỡ quan niệm cũ, họ cũng có thể chịu khổ chịu khó, bởi vậy cần phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian dài mới có thể thành công trong sự nghiệp. Họ kiếm tiền không dễ dàng, do đó cần phải thận trọng trong việc quản lý tài chính, tốt nhất nên lên kế hoạch cụ thể, tránh để xảy ra tình trạng thất thoát tiền bạc do làm ăn thua

11. Nếp nhăn khoé miệng kéo dài xuống dưới: thiện ác rõ ràng

Người có nếp nhăn khoé miệng kéo dài xuống phía dưới biết phân biệt thiện làm việc quyết đoán, không thích thay đổi, bởi vậy dễ khiến người khác hiểu lần người cố chấp. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bởi vậy đôi khi tỏ ra là người thích bới móc, trêu chọc người khác. Họ cũng rất coi trọng quan hệ đối nhân xử thế, có thể tốn sức lực vào việc mở rộng quan hệ tình cảm và các mối quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, trong quá trình giao tiếp, nếu có ai đó xúc phạm tới họ thì họ sẽ không để ý. Ngoài ra, nếp nhăn khoé miệng kéo dài còn được mọi người cho đó là "nếp nhăn trường thọ", bởi vậy, có lẽ những người có nếp nhăn kiểu này là những người sống rất thọ

12. Môi mỏng, chóp mũi nhọn: ưa châm chọc người khác

Người có môi mỏng, chóp mũi nhọn thích bới móc khuyết điểm của người khác Trong quá trình giao tiếp, họ thường nói những lời lẽ châm chích, giễu cợt người khác bởi vậy họ thường gây chuyện thị phi, khiến người khác có ác cảm, cũng chính vì vậy mà họ thường tự chuốc lấy phiền phức. Họ không giỏi quản lý tài chính, thường ra quyết đoán sai lầm, hơn nữa không được quý nhân giúp đỡ, bởi vậy quanh năm luôn ở trong tình cảnh túng thiếu, thậm chí còn có nguy cơ phá sản hoặc nợ nần.

13. Môi trên nhô ra: kiêu căng tự phụ

Người có môi trên nhô ra có tài ăn nói lưu loát, thích tranh luận với người khác để chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn, tuy nhiên lời lẽ của họ lại cho họ là người nhỏ nhen, ích kỷ, coi thường người khác, do vậy thường tạo cho người khác ấn tượng kiêu căng tự phụ. Vậy nên, họ không có bạn tri kỷ, quan hệ giao tiếp cũng không tốt.

14. Môi dưới nhô ra: thiêu tinh thân đoàn kết tập thể

Người có môi dưới nhô ra tính tình cứng rắn, kiên cường, không thích ỷ lại người khác, bởi vậy họ khá tự lập. Tuy nhiên, do quá chú trọng tới việc theo đuổi lợi ích cá nhân mà quên mất lợi ích tập thể, thiếu tinh thần đoàn kết hợp tác, bởi vậy họ khi dễ tiến xa trên con đường sự nghiệp, mà lại để lãng phí rất nhiêu sức lực. Về mặt tình cảm, họ bồng bột, thiếu chín chắn, khiến đối phương không thể chịu nổỉ, nếu không sửa được tính này thì tình cảm khó mà duy trì được lâu dài.

15. Môi không khép chặt: do dự thiếu quyết đoán

Người mà hai môi không thể khép khít vào nhau tính tình nóng nảy, vội vàng, dễ xúc phạm tới người khác, hơn nữa rất coi trọng lợi ích, thích giành phần lợi về mình, do vậy không được mọi người yêu mến. Trong phát triển sự nghiệp và quản lý tài chính, người có môi kiểu này thường do dự thiếu quyết đoán, do đó đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội tốt, nhẹ thì khiến cho sự việc không thể thành công, mà nặng thì gây hậu quả nghiêm trọng.

16. Hai môi đều nhô ra: thường đắc tội với người khác

Người có hai môi đều nhô ra tính tình tuỳ  tiện, thường không biết phải trái nên dễ đắc tội với mọi người khi giao tiếp, do đó thường mang lại nhiều phiền toái cho bản thân và gây rắc rối cho người khác. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bị mờ mắt trước đồng tiền, họ thích đầu tư tiền bạc vào kinh doanh song lại thiếu may mắn, do vậy phải chịu thua lỗ mà không được như mong muốn. Vậy nên, việc họ cần làm là lên kế hoạch quản lý tài chính cẩn thận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách qua tướng miệng

Cách hóa giải mệnh vô chính diệu –

Trước tiên phải đóng được Tuần Triệt vào Mệnh để làm vững lại, như các bài trước đã nêu. Phải xem ngay cung lục hại Mệnh là cung nào, có 6 cung có thể lục hại Mệnh. Đó là Tật, Nô, Điền, Phụ, Huynh, Tử tức, đây đều là các cung nhược, không được coi tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ọng trong lá số. Nhưng nay ta biết rằng chúng có vai trò cực kỳ quan trọng với Mệnh vô chính diệu. Điều này là hợp lý bởi đã có 6 cường cung quan trọng rồi, thì 6 nhược cung phải có chỗ dụng nào đó, thế mới hợp lẽ âm dương, mới hợp đạo, không có gì là thừa, là kém ý nghĩa trên một tổng thể 12 cung như vậy. Và một trong các ý nghĩa đó là dụng 6 nhược cung để giải mệnh vô chính diệu. Chỉ cần tìm cách làm động các cung đó lên để giáng Tuần Triệt vào Mệnh, như đổ bê tông cho vững cái nền móng trống rỗng ngả ngiêng.

LaSo01

Động cung Tật lên không phải là bị bệnh tật nặng nề, mà là rèn luyện để có sức khỏe, thể lực tốt. Cung Tật chỉ thẳng vào tình trạng thể chất, tinh thần nên để động nó chỉ việc tập thể dục đều đặn, chú ý tập các môn ảnh hưởng tốt tinh thần như Yoga, 5 thức Tây Tạng. Đặc biệt 5 thức Tây tạng rất hiệu quả và lành, nó đơn giản nhưng có tác dụng mạnh. Để tự động viên, chỉ cần nghĩ rằng ta tập luyện cơ thể thế này tức là đang gây áp lực lên cái Mệnh vô chính diệu ngả nghiêng để làm nó vững lại. Thực tế, bất cứ người vô chính diệu nào mà từng đi bộ đội, tức là đã chịu sự rèn luyện thì thường đều rất lợi, chính vì đã được đóng áp lực lên Mệnh rồi.

Động cung Nô tức là hãy có quan hệ xã hội tốt, luôn biết rằng lợi cho người thì tức là lợi mình, cho đi cái gì thì nhận lại cái đó. Người vô chính diệu tại sao lại nên nhờ người khác ra mặt, đứng đầu, còn mình phụ giúp hoặc đứng sau thôi ? Đó chính là động cung Nô, cái người khác mà ta nấp sau lưng kia chả phải đang động để chèo chống đứng đầu đó ư. Người vô chính diệu tự nhiên hay ganh ghét so bì với người khác nên nếu cung Nô có người năng động, thành công, khiến mình phải ganh tỵ cũng hay, vì người đó sẽ tạo áp lực lên Mệnh để bản thân phải phấn đấu, cố gắng. Thậm chí nếu có kẻ cừu địch khi dễ mình thì càng tốt, biết đâu nhờ thế bản thân mới biến thành siêu Xayda !

Động cung Điền thì rõ rồi, sửa nhà, dọn nhà thường xuyên, đổi nhà, chuyển phòng, dịch giường. Nếu có nhà cửa cho thuê, đất đai kinh doanh thì chính là có cái dụng thần đại cát rồi. Cung Điền rất quan trọng, phong thủy có sức mạnh ghê ghớm. Một bí kíp phong thủy đơn giản là hãy luôn giữ nhà cửa gọn gàng, vứt hết các đồ cũ không dùng đến, vì chúng gây ra sự bừa bộn, tích tụ năng lượng âm gây ảnh hưởng tiêu cực. Nên học phong thủy huyền không, nó mạnh hơn hẳn đám Bát trạch, cung phi vớ vẩn. Đọc các sách dịch của Lý Cư Minh, thầy phong thủy Đài Cảng. Ông ta có tinh thần rất khoáng đạt, ông ta nói là : “Nếu bạn định học huyền học chỉ để lợi cho mỗi mình thì thôi đừng học nữa, cái biết của mình phải có lợi cho người khác thì mới đáng học“. Sách của ông ta dù về Tử bình, Phong thủy hay Mật tông đều có nhiều thông tin rất hữu ích.

Động cung Phụ như thế nào, khi đó là đối tượng ta không thể động vào được. Khi Mệnh vô chính diệu lục hại cung Phụ mẫu thì luôn nhớ là càng xa gia đình càng hay, vì Tuần Triệt chính là có ý xa cách. Có thể là đi học, đi làm, miễn cứ xa gia đình là được. Một điều nữa là nếu bố mẹ vất vả, hoặc là người năng động, hoạt động nhiều thì tự nhiên cũng có tác dụng như động vậy. Tốt nhất vẫn là xa gia đình, tự đóng Tuần Triệt vào Mệnh và Phụ.

Động cung Huynh cũng như với cung Phụ, xa cách anh em. Nếu cung Huynh vốn đã động nhiều, ví dụ có anh em năng động, thành công thì tự nó đã gây áp lực có lợi lên Mệnh rồi.

Động cung Tử tức hơi khó, đó là bắt buộc phải có con. Tục ngữ Trung Quốc có câu : “Có con vạn sự đủ”, Mệnh vcd lục hại Tử tức khi có con thì tình hình sẽ trở nên tốt hơn hẳn. Ngoài ra, cung Tử tức còn chỉ quan hệ tình dục, nếu có cuộc sống tình dục tốt thì cũng lợi rất nhiều (điều này có thể giải thích từ phương diện sức khỏe, sinh học). Cung Tử tức còn động khi làm việc trong các ngành nghề liên quan đến trẻ con, lớp người ở vai con cháu mình, kém mình một vài thế hệ…

Đó là cách thứ nhất, dùng cung lục hại để giải Mệnh vô chính diệu, tuy nhiên không phải lúc nào cũng dùng được. Như không thể xa gia đình, xa anh em, hoặc chưa có con thì lấy gì nghịch ngợm phá phách trong nhà !

Cách tiếp theo, luôn dùng được, đó là dụng cung Di.

Để hiểu tại sao cung Di lại có thể giải Mệnh vô chính diệu thì cứ đọc lại ngay sách vở kinh điển. Sách viết: Mệnh vô chính diệu thì “xem chính tinh xung chiếu như chính tinh tọa thủ”, câu này có vẻ đơn giản, sai, xung chiếu là xung chiếu chứ coi như tọa thủ thế nào được. Nhưng trong đó ẩn chứa cái lý sâu xa, câu ấy thực ra có nghĩa là dùng cung xung chiếu, trong đó coi trọng sao chính. Do Sao thì phải ở trong Cung, nên vấn đề không phải là coi chính tinh xung chiếu như tọa thủ mà là dùng cung kia thế nào, vận dụng để các sao trong cung phát lên, nổi lên, động lên thì tự khắc sẽ gây ảnh hưởng điền đầy cho cung vô chính diệu. Cái lý này tương tự như việc giải phá Tuần Triệt, vì Tuần Triệt là một dạng Không vong, vô chính diệu cũng là một dạng Không vong, nên dụng đối cung để giải cung vô chính diệu là hợp lý. Mệnh Di vốn là một cặp không thể tách rời, cung Di đó không phải là xã hội khách quan mà chính là xã hội đối với ta. Tức là nếu hai người cùng sống trong môi trường giống nhau, họ có cung Di khác nhau thì sự tương tác của họ với xã hội cũng khác nhau. Mệnh và Di có thể ví như đòn cân và quả cân. Mệnh có chính tinh giống như cái cân có đòn dài, chỉ cần quả cân (tức cung Di) bé bé là đã đủ cân bằng mà dụng rồi. Mệnh vô chính diệu như cái cân có tay đòn quá ngắn, rất khó mà dụng được (nên khó có kết quả tốt). Vì thế phải dùng quả cân (cung Di) thật nặng mới có thể cân bằng được. Động cung Di để giải Mệnh vô chính tức là làm nặng quả cân lên, để cho cái cân đòn ngắn có thể kham được hàng tấn hàng tạ như cái cân đòn dài.

