Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Tìm hiểu sơ lược hai chữ bùa chú.
Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1/. Chữ Bùa nguyên Hán văn là PHÙ 

Chữ PHÙ ở đây có ý nghĩa chính là: “sự kết hợp Âm Dương hoàn hảo”, tức là sự suy nghĩ và hành động của con người, sống phải có nhân cách và đúng đạo lý…, Nó thể hiện uy vũ thiêng liêng, đầy quyền năng bí ẩn cao cả, bao la và vĩnh cữu. Tinh thần và quyền lực của Bùa được thể hiện qua các hình thức như: Phù điêu, đồ trang sức, cột mốc ranh giới, cái ổ khóa, binh khí, bảng hiệu, bảng chỉ dẫn, bảng cấm, cái đánh dấu riêng vào vật có chủ, nhà giam, v.v...

Bùa có hai loại: 1-  Có hình dáng: Chữ bùa. 2-  Không hình dáng: Bùa bóng.

 Những nét bùa thể hiện sự biến chuyển tư tưởng trong tính Âm Dương, Bát quái, Ngũ hành..., vì vậy nó như một loại vũ khí hay lệnh bài… có mang năng lượng và quyền lực bí ẩn đến khắp nơi và tồn tại trong vũ trụ rất lâu dài.

2/. Chữ Chú là từ Hán văn: Theo phân tích, chữ CHÚ có hai chữ khẩu phía trên, ý nghĩa chính là thể hiện quyền lực bằng lời nói, có hai cách: -   Nội dung chú ác: Mệnh lệnh, quyết định, nguyền rủa, bản án… -  Nội dung chú thiện: Chúc nguyện, cầu xin, hướng dẫn, lời hứa, khuyên bảo, lệnh truyền, lời nguyền của đấng cao cả, v.v...

Chú có hai dạng: 1-  Thần chú: Những bài chú có sẵn từ trước...  do các đấng  cao cả truyền lệnh, thần chú  là những thông tin huyền bí và có năng lực mầu nhiệm, ta đọc thần chú của ai thì vị đó hộ trì… 2-  Ý chú: Bài chú do chính mình đang sáng tạo ra....

Chú thể hiện qua hai cách:

1-  Có âm thanh: Đọc lời chú. 2-  Không âm thanh: Trong đầu ngầm phát lệnh.

3/. Giá trị và sự diệu dụng của bùa chú:

- Hình ảnh và nội dung của bùa chú là kết tinh của trí tuệ siêu việt trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa. - Bùa chú bao hàm đạo học tâm linh, luật pháp siêu hình, y thuật đa năng… góp phần giúp ích sự an sinh xã hội sức khỏe, bình an và hạnh phúc... - Bùa chú có công năng chữa lành thân bệnh và tâm bệnh, bảo vệ thân mạng, tài sản, giúp đỡ người hiền lương, răn dạy và trừng phạt kẻ tà tâm gian ác, ma quỉ lộng hành, v.v... - Bùa chú thông qua các vật thể để được sự linh ứng như: dầu, nước, lửa, giấy, chỉ, cát, đất, đá, sành sứ, gỗ, lá cây, gốc lúa, củ ngải, kim loại, xác động vật và vị thế ao hồ, núi, sông, v.v... -  Năng lực của bùa chú rất phi thường mang đến những hiệu quả rất cao và nhanh chóng.

4/ Phương cách sử dụng Bùa chú: Có khi chỉ dùng chữ bùa mà không có câu chú; Có lúc chỉ sử dụng câu chú mà không có chữ bùa kèm theo; Có nhiều trường hợp phải dùng cả chữ bùa và câu chú... mới có hiệu quả. Có những điều huyền diệu như thế, đều do vị chân sư quyết định khi tạo ra năng lực cho chữ bùa – câu chú...

5/ Nhận định từ bùa chú: Xưa nay, chữ phù chú hay bùa chú đều có trong Hán Việt từ điển và Từ điển Việt Nam. Nếu dùng từ hoa mỹ hơn để thay thế từ “phù” – bùa, “chú” sẽ làm mất đi giá trị ý nghĩa đặc thù của nó.
Đạo sĩ Kim Kang ta nói: “Bùa chú không có tính tôn giáo, bùa chú thể hiện sức sáng tạo của con người trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa, nó là loại khí công thượng thừa dùng để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, bùa chú có tính khoa học tâm linh rất sâu sắc nên bản thân bùa chú không phải là những điều mê tín, mà chỉ có những người không muốn hiểu biết về nó đã khoác lên bùa chú chiếc áo đầy sắc màu mê tín”.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton. Alexander Hamilton (11/1/1757 – 12/7/1804) là một trong những Nhà Khai quốc của Hoa kỳ
Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton. Alexander Hamilton (11/1/1757 – 12/7/1804) là một trong những Nhà Khai quốc của Hoa kỳ. Ông là một trong những người lãnh đạo trong Hội nghị Lập hiến Hoa Kỳ năm 1787, đồng thời cũng là người thiết lập hệ thống tài chính – ngân hàng Mỹ, trở thành Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên khi ông mới 32 tuổi.

Sự nghiệp chính trị của Hamilton có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Mỹ. Ông là một trong những người thành lập Đảng Liên bang, một đảng phái chính trị đầu tiên của Mỹ, tiền thân của đảng Cộng hòa sau này.

Tác phẩm xuất sắc nhất của Hamilton, Người liên bang – The Federalist Papers, được viết chung với James Madison, chứa đựng những tư tưởng lớn lao làm nền tảng, giải thích rõ ràng về ý nghĩa và mục đích của Hiến pháp Hoa Kỳ, lột tả chính xác bản chất của chính quyền khi gắn nó với bản chất của con người và những quyền lợi cá nhân. Tác phẩm được coi sánh ngang với những danh tác chính trị của nhân loại như Nền cộng hoà – Republic của Plato, Khoa học chính trị – Politics của Aristotle, Uy quyền tối cao – Leviathan của Thomas Hobbes.

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Nghệ thuật đọc là lướt qua một cách khôn ngoan.

The art of reading is to skip judiciously.

Có sự nhiệt huyết rõ ràng đối với tự do, khiến bản tính con người vượt lên trên chính nó, trong những hành động can đảm và anh hùng.

There is a certain enthusiasm in liberty, that makes human nature rise above itself, in acts of bravery and heroism.

Khi thanh kiếm đã được rút ra, cơn cuồng nộ của con người không có giới hạn kiềm chế.

When the sword is once drawn, the passions of men observe no bounds of moderation.

Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước.

There are seasons in every country when noise and impudence pass current for worth; and in popular commotions especially, the clamors of interested and factious men are often mistaken for patriotism.

Trao tất cả quyền lực cho số đông, họ sẽ đàn áp số ít. Trao tất cả quyền lực cho số ít, họ sẽ đàn áp số đông.

Give all the power to the many, they will oppress the few. Give all the power to the few, they will oppress the many.

Tôi cho rằng nghĩa vụ đầu tiên của xã hội là công lý.

I think the first duty of society is justice.

Tôi không bao giờ chờ đợi thấy được công việc hoàn hảo từ người không hoàn hảo.

I never expect to see a perfect work from imperfect man.

Người không đứng lên vì điều gì không sụp đổ vì điều gì.

Those who stand for nothing fall for anything.

Giọng của nhân dân được coi là giọng của Chúa; và, cho dù câu cách ngôn này được lặp lại và tin tưởng rộng rãi tới như thế nào, nó không đúng với sự thật. Nhân dân hỗn loạn và thay đổi, họ hiếm khi phán đoán hay quyết định đúng.

The voice of the people has been said to be the voice of God; and, however generally this maxim has been quoted and believed, it is not true to fact. The people are turbulent and changing, they seldom judge or determine right.

Một quốc gia ưa chuộng sự hổ thẹn hơn là nguy hiểm đã chuẩn bị để đón kẻ thống trị, và đáng như thế.

A nation which can prefer disgrace to danger is prepared for a master, and deserves one.

Lời nói dữ dội hiếm khi hữu dụng. Sự kiên quyết thực sự tốt cho mọi thứ. Vẻ khệnh khạng chẳng tốt cho điều gì cả.

Hard words are very rarely useful. Real firmness is good for every thing. Strut is good for nothing.

Thứ quyền lực chi phối sinh kế của một người là thứ quyền lực chi phối ý chí của anh ta.

Power over a man’s subsistence is power over his will.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay

Mỗi năm tương ứng với mỗi con giáp khác nhau, và năm Đinh Dậu nhà bạn sẽ giàu có sung túc nếu chọn được vật phẩm phong thủy phù hợp sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật phẩm phong thủy đa phần đều mang ý nghĩa tốt lành, cải thiện vận xui thành may cho gia đạo. Tùy theo ý định của gia chủ mà có thể chọn các vật phẩm phong thủy phù hợp với gia đình, nhưng nhìn chung đều cần tuân theo 5 yếu tố cơ bản: Kim (các đồ trang trí bằng kim loại như đế đèn, giá treo quần áo…), Mộc (nội thất chất liệu gỗ như bàn, ghế, sàn nhà…), Thủy (thác nước để bàn, bể cá…), Hỏa (nến, lò sưởi, bếp…), Thổ (các chậu cây cảnh, chậu hoa trong nhà…) – cũng cần phải được cân bằng.

Một số vật phẩm phong thủy sẽ giúp tiền vô như nước trong năm Đinh Dậu là:

Gương

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Những tấm gương phản chiếu không chỉ khiến không gian phòng ốc trông rộng rãi, thông thoáng hơn mà nó còn giúp tăng vượng khí trong nhà. Tuy nhiên, cần lưu ý không đặt gương đối diện ở cửa ra vào, sự phản chiếu của tấm gương sẽ gây phản xạ vượng khí khiến tài lộc khó lòng vào nhà.

Chuông gió

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Ngoài việc là món đồ trang trí dễ thương với những âm thanh trong trẻo vui tai, chuông gió còn giúp mang luồng khí tốt vào nhà. Vậy nên, ngại gì không sắm ngay 1 em chuông gió treo ở cửa sổ hay cửa ra vào mọi người nhỉ?

Cây xanh

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

Có một số cây xanh không cần chăm sóc nhiều nhưng vẫn tươi tốt, rất hợp để trưng trong nhà. Vừa góp phần thêm mảng xanh vào cuộc sống, lại vừa thu hút tài lộc. Gia chủ có thể tham khảo các loại cây như: thần tài, thiên tuế...

Bồn cá, chậu nước

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 4.

(Ảnh: Internet)

Đây là những vật phẩm phong thủy có ẩn ý hút tài lộc dồi dào. Nếu nhà bạn diện tích không quá lớn bạn có thể thay thế bằng các bức tranh có nước như thác nước, dòng sông...

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay

Như thế nào thì được gọi là người Cư sĩ thuần thành?

Thật ra, người cư sĩ thuần thành Phật tử chân chính cần phát huy tu tập theo lời Thế Tôn đã dạy để tự hoàn thiện mình và góp phần xiển dương Chánh pháp
Như thế nào thì được gọi là người Cư sĩ thuần thành?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy

1. – Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Rồi Thích tử Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ?
– Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahànàma, là người nam cư sĩ thuần thành

2. – Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người nam cư sĩ giữ giới?

– Này Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ thuần thành

3. – Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người nam cư sĩ thuần thành , vì tự lợi chứ không vì lợi tha?

– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành tựu lòng tin cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu lòng tin; thành tựu giữ giới cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu giữ giới, thành tựu bố thí cho mình, không khích lệ người khác thành tựu bố thí;

  • muốn tự mình đi đến yết kiến các Tỷ-kheo, không có khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ kheo;
  • chỉ tự mình muốn nghe diệu pháp, không khích lệ người khác nghe diệu pháp;
  • tự mình thọ trì những pháp đã được nghe, không khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe;
  • tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì, không khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì;
  • sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện tùy pháp, đúng Chánh pháp, không khích lệ người khác thực hiện tùy pháp, đúng Chánh pháp.

Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành  vì tự lợi, không phải vì lợi tha.

4. – Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là nam cư sĩ thực hành vừa tự lợi, vừa lợi tha?

– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành vì tự lợi và lợi tha.

(Kinh Tăng Chi Bộ III, chương 8, phẩm Gia chủ)

SUY NGHIỆM:

Thông thường, người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, thọ trì năm giới cấm được chư Tăng khuyến khích tu học, tụng niệm, làm việc thiện và tham gia các Phật sự nói chung. Những pháp tu ấy được xem như phận sự căn bản của người Phật tử. Tuy vậy, đi sâu vào chi tiết, cụ thể về phận sự của người cư sĩ, Đức Thế Tôn đã khái quát thành bốn pháp tu: 1-Quy y Tam bảo, 2-Thọ trì năm giới, 3-Tự lợi, 4-Lợi tha.

Khi một người đối trước Tam bảo, tự mình ba lần nói lời phát nguyện trọn đời quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng, sẽ chính thức trở thành Phật tử. Điều cần lưu ý ở đây là tự mình phát nguyện quy y trực tiếp với Tam bảo (không vắng mặt), không bị ai ép buộc, phải đủ nhận thức để tự giác phát nguyện (không quá nhỏ dại) thì pháp quy y mới thành tựu.

Sau khi quy y, dù không bắt buộc thọ hết cùng lúc cả năm giới cấm, nhưng Thế Tôn luôn khuyến khích các cư sĩ phát tâm thọ trì đầy đủ. Bởi năm giới là chuẩn mực đạo đức căn bản mà người cư sĩ phải thành tựu, trước để xây dựng hạnh phúc và an lạc trong đời sống thế tục hiện tại, sau làm nền tảng để thăng hoa tâm linh và thành tựu các quả vị.

Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy trong đời sống hàng ngày. Đây gọi là tự lợi.

Tuy vậy, tự lợi và lợi tha phải song hành mới viên mãn hạnh nguyện của người cư sĩ. Do đó, vừa tu tập vừa khích lệ những người khác tu tập như mình (hoằng pháp) là pháp tu quan trọng mà hàng cư sĩ luôn phấn đấu để thành tựu.

Trong bối cảnh các thế lực ngoại đạo đang nỗ lực cải đạo, các tà sư tà giáo (điển hình như Thanh Hải, Duy Tuệ…) núp bóng Phật giáo để phá hoại Chánh pháp ngày càng gia tăng, thiết nghĩ người cư sĩ thuần thành Phật tử chân chính cần phát huy tu tập theo lời Thế Tôn đã dạy để tự hoàn thiện mình và góp phần xiển dương Chánh pháp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Như thế nào thì được gọi là người Cư sĩ thuần thành?

Doanh nhân tuổi Ngọ

Doanh nhân tuổi Ngọ là những người sinh năm 1942, 1954, 1966, 1978. Họ có chí tiến thủ, giàu tinh thần tự lập tự cường. Đây cũng là những người dũng cảm, không
Doanh nhân tuổi Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ngại gian khổ và thử thách. 

Doanh nhan tuoi Ngo hinh anh
Tuổi Ngọ

Trong quan hệ làm ăn, doanh nhân tuổi Ngọ khá chân thành, đáng tin cậy. Họ luôn giữ chữ tín với bạn hàng. Họ cũng không ngại khi phải đối mặt với hiểm nguy để giải quyết vấn đề nếu có sự cố nảy sinh. Doanh nhân tuổi Ngọ là những người nhanh nhạy trong cả lời nói và hành động. Họ giỏi quan sát thị trường cũng như nắm bắt sự biến động của nó để tìm ra hướng đi đúng cho công việc của mình. Họ cởi mở, vui tính, thích sự tự do và luôn muốn được làm việc theo sở thích.

Nhược điểm của doanh nhân tuổi Ngọ là thiếu kiên nhẫn, thường "đứng núi này trông núi nọ". Nữ doanh nhân tuổi Ngọ là người ham hoạt động. Họ cũng có khả năng đảm nhiệm và thực hiện nhiều công việc khác nhau trong cùng một thời gian.

Theo Việt Báo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Ngọ

Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Mơ thấy cha mẹ rời xa mình, thực tế giấc mơ này không đáng buồn như bạn nghĩ, nó ngụ ý bạn sẽ gặp nhiều may mắn trong tình yêu.
Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy cha mẹ rời xa mình, bạn giật mình tỉnh giấc và khóc nức nở, thế nhưng giấc mơ này không đáng buồn như bạn nghĩ, nó ngụ ý bạn sẽ gặp nhiều may mắn trong tình yêu.


giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
 
  Mơ thấy rời xa cha mẹ mà trở thành trẻ mồ côi ngụ ý mặt tình yêu sẽ có nhiều vận may tốt đẹp. Nếu bạn đã có người trong mộng thì đừng trì hoãn hãy nhanh chóng tấn công, bạn sẽ không bị từ chối nữa đâu.

 
Giải mã giấc mơ thấy mình biến thành trẻ con tương phùng với cha mẹ ngụ ý việc may mắn sắp xảy ra. Bạn có thể thử hưởng thụ cảm giác nhàn nhã như uống cafe, xem phim hay mua xổ số.

 
Mơ thấy bị cha mẹ la mắng một trận là mặt sức khoẻ có điềm không lành, trong đó cần chú ý những sự cố bất ngờ, lúc lên xuống xe hay đi qua đường thì cần chú ý.

 
Mơ thấy cha mẹ ly hôn ngụ ý chuyện tình cảm bạn bè không được như ý, bạn vô ý mà nói lời tổn thương gây hiểu nhầm với chúng bạn. Nếu bạn không giải quyết thì bạn bè sẽ xa lánh bạn ngay đó.

 
Mơ thấy được mẹ yêu chiều ngụ ý chuyện tình cảm gặp điềm tốt đẹp. Nơi hẹn hò tốt nhất nên chọn những địa điểm yên tĩnh như thư viện, bảo tàng hay công viên trong ánh hoàng hôn.

 
Mơ thấy cha mẹ nói cười vui vẻ ngụ ý trong nhà sắp có gió bão. Bạn sắp có tình cảm chán ghét cha mẹ, sẽ bỏ nhà ra đi. Bạn vẫn chưa trưởng thành, không nên vì chút tức giận bồng bột mà hối hận cả cuộc đời.

giai ma giac mo hinh anh 2
Ảnh minh họa
Mơ thấy sắc mặt mẹ mình rất đáng sợ và còn đuổi theo mình hoặc nắm cổ mình ngụ ý bạn có cảm giác tội lỗi với mẹ bạn, có thể cảm giác về đạo đức, cảm giác giày vò nếu được hãy thành thật với mẹ những việc sai lầm và sửa chữa nó.

 
Mơ thấy mẹ mình thành cô dâu mặc váy cưới và tổ chức hôn lễ ngụ ý mẹ bạn sắp đối diện với nguy hiểm, có thể là bệnh nặng hoặc tử vong.

 
Mơ thấy mình nghe thấy mẹ gọi ngụ ý bạn là một đứa con vô trách nhiệm, và con đường sự nghiệp bạn đang theo đuổi không hề chính đáng.

 
Mơ thấy được mẹ quan tâm chăm sóc ngụ ý mặt tình yêu sẽ có tiến triển.

 
Mơ thấy mình cảm giác được sự bất an của mẹ ngụ ý nhắc nhở bạn sắp đối diện với nguy hiểm, có thể tiền đồ không có tương lai.
 
Mơ thấy mẹ khóc có thể không phải là chuyện xấu, ngụ ý bạn đang bước đi độc lập hoặc rơi vào lưới tình.

 
Mơ thấy mẹ đang ôm mình trong lòng ngụ ý chuyện đau khổ sắp qua đi, bạn sắp thoát khỏi khó khăn gia đình hạnh phúc, cuộc sống an định.

 
Người trưởng thành mơ thấy mẹ của mình ngụ ý học tập và công việc thuộc trạng thái hài hoà, có cảm giác hạnh phúc.

 
Nam đã kết hôn mơ thấy có một người con gái đang đi bộ với mẹ ngụ ý bạn đang mong mỏi chuyện ngoại tình.

 
Người già mơ thấy người mẹ đã đi xa ngụ ý sức khoẻ chuyển xấu, biểu hiện người mơ giấc mơ này có tâm lý phòng ngự và khống chế đang đi xuống.

giai ma giac mo hinh anh 3
Ảnh minh họa
Mơ thấy cha có bệnh cần chú ý tới sức khoẻ của bản thân và vợ.

 
Mơ thấy người cha đã qua đời sắp thoát khỏi khó khăn.

 
Mơ thấy cha mình đi xa ngụ ý bạn đang chìm đắm trong một cuộc sống dễ dãi và cha mẹ sẽ gặp khó khăn.

 
Mơ thấy mình được đi du lịch với cha mẹ là điềm báo gia tộc có khó khăn, rơi vào tình trạng phá sản.

 
Mơ thấy mình làm bố dự báo sự nghiệp sẽ thành công.

 
Mơ thấy mình cãi nhau với bố phản ánh tâm lý phản kháng mạnh mẽ của bạn đang tiềm tàng và bạn có chút bất mãn với những trói buộc về đạo đức hiện thời.

 
Mơ thấy mình bị bố mắng nhắc nhở bạn đề phòng những sự cố bất ngờ, có thể là bệnh tật, thương vong… 
 
Mơ thấy cha hoặc mẹ mắc bệnh hoặc qua đời ám chỉ sắp gặp khó khăn về sự nghiệp hoặc địa vị.

 
Mơ thấy cha mẹ đi du lịch, ra khỏi nhà hoặc vẫy tay với người nhà phải để ý sức khoẻ của cha mẹ, điềm báo về những biến cố lớn trong cuộc sống.

 
Mơ thấy người cha đã mất dắt một con bò đi vào núi sâu, hoặc bị mất tích nơi xa ngụ ý cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn.

 
Mơ thấy người cha đã mất cười với mình ngụ ý bạn gặp điềm tốt.

 
Mơ thấy người cha đã mất đi trên đường hoặc bản thân bị họ đem đi ngụ ý những biến cố liên quan tới sinh mệnh, có những biến cố đột nhiên xảy ra hoặc bệnh tật tạo thành tổn thất về tài sản.

 
Nữ chưa kết hôn mơ thấy cha mẹ và cảm thấy rất gần gũi với cha là bạn sắp được gặp một chàng trai mà mình thích, nhưng nếu như trong giấc mơ khiến bạn cảm thấy nguy hiểm.

 
Nữ mơ thấy người cha đã mất thì nên cẩn thận, bạn trai hiện tại đang muốn lừa bạn.
 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Tướng mặt phụ nữ gặp trắc trở trong hôn nhân

Song hành cùng với những tướng mặt tốt hiện ngay trên khuôn mặt, những đặc điểm dưới đây dự báo tình duyên hôn nhân trắc trở ở người phụ nữ.
Tướng mặt phụ nữ gặp trắc trở trong hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

1. Mũi thấp và mặt tròn
 
Trong Nhân tướng học, sống mũi là một trong những điểm dễ dự báo tình trạng hôn nhân ở nữ giới. Bởi chiếc mũi có ý nghĩa tượng trưng cho người chồng tương lai của phụ nữ.   Nếu nữ giới sở hữu một trong những đặc điểm tướng mũi dưới đây thường có đường tình duyên trắc trở, dễ gặp phải ưu phiền trong chuyện tình cảm, thậm chí dễ rơi vào tình trạng li hôn: mũi thấp, mềm, cong, lệch, sơn căn bị đứt, cánh mũi hẹp, đầu mũi nhọn, sống mũi thấp, đứt đoạn.
 
2. Mày dày mắt đỏ

Nếu lông mày quá dày, đen, dài và rộng; lông mày mọc lộn xộn ngược xuôi, chồng lên nhau thành tầng tầng lớp lớp là tướng mặt không tốt. Tướng mặt phụ nữ này là dấu hiệu cho thấy tình duyên trắc trở và dễ bị đa phu (kết hôn nhiều lần trong cuộc đời).

Tuong mat phu nu gap trac tro trong hon nhan hinh anh
Ảnh minh họa

3. Mắt tam bạch, tứ bạch

Đặc điểm của tướng mắt này là mắt quá to, tròng mắt trắng bao phủ gần như toàn bộ mắt. Nữ giới có tướng này đa phần gặp nhiều bất lợi trong tình duyên và có số đa phu. Nếu cộng thêm với đặc điểm là đường hôn nhân sâu đậm, là tướng khắc chồng, tái hôn nhiều lần hoặc hôn nhân trắc trở.

4. Miệng rộng

Nữ giới miệng rộng không khắc chồng nhưng lại chi tiêu hoang phí, không biết tích lũy. Trong Nhân tướng học cổ đại, người ta rất kị tướng miệng rộng ở phụ nữ. Người có miệng rộng thường có cuộc sống hôn nhân bất hạnh, sức khỏe của người chồng không ổn định, dễ mắc bệnh hiểm nghèo. 

5. Tướng mặt dữ tợn

Đặc điểm của tướng mặt dữ tợn là lông mày xếch ngược, trán cao hơn mức thường, tạo cảm giác khó chịu khi ai đó nhìn vào. Nữ giới có tướng mặt này dễ bị mọi người cho là không biết cách tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tham lam, thiếu nét dịu dàng đôn hậu. 
 
Ngoài ra, tướng mặt này không chỉ mang lại cảm giác hung tợn, khó chịu mà người này còn có cuộc sống hôn nhân không thuận lợi và dễ chịu nỗi bất hạnh bị bỏ rơi hoặc lừa gạt.
 
6. Đường Pháp lệnh quá sâu
 
Đường Pháp lệnh là đường chạy từ hai bên cánh mũi xuống tới cằm. Đường này phản ánh uy lực và khí thế của một người. Đó là tượng trưng cho mệnh lệnh, pháp chế và uy quyền.
 
Nếu nam giới có đường Pháp lệnh càng sâu càng tốt, chứng tỏ là người có sự nghiệp và địa vị cao trong xã hội. Tuy nhiên, nếu phụ nữ có đường Pháp lệnh quá sâu lại là điều không tốt.

Nữ mệnh có Pháp lệnh sâu phần lớn là khổ, đa phu, đặc biệt sẽ đơn độc khi về già. Đây cũng là tướng khắc phu và không mang lại lợi ích cho chồng con. Hôn nhân trắc trở đủ đường

7. Cằm quá nhọn
 
Cằm nhọn hay hiện nay gọi là cằm V-line. Mặc dù đang thịnh hành nhưng trong Nhân tướng học, đây là tướng mặt xấu. Nữ giới có cằm quá nhọn là người gian xảo, dễ trở mặt. Người này có số là thê thiếp chứ không được làm vợ chính thức. Theo đó, hôn nhân của họ cũng gặp muôn trùng cay đắng và khổ cực.   Theo XZ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt phụ nữ gặp trắc trở trong hôn nhân

Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót –

Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót? Quán quân thuộc về Song Ngư, các vị trí kế tiếp là Bò Cạp, Bảo Bình, Bạch Dương và Thiên Bình. Nhưng củ thể thế nào thì phải khám phá trong bài viết dưới đây nhé! Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót Quán quân: Son

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót? Quán quân thuộc về Song Ngư, các vị trí kế tiếp là Bò Cạp, Bảo Bình, Bạch Dương và Thiên Bình. Nhưng củ thể thế nào thì phải khám phá trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót
    • 1.1 Quán quân: Song Ngư
    • 1.2 Á quân: Bò Cạp
    • 1.3 Thứ 3: Bảo Bình
    • 1.4 Thứ 4: Bạch Dương
    • 1.5 Thứ 5: Thiên Bình

Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót

Quán quân: Song Ngư

Chòm sao này như có quý nhân phù trợ, giúp đỡ vượt qua mọi khó khăn, và hơn thế còn chiếm được cảm tình của đông đảo mọi người xung quanh. Khi được giao phó nhiệm vụ nào đó, bất kể việc đó là gì, Song Ngư đều vui vẻ nhận lời. Điều này khiến mọi người càng thêm yêu mến bạn.

song-ngu-7316-1396066085

Biểu hiện bên ngoài có vẻ rất ngoan hiền như vậy, nhưng thực chất Song Ngư đã tính toán đường đi nước bước cho mọi chuyện. Khả năng “ẩn hình” của một cao thủ nịnh hót như Song Ngư thật đáng nể phục, rất xứng đáng giữ ngôi vị số một trong “lĩnh vực” này.

Á quân: Bò Cạp

Bò Cạp vốn rất có tài ăn nói và ngoại giao. Mọi mối quan hệ với người cùng trang lứa hoặc với người bề trên, bạn đều xử lý một cách thông minh và êm thấm. Tuy nhiên, vì tính hiếu thắng và tham vọng lớn nên Bò Cạp không ngần ngại buông những lời mật ngọt, xu nịnh làm mềm lòng mọi người để đạt được mục đích.

bo-cap-1881-1395846333

Không chỉ dừng lại ở lời nói, bạn còn sẵn sàng tặng đồ cho người khác nhằm lấy lòng họ. Tuy những thứ này không đắt giá nhưng nó lại có giá trị tinh thần rất lớn. Bò Cạp rất thông minh khi “đánh trúng” tâm lý của mọi người.

Thứ 3: Bảo Bình

Sở trường của chòm sao này là phân tích và nghiên cứu, cộng thêm với tư duy nhạy bén và tính cách biết đặt mình vào vị trí của người khác để nhìn nhận sự việc, thành công là điều không khó với Bảo Bình.

bao-binh-9304-1396066084

Trước mặt mọi người, Bảo Bình chỉ nói những điều họ thích nghe mà giấu nhẹm sự thật phũ phàng về họ. Không ít người đã nhận ra sự xu nịnh này nhưng vẫn cảm thấy vui vẻ và thích thú bạn. Nhiều khi Bảo Bình nghĩ quá nhiều, làm cho thần kinh lúc nào cũng căng như dây đàn, thậm chí khi đi ngủ cũng nghĩ là làm sao để lấy lòng mọi người, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện ý đồ của mình.

Thứ 4: Bạch Dương

Nhiệt tình, vui vẻ là tính cách nổi bật ở Bạch Dương. Đôi khi vì muốn chinh phục tình cảm của người khác, chòm sao này nhiệt tình thái quá, không tiếc những lời khen hay tâng bốc điên đảo, miễn sao đạt được mục đích.

bach-duong-1471-1396538052

Vì quá chủ động và tích cực xu nịnh nên Bạch Dương quên mất bản thân đang trong trường hợp hay địa điểm nào, khiến cả hai phía phải ngượng ngùng, đỏ mặt. Không phải mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm đều có thể nói lời khen xu nịnh đâu Bạch Dương nhé.

Thứ 5: Thiên Bình

Nhìn bên ngoài sẽ không thấy được sự mạnh mẽ ở chòm sao này, mà ngược lại chỉ thấy sự nho nhã và điềm đạm. Do đó, các mối quan hệ xã giao của Thiên Bình đều rất hài hòa, không mất lòng ai bao giờ.

7-thien-binh-6348-1395124052

Thiên Bình tỏ ra khá hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình bây giờ. Nhưng khi có được cơ hội để phát triển và chứng tỏ bản thân, bạn không ngại ngần dùng lời đường mật, khen ngợi, thậm chí là ca ngợi người khác để tiến đến đích nhanh hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao nào là chuyên gia nịnh hót –

Số điện thoại thế nào là đẹp trong phong thủy

Người Hoa không thích số 4 vì họ phát âm là Tứ giống như chữ “Tử” (chết). Tuy nhiên nó không đến nỗi trầm trọng như vậy. Còn có nghĩa khác là cái Vú
Số điện thoại thế nào là đẹp trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con số thế nào là đẹp??? sim phong thủy đẹp được quan niệm như thế nào ?? Các số được đọc như sau: 1 – chắc (chắc chắn), 2 – mãi (mãi mãi), 3 – tài, 4 – tử, 5 – ngũ (hoặc “ngủ”), 6 – lộc, 7 – thất, 8 – phát, 9 – thừa. Thế nên mới sinh ra chuyện khó phân giải: những người Việt mê số đề thì thích SIM số 78 (ông địa) nhưng người Hoa lại không thích vì 78 được đọc thành “thất bát”.

Riêng các số 0, 1, 9 thì chỉ có nghĩa khi đứng chung với số khác, số 1 tượng trưng cho sự khởi đầu nên cần đứng trước, số 9 tượng trưng cho sự kết thúc nên cần đứng cuối cùng.

Ví Dụ: SIM 040404 (“không tử”) thì sẽ đắt hơn so với 141414 (“chắc tử”)

9: đẹp, là con số tận cùng của dãy số 0-9 vĩnh cửu trường tồn

8: “phát” -> đẹp, nhưng những người làm cơ quan nhà nước hay dính liếu nhiều tới pháp luật thì hơi sợ một chút vì nó giống cái còng số 8

6: “lộc” -> đẹp, tuy nhiên tránh đi với số 9 để tạo thành 69 hoặc 96, rất dễ bị hiểu lầm vì đây biểu tượng của giới đồng tính

-> 6 và 8 ghép lại là “lộc phát”(68) hoặc “phát lộc”(86)

06, 46, 86: Con Cọp (Hổ)

4: người Hoa không thích vì họ phát âm là Tứ giống như chữ “Tử” (chết). Tuy nhiên nó không đến nỗi trầm trọng như vậy. Còn có nghĩa khác là cái Vú. Bạn nào tinh ý sẽ nhận ra hãng điện thoại di động NOKIA nổi tiếng toàn cầu luôn lấy các con số từ 1 tới 9 để đặt tên cho các dòng sản phẩm khác nhau dành cho các mức độ khác nhau nhưng tuyệt đối là không bao giờ có Nokia 4xxx đơn giản vì hãng này duy tâm cho rằng đặt tên máy là Nokia 4xxx sẽ gặp rủi ro vì “chết”.

39, 79: Thần Tài. 39 là thần tài nhỏ,79 là thần tài lớn

38, 78: Ông Địa. Tuy nhiên, coi chừng 78 phát âm là “Thất bát” (làm ăn lụn bại)

7 là thất (mất mát), 8 là phát nhưng 78 đi liền kề nhau lại bị đọc là thất bát không hay

37, 77: Ông Trời

40, 80: Ông Táo, Lửa

17, 57, 97: Con Hạc -> dành cho ai muốn trường thọ

0: là âm -> thích hợp cho phụ nữ. Ngược với 0 là số 9 (dương, nam giới) -> 09 hợp thành âm dương hòa hợp -> tốt. Những bạn nữ NÊN chọn mua những Sim như kiểu 000, 0000 hay đặc biệt hơn là 00000 (vượng khí)

07: con heo con

10, 50, 90: con rồng nước

26, 66: con rồng bay

03, 43, 83: số này không đẹp (không tiện bàn). 22, 62 cũng vậy

35: Con dê

21: Con đĩ (cave)

19, 59, 99: Con Bướm -> Đẹp

32, 72: Vàng. Còn là “con rắn” -> nguy hiểm cắn chết người

33, 73: Tiền. Tuy nhiên còn là “con nhện” -> con nhện giăng tơ làm cho cuộc đời rối rắm, tình yêu mịt mù

36, 76: thầy chùa hoặc bà vãi trong chùa

31: dành cho cánh mày râu yếu sinh lý vì nó là “cái ấy” -> số 1 cũng giành cho giới đồng tính.

2, 42, 82: con ốc -> bò lê chậm chạp

12, 52, 92: con ngựa -> chạy nhanh

Còn nhiều ví dụ nữa nhưng không đáng chú ý lắm, còn tùy thuộc nó ghép với số nào nữa mới luận được tốt xấu thế nào. Nếu lỡ mua nhằm số không đẹp thì nên bán đi là vừa, không nên tiếc. Vậy nên trước khi mua số nào cần tham khảo thật kĩ lưỡng.

Để có được những số điện thoại vừa đẹp vừa hợp phong thủy thì nên nhớ rằngSim Số Đẹp không phải bao giờ cũng là sim thích hợp nhất với bạn, có người bỏ ra nhiều tiền mua 1 cái SIM ĐẸP nhưng chưa chắc đã hiểu hết nó đẹp thế nào và có dám chắc là hợp với mình hay không. Vì ngoài các quan niệm ra thì phải tính đến chuyện hòa hợp âm dương, ngũ hành… mà việc này chỉ những chuyên gia phong thủy nhiều kinh nghiệm mới có thể giúp được. Ngoài ra có thể nhờ đến sự trợ giúp của các phần mềm xem số đẹp tự động, tuy nhiên độ chính xác, trust (độ tin tưởng) không cao, không nên tin theo quá mù quáng!

Dãy số đuôi 1368 thực sự là dãy số rất chi là đặc biệt, dân Sim số thường quan niệm con số 1 là Sinh (sinh sôi nảy nở), 3 là tài, 68 là lộc phát -> 1368 là Sinh Tài Lộc Phát rất đẹp với dân làm ăn buôn bán. Tuy nhiên dãy số 1368 còn có một điểm rất đặc biệt mà ít người phát hiện ra đó là : 123+456+789=1368 , đây là 3 cặp số nối tiếp nhau trong dãy số tự nhiên từ 0-9 cộng tổng lại thành ra 1368, có thể hiểu 1368 là chuỗi số đại diện cho sự tổng hòa các con số có đẹp có xấu và mang tính chọn lọc cao nhất của dãy số tự nhiên. Vậy có thể coi 1368 là đẹp? Hơn nữa 1368 lại không chứa các số bị coi là xấu như 4 và 7 trong đó nên càng mang tính chọn lọc rất cao, âm dương hài hòa (1, 3 số âm – 6,8 là số dương) và đây là số tiến đều không bị ngắt đoạn lên xuống chập chùng, nên chỉ sự thăng tiến cho chủ nhân của con số này.

Tham Khảo Thêm Ý nghĩa các con số trong phong thủy

Vạn vật sinh ra đều gắn liền với các con số. Mỗi chúng ta sống trong vạn vật cũng đều có các con số gắn với mình. Tỉ như, khi chưa sinh ra bào thai cũng được tính tới 9 tháng 10 ngày; năm nay anh bao nhiêu tuổi, năm tới chị bao nhiêu xuân; theo các nhà tướng số thì thường có câu: chị này có số may, sống chết đều có số cả; hay nói tới các vật gắn liền với cuộc sống hàng ngày là tôi mặc áo 40 đi giày 42,… Chính vì vậy, qua thời gian nhân loại đã tổng hợp, đúc kết thành những quan niệm thể hiện qua các văn hóa vật thể và phi vật thể những công trình, kiệt tác ít nhiều có các con số gắn liền. Dưới đây là những quan niệm về các con số:

Số 1 – Số sinh

Theo dân gian, số 1 là căn bản của mọi sự biến hóa, là con số khởi đầu, luôn đem lại những điều mới mẻ, tốt đẹp, đem tới 1 sinh linh mới, 1 sức sống mới cho mọi người.

Số 2 – Con số của sự cân bằng

Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.

Ý nghĩa các số điện thoại đẹp trong phong thủy

Số 3 – Con số Thần bí

Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau, người xưa thường dùng các trạng thái, hình thể gắn với con số 3 như: Tam bảo (Phật – Pháp – Tăng), Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), Tam thời (Quá khứ – Hiện tại – Vị lai), Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ), Tam đa (Đa phúc, Đa lộc, Đa thọ), Tam tài (Thiên, Địa, Nhân)

Số 4 – Nhiều quan điểm khác nhau

Người Trung Hoa thường không thích số 4, nhưng nếu không sử dụng số 4 thì không có sự hài hòa chung, như trong âm dương ngũ hành có tương sinh mà không có tương khắc. Trong dân gian Việt Nam, con số 4 lại được sử dụng khác nhiều, biểu trưng cho những nhận định – Về hiện tượng thiên nhiên: Tứ phương (Ðông, Tây, Nam, Bắc). Thời tiết có bốn mùa ( Xuân, Hạ, Thu, Đông). Bốn cây tiêu biểu cho 4 mùa (Mai, Lan, Cúc, Trúc). – Về hiện tượng xã hội: Ngành nghề, theo quan niệm xưa có tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương). Về nghệ thuật (Cầm, Kỳ, Thi, Họa). Về nghề lao động (Ngư, Tiều, Canh, Mục). Tứ thi (Ðại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử). Tứ bảo của trí thức (Giấy, Bút , Mực, Nghiên). Tứ đại đồng đường (Cha, Con, Cháu, Chít) – Về con người: Người ta quan niệm về trách nhiệm của một công dân (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).Về đạo đức của con người (Hiếu, Lễ, Trung, Tín). Ðối với phái nữ : (Công, Dung, Ngôn, Hạnh). Tứ bất tử (Thần, Tiên, Phật, Thánh). Tứ linh (Long, Ly, Qui, Phượng). Tứ đổ tường (Tửu, Sắc, Tài, Khí ).Tứ khoái. Con người có 4 khoái

Số 5 – Điều bí ẩn (cũng là số sinh)

Số 5 có ý nghĩa huyền bí xuất phát từ học thuyết Ngũ Hành. Mọi sự việc đều bắt đầu từ 5 yếu tố. Trời đất có ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) – Người quân từ có ngũ đức (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) – Cuộc sống có ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh). Số 5 còn là số Vua, thuộc hành Thổ, màu Vàng. Ngày xưa những ngày 5, 14 (4+1=5), 23 (2+3=5) là những ngày Vua thường ra ngoài nên việc buôn bán bị ảnh hưởng. Bây giờ không còn Vua nữa nên mọi người đi đâu vào ngày này thường ít đông và dễ chịu. Không hiểu sao người lại kiêng cử đi lại ngày này. Ngũ đế (Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Nghiêu, Thuấn). Ngũ luân (Vua tôi, Cha con, Vợ chồng, Anh em, Bạn bè).

Số 6 – 8: Con số thuận lợi và vận may

Số 6 và 8 theo người Trung Hoa thì sẽ đem tới thuận lợi về tiền bạc và vận may cho người dùng nó, vì bên cạnh tục đoán vận mệnh của con người (số 8 là số phát – mệnh lớn, số 6 là số lộc ), thì lối viết số 8 có hai nét đều từ trên xuống giống kèn loe ra, giống như cuộc đời mỗi con người, càng ngày càng làm ăn phát đạt. Số 6 với 1 nét cong vào thân, ý như lộc sẽ luôn vào nhà. Ngoài ra lục giác còn được đánh giá là khối vững chãi nhất. Con ong thường làm tổ theo khối lục giác, Lục căn (Mắt, Mũi, Tai, Lưỡi, Da, Tư tưởng), Lục long, Lục thân (Cha, Mẹ, Vợ, Con, Anh chị, Em). Số 8 còn biểu tượng cho 8 hướng, bát quái, bát âm, bát tiên, bát bửu

Số 7 – Số ấn tượng

Theo đạo Phật số 7 có ý nghĩa là quyền năng mạnh nhất của mặt trời. Những người theo đạo Phật tin rằng trong suốt tháng 7 (âm lịch) tất cả linh hồn trên thiên đường và địa ngục sẽ trở lại dương gian. Con số 7 còn tượng trưng cho sự thành tựu sinh hóa cả vũ trụ không gian là đông,tây, nam, bắc; thời gian là quá khứ, hiện tại, tương lai. Thất bửu (Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha lê, Xa cừ, Trân châu, Mã não) Thời cổ cho rằng có 7 mặt trời hoạt động xung quanh và chiếu sáng cho trái đất, loài người nhận thức có 7 tầng trời khác nhau, cùng với 7 sắc cầu vồng tạo nên ấn tượng mạnh mẽ của số 7. Số 7 đem lại sức sống cho vạn vật, đem lại ánh sáng và hy vọng cho loài người.

Số 9 – Biểu trưng cho sức mạnh và quyền uy

Từ xưa số 9 luôn được coi như là biểu trưng của sự quyền uy và sức mạnh: Ngai vua thường đặt trên 9 bậc, vua chúa thường cho đúc cửu đỉnh (9 cái đỉnh) để minh họa cho quyền lực của mình. Trong dân gian số 9 được gắn cho sự hoàn thiện đến mức dường như khó đạt:- Voi 9 ngà, Gà 9 cựa, Ngựa 9 hồng mao. Số 9 trong toán học còn được phân tích với rất nhiều lý thú và gắn nhiều với truyền thuyết lịch sử. Đặc biệt hơn cả, số 9 được sùng bái, tôn thờ và gấn như trở thành 1 triết thuyết cho các triều đại ở Hồng Kông và Việt Nam từ sự ảnh hưởng của kinh dịch là dựa trên thuật luận số. Số 9 đựơc tượng trưng cho Trời, ngày sinh của Trời là ngày 9 tháng giêng, số 9 được ghép cho ngôi vị Hoàng đế. Tất cả các dồ dùng trong cung đình cùng dùng số 9 để đặt tên như Cửu Long Bôi (9 cốc rồng), Cửu Đào Hồ (ấm 9 quả đào), Cửu Long Trụ (cột 9 rồng). Hay cách nói biểu thị số nhiều như Cửu Thiên, Cửu Châu, Cửu đỉnh …

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Số điện thoại thế nào là đẹp trong phong thủy

Phật dạy làm người: Lương thiện là việc không cần cố gắng

Làm thế nào để đạt được nguyện ước giữa cuộc đời nhiều sóng gió nhiễu nhương? Nghe lời Phật dạy làm người lương thiện, ắt có thêm suy ngẫm.
Phật dạy làm người: Lương thiện là việc không cần cố gắng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cha mẹ sinh con chỉ mong con lớn lên thành người lương thiện, bản thân trưởng thành chỉ mong sao giữ vững được phẩm chất, thành người lương thiện. Vậy làm thế nào để đạt được nguyện ước giữa cuộc đời nhiều sóng gió nhiễu nhương? Nghe lời Phật dạy làm người, ắt có thêm suy ngẫm.   Phật giáo cho rằng, lương thiện cũng là một loại trí tuệ, hơn nữa còn là trí tuệ đỉnh cao bởi để thiện thì cần có sự hiểu biết, phân biệt tốt xấu đúng sai và kiềm chế được bản thân, không bị hoàn cảnh xung quanh làm ảnh hưởng. Vì thế, làm người khó nhất không phải là giàu có, thành công, nổi danh mà khó nhất là lương thiện.   Phật dạy làm người lương thiện, nhất định phải nhớ 3 điểm này:  

1. Không tranh cãi với người khác


Phat day lam nguoi Luong thien khong can co gang
 
Trong Đạo Đức kinh của Lão Tử có nói: "Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện", người thiện thì không tranh cãi, người tranh cãi thì không còn lương thiện nữa. Người tốt sẽ không nói lời gian dối, người nói lời gian dối thì không phải người tốt. Khi có sự việc bất đồng, người lương thiện không tranh giành đúng sai, người lương thiện biết đưa ra quan điểm, biết nhẫn nhịn và bỏ qua. Nhẫn nhịn là cảnh giới cao nhất của tu dưỡng.   Nhiều người cho rằng chúng ta càng nhân nhượng thì càng bị lấn át nhưng nếu lời mình nói là đúng, không cần cãi cũng hiển nhiên; nếu lời mình nói là sai, cãi thắng cũng có ích ợi gì. Người lương thiện chỉ dùng lời nói, hiểu biết của mình để chứng minh mình đúng, không tranh cãi với người khác. Cao hơn nữa là dùng hành động chứng minh, thông qua thực tiễn để làm rõ sự việc.    Tranh cãi làm mất tu dưỡng, tạo khẩu nghiệp, trong lúc cãi vã có thể nảy sinh lòng sân hận, sự thù ghét, kết khẩu nghiệp, mất đi tính đúng đắn của lời nói. Người nói sai ta không hùa theo cái sai, người nói đúng ta phụ họa cái đúng. Đó mới là lẽ hiểu biết, thể hiện sự lương thiện trong con người.  

2. Không dồn ép người khác

  Phật dạy làm người quan trọng nhất là có “tâm”, tâm ấy không chỉ cho mình mà còn cho những người xung quanh. Người đã đi tới đường cùng, không nên dồn ép, người đã thấy được cái sai không nên vạch mặt, người đã nhận ra lỗi lầm không nên hạch sách. Cho người khác một con đường, một cơ hội là cách làm thiện lương nhất trên đời.   Đời người rồi ai cũng có cái khó của riêng mình, không cầu thoát khỏi bể khổ, chỉ mong giữa người với người có được sự cảm thông cần thiết. Lời nói hay chưa chắc đã đẹp, lời nói thẳng chưa chắc đã tốt, làm người quyết liệt tới cùng chưa hẳn là đúng đạo.    Đạo xuất phát từ “tâm”, tâm phải hướng tới con người. Lời Phật dạy về chữ tâm - có tâm ắt hưởng phúc lành vì thế, đạo tốt nhất đẹp nhất cần lấy con người làm trung tâm, tốt cho người thì làm, không tốt cho người thì tránh. Cho nhau cơ hội thứ hai, cuộc đời không chỉ thiện hơn mà còn tình hơn, lương thiện và nhân văn, cảm thông và chí tình.   

3. Không tự hãm bản thân


Phat day lam nguoi luong thien
 
Lương thiện là một loại phúc khí mà con người sinh ra đã có trong mình, “nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản chất con người là lương thiện, không cần cố gắng cũng lương thiện, vì thế đừng tự hãm sự thiện lương ấy của bản thân bằng những cầu danh, cầu lợi, cầu tiền, cầu tình. Xem thêm bài viết Triết lý "vô ngã" dẫn đường hạnh phúc của đạo Phật   Phật giáo hướng con người tới sự lương thiện, tức là giải thoát chúng sinh khỏi những ràng buộc khổ đau, trở về với bản ngã nguyên sơ, tốt đẹp buổi ban đầu. Học Phật không hẳn để làm người tốt hơn, học Phật là để tìm ra chính bản thân mình, tìm ra những giá trị chân – thiện – mĩ vốn có.   Thế nên Phật giáo mới chủ trương, trong mỗi người đều có Phật tính, tu Phật là để phát huy Phật tính đó một cách cao nhất. Trong mỗi người đều có thiện lương, tu dưỡng là để phát huy thiện lương một cách cao nhất. Đừng tự hãm bản thân trong vòng quay của tham, sân, si, của dục vọng và những toan tính, thiện bất cứ khi nào có thể, như bản năng, như điều bình thường nhất của cuộc sống.   Phật dạy làm người lương thiện là cách hóa giải những muộn phiền trong đời. Sống lương thiện là cách sống dễ nhất nhưng cũng là khó nhất, người lương thiện là người thiệt thòi nhất nhưng cũng hưởng nhiều phúc báo nhất. Vì thế, mỗi ngày hãy tự nhủ với mình, ta đi đường khó nhưng là đường đúng, ta sống lương thiện vì đó là bản chất của ta, không phải vì cố gắng. 
Lương thiện - đỉnh cao của trí tuệ Học một điều thôi, có thể sinh trăm phúc, nghênh vạn lành Có phải người lương thiện thường hay chịu thiệt?
Trần Hồng  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật dạy làm người: Lương thiện là việc không cần cố gắng

Tướng phụ nữ mắt đỏ –

1. Nhãn quang như thuỷ đa dâm (Mắt lúc nào cũng ướt, rất dâm) 2. Mục hồng ngữ kết hiếu sắc vô cùng (Mắt pha màu hồng, hiếu sắc) 3. Viên tiểu đoản thâm, kỳ tướng bất thiện (mắt tròn và nhỏ, xấu, là tâm không tốt) 4. Đoản tiểu chủ ngu tiện (mắt ngắn m
Tướng phụ nữ mắt đỏ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ mắt đỏ –

11 điều bạn cần nhớ khi chuyển nhà mới để đón tài lộc về

Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc dọn về nhà mới cũng đồng nghĩa với việc tất cả thành viên trong gia đình bạn sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Chính vì vậy việc nắm rõ một số lưu ý phong thủy truyền thống sẽ giúp cuộc sống ở nhà mới thuận lợi hơn.

Dưới đây là một số điều mọi người cần nhớ khi chuyển về nhà mới.

1. Một điều vô cùng quan trọng bạn cần nhớ đó là phải chọn ngày lành tháng tốt để chuyển nhà. Để chọn được ngày chính xác nhất, bạn cần căn cứ vào ngày tháng năm sinh của tất cả các thành viên trong gia đình, nhưng chủ yếu ưu tiên người trụ cột để lấy kết quả tốt nhất. Trường hợp bạn không thành thạo việc này có thể tìm đến các chuyên gia phong thủy để được tư vấn kỹ hơn.

2. Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó. Nên nhớ trong ngày hôm đó, mọi người tuyệt đối không mời khách đến chơi vì chỉ duy nhất người trong nhà mới được có mặt vào thời điểm đó. Bởi ngày hôm đó chúng ta chuyển nhà chứ không phải ngày tân gia. Mọi người cần phân biệt rõ hai ngày này để tránh mắc lỗi phong thủy.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 1

Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó (Ảnh minh họa)

3. Vào ngày chuyển nhà, mọi người trong gia đình cần nhớ phải luôn luôn nói những điều tích cực, tươi sáng và tốt lành. Tránh tuyệt đối nói những điều u ám, tiêu cực.

4. Trong ngày chuyển nhà, mọi thành viên trong gia đình cần hòa thuận với nhau. Các bạn không nên cãi, đánh nhau. Bố mẹ không mắng con để tránh có tiếng khóc. Tất cả những hành động này tượng trưng cho sự bất hạnh và mối bất hòa trong gia đình vì thế cần tránh.

5. Khi chuyển sang nhà mới, bạn nên bật sáng tất cả các bóng đèn, thiết bị điện tử, thiết bị gas, xả tất cả vòi nước... trong nhà để chắc chắn mọi thiết bị trong gia đình đều hoàn hảo.

6. Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 2

Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật (Ảnh minh họa)

7. Bạn hãy đặt 1 túi vải nhỏ màu đỏ (loại chuyên dùng trong nghi lễ phong thủy) dưới đáy thùng gạo. Sau đó, đổ gạo vào túi cho đến khi đầy tràn, dính miệng túi lại và dán một tờ giấy đỏ có ghi chữ "Đầy đủ" hoặc “Viên mãn”.

8. Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới. Đây là hành động dùng chổi mới để quét đi những điều không may mắn của quãng thời gian sống trước đây.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 3

Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới (Ảnh minh họa)

9. Khi bước vào nhà mới, đừng vào nhà với bàn tay trắng. Mỗi thành viên trong gia đình nên mang theo một cái gì đó tốt đẹp. Đó có thể là một số loại trái cây như cam (sự thịnh vượng), táo (sự an toàn), dứa (sự may mắn), lựu (cơ hội thăng tiến) và đào (sức khỏe dồi dào).

Khi bước vào nhà mới, bạn cũng có thể mang theo những thứ có giá trị như vàng, sổ tiết kiệm hay bất cứ thứ gì tượng trưng cho sự may mắn.

10. Phụ nữ đang mang thai nên tránh tham gia việc chuyển nhà.

11. Vào ngày đầu tiên khi chuyển về nhà mới, bạn bắt buộc phải mở bếp và nấu một thứ gì đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 11 điều bạn cần nhớ khi chuyển nhà mới để đón tài lộc về

Trăm năm mệnh lý què quặt

Một bài viết hay về mệnh lý theo môn Tử Bình. Mời các bạn cùng đọc.
Trăm năm mệnh lý què quặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Vương Khánh (Bạn Durobi dịch)

1. Tỉnh ngộ

Học mệnh 15 năm, nghi hoặc và tìm kiếm mất đủ 11 năm, khoảng thời gian sung sức nhất đời người thế là lãng phí mất. Tôi (VK) vẫn còn may, hãy còn chưa bị hói hết tóc thì thấy ánh sáng cuối đường hầm của mệnh học, không biết bao nhiêu dân nghiền bát tự còn đang mò mẫm trong đêm tối. Bát tự tức nhân sinh, mệnh học tức vũ trụ. Bát tự mệnh học quả là không đơn giản, may có những vị tiên sư trí tuệ phi phàm như Quỉ Cốc Tử, Từ Tử Bình đã đem môn huyền học cao thâm của vũ trụ này dùng công thức đơn giản để định cách, tức đã sáng lập nên hệ thống bát tự dự đoán học. Người đời sau như chúng ta chỉ cần vận dụng công thức đi dự đoán, trong đa số trường hợp có thể đoán rất chuẩn xác. Lý luận cao thâm, trình thức phức tạp không tương đồng với vận dụng khó khăn, như máy tính vậy, là kết tinh của trí tuệ khoa học, vận dụng nó thì cực đơn giản. Bát tự mệnh học cũng vậy, nếu không thì làm sao những vị thầy bói khiếm thị không biết lấy một chữ cũng lấy nó làm nghề mưu sinh được? Cái lý thì thế nhưng hình như trong thực tế không phải vậy, đại lục TQ kể từ khi thầy Thiệu Vỹ Hoa vào những năm 90 khởi xướng phổ cập môn Bát Tự đến nay đã hơn 20 năm rồi; Đài Cảng từ thời Dân Quốc đến nay cũng gần cả trăm năm; người học qua môn mệnh lý này đâu ít hơn số triệu, thế mà cho đến nay người thực sự được giới mệnh lý công nhận là cao thủ ít ơi là ít! Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

Bây giờ đi qua mới phát hiện, thứ mà đại lục và Đài Cảng cả trăm nay học là thứ “Mệnh lý què quặt”, mà lại què đúng cái chân nhẽ ra phải là chủ lực. Một bệnh nhân với cái chân tật nguyền như vậy nếu có cho anh ta thêm 100 năm nữa thì đi được bao xa?

2. Điểm chuyển biến của Tử Bình mệnh học

Phương pháp luận mệnh từ nhà Thanh về trước hầu hết dùng cách cục làm chính, kiêm cố thêm nhật chủ vượng suy, đi bằng hai chân cách cục pháp và vượng suy pháp. Điều này thể hiện rõ rành rành trong những kinh điển như “Uyên Hải Tử Bình”, “Tam Mệnh Thông Hội”, “Tích Thiên Tủy”. Nếu bạn lâu quá không đụng tới mấy cuốn ấy thử bỏ chút thời gian lật lại xem có phải vậy không. Đến thời nhà Thanh, phương hướng luận mệnh môn Tử Bình phát sinh chuyển biến, đem Tử Bình pháp phân làm Vượng Suy phái và Cách Cục phái. Nhân vật đại biểu cho Vượng Suy phái là nhà mệnh lý chuyên nghiệp – tiên hiền Nhậm Thiết Tiều sống khoảng niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tích Thiên Tủy Xiển Vi”

Nhân vật đại biểu cho Cách Cục phái là vị tiên hiền Tiến Sĩ đời Càn Long là Thẩm Hiếu Chiêm, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tử Bình Chân Thuyên” Từ đó về sau, Tử Bình mệnh học không còn hoàn chỉnh nữa, hễ dùng cách cục thì không nhắc tới nhật chủ vượng suy, hễ trọng thị vượng suy thì khinh thị cách cục thành bại. Cuộc cải cách này cả trăm năm lại đây rất được những kẻ sơ học ủng hộ. Phải thôi, học tập mệnh lý không còn bị ràng buộc bởi cách cục và vượng suy bên nào nặng bên nào nhẹ, sẽ không còn bị khó khăn làm thế nào dung hòa cách cục và vượng suy. Hai phương pháp luận mệnh sau khi cải cách, vô luận là cách cục pháp hay là vượng suy pháp, chủ tuyến rạch ròi, đường hướng suy luận rõ ràng, trình tự đơn giản, dễ nhập môn, chẳng tốn bao thời gian là có thể nhập đạo. Từ đó, mệnh học là môn huyền học có ít người nghiên cứu nay trở thành môn học đại chúng dễ dàng, người học tăng rất nhiều. Từ đó, môn Tử Bình mệnh học mà cách cục và vượng suy liên quan chặt chẽ đã diễn biến thành môn mệnh lý không khuyết chân phải thì què chân trái, và đó chính là mệnh lý đại chúng hiện đại.

3. Sự truyền thừa của mệnh học hiện đại

Sự phát triển của mệnh lý hiện đại công lao lớn nhất đương nhiên phải qui công cho ba đại gia: Viên Thụ San tiền bối, Từ Lạc Ngô tiền bối và Vi Thiên Lý tiền bối, đương thời gọi là Nam Viên, Bắc Vi, Đông lạc Ngô. Nếu không có ba vị tiền bối này dốc bao tâm huyết trước tác rất nhiều tác phẩm mệnh lý để lại cho hậu học thì chúng ta đâu dễ tiếp xúc môn mệnh lý huyền học này. Về học thuật tu dưỡng của ba vị tiền bối thì khỏi bàn cãi, đều là bậc bác lãm quần thư, tất cả mọi kinh điển Tử Bình mệnh học đương nhiên là tư liệu học tập chủ yếu của các ông. “Tam Mệnh Thông Hội”, “Uyên Hải Tử Bình” quá là bao la phức tạp, “Thần Phong Thông Khảo” thì hệ thống chưa đủ sự tinh luyện, chỉ có “Tích Thiên Tủy Xiển Vi” do Nhậm Thiết Tiều chú và “Tử Bình Chân Thuyên” của Thẩm Hiếu Chiêm là chủ đề rõ ràng, luận thuật tường tận, nên sự ảnh hưởng đến ba vị tiền bối là rất rõ. Nhậm Thiết Tiều dùng vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa đơn giản rõ ràng vừa dễ học dễ dùng, phù hợp tâm tính thích đi đường tắt của con người; cách cục pháp của Thẩm Hiếu Chiêm tuy hệ thống cũng khá là tường tận, có điều bên trong đặt quá nhiều cánh cửa, đọc rất hay nhưng rất khó áp dụng. Do như vậy nên ba ông đương nhiên ngả về vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều thôi. Đại sư cũng là phàm nhân, khi học tập đều theo thói thường, khuynh hướng ở tác phẩm chủ đề rõ ràng, lý luận rành mạch.

Sự khác biệt lớn của đại sư và người thường khi học Dịch là họ có độ nhạy cảm đối với Dịch học, thiên tính này của họ loáng thoáng cảm giác rằng cách cục pháp nhất định là thứ hay, chỉ có điều nhất thời chưa hiểu lắm, nên không thể bỏ qua. Cứ như vậy sau khi hấp thu vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều xong thì cũng bảo lưu cách cục pháp, hình thành nên phương pháp luận mệnh lấy vượng suy chủ đạo cách cục. (cách cục pháp và vượng suy pháp là hai hệ thống luận mệnh khác nhau, lấy lý luận vượng suy pháp chỉ đạo cách cục đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho từ nhà Thanh về sau cách cục pháp hoàn toàn đi chệch hướng.)

Cách cục pháp trong hệ thống luận mệnh của ba ông kỳ thực chỉ là một thứ phụ thuộc, thường chỉ có tác dụng gọi tên cho bát tự, giống như tên người thì không liên quan cát hung vậy; cũng thường dùng như vũ khí để khỏa lấp lúc vượng suy pháp không cách nào giải thích được cát hung họa phúc của mệnh cục. Kỳ thực ai tinh ý sẽ thấy rõ, cách cục giống như “gân gà” của ba ông vậy, ăn thì dở mà bỏ thì tiếc, lấy làm vật bài trí cho rồi. Ba vị tiền bối tung hoành Dịch đàn mấy mươi năm, quyết định hướng đi của mệnh học từ thời Dân quốc đến nay, để lại nhiều tác phẩm ảnh hưởng sâu sắc. Thử hỏi, từ Dân quốc về sau người nào có chút văn hóa, có tâm cầu tiến, mấy ai không đọc sách của ba ông? Sách mệnh lý xuất bản hầu hết là của ba ông hoặc học giả hậu học trưởng thành đi theo sau ba ông biên soạn, thế thì làm sao không bị học thuật của ba ông ảnh hưởng? Nhất là Từ Lạc Ngô tiền bối, rất là dụng tâm lương khổ, muốn cho hậu học đều có thể đọc hiểu cổ thư nên bèn “các kinh ta chú thích hết”, vô luận sách mệnh lý phái nào sau khi ông chú xong cũng đóng lên cái dấu ấn vượng suy pháp, như cuốn “Tử bình Chân Thuyên” chuyên luận cách cục sau sự nỗ lực của ông đã bị biến thành phương pháp phụ thuộc của vượng suy pháp – vượng suy cách cục pháp. Kỳ thực con đường học tập mệnh lý rất hẹp, chủ yếu chỉ hai đường, manh phái và phái sáng mắt. Manh phái chỉ truyền người khiếm thị. Phái sáng mắt cơ bản là không có sư thừa, chủ yếu lấy sách làm thầy, hoặc có thể nói sư phụ của sư phụ chúng ta là sách. Hễ đọc sách thì không thể không đụng ba vị tiền bối này, nói trắng ra là sư phụ của hầu hết người sáng mắt chính là ba ông Viên, Vi, Từ.

Và như vậy vượng suy pháp đã trở thành chủ lưu, thậm chí là pháp môn có một không hai lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.

4. Giới thiệu đôi nét về vượng suy pháp và cách cục pháp

Chúng ta đã rất quen thuộc vượng suy pháp rồi, chính là lấy nhật chủ làm trung tâm, định ra sự vượng suy cường nhược của nhật chủ và thập thần, sau đó dùng phép tắc cân bằng định ra hỉ kỵ, đoán cát hung.

Bộ phận quan trọng nhất của vượng suy pháp là định vượng suy của nhật chủ chính là thân vượng thân nhược, sau đó xác định nhật chủ hỉ gì, kỵ gì. Thường thì thân vượng cần khắc, tiết, hao để cân bằng, hỉ Tài Quan Thực Thương; thân nhược cần sinh phù để cân bằng, hỉ Ấn Tỷ. Cường thì ức (chế), nhược thì bổ, thuận thế hóa tiết, thông quan điều hậu, là nguyên tắc chọn dụng thần tối cơ bản.

Cách cục pháp luận mệnh dùng chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm (thần nắm lệnh của tháng là chủ khí của trời, thập thần tích cực nổi trội nhất trong thiên can là chủ khí của đất), lập hướng, định cách cục, luận thành bại, thành cách thì quí, thành cục thì phú, không thành cách cục đều là người bình thường.

Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

Cái gọi là 3 cửa quan: Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

Hộ vệ: Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại. 4 hung thần: Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát ; 4 cát thần: Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ. Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính: Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là “nguyên liệu” mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành “thành phẩm”, tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

Ví dụ 1: Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu Đại vận: Tân Mùi Lưu niên: Kỷ Sửu Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết.

Ví dụ 2: Khôn tạo: Canh Tý-Quí Mùi-Canh Tý-Canh Thìn Vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng mệnh này thân vượng Thương Quan đắc dụng nên mệnh chủ rất thông minh. Dùng cách cục pháp mà nói, sau Tiểu Thử 4 ngày thì Đinh hỏa nắm lệnh, Quí thủy Thương Quan che đầu, mà Tý Thìn củng thủy, Thương Quan quá vượng. Thương Quan là thập thần lập cục. Thương Quan là hung thần, gặp Tài và Ấn mới tính là chế hóa thành công. Hiện ở thiên can chẳng những không có thần hộ vệ, còn có 2 Tỷ Kiên tương sinh, hung thần Thương Quan ngông nghênh, tất sẽ làm chuyện xấu. Khí nắm lệnh là Chính Quan bị Thương Quan khắc phá, dự báo đây là hung mệnh. Mệnh chủ bước vào vận thứ 2 là Nhâm Ngọ bị sốt đến độ hoại não, trở thành người thiểu trí. Chắc qua 2 ví dụ trên các bạn chắc đã nhận thức tầm quan trọng của hộ vệ.

Thật giả: Tức là vấn đề căn khí và lực của thập thần hộ vệ. Có căn gốc tức có lực, là thật; không có căn gốc thì vô lực, là giả.

Thanh thuần: Tức là vấn đề đơn nhất hay đa hiện của thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục). Chỉ có một là thanh thuần, âm dương cùng hiện 2 bên hoặc âm âm, dương dương song hiện ở 2 bên là tạp trọc (năm tháng là một bên, giờ là một bên). Như Quan Sát hỗn tạp, Thực Thương cùng hiện, Ấn Ấn song thấu, đầu là tạp trọc.

Cách cục pháp luận mệnh, nói đơn giản thì rất đơn giản, chính là trước tiên phải tìm chủ khí lập hướng (lập cách cục), sau đó xem nó có thông qua 3 cửa quan hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không, thông qua thì thành cách cục đại phú đại quí, không qua thì thành người phổ thông

Trong các giai tầng xã hội. Phú quí bần tiện, cát hung họa phúc chỉ một chốc là rõ ngay. Mức độ khó của nó ở chỗ tìm đúng trung tâm điểm để luận mệnh, hoặc gọi là lập hướng điểm hoặc lập cách cục điểm. Trên lý luận nói dễ tìm, không phải thần nắm lệnh của tháng thì là thập thần nào hoạt động tích cực nhất trên hàng can, nhưng trên thực tế vận dụng có một số mệnh cục do nhân tố tổ hợp, chủ khí của lệnh tháng hoặc là bị phá hoại hoặc bị hợp hóa hoặc bị che lấp mất nên không dùng được; thập thần hoạt động tích cực nhất trên hàng can phải tính tới vượng suy, cát hung thần, thập thần ý hướng v.v…cho nên cũng không phải ngó sơ một cái mà xác định được. Ưu thế lớn nhất của vượng suy pháp ở chỗ trung tâm điểm là cố định khỏi cần tìm, nhật chủ chính là trung tâm điểm luận mệnh, đơn giản thế đấy, cho nên rất được người mới học ủng hộ.

Vượng suy pháp và cách cục pháp có 3 điểm lớn khu biệt với nhau:

A. Trung tâm điểm luận mệnh (thái cực điểm) không giống nhau.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh, cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh. Trên thực tế là sự khác biệt cực lớn của 2 loại nhân sinh quan, nhân sinh lấy “ta” làm trung tâm, hay là lấy “tự nhiên trời đất” làm trung tâm.

B. Lối suy nghĩ luận nhân sinh thành bại không giống nhau. Vượng suy pháp lấy vượng suy cân bằng luận nhân sinh thành bại cát hung. Cách cục pháp lấy cách cục luận nhân sinh phú quí bần tiện.

C. Nhận thức đối với thập thần không giống nhau Vượng suy pháp đối với thập thần chỉ bàn hỉ kỵ, không luận cát hung. Phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là cát, chính là Sát, Kiêu. Thương, Kiếp cũng là là hỉ; không phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là hung, dù là Tài, Quan, Ấn, Thực cũng là kỵ với ta.

Cách cục pháp đối với thập thần có sự phân biệt cát hung rõ ràng, hơn nữa còn nghiêm ngặt án theo nguyên tắc thủ dụng hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng

Cho nên vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 hệ thống luận mệnh hoàn toàn không giống nhau, tối kỵ dùng lẫn với nhau. Dùng lý niệm của vượng suy pháp đi bình cách cục thì thật nực cười. Cũng giống như vậy mà dùng tư tưởng của cách cục pháp đi luận vượng suy thì cũng tréo nghoe.

5. Tính cục hạn của vượng suy pháp, cách cục pháp nguyên nhân đi chệnh hướng của nó

Vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 phương pháp luận mệnh độc lập, chúng có thể lưu truyền tới ngày nay, đặc biệt là vượng suy pháp trở thành chủ lưu của luận mệnh thì tất nhiên phải có chỗ độc đáo của nó. Đồng thời, 2 phương pháp này luôn bị người ta chất nghi và phê phán thì chắc chắn có tồn tại không ít khuyết điểm. Một phương pháp mà có thể lưu hành được đương nhiên là phải có sự hợp lý, một phương pháp hay bị phê phán thì cũng phải có nguyên nhân. Chúng ta tĩnh tâm lại tìm thử nguyên nhân ở đâu.

(A) Ưu điểm của vượng suy pháp.

Phương pháp vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm, khi luận đoán những phương diện như mệnh chủ tính cách, chủ quan năng động tính, phương thức của hành vi, tình hình sức khỏe, hôn nhân gia đình thì rất thiện nghệ, chẳng những dễ học mà tính chính xác rất cao; đối với phú quí bần tiện, cát hung họa phúc cũng có thể xem được đại khái.

Những ưu thế kể trên đủ để người mới học phục lăn, tự nhiên đối với vượng suy pháp nảy sinh cảm giác tin tưởng và tin phục, còn đối với những hạng mục như tầm mức của phú quí bần tiện và sự biến hóa của nó, sự lớn nhỏ của cát hung họa phúc và ứng kỳ của nó thì luôn cho rằng đấy là thứ cao cấp trong mệnh lý, theo sự nâng cao trình độ dần dần của mình thì nhất định sẽ có thể giải quyết, không hề nghi ngờ chút nào tính cục hạn của vượng suy pháp. Vượng suy pháp chỉ có ưu thế ở vài phương diện như nêu trên cũng đủ làm người học bình thuờng tự thấy vui rồi, dù gì mục đích học mệnh lý của đa số người không phải lấy nó làm nghề mà chỉ đơn thuần là sự ham thích.

(B) Khuyết điểm lớn nhất của vượng suy pháp

a. Lấy nhật nguyên làm trung tâm luận phú quí bần tiện, cát hung họa phúc.

Đặc điểm lớn nhất của vượng suy pháp luận mệnh là dùng nhật nguyên làm trung tâm tiến hành toàn diện luận mệnh, sự phú quí bần tiện, thọ yểu cát hung, biến hóa trồi sụt, tất tần tật đều lấy đó làm trung tâm. Chúng ta phải nhận thức rõ: Trong cuộc sống hiện thực, là “ta” ảnh hưởng, cải tạo tự nhiên và xã hội, hay là “ta” bị tự nhiên và xã hội ảnh hưởng, cải tạo. Nói đơn giản một chút, trong cuộc sống thực tế, “ta” là trung tâm của xã hội hay là xã hội là trung tâm của “ta”. Lý lẽ rõ là: Con người cực nhỏ bé trong thế giới tự nhiên, con người là một bộ phận nhỏ trong xã hội. Chúng ta thường bị tự nhiên xoay chuyển, thường bị trào lưu xã hội dắt mũi. Chúng vì cuộc sống mà hàng ngày xoay tròn quanh công việc, quanh sự nghiệp. Chúng ta có nhà có xe, nhưng phải làm để trả tiền nhà tiền xe. Chúng ta cả đời muốn thay đổi người khác, đến cuối cùng ngay đến con cái nó cũng chẳng thèm nghe ta. Chúng ta nỗ lực thay đổi mệnh vận, đến cuối cùng cũng phải tin là con người có mệnh. Chúng ta tin rằng “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, đấu tranh kháng lại tự nhiên, kết cục cuối cùng là kính úy tự nhiên, nhận ra thuận theo tự nhiên, vận dụng tự nhiên thì nhân loại mới hòa hợp hòa hợp vạn thế, di dưỡng thiên niên.

Phương pháp luận mệnh vượng suy lấy nhật chủ làm trung tâm đi ngược với qui luật tự nhiên, không phù hợp hiện thực xã hội, đã sai ngay từ lập hướng điểm lúc ban đầu. Đây là chỗ sai lớn của vượng suy pháp. Nó chỉ có thể suy đoán những tượng thuộc tự nhả, như tính cách, hành vi, hôn nhân, sức khỏe, mà đối với chủ tượng của nhân sinh, chúng ta thường nói là mối quan hệ giữa con người và xã hội, cũng chính là phú quí bần tiện, cát hung họa phúc, thì không hề với tới.

b. Thập thần chỉ phân hỉ kỵ, không phân cát hung.

Thập thần trong bát tự là hình tượng miêu tả hoặc đại biểu cho các loại nhân vật sự kiện. Khí có âm dương, người có thiện ác, vật có đẹp xấu, thế thì thập thần đại biểu cho nhân vật và sự kiện làm sao không thể có sự phân biệt thiện ác? Đây phải là điều cơ bản của mệnh lý, nếu thập thần không phân chia thiện ác thì chỉ ngũ thần là đủ, cổ nhân khi xưa tiếc chữ như vàng cớ gì phải làm ra thêm 5 thần dư thừa như vậy?

Chỉ cần là người có dụng tâm học qua mệnh lý đều biết, Thương Quan, Thất Sát, Kiêu Thần, Kiếp Tài chỉ cần vượng mà không có chế hóa, không hợp trói thì dù cho có là dụng thần vượng suy cũng khó nên thành tựu gì, và chuyện rắc rối theo sau nó cũng không ít.

Thất Sát đoạt mệnh, Thương Quan thương thân gây chuyện, Kiếp Tài tranh danh đoạt lợi, Kiêu Thần chuyên giật chén cơm, có cái nào mà không phải châm đối sự kiện khang và phú quí của nhật chủ đâu, nếu không phân cát hung thì đời người đâu có nhiều hung tai hoành họa lắm thế.

Cử 2 ví dụ để đơn giản nói rõ.

Ví dụ 3: Càn tạo: Ất Hợi-Kỷ Sửu-Giáp Thìn-Ất Hợi

Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày. Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh.

Ví dụ 4: Càn tạo: Đinh Dậu-Quí Mão-Nhâm Ngọ-Canh Tuất

Đại vận: Mậu Tuất

Lưu niên: Mậu Tý

Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết. Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm. Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp.

c. Không phân âm dương, không quản đục trong.

Vượng suy pháp luận mệnh chỉ bàn sự cân bằng của lực lượng, không bàn hỗn tạp đục trong. Có lúc cũng ngờ rằng những người quá thiên về vượng suy có phải họ sống trong chân không? Hiện thực cuộc sống mỗi ngày cho chúng ta biết: Người mà trong cuộc sống, công việc, hành vi hỗn tạp vô trật tự sẽ không có thành công và hạnh phúc thực sự. Luận mệnh xem mức độ của phú quí bần tiện, đặc biệt phải chú ý thanh thuần, tạp đục. Một trong những biểu hiện của tạp đục là âm dương thập thần phân lập mệnh cục làm 2 bên, như Quan Sát, Thực Thương. Âm âm, dương dương cùng hiện cũng là một loại của tạp đục, có điều ảnh hưởng đến mức độ phú quí ít hơn. Hỗn tạp là sự tạp loạn vô trật tự của khí, không có ảnh hưởng phương hướng, càng không có lực lượng duy trì. Thể hiện trên tính cách là không có chủ kiến, do dự không quyết; thể hiện trên hành vi là không muốn làm gì cả, không muốn đi sâu thâm nhập cái gì; thể hiện trên tình cảm là bắt cá hai tay, tình cảm không chuyên nhất. Kết quả là nhất sự vô thành, còn hai bàn tay trắng.

Thường người ta hay nói: “Bá nghệ bá tri, vị chi bá láp”, chính là chỉ kết quả của Thực Thương hỗn tạp.

Phụ nữ mệnh có Quan Sát hỗn tạp thì ai cũng biết là hôn nhân trắc trở, một là đàn ông theo đếm không hết, hai là khó ở mãi với một ông chồng.

Mệnh nam giới mà Quan Sát hỗn tạp thì khó có nghề nghiệp ổn định đàng hoàng, thuộc giới tam giáo cửu lưu. Hỗn tạp không thanh (trong), cách cục pháp luận mệnh cho là không cát, ít ra cũng làm giảm tầm mức của cách cục. Vượng suy pháp luận mệnh chẳng những không kỵ hỗn tạp, khi thân vượng còn mừng Quan Sát hỗn tạp, bởi vì phù hợp yêu cầu cân bằng, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn không phải vậy. Những ví dụ như vậy rất nhiều, lấy ngay bát tự của tôi và bát tự cùng năm tháng ngày nhưng khác giờ của bạn học của tôi làm một so sánh.

Ví dụ 5: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ- Đinh Dậu

Ví dụ 6: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ-Nhâm Thìn

Theo vượng suy pháp luận mệnh thì nhật chủ của hai người đều rất vượng, nhật chủ hỉ gặp Quan Sát cùng đến chế ngự. Vd (6) hiển nhiên ngon hơn vd (5) nhiều. Thực tế thì lại không phải như vậy. Cách cục pháp giải quyết mối nghi hoặc này khá dễ. Vd (6) Ấn cục dụng Quan, mà Quan Sát lại hỗn tạp, cục không thành. Cho nên mới khó chuyên tâm theo đuồi công việc tính chất Ấn và bị thất nghiệp, chỉ đi làm thuê. Vd (5) Ấn cục dụng Quan, Quan tinh thanh mà không tạp, thành cục. Có điều Quan tinh bị ám thương, cục có tì vết. May mà có thể chuyên tâm theo nghề nghiệp thuộc Ấn.

Khí phân trong đục thì mới hiện rõ sự trật tự và tạp loạn; tình cảm phân trong đục thì mới thấy chuyên nhất và lăng nhăng; người phân trong đục thì mới có phú quí và bần tiện. Thiên địa nhân nào có phải thứ khác, luận mệnh sao không thể phân trong đục?

d. Sử dụng thập thần, nhầm coi nguyên liệu là thành phẩm.

Vượng suy pháp luận mệnh, đem cá thể Tài, Quan, Ấn làm tượng trưng cho giàu có, địa vị, quyền lực. Tài tức tiền tài, vật chất, Quan tức quan chức, địa vị, Ấn tức phúc khí, chỗ dựa. Kiểu lý luận như vậy thường dẫn đến kết luận và hiện thực không khớp. Mệnh có thân vượng Tài vượng mà không giàu, thân vượng Quan vượng mà không quí rất nhiều. Kỳ thực đơn lẻ thập thần như Tài Quan Ấn đều chỉ là một loại nguyên liệu cho phú quí mà thôi, không phải thành phẩm của phú quí. Những nguyên liệu phú quí này có thể trở nên phú quí thật sự hay không, cũng tức là sự giàu có, địa vị, vinh dự, thế thì phải xem chúng có thể thành tài được không.

Thế nào gọi là thành tài? Chính là có một cơ chế bảo hộ hoàn thiện, như gặp Tài thì xem Quan, thấu Quan xem Ấn, gặp Ấn xem Quan, chỉ khi tự thân phối hợp hoàn thiện mới tính là thành tài, nếu nhật chủ thực sự có thể được như vậy mới tính là phú quí.

Ví dụ 7: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Kỷ Mùi

Ví dụ 8: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Mậu Ngọ

Hai bát tự này chỉ khác mỗi giờ sinh, quĩ tích của nhân sinh cũng khá giống. Hai người đều thân vượng Tài vượng, vd (8) Thìn Ngọ giáp Tị, Tỉ Kiên cũng vượng, Mậu Quí hợp, thế đoạt Tài rất lớn. Bát tự như vậy có phải rất giàu không? Tài ở đây không thể xem là tài phú sau khi “thành tài”, bởi vì nó đã không có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, cũng không có Thực Thương tiết Tỉ Kiếp để hộ vệ, Tài này tự thân nó cũng khó bảo toàn thì còn có thể xem là tài phú cho mình được chăng? Kiểu Tài không nguồn không hộ vệ này lúc nào cũng bị Tỉ Kiếp uy hiếp là tượng thương thân lao lực. Do đó cả hai người đều là người bình thường, vd (8) còn bị thương tai phá tài liên miên, ngón tay đã bị tàn tật.

© Nguyên nhân làm vượng suy pháp tẩu hỏa nhập ma

Cách luận mệnh vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm quả thực có thể nhanh chóng suy đoán chính xác không ít chuyện, như tính cách, sức khỏe, hôn nhân như đã nói ở trên. Những thứ này đều là việc cá nhân, bản thân của nhật chủ, lúc luận đoán nhất định phải lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa vặn phù hợp lý luận suy đoán lấy nhật chủ làm trung tâm của vượng suy pháp, cho nên tỷ lệ chính xác rất cao. Suy đoán chuyện quá khứ của bản thân hoặc việc bên ngoài bản thân như: giàu có, địa vị, vinh dự, công việc, sự nghiệp, v.v… thế thì không phải lấy nhật chủ làm trung tâm nữa, mà là lấy chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm điểm, hoặc thần nắm lệnh hoặc thập thần tích cực nhất trên hàng can làm trung tâm.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, do có ưu thế suy đoán việc trong nội bản thân nên bị ngộ nhận là suy đoán tất cả sự vật trong đời người đều có thể lấy nhật chủ làm trung tâm, phạm sai lầm lấy cái thiên lệch làm cái toàn bộ, hoặc tự ngã ý thức bành trướng đến không có điểm dừng. Loại sai lầm như vậy thực ra không ít vị dẫn dắt vượng suy pháp đã biết từ trước, chỉ có điều bởi lý do tự thân lợi ích hoặc là không tìm ra được một phương pháp luận mệnh tốt hơn nên chìm đắm vào nó không ra được, cứ như vậy càng lúc càng sa lầy, li khai Tử Bình mệnh học càng lúc càng xa.

(D) Cục hạn tính của cách cục pháp Cách cục pháp chủ yếu luận tầm mức của nhân sinh và sự biến hóa của thành bại được mất, còn về tính cách, sức khỏe, hôn nhân, lục thân, v.v… thì lại không phải sở trường. Tuy nhiên lúc dùng cách cục đoán mệnh, có lúc cũng có thể đoán trúng hơn nửa tình trạng sức khỏe, hôn nhân, nếu đóan trúng nhiều thì cũng là xảo hợp, không phải tất nhiên, cũng giống như vượng suy pháp cũng có lúc đoán trúng tầm mức phú quí cùa nhật chủ vậy.

Tử Bình mệnh học là môn học vấn chuyên bàn thiên đạo, địa đạo, nhân đạo, lấy cách, cục, tượng để thể hiện. Cách cục pháp chủ yếu luận thiên đạo và địa đạo, cũng chính là luận cách và cục. Cách, để xem quí tiện; cục, để xem giàu nghèo. Thành cách thành cục, phá cách phá cục chủ về sự biến hóa của cát hung, thành bại, được mất, các phuơng diện nhân sinh sự vật hình tượng khác thì không thuộc cách cục cai quản, nếu cứ muốn nhất định phải dùng lý luận cách cục pháp, có một số việc cũng giải thích được, có điều như vậy rất dễ phạm sai lầm giống như vượng suy pháp, hiện thời có không ít vị học cách cục pháp đã dính vô sai lầm tự ngã ý thức bành trướng rồi!

Tại sao phải học hết sở trường các pháp, chẳng qua bởi vì mỗi phương pháp tự thân nó đều có tính cục hạn. Thay vì tốn bao tinh lực đi bù vá khuyết hãm của mình, chi bằng sau khi làm mạnh ưu thế tự thân mình xong, dùng ít thời gian đi học thêm chỗ hay của người khác. Kiểu lấy dài đắp ngắn này vừa đỡ mất công sức vừa nhanh, đó mới là đường lối học tập đúng của chúng ta.

(E) Một sai lầm của cách cục pháp

Cách cục, là cái sườn, kết cấu tổ chức của bát tự. Nếu nói vượng suy pháp và tượng pháp là “da” thì cách cục phải xem là “xương”.

Hiện nay cách cục pháp không dễ học, nguyên nhân chủ yếu là do chỗ sai quá nhiều, đem những cách, cục, tượng rất đơn giản làm cho phức tạp lên, thậm chí còn gom cách, cục, tượng vô làm một, cũng chính là kiểu tự ngã bành trướng cách cục pháp là tất cả. Điểm sai lớn nhất của cách cục pháp là cho rằng cách cục và nhật chủ vượng suy là vô quan, cho rằng cách cục khẳng định sự phú quí và thành tựu, cơ bản là không dùng nhật chủ vượng suy. Trên thực tế luận mệnh nhất định không phải như vậy, cái khác không nói, tạm nói Tài cách vậy, Tài là cát thần, điều kiện thành cách của nó là phải gặp Thực Thương và Quan tinh đến hộ vệ, kị gặp Tỉ kiếp và Ấn tinh, chỉ khi Tài tinh song thấu làm đục cục mới cần Tỉ Kiếp khử đi. Thế nhưng khi bạn xem “Tử Bình Chân Thuyên” và một số sách cách cục, luận đến thủ dụng Tài cách, hễ thân nhược Tài vượng thì phần lớn lấy Ấn Tỉ làm dụng thần, thế là có những cách quái đản như Tài cách phối Ấn, Tài cách dụng Tỉ, tự mâu thuẫn với Tài cách luận thành bại luận đã nói ở trước.

Chẳng phải đã nói cách cục pháp không bàn nhật chủ vượng suy hay sao? Chẳng phải đã nói điều kiện Tài cách thành công là gặp Thực Thương và Quan tinh hay sao? Bây giờ tài tinh lại song thấu, thế tại sao phải lấy Tỉ Kiếp và Ấn tinh mới thành cách? Kỳ thực mục đích lấy Ấn tinh và Tỉ Kiếp không phải để hộ vệ Tài tinh mà là để sinh phù nhật chủ, để nhật chủ có năng lực gánh nổi Tài. Tử Bình mệnh học chân chính, nguyên bản chính là sự hài hòa thống nhất của cách cục pháp và vượng suy pháp, lấy cách cục làm chủ, vượng suy làm phụ, lấy nhật chủ làm thể, cách cục làm dụng, chẳng những phải tìm cách cục dụng thần mà còn phải xem thể dụng thần. Đàm luận cách cục, mục đích tối cùng không xa rời mối quan hệ giữa cách cục và nhật chủ, hà tất phải phủ nhận nhật chủ vượng suy?

6. Mệnh lý chỉ khi dùng hai chân mà đi thì mới đi được xa

Môn học âm dương, cho dù là phong thủy hay là tứ trụ, chỉ cần là cái học chân chính thì nhất định phải dùng 2 chân để đi, 1 chân cũng có thể đi nhưng cô âm thì không sinh, độc dương thì không trưởng, đi không được xa, được lâu là vậy. Võ học cái thế đều phân nội công và ngoại công, nội luyện hơi thở, ngoại luyện gân cốt bì, mục đích là để bản thân đạt cảnh giới thủy tạt không vô, đao thương bất nhập. Mệnh học cũng vậy, phân hai hệ thống thể và dụng, cách cục pháp lấy thiên địa chủ khí làm chủ và tượng pháp (bao gồm vượng suy) lấy nhật chủ làm trung tâm, chỉ cần hai pháp trên dung hợp mới có thể định được tầm mức nhân sinh, lại có thể đoán được chuyện lẻ tẻ trong đời người, thiên địa nhân, cách cục tượng, có hết ở trong ấy.

(Vương Khánh)

P/s: Đáng lưu ý nhất là câu này:

Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trăm năm mệnh lý què quặt

3 chòm sao vui nhất tháng 12, liên tiếp gặp chuyện mừng

Tiến vào tháng cuối cùng của năm, cùng điểm vận xem ai là chòm sao vui nhất tháng 12, liên tiếp gặp chuyện vui chuyện mừng nào!
3 chòm sao vui nhất tháng 12, liên tiếp gặp chuyện mừng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiến vào tháng cuối cùng của năm, tất cả mọi người cùng tất bật chuẩn bị dồn sức hoàn thành kế hoạch đã đặt ra. Cùng điểm vận xem ai là chòm sao vui nhất tháng 12, liên tiếp gặp chuyện vui chuyện mừng nào!



3 chom sao vui nhat thang 12, lien tiep gap chuyen mung hinh anh 2
 

Hổ Cáp

  Chòm sao vui nhất tháng 12 không thể thiếu Hổ Cáp, cả sự nghiệp lẫn tình cảm đều có rất nhiều chuyện tốt. Năng lượng dồi dào, công việc hanh thông như ý, nghênh đón thành quả rõ rệt, thu hoạch không tồi. Núi cao còn có núi cao hơn, thành công còn có thành công hơn, Hổ Cáp cứ chuẩn bị sẵn sàng mà hưởng thụ đi.   Về tình cảm, nhân duyên với người khác phái tăng nhanh, là cơ hội trời ban để có gấu trong mùa đông này dành cho những Hổ Cáp vẫn còn độc thân. Bạn chỉ cần cởi mở hơn một chút, cơ hội đến đừng vội chối từ, vì biết đâu người đó là một nửa dành riêng cho bạn.  

Thiên Bình

 

Bước vào tháng cuối năm, Thiên Bình lập tức trở nên nhiệt tình và sôi nổi, sự nghiệp thậm chí có bước đột phá bất ngờ, hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc và sớm hơn quy định. Tinh thần làm việc của chòm sao vui nhất tháng 12 này chỉ tăng chứ không giảm nên được lãnh đạo khen ngợi, tuyên dương, cơ hội tăng lương thăng chức không còn xa nữa đâu.
3 chom sao vui nhat thang 12, lien tiep gap chuyen mung hinh anh 2
 
Tình cảm liên tiếp gặp chuyện mừng, trong quan hệ xã giao bình thường cũng gặp được nhân duyên như ý. Đúng là “vô tình cắm liễu, liễu lại xanh”, đỡ tốn biết bao nhiêu công sức, cũng chẳng nhọc công Thiên Bình tán tỉnh, cứ thuận theo tự nhiên mà thôi.  

Bạch Dương

  Chòm sao vui nhất tháng 12 Bạch Dương nhờ Diêm Vương tinh mang tới xung lực mà bớt chuyện thị phi, thêm chuyện đáng mừng. Bạch Dương rơi vào không khí bận rộn, cả ngày luôn chân luôn tay nên thu về không ít thành quả rực rỡ. Trong đó, thu nhập, tài lộc là tăng rõ rệt nhất.   Tình cảm, đào hoa cũng theo đó mà phát triển nhanh chóng, cuối năm có thể sẽ đạt được kết quả mĩ mãn. Bạn sẵn sàng để yêu một người, nhớ một đời chưa nào. Mối tình khắc cốt ghi tâm, người tình suốt đời khó phai sắp tìm đến Bạch Dương rồi đấy. Hãy nhớ, 10 điều nên nhớ khi yêu Bạch Dương bạn nhé!    Điểm danh 3 chòm sao biến cuộc sống chung thành thiên đường 12 chòm sao xử lý tình huống bị nhốt ngoài cửa Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao vui nhất tháng 12, liên tiếp gặp chuyện mừng

Giai thoại về huyệt phát đế vương của nhà Tây Sơn

Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn và luôn tồn tại song song với câu sấm truyền lịch sử vào thuở ấy: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”…

Có một “Hoành Sơn” ở phương Nam

Thường mỗi khi nhắc hai tiếng “Hoành Sơn” ở phía Bắc (tỉnh Quảng Bình) người ta liên tưởng đến cơ nghiệp nhà Nguyễn. Song cũng có một “Hoành Sơn” khác nữa nằm sâu về phía Nam (tỉnh Bình Định) vốn là nơi huyệt kết phát vương của anh em nhà Tây Sơn.

giai thoai hoang-de-quang-trung

Núi Hoành Sơn chạy dài và tỏa rộng về phía đường quốc lộ với hai dòng suối (Đồng Tre và Chi Lưu) đưa nước uốn quanh dưới chân (thủy tụ). Mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc - song thân của Tây Sơn tam kiệt, tức ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - nằm trên đó. Song không ai biết chính xác mộ ở vị trí nào trong núi.

Đến nay, nơi huyệt táng ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn là điều bí ẩn thu hút các nhà nghiên cứu phong thủy. Tuy nhiên, căn cứ theo các tài liệu lịch sử cũng như dò tìm manh mối qua các nội dung truyền khẩu tại địa phương, người ta được biết ít nhất hai câu chuyện liên quan đến đại địa của nhà Tây Sơn ở đó như sau:

Chuyện thứ nhất kể rằng, vào khoảng giữa thế kỷ 18, có một thầy địa lý từ Trung Quốc không biết cách nào đã lặn lội vào tận đất Bình Định để tìm long mạch và huyệt kết vùng núi Hoành Sơn. Thầy đã dùng hai cây trúc lén cắm ở hai nơi trên triền núi Hoành Sơn để dò huyệt địa, rồi bỏ đi mất một thời gian. Những gì thầy địa lý làm đều không qua được mắt của Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Nhạc theo dõi và thấy một trong hai cây trúc bị chết, tàn lụi, còn cây trúc kia vẫn sống tươi xanh. Ông nhổ cây trúc chết đem trồng vào chỗ cây trúc sống. Lại nhổ cây trúc sống đến trồng vào chỗ cây trúc đã chết. Chẳng bao lâu sau, thầy địa lý người Trung Hoa đến để xem kết quả thử địa ở Hoành Sơn thì thấy cả hai cây trúc đều khô chết nên thầy thất vọng thầm nghĩ đây không phải là đất phát vương nên bỏ đi biệt hẳn. Bấy giờ, Nguyễn Nhạc mới bốc mộ của cha mình là cụ Nguyễn Phi Phúc đem táng vào chỗ có cây trúc tươi mà chỉ Nguyễn Nhạc biết thôi.

Chuyện thứ hai cho rằng, thầy địa lý người Trung Hoa khi đến vùng Tây Sơn để dò tìm long mạch và chỗ huyệt kết đã ở tại nhà của Nguyễn Nhạc. Hằng ngày, thầy đi lùng kiếm khắp vùng, đem theo chiếc la bàn, tấm vải điều màu đỏ và một chiếc gậy đẽo từ gỗ của một cây đại thọ trăm năm. Hết chỗ này đến chỗ khác thầy vẫn không vừa ý, cuối cùng thầy địa lý để tâm đến hòn Hoành Sơn.

Nguyễn Nhạc dò biết nên âm thầm kín đáo theo sau thầy địa lý và phát hiện được nơi huyệt kết. Khi thầy địa lý về lại Trung Hoa để hốt cốt thân sinh của mình đem đến chỗ huyệt kết để chôn, bấy giờ Nguyễn Nhạc tìm cách đánh đổi: "Đến ngày đã chọn, thầy Tàu lén đem chiếc tráp (có hài cốt) cùng địa bàn đi lên Hoành Sơn, vừa đến chân núi thì một con cọp Tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm một tiếng, nhảy ra vồ".

"Thầy Tàu hết hồn, quăng tráp và địa bàn (dùng dò hướng đất theo thuật phong thủy) mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong xuôi, thầy hớn hở trở về Trung Quốc, không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc và con cọp kia chỉ có lớp ngoài mà thôi”.

Đó là đoạn văn kể về sự tích phong thủy Hoành Sơn của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992), trong một tài liệu viết về di tích và truyền thuyết nhà Tây Sơn với kết luận rằng hai câu chuyện trên tuy có vài chi tiết không giống nhau, song đều đồng một điểm chính là cho biết mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành Sơn.

Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang, cao hơn 360 thước, có núi Ông Bình làm hậu tẩm, núi Ông Đốc với hình dạng “giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Núi Ông Đốc không cao và tuy giống hình cọp, song ngó bộ hiền lành như con cọp tu hành lâu đời.

Nơi triền phía Bắc hiện có một ngôi chùa thờ Phật. Đó là điềm “hổ cứ”. Còn “long bàn” là hai nhánh của con sông Côn, một từ phía Tây chảy xuống, một từ phía Tây Nam chảy ra, hợp nhau tại địa đầu thôn Phú Phong, trông như hai cánh tay ôm choàng lấy cuộc đất của Hoành Sơn vậy”.

Một vùng núi bút non nghiên…

Hoành Sơn là nơi được các thầy địa lý của Trung Hoa cũng như của Việt Nam công nhận là đại địa “vì có, nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ (trống) nào chung (chuông), ở bên tả bên hữu… trước mặt trên ba nổng gò, đã mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu về. Và xa xa có hổ phục long bàn”. Bằng những phân tích địa thế phong thủy, Quách Tấn chứng minh những điều nêu trên là xác thực, vì:

- Bút đó là hòn Trung Sơn ở bên Phú Lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây.

- Nghiên đó là hòn Hội Sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trí cùng hòn Trung Sơn ở phía Bắc.

Hòn Hội Sơn cao hơn 490m nhưng trông đầy vẻ uy nghiêm “trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên đó vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng (nhờ nước đầy đủ).

Vì núi có vũng nước nên đám bình dân gọi núi là hòn Vũng (thay vì hòn Dũng). Còn đám hàn mặc (nho sinh) thì coi vũng nước là nghiên mực của trời nên đặt cho núi một tên nữa là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên vậy, hòn Nghiên và hòn Bút nằm bên hữu bên tả hòn Hoành Sơn trông cân đối”, phù hợp với câu ca:

Một vùng núi Bút non Nghiên

Trời giao ấn kiếm cho miền Tây Sơn.

Cuộc đất tốt như vậy kết hợp lời sấm truyền do thầy dạy học của ba anh em nhà Tây Sơn là cụ giáo Hiến thông báo, rằng: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”, đã tạo sức mạnh tâm linh thúc giục Tây Sơn tam kiệt khởi binh. Tây khởi nghĩa tức là dựng cờ nổi dậy ở vùng núi hướng Tây - vùng Tây Sơn. Bắc thu công là thành công lớn ở hướng Bắc, lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân (Huế bây giờ) năm 1788 và tiến ra Bắc đánh thắng quân Thanh xâm lược năm 1789…

Trong bài này chúng tôi chọn trích dẫn phong thủy nhà Tây Sơn chủ yếu theo tài liệu của Quách Tấn là vì trước hết gia đình ông đã trải qua chín đời ở ấp Tây Sơn hạ, ông viết: “Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường Sơn (…) vì núi mệnh danh là Tây Sơn nên các vùng sơn cước bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn.

Trước kia gọi là ấp Tây Sơn với ba phần: Tây Sơn thượng, Tây Sơn trung và Tây Sơn hạ”. Những gì ông viết ra về địa lý, phong thủy của vùng đất Tây Sơn cũng như những câu chuyện truyền khẩu liên quan đều do chính ông nghe nội tổ và song thân cùng các vị phụ lão ở quê ông kể lại, giới thiệu qua cuốn tài liệu “Quang Trung – Nguyễn Huệ” của nhiều tác giả, do NXB Văn hóa Sài Gòn kết hợp tạp chí Xưa và Nay ấn hành 2008, nêu rõ trong khu vực Hoành Sơn“sát chân núi ngay phía Đông, khoảng giữa nổi lên một trảng đất.

Trong khoảng này, dáng núi lại hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào thì giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay dựa vào núi, mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia Long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc, song thân của Vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai quật. Nhưng khi đào lên hài cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đang cháy”.

Như vậy, đến nay dấu tích về mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn còn mờ mịt. Những ngọn đèn dầu phụng đã bị nhà Nguyễn (Gia Long) thổi tắt, nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn vẫn cháy đỏ trong lịch sử Việt Nam.

Nếu tính từ lúc dấy nghiệp vào năm Mậu Tuất 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng đế hiệu (niên hiệu Thái Đức), gọi thành Đồ Bàn là Hoàng đế thành, đến lúc suy vong vào năm Nhâm Tuất 1802, thì nhà Tây Sơn tồn tại 24 năm.

Nếu tính từ năm Vua Quang Trung lên ngôi thì chỉ kéo dài có 14 năm (1788-1802). Dẫu ngắn ngủi nhưng nhà Tây Sơn đã để lại một dấu ấn sâu đậm qua chiến công của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đánh thắng hai mươi vạn quân Thanh xâm lược vang dội đến nay – ứng đúng câu sấm truyền Tây khởi nghĩa – Bắc thu công…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giai thoại về huyệt phát đế vương của nhà Tây Sơn

Mơ thấy diễn thuyết công khai: Nguyện vọng muốn chiến thắng nhược điểm nội tâm –

Nói chuyện trưởc đám đông luôn được xem là nỗi lo sợ hàng đầu của đa số người lởn chúng ta, thậm chí có người còn khiếp nó hơn cả cái chết!   Cứ thế, giấc mơ với hình ảnh diễn thuyết công khai xuất hiện thường xuyên hơn. Giấc mơ này tuy không ph
Mơ thấy diễn thuyết công khai: Nguyện vọng muốn chiến thắng nhược điểm nội tâm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy diễn thuyết công khai: Nguyện vọng muốn chiến thắng nhược điểm nội tâm –

Những vật phẩm phong thủy có thể làm tín vật cầu may

Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng, nhiều loại vật phẩm phong thủy được chế tác thành những món đồ trang sức nhỏ xinh, một kiểu tín vật cầu may mắn. Có cả những vật phẩm giúp hóa giải các sát khí và mang lại bình an cho người đeo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là 8 loại vật phẩm dùng làm "bùa may mắn" khá phổ biến:

1. Tiền xu cổ

Đồng xu cổ Trung Quốc được cho là có tác dụng thu hút tài lộc trong gia đình. Khi tình hình tài chính ổn định, tâm trạng của các thành viên trong gia đình cũng tốt hơn. Nhiều người thường treo một dải xu Trung Quốc lên tường nhà, hoặc có thể đóng khung rồi mới treo. Thậm chí, bạn có thể chỉ cần đặt nó ở một vị trí nào đó như bàn trà, bàn làm việc hay giá sách,...

Tuy vậy, ít người biết đồng xu cổ còn được coi như một tín vật bảo vệ và mang may mắn đến cho gia chủ. Không chỉ trang trí trong nhà, vật phẩm này còn có thể làm đồ trang sức như bông tai, vòng đeo tay, mặt dây chuyền hoặc đơn giản hơn là cất chúng trong ví. Các doanh nhân thường có thói quen để một chuỗi 3 đồng xu xâu bằng dây đỏ ở trong ví để cầu may và cầu tài lộc.

Tiền xu cổ
Tiền xu cổ được xâu lại bằng một dải ruy băng đỏ là tín vật cầu
may được nhiều doanh nhân ưa thích

2. Nút thắt vô tận

Đây là một kiểu bùa may mắn được sử dụng khá phổ biến trong phong thủy thời phong kiến. Theo quan niệm thời kỳ này, những nút thắt không có điểm đầu và điểm kết thúc là đại diện cho một dòng chảy hài hòa của năng lượng tốt lành - không bị gián đoạn bởi những thất bại, tai nạn hay bất hạnh.

Vẻ đẹp hài hòa của những nút thắt vô tận cũng tượng trưng cho sự may mắn trong tình yêu, hôn nhân và cuộc sống. Nhiều người tin rằng, nếu mang theo nút thắt bên mình, mọi việc sẽ luôn hanh thông, may mắn từ đó mang lại sự bình yên trong tâm hồn.

3. Tượng Phật Di Lặc

Trong các gia đình hình ảnh của Phật Di Lặc thường là những bức tượng được đặt trang trọng trong phòng khách. Với khuôn mặt và thần thái phúc hậu, Phật Di Lặc được tin tưởng là vị thần mang lại hạnh phúc, thành công, sức khỏe cho gia chủ.

Tượng Phật Di Lặc
Tượng Phật Di Lặc giúp mang lại may mắn, sức khỏe

Ngoài những bức tượng với kích thước lớn, Phật Di Lặc còn được chế tác với nhiều kích thước khác nhau, có thể trưng bày trên bàn phòng khách, bàn làm việc...và có cả những hình khắc trên các vật trang sức như nhẫn, mặt dây chuyền....

Những vật phẩm phong thủy có thể làm tín vật cầu may 2
Nhiều người nổi tiếng ưa chuộng đeo nhẫn, mặt chuyền có khắc hình Phật Di Lặc

4. Biểu tượng Song Hỷ

Trong Hán tự, chữ "song hỷ" có sự đối xứng hoàn hảo. Vì thế biểu tượng này được cho là thể hiện sự cân bằng trong dòng chảy của các nguồn năng lượng. Biểu tượng này hay được dùng trong các đám hỏi, đám cưới với ý nghĩa là sự tròn đầy, vẹn toàn và bền lâu của hạnh phúc lứa đôi.

Những vật phẩm phong thủy có thể làm tín vật cầu may 3
Bộ chén tách uống trà được trang trí bằng biểu tượng song hỷ phong cách

Biểu tượng Song Hỷ cũng sẽ đem lại may mắn trong tình yêu và hôn nhân cho những người đã hoặc chưa kết hôn. Vì thế, biểu tượng này cũng hay được sử dụng để trang trí nhà cửa, làm đồ trang sức, dây đeo chìa khóa...

Mặt dây chuyền biểu tượng song hỷ
Mặt dây chuyền biểu tượng song hỷ giúp mang lại may mắn trong tình yêu

5. Biểu tượng voi

Con voi là biểu tượng của sức mạnh thầm lặng, lòng tốt và sự uy nghi. Vì thế biểu tượng Voi hay được dùng để cầu bình an hơn là cầu tài lộc, may mắn như một số loại vật phẩm phong thủy khác.

Biểu tượng voi phong thủy
Biểu tượng cặp mẹ con voi có ý nghĩa như một lời chúc cho việc sinh nở thuận lợi

Mặt dây chuyền biểu tượng voi
Mặt dây chuyền biểu tượng voi được nhiều người yêu thích

6. Hạt mã não

Đây là một kiểu bùa may mắn được cho là có tác dụng trừ tà mạnh mẽ. Ở một số nơi, khi có một bé gái ra đời, mọi người sẽ tặng bé một chiếc vòng mã não nhằm cầu chúc cho bé lớn lên bình an, khỏe mạnh.

Vòng kết bằng hạt mã não
Vòng kết bằng hạt mã não được coi như một loại bùa cầu may

Ngày nay, vòng hoặc dây kết hạt mã não mang ý nghĩa may mắn về tình yêu nhiều hơn là cầu chúc sức khỏe như trước đây. Những vật phẩm có hạt mã não trên thị trường hiện được làm từ mã não hoặc Carnelian. Tuy vậy, hạt carnelian là loại sản phẩm đắt đỏ và khó tìm.

Vòng mã não
Vòng mã não với kiểu dáng và màu sắc phong phú phù hợp với hầu hết mọi người

7. Tỳ hưu phong thủy

Đây là một loại bùa may mắn phổ biến nhất hiện nay. Ngoài trang trí nhà ở hay văn phòng, tỳ hưu còn là vật phẩm hay được đeo sát bên người để cầu tài lộc, thăng tiến trong sự nghiệp.

Tỳ hưu
Biểu tượng tỳ hưu giúp triệt tiêu các nguồn năng lượng xấu

Nhẫn Tỳ hưu
Một kiểu trang sức là nhẫn gắn hình Tỳ Hưu 

8. Biểu tượng Long Phụng

Cặp đôi này thường được sử dụng với mục đích cầu may trong tình yêu và hôn nhân. Trong khi biểu tượng Rồng thể hiện sự mạnh mẽ và quyền lực, và có thuộc tính dương, thì Phượng lại mềm mại và duyên dáng và biểu tượng cho phần âm.

Biểu tượng Long Phụng
Cặp đôi Long Phụng thường được bày trong phòng ngủ để cầu duyên, hay
làm họa tiết trang phục thể hiện quyền lực

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy có thể làm tín vật cầu may

Điểm cốt yếu trong khảo sát và chọn nhà ở –

Rất nhiều người hy vọng mình sẽ chọn được một ngôi nhà có phong thuỷ tốt để ở, song lại không biết phải chọn như thế nào? Đã có thầy phong thuỷ tổng kết và rút ra được những điểm cốt yếu trong chọn nhà ở, dưới đây xin cung cấp để độc giả quan tâm tha

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

m khảo khi mua nhà cho mình.

nhacaotang1

1. Thời gian xem nhà: Thích hợp nhất là vào lúc ánh nắng mặt trời chiếu rộng khắp, dưới ánh sáng mặt trời có thể thấy rõ được môi trường bên trong cũng như bên ngoài nhà, nếu xem vào lúc trời u tối, lúc hoàng hôn hoặc buổi tối thì khó có thể phán đoán chính xác khí tượng của nhà.

2. Khi quan sát cửa: Khi bước vào nhà nên dừng lại ở chỗ cửa ra vào một lát, định thần quan sát toàn bộ môi trường bên trong nhà, khi vào trong rồi cần chú ý đến các vấn đề sáng tối, lạnh nóng, tụ tán, từ đó biết được nhà đó có ấm đông mát hè hay không, có tác dụng “tăng phong tụ khí” hay không.

3. Hình thế bên ngoài: Xem hình thế sơn xuyên (núi non) bên ngoài nhà, thuộc môi trường phong thuỷ gì. Ví dụ như ra khỏi cửa nhìn thấy núi thì cũng phải quan sát xem hình dáng của núi đó ra sao, có đẹp không, đá xếp thành lớp hay lộn xộn v.v…

Phong thuỷ có viết: “Sơn quản nhân đinh thủy quản tài” – (Núi giữ người mà nước thì giữ của cải). Ý nói là hình dáng núi đẹp tât có văn nhân nhã sĩ; hình dáng núi khoẻ đẹp có khí thế thì sẽ có người tài ba dũng mãnh, trái lại thế núi kém thì nếu sinh ra nam giới sẽ thiếu khí chất cương cường.

Nếu nhà tựa vào núi có hình dạng lồi lõm, đá mọc lởm chởm, theo phong thuỷ học đó thuộc hung sơn, gặp trường hợp này có thể treo rèm đầy cho cửa sổ để hoá giải.

Khi chọn nhà cần chú ý một số điểm về địa hình và địa thế như sau:

–    Nhà xây cất ở nơi có dốc núi phần nhiều là đứng đơn độc, cần chú ý đến tầm quan sát, địa thế phía sau nhà nên cao, địa thế phía trước nên thấp. Chú ý trước nhà địa thế thấp nhưng phải là thấp dần theo dốc, kị thâp cách bậc theo tầng theo lớp, thấp tụt xuống đột ngột thậm chí còn là dốc đứng, nhìn xuống có cảm giác sâu thăm thẳm.

–    Nhà ở có địa thế ngược lại với trên, tức là phía trước cao phía sau thẫp là rất không thích hợp; nếu phía sau nhà địa thế thấp hẳn xuống, có khi là vực sâu sẽ tạo cảm giác sợ hãi, lo lắng mất an toàn.

–    Địa thế đất xung quanh chỗ làm nhà thấp, khi trời mưa dễ tích tụ thủy khí, ngoài ảnh hưởng ẩm ướt ra còn tạo cho người ờ có cảm giác khó chịu.

–    Nhà xây dựng độc lập trên núi, là môi trường ở yên tĩnh và thanh nhã, tránh xa được bụi trần. Nhưng nếu địa thế càng lên cao càng vắng, nhà ở càng ít đi, xung quanh không có nhà hàng xóm khác thì không nên chọn nơi như vậy.

4. Vị trí nhà: Xét đến các vấn đề như giao thông, bệnh viện, mua hàng, đi học xem có thuận tiện hay không. Ngoài ra cần chú ý quan hệ giữa nhà với đường đi, sông ngòi.

–    Đường đi hoặc sông phía trước nhà uốn lượn hình chữ u, nếu nhà ở vào đúng vị trí phần cong đáy chữ U phía trong thì chẳng khác gì ở nơi có thành quách bảo vệ, sẽ tạo được tâm lý vững vàng khoẻ khoắn. Nếu ở phía bên ngoài chỗ phần cong đáy chữ U thì tình hình ngược lại, sẽ tạo cảm giác bất an, lo lắng.

–   Nhà ở trên đất hình tam giác. Nhà làm trên đất hình tam giác nếu theo hình đất nhà sẽ có các góc nhọn, nó thuộc loại nhà ở nơi đường giao nhau hình chữ Y, xe ô tô qua lại hai bên nhà sẽ ồn ào hỗn độn, không hợp với nguyên tắc tứ bình bất ổn.

–   Phía trước nhà có đường đi hoặc sông ngòi hình chữ T. Nhà ở vị trí này là điểm giao hội của dòng xe cộ qua đường hoặc dòng nước chảy trên sông, là nơi quá nhiễu động, hoàn toàn không phù hợp nguyên tắc tứ bình bát ổn.

5. Hơi của nhà. Muốn xem hơi của nhà ngoài việc quan sát kiểm tra bên ngoài nhà ra còn phải dựa vào cảm nhận của cá nhân, do cảm giác thứ 6 ở trẻ nhỏ thường mạnh hơn người lớn mà rất nhiều người khi đi xem nhà mới thường mang theo trẻ nhỏ đi cùng, thông qua biểu hiện của trẻ để phán đoán hơi của nhà mới tốt hay xấu. Nếu như trẻ bước vào nhà với dáng dấp lo lắng, thận trọng, không dám ở lại lâu, điều đó chứng tỏ nhà này không tốt, không nên chọn ở; trái lại, trẻ lưu luyến không muôn rời, đó là nhà tốt.

Đôi khi chúng ta phải dựa vào sự cảm nhận của bản thân dể phán đoán hơi của nhà. Khi chúng ta bước vào một ngôi nhà nào đó, bên trong tuy không có người nhưng từ trong tiềm thức chúng ta vẫn cảm nhận thây như trong nhà đang có người ở, khí tượng như vậy chứng tỏ đó là nhà tốt, nếu ở vào nhà đó nhất định sẽ hưng vượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm cốt yếu trong khảo sát và chọn nhà ở –

Để sách trong phòng ngủ - tốt hay xấu ?

Phòng ngủ vốn cần sự yên tĩnh và thoáng đãng. Hình ảnh những cuốn sách lớn bày ngổn ngang trên giường hay trên bàn không phải là khung cảnh lý tưởng cho không gian nghỉ ngơi của bạn, đặc biệt là phòng ngủ của vợ chồng. Sách báo với các thông tin hấp dẫn có thể gián tiếp cản trở sự khơi gợi tình cảm lãng mạn của 2 người. Điều này đi ngược lại mục đích của phòng ngủ là để ngủ và bồi đắp tình yêu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy chú ý đến những thông điệp mà sách mang lại cho bạn trong phòng ngủ. Liệu tựa sách bạn bắt gặp trước khi ngủ và lúc thức dậy có mang đến nguồn năng lượng tốt đẹp? Dòng chữ đầu tiên bạn nhìn thấy khi thức dậy là tiêu đề bài báo, cuốn sách mang tính tích cực như “Tình yêu cuộc sống” hay tiêu cực như “Chết trong túng quẫn” ?  


Không những thế, với những cuốn sách to, dày và được đóng bìa cứng, sát khí từ các góc nhọn của bìa sách chĩa về phía giường ngủ, ảnh hưởng xấu đến năng lượng của bạn. Giải pháp tốt nhất là cất sách vào thư phòng hoặc để sách trong tủ và đóng kín cánh tủ lại.

Nên nhớ, mọi vật đều chứa đựng nguồn năng lượng nhất định và có ảnh hưởng đến con người. Vì vậy, để tận dụng nguồn năng lượng tốt và hạn chế nguồn năng lượng xấu, hãy chú ý đến các điều kiện về phong thủy của không gian mà bạn đang sống.

(Theo About.com)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để sách trong phòng ngủ - tốt hay xấu ?

Các bước cơ bản trong trang trí phòng ngủ(phần 2) –

- Chiếu sáng. Nhu cầu chiếu sáng phòng ngủ khá phổ thông, chủ yếu gồm chiếu sáng thông thường và chiếu sáng cục bộ. Chiếu sáng thông thường cho phòng ngủ phải đảm bảo được các yếu tố yên tĩnh, ấm áp, dịu mắt, thích nghi. Các loại đèn có ánh sáng mạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chiếu sáng. Nhu cầu chiếu sáng phòng ngủ khá phổ thông, chủ yếu gồm chiếu sáng thông thường và chiếu sáng cục bộ. Chiếu sáng thông thường cho phòng ngủ phải đảm bảo được các yếu tố yên tĩnh, ấm áp, dịu mắt, thích nghi. Các loại đèn có ánh sáng mạnh, nhiều màu sắc không hợp với phòng ngủ.

phongthuy500

Chiếu sáng cục bộ cho phòng ngủ phải xét đến các yếu tố sau:

Chiếu sáng cho bàn đọc sách – Thường sử dụng đèn bàn.

Chiếu sáng cho việc đọc sách trước khi ngủ. Nhiều người trước khi ngu thường nằm tựa thành giường đọc sách, vì vậy phải chọn dùng đèn bàn hoặc đèn tường cho phù hợp. Đặc điểm của đèn bàn là có thể cơ động, linh hoạt trong sử dụng, bản thân đèn bàn còn là đồ nghệ thuật có thể tạo cảm giác dễ chịu. Ưu điểm của đèn tường là ánh sáng phản xạ qua tường nên dịu mắt hơn.

Chiếu sáng cho bàn trang điểm – Bàn trang điểm thường dùng đèn có ánh sáng nhẹ nhàng ấm áp, nên bố trí đèn này phía trên gương và sử dụng đèn trắng hoặc đèn huỳnh quang là hợp nhất, nên bố trí ở góc lệch 60° so với tầm mắt đê tránh ánh sáng mạnh chiếu thẳng vào mắt.

Chiếu sáng cho người ngồi đọc sách trên ghế sô pha thường dùng đèn cây.Cần đặc biệt chú ý đến nhiệt dộ từ các nguồn sáng toá ra, xuất phát từ vấn đề an toàn, khi bố trí đèn cho phòng ngủ của trẻ nhỏ cần hết sức chú ý, làm thế nào đế trẻ không thế trực tiếp chạm tay vào các nguồn điện, tuyệt đôi không bố trí đèn kiểu cơ động như dèn bàn trong phòng trẻ.

Phòng ngủ là không gian sinh hoạt tự do dùng cho ngủ, nghi, đòi hỏi tính kín đáo và yên tĩnh cao. Chức năng cơ bản của phòng ngủ có hai mặt: một, nó phải thoả mãn nhu cầu căn bản là nghỉ và ngủ; mặt khác, phải phù hợp nhu cầu tổng hợp là thư giãn, làm việc, trang điểm và vệ sinh bảo vệ sức khoẻ. Trọng điểm cần chú ý khi bố trí đồ dùng và trang trí ở phòng ngủ là yếu tố thị giác phải mang đặc tính cá nhân thực dụng.

Kiểu cách đồ dùng trong phòng ngủ và việc sắp xếp phòng ngủ là một kiến thức rất quan trọng. Bài trí phòng ngủ phải chú ý các yếu tố ấm áp, êm dịu, làm cho người ở có cảm giác thư thái, nhẹ nhõm. Kiểu cách và tạo hình của đồ dùng trong phòng ngủ phải có tính hiện đại, ý nhị, có vậy mới tạo được sự mới lạ về phong cách mang lại cảm giác thích thủ cho người sử dụng.

Trước hết, việc chọn đồ dùng cho phòng ngủ phái xét đến các nhân tố về điện tích, hình dáng, bố cục, số lượng người ở và hướng của phòng ngủ. Tiếp theo phải căn cứ vào mục dích thực dụng và tổng hợp toàn diện các nhân tố nói trên để chọn chủng loại và kiểu cách của đồ dùng. Chức năng chính yếu nhất của phòng ngủ là ở chỗ ngủ. Đồ dùng ở khu này chủ yếu có giường và tú đầu giường, việc bố trí ánh sáng ở đây phải thoả mãn yêu cầu đọc sách khi ở giường, nguồn sáng cục bộ ở giường phải đủ.

Chú ý bố trí giường ngủ hợp lý và khoa học. Thường bài trí phòng ngủ có 3 dạng hình thái là phòng với giường đơn, phòng với giường đôi và phòng với giường kê đối nhau. Tủ và bàn thường đặt ở đầu giường, chọn dùng kiểu nào cho phù hợp nên căn cứ vào nhu cầu tâm lý của cả vợ và chồng kết hợp tình hình thực tế.

Ngoài ra, màu sắc trong phòng ngủ nên sứ dụng gam màu ấm áp, nhưng thường chọn căn cứ vào sở thích, tính cách mỗi người.

Tóm lại, hiệu quả tổng thể từ kiểu cách, hình dáng, màu sắc, kích thước của các đồ dùng trong phòng ngủ và việc bài trí chúng hợp lý sẽ tạo điều kiện hưởng thụ tốt nhất, khiến cho sức khoẻ và tinh thần người sử dụng luôn dồi dào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các bước cơ bản trong trang trí phòng ngủ(phần 2) –

Chu dịch và Kinh dịch

Tác giả: Lương Trâm - Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng. - Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm:8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng. Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển, còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay sử dụng:

Quẻ năm hào:

Ví dụ: quẻ Giá sắc

Nội dung: Dịch nghĩa:
Thả thủ quân tử phận.              Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.          Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn             Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên            Làm lành vậy mới yên

Quẻ sáu hào:

Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)

Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán: Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ

Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.

Hai loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.

1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành:

a - Sự hình thành Âm dương:
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.



Hình Lưỡng Nghi


Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “cầu lửa”.

Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.

Ví dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm

Hình Tứ Tượng

Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”

b- Ngũ hành:
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.

Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.

c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:

Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên: Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái

2/ Hà đồ – Lạc thư:

Hà đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng.

a - Hà đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.

Hình Hà Đồ

b - Lạc thư: Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5.

Hình Lạc Thư

Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái:

1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí)

Bốn mùa

Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương, cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.

Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí:



- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6

Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau:

- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.

2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng)

Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo.

Ví dụ: Địa Bát Quái


Hậu Thiên bát quái

Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy

So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy

Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :

- Cấn: Tiết lập xuân,
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí

Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết: “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn."

Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau:

- Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.

Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau:

Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.

Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....

Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.

Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu?

Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.

Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.

Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.

Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.

Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng.

Ở Trung Hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.

“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường sử dụng.

Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.

Để giải thích, Chu Hy viết: “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”

Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả, bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.

Như vậy đã có một số người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng :
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu dịch và Kinh dịch

Nhìn ra dấu hiệu phát tài trên khuôn mặt chỉ trong 1 phút

Qua mỗi đặc điểm khuôn mặt, người ta không chỉ biết thêm về tính cách mà còn đoán ra dấu hiệu phát tài một cách nhanh chóng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Khuôn mặt cân đối

Yếu tố đầu tiên của một khuôn mặt dễ phát tài phát lộc là sự cân đối, tương xứng trong chỉnh thể.

Sở hữu khuôn mặt cân đối, cuộc đời bạn sẽ suôn sẻ, may mắn và thành công. Do đó, bạn nên tránh để những kiểu tóc tạo cảm giác che khuất hoặc khiến cho mặt bị lệch.

2. Trán cao


Tướng trán tốt là cao và rộng. Vầng trán cao, đầy đặn, khí sắc sáng sủa cho thấy đây là người có sức khỏe tốt, tràn trề sinh lực, thông minh, nhạy bén hơn người và thường là người có quyền có thế.

Nốt ruồi đen ở trung tâm trán là dấu hiệu không may mắn. Nếu có thể, bạn nên xóa đi bởi nó ảnh hưởng phần nào đến tài vận của bạn. Ngược lại, nếu là nốt ruồi đỏ, tài vận sẽ hanh thông.

Nhin ra dau hieu phat tai tren khuon mat chi trong 1 phut hinh anh
 
3. Mũi to, cao và đầy đặn

Kích cỡ mũi là thước đo sự giàu có của một con người. Mũi là cung Tài Bạch, nơi lưu giữ tiền tài. Người có mũi to, sống mũi cao, sáng mịn thì cuộc đời giàu có và nhàn hạ, sung sướng.

Mũi càng tròn và đầy đặn thì chủ nhân càng giàu sang, phú quý. Lỗ mũi không nên quá nhỏ hoặc quá to mới được coi là tốt. Ngoài ra, nốt ruồi ở đầu mũi là dấu hiệu của sự xui xẻo.

4. Môi hình trái tim

Người có đôi môi hình trái tim, tức viền môi trên lượn sóng tạo thành 2 đỉnh trái tim cân xứng, thường được quý nhân phù trợ, cuộc sống an nhàn, gặp nhiều may mắn. Những đứa trẻ từ khi sinh ra đã có đặc điểm môi tròn và hơi cong, khi lớn lên sẽ có vận may hơn người.

Những ai có cằm chẻ, má lúm đồng tiền và môi trái tim rất đào hoa, nhân duyên tốt. Đặc biệt, phụ nữ có môi trái tim rất vượng phu, đem lại nhiều may mắn cho chồng.

5. Miệng hình cánh sen

Tướng miệng đẹp khi nó nhỏ nhắn, mềm và có đôi môi căng mọng. Miệng luôn ẩm đem lại may mắn và tiền tài cho chủ nhân, miệng khô mang ý ngược lại.

Nếu có nốt ruồi xung quanh miệng, chỉ cần nó không phải màu đen thì sẽ tăng sự may mắn cho chủ nhân. Thường thì người có một nốt ruồi son nhỏ quanh miệng luôn được quý nhân phù trợ.

Nhin ra dau hieu phat tai tren khuon mat chi trong 1 phut hinh anh 2
 
6. Cằm đầy đặn


Trong nhân tướng học, cằm là địa các, quản về tài phúc. Chiếc cằm biểu thị mức độ kiên trì, lòng quyết tâm và ý chí của bạn. Cằm cũng được coi là nơi giữ của, người tích lũy được nhiều của cải thì quai hàm thường nhô ra.

Tướng cằm đẹp và tốt thường nhô ra, đầy đặn và nhìn như một ngọn núi. Người  sở hữu tướng cằm này thường sống thọ. Nếu quai hàm thụt vào là dấu hiệu của sự bất hạnh khi về già hoặc là chết yểu.

Nốt ruồi dưới cằm trái chủ tài lộc, là tướng phú quý. Phụ nữ có nốt ruồi này thường hưởng vinh hoa, phú quý suốt đời. Đồng thời, họ được thừa kế khối tài sản đất đai lớn từ tổ tiên để lại.

7. Mắt sáng
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nó không chỉ biểu lộ tâm trạng mà còn nói lên khí chất, tài năng của mỗi người. Những người có đôi mắt sáng với cái  nhìn điềm tĩnh thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. 


Đôi mắt sáng được bảo vệ bởi lông mày cong, chủ nhân có sức khỏe tốt và giàu có. Bạn nên hạn chế cạo hoặc nhổ lông mày vì điều này có thể làm giảm sự may mắn.

8. Gò má đầy đặn

Gò má đầy đặn và hồng hào báo hiệu một cuộc sống dư dả, an nhàn. Gò má nên đầy đặn và không nên quá cao. Hai gò má cân bằng, đều ửng sắc hồng chứng tỏ người này luôn được quý nhân phù trợ.

9. Tai to và dày

Người có đôi tai cân xứng thường may mắn và khôn ngoan. Tướng tai to, dày, luân quách rõ ràng là dấu hiệu của sự cao sang, quý phái.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn ra dấu hiệu phát tài trên khuôn mặt chỉ trong 1 phút

Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Phật dạy thế gian không điều gì là vĩnh cửu, trường tồn theo thời gian. Sống trên đời ai chẳng có thời điểm rơi vào đau khổ, tuyệt vọng. Biết buông bỏ ắt số
Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– mệnh được cải biên theo chiều hướng tốt.



Sinh thời, Phật Thích Ca Mâu Ni từng răn dạy và thuyết giáo về thứ gọi là vĩnh cửu, trường tồn theo năm tháng. Ngài cũng chỉ ra 4 thứ trên đời không thể tồn tại vĩnh cửu. Đó là:

Nghe loi Phat day ve su vinh cuu trong cuoc doi hinh anh
 
1. Hữu thường giả tất vô thường


Bất luận thứ gì tồn tại thì đều thay đổi, có sinh rồi ắt diệt, hữu biến thành vô, chẳng gì là có thể bảo trì được trạng thái ban đầu. Bản chất từ từ cải biến và cuối cùng là cũng mất hẳn đi.

Trong cuộc đời mỗi con người, không ai dám khẳng định rằng cuộc sống được trải toàn hoa hồng, mà không phải đối mặt với khó khăn, thử thách, nỗi buồn, sự thất vọng.

Trong thời điểm nào đó, nhân sinh ắt sẽ trải nghiệm đủ mùi vị cuộc sống. Người mẹ sinh ra đứa con thì hạnh phúc nhường nào, nhưng đổi lại, để có được niềm hạnh phúc ấy, họ đã trải qua những tháng ngày gian khổ, những cơn đau cùng cực. 

Ngay cả cơ thể mỗi người cũng không ngừng biến đổi. Hỏi có ai thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử chăng?

Những thứ hữu hình rồi cũng trở nên vô hình, biến thành cát bụi, bay vào không gian. Vậy nên vì sao phải chấp niệm, giữ khư khư cho mình những điều buồn đau, tủi nhục mà không buông bỏ để cuộc đời được cải biên sang trang mới?

Những hiểu lầm trong tín ngưỡng thờ Phật
Trong tín ngưỡng dân gian có rất nhiều điều cấm kỵ, tuy nhiên, có những điều không phải thuộc về Phật giáo nhưng chúng ta vẫn lầm tưởng đó là
2. Phú quý giả tất bất cửu


Giàu có không thể là vĩnh cửu. Vật chất chỉ là đồ phòng thân, thứ của cải phù du đâu thể ở mãi bên bạn, lúc lìa xa trần thế thử hỏi có ai còn dùng đến nó nữa.

Tục ngữ có câu “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” để khẳng định thêm rằng, vật chất, sự giàu có không bao giờ có khái niệm vĩnh cửu.

Trừ khi bản thân mỗi con người làm việc thiện, tích nhân đức, gieo nhân thiện thì mới có thể bảo trì được vinh hoa phú quý cho đời con đời cháu.

Ngặt một nỗi, là người ai chẳng có lòng tham, thậm chí còn là lòng tham vô đáy, có nhiều rồi lại muốn nhiều hơn, nhiều rồi lại muốn mãi mãi. Vì thế, đếm trên đầu ngón tay cũng không thấy có người muốn quyên tặng hay bố thí, làm việc thiện giúp đời. Vậy nên, giàu có chẳng thể kéo dài mãi được.

Nghe loi Phat day ve su vinh cuu trong cuoc doi hinh anh 2
 
3. Hội hợp giả tất biệt ly


Tụ hợp thì ắt có biệt ly, đâu có ai nắm tay được cả ngày. Ngày hôm nay cha mẹ, anh chị em quây quần bên bữa cơm gia đình nồng ấm, nhưng chưa chắc ngày mai, ngày kia lại được tận hưởng cảm giác đó cùng nhau.

Vì thế, đã sinh ra ở trên cõi đời, hãy biết trân trọng những phút giây chúng ta còn được ở bên, cùng sẻ chia và hướng về điều thiện. Đố kị, ghen ghét, thù hằn để làm gì khiến tâm can dằn vặt, khổ đau, khi nhắm mắt xuôi tay rồi mọi thứ đều biến vào hư vô hết, còn lưu lại được gì đây?

4. Cường kiện giả tất quy tử


Dù có mạnh khỏe tới đâu, cuối cùng cũng quy về cái chết. Dù tuổi trẻ, sức khỏe mạnh mẽ tới đâu đi nữa thì cũng có thời điểm ra đi, cho dù sống thọ đến mấy cũng chẳng thể “trường sinh bất tử”, chẳng thể trái với quy luật tự nhiên.

Vì thế, dù là ai đi nữa, hãy tận dụng từng phút giây được sống, được hít thở trong bầu không khí của tình yêu thương nhân loại, để sống thật hữu ích, sống an nhiên, tự tại để khi chết đi cũng bình an, viên mãn.

Đừng cậy khỏe mà tự tung tự tác với đời, làm những chuyện trái với đạo lý con người. Có chăng, hãy tận dụng sức lực của tuổi trẻ để gắn kết tình yêu thương, gieo mầm thiện, gặt trái lành, tự giúp mình và giúp đời thêm đẹp.

Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu theo phong thủy, ngũ hành trong cuộc đời để ghi nhớ mà có thể buông bỏ mọi ưu phiền, sầu não, thức tỉnh chính mình trên con đường tìm tới sự bình yên trong tâm hồn mỗi chúng ta bạn nhé!

Tâm Nhân

Có phải người lương thiện thường hay chịu thiệt?
Chúng ta thường nói với nhau rằng “thật thà thường bị thua thiệt”, nhưng Phật dạy nhân sinh có nhân quả, thua thiệt là vì khuyết thiếu trí

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Chọn mầu xe hợp với tuổi

Dựa vào quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc, Phong thủy ứng dụng vào chọn màu xe hợp mệnh và tuổi mang tài lộc và bình an trên đường đi cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên cạnh việc chọn mua xe theo sở thích và nhu cầu sử dụng, người sử dụng còn quan tâm đến những cách để vận hành trên đường luôn an toàn. Dưới đây các bạn có thể tìm hiểu những kiến thức cơ bản về phong thủy để lựa chọn một chiếc xe hợp mệnh, hợp tuổi và cách trang trí bên trong sao cho mang lại nhiều may mắn cũng như tài lộc cho mình. 

Quy luật Tương sinh - Tương khắc của Ngũ hành trong phong thủy

  • Mua chiếc xe có màu tương sinh với mạng người chủ: thì chiếc xe đó thường đem lại lợi lộc, khi lái xe sẽ thoải mái trong lòng, ít khi bị hư hỏng bất ngờ và nếu rủi ro có bị tai nạn thì thường bị nhẹ hơn màu tương khắc.
  • Mua chiếc xe có màu cùng hành với người chủ: cũng tốt, nó ít khi gây phiền phức nhưng cũng không được lợi bằng màu sinh nhập
  • Mua xe có màu tương khắc với mạng người chủ: thường làm cho sức khỏe người chủ trở nên suy yếu, trong lòng bực bội khi ngồi vào tay lái, bị buộc phải lái đi làm những việc mà trong lòng không muốn.

Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề.

Dựa vào luật ngũ hành tương khắc ta có sự tương khắc giữa tuổi tác với màu sắc như sau:

  • Hỏa bị khắc Thủy - người mạng hỏa cần tránh những gì có màu xanh dương hay da trời.
  • Thuỷ bị khắc Thổ - người mạng Thuỷ cần tránh những gì có màu vàng.
  • Thổ bị khắc Mộc - người mạng Thổ cần tránh những gì có màu xanh lá cây.
  • Mộc bị khắc Kim - người mạng Mộc cần tránh những gì có màu trắng.
  • Kim bị khắc Hỏa - người mạng Kim cần tránh những gì có màu đỏ.

Tóm lại khi khi chọn xe, bạn nên cân nhắc xem màu sắc có xung khắc với mệnh của mình hay không thông qua thuyết Ngũ Hành. Ví dụ, người chủ xe tuổi Ngọ và mệnh Hỏa thì không nên chọn xe màu đỏ vì nó sẽ làm tăng thêm tính Hỏa. Thay vào đó, người lái nên chọn một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen để làm dịu bớt tính Hỏa.

Ngoài ra, màu trắng hay xám cũng là lựa chọn phù hợp và an toàn hơn vì làm tính Hỏa suy yếu. Mặt khác, nếu người lái dễ bị mất tập trung và mang tuổi Hợi, mệnh Thủy thì nên chọn xe có màu xanh lá thuộc hành Mộc. Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người tương tự.

Tuy nhiên, cách dựa vào ngũ hành Mệnh có độ chính xác không cao bởi nếu mọi người sinh cùng năm thì mệnh ai cũng giống ai, ngũ hành đều giống nhau, không phân biệt được giữa người sinh vào ngày này, giờ này, tháng này hoặc mùa này. Mặt khác chỉ xem xét tới ngũ hành của Mệnh nên đã bỏ qua mất các yếu tố về ngũ hành của ngày giờ tháng sinh cũng như sự tương tác qua lại giữa chúng. Trong nhiều trường hợp, lựa chọn ngũ hành theo bản Mệnh lại càng mất đi sự cân bằng âm dương của chính người chủ nhân đó, vô tình gây hại mà không biết. 

Để có thể lựa chọn chính xác hơn và đúng bản chất của âm dương ngũ hành cần phải sử dụng phương pháp Tứ Trụ, luận ngũ hành của Giờ, Ngày, Tháng và Năm sinh. Xem xét hành nào vượng, hành nào suy, cái nào gây mất tính cân bằng ngũ hành để từ đó biết được ngũ hành cần bổ sung - chính là màu sắc của xe hợp tuổi theo ngũ hành đó.

Bạn có thể tra màu sắc xe bằng tiện ích trực tuyến Xem màu xe hợp tuổi theo Tứ Trụ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn mầu xe hợp với tuổi

Nhà phạm vào thế hao tài và cách hóa giải

Ngôi nhà phạm vào thế hao tài là những trường trong ngôi nhà có nhiều cửa chính thông nhau, cửa chính và cửa sổ đối diện nhau, cầu thang chạy hướng thẳng ra cửa chính, có vòi nước hướng chảy ra cửa chính hoặc cửa cổng....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.    Tình huống nhà phạm vào thế hao tài -   Ngôi nhà phạm vào thế hao tài là những trường trong ngôi nhà có nhiều cửa chính thông nhau, cửa chính và cửa sổ đối diện nhau, cầu thang chạy hướng thẳng ra cửa chính, có vòi nước hướng chảy ra cửa chính hoặc cửa cổng.




-         Nhà mà phạm vào thế hao tài kể trên thì cho dù gia đình miệt mài làm việc và kiếm tiền được bao nhiêu thì cũng vì nhiều chuyện không đâu vào đâu mà để tiền tài đi hết. Nói cách khách là không giữ được của.-         Cách hóa giải nhà phạm vào thế hao tài:+    Trường hợp nhà có nhiều cửa chính thông nhau ( từ 2 cửa trở lên và những ngôi nhà hình ống thì có rất nhiều cửa thông nhau) – trường hợp này không chỉ hao tài mà tình cảm những người trong nhà cũng bị dạn nứt. Cách hóa giải tốt nhất là treo mành hạt tròn bằng nhựa hoặc bằng gỗ, sẽ có tác dụng tách khí xấu và ngăn cản tài lộc trôi ra ngoài; Treo phù dơi ở cửa chính; treo trên các cửa thông nhau 1 xâu tiền ngũ đế. Đặt thêm đá thạch anh hoặc đá phong thủy để cân bằng lại năng lượng đã mất. đặt ột bộ nước chảy hướng vào nhà để kích hoạt lại khí vận tài lộc đã mất.+  Trường hợp nhà có cửa sổ và cửa chính đối diện nhau: Với trường hợp này thì “tiền vào cửa trước lại ra cửa sau” do đó cần thay đổi vị trí của cửa sổ.+  Trường hợp nhà có cầu thang hướng chạy ra cửa chính. Cần dùng 1 tấm bình phong đặt gần chân cầu thang để ngăn cản tài lộc chảy ra ngoài.+  Trường hợp nhà có vòi nước chảy ra cửa chính hoặc chảy ra cổng.thì nên chuyển lại hướng vòi nước.+  Trường hợp nhà phạm vào thế hao tài thì cần phải dùng đá thạch anh hoặc đá phong thủy để cân bằng lại khí trường, dùng bộ nước chảy hướng vào nhà để kích hoạt khí tài vận của ngôi nhà đã mất, dùng phù dơi và xâu tiền ngũ đế để kích hoạt tài lộc. Lưu ý: + Các vật phẩm phong thủy cần phải được khai quang đúng cách và chọn ngày giờ đặt đúng vị trí thì mới có tác dụng.             + Đá phong thủy có nhiều loại đá năng lượng kém (do khai thác ở dạng non nên năng lương không đủ để hóa giải), nên cần tìm đến nơi bán đá uy tí hay nhờ người am hiểu về năng lượng của đá để chọn được loại đá tốt nhất, đá phong thủy cần được tẩy rửa năng lượng xấu và trì chú phật pháp vào trong đá để mang lại may mắn.   2.    Trường hợp thực tế-         Một nhà tại Quảng Ninh có nhờ Tác giả xem phong thủy. Sau khi xem phong thủy toàn diện ngôi nhà: Hướng nhà hợp với với chủ, địa khí tương đối tốt, bố trí phòng thờ, phòng bếp và hướng bếp, hướng bàn thờ đều được hướng tốt. Nhưng tác giả nhận thấy nhà có 5 cửa thông nhau và hai tầng đều là có 10 cửa thông nhau. Tác giả liền nói với chủ nhà là nhà anh làm được nhiều của nhưng không tu được. Chủ nhà ngac nhiên hỏi tại sao lại vậy? tác giả liền bảo là nhà anh bị tượng hao tài rất lớn – có 10 cửa thông nhau.-         Tác giả hóa bảo chủ nhà mua 8 cái mành hạt gỗ tròn treo lên 8 cái cửa, dùng phù dơi và xâu tiền ngũ đế treo lên các cửa, đặt 4 trụ thạch anh to, đặt một bộ nước chảy hướng vào nhà.-         Kết quả sau 3 tháng chủ nhà điện gọi cho tác giả là việc kinh doanh đã đạt được nhiều kết quả tốt. Trần Nhất Nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà phạm vào thế hao tài và cách hóa giải

Chuyện sự tích 12 con giáp

Ngày xưa, thủa Trời, Đất mới hình thành, mọi việc chưa được sắp xếp ổn định, chốn trần gian chưa ngăn nắp. Giữa cõi trời và hạ giới có nhiều sự khác nhau, nhất
Chuyện sự tích 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

là về thời gian và con người.


► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem

Nghe nói cõi Trời một ngày dài bằng một trăm ngày nơi hạ giới và “người” ở cõi Trời là Tiên, khác với người thường ở trần gian… Do vậy Ngọc Hoàng thượng đế đã phải bận tâm sắp xếp để tổ chức loài người được hoàn chỉnh. Một trong những điều phải sắp xếp đó là ... định “tuổi”, định “số mạng” con người. Ngọc Hoàng cho rằng: con người tuy đông, sinh ra vào ngày giờ, nơi chốn khác nhau nhưng tựu trung lại chủ yếu là chỉ “cầm tinh” có 12 con vật tiêu biểu, hiện có ở cõi trần. Trần gian có muôn loài vật, vậy lấy tiêu chuẩn nào để chọn trong số đó ra 12 con vật tiêu biểu, đặc trưng? Theo Ngọc Hoàng, một khi con vật nào đó đã được chọn để loài người “ẩn” vào đó thì sẽ cố định suốt từ đời này sang đời khác ở thế gian…

Chuyen su tich 12 con giap hinh anh
 
Để thực hiện ý định, Ngọc Hoàng đã họp cùng các quần thần suốt trong nhiều ngày và cuối cùng đã đi tới một quyết định: sẽ triệu tập các loài vật ở thế gian về Thiên Đình để tuyển chọn những con tiêu biểu nhất. Thế nhưng nếu triệu tập hết thì đất đâu mà chứa? Do vậy cách tốt nhất là phải có những điều kiện riêng. Điều kiện đó là: kể từ lúc có thông báo, hễ con vật nào về Thiên đình trước sẽ được chọn là con “đầu đàn” rồi từ con vật này sẽ chọn con tiếp theo, theo một nguyên tắc: con thứ nhất được quyền giới thiệu con thứ hai, con thứ hai được quyền giới thiệu con thứ ba và cứ theo trình tự mà tuyển chọn cho đến khi đủ 12 con thì thôi. Lệnh vừa ban ra thì đã nghe từ trong mây vang lên tiếng kêu the thé của một loài vật nhỏ con nhưng lại rất tinh khôn, đó là con Chuột. Số là lúc ấy, Chuột đang vui chơi gần chốn Thiên đình nghe trộm được lệnh trước đã không bỏ lỡ dịp may liền lên tiếng và có mặt sớm nhất. Giữ đúng lời hứa, Ngọc Hoàng bảo với Chuột:

- Nhà ngươi về truyền rao lại cho một người bạn thân thiết nào đó của ngươi, coi như con vật đó là con thứ 2 trong danh sách và từ con thứ hai đó sẽ được quyền chọn con thứ 3 cho đến kết thúc đủ 12 con thì thôi…Con nào đã được mời rồi thì sẽ tự động về đây vào ngày đầu xuân của trần gian để ta chỉ dạy.

Chuột ta hí hửng ra về cố moi óc xem có người bạn nào thân, đủ tin cậy để giới thiệu với Ngọc Hoàng không? Nghĩ mãi nó mới chợt nhớ đến Mèo. Thời ấy, giữa Chuột và Mèo sống hòa thuận như bạn bè. Khi được biết hảo ý của người bạn nhỏ, chú Mèo láu lỉnh đã kêu toáng lên thích thú. Sau đó Mèo được Chuột dặn thêm rằng:

- Anh chọn ngay một người bạn nào đó mà anh cho là đủ tư cách nhất rồi mời anh ta, nhân đó cũng báo cho anh ta chuẩn bị mời người khác nữa….

Mèo cẩn thận dặn Chuột:

- Tôi có tật hay mê ngủ, vậy đúng ngày lên Thiên đình anh nhớ đánh thức tôi kẻo quên nhé!

Rồi Mèo đi tìm Trâu là người bạn vẫn thường ngày cày ruộng ở gần nhà Mèo. Sau khi nghe nói xong Trâu gật đầu ngay:

- Tốt quá, tôi sẽ tìm một người bạn nối khố của tôi là anh Hổ, anh ấy oai dũng lắm!

Vốn là bạn thân lâu năm, Hổ nghe nói rất cảm động trước tình bạn và nghĩa cử cao cả của Trâu. Hổ mau mắn nói:

- Tôi có người bạn nhỏ trong rừng rất hiền lành dể thương, đó là Thỏ, tôi sẽ mời anh ta.

Tất nhiên là Thỏ ta khoái chí vô cùng, nó liền đi mời ngay một người bạn khá ly kỳ, thường hay lui tới uống nước ở một con sông lớn, đó là bác Rồng. Rồng là con vật suốt ngày bay lượn trên không và hay qua lại cung của Ngọc Hoàng, nên cũng hay biết chuyện này, bác Rồng nói:

- Tôi hay tin này từ các tiên nữ nhưng vì Chuột được Ngọc hoàng tin giao nên tôi đang chờ, vừa lúc anh tới báo. Được, tôi rất vui lòng nhận lời và tôi sẽ giới thiệu tiếp một người bạn của tôi.

Bạn của Rồng chính là Rắn, một dòng họ xa. Khi đươc báo tin, Rắn mừng rơn và đi tin ngay cho anh Ngựa là chỗ láng giềng được biết. Ngựa còn khoác lác:

- Hèn chi tôi năm mơ thấy mình được thăng quan, quả đúng thật. Được, tôi sẽ chọn một người bạn nữa xứng đáng.

Và chú Dê, bạn của Ngựa đã được giới thiệu vào danh sách. Rồi Dê nhớ ra rằng có một anh bạn thông minh hay ăn trái cây, đó là chú Khỉ, con vật vẫn tự xưng là “Hầu vương”, rồi anh ta bốc đồng khi được tin:

- Biết ngay thế nào Ngọc hoàng cũng sẽ cần đến mình, “Số trời” đã định rồi…

Chuyen su tich 12 con giap hinh anh
 
Bốn chân bốn cẳng, Khỉ chạy đi báo cho Gà, rồi Gà bay đi tìm Chó vốn là bạn cùng sống trong nhà với nhau. Thế là đủ số 12 con. Mùa đông cũng vừa hết, ngày xuân đang về… cả 12 con vật không ai bảo ai tự động cùng tới Thiên đình. Chỉ tội nghiệp cho con Mèo có bệnh ngủ quên, lại gặp người bạn Chuột xảo quyệt, ích kỷ nên tới ngày mà Chuột chỉ đi một mình. Trên Thiên đình, Ngọc hoàng điểm danh thấy chỉ có 11 con, Ngài nổi giận, còn Chuột thì chống chế:

- Tôi có báo cho Mèo nhưng nó quá mê ngủ nên không đi…

Ngọc hoàng phán:

- Được rồi, bỏ Mèo ra! Ta sẽ phái người xuống trần, trên đường đi hễ gặp bất cứ con vật nào thì cho thế chỗ của mèo.

Tướng nhà Trời y lệnh đi ngay. Gặp anh Heo lúc đang bị những đồ tể khiêng đến lò sát sinh. Tướng trời quát:

- Cho nó theo ta về chầu Ngọc Hoàng!

Chú Heo được đưa tới Thiên đình thì lúc này lại đang xảy ra một vấn đề trong việc chia ngôi thứ: Con vật nào sẽ đứng đầu. Nếu căn cứ vào “thành tích”và vóc dáng thì các con như Rồng, Cọp, Trâu, Ngựa phải được chọn. Nhưng để tránh sự cãi cọ lôi thôi, Ngọc Hoàng phán:

- Ta sẽ mở một cuộc thi do Hằng Nga làm giám khảo. Tất cả các ngươi hãy chạy thi từ đây đến Cung Quảng (chỗ ở của Hằng Nga) nếu con nào đến đích trước sẽ được đứng đầu bảng. Các con đứng sau theo thứ tự mà phân ngôi.

Cuộc thi diễn ra vô cùng hào hứng. Các con Cọp, Ngựa, Trâu ỷ sức mình nên lúc đầu cho qua, không ngờ những con vật nhỏ đã cố gắng vượt lên… chỉ có Trâu là vẫn giữ được vị trí hàng đầu. Khi về gần tới mức không ngờ chú Chuột ranh mãnh đã nhảy lên ngồi trên lưng Trâu từ hồi nào, liền nhảy phóc xuống và phóng nhanh qua lằn mức đến, giành vé đầu tiên. Trâu hậm hực phản đối nhưng đành thua vì điều lệ không ghi rõ phương thức cụ thể. Vừa lúc đó Mèo xuất hiện và khiếu nại:

- Tôi có tên trong danh sách, tại sao không được dự thi?

Ngọc Hoàng từ chối, nhưng Hằng Nga tâu:

- Thưa Ngọc Hoàng, để được lòng cả hai thần nghĩ nên nhận Mèo. Bên Cung Quảng hiện thiếu một người canh giữ nên thần muốn xin…

Ngọc Hoàng hiểu ý gật đầu:

- Được, ta chấp nhận để khanh tự chọn lấy một con trong số này về giữ Cung Quảng.

Thấy Thỏ trắng dễ thương nên Hằng Nga liền chọn Thỏ. Thế là danh sách bị khuyết và Mèo dĩ nhiên được “đặc cách” tuyển vào cho đủ số 12 con vật theo thứ tự: Chuột, Trâu, Cọp, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó và cuối cùng là Heo.

Việc phân chia như vậy đã xong và 12 con vật ấy trở thành “12 con giáp” của người trần gian cho đến ngày nay.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện sự tích 12 con giáp

Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan

Đây là điển cố thứ Mười bốn trong quẻ Quan Âm, mang tên Tử Nha Khí Quan (còn gọi là Tử Nha Từ Quan) Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan có bắt nguồn như sau:
Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Mười bốn  trong quẻ Quan Âm, mang tên Tử Nha Khí Quan (còn gọi là Tử Nha Từ Quan. Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan có bắt nguồn như sau:

Sau khi Khương Tử Nha học đạo thành công ở núi Côn Luân, lúc đó ông đã bảy mươi tuổi, vâng mệnh thầy xuống núi giúp đỡ nhà Chu diệt vua Trụ. ông đến Tống gia trang ở phía nam Triều Ca (nay là huyện Kỳ ở phía bắc tỉnh Hà Nam), gặp người anh kết nghĩa là Tống Dị Nhân. Tống Dị Nhân tiếp đãi Khương Tử Nha như anh em ruột thịt, giúp ông cưới Mã thị làm vợ. Mã thị lúc này 68 tuối, sau khi kết hôn, hai người chung sống rất hạnh phúc.

Mã thị thấy Khương Tử Nha ăn ở nhờ nhà người anh kết nghĩa không phải là cách tốt, bèn khuyên ông tự lo kiếm sống. Khương Tử Nha bèn đan đồ tre trúc bán, nhưng công việc không thuận lọi, không ai thèm hỏi đến

Khi đó, có con hồ ly tinh chín đuôi hóa thành Tô Đát Kỷ, dùng dung mạo tuyệt đẹp để mê hoặc Trụ Vương, hại chết hoàng hậu Khương nương nương. Sau đó, lại hiến kế, lệnh cho mỗi gia đình trong thành Triều Ca phải nộp bốn con rắn, làm thành “sái bòn” (cái hố to chứa rắn độc), nếu bất mãn với cung nữ hay triều thần nào, liền ném họ xuống “sái bồn” cho rắn cắn chết. Đát Kỷ lại nói dối là mời tiên nữ xuống gặp Trụ Vương, khiến Trụ Vương rất vui mừng. Đát Kỷ gọi Ngọc Thạch Tỳ Bà tinh đến, lệnh cho biến thành tiên nữ để lấy lòng Trụ Vương. Trụ Vương trông thấy ả đẹp như tiên nữ, hết sức vui mừng, lại nghe theo lời của Tỳ Bà tinh, cho xây tòa Lộc Đài cao bốn mươi chín trượng đế gặp gỡ nhau trong đó.

Có một người bán củi tên là Lưu Càn biết Khương Tử Nha giỏi phép thuật, xin gieo cho một quẻ, thấy hết sức linh nghiệm, từ đó Khương Tử Nha nổi tiếng khắp Triều Ca với danh hiệu “hoạt thần tiên” (thần tiên sống).

Một hôm, Tỳ Bà tinh cưỡi mây đi qua, thấy người đến xem bói rất đông, sinh lòng hiếu kỳ, muốn thử tài Khương Tử Nha, bèn đến chỗ vắng người, hóa thân thành một bà quả phụ, tiến vào đám đông. Khương Tử Nha vừa nhìn đã biết ngay quả phụ này là yêu tinh biến thành, bèn nắm chặt lấy tay bà ta không chịu buông. Mọi người đều lấy làm lạ, mỗi người một câu ầm ĩ. Đúng lúc này Thừa tướng Tỷ Can cưỡi ngựa đi đến, sau khi hỏi rõ sự tình, liền lệnh cho Khương Tử Nha đưa Tỳ Bà tinh đến gặp Trụ Vương. Đát Kỷ thấy Khương Tử Nha bắt được đồng bọn, biết rằng không còn cách nào cứu được Ngọc Thạch Tỳ Bà tinh, chỉ biết nén lòng oán hận. Tỳ Bà tinh bị Khương Tử Nha dùng “Tam muội chân hỏa” thiêu đốt làm hiện nguyên hình. Trụ Vương nhìn thấy nguyên hình của yêu tinh, vô cùng kinh hãi, hết lời khen ngợi Khương Tử Nha. Do Khương Tử Nha có công trừ yêu, nên được phong làm Đại phu.

Do Trụ Vương xây dựng Lộc Đài to lớn, làm dân chúng khố cực, hao tốn của cải, khiến cho thần dân khắp nơi oán giận. Khương Tử Nha đã ra sức can ngăn Trụ Vương, mong Trụ Vương dừng việc xây dựng lại, đế cho dân chúng được tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Đát Kỷ nghe vậy, lại càng thêm tức giận. Trụ Vương thấy ái phi không vui, cũng không chịu nghe theo lời Khương Tử Nha. Khương Tử Nha thấy lời can gián của mình không có kết quả, lo lắng bị Trụ Vương bức hại, bèn trốn về Tống gia trang

Để kiếm kế sinh nhai, Khương Tử Nha chỉ còn cách đan đồ tre trúc đi bán, nhưng ông ngày ngày gánh hàng đi rồi lại gánh về, chẳng bán được gì. Thấy chòng buôn bán thất bại, Mã thị rất tức giận. Tống Dị Nhân thấy tình hình như vậy, bèn khuyên Khương Tử Nha đổi nghề khác. Thế nhưng Khương Tử Nha làm gì cũng không thành công, khiến Mã thị càng thêm thất vọng, vợ chồng bất hòa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd