Nếu có được người bạn như những con giáp này, chắc chắn cuộc sống của bạn sẽ vui vẻ, không phải lo lắng về vật chất.
1. Người tuổi Mão
Theo luận giải tử vi trọn đời, đa phần những người cầm tinh con Mèo đều có cách cư xử khéo léo nên rất ít khi đắc tội với người khác. Hay nói đúng hơn đây là con giáp có tấm lòng lương thiện, không đủ dũng khí để có thể làm những việc xấu. Đôi khi họ nhận phần thua thiệt về mình để mọi chuyện được ổn thỏa.
Ngoài ra, người tuổi Mão rất coi trọng tình nghĩa, sẵn sàng hi sinh lợi ích bản thân vì bạn bè. Tuy nhiên, để có được niềm tin từ họ không phải là chuyện một sớm một chiều. Họ để ý tỉ mỉ từng lời nói, cử chỉ của bạn, chỉ cần phát hiện thấy dấu hiệu dối trá, ngay lập tức họ sẽ “xóa sổ” bạn khỏi danh sách người tri kỉ. Đây là một trong những con giáp rất đáng để kết giao bằng hữu bởi sẽ không có chuyện họ phản bội tình bạn cao cả.
Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Tuổi Mão hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để tình nghĩa vẹn toàn?
2. Người tuổi Sửu
Cả cuộc đời người tuổi Sửu đều miệt mài vì công việc nên họ dễ gặt hái được thành công và nắm giữ vị trí lãnh đạo hay quản lí quan trọng nào đó. Tuy nhiên không bởi vậy mà họ kiêu ngạo hay muốn tranh giành, chiếm hữu thứ gì đó không thuộc về mình. Con giáp này vô cùng coi trọng tình cảm, họ sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân để bạn bè hưởng phần tốt đẹp.
Vì thế mà đi tới đâungười tuổi Sửucũng gặp quý nhân phù trợ, sẵn sàng “viện trợ không hoàn lại” về mặt vật chất cho họ. Khi đã được người cầm tinh con Trâu coi là bạn tri kỉ, bạn thực sự vô cùng may mắn, họ luôn bên bạn mỗi khi cần thiết để kịp thời động viên, an ủi và đưa tay trợ giúp cho bạn.
3. Người tuổi Mùi
Tính cách người tuổi Mùi ôn hòa, không có tham vọng quá lớn nên dễ nhận được sự yêu mến và ủng hộ của mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để có được lòng tin và sự ưu ái từ phía con giáp này không phải chuyện dễ dàng. Trông bề ngoài có vẻ xuề xòa vậy thôi nhưng thực chất bên trong con người họ vô cùng tinh tế và kĩ tính.
Ngoài ra, đây cũng là một trong những con giáp trọng tình nghĩa, có thể hi sinh hạnh phúc cá nhân để dành điều tốt đẹp cho người thân, bạn bè. Hơn thế, tính cách họ phóng khoáng, không nề hà chuyện tiền nong, hễ bạn bè gặp trở ngại về tài chính là sẵn sàng giúp đỡ, không cần phải hỏi rõ nguyên nhân.
Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Khám phá bí mật sinh ra gặp toàn may mắn của người tuổi Mùi
Ngọc Lan (Theo DYXZ) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Xem tử vi, đoán tài vận và nhân duyên vận cho nam mệnh dựa vào bát tự có thể biết được một số những mấu chốt cuộc đời. Tham khảo thử xem sao nhé.
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh
Xem tử vi từ ngày sinh tháng đẻ hay gọi chung là bát tự lấy thiên can ngày sinh làm trung tâm. Ngày sinh tức ngày chủ đại diện cho chính mình. Đối với nam mệnh thì ngày sinh khắc là Tài Tinh, đại biểu của cải, tiền bạc cũng đại biểu nhân duyên với người khác phái. Đối với nữ mệnh thì ngày sinh khắc là Tài Tinh, đại biểu cho nhân duyên với người khác phái. Dưới đây là một vài ví dụ minh họa.Quẻ Càn: năm Canh Thìn, tháng Ất Dậu, ngày Đinh Sửu, giờ Ất Tị.Thiên can ngày sinh là Đinh Hỏa nên ngày chủ là Đinh Hỏa. Đinh Hỏa là âm Hỏa, theo quan hệ ngũ hành Hỏa khắc Kim nên mệnh này tạo tài Tinh. Trong đó đồng tính âm Kim (Tân Kim, Dậu Kim) là thiên tài, dị tính dương Kim (Canh Kim, Thân kim) là Chính Tài, đều gọi tắt là Tài.Đối với nam mệnh, tài vận và nhân duyên vận thực chất là tiêu chí đồng nhất trong mệnh. Bởi người đàn ông có tài vận tốt thì cũng sẽ hấp dẫn được nữ giới, có nhiều ưu điểm khiến người khác phái không thể bỏ qua. Xem tử vi, nam mệnh trong bát tự có Tài Tinh thường có một số tình huống như sau.
Mệnh có Tài Tinh là dụng thần nhưng bát tự không xuất hiện Tài Tinh hoặc Tài là nhàn thần thì hôn nhân và tài vận cũng khá thưa thớt, chỉ miễn cưỡng sống qua ngày mà thôi.Mệnh có Tài Tinh là dụng thần nhưng không vượng, thì nhất định có tài vận và có người phụ nữ tốt với mình, là điển hình của vợ hiền mẹ đảm.Mệnh có Tài Tinh là dụng thần hơn nữ mệnh cục vượng thì của cải dồi dào, duyên phận đào hoa, nhiều người khác phái bên mình. Thế nhưng nếu không đứng đắn, lý trí thì mang đến rủi ro hôn nhân tan vỡ hoặc của cải tiêu tán, là trường hợp nam mệnh bại vận sau khi ly hôn.Mệnh có tài Tinh là kị thần nhưng yếu thì người cũng có tài vận, có phụ nữ dịu dàng, ngoan ngoãn, chăm lo cho gia đình cuộc sống giản dị.Xem tử vi luận đoán tài vận, nhân duyên vận của nam mệnh là tổ hợp thiên biến vạn hóa về bát tự, âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa, thiên can địa chi hỗ trợ lẫn nhau. Vì thế, không chỉ dăm ba câu mà nói hết, cần có sự nghiên cứu chuyên sâu.
Hướng dẫn xem tử vi chọn tầng nhà cho người ở chung cưBát tự vượng Quan, có chức có quyềnXem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành Trần Hồng
Nhân tướng học không chỉ xem xét vận mệnh của một con người qua tướng mặt, tướng tay, hay nốt ruồi, mà còn xem cả bộ phận khác của cơ thể như mông, chân… Qua việc xem tướng nửa dưới cơ thể, bạn cũng có thể biết được vận mệnh cuộc đời của mình về sau ra sao.
Người gầy thì thường không có mông (mông lép), người béo thường có mông to. Nếu người gầy mà không có mông thì vận trình không bị ảnh hưởng lắm nhưng nếu người béo mà mông lại lép thì cả vận trình sức khỏe và vận trình sự nghiệp đều vô cùng xấu. 2. Chân dài và thẳng
Những người con gái mới lớn thường cho rằng phải gầy mới đẹp, nên luôn muốn mình gầy một chút. Theo nhân tướng học thì chân thon dài tất nhiên là đẹp nhưng nếu gầy quá mức thì không tốt, càng kiêng kỵ nếu “da bọc xương”, nhất là phần bụng chân.
3. Đùi thon Xét theo góc độ y tế thì đùi thon cho thấy cơ thể người phụ nữ đó bị thiếu chất dinh dưỡng, tâm trạng rất hay bồn chồn, lo lắng, dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, mất ngủ, suy nhược thần kinh, thậm chí là trầm cảm và có cách sống hơi lập dị một chút. Những người sở hữu một cặp đùi thon thường rất khôn ngoan nhưng đôi khi lại quá nhạy bén, gần như lố bịch. Đối với tình yêu thì với người này có cũng được mà không thì cũng chẳng sao, nói chung là không quan tâm. Cho nên, đùi thon chưa hẳn đã là may mắn. 4. Chân rắn chắc
Chân tròn và rắn chắc, nhất là phần bụng chân, với phụ nữ thì đây là kiểu chân “bắp chuối”, không đẹp cho lắm nhưng thực ra lại rất tốt. Những người phụ nữ có chân như vậy thường rất kiên định, đoan trang, điềm tĩnh, kiên nhẫn và sống rất tình cảm. Ngoài ra, những người này còn rất giỏi trong việc tề gia nội trợ, họ luôn có thái độ lạc quan, vô cùng chung thủy trong tình yêu, đây đích thị là người mẹ hiền, người vợ đảm. 5. Lưng ngắn chân dài
Những người này thường nay đây mai đó, cả đời lao lực vất vả, cuộc sống gia đình không ổn định. Người phụ nữ có nhan sắc một chút thì cũng sẽ được hưởng nhiều tài lộc nhưng khả năng tích lũy được tiền bạc là rất thấp.6. Lưng dài chân ngắn
Lưng dài chân ngắn là người có quyền lực, rất có phúc khí, phù hợp với các công việc quyền cao chức trọng, phúc lộc song toàn, cả đời an nhàn và tài vận cũng vô cùng hanh thông. Phương Thùy (Theo 99166) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Xem tướng vòng 3 để biết bạn là người như thế nào –
Tướng vòng 3 nói lên điều gì? Sở hữu vòng 3 quá lớn, bạn lười và chậm chạp. Vòng 3 lép, bạn gặp khó khăn trong sinh nở. Củ thể như thế nào các bạn hãy đọc bài viết sau đây để có thông tin củ thể. Xem tướng vòng 3 đoán biết vận mệnh Mông nhỏ Mông nhỏ,
Tướng vòng 3 nói lên điều gì? Sở hữu vòng 3 quá lớn, bạn lười và chậm chạp. Vòng 3 lép, bạn gặp khó khăn trong sinh nở. Củ thể như thế nào các bạn hãy đọc bài viết sau đây để có thông tin củ thể.
Nội dung
1 Xem tướng vòng 3 đoán biết vận mệnh
1.1 Mông nhỏ
1.2 Kích thước vòng 3 vừa phải
1.3 Vòng 3 quá lớn
1.4 Vòng 3 võng
1.5 Vòng 3 lép
1.6 Vòng 3 hếch
Xem tướng vòng 3 đoán biết vận mệnh
Mông nhỏ
Mông nhỏ, hẹp hơn so với vai? Bạn là cô gái đẹp và duyên dáng. Tuy nhiên, cuộc sống của bạn không gặp nhiều may mắn cho lắm bởi vòng 3 đại diện cho sự ổn định. Bạn đủ mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn, tuy nhiên khó giữ tiền của được lâu bền.
Kích thước vòng 3 vừa phải
Kích thước mông rộng tương đương vai được xem là vừa phải. Nhìn từ phía sau, cặp mông đầy đặn và linh hoạt được gọi là “tiêu chuẩn”. Sở hữu vòng 3 này, bạn khá “mắn đẻ”, giỏi kiếm tiền cũng như tiết kiệm tiền.
Vòng 3 quá lớn
Bạn có dáng người hơi “đậm”, khá lười và chậm chạp. Chuyện tình yêu của bạn không hoàn mỹ. Tuy nhiên, đời sống hôn nhân của bạn lại tốt.
Vòng 3 võng
Mông của bạn võng, xệ xuống? Bạn làm ít hưởng nhiều. Cuộc sống của bạn thiên về tận hưởng nhiều hơn là làm việc chăm chỉ ^^.
Vòng 3 lép
Mông đại diện cho sự ổn đinh. Mông quá lép, bạn sẽ gặp khó khăn trong việc sinh nở, làm giàu cũng như sự nghiệp của bạn khó thành công hơn những người khác.
Vòng 3 hếch
Bạn lãng mạn, đa tình, có xu hướng coi tình yêu như trò chơi. Bạn có khả năng kiếm tiền, nhưng lại khó có thể giữ tiền lâu dài.
Vòng 3 căng tròn
Bạn khéo léo, có khả năng kiếm tiền tốt nhưng không giỏi trong việc kiểm soát chi tiêu. Bạn có thể kết hôn với người chồng tốt và sinh được những đứa trẻ kháu khỉnh.
Bình thường, giấc mơ sẽ phản ánh đúng có những hiện thực mà chúng ta đang gặp phải cũng như đang thực hiện. Chính vì vậy, hiện thực và giấc mơ thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những khía cạnh cũng như hình ảnh mà chúng ta bắt gặp th
Người có sống mũi thẳng và đầy đặn thường có năng lực làm việc tốt, tính tình phóng khoáng, hay giúp đỡ mọi người xung quanh nên đổi lại gặp khá nhiều may mắn
1. Chân mày hơi hướng lên phía trênTrong Nhân tướng học có câu “dương mi thổ khí” (mày hướng lên trên nhiều may mắn). Người có tướng chân mày hơi hướng lên phía trên làm việc tuân thủ theo nguyên tắc, thái độ nghiêm túc lại tràn đầy nhiệt huyết nên thường gặp nhiều may mắn trong đời. Người này cũng gặp không ít khó khăn, thử thách trong sự nghiệp nhưng nhờ vào may mắn, được nhiều người trợ giúp nên cuối cùng vẫn thành công. 2. Mắt to, có thần sắcNgười có đôi mắt to, ánh mắt có thần, tròng đen tròng trắng rõ ràng phân minh thì làm việc gì cũng thuận lợi, gặp nhiều may mắn và dễ đạt được mục tiêu. Người này có khí chất và ý chí kiên định, làm việc gì cũng không ngại khó ngại khổ, không dễ dàng lùi bước hoặc từ bỏ. Nếu cặp mắt càng to thì lại càng nhiều sức sống, tinh thần ổn định, dũng cảm đương đầu với mọi hoàn cảnh khó khăn.
Ảnh minh họa
Ngoài ra, đôi mắt to và có thần sắc này cũng là điểm nhấn có sức hấp dẫn mạnh với người khác giới. Do đó, nếu đây là tướng mắt của nữ giới thì tình duyên thuận lợi, hôn nhân gia đình hạnh phúc.3. Sống mũi thẳng và đầy đặnNgười có sống mũi thẳng và đầy đặn thường có năng lực làm việc tốt, tính tình phóng khoáng, hay giúp đỡ mọi người xung quanh nên đổi lại gặp khá nhiều may mắn trong cuộc đời. Người này có nhân duyên tốt, đi tới đâu cũng có người giúp đỡ nên cuộc sống khá thuận buồm xuôi gió.4. Cằm đầy đặn hoặc có hai cằm Người có tướng cằm đầy đặn hoặc hai cằm thường có số mệnh phú quý, phúc đức và gặp nhiều may mắn. Nếu là nữ giới thì có nhiều tiền tài, không chỉ bản thân gặp may mắn mà còn trợ giúp và mang vận may đến cho sự nghiệp của chồng. Nếu là đàn ông, công danh sự nghiệp song toàn, đồng thời cuộc sống hôn nhân gia đình cũng hòa hợp, hạnh phúc. 5. Trán cao, rộng và tròn đầy Người có tướng trán cao, rộng và tròn đầy thường thông minh, hào phóng, số mệnh cao quý và hợp với cuộc sống trong gia đình quyền quý. Người này giàu lòng nhân ái, hay giúp người khác nên dễ nhận được tình cảm ưu ái và sự ủng hộ của mọi người. Chính những điều đó đã mang lại không ít may mắn cho người này.Tâm Nhân (Theo DYXZ) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Tư thế nằm đầu quay về hướng Bắc, chân về hướng Nam sẽ giúp bạn tránh được tình trạng mất ngủ và khó ngủ, chằn chọc. Đây là hướng nằm lý tưởng cho những ai thính ngủ vì nó khá yên tĩnh và thoải mái về cả phong thủy lẫn khoa học. Bởi nằm ngủ như vậy, từ trường sẽ đi qua cơ thể một cách ổn định, giảm tối đa sự can thiệp của từ trường trái đất.
Ngược lại, nếu nằm ngủ hướng đầu theo phương Đông Bắc, bạn sẽ khó ngủ và thường xuyên mơ thấy ác mộng. Tốt nhất bạn nên tránh nằm quay đầu về hướng này để có được giấc ngủ ngon lành, tốt cho sức khỏe.
2. Hướng Đông: Sự nghiệp thăng tiến
Hướng Đông được coi là hướng ngủ lý tưởng cho tuổi trẻ bởi nó tràn đầy sinh khí, giúp người ngủ tăng cường ý chí phấn đấu vươn lên trong sự nghiệp, theo đó sự nghiệp sẽ thăng tiến không ngừng.
Ngoài ra, bạn có thể nằm chếch theo hướng Đông Nam nếu bạn đang cần sự sáng tạo trong công việc. Bởi đây là hướng thúc đẩy sức sáng tạo, đồng thời tăng cường các mối quan hệ xã giao, giúp bạn thuận lợi và thành công hơn trong sự nghiệp.
3. Hướng Tây: Giấc ngủ say nồng nhưng tạo sự lười biếng, ỷ lại
Ngủ quay đầu về hướng Tây sẽ giúp bạn nhanh chóng rơi vào giấc ngủ cũng như có được giấc ngủ sâu, ngon và đầy thơ mộng. Tuy nhiên, hướng ngủ này không phù hợp với những ai chưa có sự nghiệp ổn định bởi nó khiến bạn trở nên lười biếng, chậm chạp và thường rơi vào thế thụ động. Nó sẽ là rào cản vô hình cản trở sự thăng tiến trong sự nghiệp của bạn.
4. Hướng Nam: Không tốt cho sức khỏe và tài vận
Theo Ngũ hành, hướng Nam chứa Hỏa khí cực mạnh, không tốt cho việc nằm ngủ. Năng lượng Hỏa quá mạnh chứa đựng nhiều sự bất hòa mặc dù hướng này giúp khơi gợi niềm đam mê và hứng thú với công việc, cuộc sống.
Mr.Bull
Siêu hài: Khi 12 cung hoàng đạo trổ tài hóa thảm họa
Trớ trêu nhất cõ lẽ là Song Tử, Sư Tử hay Xử Nữ ^^.
Vận mệnh của bạn rất tốt, tương lai sáng sủa, trên đường đời gặp nhiều may mắn.
Lòng bàn tay hồng
Bạn khỏe mạnh, hòa đồng, tốt tính, được mọi người yêu quý. Tương lai, bạn sẽ sống trong nhung lụa, sự nghiệp gặt hái được nhiều thành công.
Lòng bàn tay vàng
Sức khỏe của bạn không tốt lắm. Tính cách thì hay nóng nảy, làm việc hấp tấp.
Lòng bàn tay đỏ
Bạn có sức khỏe tốt, tính cách mạnh mẽ, yêu đời, nhưng hay nóng tính và thiếu cẩn thận. Nhiều khi bạn làm việc theo cảm tính, thiếu kiên trì, dễ bỏ cuộc giữa chừng.
Lòng bàn tay xám xịt
Bạn sống hướng nội, có tham vọng lớn nhưng không gặp nhiều may mắn nên hành sự khó thành công. Bên cạnh đó, bạn cũng khá độc đoán, hay bi quan.
Lòng bàn tay xanh nhạt
Bạn cá tính, có tài năng đặc biệt, nhưng không tự tin khi làm việc một mình. Lúc nào bạn cũng cần sự ủng hộ, khích lệ của mọi người xung quanh.
Lòng bàn tay trắng nhợt nhạt
Sức khỏe của bạn không được tốt lắm, cơ thể đang có dấu hiệu suy nhược, hay nghĩ ngợi linh tinh.
Có câu, ngày có mưa gió bất trắc, người có sớm tối họa phúc nhưng tị hung tránh cát chính là bản tính của con người.
1. Đổ vỡ
Đây là dấu hiệu xui xẻo, kém may mắn đầu tiên, có độ ứng nghiệm rất cao, nhất là rơi vỡ đồ vào sáng sớm. Ví dụ như ăn sáng không may làm vỡ bát đĩa, uống nước làm vỡ cốc thì nhất định phải cẩn thận, hôm đó làm việc từng bước, không nóng vội. Vỡ gương được coi là điềm cực kì xui, vỡ gương buổi sáng thì khuyên bạn không nên ra ngoài. Ngoài ra những đồ vật thường xuyên mang theo người như miếng ngọc, mặt đá mà bị vỡ cũng không phải việc tốt lành, biểu thị cho việc bản thân sắp gặp tai họa.
2. Gãy nứt
Ví dụ như lúc chải đầu không cẩn thận làm lược bị rơi gãy hay đũa ăn cơm bị rơi gãy cũng là dấu hiệu kém may mắn, báo rằng buồn phiền đang đến rất gần. Nếu như đang biểu diện nhạc cụ mà dây đàn đứt thì tức là trong lòng có lo toan, mọi chuyện tiến hành không thuận lợi, nhất là càng linh nghiệm với chuyện tình cảm, có khả năng tan vỡ chia ly. Xem thêm bài viết Nằm lòng những ngày kiêng cắt tóc để tránh xui xẻo
3. Quên đồ
Một trong những điềm xui theo dân gian là quên đồ vật, ví dụ như ra ngoài nửa đường mới nhớ không mang cái này cái kia, biểu hiện rằng mọi chuyện không hanh thông suôn sẻ, mang tới lo lắng hốt hoảng.
4. Cãi vã
Hai người tranh chấp, to tiếng với nhau vốn đã là chuyện không vui rồi, lại xảy ra vào buổi sáng sớm thì lại càng không hay, ảnh hưởng tới vận trình tài lộc. Ví dụ như người kinh doanh buôn bán mà sáng sớm cãi vã với khách hàng hay người nhà đều cho thấy hôm nay làm ăn cực kì kém.Hòa thuận thì phát tài, một khi sinh sự hòa khí bị phá hỏng thì Thần Tài sẽ không ghé thăm nữa. Vốn là ngày tài khố nhập kho, tài nguyên cuồn cuộn đến mà vì tức giận cự cãi nên đi mất rồi. Xem thêm bài viết Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo
5. Nhặt đồ rơi
Người bình thường trong lòng đều nghĩ rằng nhặt được đồ vật trên đường là chuyện tốt, bắt được của từ trên trời rơi xuống nhưng thực sự không hẳn là như vậy. Rất có thể những đồ mà mình nhặt được là đồ người khác bỏ đi, đồ xui xẻo, đồ dùng trong đám tang, đồ có năng lượng xấu. Mang về nhà tức là tự rước điềm xui tới cửa, nên cân nhắc thận trọng.
6. Mèo chạy tới
Mèo tự dưng chạy tới cửa hoặc theo về nhà là một trong những dấu hiệu xui xẻo rất rõ ràng. Người xưa vẫn truyền: chó đến thì giàu, mèo đến thì nghèo. Nếu chó chạy tới nhà thì là dấu hiệu tốt, biểu thị gia đình sẽ càng ngày càng thịnh vượng , sự nghiệp và tài vận càng ngày càng phát triển. Nếu là mèo chạy tới thì ngược lại nên không tùy tiện nhặt con mèo bị bỏ rơi trên đường về nhà nuôi nấng, mèo tới nhà thì nên khép cửa lại để nó tự động rời đi. Xem thêm bài viết Bật mí những chiêu hóa giải khi gặp vận xui
7. Nến tắt
Ngày nay ít gia đình còn dùng nến thường xuyên nhưng với một số trường hợp như khi mất điện hoặc muốn tạo không khí lãng mạn đêm tân hôn, khi hẹn hò, tỏ tình thì không thể thiếu nến. Nên lưu ý, chăm sóc cẩn thận không để nến bị tắt giữa chừng vì đây là dấu hiệu xui xẻo. Tuy nên tắt có thể châm lại nhưng sẽ ảnh hưởng tới tình cảm vợ chồng trong nhà, không hài hòa thuận lợi. Ngoài ra, trong thực tế cuộc sống còn có rất nhiều điềm báo trước mà nếu chúng ta nhanh nhạy, giỏi lĩnh hội và cảm nhận thì nhất định có thể thấu hiểu, từ đó đón cát tránh hung, giữ bình an cho bản thân. Trên đây chỉ là một số nhắc nhở, một số dấu hiệu để bạn đọc tham khảo.Do dân gian truyền lại nên tính đúng sai, độ tin tưởng đều chỉ mang tính chất tương đối. Người tin thì là có, người không tin thì là không có, có kiêng có lành vẫn là một điểm tốt, dẫu sao những việc ở trên cũng không hề khó khăn. Trong nhà xuất hiện những điềm này, XUI RỦI cận kềCách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lànhMẹo phong thủy: Cách hóa giải vận xui hiệu quả bất ngờTâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Quy tắc quan trọng để đánh giá phong thủy ở một địa phương –
Nhìn chung, khi các nhà phong thuỷ nhìn nhận trực quan về phong thủy của một nơi nào đó sẽ có mấy quy tắc quan trọng như sau: 1. Chọn đất mua nhà Đất là nhân tố then chốt khi xem xét mua nhà ở. Sự tốt xấu của khu đất ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ ti
Nhìn chung, khi các nhà phong thuỷ nhìn nhận trực quan về phong thủy của một nơi nào đó sẽ có mấy quy tắc quan trọng như sau:
1. Chọn đất mua nhà
Đất là nhân tố then chốt khi xem xét mua nhà ở. Sự tốt xấu của khu đất ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tiện lợi trong cuộc sống và tiềm lực tăng giá trị của nhà ở sau này.
Vấn đề chọn đất còn một tiêu chuẩn cần xem xét khác chính là môi trường nhỏ xung quanh. Ví dụ, có hai hạng mục công trình nhà ở cách nhau 1000m, một thì thường xuyên ồn ào, một thì có lúc ồn ào có lúc yên tĩnh, vậy thì khi mua nhà nên chọn ở hạng mục thứ hai. Có khu nhà tuy nằm cạnh đường giao thông chính nhưng muôn vào được một tiểu khu nào đó lại rất khó khăn; có khu nhà tuy cách thành phố khá xa, nhưng đường đi đến khu vực bạn thường hoạt dộng nhất lại gần, vậy thì bạn nên chọn ở khu nhà thứ hai, nó sẽ mang lại thuận lợi nhiều hơn cho bạn.
2. Không nên chọn nơi thường có gió to
Khi mua nhà nên đi dạo một lượt xung quanh ngôi nhà đó để kiểm tra môi trường gần đó xem có gì khiếm khuyết không?
Đầu tiên phải chú ý đến thế của gió. Nếu phát hiện gần nhà có thế gió mạnh thì không nên mua. Vì cho dù ngôi nhà đó vốn dĩ có khả năng ngưng tụ vượng khí, nhưng vì thế gió mạnh nên vượng khí đó rất dễ bị thổi bay mất. Phong thuỷ học rất coi trọng “tàng phong tụ khí”, nơi có thế gió mạnh chắc chắn không thể là nơi vượng khí. Tuy nhiên cần phải lưu ý một điểm, thế gió quá lớn tất nhiên là không hay, nhưng nếu thế gió quá yếu, không khí không lưu thông, như vậy cũng không tốt. Môi trường ở lý tưởng nhất là nơi có gió thổi dịu êm vừa phải, trong lành sảng khoái, đó mới hợp với đạo lý phong thuỷ.
3. Đầy đủ ánh sáng
Phong thuỷ dương trạch chú ý nhiều đến không khí và ánh sáng, cho nên khi chọn nhà ở phải chọn được nơi có không khí trong lành, ánh sáng đầy đủ. Nếu nhà ở thiếu ánh sáng, thường là âm khí quá nặng khiến cho gia trạch không yên ổn, không nên ở trong nhà như vậy.
Ví dụ về một ngồi nhà thiếu ánh sáng, khi bước vào cửa ta thấy có một đường hành lang rất hẹp, phòng khách và bếp hầu như không có cửa sổ, ánh sáng bên ngoài vì thế không thể vào nhà. Nhà như vậy không khí và ánh sáng đều thiếu có thế nói đó là ngôi nhà u ám, tử thuỷ, thiếu sức sông.
4. Nhà ở chỗ cao
Hướng ra mặt sông hoặc mặt hồ nước phẳng lặng, kiến trúc như vậy là địa điểm tốt để lựa chọn, sẽ dễ được hưởng khí tốt của môi trường.
5. Nhà ở hướng Nam
Trước nhà thoáng rộng, bằng phang, đó là nhà có phong thuỷ rất hay. Vì gió Nam vào mùa hè sẽ liên tục mang lại khí mới trong lành.
6. Không nên chọn nhà hướng Bắc hoặc Đông Bắcvì gió Bắc sẽ mang đến bụi bặm.
7. Môi trường bên ngoài của một kiến trúc
Nên thấp phía trước và cao phía sau, trước có khe suối, biển hoặc vùng đất thấp, sau có đồi đất, núi hoặc khu đất cao, nhà như vậy mới có nơi tựa vững chắc và thu nạp được khí tốt. Nếu như trước nhà là một khoảng đất thấp xuống hình viên đạn, phía sau nhà mặt đất nhô lên không cao lắm, đó là nơi có thể miễn cưỡng mà ở.
8. Địa điểm lựa chọn phải là nơi khá rộng thoáng để tiện cho thải nước.
9. Trồng cây xanh là biện pháp thích hợp
Cây xanh có thể làm giảm sự ồn ào phức tạp phát sinh ra từ đường cái, mang lại cảm giác thanh tịnh cho người trong nhà. Tuy nhiên không nên trồng quá nhiều, nếu không sẽ gây trở ngại đến việc lấy ánh sáng cho nhà, ảnh hưởng đến sự lưu động không khí. 10. Nhìn từ góc độ phong thuỷ
Một ngôi nhà nằm ở cuối của ngách chết là có địa thế không tốt. Vì như vậy sẽ phải hứng chịu quá nhiều sát khí từ đường lớn xâm nhập vào. Và sẽ càng không tốt nếu như đối diện trước nhà lại là nơi giao nhau của các con đường.
Tương tự như vậy, nếu như một ngôi nhà đối diện với chỗ giao nhau hình chữ T, chữ Y của các con đường sẽ phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của sát khí.
11. Cửa chính của nhà phải được lựa chọn kỹ
Trong phong thuỷ dương trạch, cửa chính là nơi rất quan trọng. Trong “Dương trạch tam yếu” thì “cửa”, “chủ”, “táo” được gọi là tam yếu. Trong “Bát trạch minh kính” có viết: “Yếu tố quan trọng hàng đầu của dương trạch là cửa chính, cửa là nơi dung nạp khí, nếu nạp khí vượng thì cát, nếu nạp khí suy thì hung”; “Nhà ở hung cát do cửa, đường đi trợ giúp, hướng cửa phải rõ ràng”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
– Trong khi người tuổi Tý mất 3 năm phấn đấu miệt mài để vươn tới thành công thì người tuổi Mùi lại cần tới 15 năm...
Tuổi Tý – 3 năm
Những người cầm tinh con Chuột mệnh cục phú quý, may mắn, dễ gặp hung hóa cát, tiền bạc đến từ khắp nơi. Bản tính người tuổi Tý lại thông minh, lanh lợi, thậm chí nói rằng có chút “khôn vặt” cũng không hề sai. Ý chí của con giáp này kiên định, hễ hạ quyết tâm là sẽ phấn đấu cho bằng được. Càng trong hoàn cảnh khó khăn, áp lực dồn dập, họ lại càng tỏ rõ sự kiên định, không hề nao núng. Tuổi Tý lại khá nhạy bén về mặt tài chính, khả năng quản lý tiền bạc tốt, thường được giao nhiệm vụ “tay hòm chìa khóa” trong tập thể hoặc gia đình. Một khi họ đã tập trung tinh thần, dồn tâm huyết vào chuyện kiếm tiền, ắt sẽ gặt hái thành quả đáng nể. Từ 29 tới 31 tuổi có thể coi là giai đoạn mà bản mệnh gặp nhiều khó khăn, thử thách nhất về đường công danh, sự nghiệp, tài lộc. Nhưng một khi đã vượt qua giai đoạn này, những năm kế tiếp phấn đấu làm giàu, đặc biệt ngoài 40 tuổi, vận khí hanh thông, làm gì cũng thuận.
Tuổi Sửu – 30 năm
Tuổi Sửu vốn dĩ chân thành, chất phác lại coi trọng tình cảm. Làm gì họ cũng có xu hướng an phận thủ thường, chỉ một số ít trong số họ mới có khát khao thành công mãnh liệt. Cuộc đời con giáp này cũng lắm thăng trầm, chăm chỉ, nỗ lực làm việc, thành quả thu về tuy có nhưng không được là bao, không đạt được mức như mong đợi. Từ nhỏ tới lớn, có lẽ phải trải qua quá trình phấn đấu suốt 30 năm, người tuổi Sửu mới có thể chuyển vận, thay đổi vận mệnh của mình. Từ trung vận trở đi, nhất là sau tuổi 40, vận khí khởi sắc, con giáp này phấn đấu làm giàu sẽ nhìn thấy những thành công rực rỡ. Sự chín chắn, trưởng thành về tư duy, lối suy nghĩ cũng như kinh nghiệm cuộc sống giúp họ đạt được hết thành công này tới thành quả khác.
Tuổi Dần – 5 năm
Người tuổi Dần năng nổ, tháo vát, có thiên hướng muốn tranh đấu, giành được vị thế tốt nhất trong tập thể, lúc nào cũng muốn khẳng định năng lực bản thân, không chịu thua kém bất cứ ai. Cuộc đời con giáp này cũng nhiều thăng trầm, vất vả. Một khi họ đã hạ quyết tâm, đặt ra mục tiêu phấn đấu rõ ràng thì sẽ nỗ lực bằng mọi cách để hoàn thành. Quãng thời gian để họ phấn đấu và gặt hái thành quả khoảng 5 năm. Xét về cả cuộc đời, đây không phải là thời gian dài, nhưng xét về toàn bộ quá trình phấn đấu, đây thực sự là những năm tháng gian khổ đối với tuổi Hổ. Những ai không kiên nhẫn, rất dễ nản chí và bỏ cuộc giữa chừng.
Tuổi Mão – 10 năm
Đa phần người tuổi Mão có tính cách ôn hòa, điềm tĩnh và sở hữu trái tim lương thiện, nhiệt thành, biết quan tâm, sẻ chia tới những người xung quanh. Tâm hồn con giáp này khá ngây thơ, dễ tin tưởng người khác nên trong cuộc đời khó tránh tình trạng bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng. Nhược điểm của người tuổi Mão là “cả thèm chóng chán”, làm việc theo cảm hứng, sức kiên trì không bền bỉ, rất dễ nản lòng mà bỏ cuộc giữa chừng. Khoảng thời gian từ 20 đến 30 tuổi có lẽ là giai đoạn mà con giáp này gặp nhiều khó khăn, biến cố nhất trong cuộc đời. Trong 10 năm này, công việc liên tiếp vấp phải khó khăn, chuyện tình cảm cũng chưa được như ý. Tuy nhiên, ngoài 30 tuổi, vận khí bản mệnh bắt đầu tăng nhanh, kiên trì theo đuổi mục tiêu sẽ thu về những thành quả đáng ngưỡng mộ.
Tuổi Thìn – 1 năm
Người cầm tinh con Rồng tài trí hơn người, lại mang trong mình “máu liều lĩnh”, rất thích khám phá và trải nghiệm những điều mới lạ, cuộc sống tẻ nhạt chính là một trong những điều mà họ ghét nhất. Trong công việc, sự thông minh, lanh lợi của tuổi Thìn mang lại cho họ không ít thành công. Một khi đã hạ quyết tâm con giáp này sẽ dành toàn bộ thời gian, công sức của mình để thực hiện cho bằng được. Nói không chừng họ có thể trở nên giàu có chỉ sau một năm miệt mài phấn đấu.
Tuổi Tị – 4 năm
Người tuổi Tị thông minh, sáng suốt, lại có lối sống lạc quan và hướng thiện, tài khí bẩm sinh đã vượng, cuộc đời tuy có thăng trầm nhưng không tới mức cùng cực. Ngay khi nhận thức được cuộc sống, con giáp này đã chăm chỉ học hành, phấn đấu cho tương lai tốt đẹp. Quá trình phấn đấu tuy không hoàn toàn thuận lợi, nhưng đa phần cũng không quá cực khổ. Họ có thực lực và tài năng, đi đâu cũng không lo thua kém người khác, trái lại còn được tập thể tin tưởng giao phó trọng trách. Nếu hạ quyết tâm và dành toàn bộ thời gian, công sức cho một mục tiêu nào đó, chỉ khoảng 4 năm vất vả phấn đấu làm giàu thôi là tuổi Tị đã có được thành công rồi.
Tuổi Ngọ – 6 năm
Người tuổi Ngọ lanh lợi, tháo vát, tính tình thẳng thắn, bộc trực, tuổi trẻ nông nổi, phạm khá nhiều sai lầm, nhưng càng về sau này càng trưởng thành và chín chắn hơn nên cũng không quá khó khăn để có thể vươn tới thành công. Quãng thời gian từ 24 đến 30 tuổi có lẽ là giai đoạn mà tuổi Ngọ đặt quyết tâm cao độ nhất cho sự nghiệp hay công cuộc kiếm tiền làm giàu. Trong 6 năm gian khổ, vượt qua không ít khó khăn, trở lực, cuối cùng họ cũng có được thành công như mong muốn. Giai đoạn này không dành cho những ai lười nhác, thiếu ý chí vươn lên.
Tuổi Mùi – 15 năm
Người tuổi Mùi tính cách ôn hòa, điềm đạm, hành sự thận trọng tuy nhiên lại không nhiều dũng khí. Đứng trước một việc khó khăn, bất ngờ, bản mệnh thường tỏ ra do dự, thiếu quyết đoán, chính vì thế mà hết lần này tới lần khác bỏ lỡ cơ hội tốt để làm giàu cũng như vươn tới thành công.Khoảng thời gian từ 20 đến 35 tuổi có lẽ sẽ là thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời tuổi Mùi. Công việc gặp nhiều thử thách, có thể nói cao không tới thấp không thông, trong khi đó áp lực gia đình còn tăng gấp bộn. Tất cả những yếu tố ấy ảnh hưởng rất lớn tới tâm tinh thần của bạn, từ đó càng khó đạt được thành công như ý muốn. Nhưng từ sau tuổi 35 trở đi mọi thứ dần chuyển biến tốt đẹp. Sau tuổi 40, tuổi Mùi gặp đại vận hưng vượng, đời sống tinh thần hay vật chất đều phong phú, sinh động, cuộc sống an nhàn, sung túc.
Tuổi Thân – 3 hoặc 30 năm
Có thể nói, vận mệnh suy vượng ra sao không ảnh hưởng quá nhiều tới con giáp có cá tính mạnh, lanh lợi như tuổi Thân. Cuộc sống tốt xấu ra sao là do chính họ lựa chọn. Năm 23 đến năm 26 tuổi, giai đoạn mà tuổi Thân gặp khá nhiều biến cố, nếu kiên trì và nỗ lực hết mình, những ngày tháng sau đó sẽ nhàn hạ, thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp cứ thế mà phất như diều gặp gió. Nhưng nếu con giáp này an phận thủ thường, ngại khó khăn vất vả, không chịu nỗ lực trong khoảng thời gian này thì có lẽ họ sẽ phải mất 30 năm nữa để phấn đấu thoát nghèo và thành công trong sự nghiệp.
Tuổi Dậu – 5 năm
Cá tính người tuổi Dậu khá mạnh, làm việc độc lập tự chủ, không thích bị người khác hối thúc hay sai bảo. Có những khi con giáp này hành xử cứng nhắc tới mức tự chuốc lấy phiền phức và thất bại. Cuộc đời của họ vì thế mà cũng thăng trầm bất định.Cái tính cách thích “làm mình làm mẩy” của tuổi Dậu khiến họ không chỉ nhảy việc một hai lần trong cuộc đời. Phải trải qua khá nhiều lần thay đổi công việc, họ mới có thể tìm được vị trí phù hợp với mình. Nhưng một khi đã dồn toàn bộ tinh lực để phấn đấu cho sự nghiệp, chỉ trong vòng khoảng 5 năm thôi, con giáp này sẽ chạm tay tới thành công. Từ sau tuổi 35, tuổi Dậu làm gì cũng thuận, cầu được ước thấy.
Tuổi Tuất – 20 năm
Người tuổi Tuất chân thành, thủy chung nhưng lại có xu hướng sống khá thực dụng, cao ngạo, luôn cho rằng bản thân giỏi giang muốn lãnh đạo, dẫn dắt người khác. Chính vì thế mà họ vấp phải không ít trở ngại trong các mối quan hệ xã giao, cuộc sống nhiều thăng trầm, vất vả. Từ 20 đến 40 tuổi là giai đoạn vàng mà nếu tuổi Tuất nắm bắt được sẽ gặt hái được vô số thành quả đáng nể. Đây có thể coi là thời kỳ vô cùng khó khăn, nhiều thử thách, nhưng khi đã vượt qua nó rồi, thành công đến một cách dễ dàng hơn. Sau 40 tuổi, bản mệnh hưởng phúc lộc trời ban, tài lộc tăng tốc, sống nhàn hạ, sung sướng.
Tuổi Hợi – 2 năm
Ai bảo tuổi Hợi là không thông minh thì người đó hoàn toàn sai lầm. Con giáp này không những thông minh mà còn rất lanh lợi, tài năng. Hơn thế, họ còn suy nghĩ lạc quan, khiêm tốn nên rất được lòng những người xung quanh. Một khi tuổi Hợi đã muốn làm gì, bản thân họ quyết tâm là lẽ dĩ nhiên nhưng bên cạnh đó còn được bao người ủng hộ nhiệt tình cả về vật chất và tinh thần, họ không thành công mới là lạ. Vì lẽ đó mà có lẽ bản mệnh chỉ cần tập trung tinh lực, vất vả lăn lộn khoảng 2 năm thôi là chạm tay vào thành công rồi. *Bài chỉ mang tính chất tham khảo.
Ngọc DiệpXác định phương vị may mắn trong nhà của 12 con giáp để kích hoạt tài lộcNăm phạm Thái Tuế: Nên và không nên làm gì để vượt qua xui xẻo? Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Gia đình Ieyasu khá phức tạp, một bên theo gia tộc Imagawa, một bên theo gia tộc Oda. Thời thơ ấu của Ieyasu phải sống trong nguy hiểm bởi cuộc chiến giữa hai dòng tộc này.
Tokugawa Ieyasu chính là vị tướng đầu tiên của Mạc phủ Edo
Khi trưởng thành, Ieyasu tham gia vào những cuộc chiến của các dòng tộc. Ông thông minh, khôn khéo và có tài lãnh đạo nên đã vươn đến những quyền lực được người Nhật trọng vọng. Tokugawa Ieyasu là vị tướng đầu tiên của Mạc phủ Edo. Ông là người khai sáng thành phố Tokyo ngày nay. Hơn nữa, Ieyasu còn là người khởi lập chính quyền Tokugawa (một tập đoàn phong kiến cát cứ Nhật Bản) kéo dài gần 300 năm. Chính quyền này tạo tiền đề thuận lợi cho cuộc Duy Tân nước Nhật của Minh Trị Thiên Hoàng năm 1868.
Nhắc đến Ieyasu, người Nhật khẳng định rằng: "Ông luôn luôn chịu đựng, nhẫn nại và cần kiệm. Tokygawa Ieyasu quả là tấm gương để người đời kính phục".
Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì là thắc mắc của không ít người. Để giải đáp và cung cấp thêm thông tin cho độc giả, Lịch Ngày Tốt xin trả lời những
câu hỏi trên.Với những người có ý định sinh con hoặc làm việc quan trọng thì chắc chắn năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? sẽ là những vấn đề đáng lưu tâm.
1. Năm 2019 là năm con gì?
Dựa theo 12 con giáp và vòng tuần hoàn thiên can, năm 2019 là năm Kỷ Hợi.Tính chất của Kỷ Hợi là nóng nảy, bộc trực nhưng lễ nghĩa, làm việc có trách nhiệm. Trong các tuổi Hợi, đây là tuổi bốc đồng nhất, giống như con lợn hoang, nếu không biết kiềm chế sẽ gây ra chuyện. nếu tiết chế được bản thân thì sẽ phát huy được năng lực, đạt được công danhTuổi Hợi bề ngoài vui vẻ, nhàn nhã nhưng là người đa sầu đa cảm. Kỷ Hợi trọng tình trọng nghĩa, luôn giúp đỡ anh em bạn bè mà không nề hà. Họ ngoài lạnh trong nóng, không thích bày tỏ cảm xúc nhưng là người tình cảm, nhạy cảm và lo nghĩ nhiều, tự mình bao quát việc của người khác. Xem thêm bài viết Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúcNgười tuổi Hợi số mệnh là số hưởng, con giáp cuối cùng trong 12 con giáp nên nhàn hơn những con giáp khác. Nhưng Kỷ Hợi cũng không tính là quá thong dong, tuổi trẻ làm quan, hậu vận phát đạt song trung vận ắt phải bôn ba, dành nhiều tâm sức. Người này tự thân lập thân, không có người tương trợ, tự tạo dựng sự nghiệp của riêng mình.Người tuổi Hợi thông minh, giỏi tính toán, biết sắp xếp nên không thiệt thòi, nhưng hay mềm lòng, ít làm được đại sự. Tam hợp với Hợi là Mão và Mùi, tứ hành xung với Hợi là Dần, Thân và Tị. Xét về người hợp tuổi làm ăn với tuổi Hợi có thể hợp tác với người tuổi Sửu, Mão, Mùi, Hợi. Xét về tình cảm, người tuổi Hợi nên lựa chọn bạn đời tuổi Mão, tuổi Mùi, tuổi Dần. Với người tuổi Kỷ Hợi khi chọn bạn đời không nên chọn người sinh năm Giáp, Ất mà nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Xem thêm bài viết Tuổi Hợi hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?Người sinh năm 2019 – Kỷ Hợi cần thận trọng mỗi khi tới năm Hợi và năm Tị.
2. Năm 2019 mệnh gì?
Năm 2019 mạng gì? Theo Lục Thập Hoa Giáp, năm 2019 có nạp âm là Bình Địa Mộc, mệnh Mộc. Mộc này là gỗ đồng bằng, mới nhú mầm nhú lá rồi phát triển thành cành nên thích mưa móc, không ưa tuyết sương, còn chưa vững vàng lắm. Mộc này phát triển tốt ở mặt đất, nơi thoáng mát. Bình Địa Mộc là Mộc tự sinh, vốn tươi tốt, tự thân lập thân không có người đỡ đần, có chí lớn và tài năng nên tuổi trẻ đã phát đạt. Người nếu gặp thời, sinh vào giờ tốt thì đắc cách, nhất định là số mệnh hiển quý. Xem thêm bài viết Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận Theo ngũ hành, Kim khắc Mộc nhưng Mộc của Kỷ Hợi không kị Kim, chỉ hiềm Tân Hợi Thoa Xuyến Kim, Tân Tị Bạch Lạp Kim, Quý Dậu Kiếm Phong Kim còn các Kim khác đều không gây tổn thương. Thủy sinh Mộc, Kỷ Hợi đẹp nhất là gặp Ất Mão Đại Khê Thủy, Bính Ngọ và Đinh Mùi Thiên Hà Thủy, sẽ có số vinh hoa phú quý, nên hợp tác làm ăn với những tuổi này. Ngoài ra Giáp Thân Tỉnh Tuyền Thủy, Đinh Sửu Giản Hạ Thủy cũng khá tốt, nên chọn những người tuổi này để kết hôn, vợ chồng hòa ái lâu dài.Mộc sinh Hỏa, Kỷ Hợi kết hợp với các tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu Tích Lịch Hỏa, Mậu Ngọ và Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa, Bính Dần và Đinh Mão Lư Trung Hỏa cũng tốt. Nếu nữ mệnh tuổi Kỷ Sửu lấy nam mệnh các tuổi này thì vợ vượng phu, tốt cho chồng.Thêm vào đó, Mộc vượng khí thịnh, Kỷ Sửu gặp các tuổi Nhâm Tý và Quý Sửu Tang Đố Mộc, Mậu Tuất Bình Địa Mộc chủ về cát lợi, sinh con các tuổi này là song Mộc thành rừng, có nhiều điểm tốt.2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? Các câu hỏi đều được giải đáp rõ ràng với những kiến thức đầy đủ, chính xác và hữu ích. Mong rằng bạn đọc sẽ có thêm cơ sở để tiến hành những việc quan trọng của mình trong năm Kỷ Hợi, đón cát tránh hung, trăm sự đều lành, phúc lộc song toàn, gặp nhiều may mắn. Người tuổi Hợi mệnh MộcGiải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp Trần Hồng
Có một câu chuyện cổ kể về nàng công chúa được mời ngủ trên chiếc giường với hai mươi cái đệm chồng lên nhau, phía dưới giấu một hạt đậu. Sáng hôm sau, khi nghe nàng kế lại giấc ngủ không yên do trong đệm có một cục bé xíu lồi lên, hoàng hậu biết rằn
g nàng xứng đáng làm vợ của hoàng tử. Phụ nữ hiện đại có phần mạnh mẽ hơn thế và thường được đánh giá về thành tích nhiều hơn là sự nhạy cảm, nhưng phong thủy xấu có thể khiến cả hai vợ chồng không ngủ yên và nghỉ ngơi dù vào buổi tối.
Nếu bạn vừa ly dị, hay ly thân hãy mua một chiếc đệm mới nếu có khả năng. Vì chiếc đệm cũ đã hút nhiều khí của quan hệ trước. Gối, khăn trải giường và chăn – tất cả cũng phải đầy đủ và thoải mái, đồng thời phải thay (nếu có thể) khi có sự thay đổi trong quan hệ. Không tiết kiệm bằng cách sử dụng bộ đồ giường đã dùng; chúng có thể đã hút tất cả dạng năng lượng của người sử dụng trước và năng lượng đó ám ảnh bạn.
Bất cứ thứ gì để phía dưới giường đều ảnh hưởng đến bạn khi ngủ. Tốt nhất là giữ cho khu vực dưới giường hoàn toàn trống không (có thể sử dụng điểm trang trí); nếu buộc phải sử dụng khoảng không này để chứa đồ, hãy quan tâm đến các đồ đạc đó. Ngủ phía trên chăn, khăn hay quần áo mềm, như áo len, cũng tạo cảm giác thoải mái. Các đồ khác không thích hợp đế dưới giường:
– Sách, tạp chí và tài liệu làm việc hoặc học tập có thể kích thích về mặt trí tuệ vào ban đêm trong khi bạn lại muốn bộ não nghỉ ngơi dễ ngủ ngon.
– Giầy dép, quần áo tập luyện hay dụng cụ thể thao có thể “bắt” bạn đi lại trên sàn hay chạy vòng quanh suốt đêm, thực tế hoặc trong giấc mơ.
– Các loại vũ khí và đồ vật sắc hay kim loại tượng trưng cho năng lượng “cắt” hay “đâm” vốn có thể gây tổn hại sức khỏe hoặc dẫn đến tai nạn, trộm cắp.
– Quần áo, đồ vật hay ảnh liên quan đến các mối quan hệ trong quá khứ hoặc thời kỳ khó khăn có thể cản trở hạnh phúc hiện tại và sự tiến triển trong tương lai.
Về phong thủy, mọi thứ trong phòng ngủ đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến bạn. Giường và các đồ đạc gần giường nhất rất quan trọng, tuy nhiên những thứ khác trong phòng cũng cần lưu ý. Mọi đồ vật trong phòng ngủ đều được nhìn theo nghĩa tượng trưng. Ba vật thường thấy trong phòng ngủ – chứ không thuộc về nơi đó – gồm bàn làm việc, dụng cụ tập luyện và tivi.
Những lời khuyên, biểu tượng phong thủy đơn giản có thể cải thiện sự giàu có cho nhà ở hoặc nơi làm việc của bạn. Các bậc thầy phong thủy khẳng định rằng phong thủy tốt không thể đem lại sự giàu có nếu bạn không cố gắng vì nó, nhưng nó cho bạn sự hỗ
Những lời khuyên, biểu tượng phong thủy đơn giản có thể cải thiện sự giàu có cho nhà ở hoặc nơi làm việc của bạn.
Các bậc thầy phong thủy khẳng định rằng phong thủy tốt không thể đem lại sự giàu có nếu bạn không cố gắng vì nó, nhưng nó cho bạn sự hỗ trợ cần thiết để tìm kiếm sự giàu có, của cải và sự thịnh vượng. Nó giúp bạn sử dụng nhiều giải pháp phong thủy khác nhau để tạo nên một môi trường – cả ở nhà và ở nơi làm việc – sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn và thu hút những năng lượng phong thủy của sự thịnh vượng và giàu có.
Sự giàu có không đơn thuần là chỉ về tiền bạc, mà nó gồm từ tài chính, cho tới sức khỏe và các mối quan hệ hòa hợp trong gia đình. Việc tạo ra sự giàu có cho gia đình không hề khó nếu biết áp dụng các lời khuyên phong thủy thích hợp.
Có rất nhiều lời khuyên phong thủy về lĩnh vực tiền bạc đơn giản và dễ dàng cùng với nhiều sản phẩm để sử dụng trong không gian của bạn dành cho năng lượng giàu có mạnh mẽ.
Các giải pháp phong thủy cổ điển như: bình tài lộc, cây tiền, thuyền tài lộc, tiền xu cổ, tượng Phật cười… đã được con người sử dụng trong nhiều thế kỷ qua để thu hút sự giàu có.
Nhà đẹp sẽ chia sẻ với bạn một số bí quyết phong thủy cơ bản để “mời gọi” nguồn khí tài lộc như sau:
– Cửa ra vào mạnh mẽ: Hãy chắc chắn rằng cửa ra vào ngôi nhà của bạn có phong thủy mạnh mẽ. Bảo vệ nó – nếu cần thiết với biểu thượng phong thủy của sự bảo vệ, phong phú và may mắn.
– Giữ không gian ngăn nắp, sạch sẽ: Ngay bây giờ, bạn cần tống khứ sự lộn xộn, bẩn thỉu ra khỏi ngôi nhà hoặc nơi làm việc của bạn. Bởi vì, một không gian hỗn độn không thể thu hút hoặc giữ năng lượng của sự giàu có.
Luôn giữ cho không gian sinh sống và làm việc sạch sẽ để năng lượng giàu có lưu lại thật lâu.
– Khu vực tiền bạc tốt: Xác định rõ khu vực phong thủy tiền bạc trong nhà của bạn và chăm sóc nó thật tốt. Nếu một phần khu vực tiền bạc của bạn bị thiếu, hoặc nếu nó nằm trong phòng tắm, cần giải quyết vấn đề với những giải pháp thích hợp.
– Trưng bày các biểu tượng của sự giàu có: Sự hiện diện của biểu tượng phong thủy trong môi trường sống của bạn nói lên sự giàu có và thịnh vượng. Bạn có thể lựa chọn biểu tượng cổ điển như thuyền tài lộc, hoặc biểu tượng đại diện cho năng lượng giàu có của riêng bạn.
Nên trưng bày một vài biểu tượng phong thủy tượng trưng cho sự giàu có trong nhà.
– Sử dụng bể cá cảnh: Trang trí ngôi nhà hoặc văn phòng của bạn với một bể cá cảnh phong thủy để thu hút nguồn khí tài lộc, hoặc biểu tượng/hình ảnh phong thủy cụ thể về cá.
Bể cá được biết đến là một giải pháp tăng cường tài lộc hữu hiệu.
– Các loại đá phong thủy: Đá citrine được biết đến là có khả năng thu hút sự giàu có, vì thế, nó thường được sử dụng trong các ứng dụng phong thủy. Ngoài ra, một loại đá phong thủy đại diện cho sự giàu có cũng rất phổ biến khác là đá pyrit. Bạn có thể chọn trưng bày những loại đá này trên cây tài lộc phong thủy ở góc nhà.
Năng lượng đá citrine làm tăng lòng tự trọng, sự tự tin giúp chủ nhân vượt qua được nỗi buồn, khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Vì vậy, loại đá này là lựa chọn trang sức phong thủy tuyệt vời dành cho bạn.
Trang trí hoặc đeo đá phong thủy giúp cải thiện vận mệnh cho nhà ở cũng như bản thân chủ nhân.
– Sử dụng đài phun nước: Đài phun nước (hoặc biểu tượng phong thủy đại diện cho đài phun nước) là giải pháp phong thủy rất mạnh mẽ để “lôi kéo” năng lượng của sự giàu có và nguồn khí tươi mới. Bạn có thể sử dụng hình ảnh dòng nước chảy như thác nước, biển, dòng sông… đều rất tốt vì nước đại diện cho tài lộc.
Hình ảnh nước phong thủy với con sóng trắng xóa, tung bọt và khung cảnh thiên nhiên cởi mở, hùng vĩ có tác động đặc biệt mạnh mẽ trong các ứng dụng phong thủy giàu có.
Nước là yếu tố luôn đi liền cùng sự giàu có. Vì vậy, đài phun nước, hồ cá, hay những thứ có liên quan tới nước đặt trong nhà không chỉ còn vai trò là làm đẹp, mà còn kích thích sự thịnh vượng.
– Dòng chảy khí mạnh mẽ: Hãy chắc chắn kiểm tra dòng chảy khí thường xuyên, cả ở trong nhà và văn phòng làm việc. Một dòng chảy khí tươi mới và mạnh mẽ, đi kèm với các biểu tượng phong thủy tài lộc khác chắc chắn là mục tiêu của bạn nếu bạn đang tập trung vào việc hấp dẫn năng lượng của sự giàu có và thịnh vượng.
Bạn có biết rằng rất nhiều triệu phú Châu Á không bán nơi ở hoặc nơi làm việc – thuộc sở hữu riêng – trong khí tích lũy được sự giàu có? Hiểu biết sức mạnh phong thủy của không gian, họ giữ chúng vì những may mắn tài lộc.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Trán nằm trên toàn bộ phần đầu. Muốn quan sát tướng cách của một người trước tiên phải xem trán. Nếu xương trán gồ lên đặc biệt, quan vận sẽ được hanh thông.
Muốn quan sát tướng cách của một người trước tiên phải xem trán. Con người được thừa hưởng Tam tài của thượng đế, trán là thiên (trời), cằm là địa (đất), mũi là nhân (người). Thiên tròn là quý. Trán nằm trên toàn bộ phần đầu, nằm ở vị trí quân vương, cho nên tướng thuật đã so sánh đem nó ví với thiên.
Xương trán gồ lên đặc biệt: Quan vận hanh thông
Người bần tiện, đơn độc thường trên trán có nếp nhăn ngang chằng chịt. Trán có nếp nhăn ngang, đa phần là mệnh sầu khổ. Nếp nhăn ngang xuyên qua trán là người đa sầu, đa cảm, cho thấy bần cùng, khốn khó, hạ tiện, cô đơn.
Người ở vào vị trí vương hầu, trán có thể như ngắm trăng. Chính là nói trên trán có 2 đỉnh, giống như mặt ngẩng lên ngắm trăng. Người ở vị trí tam công trên trán có xương huyền tê. Xương huyền tê nằm trên Phúc đường, nhô cao tới tận Sơn lâm. Tam công là chỉ thái sư, thái phó, thái bảo.
Người “đỉnh túc tam lập” có thể đạt được tới hàng tam công. Đỉnh túc tam lập là chỉ trên trán có xương phục tê, xương nhật nguyệt nhô lên giống như 3 chân. Người có tướng cách này sẽ lên tới vị trí tam ông.
“Ngưu giác bát phương” là chỉ trán có 8 loại xương chính là: Xương phục tê, nhật giác, nguyệt giác, biên địa, phúc đường, long giác, ngưu giác, Ấn đường. Người có 8 loại xương này có thể thăng quan tiến chức, vận mệnh thuận thông. Nếu vị trí này cách xa đầu khoảg một tấc, nhậm chức quan thị lang, sống trên 100. Nếu xương nhật giác, nguyệt giác thông thẳng lên đỉnh đầu, thân thần và khí sắc đối xứng, thanh và âm đối xứng, đó là tướng quý.
Thiên trung đầy đặn, rộng, thành tựu chính trị hiển hách.
Trong Linh đài bí quyết viết: Trán là bộ vị cao nhất, quan trọng nhất trên cơ thể con người. Trong Ngũ nhạc thì trán là Nam nhạc Hành sơn, trong Ngũ phương thì trán là phương Nam. Trong Tam tài trán là trời. Ngoài ra, trán còn là bộ vị quan trọng của cơ thể.
Trên và dưới trán có tất cả 5 phần được gọi là Thiên trung, Thiên đình, Tư không, Trung chính, Ấn đường. Chúng được phân biệt chủ quản quý, tiện, cát hung của con người.
Hình dạng của trán như chiếc đấu, rộng mà bằng phẳng, biểu thị có tướng quý.
Bộ vị trên 2 lông mày khoảng 1 tấc có xương gọi là xương thiên giác, chủ về danh vị phẩm lộc cao.
2 lông mày nối nhau được gọi là giao mi, báo hiệu người này phải dựa vào quý nhân mới có thể vinh hiển.
Trán lệch sang trái khắc cha, lệch phải hại mẹ.
Tóc mai mọc về trước cho thấy thuở nhỏ mắc nhiều bệnh tật.
Trán nhọn mà ngắn, không được làm quan.
Trán bị thương lồi lên, có nạn lao tù.
Trán hẹp, không cô độc thì cũng bần hàn.
Trán rộng, dù không được làm quan cũng có quyền thế. Tóc đen mượt, dày dặn, người như vậy có tài năng nhưng thanh nhàn, tiếp cận quyền quý nhưng không sung túc.
Trán: Nên tròn, nhô cao
Trong Quy giám, có viết: Người có trán nhô lên tròn trịa như bao trùm là tướng quý nhân. Trên trán có nếp nhăn hình trăng lưỡi liềm, cho thấy tướng làm đại quan nhiều bổng lộc.
Trên trán có nếp nhăn như sừng trâu có thể làm tướng quân.
Từ Thiên trung hướng xuống có nếp nhăn kéo thẳng xuống Ấn đường, gọi là “Huyền tê lý” có thể phong tước phong hầu. Người trên trán có “Long tê lý” cũng có thể phong hầu.
Trên trán có 2 nếp nhăn theo chiều dọc có độ dài 3 tấc trở lên, có thể năm đó sẽ được làm đại quan.
Trên trán có 3 nếp nhăn ngang, thuở nhỏ sẽ khắc hại cha.
Trên trán có nếp nhăn chằng chịt chịu khổ tới già. Trên trán có nếp nhăn ngoằn ngoèo gọi là “Xà lý”. Người có nếp nhăn này khi xuất ngoại có thể sẽ phải bỏ mạng dọc đường.
Trên trán có nếp nhăn nông chủ về cuộc sống đói khổ bần cùng. Thiên trung có nếp nhăn từ mũi tới sau gáy, tương ứng với ngọc chẩm, có thể phong hầu.
Trên phần Thiên trung có 4 nếp nhăn ngang, có thể được phong làm đại sứ biên cương, bổng lộc dồi dào. Hai bên trán có nếp nhăn đi thẳng tới mép tóc, gọi là “Hàm bích”, là tướng làm quan thái thú, được hưởng bổng lộc.
Nếp nhăn trên trán tổ thành 2 chữ “điền”, chữ “thân” cũng chủ phú quý.
Thiên trung đoan chính, cao quý mà trường thọ. Nếu tóc rủ xuống quá trán chủ không được đưa tang cha mẹ (yểu mệnh). Trán hẹp, ít con. Có câu: Mặt ngắn trán hẹp, tới già cũng phải sống trong cảnh bần cùng, khốn đốn.
Trán rộng mặt vuông, phú quý vô cùng. Đầu to trán vuông, phú quý hưng vượng. Nhỏ tuổi mà phần trưóc trán nhô lên, con đường học hành sớm thuận lợi. Góc trán nhô lên cao, chức vị cũng ngày càng trọng yếu.
Việc thờ Thần của người Việt từ xưa đã có sự chọn lọc theo quan điểm ai có công với dân với nước thì thờ. Tất nhiên không ngoại lệ các trường hợp chết vào giờ “thiêng” có ảnh hưởng đến cuộc sống của một địa phương nào đó. Tuy nhiên các trường hợp này ít được sùng bái rộng rãi, được sắc phong cũng như ít được bảo tồn, thường chỉ có các miếu nhỏ, đống đất có dầu tích và nén nhang do từ tâm ở các vùng Trung, Nam, Bắc.
Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.
Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay! Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh. Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay. Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi: “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng). Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong… Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ. Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”… Như vậy, trong vòng 5-7 km, các xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh. Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi… Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương. Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.
Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân. Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định. … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”… Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi: … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội” Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng. Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc. Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi: Nam Hải thần phong thiên hữu sắc Cần môn ba tố địa giai binh Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc, Cầu môn nổi sóng đất anh linh. Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ… Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ… Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”. Tạm dịch: - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển. - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi. Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt, Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam, Ngàn thu thơm nức hương lan, Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương… Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng, So bể, trời hình tượng cao sâu Sáng soi khắp chốn đâu đâu, Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia Trăm họ nức âu ca cổ vũ, Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm. Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên, Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài, Đang vui lúc lòng trời yên thuận, Quốc gia đều hoà khí xuân phong. Sau vì nhất quốc tam công, Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô. Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng, Bóng tà dương soi rạng bể Nam. Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn, Chúa tôi một dạ những toan phục hồi. Giang sơn Tống dẫu mười còn một, Có lẽ đâu chịu mất ngay đi. Ngoài thì tướng sĩ phù trì, Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn. Người son phán mà gan vàng đá Việc binh nhung vững dạ kiên tâm. Thần dân báo đáp quân ân, Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ. Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống, Hẳn không dung những giống bất nhân. Lại khuyên võ tướng mưu thần, Gắng công vì nước đền ơn sinh thành… Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh, Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên Mới hay thành bại do thiên, Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay. Cuộc thế sự hết bày trò rối, Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan… Lênh đênh trên biển liều thân, Quyết lòng thu thập quan quân phục thù, Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng, giãi gan cùng trời trắng bề trong. Ôi thôi thả lá giữa dòng, Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi. Ấy mấy biết người trời khác giá, Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh. Chí thành Phật cũng chứng minh. Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết, Chùa La Sơn Nam Việt là đây. Ung dung ở chốn am mây Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi… Độ bốn vị đều nên Thần phúc, Hoá chân thân bốn khúc trầm hương. Gió đưa thoảng ngát một phương, Hào quang trước mắt ngư phường khô hay. Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển, Rước lên thờ kính tiến khói hương. Nhờ ơn từ đấy mấy làng Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen. Đua cầu phúc lập đền tế lễ Độ cho người sông bể biết bao Kể chi giông tố ba đào Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên… Công hộ quốc thơm ghi Nam sử, Lễ suy tôn khởi sự Đông – A Mẫu về chắc giáng điện toà Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường. Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết. Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi: “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”… “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”. Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công. … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo… Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”. Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công. Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ… Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh), “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn… Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể. Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào. Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh. Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay. Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại. Tạm dịch: Đền Thần mới sửa bên sông Trệ Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung Hoặc câu: Âu ca một hội Xuân sau trước, Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng. Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công. Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào. Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ. Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân: “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”. (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành). Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Mông nhỏ, hẹp hơn so với vai? Bạn là cô gái đẹp và duyên dáng. Tuy nhiên, cuộc sống của bạn không gặp nhiều may mắn cho lắm bởi vòng 3 đại diện cho sự ổn định. Bạn đủ mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn, tuy nhiên khó giữ tiền của được lâu bền.
2.Kích thước vòng 3 vừa phải
Kích thước mông rộng tương đương vai được xem là vừa phải. Nhìn từ phía sau, cặp mông đầy đặn và linh hoạt được gọi là “tiêu chuẩn”. Sở hữu vòng 3 này, bạn khá “mắn đẻ”, giỏi kiếm tiền cũng như tiết kiệm tiền.
3.Vòng 3 quá lớn
Bạn có dáng người hơi “đậm”, khá lười và chậm chạp. Chuyện tình yêu của bạn không hoàn mỹ. Tuy nhiên, đời sống hôn nhân của bạn lại tốt.
4.Vòng 3 võng
Mông của bạn võng, xệ xuống? Bạn làm ít hưởng nhiều. Cuộc sống của bạn thiên về tận hưởng nhiều hơn là làm việc chăm chỉ ^^.
5.Vòng 3 lép
Mông đại diện cho sự ổn đinh. Mông quá lép, bạn sẽ gặp khó khăn trong việc sinh nở, làm giàu cũng như sự nghiệp của bạn khó thành công hơn những người khác.
6.Vòng 3 hếch
Bạn lãng mạn, đa tình, có xu hướng coi tình yêu như trò chơi. Bạn có khả năng kiếm tiền, nhưng lại khó có thể giữ tiền lâu dài.
7.Vòng 3 căng tròn
Bạn khéo léo, có khả năng kiếm tiền tốt nhưng không giỏi trong việc kiểm soát chi tiêu. Bạn có thể kết hôn với người chồng tốt và sinh được những đứa trẻ kháu khỉnh.
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì? Tại sao nó lại là nỗi ám ảnh?
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì mà tại sao mọi người lại ghét bỏ và sợ hãi nó đến vậy. Chúng ta hãy cùng nhau khám phá về ngày thứ 6 ngày 13 có ý nghĩa gì ngay sau đây.
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì mà tại sao mọi người lại ghét bỏ và sợ hãi nó đến vậy. Hãy cùng Phong thủy số nhau khám phá về ngày thứ 6 ngày 13 có ý nghĩa gì ngay sau đây.
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì?
Thứ 6 ngày 13 được mọi người quan niệm là ngay xui xẻo nhất trong năm. Nhiều người coi ngày này là nỗi ám ảnh, tuy nhiên từ đâu mà có ngày này hay chỉ là quan niệm, từ lời truyền tai nhau người này người kia mà hình thành, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Xem thêm: Ý nghĩa của ngày lễ vãng vong
1. Nguồn gốc của ngày 13.
Nỗi ám ảnh về ngày thứ 6 ngày 13 được gọi là paraskavedekatriaphobia, bắt nguồn từ những từ móc nối vào nhau của người Hy Lạp Παρασκευή, δεκατρείς và φοβία – từ này có ý nghĩa là thứ 6, số thứ tự thứ 13 và sự sợ hãi của mỗi người. Đánh vần xen kẽ nhau các từ nói ở bên trên sẽ được tổ hợp lại thành các từ như paraskevodekatriaphobia, paraskevidekatriaphobia hay friggatriskaidekaphobia và nó được dịch là nỗi ám ảnh về con số thứ 13. Ngoài ra, theo các nhà sử học, con số 13 được coi là 1 trong những trường hợp đặc biệt từ những năm 1780 trước công nguyên khi mà trong bộ luật Hammurabi nổi tiếng của Babylon không hề có điều luật thứ 13. Bên cạnh đó còn có rất nhiều khái niệm liên quan như 12 cung hoàng đạo, 12 tháng trong 1 năm, 12 giờ trong ngày, 12 vị thần Hy Lạp... Theo một cách nói cụ thể thì con số 13 chính là khái niệm nằm vượt ra khỏi các quy tắc thông thường ấy. Bên cạnh đó, theo thần thoại Bắc u, con số 13 còn được bắt nguồn từ việc vị thần xảo trá Loki đã bí mật hợp tác với thần bóng tối là Hoder để ám sát vị thần của hạnh phúc. Lúc đó chỉ có 12 vị thần tham dự tiệc, Loki đã đến với tư cách vị khách không được mời, cuối cùng Balder đã chết, cả trái đất đã chìm trong bóng tối và tang tóc. Đó được xem là ngày đen đủi và bất hạnh. Bạn để ý sẽ thấy, con số 13 được tránh ở khắp mọi nơi như nhà cao tầng không đánh số tầng 13, nhiều sân bay bỏ qua cánh cổng thứ 13 ....Vậy còn ngày thứ 6?
2. Nguồn gốc của ngày thứ 6
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì? Chúng ta vừa tìm hiểu về ngày 13 và biết được ý nghĩa cũng như sự ra đời của nó. Vậy còn ngày thứ 6 thì sao? Các nhà nghiên cứu sau khi tìm tòi về kinh thánh của đạo thiên chúa đã phát hiện, ngày mà eva đưa cho adam ăn trái tám cấm tại vườn địa đường rơi vào chính xác là ngày thứ 6, sự việc này khiến họ bị trục xuất khỏi đó. Từ đó, các tín đồ của đạo Thiên chúa coi thứ 6 ngày 13 là ngày tội lỗi bởi vào ngày này chúa Jesus bị đóng đinh lên cây thánh giá. Kể từ đó đến nay, con số 13 hay thứ 6 ngày 13 luôn là nỗi ám ảnh là sự sợ hại với nhiều người.vào ngày nay, chúng ta nên hạn chế làm các công việc quan trọng để tránh sự tổn hại.
Phái Thiên Lương triển khai ý nghĩa vòng Thái tuế một cách chi tiết để dùng vào luận đoán. Đại khái vòng Thái tuế có tính tích cực, có tinh thần chính nghĩa chính phái, tư cách đàng hoàng, cơ bản được đắc ý. Điều này trong ứng dụng có khi đúng nhưng rất nhiều trường hợp sai hoàn toàn, tuy sai nhưng ai cũng nhận thấy vòng Thái tuế quả là có cái gì đó đặc biệt, không thể hoàn toàn vứt bỏ được. Trong luận đoán vận hạn, vòng Thái tuế tỏ rõ ảnh hưởng không thể phủ nhận được.
Vậy vòng Thái tuế thực chất là gì, tôi trong quá trình tìm hiểu thấy rằng, vòng Thái tuế chính là vòng năng lượng địa chi năm sinh.
Như ta biết hệ thống sao Thái tuế có 12 sao, gồm : Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn, Thiếu âm, Quan phù, Tử Phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ, Phúc đức, Điếu khách, Trực phù.
Coi vòng Thái tuế là vòng năng lượng thì Thái tuế chỉ sự thái quá, mạnh quá, nên ứng với vị trí Đế vượng của năng lượng. Từ đó suy ra Bạch hổ chính là vị trí Trường sinh, Phúc đức là vị trí Mộc dục, Điếu khách ở vị Quan đới, Trực phù vị Lâm quan, Thiếu dương vị trí Suy, Tang môn vị trí Bệnh, Thiếu âm vị trí Tử, Quan phù vị trí Mộ, Tử phù vị trí Tuyệt, Tuế phá vị trí Thai, Long đức vị trí Dưỡng.
Để chứng minh điều này, ta sẽ kiểm tra tính lý các sao của hệ Thái tuế, nếu đó đúng là vòng năng lượng địa chi trải qua 12 giai đoạn thì các sao phải có tính chất nào đó của các vị trí mà nó rơi vào, dù có thể nó không được đặt ra hoàn toàn để chỉ cái mức năng lượng đó. (Ví dụ: sao Thái tuế không phản ánh hết ý nghĩa mạnh mẽ, thái quá, kích phát xung động của vị trí Thái tuế, theo tử vi truyền thống, sao Thái tuế chỉ lời nói, biện thuyết, cãi cọ, lạnh lùng khinh người)
Quả vậy, Bạch Hổ có tính chất Trường sinh rất mạnh, rất rõ, hạn gặp Bạch Hổ thường có những sự phát sinh đột ngột, mới mẻ, có hoạt động mới sinh ra, có nhiều việc phát sinh bận rộn khiến người ta phải hoạt động đến mệt mỏi.
Phúc Đức có đặc tính yếu kém, phải cầu mong sự hỗ trợ, giúp đỡ, làm phúc, đó chính là đặc tính của Mộc dục, non yếu, bại, vô lực.
Điếu Khách có tính khoe khoang khoác lác, đó là vì tương ứng vị trí Quan đới đang tiến tới, đi lên thịnh trị, gặp lúc thịnh mà ra vẻ, thể hiện.
Trực Phù ở vị Lâm quan, nhưng lại nhiều cái xấu vì nó luôn đồng cung với Thiên Kiếp, ngôi sao rủi ro, xui xẻo.
Thái Tuế vị trí Đế vượng rõ rồi, nó kích phát các tổ hợp sao rất mạnh, vì vị trí đó chứa mức năng lượng tối đa.
Thiếu Dương ứng với vị trí Suy, chú ý là Thiếu dương đi sau Thái tuế nên luôn có sao Thiên Không chỉ sự đổ vỡ suy bại rất rõ.
Tang Môn ứng với vị trí Bệnh, nên Tang Môn có tính u buồn, không hoạt bát vui vẻ, khi đang yếu mệt bệnh tật thì người ta vui sao được.
Thiếu Âm ứng với vị trí Tử, đặc tính kín đáo, khéo léo của Thiếu âm rất rõ, giống tính lý sao Tử.
Quan Phù ứng vị trí Mộ, tính lý truyền thống sao này không có ý thu tàng nhưng sau này ta sẽ thấy nó có đúng các đặc tính đó.(Điếu khách vung phí, Quan phù giữ gìn cẩn thận)
Tử Phù ứng với vị trí Tuyệt, thực tế Tử phù có ý nghĩa là buồn thảm, u uất, chính vì nó bị tuyệt khí, hết sức sống, hết năng lượng mà ra như vậy.
Tuế Phá ứng vị trí Thai, Tuế phá được cho là có hành động chống đối, phá phách, thực ra chính vì đặc tính Thai nên Tuế phá u mê tăm tối, hành vi nhầm lẫn, trái khoáy, ngược đời.
Long Đức ứng vị trí Dưỡng, điều này rất rõ, vì Long Đức có tính trợ giúp, cẩn thận, phù trì lâu dài.
Như vậy tất cả các sao trong hệ thống Thái tuế đều có một số tính lý cơ bản giống như các vị trí tương ứng của vòng Tràng sinh, với Bạch Hổ ứng vị trí Trường Sinh khởi đầu, Thái Tuế ứng vị trí Đế vượng, Quan Phù vị trí Mộ. Vậy vòng Thái tuế chính là một phản ánh của vòng năng lượng địa chi, thể hiện sự phát triển đi lên tuần tự theo chu kỳ 12 giai đoạn của mức năng lượng.
Vòng năng lượng địa chi chính là mẹ đẻ, cội rễ của vòng Thái tuế. Tam hợp Thái tuế chính là 3 vị trí Sinh, Vượng, Mộ của khối năng lượng địa chi nên có sức mạnh lớn, khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ.
Việc coi trọng vòng Thái tuế của phái Thiên Lương là có cơ sở, đó chính là vòng năng lượng rất mạnh trong lá số. Cũng như hàng năm đều có Thái tuế lưu niên, sự chuyển vận của thời gian tạo ra sức mạnh thể hiện bằng can chi lưu niên, trong đó chi lưu niên được coi là Thái tuế, được rất nhiều các môn huyền học khác coi trọng, sử dụng trong luận đoán.
Tam hợp Thái tuế có tính xung động, tiến lên, phát triển, trợ lực nên về cơ bản là tốt. Khi gặp các sát tinh thì vòng năng lượng này tiếp tay cho sát tinh, kích phát hung tính đến cực điểm nên xảy tai vạ, đổ vỡ dữ dội, đó chính là lý do vì sao Mệnh, Thân, hạn đắc vòng Thái tuế mà xấu, bị họa.
Hiểu được ý nghĩa vòng năng lượng địa chi này sẽ thấy rằng phái Thiên Lương cho tam hợp Thái tuế toàn nghĩa tốt là chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề, đó là tính tích cực của năng lượng. Vậy mặt tiêu cực của vòng Thái tuế là gì ? Cũng như chất kích thích, dùng sai chỗ tất có hại. Thái tuế gặp sát tinh ví dụ Không Kiếp Kình Đà hãm chả khác nào nối giáo cho giặc, khiến tai vạ thêm nặng nề. Cho nên sát tinh rơi vào tam hợp Thái tuế phải được chú ý đặc biệt, vì chúng luôn sẵn sàng bùng nổ dữ dội !
32 địa điểm Phật tọa đẹp mê hồn nên đến thăm 1 lần trong đời (P2)
Nếu có dịp tới thăm Trung Quốc, các Phật tử nên một lần ghé thăm các địa danh có tượng Phật niết bàn để tỏ lòng thành kính với người đã phổ độ chúng sinh.
=> Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật
Bức tranh được đặt trong bảo tàng văn hóa di vật cổ Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Bức tranh miêu tả cảnh các Phật tử, các vị Bồ Tát và dân chúng tới chia buồn khi Phật tịnh niết bàn.
Bức tượng Phật nằm trong hang động tại chùa Á Châu, tỉnh Chiết Giang. Bức tượng nằm ở vị trí cao 1,2m so với mặt đất; dài 34.5m; vai rộng 7,5m; các ngón tay có bề rộng một người nằm vừa và lỗ tai có thể để 8 người cùng ngồi.
Tượng Phật Nhập Niết Bàn bên trong Đại Tháp Niết Bàn tại thành Câu Thi Na, tượng dài 6,1m
Thần thái khuôn mặt mang vẻ nghiêm trang, thư thái như lúc còn sống
Bức tượng được chế tác từ một khối đá cẩm thạch trắng duy nhất tại chùa Phật Ngọc, Thượng Hải. Thân khoác áo cà sa để lộ vai phải, tay phải gác lên một cái gụ bằng gỗ. Tạo hình giống tượng Phật tại chùa Hương Sơn, Bắc Kinh.
Tượng Phật niết bàn trên Ngũ Đài Sơn, thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Hai mi mắt khép hờ, gương mặt hiền từ, phúc hậu, giữ nguyên tinh thần thư thái như lúc tịnh niết bàn và hướng về phái biển Đông.
Tại phía Nam tỉnh Quảng Đông có một dãy núi tự nhiên mang hình đức Phật; tượng dài 5200m, rộng 1000m, vị trí ngực cao 430m, ước tính trọng lượng toàn thể chừng hơn 1 tỷ mét khối. Tượng trải dài qua 2 tỉnh, thân mình ở tỉnh Quảng Đông, còn chân thuộc tỉnh Giang Tây. Đây là bức tượng Phật tự nhiên lớn nhất thế giới.
Tượng Phật tọa tại Chung Nam Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Tượng dài 36 thước, dài 9 thước, mặt rộng 5.4 thước, vai rộng 7.5 thước, bàn tay dài 3.8 thước, đầu gối lên một đài cao.
Bức tượng Phật nằm lớn nhất thế giới tại tỉnh Giang Tây, toàn bộ tượng dài 416 thước, chỗ cao nhất là 68 thước, đường kính mắt 8.6 thước, miệng 12.3 thước, đầu dài 50.5 thước, ngón chân cái rộng 5 thước, các ngón còn lại 1.2 thước. Đây là bức tượng nằm trên núi tự nhiên lớn nhất thế giới. "Sơn thị nhất tôn phật, phật thị nhất tọa sơn".
Tượng tọa tại Điếu Ngư thành, tỉnh Trùng Khánh. Đây là bức tượng Phật nằm ngủ độc nhất vô nhị, một tác phẩm được hoàn thành vào cuối thời nhà Đường, đường nét điêu khắc tinh xảo, tạo hình đại khí. Dù rằng không phải bức tượng điêu khắc trên vách đá lớn nhất thế giới nhưng cũng có thể nói rằng lớn nhất Trung Quốc. Tượng nằm trên vách đá dài 11m, vai rộng 2.2m, áo cà sa buông rủ, đầu búi tóc cao, khoảng cách giữa 2 tai là 1.8m, bàn chân rộng 1.2m. Khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, thần thái tự nhiên.
(còn nữa) Lichngaytot.com32 tượng Phật nằm đẹp nên đến thăm một lần trong đời (P1) Ngày Rằm tháng 2 là ngày Phật niết bàn. Trong ngày này, cùng ngắm 32 địa điểm Phật tọa đẹp nhất và cùng tỏ lòng thành kính với người đã phổ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Những gợi ý về màu hợp, màu kỵ của 12 con giáp sau đây có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho màu sắc trang phục của mình trong năm Quý Tỵ.
Tuổi Tý
Hợp: Màu xanh da trời
Kỵ: Màu vàng
Về cơ bản, vận thế của người tuổi Tý trong năm Quý Tỵ là khá tốt; tuy nhiên Tý là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa; Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, tựu chung là bất lợi; bạn không nên mặc quần áo quá sẫm màu.
Riêng màu xanh da trời có thể tạo thế bình hòa, tăng vận may, giảm xui xẻo. Tuy nhiên, màu vàng lại có những ảnh hưởng rất xấu đến vận thế của bạn trong năm nay.
Tuổi Sửu
Hợp: Màu vàng nhạt
Kỵ: Màu xanh lục
Sửu là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ; xét theo ngũ hành, Thổ màu vàng nhưng lại là Dương Thổ, vì vậy, người tuổi Sửu dùng màu vàng nhạt là tốt nhất. Mộc khắc Thổ, Mộc màu xanh, vì vậy, những người tuổi này kỵ dùng màu xanh. Vận thể người tuổi Sửu trong năm Tỵ đạt mức trung bình, không quá vượng, do đó, màu sắc bạn dùng nên nhạt một chút.
Tuổi Dần
Hợp: Màu xám
Kỵ: Màu trắng
Dần là Dương Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Tuy Dương Mộc có khả năng sinh Âm Hỏa nhưng lại không tăng vượng cho tự thân người tuổi Dần, do vậy phải dụng Thủy để sinh Mộc. Màu đen là Thủy trong ngũ hành, tuy nhiên vì Âm Dương tương khắc nên bạn có thể dùng màu xám. Màu trắng là Kim, Kim khắc Mộc, do vậy, nên tránh màu này để không ảnh hưởng đến vận thế trong năm Quý Tỵ.
Tuổi Mão
Hợp: Màu đen
Kỵ: Màu trắng
Mão là Âm Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Cũng như tuổi Dần, Âm Mộc có thể sinh Âm Hỏa. Bạn nên chọn màu đen vì xét theo ngũ hành, cả hai đều là Âm, đẹp nhất với tuổi Mão là sắc đen tuyền. Tương tự, màu tối kỵ của tuổi Mão trong năm nay là màu trắng.
Tuổi Thìn
Hợp: Màu đỏ cam
Kỵ: Màu xám
Thìn là Dương Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Dương Thổ; Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Trong năm 2012, vận thế của người tuổi Thìn rất xấu, năm nay cũng không quá vượng. Bạn nên dùng màu đỏ cam cho hợp vận. Vốn dĩ Thổ khắc Thủy, nếu dùng màu xám, tuổi Thìn dễ gặp xui xẻo.
Tuổi Tỵ
Hợp: Màu xanh lục
Kỵ: Màu đen
Tỵ đối Tỵ, đây chính là năm bản mệnh của người tuổi Tỵ, do vậy, xét tổng thể là xấu. Bạn có thể dùng màu xanh của Mộc trong ngũ hành để vận thể thêm vượng, nhưng tuyệt đối không dùng màu đen. Màu đen là Thủy, Thủy khắc Hỏa, nếu ưa chuộng màu này, vận thế của bạn sẽ sa sút nhiều phần.
Tuổi Ngọ
Hợp: Màu xanh
Kỵ: Màu xám
Ngọ là Dương Hỏa, Tỵ là Âm Hỏa, cùng là hành Hỏa nên hợp nhất với bạn là Mộc; màu xanh là Mộc; do vậy bạn có thể dùng màu này cho thêm phần may mắn. Nhưng vì Thủy, Hỏa tương khắc nên màu xanh lá cây sẽ tốt hơn. Màu xám không hợp với mệnh của tuổi Ngọ trong năm nay.
Tuổi Mùi
Hợp: Màu đỏ
Kỵ: Màu xanh lục
Mùi là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ, do đó, vận mệnh của bạn năm nay khá tốt nhưng chưa phải là hoàn hảo. Để tăng cường vận thế, bạn nên sử dụng màu đỏ. Sắc màu rực rỡ này sẽ đem lại may mắn cho bạn, tăng phần vượng, giảm phần hung. Lại nói, Mộc khắc Thổ, Mộc là xanh lục, vì vậy, bạn nên tránh xa màu này.
Tuổi Thân
Hợp: Màu vàng cam
Kỵ: Màu đỏ
Thân là Dương Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Dương Kim, do vậy, vận thế của tuổi Thân năm nay khá bất lợi. Nếu “làm bạn” với màu vàng cam, thần may mắn sẽ luôn ở bên bạn. Màu đỏ là Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bạn cần tránh màu này, chẳng hạn không nên trang điểm bằng sắc son đỏ đậm.
Tuổi Dậu
Hợp: Màu vàng
Kỵ: Màu đỏ
Dậu là Âm Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Âm Kim, cùng là Âm nên khi lựa chọn màu sắc, bạn nên ưu tiên màu đậm. Đẹp nhất là màu vàng thuần túy, nhưng lại cực kỵ màu đỏ.
Tuổi Tuất
Hợp: Màu đỏ cam
Kỵ: Màu đen
Tuất là Dương Thổ, tuy Âm Hỏa có thể sinh Dương Thổ nhưng vì Âm Dương tương khắc, bạn nên chọn màu đỏ cam để vận thế thêm vượng. Mặt khác, Thổ khắc Thủy, nên màu đen là màu đại kỵ của bạn trong năm Quý Tỵ.
Tuổi Hợi
Hợp: Màu trắng
Kỵ: Màu vàng
Hợi là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, vì vậy, người tuổi Hợi có thể dùng Kim (sinh Thổ) để hóa giải. Màu trắng là Kim, do đó bạn dùng màu này là hợp nhất.
Thổ màu vàng, Thổ khắc Thủy, để tránh xui xẻo, bạn tuyệt đối không nên vận trang phục hoặc sử dụng những vật có màu sắc tươi sáng này.
Tháng 1, 2, 3: ngày Mão; tháng 4, 5, 6: ngày Ngọ; tháng 7, 8, 9: ngày Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Tý.
2. Sao Thiên Địa Chính Chuyển: kỵ động thổ
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1, 2, 3: ngày Quý Mão, Tân Mão; tháng 4, 5, 6: ngày Bính Ngọ, Mậu Ngọ; tháng 7, 8, 9: ngày Đinh Dậu, Tân Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Canh Tý, Nhâm Tý.
Tranh cát tường
3. Sao Lỗ Ban Sát: kỵ khởi tạo
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1, 2, 3: ngày Tý; tháng 4, 5, 6: ngày Mão; tháng 7, 8, 9: ngày Ngọ; tháng 10, 11, 12: ngày Dậu.
4. Sao Phủ Đầu Sát: kỵ khởi tạo
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1, 2, 3: ngày Thìn; tháng 4, 5, 6: ngày Mùi; tháng 7, 8, 9: ngày Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Tý.
Đã từ rất lâu, nốt ruồi được xem là một đặc điểm chứa đựng bí ẩn về vận mệnh của một người. Ở bài trước chúng tôi đã hưỡng dẫn cho các bạn cách xem tướng nốt ruồi trên mặt nam giới. Còn hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho các bạn cách xem tuon
Đã từ rất lâu, nốt ruồi được xem là một đặc điểm chứa đựng bí ẩn về vận mệnh của một người. Ở bài trước chúng tôi đã hưỡng dẫn cho các bạn cách xem tướng nốt ruồi trên mặt nam giới. Còn hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho các bạn cách xem tuong not ruoi tren co the dan ong chính xác nhất. Nốt ruồi trên cơ thể đàn ông sẽ nói lên điều gì? đằng sau những nốt ruồi ấy là bao nhiêu bí mật số mệnh của một người. Tất cả sẽ được trả lời trong bài viết dưới đây.
Nội dung
1 Ý nghĩa nốt ruồi trên cơ thể đàn ông
1.1 Ý nghĩa nốt ruồi ở phần chân
1.1.1 Vị trí số 1
1.1.2 Vị trí số 2
1.1.3 Vị trí số 3
1.1.4 Ví trí số 4
1.1.5 Ví trí số 5
1.2 Ý nghĩa nốt ruồi ở phần bụng
1.2.1 Ví trí số 7
1.2.2 Ví trí số 8
1.3 Ý nghĩa nốt ruồi phần vai và cánh tay
1.3.1 Ví trí số 6
1.3.2 Ví trí số 9
1.3.3 Ví trí số 10
1.3.4 Ví trí số 16
1.3.5 Vị trí số 17
1.4 Ý nghĩa nốt ruồi ở phần ngực
1.4.1 Vị trí số 11
1.4.2 Vị trí số 12
1.4.3 Vị trí số 13
1.4.4 Vị trí số 14
1.4.5 Vị trí số 15
1.5 Ý nghĩa nốt ruồi phần cổ
1.5.1 Vị trí số 18
1.5.2 Vị trí số 19
1.5.3 Vị trí số 20
Ý nghĩa nốt ruồi trên cơ thể đàn ông
Để phân tích ý nghĩa từng vị trí nốt ruồi trên cơ thể đàn ông, chúng tôi sẽ phân thành phần các phần bao gồm:
Phần ở chân gồm các vị trí nốt ruồi 1, 2, 3, 4, 5
Phần ở bụng gồm các vi trí nốt ruồi 7, 8
Phần ở vai và cánh tay gồm các nốt ruồi 6, 9, 10, 16, 17
Phần ở ngực gồm các vị trí nốt ruồi 11, 12, 13, 14, 15
Phần cổ gồm các vị trí nốt ruồi 18, 19, 20
Ý nghĩa nốt ruồi ở phần chân
Vị trí số 1
Tính cách hướng ngoại, năng động, dễ được cấp trên trọng dụng. Ngoài ra, rất thích đi đây đó du lịch, trải nghiệm cuộc sống.
Vị trí số 2
Tính tình thô bạo, hay bị kích động, nên trong công việc hay cuộc sống đều dễ đắc tội người khác. Ngoài ra, dục vọng lớn.
Vị trí số 3
Số gặp nhiều may mắn, dù là công việc hay cuộc sống đều được quý nhân giúp đỡ.
Ví trí số 4
Suốt đời gặp nhiều may mắn, làm việc gì cũng được quý nhân trợ giúp.
Ví trí số 5
Căng tràn sức sống, vượng vận đào hoa, ham muốn tình dục lớn. Nếu biết tiết chế bản thân đồng thời phát huy ưu điểm vượt trội, về hậu vận sẽ đạt được những thành tích đáng nể.
Ý nghĩa nốt ruồi ở phần bụng
Ví trí số 7
Thông thường, người này rất thích thưởng thức ẩm thực và có sức khỏe tốt. Trong cuộc đời kết giao nhiều bạn bè ở tứ phương, điều đó có lợi cho sự phát triển công danh sự nghiệp.
Ví trí số 8
Tài vận hanh thông, gặp nhiều may mắn, có nhiều cơ hội phát tài trong suốt cuộc đời, làm việc gì cũng được nhiều người giúp đỡ.
Ý nghĩa nốt ruồi phần vai và cánh tay
Ví trí số 6
Ý chí kiên định, nỗ lực hết mình để vượt qua khó khăn, biết quan tâm chăm sóc nửa kia của mình, số trường thọ.
Ví trí số 9
Tinh thần trách nhiệm cao, thích du lịch đây đó để trải nghiệm cuộc sống. Ngoài ra, người này rất thích nghiên cứu, có xu hướng trở thành chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật.
Ví trí số 10
Thích đi du lịch, làm việc có tinh thần trách nhiệm cao, thích hợp với những ngành nghề nghiên cứu về khoa học kĩ thuật.
Ví trí số 16
Đóng vai trò quan trọng trong việc gánh vác gia đình, nuôi vợ con. Nếu xung quanh vị trí này có thêm nhiều nốt ruồi khác, chứng tỏ số người phải chăm sóc, nuôi dưỡng càng nhiều hơn. Do áp lực quá lớn nên đôi khi cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi.
Vị trí số 17
Cũng giống như nốt ruồi bên vai phải, nốt ruồi này cho thấy đây là người có gánh nặng nuôi dưỡng vợ con trên vai. Ngoài ra, người này còn hay tranh luận với mọi người nên thường không được hoan nghênh. Công việc vì thế cũng bị ảnh hưởng.
Ý nghĩa nốt ruồi ở phần ngực
Vị trí số 11
Mối quan hệ với người khác giới hài hòa, nhưng lại không được họ chú ý hoặc có ấn tượng sâu sắc. Do đó, cuộc sống khá bình yên, thậm chí tẻ nhạt.
Vị trí số 12
Không để lại ấn tượng tốt trong mắt bạn bè, mọi người xung quanh. Chuyện tình cảm trắc trở, dễ rơi vào cuộc tình tay ba. Công việc cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Vị trí số 13
Tính tình keo kiệt, sức khỏe không tốt, thường mắc nhiều bệnh tật, đặc biệt là các bệnh về tiêu hóa. Tuy nhiên, tài vận rất tốt, không phải lo lắng về vật chất.
Vị trí số 14
Chăm chỉ, thích vận động, sức khỏe tốt. Nhưng chuyện tình cảm trắc trở, dễ rơi vào cuộc tình tay ba phức tạp.
Vị trí số 15
Số sinh được con cái hiếu thảo, cuối đời được hưởng phúc lộc từ con cái. Tuy nhiên, cần chú ý đến vấn đề sức khỏe.
Ý nghĩa nốt ruồi phần cổ
Vị trí số 18
Thích đi du lịch, dành phần lớn thời gian trong cuộc đời để đi đây đó khám phá cuộc sống. Tuy nhiên, cần chú ý an toàn, đặc biệt khi tham gia giao thông.
Vị trí số 19
Nhìn chung, cuộc sống hạnh phúc, đời sống hôn nhân gia đình viên mãn. Nhưng nếu xảy ra bất trắc ví dụ vợ chết sớm, người này có xu hướng tự sát.
Vị trí số 20
Được sinh ra trong gia đình giàu có, cuộc sống dư giả, không thiếu bất cứ thứ gì. Do đó, người này vô cùng tự tin và tỏ ra kiêu ngạo. Suốt đời người này hầu như dựa dẫm vào cha mẹ.
Trên đây là bài viết hướng dẫn cho các bạn xem tướng nốt ruồi trên cơ thể đàn ông. Thông qua những nốt ruồi ấy bạn có thể biết được nhiều điều về bản thân. Mặt khác khi bạn đang sở hữu nốt ruồi không tốt ở trên cơ thể thì bạn cũng đừng quá buồn. Vì bạn có thể thay đổi vận mệnh của mình thông qua những công việc có ích, giác tâm theo phật, tránh làm những điều xấu để thay đổi số mệnh của mệnh nhé!
Sao Phá Quân thuộc dương Thủy, chòm Bắc Đẩu, hóa thành hao tinh. Phá Quân tọa mệnh là lá số tử vi của người có nghị lực.
Người có Phá Quân lâm mệnh mà nhập miếu thì trung hậu, thiện lương; vượng địa thì ngay thẳng, kiên nhẫn, có nghị lực. Nhưng nếu lạc hãm lại là người khó hòa hợp, thường xuyên tranh giành với người khác. Phá Quân Hóa Lộc, hoặc Hóa Quyền, hoặc Lộc Tồn tại mệnh, chủ vì quốc gia mà lâm trận, gia nhập quân ngũ, người khoan dung, phúc hậu, có chí tiến thủ. Nếu có sao Tử Vi đồng cung thì có quý nhân trợ giúp, thăng tiến bất ngờ. Tại cung Tuất mà có Phá Quân, Tử Vi đồng cung thì cuộc đời ắt gặp tai ương, bệnh tật kéo dài, cẩn thận bệnh tim, thận hoặc dạ dày. Người này có nhiều cố gắng, có sở trường, yêu nghệ thuật nhưng cuộc đời phong ba, không đi thừa hưởng tổ nghiệp của gia đình, khắc vợ con nên gia đình thiếu hạnh phúc. Nếu đạt thành cũng chỉ giàu có chứ không có tiếng tăm, danh vọng. Tại cung Tỵ mà Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung, Phá Quân Hóa Lộc, chủ được người đời kính trọng, lập nên công trạng hiển hách. Dần Thân cung lập mệnh, chủ còn nhỏ đã phải rời bỏ quê hương, hiếu thảo với cha mẹ, tính cách quật cường, có phần hơi nông nổi nhưng tinh thông nghề nghiệp. Phá Quân đồng cung Xương Khúc là lá số tử vi của người có dáng vẻ thư sinh nho nhã. Nhưng gặp Kình Dương, Đà La thì đào hoa quanh người mà vẫn cô độc. Người nữ có Phá Quân tọa mệnh ở Tý - Ngọ chủ có phúc phận, giàu sang, vượng phu ích tử, được nhờ nhà chồng. Nếu tọa ở hai cung Tỵ - Hợi thì tính tình kiên cường, có khí chất của nam nhi. Tọa ở hai cung Dần – Thân hình phu khắc tử, cha mẹ mất sớm, tự lực tự cường không được ai trợ giúp, tình duyên trắc trở. Theo 360doc
Bất kỳ phụ nữ nào cũng luôn mong muốn mình sẽ tìm được một đấng lang quân tốt, yêu vợ thương con. Dưới đây là một số đặc điểm có thể giúp bạn tìm được người chồng ưng ý. Tục ngữ có câu: "Đàn ông sợ nhất là làm sai nghề, phụ nữ sợ nhất là lấy nhầm chồ