Việc dùng sự “động” này cũng lại có ngay trong sách vở kinh điển. Sách viết: Cung vô chính diệu “ tối ái Nhật Nguyệt sáng “, tại sao không là chính tinh nào khác mà chỉ là Nhật Nguyệt, chính vì Nhật Nguyệt là hai nguồn năng lượng động phát xạ liên tục, nên tại cung có Nhật Nguyệt sáng chả cần làm gì thì nó cũng đã động phát năng lượng ra xung quanh rồi. Và đó chính là điều mà vô chính diệu rất thích, như khoảng sân rộng chỉ cần đứng im ngửa mặt ngắm trăng sáng lan tràn khắp nơi, như căn phòng trống mở cửa sổ cho ánh mặt trời rọi vào. Vô chính diệu thích sự động liên tục ở tất cả các cung chiếu đến nhưng đối cung là quan trọng nhất vì đó là đối tác cân bằng, là quả cân đem đến cái Dụng tối thượng cho bản cung.

Dụng cung Di để giải Mệnh vô chính diệu tức là làm động cung Di lên, y như đối với Mệnh bị Tuần Triệt, ở đây không nhắc lại. Chỉ đưa ra một nghiệm lý cụ thể về một người quen Mệnh vcd, cung Di có Nhật sáng thêm cát tinh nhưng bị Triệt, theo sách thế là bị phá nặng rồi. Nhưng người đó đã vô tình hóa giải theo cách cực kỳ hợp lý. Đó là thứ nhất dùng Mệnh để phá giải Triệt ở cung Di, tức là người đó phát huy nội lực, cố gắng học tập tốt, thi đỗ đại học dù cả nhà chả ai tin có thể đỗ. Cung Mệnh lục hại Phụ mẫu, đi học đại học xa bố mẹ là tự đóng Tuần Triệt lên Mệnh rồi, thêm một cái lợi. Sau khi tốt nghiệp được giữ lại làm giảng viên, tiếp theo được cử đi học tiến sỹ ở nước ngoài với học bổng toàn phần. Như vậy người này thứ nhất dùng Mệnh, dù là vô chính diệu, nỗ lực âm thầm động Mệnh lên hết sức có thể để giải Triệt ở Thiên Di, sau đó khi cung Di mở ra thì nó tác động trở lại, Nhật sáng chiếu Mệnh vô chính diệu, kết quả có thể coi là mỹ mãn…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải mệnh vô chính diệu –

Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Hãy để cuộc sống xuân Bính Thân nhẹ nhàng hơn với những ý niệm thật đơn giản.
Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hãy để cuộc sống xuân Bính Thân nhẹ nhàng hơn với những ý niệm thật đơn giản.


Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 2
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 3
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 4
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 5
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 6
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 7
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 8
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 9
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 10
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 11
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 12
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 14
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 14
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 15
 
► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com

Kiếm Phong
Xem Clip Khánh Tuế đầu xuân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Xá lợi: Sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh

Bất chấp nhiều giả thuyết, xá lợi vẫn là ẩn số đối với khoa học và đã thể hiện phần nào những sự màu nhiệm của người tu luyện và sự thần kì của Phật Pháp.
Xá lợi: Sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự kì bí của phật giáo vẫn luôn là câu hỏi mà các nhà khoa học hiện đại chưa thể khám phá ra, một trong những bí ẩn đó là sự tồn tại của hạt xá lợi.

Xá lợi là những phần kết tinh còn lại sau khi làm lễ hỏa thiêu nhục cốt của Đức Phật và các vị cao tăng. Xá lợi hay xá lị là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy, mà khoa học hiện đại chưa giải thích thuyết phục được nguyên lí hình thành của các hạt này. Đây là các bảo vật của thế giới Phật giáo.

Trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã mang xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lợi, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.

Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:

Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp Sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt xá lợi.

Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn – Ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lợi.

Lại có một số trường hợp, xá lợi chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.

Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lợi to nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lợi lớn, màu nâu thẫm.

Những câu chuyện ly kì ở Việt Nam

“Trái tim bất diệt” của Bồ tát Quảng Đức

Trong thời kỳ tranh đấu bảo vệ Phật Giáo tại Việt Nam vào năm 1963, Hòa Thượng Thích Quảng Đức phát nguyện hy sinh nhục thân, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo, thức tỉnh nhà cầm quyền. Những ai được chứng kiến cảnh tượng bi tráng độc nhất vô nhị này, đều biết khi Bồ Tát Thích Quang Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng (nay là ngã tư đường Nguyễn Đình Chiểu) toàn thân ngài không tỏ vẻ đau đớn gì mà ngài vẫn điềm nhiên trong tư thế ngồi Thiền, sau khi thân xác ngài đã cháy rụi hết, duy chỉ còn quả tim là không cháy, người ta lấy quả tim đó đem vô lò thiêu lại, dưới sức nóng ..4000oC, cái lò thiêu muốn nứt nẻ ra, vậy mà trái tim của Bồ Tát Thích Quảng Đức vẫn còn.

Giới báo chí trong nước và nước ngoài có mặt lúc đó thi nhau chụp hình. Sự kiện này làm chấn động đất Sài Gòn một thời nói riêng và toàn Thế Giới nói chung, điều này làm cho mọi người càng thêm tin tưởng vào sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh

Xá lợi toàn thân hai Thiền sư

Ngôi chùa Đậu nổi tiếng linh thiêng bởi hai pho tượng táng của Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường cùng tu tại chùa này thế kỷ XVII, sau khi tịch, xác thân vẫn còn nguyên vẹn.

xá lợi
Đó là những kỳ tích bí ẩn của tài năng, trí tuệ khoa học, huyền diệu của các Thiền sư

Điều bí ẩn, và khác biệt của hai pho tượng nhục thân thờ ở chùa Đậu so với các Phraon và nhiều nước trên thế giới là phương pháp tu luyện kỳ bí của Thiền sư để có được một di thể bền vững, khi chết không bị phân hủy, mà không cần đến bất cứ loại thuốc tẩm ướp xác nào.

Những giả thuyết giải thích sự hình thành của xá lợi

Hình thành từ thói quen ăn uống đồ chay: Các nhà sư do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lợi. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục vì có nhiều người cũng người ăn chay trên thế giới nhưng hỏa táng lại không có.

Hình thành do bệnh lý: Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lợi là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật… Tuy vậy giả thiết này cũng không thuyết phục vì sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên không hề phát hiện xá lợi. Mặt khác, những cao tăng có xá lợi sinh thời thường rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao.

Theo quan điểm duy tâm và tâm linh của Nhà Phật thì cho rằng xá lợi là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xá lợi: Sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Mệnh Thổ hợp màu gì? –

Màu sắc thực sự rất quan trọng, thế nên khi bạn muốn lựa chọn những đồ vật lớn hoặc đơn giản đó là những trang phục, màu vỏ điện thoại, sơn móng tay…thì bạn cũng nên lựa chọn những màu sắc đúng với quy luật tương sinh tương khắc trong ngũ hành. Tuy n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hiên liệu bạn đã biết mệnh Thổ hợp màu gì chưa, sau đây hãy cùng tôi tham khảo giúp cho bạn sẽ đạt được nhiều thuận lợi trong cuộc sống của mình.

Mệnh Thổ gồm các tuổi

Trước khi muốn biết người mệnh Thổ hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Thổ sinh vào năm nào ?

  • Mậu Dần – 1938, 1998
  • Tân Sửu – 1961,2021
  • Canh Ngọ – 1990, 1930
  • Kỷ Mão – 1939, 1999
  • Mậu Thân – 1968, 2028
  • Tân Mùi – 1991, 1931
  • Bính Tuất – 1946, 2006
  • Kỷ Dậu – 1969, 2029
  • Đinh Hợi – 1947, 2007
  • Bính Thìn – 1976, 2036
  • Canh Tý – 1960, 2020
  • Đinh Tỵ – 1977, 2037

Quy luật Âm dương – Ngũ hành

Theo Ngũ hành mạng gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất), giữa các “hành” luôn có sự hỗ trợ hay kìm hãm lẫn nhau tạo quan hệ tương quan hay tương khắc.

Mỗi “hành” đều mang một màu sắc đặc trưng như: Kim-màu trắng, Mộc-màu xanh, Hỏa-màu đỏ…
Mỗi hành vừa thể hiện về tính chất, sự vận động biến đổi, vừa thể hiện vị trí trong không gian. Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào đó trong tự nhiên hay trong xã hội đều có thể quy về một hành nhất định và cũng đều chứa đựng yếu tố âm dương.

Theo nguyên lý ngũ hành thì môi trường gồm 5 yếu tố chính đó là Kim (Kim loại), Mộc (Cây cối), Thủy (Nước), Hỏa (Lửa), Thổ (Đất). Với mối quan hệ tương sinh các hành với nhau làm giúp cho hành kia được hình thành phát triển đó là Mộc sinh Hỏa (Cây cháy thì sinh ra lửa), Hỏa sinh Thổ (Lửa đốt cháy mọi vật thành tro và sau chuyển hóa thành đất – Màu đỏ). Thổ sinh Kim (Tức là kim loại hình thành từ trong lòng đất) – Màu vàng. Kim sinh Thủy (Tức là kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) – Màu trắng. Thủy sinh Mộc (Nước dùng để nuôi cây) – Màu xanh dương, màu xanh da trời.

Mối quan hệ tương khắc trong ngũ hành đó là Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Tức là nước thì có thể dập tắt được lửa, lửa có thể làm chảy kim loại, kim loại thì lại cắt được cây, cây thì hút chất màu của đất, đất thấm nước ngăn không cho nước chảy.

Người mệnh Thổ hợp với màu gì?

hiên liệu bạn đã biết mệnh Thổ hợp màu gì chưa, sau đây hãy cùng tôi tham khảo giúp cho bạn sẽ đạt được nhiều thuận lợi trong cuộc sống của mình.

  • Màu sắc tương sinh – màu tốt nhất bao gồm: Màu đỏ, hồng, tím (tượng trưng cho mệnh Hỏa).
  • Màu được hòa hợp: Màu nâu đất, vàng sậm (tượng trưng cho Thổ).
  • Màu khắc chế được: Màu đen, xanh nước biển (tượng trưng cho Thủy).

Đặc biệt bạn cũng cần phải chú ý tới màu kỵ nhất là màu xanh lá cây vì đó là màu của mệnh Mộc. Cây sống trên đất sẽ hút hết màu mỡ của đất và khiến cho đất trở nên suy kiệt. Vậy nên nếu bạn chọn màu này sẽ khiến cho sức khỏe bị suy yếu và khó khăn về vấn đề tài chính. Những người thuộc mệnh Thổ dùng màu của mệnh Mộc làm cho cuộc sống trở nên khó khăn hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Thổ hợp màu gì? –

Nữ Sư Tử nam Song Tử - cặp đôi "làm giàu không khó"

Nữ Sư Tử nam Song Tử có những phẩm chất để trở thành cặp đôi hòa hợp, ăn nên làm ra.
Nữ Sư Tử nam Song Tử - cặp đôi "làm giàu không khó"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nu Su Tu nam Song Tu - cap doi lam giau khong kho hinh anh
 
Sự thoải mái, ấm áp, ổn định và hưng thịnh chính là điểm sáng trong mối quan hệ của nữ Sư Tử nam Song Tử. Cho dù là kinh doanh hay làm công sở thì cặp đôi này cũng hỗ trợ rất tốt cho nhau, nhanh chóng thăng tiến và trở nên giàu có.
 
Lửa và Không Khí, hai nguyên tố nuôi dưỡng hai chòm sao này hỗ trợ ăn ý và tương sinh với nhau, giúp nhau tỏa sáng, bùng cháy ngọn lửa đam mê và kích thích nhau trong sự nghiệp.
 
Cô gái Sư Tử có sự mạnh mẽ, quyết liệt và tham vọng đủ để bắt mình trở nên nổi bật, thành công trong công việc. Chàng trai Song Tử khéo léo, bản lĩnh, hoạt ngôn đủ để mong có bước tiến xa trong sự nghiệp. Hơn nữa, cả hai đối với việc phát triển năng lực và được công nhận đều rất có hứng thú. Nên chẳng có gì trở ngại khi cả hai yêu nhau.
 
Họ sẵn sàng hỗ trợ nhau trong các bước tiến quan trọng, nâng đỡ nhau cả về tinh thần và vật chất, trí tuệ. Thậm chí đối phương còn là động lực, nguồn cảm hứng để người còn lại trở nên mạnh mẽ hơn, có ý chí hơn. Không ai muốn thua kém và thụt lùi cả.
 
Một người đàn ông Song Tử có bản chất linh hoạt, nhanh nhạy nên tài sản lớn của anh ta là những mối quan hệ rộng lớn. Đây thực sự là điều rất quý giá trong phát triển công việc kinh doanh. Cộng với sự sắc sảo, thông minh và nhiệt huyết của nàng Sư Tử, cặp đôi nữ Sư Tử nam Song Tử này làm nên chuyện là điều không quá bất ngờ.
 
Song Tử bù trừ cho sự bốc đồng và phô trương thái quá của Sư Tử, Sư Tử bổ sung khuyết thiếu về tinh thần mạo hiểm cho Song Tử. Nếu đến với nhau thì cặp đôi vàng này sẽ nhanh chóng phát tài, gây dựng được sự nghiệp riêng trong khoảng thời gian nhanh.
 
Tuy nhiên, một điều cực kì quan trọng là hai bạn nên dành thời gian cho những hoạt động tình cảm khác. Đừng quên rằng mình đang yêu nhau và rất cần những giây phút buông bỏ sự toan tính, bon chen hay tham vọng.
 
Một buổi dã ngoại cuối tuần, một chuyến du lịch xa nhà hay đơn giản chỉ là cùng nhau trổ tài bếp núc, dọn dẹp nhà cửa sẽ hâm nóng tình cảm của nữ Sư Tử nam Song Tử rất nhiều. Gạt công việc qua một bên và chỉ nói tới việc yêu nhau thôi nhé.
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Tâm Lan (Theo Horoscopecompatibility)

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nữ Sư Tử nam Song Tử - cặp đôi "làm giàu không khó"

Phát tài khi mơ thấy tiệc hội

Bữa tiệc phong phú tượng trưng cho sự giàu có, an khang. Mơ thấy tiệc hội là sắp phát tài rồi đấy.
Phát tài khi mơ thấy tiệc hội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Bữa tiệc phong phú tượng trưng cho sự giàu có, an khang.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Phat tai khi du tiec trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

 
Nếu bạn mơ thấy 1 bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, cho thấy cuộc sống hiện tại của bạn khá tốt. Ngoài ra, giấc mơ này còn dự báo, khả năng giao tiếp của bạn ngày càng được nâng cao.   Mơ thấy bữa tiệc long trọng báo hiệu gia đình bạn luôn hạnh phúc, hòa thuận, giàu có, phát đạt.   Trong giấc mơ là cảnh lễ hội hóa trang hoành tráng hay vũ trường rực rỡ ánh đèn, ngụ ý bạn sẽ gặp được vận may bất ngờ. Hoặc bạn đang cố tạo ấn tượng trong mắt người khác.   Mơ thấy mình đi dự hội họp vào ban ngày là điềm báo, bạn sắp có thành công trong sự nghiệp.   Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy đi dự hội hè vào ban đêm là điềm ám chỉ, bạn sắp vướng phải chuyện thị phi, tai tiếng.   Mơ thấy dự hội hè linh đình, vui vẻ là có chuyện buồn bực hoặc bạn sẽ bị hao tiền tốn của.  Nằm mơ thấy khung cảnh bữa tiệc thịnh soạn, cho thấy người nằm mơ gia đình hòa thuận sung túc, mỗi ngày trôi qua trong hạnh phúc.   Nằm mơ thấy đồ dùng trong bữa tiệc và thức ăn bày bừa khắp nơi, ngầm báo hiệu trong nhà người nằm mơ sẽ phát sinh mâu thuẫn tranh chấp.   Nằm mơ thấy tham dự bữa tiệc do người khác tổ chức, ngầm cho biết người nằm mơ sẽ nhanh chóng có vận may tới.  
Theo Giấc mơ & vận mệnh con người trong cuộc sống  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phát tài khi mơ thấy tiệc hội

Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Phong thủy chính thống là một bộ môn khoa học như các ngành khoa học khác và thực hành phong thủy không phải là việc mê tín, hay mang hình thức thờ cúng.
Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với việc khẳng định Phong thủy chính thống là một môn khoa học, người viết bài này nêu quan điểm rằng Phong thủy chính thống không liên quan gì đến mê tín, thờ cúng hay tôn giáo. Mỗi người đều có niềm tin riêng cho bản thân mình.
Tác giả cũng cho rằng Phong thủy chính thống vẫn không thể tách rời khỏi yếu tố văn hóa hay niềm tin của mình. Việc sử dụng Phong thủy chính thống đơn thuần chỉ mang lại lợi ích cho bản thân, giúp đỡ bản thân, và tận dụng những luồng khí tốt có sẵn trong tự nhiên. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tâm linh và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Phong thủy không phải là “mê tín dị đoan”

Trong một thời gian dài, Phong thủy bị xem là mê tín dị đoan, là “tà giáo”, là lừa bịp,... Ngày nay, suy nghĩ của người phương Đông và phương Tây đã thay đổi theo hướng tích cực hơn nhưng còn rất nhiều người vẫn chưa công nhận Phong thủy là một bộ môn khoa học.
Vậy thực chất Phong thủy là cái gì? Đó là một môn khoa học ứng dụng, hay chỉ là một sự giả tạo, hay chỉ đơn giản là niềm tin?
Từ “Khoa học” có nguồn gốc từ tiếng Latin “scientia” có nghĩa là “kiến thức”. Theo Wikipedia, khoa học đơn giản là “bất kỳ một lĩnh nào cung cấp kiến thức một cách có hệ thống”. Vậy, Phong thủy cổ điển có đáp ứng được những gì được đề cập trong định nghĩa này hay không?
Bây giờ tôi sẽ cùng các bạn thử xem xét quy trình, chu trình những nhà khoa học đưa ra những kết luận mang tính khoa học như thế nào? Họ làm các thí nghiệm, quan sát kết quả, làm lại thí nghiệm, nếu cần thiết để đảm bảo kết quả là giống nhau giữa các lần thí nghiệm, sau đó họ ghi chép lại quá trình thí nghiệm và kết quả đạt được. Bạn có thấy rằng, trong bất kỳ một ngành khoa học nào, thành tố quan trọng nhất cũng là sự quan sát, thực nghiệm,…
Phong thủy được hình thành như thế nào?

Trước tiên, việc Phong thủy cổ điển là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống, nghĩa là có những hình mẫu cơ bản, nguyên tắc cơ bản như Ngũ hành, Âm dương, Hà đồ (Tiên thiên bát quái), Lạc thư (Hậu thiên bát quái),.... Các kiểu mẫu này ngoài Phong thủy còn được ứng dụng vào rất nhiều bộ môn siêu hình khác. Có những bằng chứng thực nghiệm, quan trọng hơn hết là đã được ghi chép từ trước đến nay mà không phải là những mẫu chuyện được thêu dệt nên. Bằng chứng là những tài liệu ghi chép từ thời nhà Đường, như các trước tác của Dương Quân Tùng (Dương Công) như Thanh Nang Áo Ngữ; Thiên Ngọc Kinh; Ngọc Xích Kinh; Táng Thư,.. khẩu truyền các bí quyết Tầm long - Điểm huyệt - Lập hướng, Thu sơn xuất sát, Tiêu sa nạp thuỷ, Điên điên đảo, Việt Nam có Địa lý Tả Ao,…và những kinh nghiệm cổ điển được phác thảo trong những tài liệu cổ điển khác. Trong Phong thủy cổ điển, không chỉ lưu truyền các thế đất, các nguyên lý về khí, mà còn có các bản vẽ của núi non và nước. Những khái niệm từ xưa về Phong thủy vẫn không hề thay đổi cho đến ngày nay và cả trong tương lai. Mỗi khái niệm luôn đi kèm với những lý giải hợp logic.
Phong thủy là một bộ môn khoa học siêu hình có phương pháp rõ ràng dựa trên nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, và việc sử dụng phương hướng để tác động lên các khí có trong tự nhiên. Trong Phong thủy chỉ có môi trường, không có Phật hay Chúa hay Thần thánh. Nếu quan sát các bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những bộ môn từ Y thuật, Võ thuật, Kinh dịch, Thuật số,… Những bộ môn này đều dựa trên lý thuyết Âm dương và Ngũ hành, trong những tài liệu viết cổ từ thời nhà Đường đến nhà Minh, không chứa đựng bất kỳ một yếu tố nào có liên quan đến tôn giáo, hay có bất kỳ một đề cập nào liên quan đến việc bạn phải phó mặc số phận của bạn vào một vật thể hay hình tượng nào đó, và càng không yêu cầu người làm Phong thủy phải thờ cúng bất kỳ cái gì, cũng như dùng gương bát quái để hóa giải sát khí. Việc nhìn nhận Phong thủy là sự mâu thuẫn với niềm tin tôn giáo của một người hay là sự chấp nhận niềm tin tôn giáo trước khi ứng dụng về cơ bản rõ ràng đã không đúng.
Trong việc ứng dụng Phong thủy cổ điển, việc sử dụng những phương pháp hóa giải là việc tuân theo, và nếu có diễn ra thì đều có liên quan đến 5 nguyên tố của ngũ hành:  Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Thực hành Phong thủy từ xưa đã không cần đến việc đặt những vật dụng vào nhà, hay chọn màu hợp phong thủy để sơn nhà, và tất nhiên là không cần thiết phải nhét vào góc nhà những vật dụng mang tính chất linh thiêng. Phương pháp hóa giải hay điều chỉnh hiệu quả nhất cho một người đó là sử dụng Khí tự nhiên thông qua việc nương theo, thay đổi dòng khí hay tận dụng những vị trí chiến lược để đón nhận được dòng khí tốt.
Phong thủy không liên quan đến thờ cúng

Thêm nữa, Phong thủy là việc sử dụng không gian và thế đất bằng cách tận dụng những gì tự nhiên và những gì sẵn có trong môi trường của con người, tận dụng những điều sẵn có, những nguồn năng lượng đang tồn tại trong môi trường tự nhiên. Phong thủy còn chú trọng đến nhân tố Thời gian, Con người, Phương hướng, và Địa điểm của đất, nhà, hay tài sản của người sử dụng. Và những bộ môn khi thực hành không chú trọng đến tất cả những yếu tố trên hay ngược lại, chú trọng đến những tục lệ thờ cúng, kính bái đều không phải là Phong thủy cổ đại.
Tuy nhiên, không phải sự quan sát nào cũng được củng cố trở thành một nguyên lý Phong thủy sau này. Một vài trong số đó đóng vai trò như một phép thử để đưa ra những kết luận chính xác hơn. Cho đến đầu những năm 1900, Phong thủy chỉ được sử dụng cho hoàng gia. Vì vậy, các nghiên cứu thường kéo dài liên tục qua nhiều đời. Chính việc này đã cho phép các nhà phong thủy quan sát một cách tỉ mỉ và liên tục những thực nghiệm và đưa ra kết luận giúp phát triển bộ môn khoa học này. Các sách và học thuyết Phong thủy hiện đại chỉ điều chỉnh lại dựa trên những gì còn lưu truyền lại cho phù hợp với thế giới hiện đại. Và sự nghiên cứu kế thừa, sự phát triển không ngừng của Phong thủy hiện đại dựa trên nền tảng Phong thủy cổ điển không khác gì so với những môn khoa học khác. Nếu chỉ nhìn nhận khoa học là Vật lý, là hóa học, là địa lý hay một bộ môn nào đó nói riêng, thì đó mới chỉ là cách nhìn hạn hẹp về khoa học. Khoa học chứa đựng trong nó ngành khoa học xã hội như Nhân loại học, Xã hội học; ngành khoa học trắc địa như Địa lý; Môi trường học và các ngành khoa học ứng dụng như cơ khí, khoa học máy tính, công nghệ và tâm lý,…
Ngày nay, những bộ môn siêu hình được xem là lập dị, huyền bí. Nhưng không chỉ Phong thủy có tính chất siêu hình mà những bộ môn đáng tôn kính của văn hóa phương Tây đều có tính siêu hình. Aristotle là một trong những nhà tư tưởng siêu hình nổi tiểng, ngoài ra còn có thể kể đến Rene Descartes và Allbert Einstein. Người Trung Hoa, kể cả các nhà khoa học với tư tưởng triết học, xem Phong thủy và 05 bộ môn nghệ thuật của Trung Quốc là những bộ môn siêu hình. Bát tự, Phong thủy, Nhân tướng, Kỳ môn độn giáp vì tất cả những bộ môn này đều xuất phát từ nhu cầu xa xưa của người Trung Quốc muốn tìm hiểu về số phận, vũ trụ, nhân dạng, chiến thuật quân sự và hầu hết những nhu cầu này đều có tính chất siêu hình và triết học.
Nhiều người vẫn còn hoài nghi và cho rằng “Khí” không tồn tại hoặc không thể đo lường được các “Khí” trong Phong thủy, nên không thể xem bộ môn này là khoa học. Đây cũng là một quan niệm không đúng! Vậy chúng ta hiểu việc mà trước khi Micheal Faraday giải thích sự liên quan giữa điện và từ trường. Điện và từ trường vào thời điểm trước đó cũng không thể đo lường một cách định lượng được. Điều này không có nghĩa là từ trường và điện không tồn tại trước đó. Giống như vậy, kính hiển vi điện tử đã giúp khai phá ngành vi trùng, vi rút học, điều đó không có nghĩa là trước khi kính hiển vi xuất hiện không có vi trùng và vi rút. Nếu các bạn vẫn cho rằng “Khí” không tồn tại, vậy các bạn giải thích thế nào cho các hiện tượng sau đây: Tại sao trái cây, hoa quả, cây xanh, cây hoa trồng những nơi khác nhau có sự khác nhau?; Hoặc tại sao trái cây, hoa quả trồng trái mùa vụ, trái vùng địa lý sẽ có hương vị khác nhau? Thêm nữa, sữa, thực phẩm chức năng được tổng hợp rất đầy đủ vitamin, khoáng chất,..nhưng vẫn không thể thay thế được sữa mẹ, thực phẩm trồng trọt tự nhiên, và trong dân gian thường nói: “ Địa linh nhân kiệt” cũng mang hàm ý đất tốt, phong thủy tốt sẽ có người tốt, người tài.
Từ đó có thể kết luận rằng khi phát sinh nhu cầu tìm hiểu thì tất cả mọi thứ trên thế giới này đều có thể được đo lường được bằng cách này hay cách khác, công cụ này hay công cụ khác. Vì vậy, “Khí” trong Phong thủy cũng có thể đo lường được. Vấn đề còn lại là dùng dụng cụ hay thiết bị gì để thực hiện công việc này. Người Trung Hoa đã có dụng cụ để đo lường khí trong Phong thủy đó là hệ thống Lịch (âm dương), La bàn (La kinh), và kỹ năng quan sát.

Ngày nay chúng ta có thể sử dụng công cụ hỗ trợ trong việc tìm kiếm địa điểm tiên tiến hơn như Google Earth hoặc Google Map hoặc sử dụng la bàn điện tử, và công thức tính theo phương pháp phi tinh (phương pháp tính quỹ đạo khí) cũng có thể được tính toán tự động bằng các thiết bị điện tử, lập trình bằng máy tính nếu bạn muốn. Tôi thấu hiểu và cảm thông khi nhiều người vẫn còn hoài nghi bộ môn phong thủy, vì nó có nguồn gốc quá lâu đời, tư liệu gốc thất lạc nhiều, đồng thời trong quá trình truyền bá, thực hành đã bị huyễn hoặc, thần thánh hóa, do sự không đồng nhất trong truyền đạt lý thuyết (chân và ngụy) chân truyền hay không chân truyền, giấu bí kíp,… Màu sắc đó được dân gian truyền miệng nhau: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

Phong thủy là khoa học và nghệ thuật

Phong thủy không chỉ là một môn khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Vì nghệ thuật trong khoa học chính là việc chọn phương pháp, kỹ thuật thích hợp để áp dụng trong một trường hợp cụ thể và những trường hợp nào không được áp dụng những kỹ thuật hay phương pháp trên.

Và cũng vì là khoa học nên Phong thủy có những quy tắc và công thức chung. Tuy nhiên, việc chọn quy tắc hay công thức nào là tùy vào sự quan sát, diễn giải, và đánh giá từng trường hợp cụ thể, đây chính là tính nghệ thuật trong Phong thủy, ví dụ như mỗi một nơi có tính chất môi trường khác nhau, thế núi, thế nước khác nhau sẽ sử dụng những quy tắc cụ thể khác nhau phù hợp với thế núi, thế nước và môi trường, đó chính là nghệ thuật. Tuy nhiên tất cả những quy tắc hay nghệ thuật đều xoay quanh nguyên lý âm dương và ngũ hành.

Ngày nay, nhiều người công nhận Phong thủy là một môn khoa học ứng dụng hơn là một môn khoa học đơn thuần. Tôi cũng hy vọng nó sẽ được mọi người công nhận là khoa học ứng dụng, để việc phổ cập, phổ biến rộng rãi những kiến thức chính thống nhiều hơn nữa trong giới học thuật và người thực hành giống như cách người phương Tây phổ biến tất cả học thuật để mọi người cùng học tập, hiểu biết thấu đáo, bởi việc xem đây mới là bí kíp, hay đây mới là chân truyền, thì nó sẽ tiếp tục lạc hậu so với các ngành khoa học khác. Chúng ta nên có kiến thức phong thủy, vì Phong thủy cũng có thể cung cấp cho người ứng dụng một công cụ mà qua đó có thể giúp họ cải thiện được chất lượng cuộc sống như sức khỏe, sự giàu có, và cả mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, bộ môn khoa học này có cơ sở để đảm bảo rằng nhà cửa, văn phòng, nơi làm việc, và môi trường sống nói chung sẽ làm thuận lợi cho những mục tiêu và nỗ lực của con người. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tôn giáo và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Chọn vị trí cửa hàng –

Cho dù cách nói “nhất phổ dưỡng tam đại" (một cửa hàng mà nuôi ba đời) đã chứng minh đầy đủ không gian lợi nhuận của đầu tư cửa hàng thành công, nhưng đầu tư cửa hàng cũng rất dễ trở thành đầu tư phi lý tính và mù quáng. Sai lầm: Phổ vương (cửa hàng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cho dù cách nói “nhất phổ dưỡng tam đại” (một cửa hàng mà nuôi ba đời) đã chứng minh đầy đủ không gian lợi nhuận của đầu tư cửa hàng thành công, nhưng đầu tư cửa hàng cũng rất dễ trở thành đầu tư phi lý tính và mù quáng.

11200296-mua-hang-6
Sai lầm: Phổ vương (cửa hàng đẹp nhất) là gần cửa chính của chợ. Rất nhiều người cho rằng: Một nơi bán hàng gần kề với vị trí của cửa chính của chợ là tốt nhất. Người kinh doanh bán lẻ cũng có quan điểm như vậy, chính vì vậy việc định giá vị trí này cũng là đắt nhất. Nhưng trên thực tế, vị trí cửa chính có thể chỉ vượng đinh chứ không vượng tài. Bởi vì mỗi người tiêu dùng khi bước vào thị trường này, nhất định sẽ “dạo” một lúc mới mua hàng hoá, vị trí cửa hàng ở ngay lối đi vào gần nhất nhiều nhất chỉ là nơi hỏi giá cả, khách hàng đi qua mà thôi, phải sau khi xem xét vài cửa hàng mới mua. Khách hàng sẽ không trờ lại cửa hàng phía đầu cửa chính đó để mua hàng. Vị trí gần cửa chỉ để trưng bày hình ảnh các thương hiệu lớn, nhưng nếu muốn bán sản phẩm phải lựa chọn vị trí cửa hàng thứ 7, 8 ở gần lối đi là tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vị trí cửa hàng –

Quan mệnh cái nhìn

Một, quan mệnh đích trung tâm phải có quan, sát vàấn tinh. Quan sát chủ chức vụ, ấn chủ quyền bính.
Quan mệnh cái nhìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có vài loại tổ hợp: Quan sát xứng ấn, quan sát xứng thương quan, quan sát xứng kiếp nhận; ấn xứng tài tinh, ấn xứng thực thương, ấn xứng tỉ lộc. Lấy thượng vài loại loại hình có tố công nói một bực như nhau đều có quan chức, quan chức lớn nhỏ xem tố công như thế nào.

Nhị, quan mệnh đích quan sát và ấn tinh mặc kệ như thế nào tố công, cũng phải có gốc. Quan sát hư làm danh khí xem.

Tam, ấn tinh, quan sát, thương thực hoặc tài tinh tố công, trong đó phải có chủ vị đích chữ, khác vị trí tố công viện nói dễ dàng vốn là phát tài đích. Tố công tố bất hảo, cũng dễ dàng đi hướng lấy tài.

Bốn, quan mệnh tổ hợp trung, như xuất hiện thân, dậu hai chữ tố công, một bực như nhau vốn là kiểm sát, pháp sân, pháp luật có liên quan đích quan chức; như xuất hiện thân, dậu, sửu, dần chữ đích tổ hợp tố công, một bực như nhau cùng công an ngành đích quan.

Năm, xuất hiện dương nhận cùng thất sát tổ hợp, một bực như nhau chấp pháp ngành, thực quyền phái hoặc quân đội ngành đích quan; như xuất hiện thương quan cùng quan sát tổ hợp, một bực như nhau vi thực quyền ngành hoặc kỉ kiểm ngành. Thực thần hợp ấn( Bội ấn) vi tố có chứa tư tưởng văn hóa tính chất đích ngành sản xuất. Thương quan thực thần vượng người dễ làm cho văn hóa hoặc quan văn.

(Chú: Quan sát hư thấu, đại vận chứng thực thời, cũng dễ làm quan.)

Một, chế dụng tố công làm quan

Chế dụng tố công làm quan đích tình huống nhiều nhất, kể cả có:

1, quan sát xứng thương thực tổ hợp, thương thực chế quan sát hoặc quan sát chế thương thực tố công.

Càn: Bính giáp ất giáp

Thân ngọ mão thân  ( Ngọ mão phá, nhưng ất vi tử mộc, không sợ khắc phá? Thân thể ấn lý ứng không được tốt)

Người này ất mộc ngồi lộc hợp thời thượng chính quan, nguyên cục không có thất sát hỗn tạp, cho nên quan chức cao. Giáp mộc đổi lại tượng đến nguyệt ngồi ngọ hỏa thương quan( Giáp ất mộc đồng căn, như địa chi có một mộc, thiên can có giáp ất mộc, cũng vi đồng căn, có thể đổi lại tượng), thêm lộ ra niên thượng bính hỏa vây chế thân kim, vi thương quan chế quan, niên thượng thân kim bị thương quan chế khứ, thời thượng vốn là hợp quan để cho chế. Người này vốn là cao nhất nhân dân pháp sân phó viện trưởng( Mão chích hợp thời thượng thân, không hợp niên thượng thân, có gần trước hợp gần. Mão thân ám hợp, dương nhận giáp làm chính mình xem, thời can rời xa tại nguyệt thượng, ngọ bính chế niên thượng thân).

Càn: Mậu quý canh đinh

Tử hợi tuất sửu

( Bính)  giáp ất bính đinh mậu kỷ

 ( Tử)  tử sửu dần mão thìn tị

Sơn Tây tỉnh công an thính trường. Bát tự kim thủy có khí khứ hỏa thổ, tử hợi mặc dù vượng, nhưng cùng tuất không phát sinh tác dụng vi không làm công, bính mậu [một người/cái] tượng, cũng tòng tuất trung lộ ra, mậu hợp quý, mậu tử hợp, tuất làm quan khố tại ngồi xuống, thìn vận xung khai quan khố hội khởi thủy cục, canh thìn năm lên chức chức, nhâm ngọ năm lên chức vi thính trường. Nhâm ngọ năm đem tuất trung đích đinh hỏa dẫn ra tới.

( Chú: Kinh khóa sau khi nghị nghi, đoạn sư nói có khả năng vốn là đinh giờ sửu, nguyên nhân giờ sửu vi chế rồi tuất rồi, mà sửu tuất loại pháp luật chi tượng.)

( Vốn chế không được tuất, nhưng lộ ra bính mậu, mậu quý hợp chế rồi mậu, tẩu mậu thìn vận, thìn tuất một xung, chế rồi, thìn vận nhâm ngọ năm thăng quan. Thìn vận qua hết lại không được rồi.)

Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế chế rồi quan sát khố, sửu vi tỉ kiếp dương nhận khố! Báo giờ tý, nhưng giờ tý chế không sạch sẽ, sửu thì chế đích sạch sẽ! Thương quan quá nặng không vi quân đội, tòng kỉ ủy đi ra đích. Trước kia vốn là nông thôn giáo sư, có một quan viên lão gia tuyển thư ký, thần xui quỷ khiến tuyển thượng hắn! Trước kỉ ủy trông nom quan đích, sau khi tiến hành công an! Sửu vi công an, tẩu thìn vận lên chức!2000 năm canh thìn lên chức một bậc,02 năm nhâm ngọ tái lên chức một bậc( Chế rồi con mình), bính thú năm nên lui, công an thính trường!

Càn: Canh nhâm ất bính

Dần ngọ dậu tuất

quý giáp ất bính đinh mậu

mùi thân dậu thú hợi tử

Này tạo mộc hỏa có xu thế, dậu tuất mặc dậu kim, ngọ hỏa khắc dậu kim, chế sát ý, ất canh hợp, hợp quan vi được quan, nhâm ngọ tự hợp hợp khứ nhâm, dần ngọ tuất hợp hỏa cục khứ dậu kim vi thương quan khứ quan cách. Này tạo vi Sơn Tây tỉnh chính pháp ủy thư ký. Đinh hợi vận, đinh nhâm hợp đem ấn hợp ở, ấn vi quyền, dần hợi hợp, ngọ hợi ám hợp, cũng vi hợp ấn đích ý tứ.( Thính cấp cán bộ)

Càn: Nhâm đinh tân giáp

Ngọ mùi tị ngọ

mậu kỷ canh tân nhâm quý

thân dậu tuất hợi tý sửu

Này tạo vốn là sát chế thương quan, quan sát trọng mà thương quan nhẹ, bộ nhiều mà kẻ trộm ít, hỉ hành kẻ trộm vận. Hành tân hợi, nhâm tử hai mươi năm thủy vận, lên chức tới thính cấp. Sơn Tây thể ủy chủ nhiệm.

Càn: Mậu quý tân tân 

Tuất hợi mão mão 

giáp ất bính đinh mậu kỷ

 tý sửu dần mão thìn tị

Lớp học khảo hỏi: Làm quan đích hay là phát tài đích?

Mão tài hợp tuất quan sát khố, vốn là kéo, chế không tịnh. Cục trung không có quan, quan sát khố làm quan xem, mão tuất, mộc thổ kết cấu, làm cho phòng địa sản. Nguyên là thính cấp đích kiến trúc công ty giám đốc, quốc có đơn vị, sau lại quốc có đơn vị đích xí nghiệp cấp bậc cũng hàng rồi, hiện xí nghiệp sớm đã sửa chế rồi. Lục thân bất hảo,67 năm nhâm tuất năm kết hôn. Năm đó nhị muội tự sát. Cộng [hai người/cái] muội muội.

2, quan sát xứng kiếp nhận tổ hợp, quan sát chế kiếp nhận hoặc kiếp nhận chế quan sát tố công.

Càn: Giáp đinh giáp giáp

Thân mão thân tử

Hạ sư phụ đoạn. Giáp mộc nhật chủ ngồi thất sát, mão thân hợp, hợp rồi dương nhận, thất sát làm công chế rồi dương nhận. Thất sát chủ thông minh tài trí, thất sát hợp dương nhận vi công an hệ thống, thân kim tại ngồi xuống, vốn là trên lưng khoá thương ý. Dương nhận chủ thương, thân kim vi cái mông, tướng hợp cho nên vi mang thương đích. Lão bà con mình đều là tố công an đích, nguyên nhân thân kim vi lão bà chế dương nhận, thất sát vi nhân hợp mão nhận, cố tất cả đều là công an hệ thống đích. Này tạo [một người/cái] ca ca lưỡng tỷ lưỡng muội. Người này86 năm bính dần năm khứ thầy tướng số, muốn hỏi lão bà điều động công việc chuyện, hỏi có thể không điều thành. Dần thân đùng đùng động phu thê cung, thê nghĩ muốn điều động công việc, nhưng86 năm điều không được, được đinh mão năm có thể điều thành. Thân làm vợ, đinh mão năm mão thân hợp, có thể hợp trở về.

Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế chế dương nhận mão mộc! Dương nhận hợp sát, thêm thân vi công an, thất sát chủ quyền, có quyền lực! Dương nhận chủ thương, thân vi cái mông, mão thân kết hợp mang thương! Thân vi lão bà, thất sát vi nhân, viện tất cả đều là công an! Bính dần vọt thê cung, vốn là lão bà nghĩ muốn động! Nhưng không động đậy rồi, đinh mão năm năng động thành, mão thân hợp lại, ổn định rồi, điều thành!

Có [hai người/cái] bát tự cùng này tạo tương tự.

Càn: Mậu ất giáp đinh

Thân mão thân mão

Này tạo giáp mộc ngồi xuống thân kim ám hợp mão mộc, vi hợp sát, mặc dù dương nhận hợp sát, nhưng dương nhận thấu can, thời thượng đinh hỏa ngồi mão mộc vi thương quan tiết tú, thương quan chủ văn chương tại thời thượng, thời vi môn hộ, môn hộ vi thủ, vốn là vui đùa cây bút đích. Người này tốt nghiệp đại học, không mang theo thương, chính pháp ủy đích chỗ trường. Quyết: Thương quan tiết rồi dương nhận, chủ văn chủ bút, quan văn. Bởi vì dương nhận mão mộc không vong không vi cầm thương. Sau vận khí canh thân khẳng định mang thương. Dương nhận hư thấu gặp xung tỏ vẻ đổi lại công việc. Nhàn chú: Dương nhận hợp sát nhưng người nào chế không được người nào! Nhưng chỉ phải có công là tốt rồi, thất sát chủ quyền, vốn là một làm quan đích! Niên thượng dần mão không, không thì không mang theo thương. Thêm thương quan tại thời thượng vi văn chương, văn bút! Khác giáp thấy đinh vi tóc hi!( Dần thấy thời buổi sáng cũng ứng giống nhau) khẩu quyết: Thương quan tả rồi dương nhận chủ văn bút!

Càn tạo: Kỷ bính canh kỷ 

Hợi dần thìn mão 

ất giáp quý nhâm tân canh

sửu tử hợi thú dậu thân

Này tạo tố điện tử đích01 năm tư sản qua triệu, vốn là giơ sinh nam sinh nữ đích ví dụ! Nam thất sát bính vi nhân, đầu thai vi nữ nhi( Xem mão? Mặc?) ất dậu năm sinh nhân! Ất hợi bính tử lên tòa án, ất dậu năm cũng lên tòa án phá tài! Không có đào hoa( Mão) cũng nguyên nhân mặc! Thêm một càn tạo: Nhâm dần canh thú nhâm thìn quý mão nơi này mão vi thương quan ấn lý vốn là đào hoa, nhưng thìn mặc, cũng không vốn là lão bà cũng không phải tình nhân! Hôn không có vấn đề, không có đào hoa!

Càn: Bính tân giáp đinh 

Ngọ mão thân mão 

nhâm quý giáp ất bính đinh

thìn tị ngọ mùi thân dậu

Này tạo vốn là Tân Gia Pha một dầu mỏ công ty người phụ trách, không phải chấp pháp ngành, bởi vì thương quan quá nặng, tiết dương nhận( Sát chủ quyền, nhưng thấu rồi đinh hỏa tiết rồi dương nhận, mão ngọ thêm phá, hỏa rất vượng phá dương nhận, cố không phải chấp pháp đích ngành), thương quan chủ tự do không muốn chịu ước thúc. Hơn nữa mão mộc không vong. Giáp ngọ vận bất hảo, ất mùi vận hảo, bính thân vận tốt nhất, thân vận thật tốt quá, giáp thân năm công ty cho luồng phần, phát tài rồi. Hắn là công ty trong đích cao cấp chủ quản. Nhàn chú: Thất sát thân vốn là quyền, mão không rồi không mang theo thương, thấy đinh vi văn rồi, mão chế rồi thân có công, ngọ vận phá mão bất hảo! Mùi vận cấp mão tăng lực, hảo! Thân vận thân đến, lưỡng kẹp chế chế vô cùng làm tài xem, giáp thân năm phát đại tài!

Càn: Tân bính tân quý  

Mão thân mùi tị 

ất giáp quý nhâm tân canh kỷ mậu

 mùi ngọ tị thìn mão dần sửu tý

Lý Tông Nhân tạo. Này tạo mùi thổ tị hỏa vượng, mão mộc thêm sinh, mão thân hợp, mùi thổ hại thân, vốn là chế thân kim kiếp tài. Tị thân hợp vốn là quan hợp rồi kiếp tài. Nguyên cục biểu đạt đích ý tứ vốn là chế khứ thân kim, mão thân hợp đổi lại tượng, vốn là trông nom quân đội đích quan quân. Tị hỏa vốn là trông nom quân đội chi nghĩa( Kim chịu hỏa chế vi quân nhân, đặc biệt kim thủy vi thương quan, thất sát, kiếp tài thời càng rõ ràng), hành mậu tử vận mậu thân năm tử, không dám thấy mậu, thấy mậu vi dụng kim phản cục, đã chết. Nguyên nhân mậu thân ngay cả thể sinh thân, mậu hoàn lại sinh tân, thân tân quan hệ mật thiết, thân không thể đi, mà nguyên cục vi khứ thân ý, cố phản cục rồi. Khác quý thủy thực thần hư thấu sợ thông căn, tử vận thông căn ứng kì tới rồi.)

 Càn: Nhâm bính nhâm bính

Tử ngọ thìn ngọ

Nhâm thủy tự ngồi thất sát làm quan, thêm có vượng tài sinh thất sát, niên thượng nhâm tử thủy cũng nhập thìn khố( Nhiều mà mộ chi, dương nhận khố), dương nhận hợp sát( Sát chỉ huy tài), vốn là một làm quan đích, pháp sân kinh tế đình đình trường, nơi này sẽ không vốn là tham tài mà là trông nom tài đích. Dương nhận hợp sát là đực kiểm pháp đích quan.( Dương nhận khố, thất sát, quan thống tài [ba người/cái] tượng) nhàn chú: Thất sát chủ quyền, tự ngồi chính là chính mình đích, nhưng phải có công

Càn: Nhâm bính nhâm đinh

Tử ngọ thìn mùi

Người này tức không phải quan, cũng sẽ không phát tài. Tử nước trôi ngọ hỏa, thiên can đinh nhâm hợp, hợp tài. Tài vượng thân nhược mà không có tài, canh tuất vận, tuất thổ xung khai thìn khố, đem thìn xung phá hư, chính mình đích cây xung phá hủy, Hác tiên sinh đoạn: Hội nguyên nhân tham tài bỏ tù.

Nhàn chú: Này tạo cùng thượng tạo nên thời thìn bất đồng, lưỡng tạo đều là âm dương gạch chéo sắp hàng, nhưng tiền tạo năm tháng có xung, nhưng nhật thời không hợp, không phản! Này tạo nên bất đồng rồi! Năm tháng chi xung, nhật thời can hợp, mà mùi cũng nhập thìn mộ, cũng có hợp ý, mùi ngọ hoàn lại cách hợp, tiền tạo tử thủy nhập mộ là đang năm tháng một bên! Cho nên, này tạo nguyên cục nhân tiện phản rồi! Thấy thìn có lao ngục!

Nhâm bính nhâm kỷ

Tử ngọ thìn dậu

Làm cho kỹ thuật đích, nguyên nhân thìn dậu hợp, dậu ấn chủ kỹ thuật. Nhàn chú: Này tạo vốn là âm bao chế dương, trong ngoài kết cấu, không phản!

Nhâm bính nhâm nhâm

Tử ngọ thìn dần

Thầy thuốc.

Càn: Quý Đinh Đinh mậu

Tị tị tị thân

Anh quốc Thủ tướng Tony Blair tạo. Quý thủy thất sát ngồi tị hỏa bị hợp chế, mậu thổ thương quan thêm hợp rồi thất sát, chế sát vi được quyền. Chế thật là tốt, quyền đại. Tị thân hợp, chế khứ quan chi nguyên thần, mà chế thật là tốt, làm rồi đại quan. Thương quan tại môn hộ thượng, chủ biểu đạt năng lực, quan chủ pháp luật, cố làm qua luật sư. Nhâm tử vận giáp tý năm làm luật sư, quý hợi nhập hạ nghị sân, đinh sửu năm tháng tư cho dù Thủ tướng, tân tị năm liên nhiệm.

Càn: Ất mậu nhâm quý

Tị tử tử mão

Này tạo tất nhiên khu công an cục kỉ kiểm thư ký. Nhận thấu can hợp sát, ất tị mang tượng, phỏng chừng đến cùng rồi, không lên chức rồi. Mở cửa mặt khứ làm ra tiền rồi. Quý mùi vận tốt lắm, ất dậu năm nên mướn phòng ở, mão dậu xung thuê không ra khứ, hợi nguyệt( Lập đông sau khi ngày thứ hai) sâm rồi mướn hợp đồng.

3, ấn tinh xứng tài tinh tổ hợp, tài tinh chế ấn hoặc ấn chế tài tinh tố công.

Càn: Đinh kỷ quý đinh

Mùi dậu tị tị

Hình cảnh đội trưởng. Này tạo hỏa thổ thành khí thế chế rồi dậu kim ấn tinh, dậu in lại đeo quan mũ, kỷ dậu [một người/cái] tượng, ấn đại biểu quyền lực, người này làm quan. Mùi thổ thất sát chế dậu kim, thất sát tố công chủ công kiểm pháp. Dậu vi âm trung chi âm, vi phạm tội phần tử, chế dậu thì có bộ trảo phạm nhân chi tượng, dương chế âm vi thương tượng, hơn nữa tị hỏa lưỡng trọng, hỏa có thương tượng. Hành kỷ dậu vận tăng lên, tân tị năm thêm tăng lên.

Càn: Mậu nhâm ất kỷ

Thìn tuất mùi mão

quý giáp ất bính đinh mậu kỷ canh

hợi tử sửu dần mão thìn tị ngọ

Chu Dung Cơ tạo. Này tạo vốn là táo thổ khí thế chế khứ thìn trung thủy cùng thiên can thủy( Thìn tuất xung, mùi tuất hình nhâm tuất tự hợp), chế thật là tốt, thời thượng mão mộc vi lộc hợp tuất, hợp đến chính mình chủ vị, vốn là tài khố chế khứ ấn khố, ấn vi quyền lực, chế ấn được quyền, dụng tài chế đích, vốn là trông nom tài đích đại quan. Tẩu mậu thìn, kỷ tị vận hảo. Nhàn chú: Ất= mão, mão thú hợp; táo thổ khí thế chế khứ thìn trung thủy cùng thiên can thủy( Thìn tuất xung, mùi tuất hình nhâm tuất tự hợp), chế thật là tốt, vi lão tử con mình cùng nhau chế rồi, thêm cùng chủ vị liên lạc thượng rồi, vốn là một trông nom tài đích quan!

Kỷ quý Đinh Đinh (Viên Thế Khải)

Mùi dậu tị mùi

Mậu vận vì sao không bảo vệ quý, mà là vận may đây. Thìn vận bất hảo.

Mậu nhâm tân giáp

Tuất tuất hợi ngọ

Đinh mão vận đâu quan bãi chức, mậu vận dậu năm bị xử bắn. Này tạo cùng Chu sắc mặt cơ đồng dạng đích nguyên nhân, là bởi vì phản cục rồi.

 

4, ấn tinh xứng thương thực tổ hợp, ấn chế thương thực hoặc thương thực chế ấn tố công.

Nhất định phải tố công, nhất định phải chế rồi một phương khác.

Càn: Ất đinh giáp bính  

Mùi hợi ngọ tử 

bính ất giáp quý nhâm tân canh

tuất dậu thân mùi ngọ tị thìn

Mộ̣c hỏa có xu thế chế hợi thủy, đinh hợi tự hợp, ngọ hợi ám hợp, thương khứ ấn, khứ ấn được quyền, làm quan đích, nhưng chế đích không sạch sẽ, hợi mùi củng vốn là củng ấn phân quyền, khứ ấn kết cấu, tân tị năm xung ấn từ nhỏ địa phương đến lớn địa phương, tị hỏa thương quan xung hợi ấn, ấn động chủ công việc động. Tòng huyền ủy thư ký đến thị ủy thư ký( Huyền cấp thị, chức cấp không thay đổi), chính chỗ cấp cán bộ. Đây là sống mộc, chế thủy nói tỏ vẻ thân thể có chuyện( Thủy khô rồi, không dưỡng mộc rồi), không nhắc tới đâu quan( Sau tị vận khí). Nơi này lưu niên xung chủ động, không có vấn đề.

Nhàn chú: Giáp mộc sinh tại hợi nguyệt, niên thượng không thể tố cây, vi sống mộc! Mùi hợi củng, không phải chế hợi, vốn là ngọ vọt tử thủy, chế rồi tử thủy ứng! Giác đích nguyên cục có điểm phản cục? Năm tháng hợp, nhật thời xung, gạch chéo xuất hiện. Có thể mùi hợi chỉ là củng, không phải chế, mới có quan làm! Chế rồi hợi, mùi hay là có mộc cây!

Càn: Ất bính giáp giáp

Mùi tuất tử tuất

ất giáp quý nhâm tân canh kỷ

dậu thân mùi ngọ tị thìn mão

Cục trung hỏa cùng táo thổ có xu thế, mặc dù vốn là tài chế ấn, nhưng tài vốn là thực thần chi khố, thực thần vốn là hỏa, cùng văn hóa có liên quan. Nhưng mùi thêm vi dương nhận khố, cũng chấp pháp thêm có liên quan. Thực tế vốn là năm mới tại trường học làm giáo sư( Trường học hiệu trưởng), sau khi làm pháp sân viện trưởng. Lên chức ti pháp cục cục trưởng. Thính cấp cán bộ. Mùi, dương nhận khố, chủ võ. Bính tuất, thực thần( Khố), chủ văn. Tân tị vận chi tị vận, đoạn nhâm ngọ năm hoặc quý mùi năm điều động, thực tế vốn là này hai năm đích giao tiếp thời đề, vốn là bản địa đề bát. Nguyên lai tại mùi vận thời đáng người do Vũ Hán đến biển nam phương xa nhậm chức. Vì sao bây giờ vốn là bản địa đề, nguyên nhân tại tân tị đại vận, bị nguyệt lệnh tạp ở, rất tẩu không được. Thực tế lúc ấy nguyên chuẩn bị điều đến Bắc Kinh khứ đích, nguyên nhân mùi tại niên thượng chủ phương xa, ất dậu năm đoạn bính tuất năm nên điều đến pháp sân đích trường học làm hiệu trưởng, hắn tặng lại nói chuẩn bị nên lên chức phó tỉnh trường. Nguyên nhân tị chủ văn, tuất vốn là thương thực khố, cố đoạn đến trường học. Thực tế ất dậu năm Học viện viện trưởng đã tìm hắn nói chuyện, hy vọng hắn quá khứ làm hiệu trưởng. Phỏng chừng tị vận sẽ không lên chức rồi. Tử mùi hại, thê tinh hại thê cung, hôn nhân bất hảo, bát tự tài nhiều, phỏng chừng nhiều nữ nhân đi.

Càn: Tân kỷ giáp canh

Sửu hợi tử ngọ

mậu đinh bính ất giáp

tuất dậu thân mùi ngọ

Ất mùi vận quý mùi năm lên chức phó huyền trưởng. Chế sạch sẽ không sợ hợp.

Nhàn chú: Ấn chế rồi thực thương, giáp mộc vi sống mộc! Địa chi không gặp kim, mộc cây không xấu! Canh hư thấu, tân sửu quá xa không sợ! Ấn có công chủ vị vi quyền lực! Đại vận ất mùi cùng thời trụ thiên địa kết hợp hợp phan, sẽ không phát sinh tác dụng! Sát canh là xấu đồ vật, hợp rồi sát cũng chủ quyền! Quý mùi năm ấn lý vốn là công thần tử thủy hư rồi, bất hảo? Ngôn đoạn: Đại vận hợp ở muốn đi đích ngọ, mùi vi ứng kì, quý mùi năm đến chưa tới! Đoạn sư: Xung người gặp hợp hoặc chữ đến hai loại ứng kì! Nhâm ngọ năm đổi lại giới, định ra đến nhưng quý mùi năm đến vị! Ngọ năm vi ngọ tới rồi! Ta nghĩ đoạn nhâm ngọ năm rất có thuyết phục lực!02 năm đã tới mùi vận rồi!

 

Nhị, sinh dụng hóa dụng tố công làm quan

1, sinh dụng hóa dụng tố công có: Quan sát xứng ấn, ấn hóa quan sát đích tổ hợp.

Càn: Mậu giáp giáp giáp

Thân tử dần dần

ất bính đinh mậu kỷ canh tân

sửu dần mão thìn tị ngọ mùi

Này tạo giáp mộc nhật chủ có gốc, có ấn sinh thân. Niên thượng thất sát sinh ấn, ấn thêm sinh thân, đây là ấn hóa sát sinh thân đích kết cấu, vốn là làm quan đích. Hiện vi chính chỗ, hoàn lại lên chức.( Đem mậu thổ, thân kim toàn bộ chế rồi, quan cùng quan đích nguyên thần cũng không có rồi, đại quan.)

Thời thượng bính thực, tú khí, văn chương viết được hảo, cổ thể thi viết đích tốt lắm. Như thế nữ mệnh thì tú khí chủ xinh đẹp, nam mệnh tú khí chủ văn chương.

Đinh mão vận, mậu dần năm, bất hảo, lộc xung quan sát vốn là ngã mi ý, xung tài còn lại là được tài, này năm nhàn cư ở nhà, không có bất cứgì bổ nhiệm. Kỷ mão năm, hảo, có tượng, giáp kỷ hợp, thái tuế cùng ta thân hợp, mão thân hợp được quyền. Canh thìn năm, hảo. Tân tị năm, mặc dù hại lộc, nhưng hợp chế rồi thân, cũng có thể. Nhâm ngọ năm, xung ấn rồi, bất hảo, xung ấn chủ điều động. Quý mùi năm, mặc tử thủy ấn, thêm quý hư thấu rồi, không có quyền rồi, đỡ bần đi, năm để điều đến không có quyền đích địa phương rồi. Giáp thân năm, này năm sợ hãi, vốn giáp ngồi thân vốn là tốt lắm đích tổ hợp, nhưng nơi này cấp phá hủy, thay đổi không phải giáp ngồi ở cấp trên cũng hảo, nguyên bổn này năm công khai chiêu sính cán bộ, hắn ban đầu khảo thông qua, vốn đã nội định rồi, kết quả sau lại lần thứ hai cuộc thi lại bị người tễ đi xuống rồi. Thân hợp rồi tỉ kiếp rồi, biểu chính mình đích vị bị người khác chiếm.

Càn: Giáp mậu giáp giáp

Thân thìn dần tử

Nguyên là phó tỉnh trường, sau khi cho dù nhất bộ trường. Mậu thìn, nguyệt lệnh tài tinh, biểu vốn là chính phủ đích quan, không phải đảng đích quan. Tử thủy hóa rồi thân sát, hợp thành thủy cục sinh thân, phó tỉnh trường, lên tới quốc gia kế sinh ủy chủ nhiệm, chính bộ cấp.

Càn: Mậu mậu mậu giáp

Ngọ ngọ ngọ dần

( Tích Thiên Tủy) lệ, này tạo hỏa thổ một mạch, ngọ hỏa ấn tinh hóa sát sinh thân chủ quý, giáp dần thất sát bị vượng hỏa biến thành làm quan. Hóa sát làm quan. Hóa dụng không bằng chế dụng hiệu suất cao, cho nên cấp bậc không lớn.

Càn: Mậu mậu mậu giáp

Tuất ngọ ngọ dần

Bỏ tù chi tạo. Bát tự không có tài, lấy thương quan vi tài. Dần ngọ tuất nguyên nhân trung thần ngọ hỏa song hiện không thể thành cục, nếu như hợp cục thành công nhân tiện đem tân vị đích tài hợp đến chính mình chỗ, nơi này không thể thành cục, tựu thành rồi nguyên nhân tham tài mà ngồi lao đích tượng. Mậu ngọ nhiều mà cũng nhập tuất mộ, tuất trung tân thương thực vốn là tài, tất cả đích ngọ cũng đến đoạt tân, kết quả vào mộ, vì ba nghìn nguyên tiền, vốn là mấy trăm đích hóa đơn, hắn khai thành ba nghìn chi trả rồi, bởi vậy mà vào ngục ba năm. Hắn nguyên là đầu bếp, tân dậu vận, mặc tuất rồi, liên tục thay đổi mấy lần địa phương, đều là liên can khách sạn gục rồi. Tài không thể hại, mặc chủ cùng tài vô duyên.

Càn: Bính tân mậu đinh

Ngọ sửu dần tị

nhâm quý giáp ất bính đinh mậu

dần mão thìn tị ngọ mùi thân

Huyền ủy phó thư ký chủ quản chính pháp. Triệu vũ đoạn: Làm quan tại chính phủ, mậu dần năm phạm tiểu nhân. Ất tị vận tân tị năm ngoại phóng ra, làm huyền ủy phó thư ký, chủ quản chính pháp. Tị nguyệt định thân nguyệt thượng nhậm. Cùng tuổi chỗ dựa nên điều lên chức, lời tiên đoán ngoại phóng ra mười năm lên tới chính thính.2004 năm giáp thân lên chức. Lộc đến niên thượng( Bính), tị dần hại chính mình không thoải mái, dần vi tiểu nhân. Bính tân hợp, năm vi phương xa, bính ngọ vận mười năm bên ngoài lên chức chức, bị hại đi ra ngoài phải kính rồi. Dần sửu ám hợp, tân sửu vi chỗ dựa, tân sửu tại nguyệt lệnh làm đầu cấp lãnh đạo, dần sửu ám kết hợp chỗ dựa, sửu làm cho dần mộc dựa vào. Bính mậu một nhà, bính tân hợp, dần sửu hợp, chế rồi thương quan và thương quan khố. Năm nay bính tuất năm phỏng chừng nên lên chức.( Thất sát tố công, sửu chủ âm u, thời thượng thấy lộc, ấn chế thương, đại quan, bính tại niên thượng, năm chủ ngoại, bính tân hợp đến niên thượng, cố ngoại phóng ra. Dần tị một hại cũng chủ ngoại. Chỗ dựa cũng là niên thượng đích bính hỏa.) nhàn chú: Mậu sợ chính quan không sợ thất sát, bát tự lấy dương chế âm, vi chính pháp công an hệ thống! Tị vi lộc, mặc thân thể bất hảo! Thọ không dài, nhưng là đến muộn năm rồi. Dần vi tiểu nhân, tân sửu vi lão bà, thê cung một hại, hôn khó khăn hảo!

Càn: Bính tân mậu bính

Ngọ sửu dần thìn

bính ấn Thái Hư rồi, hóa không được, không làm quan!

Này tạo chỉ kém [một người/cái] thời thìn, nhưng là không có gì quan, tố công ty, lưu đệ tử chuyển vận. Khắc ở niên thượng, dần ngọ củng hỏa cục, bính tân hợp, nguyên nhân có thìn ẩm ướt thổ, cố sửu chế không sạch sẽ, hắn thực tế làm cho giáo dục chuyển vận, ra nước ngoài lưu học đích người đại lý, thương quan khố ra bên ngoài hợp, thương thực vi đệ tử.

2, ấn sinh lộc đích, lộc tại chủ vị, lộc đương quyền lực, làm quan lộc cách.

Khôn: Ất đinh ất kỷ

Mùi hợi sửu mão

mậu kỷ canh tân nhâm quý giáp

tý sửu dần mão thìn tị ngọ

Khứ quan cùng quan đích nguyên thần, thời thượng thấy lộc, từ hi thái hậu. Hác đoạn: Trông nom hoàng đế đích, loạn hoài bất loạn hướng, khắc phu khắc tử. Nguyên cục tam hợp thành lộc cục, chế khứ quan cùng quan đích nguyên thần, quan cũng lớn đến cực điểm, cho nên vốn là trông nom hoàng đế đích, mão vi triều cương, hội thành triều cương, lập đích rất chính, phụ nữ đích lộc vi thân thể, sẽ tới thời thượng chính là loạn hoài bất loạn hướng, phụ nữ không dám lộc đến lúc đó thượng. Hợi ấn chủ quyền, biểu quốc gia. Sửu vi lão công, đinh vi con gái. Cũng xem như lộc bán đào hoa đi. Ngọ vận phá lộc mà chết, chết vào1908 năm mậu thân năm.

Một khác khôn tạo:

Ất đinh ất kỷ

Mùi hợi mùi mão

mậu kỷ canh tân nhâm quý giáp

tý sửu dần mão thìn tị ngọ

Này tạo vốn là Hác tiên sinh đoạn đích một khác mệnh lệ, lão công rất có tiền, nhưng tìm tiểu tình nhân sinh rồi một hài tử con mình, không biết nên nhận thức cái kia làm cha. Kỳ thật này nữ đích lớn lên không phải rất đẹp, nguyên nhân lộc khắp nơi vốn là, mãn bàn đều lộc, ất mão vừa là đường cong hảo, vóc người đẹp mắt, gợi cảm, cho nên, một câu nam nhân không có không hơn thủ đích! Lộc ấn tướng tùy theo, hội hưởng thụ! Mùi vi lão công, đinh, mùi một nhà, đinh vi tiểu nam nhân, cũng là tiểu hài tử!

3, ấn mang quan mũ, cùng chủ vị phát sinh liên hệ, cũng là quan mệnh.

Càn: Nhâm kỷ nhâm giáp 

Dần dậu thân thìn 

canh tân nhâm quý giáp ất bính đinh

 tuất hợi tý sửu dần mão thìn tị

Này tạo chủ vị đích ấn khứ chế tân vị đích dần mộc, ấn vi quyền lực tại chủ vị, người này vốn là ngân hàng phó chỗ cấp cán bộ( Thương thực vi tài đích nguyên thần, thân vi kim, kim tan ra), bát tự trung ấn vi dụng đại biểu quyền lực thời, sợ đại vận đến phá hư ấn, phá hư ấn thì đâu quan bãi chức. Thực thần vi tài đích nguyên thần, thực thần vi ngân hàng chi tượng, hơn nữa hay là đại biểu kim tan ra đích thân kim, vi ngân hàng, kim tan ra. Ấn mang quan mạo, giáp kỷ hợp đi quan mũ vi đem quan mũ hái được, giáp thìn( Bính thìn?) vận giáp thân năm đâu quan, giáp kỷ hợp, quan mũ không có. Nhàn chú: Kỷ dậu vi ấn mang quan mạo, thìn dậu hợp, thân thìn củng, nơi này bất hảo chính là, giáp kỷ hợp, giáp thân năm đem quan mạo cấp hái được, đâu quan rồi! Tài mạo có thể trích, quan mạo không thể trích!

Một khác lệ giữa trưa mới nhìn đích bát tự :

Càn: Nhâm đinh đinh canh 

Dần mùi tị thú 

mậu kỷ canh tân nhâm quý

 thân dậu thú hợi tử sửu

Đinh nhâm hợp, nhâm dần vi ấn mang quan mạo, dần nhập mùi khố, tị nhập thú khố, dần tị hại! Đinh Đinh mùi ngay cả thể, canh thú vận, tị nhập thú khố, không mặc dần rồi, làm quan! Tân hợi vận, hợi vọt tị cũng giải rồi hại, còn đang làm quan! Này vận đoạn sư đoạn: Ngoại cảnh có rất bí mật chuyện, con mình tị làm công, chứng quyển phòng sản ..., tỉ kiếp làm công, một bên làm quan một bên việc buôn bán! Ứng có chính chỗ lấy thượng. Nhâm tử vận không lo quan rồi, mặc! Việc buôn bán!

Càn: Giáp giáp mậu quý

Ngọ tuất ngọ hợi

Này tạo mộc hỏa thành khí, ngọ hỏa mang kiếp tài đích ấn hợp hợi tài, mậu quý cũng hợp tài, chế khứ quan đích nguyên thần, ngọ hỏa phục ngâm đến niên thượng mang một sát mũ, hóa sát sinh thân, thất sát chủ quân đội, kiếp tài chủ quyền lực( Ngọ hỏa), người này vốn là quân khu bộ tư lệnh đích [một người/cái] phó bộ trưởng chính thính cấp cán bộ. Giáp mộc ngồi ngọ Hỏa Tuyệt mà, giáp mộc là phụ thân, ngọ hỏa thêm nhập tuất khố, chủ phụ chết sớm. Mão vận quý mùi năm nhị ca chết đi, mão ngọ tướng phá phá huynh đệ ngọ hỏa, canh thìn năm người này có hung tai, thìn xung phá hủy tuất khố, canh kim xung khắc rồi giáp mộc, giáp mộc vi đầu, đầu bất hảo.

Càn: Giáp bính mậu quý

Ngọ tử ngọ hợi

Cùng thượng tạo tương tự. Cùng thượng tạo tố công phương thức giống nhau, nhưng bính ngọ xung một tử, vi xung không tịnh cũng chế không xong( Kẹp xung). Mặc dù làm quan nhưng sẽ không rất lớn, quan đích nguyên thần khứ không tịnh, người này vốn là chính khoa cấp cán bộ.

Càn: Mậu canh canh đinh

Thân thân thân sửu

Tài chính quan viên, cấp bậc không lớn, khoa cấp.

Càn: Canh kỷ giáp kỷ

Tử mão thìn tị  

canh tử mang tượng, tử thìn hợp= thìn sinh rồi canh, qua sông rồi, muốn đem tử chuẩn bị trụ là tốt rồi!

Hác tiên sinh đoạn vốn là [một người/cái] phó huyền trưởng. Canh tử mang tượng, ấn mang quan mũ. Tử ấn cùng chủ vị thìn phát sinh củng cục, nói rõ cái này quan vị cùng chính mình phát sinh liên hệ rồi. Hành nhâm ngọ, quý mùi hại xung niên thượng ấn tinh, lên chức chức, quý mùi năm lên chức thường vụ phó huyền trưởng. Vì sao có thể mặc, thừa số tại tân vị, qua sông đoạn cầu nguyên lý. Trung thần tại tân vị, phó chức, giáp kỷ hợp, nhiều nữ nhân, đào hoa nhiều, không rời hôn.

Càn: Giáp quý tân kỷ

Ngọ dậu mão hợi

giáp ất bính đinh mậu kỷ canh tân

tuất hợi tý sửu dần mão thìn tị

Này tạo niên thượng sát tinh mang tài mũ, sát tại tân vị, nhưng kỷ ngọ tương thông, tới rồi chủ vị, bị chủ vị hợi thủy hợp chế, tố công. Cố vốn là một tài chính cục trưởng, hành sửu vận, hại ngã ngọ, cát, lên chức huyền tài chính cục trưởng, độc lãm quyền to. Đến dần vận thật lên chức phản hàng, không có thực quyền rồi. Cũng là qua sông đoạn cầu. Kỷ hợi tự hợp chế rồi kỷ, giáp ngọ mang tượng, thông đến chủ vị( Thời thượng kỷ), trông nom tài đích quan. Đinh sửu vận, vận may, hại ngã ngọ thăng quan. Mậu dần vận không tốt lắm, lên chức chức rồi, nhưng không có quyền rồi, mười năm phó chức, không có tái lên chức, do huyền tài chính cục cục trưởng điều đến khu tài chính cục phó cục trưởng. Kỷ vận bính tuất năm bất hảo, tân dậu ngay cả thể rồi( Kim thủy một nhà), hại lộc, tai nạn xe bỏ mình, thìn nguyệt tử.

Nhàn chú: Chủ vị đích mão tài sinh rồi tân vị đích ngọ sát, mặc dù không phải mão trực tiếp sinh đích, nhưng mão hợi bán hợp, kỷ= ngọ, thông qua giáp mộc sinh ngọ mang tượng đến thể hiện! Cũng cùng loại qua sông đoạn cầu! Sửu vận lên chức huyền tài chính cục trưởng, nguyên nhân sửu phá hủy ngọ, lên chức! Đến dần vận lên chức mà khu tài chính phó cục trưởng, nhưng thực quyền không có! Minh lên chức ám hàng! Nguyên nhân dần sinh rồi ngọ hỏa! Kỷ mão vận năm thứ nhất bính thú năm tai nạn xe đã chết! Kỷ vi kiêu thần, giáp kỷ kết hợp kiêu đoạt thực! Bính tân hợp mão thú hợp, dậu thú hại! Ngay cả thể đích chữ không thể phá hư, lưu niên cũng phản cục rồi! Đoạn sư đoạn: Lên chức không được!

Càn: Tân canh bính quý  

Sửu tý tuất tị  

kỷ mậu đinh bính ất

hợi tuất dậu thân mùi

Nguyên cục không có ấn, quan thấu tới rồi lộc thượng, vi xí nghiệp quản lý đích quan, xí nghiệp giám đốc người. Năm nay tiến ất mùi vận, hỏi bính tuất năm như thế nào?1, lên chức chức,2, tăng lương,3, điều động? Thực tế vi3 điều động. Hỏi bính thân vận,1, bình vận, khổ cực.2, vận may, tiền nhiều? Thực tế vi1 bình vận, khổ cực.

Ất mùi vận hảo, chủ yếu là
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan mệnh cái nhìn

Khai vận ngày Lục tà xâm chiếm cho 12 con giáp

Ngày 17/07/2016 là bắt đầu của ngày Sơ Phục, ngày Tam Phục Thiên chính thức bắt đầu. Trong ngày lục tà này, 12 con giáp nên chú ý những chiêu khai vận, nghi
Khai vận ngày Lục tà xâm chiếm cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày 17/07/2016 là bắt đầu của ngày Sơ Phục, ngày Tam Phục Thiên chính thức bắt đầu. Trong ngày này, 12 con giáp nên chú ý những chiêu khai vận, nghi kị, cát hung để vận trình được suôn sẻ, hanh thông.


Khai van ngay Luc ta xam chiem cho 12 con giap hinh anh
Ảnh minh họa
Tuổi Tý

Nên làm trong ngày lục tà: Cầu phúc, kết hôn, sửa nhà, nhập trạch, đóng giường, di chuyển, an táng.
 
Không nên: Đóng thuyền, đi thuyền, cất nóc, xây nhà, nhập liệm, thăng chức, xuất hành, cầu tài.
 
Hướng: Ngọ (Canh Ngọ)
 
Sát: Nam
 
Thực bổ: Cà rốt, thịt vịt   Người tuổi Sửu

Nên: Hiến tế, cầu phúc, sửa nhà, sửa bếp, cưới gả, khai trương, xuất hành, di chuyển, an táng, cầu tự, nhập trạch, cầu tài, giao dịch, đóng giường.   Không nên: Không có việc gì phải kiêng kị
 
Hướng: Mùi (Tân Mùi)
 
Sát: Đông
 
Thực bổ: Chanh, thịt chó   Tuổi Dần
 
Nên: Thăng chức, gặp khách quý, xuất hành, cầu tài, cưới gả, khai trương, nhập trạch, an táng, di chuyển, sửa nhà.
 
Không nên: Đi thuyền, hiến tế, cầu phúc, cầu tự, dâng hương trong ngày lục tà.   Hướng: Thân (Nhâm Thân)
 
Sát: Bắc
 
Thực bổ: Rau dền, canh gà   Tuổi Mão

Nên: Khai trương, nhập trạch, sửa nhà, di chuyển, đóng giường, sửa bếp, cầu tự, cưới gả, an táng, gặp khách quý.   Không: Hiến tế, cầu phúc, thăng quan, xuất hành, cầu tài
 
Hướng: Dậu (Quý Dậu)
 
Sát: Tây
 
Thực bổ: Khổ qua - quả mướp đắng, cá chạch

Khai van ngay Luc ta xam chiem cho 12 con giap hinh anh 3
Ảnh minh họa
  Tuổi Thìn
 
Nên: Gặp khách quý, hiến tế, cầu phúc, cưới gả, nhập trạch, an táng.   Không nên: Sửa nhà, động thổ, thăng chức, xuất hành, cầu tài, di chuyển, kiện tụng.
 
Hướng: Tuất (Giáp Tuất)
 
Sát: Nam
 
Thực bồ: Cà chua, ba ba   Tuổi Tị
 
Nên: Cầu phúc, cưới gả, nhập trạch, khai trương, di chuyển, an táng.
 
Không nên: Thăng chức, xuất hành, sửa nhà, ra quân, cầu tài.
 
Hướng: Hợi (Ất Hợi)
 
Sát: Đông   Thực bổ: Đậu xanh, hải sản   Tuổi Ngọ


Nên: Cầu tự, sửa nhà, sửa bếp, gặp khách quý, cưới gả, khai trương, nhập trạch, an táng.
 
Không nên: Hiến tế, cầu phúc, khai quang, thăng chức, xuất hành, cầu tài, đi thuyền.   Hướng: Tý (Bính Tý)
 
Sát: Bắc   Thực bổ: Dứa, trà hoa cúc   Tuổi Mùi
 
Nên: Cầu tự, cưới gả, nhập trạch, di chuyển, an táng.
 
Không nên: Hiến tế, cầu phúc, khai quang, thăng chức, xuất hành, cầu tài, đi thuyền, sửa nhà, ra quân.   Hướng: Sửu (Đinh Sửu)
 
Sát: Tây   Thực bổ: Rau cần, cá

Khai van ngay Luc ta xam chiem cho 12 con giap hinh anh 3
Ảnh minh họa
  Tuổi Thân
 
Nên: Cầu phúc, cưới gả, nhập trạch, đóng giường, di chuyển, cầu tự, hiến tế, xuất hành, khai trương.
 
Không nên: Khai quang, sửa nhà, an táng.
 
Hướng: Dần (mậu Dần)
 
Sát: Nam   Thực bổ: Bầu dục, thịt dê   Tuổi Dậu
 
Nên: Khai trương, nhập trạch, sửa nhà, di chuyển, đóng giường, sửa bếp, cầu phúc, cưới gả, an táng, hiến tế, xuất hành, thăng chức, cầu tài.
 
Không nên: Không có việc gì phải kiêng cữ.   Hướng: Mão (Kỷ Mão)
 
Sát:  Đông
 
Thực bổ: Quả đào, mì   Tuổi Tuất
 
Nên: Cưới gả, an táng, hiến tế, cầu phúc, cầu t ự, khai trương, giao dịch, đóng giường.
 
Không nên: Cất nóc, xây nhà, nhập liệm, thăng chức, xuất hành, cầu tài, sửa nhà, di chuyển, kiện tụng, gặp khách quý.
 
Hướng: Thìn (Canh Thìn)
 
Sát: Bắc   Thực bổ: Sữa và các chế phẩm từ gạo   Tuổi Hợi
 
Vào ngày lục tà, người tuổi Hợi nên: Thăng chức, xuất hành, cầu tài, gặp khách quý, cưới gả, di chuyển, cầu tự, khai trương, giao dịch, đóng giường.
 
Không nên: Hiến tế, cầu phúc, khai quang, sửa nhà, an táng.
 
Hướng: Tị (Tân Tị)
 
Sát: Tây
 
Thực bổ: củ sen, thịt lợn  
► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Phương Thùy
Luận Giải Tam Phục Thiên, ngày Lục Tà xâm chiếm âm dương đất trời
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khai vận ngày Lục tà xâm chiếm cho 12 con giáp

Lời tiên tri của các nhà chiêm tinh về năm Bính Thân

Tiên tri năm 2016 có gì khả quan? Theo các nhà chiêm tinh và phong thủy học, năm Bính Thân 2016 có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng vẫn còn những mối đe dọa rình
Lời tiên tri của các nhà chiêm tinh về năm Bính Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Theo các nhà chiêm tinh và phong thủy học, năm Bính Thân 2016 có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng vẫn còn những mối đe dọa rình rập.


Theo các nhà chiêm tinh và phong thủy học, năm Bính Thân được tính bắt đầu từ 7/2/2016 và kết thúc vào ngày 27/1/2017. So với năm Ất Mùi, 2016 sẽ là năm tươi sáng, khả quan, nhiều sự kiện quy mô lớn sẽ diễn ra.

Loi tien tri cua cac nha chiem tinh ve nam Binh Than hinh anh
 
Bính Thân – Năm của con người


Trong 12 con giáp, Thân là hiện thân siêu hình cho yếu tố con người, đồng thời là thần hộ mệnh chính của năm 2016. Chính vì thế, Bính Thân sẽ là năm của con người.

Bính Thân tượng trương bởi hai nguyên tố Hỏa và Kim. Theo quy luật ngũ hành, Hỏa Kim tương khắc, vì thế có thể dẫn tới việc mất cân bằng, gây tiêu cực, mâu thuẫn hoặc bất hòa. Mâu thuẫn và xung đột quốc tế vẫn có nguy cơ xảy ra nhưng được dự báo là không quá bạo lực.

Loi tien tri cua cac nha chiem tinh ve nam Binh Than hinh anh 2
 
Ít bạo lực hơn


Theo dự đoán của nhà phong thủy, chiêm tinh học người Hong Kong, Raymond Lo, năm 2016 sẽ tương đối ít bạo lực hơn so với năm 2014 và 2015. Việc đạt được thỏa thuận và các điều ước quốc tế nhằm giải quyết xung đột và tranh chấp cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ông cũng dự đoán rằng vẫn còn nhiều khả năng xảy ra xung đột trên biển, các vụ tai nạn đường thủy và thảm họa hàng không.

Xét theo quan điểm chiêm tinh và phong thủy, trong năm 2016, nhu cầu đi du lịch của con người sẽ nhiều hơn, đặc biệt là đối với những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, Hợi, Mùi. Điều này có thể tác động đến nguy cơ xảy ra va chạm giao thông, đa phần là tai nạn ôtô. Ông cũng dự đoán trong năm Dương Hỏa, thảm họa cháy nổ và đại dịch cúm có thể xảy ra. Các tháng xấu trong năm bao gồm tháng 2, 5 và 11.

Loi tien tri cua cac nha chiem tinh ve nam Binh Than hinh anh 3
 
Nhiều dấu hiệu khả quan, tích cực đối với nền kinh tế


Các nhà phong thủy, chiêm tinh tiên tri năm Bính Thân sẽ có nhiều dấu hiệu khả quan, tiến bộ đối với nền kinh tế và điều này sẽ tiếp tục kéo dài đến nửa đầu năm 2017. Đây là năm thuận lợi với các hoạt động kinh doanh sản xuất, ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng, giải trí, thị trường, tài chính, giao thông vận tải xây dựng, khai thác, công nghệ cao. Các ngành ngân hàng, kỹ sư, máy tính năng động hơn nhưng sức cạnh tranh lớn.

Năm 2016 có thể không phải một năm yên bình, khi xung đột và bất hoà trong các mối quan hệ quốc tế vẫn hiện hữu, nhưng con người lạc quan, cởi mở, tự tin và sáng tạo để mang lại giải pháp xử lí những trở ngại đó. Các thảm họa tự nhiên như cháy rừng, vấn đề hạt nhân, mưa bão và dịch bệnh vẫn là mối đe dọa lớn của loài người.

Trong năm con Khỉ, các sao và ngũ hành sẽ đem lại vận may cho người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu, khám phá như chuyên gia, nhà khoa học, nhà thám hiểm. Các ứng dụng của robot và máy bay không người lái sẽ phổ biến hơn.

Tuy nhiên, để đạt được thành công nhất định, dù bạn làm ngành nghề gì đều phải phấn đấu và nỗ lực không ngừng.

Loi tien tri cua cac nha chiem tinh ve nam Binh Than hinh anh 4
 
2016 tốt đẹp hơn 2015


12 con giáp

Trong 12 con giáp, Khỉ là con vật đứng ở vị trí thứ 9, con số này tượng trưng cho tham vọng, phiêu lưu và sự thông thái.

Theo nhà phong thủy người Philippines, bà Marites Allen, dù không phải tất cả mọi người đều may mắn vào năm tuổi, nhưng năm Thân sẽ rất thuận lợi với người tuổi này. Bên cạnh đó, những tuổi hợp với Thân bao gồm Tý, Tỵ, Thìn cũng dễ gặp may mắn tương tự.

Còn tuổi Dần khắc Thân, có thể gặp nhiều khó khăn trong năm tới. Vận trình của họ có thể gặp nhiều biến động hoặc thay đổi trong cuộc sống như chuyển việc, chuyển nhà. Người tuổi Dần nên hạn chế đi tới những nơi ở hướng Tây Nam vì đây là hướng của sao Thái Tuế.

Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?
Tâm linh dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại xuất phát từ
12 cung hoàng đạo

Người thuộc nhóm Đất (Bạch Dương, Xử Nữ, Ma Kết): sẽ có nhiều may mắn trong nửa đầu năm, nhưng phải thận trọng và tính toán kế hoạch phù hợp kể từ sau tháng 8.

Những người thuộc nhóm Khí (Song Tử, Thiên Bình, Bảo Bình): có thể cảm thấy thoải mái hơn so với năm 2015.

Người thuộc nhóm Lửa (Kim Ngưu, Sư Tử, Nhân Mã): có nhiều thời gian dành cho sự đam mê, sở thích cá nhân và có thể đạt được thành công lớn trong năm nay.

Người thuộc nhóm Nước (Cự giải, Thiên Yết, Song Ngư): Sự nhạy cảm có thể giúp họ dễ dàng cảm nhận những rắc rối có thể xảy ra.

► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Ngân Hà


Xem thêm video: Những điều tuyệt đối kiêng kị khi làm lễ cúng Giao thừa năm Bính Thân


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời tiên tri của các nhà chiêm tinh về năm Bính Thân

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd