Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

5 điều tối kỵ trong phòng ngủ vợ chồng

Không nên đặt đầu giường ngay bên cạnh cửa ra vào. Theo phong thuỷ, điều này ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ. Nếu giường kê không sát tường thì nguồn năng lượng âm càng gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Quan hệ giữa hai vợ chồng ngủ ở vị trí này s
5 điều tối kỵ trong phòng ngủ vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Không nên đặt đầu giường ngay bên cạnh cửa ra vào. Theo phong thuỷ, điều này ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ. Nếu giường kê không sát tường thì nguồn năng lượng âm càng gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Quan hệ giữa hai vợ chồng ngủ ở vị trí này sẽ không được bền vững.


2. Cửa ra vào không nên mở trực tiếp vào giường ngủ, và hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn nếu như cùng lúc có hai cửa ra vảo mở trực tiếp vào hai bên giường. Khắc phục tình trạng này bằng cách đặt một tấm ngăn hoặc bình phong giữa tường và cửa ra vào.


3. Không nên đặt giường thẳng hướng vào cửa ra vào (đầu giường hoặc chân giường hướng thẳng ra cửa). Điều này sẽ khiến cho vợ hoặc chồng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi luồng khí luân chuyển nhanh, mạnh. Vị trí nằm ngủ chỉ thẳng cửa ra vào là vị trí chết chóc.


4. Không nên đặt giường ngay bên dưới xà nhà bởi vì theo phong thuỷ, sát khí từ xà nhà sẽ phóng xuống người nằm bên dưới. Xà nhà ở trên đầu thường gây ra những mâu thuần trong cách mối quan hệ tình cảm. Giải pháp tốt nhất là lặp đặt trần nhà để che khuất xà nhà.

 

5 điều tối kỵ trong phòng ngủ vợ chồng theo phong thủy

5. Trong phòng ngủ không nên treo gương chiếu thẳng về phía gường ngủ, vợ chồng hay cãi vã bất đồng quan điểm. Không tốt

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điều tối kỵ trong phòng ngủ vợ chồng

Tuổi Tý nhóm máu B: Thẳng thắn chính trực nhưng đề cao bản thân

Nếu bạn là người tuổi Tý nhóm máu B thì chắc chắn bạn là người có suy nghĩ rất lạc quan, hiếm khi thấy bạn buồn bực. Tính cách, sự nghiệp tuổi Tý nhóm máu B
Tuổi Tý nhóm máu B: Thẳng thắn chính trực nhưng đề cao bản thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn là người tuổi Tý nhóm máu B thì chắc chắn bạn là người có suy nghĩ rất lạc quan, hiếm khi thấy bạn buồn bực hay phiền muộn. 


► Lichngaytot gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi và trắc nghiệm tính cách chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Tuoi Ty nhom mau B Thang than chinh truc nhung de cao ban than hinh anh goc
 

Ưu điểm nổi trội của những người tuổi Tý nhóm máu B

  Những người tuổi Tý nhóm máu B có tính cách hướng ngoại, hoạt bát, thẳng thắn, tự do phóng khoáng, tinh lực dồi dào.   Những người này sống rất thẳng tính, không có tâm địa thâm sâu, không gian giảo, họ cũng không thích giao tiếp với những người âm mưu quỷ kế. Họ lấy chính trực làm mục tiêu sống, không nói dối người khác. Bởi vậy, trong công việc, họ rất được lòng đồng nghiệp, cấp trên, lãnh đạo cũng như đối tác, khách hàng vô cùng tín nhiệm. Mối quan hệ bạn bè của những người tuổi Tý nhóm máu B vô cùng tốt, khi bạn bè gặp khó khăn họ sẵn sàng giúp đỡ hết khả năng của mình.   Nếu bạn là người tuổi Tý nhóm máu B thì chắc chắn bạn là người có suy nghĩ rất lạc quan, hiếm khi thấy bạn buồn bực hay phiền muộn, có chăng đi nữa thì chỉ cần bạn ngủ một giấc tới ngày hôm sau là lại thấy tinh thần thoải mái, mọi buồn phiền sẽ tan biến hết.    Trong công việc, người này luôn có cách làm việc riêng của mình, họ không quá câu nệ những chi tiết nhỏ, họ luôn nhìn vào thực tại, dựa vào tình hình thực tế để tìm ra hướng đi và cách giải quyết. Bên cạnh đó, tinh lực dồi dào, người tuổi Tý nhóm máu B có khả năng làm việc gấp hai, gấp ba lần bình thường. 
Tuoi Ty nhom mau B Thang than chinh truc nhung de cao ban than hinh anh goc
 
Trên phương diện tình cảm thì những người này thường hành động theo trái tim mách bảo. Khi gặp được người mình thích, họ không ngại lên kế hoạch theo đuổi một cách nhanh chóng, bất kể sự phản đối của những người xung quanh, họ vẫn cứ phải làm cho bằng được, “mình thích thì mình đuổi thôi”, vậy nên, họ luôn có những mối tình không thể nào quên. Những người này, dám yêu dám hận, chân thành thẳng thắn nên thường khiến đối phương cảm động, họ là những người ít gặp thất bại trong tình yêu.  

Khuyết điểm cần khắc phục của những người tuổi Tý nhóm máu B

  Trong công việc, mặc dù không câu nệ tiếu tiết nhưng họ lại hành động theo ý muốn chủ quan của mình nên đôi khi không được lòng người khác. Bên cạnh đó những người này thường đề cao bản thân, đề cao cái tôi, coi mình là trung tâm của vũ trụ, họ chẳng quan tâm tới việc người khác có đồng ý kiến với mình hay không, điều đó cũng có nghĩa là họ chẳng để ý tới người khác có ý kiến ra sao, khả năng bị cô lập là rất lớn, tùy ý hành động theo ý muốn nên thường để lại cho người khác ấn tượng xấu. 

Với các mối quan hệ, họ xử lý khá cảm tính, lúc tinh thần tốt thì đối đãi tốt với người khác, tinh thần không tốt thì tỏ ra thờ ơ, lạnh nhạt.

Tuoi Ty nhom mau B Thang than chinh truc nhung de cao ban than hinh anh goc
 
 

Lời khuyên hữu ích dành cho những người tuổi Tý nhóm máu B

  Những người tuổi Tý nhóm máu B cần linh hoạt hơn trong cách biểu đạt quan điểm, suy nghĩ của mình, không nên quá bảo thủ, chú ý nhiều hơn và chịu khó lắng nghe ý kiến của người khác. Dù sao những đóng góp không bao giờ là thừa, bạn nên tiếp thu để có những quyết định chính xác nhất.   Về vấn đề tình cảm, những người tuổi Tý nhóm máu B cần có ý thức trách nhiệm với gia đình của mình hơn, không nên tùy tiện có những hành động bồng bột theo ý muốn bản thân. Đặc biệt, với những người đã kết hôn, nếu còn hành động tùy hứng, tự cao tự đại thì sẽ khiến nửa kia mệt mỏi, vừa phải nuôi con nhỏ, vừa phải chăm một người lớn rồi mà vẫn như con nít.   Lichngaytot.com   Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Tý
Theo tử vi 12 tháng năm 2017 của tuổi Tý, vận trình tháng 9 âm lịch của người tuổi Tý ảm đạm, hàng loạt sự việc không may mắn sẽ xảy ra, bản mệnh đối diện khá
Bói nghề nghiệp năm 2017 cho người tuổi Tý
Trong năm Đinh Dậu, người tuổi Sửu được Tài Tinh nâng đỡ, tinh thần làm việc hăng say, giàu nhiệt huyết, được cấp trên trọng dụng, cấp dưới ủng hộ hết lòng,
Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Tý
Tình duyên năm 2017 của người tuổi Tý tương đối khả quan, không bị phá Thái Tuế ảnh hưởng. Nguyên nhân là do trong mệnh cách có cát tinh Thái Âm bảo vệ, che

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý nhóm máu B: Thẳng thắn chính trực nhưng đề cao bản thân

4 con giáp nữ sẽ kiếm được rất nhiều tiền sau khi kết hôn

Sau kết hôn, những con giáp nữ này bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm và sẵn sàng lao vào sự nghiệp để làm giàu cho bản thân, gia đình của họ.
4 con giáp nữ sẽ kiếm được rất nhiều tiền sau khi kết hôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ tuổi Hợi

Những cô nàng tuổi Hợi cả đời sẽ hưởng thụ vô số ánh hào quang. Ấn tượng về người tuổi Hợi trong mắt mọi người vốn là chỉ biết ăn và ngủ, không phải nghĩ ngợi gì. Thực tế họ cũng rất mạnh mẽ, đặt biệt là sau khi kết hôn sẽ có những bước tiến dài trong sự nghiệp, thậm chí hơn cả ông xã của họ.

Nữ tuổi Tuất

Cô nàng tuổi Tuất sinh ra đã sở hữu bộ óc thông minh hơn người. Họ rất giỏi, dám nghĩ dám làm. Khi độc thân, họ mạnh mẽ. Sau khi kết hôn, đối diện với những áp lực cuộc sống, tiền bạc, họ dần hình thành suy nghĩ kiếm tiền. Đầu óc thông minh sẽ giúp họ có hướng đi sáng suốt, cả đời giàu có.

4-con-giap-nu-se-kiem-duoc-rat-nhieu-tien-sau-khi-ket-hon

Nữ tuổi Sửu

Những cô nàng tuổi Sử yêu độc lập, mạnh mẽ, trước giờ không thích dựa dẫm vào người khác để thành công. Với bản tính của họ, họ có thể ăn khổ ở khổ, mỗi ngày đều nỗ lực làm việc chăm chỉ. Trước kết hôn, họ nỗ lực kiếm tiền để thay đổi cuộc sống, đương nhiên sau kết hôn cũng vậy - kiếm tiền chắc chắn sẽ nhiều hơn hẳn so với ông xã của họ.

Nữ tuổi Thìn

Những cô nàng tuổi Thìn có máu làm ăn từ trong xương tủy. Họ quyết đoán, liều lĩnh. Cộng với bộ óc thông minh, trong sự nghiệp sẽ phát triển nhanh, mạnh. Thậm chí, họ kiếm tiền rất đơn giản, lại hiệu quả, mục tiêu làm giàu của họ cứ thế lớn dần lên. Nhìn chung, chỉ cần bản thân dám nghĩ dám làm, họ chắc chắn sẽ thành công, không có thất bại.

Maruko (theo Sina)

Xem thêm: Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp nữ sẽ kiếm được rất nhiều tiền sau khi kết hôn

Đặt tên bé gái hay nhất –

Dưới đây là những tên gọi hay nhất mà bạn nên đặt cho bé gái:
Đặt tên bé gái hay nhất –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên bé gái hay nhất –

Top 3 những con giáp dễ bị lừa gạt chuyện tiền bạc

Dẫn đầu danh sách này là tuổi Sửu, kế tiếp là tuổi Tý và tuổi Ngọ.
Top 3 những con giáp dễ bị lừa gạt chuyện tiền bạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Sửu

Tuổi này rất dễ bị lừa gạt về phương diện tiền bạc bởi họ sở hữu quan điểm quản lý tiền bạc vô cùng lỏng lẻo và có nhiều sơ hở. Con giáp này đã không ít lần khổ sở về chuyện tiền bạc vì thói quen tiêu tiền không có sự tính toán, bạ đâu tiêu đó, hôm nay ăn sung mặc sướng bất kể ngày mai bụng đói cồn cào.

suu-3656-1399336399.jpg

Nhìn chung, cuộc sống của người tuổi này không được ổn định về mặt tài chính cho lắm vì không có khiếu quản lý tài sản của mình nên bỏ lỡ quá nhiều cơ hội làm giàu. Đặc biệt trong trường hợp uống rượu bia say bí tỉ, chỉ số bị “mắc lưới” lừa gạt của tuổi Sửu là rất cao.

No2: Tuổi Tý

Người tuổi Tý rất coi trọng chuyện tiền bạc trong cuộc sống. Đối với họ mà nói, tiền bạc cũng như “chĩnh gạo” của loài chuột, không có nó cuộc sống sẽ vô cùng gian nan, khổ cực. Vậy nên, đa phần mục tiêu mà người tuổi này đặt ra đều có mối liên quan nhất định đến chuyện tiền bạc. Tiếp đó là nỗ lực không ngừng, thậm chí nhịn ăn nhịn mặc để đạt được mục tiêu.

ty-3550-1399336399.jpg

Vì khá chăm chỉ kiếm tiền, người tuổi Tý rất ít khi gặp phải khó khăn về vấn đề tiền bạc. Tuy nhiên, vì hay giúp đỡ người khác lại vốn tính thật thà nên tuổi này cũng rất dễ bị kẻ xấu lừa gạt.

No3: Tuổi Ngọ

Người tuổi này có khá nhiều thăng trầm trong cuộc sống, thành công cũng nhiều mà thất bại thì cũng không ít. Họ có thể kiếm được khoản tiền khổng lồ nhanh chóng nhưng cũng có thể rơi vào tình trạng phá sản bất cứ lúc nào bởi tính cách hay thay đổi của chính mình.

ngo-5601-1399336399.jpg

Tuổi Ngọ cần hết sức lưu ý đến vấn đề ổn định cuộc sống nhé, tránh tình trạng không một xu dính túi những lúc cần thiết vì bị người khác lừa gạt.

Mr.Bull

top-4-cung-hoang-dao-thong-min-3508-9204

Top 4 cung hoàng đạo thông minh nhất

Thiên Bình đứng đầu luôn đó, tuy bị coi là "kẻ ba phải" nhưng thực chất họ biết chính xác điều mình cần phải làm nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 những con giáp dễ bị lừa gạt chuyện tiền bạc

Cách sắm lễ và văn khấn rằm trung thu

Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Trung Thu ngoài những món truyền thống thì bao giờ cũng phải có: bánh nướng, bánh dẻo, cốm, chuối, na, hồng, bưởi,…
Cách sắm lễ và văn khấn rằm trung thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu là tết được cử hành vào đêm Rằm tháng 8, tết này còn gọi là ”Tết Trông Trăng’. Theo phong tục dân gian ngày Tết Trung Thu nhà nhà đều treo đèn kết loa rước đèn, ngắm trăng và làm “Bánh Trăng” – ngày nay là bánh nướng, bánh dẻo để cúng tổ tiên.

Văn khấn và sắm lễ cúng rằm trung thu

Sắm lễ:

Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Trung Thu ngoài những món truyền thống thì bao giờ cũng phải có: bánh nướng, bánh dẻo, cốm, chuối, na, hồng, bưởi,… và tất nhiên phảị có hương, hoa, đèn, nến. Nhân dịp Tết Trung Thu mọi người đều gửi biếu ông, bà, cha, mẹ, người thân, người mà mình mang ơn bánh Trung Thu, cốm, chuối, hồng… để tỏ lòng biết ơn quí trọng.

Văn cúng Tổ tiên ngày Rằm tháng 8 (Ngày Tết Trung Thu)

– Con kính lạy Hoàng thiên hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính tay Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại
Tín chủ (chúng) con là:………………………………….Tuổi:………………
Ngụ tại:………………………………………………………………………………….

Hôm nay là ngày Rằm tháng Tám gặp tiết Trung Thu tín chủ chúng con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ………………, cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về, chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng. Xin các ngài độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sắm lễ và văn khấn rằm trung thu

Đừng nên để dành những thứ quý giá

Đừng nên để dành những thứ quý giá. Thực ra mỗi buổi sáng, khi thức giấc, chúng ta nên tự nhủ với bản thân, hôm nay là một ngày đặc biệt. Mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống đều rất đáng quý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thực ra mỗi buổi sáng, khi thức giấc, chúng ta nên tự nhủ với bản thân, hôm nay là một ngày đặc biệt. Mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống đều rất đáng quý.

Nhiều năm trước, có một lần tôi nói chuyện với một người bạn ở Sydney. Lúc đó, vợ anh ấy mới qua đời. Anh ấy kể cho tôi nghe, khi thu dọn đồ đạc của vợ, anh tìm thấy một chiếc khăn bằng lụa tơ tằm.

Trong chuyến đi du lịch NewYork, họ đã mua chiếc khăn này ở một cửa hàng nổi tiếng. Đó là một chiếc khăn hàng hiệu rất đẹp và sang trọng, chiếc tem ghi giá vẫn còn chưa được bóc. Vợ anh cứ để dành, cô ấy muốn chờ đợi một dịp đặc biệt nào đó mới sử dụng. Kể đến đây anh dừng lại. Tôi im lặng chờ đợi.

Một lúc sau anh nói tiếp: Đừng nên để dành những đồ dùng quý giá đến một ngày đặc biệt nào đó mới sử dụng, mỗi ngày bạn đang sống đều là ngày đặc biệt.

Sau này, mỗi khi nhớ đến câu nói của anh, tôi lại gác những công việc vặt sang một bên, tìm một cuốn tiểu thuyết, nằm trên ghế sofa đọc, tranh thủ tận hưởng thời gian của mình. Tôi đứng cạnh cửa sổ ngắm nhìn cảnh sắc thành phố, mặc kệ bụi bẩn bám trên khung kính. Tôi đưa vợ ra ngoài ăn cơm mỗi khi hứng chí cho dù vợ đã nấu xong cơm canh.

Tôi chia sẻ câu chuyện này với một đồng nghiệp nữ. Sau này, khi gặp mặt, cô ấy nói với tôi, bây giờ cô ấy không giống như trước nữa, cất những chiếc bát sứ đẹp vào trong tủ kính. Trước đây, cô ấy cũng để dành đến một ngày đặc biệt nào đó mới lấy ra sử dụng, nhưng bây giờ cô ấy nhận thấy cái ngày đặc biệt ấy chưa từng một lần xuất hiện.

Những từ chẳng hạn như "sẽ có một ngày", " trong tương lai" không còn tồn tại trong cuốn từ điển của cô nữa. Nếu có điều gì đáng vui mừng, thì ngay bây giờ cô muốn nghe thấy nó, muốn nhìn thấy nó, muốn tận hưởng nó.

Chúng ta rất muốn gặp lại bạn bè cũ, nhưng luôn nói:"để đến dịp nào đó".

Chúng ta thường muốn ôm hôn đứa con khôn lớn đã trưởng thành, nhưng luôn chờ đợi tới dịp thích hợp.

Chúng ta thường muốn viết thư cho một nửa còn lại của mình để thổ lộ tình cảm chân thành được giấu kín trong lòng hoặc muốn cho anh ấy biết rằng bạn rất ngưỡng mộ và khâm phục anh ấy, nhưng bạn luôn tự nhủ đi đâu mà vội.

Thực ra mỗi buổi sáng, khi thức giấc, chúng ta nên tự nhủ với bản thân, hôm nay là một ngày đặc biệt. Mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống đều rất đáng quý.

Một nhà tâm lý học đã đưa lời khuyên:

Bạn hãy nhảy hết mình, giống như không có người xem vậy.

Bạn hãy yêu hết hình giống như trước đây bạn chưa từng bị tổn thương vậy.

Tôi cũng cần phải nhảy, phải yêu hết mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đừng nên để dành những thứ quý giá

Danh nhân tuổi Nhâm Dần - Tokugawa Ieyasu

Tướng Tokugawa Ieyasu (Nhâm Dần, 1542 - 1616). Ông sinh năm 1542, tại miền Tây Mikilu (nay là tỉnh Aichi, Nhật).
Danh nhân tuổi Nhâm Dần - Tokugawa Ieyasu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia đình Ieyasu khá phức tạp, một bên theo gia tộc Imagawa, một bên theo gia tộc Oda. Thời thơ ấu của Ieyasu phải sống trong nguy hiểm bởi cuộc chiến giữa hai dòng tộc này.

Danh nhan tuoi Nham Dan - Tokugawa Ieyasu hinh anh
Tokugawa Ieyasu chính là vị tướng đầu tiên của Mạc phủ Edo

Khi trưởng thành, Ieyasu tham gia vào những cuộc chiến của các dòng tộc. Ông thông minh, khôn khéo và có tài lãnh đạo nên đã vươn đến những quyền lực được người Nhật trọng vọng. Tokugawa Ieyasu là vị tướng đầu tiên của Mạc phủ Edo. Ông là người khai sáng thành phố Tokyo ngày nay. Hơn nữa, Ieyasu còn là người khởi lập chính quyền Tokugawa (một tập đoàn phong kiến cát cứ Nhật Bản) kéo dài gần 300 năm. Chính quyền này tạo tiền đề thuận lợi cho cuộc Duy Tân nước Nhật của Minh Trị Thiên Hoàng năm 1868.

Nhắc đến Ieyasu, người Nhật khẳng định rằng: "Ông luôn luôn chịu đựng, nhẫn nại và cần kiệm. Tokygawa Ieyasu quả là tấm gương để người đời kính phục".

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Danh nhân tuổi Nhâm Dần - Tokugawa Ieyasu

Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Chùa Dư Hàng (tên chữ là Phúc Lâm tự), So với nhiều ngôi chùa thờ phật ở Hải Phòng, chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh
Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

. Cho đến nay ngôi chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng phật cổ có giá trị, tạo hình chuẩn xác. Chùa Dư Hàng nay  thuộc địa bàn phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Chùa Dư Hàng có nguồn gốc từ thời Tiền Lê (980-1009). Cuối thời vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp, khai sáng giáo lý nhà Phật. Đến thời Trần (1225-1400), các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông sáng lập ở Yên Tử Sơn, đã có mối quan hệ với bản chùa Dư Hàng.

Từ xưa đến nay, chùa Dư Hàng vẫn truyền lệ kỷ niệm sinh nhật vị sư tổ đệ nhất “Đền ngự giác hoàng tinh tuệ thiền sư” tức vua Trần Nhân Tông vào ngày 02/11 âm lịch. Vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái vào ngày 3/11 Âm lịch. Đến đời vua Lê Gia Tông (1672), sư cụ Nguyễn Đình Sách (tự là Chân Huyền) đã xuất hiện tiền để tậu ruộng đất, làm chùa to rộng, có đủ gác chuông, nhà thờ tổ, nhà tăng… Từ đó trở đi, dù phải trải qua bao thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã được thế hệ hoà thượng, tăng ni, tín đồ phật tử sở tại chung sức, chung lòng sửa sang chùa ngày thêm khang trang, đẹp đẽ.

Chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh, gồm toà phật điện 7 gian, gác chuông cao 3 tầng, mái công vút, quả chuông đồng cỡ lớn, chữ đề: “ Phúc Lâm tự chung”, nghĩa là chuông chùa Phúc Lâm.

Tại toà Phật điện, hiện còn lưu giữ nhiều pho tượng phật cổ có giá trị, tạo hình chuẩn xác như bộ Tam thế, toà Cửu long – Thích ca sơ sinh, hộ thiện, trừ ác, bộ tượng “ Phật điện minh vương”… Gian tiền đường của toà phật điện được trang trí bằng nhiều mảng chạm khắc nổi trên cửa võng, nhiều mảng đề tài quen thuộc: mai điểu, ngũ phúc, rồng mây… thể hiện ước muốn của muôn dân cho “mưa thuận, gió hoà, cỏ cây tươi tốt”, hộp hình khắc gỗ mô tả cảnh thầy trò Đường tăng trên đường sang Tây Trúc thỉnh kinh.

Hiện nay, chùa Hàng còn bảo lưu nhiều di vật qúy giá như chuông, khánh, đỉnh đồng, đồ trang trí mỹ thuật bằng gốm sứ, đá xanh, bộ kinh sách “A hàm” cổ được lưu truyền từ nhiều đời sư trụ trì. Tại khu vườn tháp tĩnh mịch, rợp mát bóng cây cổ thụ xanh tươi, ngoài nhóm mộ tháp các vị sư tổ đã viên tịch tại bản chùa còn có mộ tháp chứa xá lỵ các vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tháp sư cụ Chân Huyền và nhiều vị hoà thượng đã từng trụ trì tại ngôi chùa Dư Hàng.

Gác chuông - Chùa Dư Hàng - Hải Phòng
Gác chuông – Chùa Dư Hàng – Hải Phòng

Trong suốt những năm kháng chiến, chùa Dư Hàng đã mở rộng cửa thiền, nuôi quân. Có nhiều vị tu hành ở chù đã hăng hái tòng quân cứu nước, tiêu biểu có cố hoà thượng Đinh Quang Lạc đã được Chính phủ trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Chùa Dư Hàng được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 1986.

Hoà cùng với công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân, chùa Dư Hàng luôn là địa chỉ du lịch tham quan của nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế. Bản chùa thường xuyên toả hương sắc trong công việc từ thiện xã hội, giúp đỡ cộng đồng vượt qua khó khăn bão lụt, thiên tai, góp phần xoá đói giảm nghèo…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Trẻ sinh phạm giờ “Quan Sát” sẽ khó nuôi –

Tháng sinh Giờ phạm Tháng sinh Giờ phạm Giêng Giờ Tị (9-10-11) Bảy Giờ Hợi (21-22-23) Hai Giờ Ngọ (11-11-13) Tám Giờ Tý (23-0-1) Ba Giờ Mùi (13-14-15) Chín Giờ Sửu (1-2-3) Tư Giờ Thân (15-16-17) Mười Giờ Dần (3-4-5) Năm Giờ Dậu (17-18-19) Mười một G

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

4

Tháng sinh

Giờ phạm

Tháng sinh

Giờ phạm

Giêng

Giờ Tị (9-10-11)

Bảy

Giờ Hợi (21-22-23)

Hai

Giờ Ngọ (11-11-13)

Tám

Giờ Tý (23-0-1)

Ba

Giờ Mùi (13-14-15)

Chín

Giờ Sửu (1-2-3)

Giờ Thân (15-16-17)

Mười

Giờ Dần (3-4-5)

Năm

Giờ Dậu (17-18-19)

Mười một

Giờ Mão (5-6-7)

Sáu

Giờ Tuất (19-20-21)

Chạp

Giờ Thìn (7-8-9)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trẻ sinh phạm giờ “Quan Sát” sẽ khó nuôi –

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1994 Giáp Tuất –

Hướng kê giường Tuổi Giáp Tuất: - Năm sinh dương lịch: 1994 - Năm sinh âm lịch: Giáp Tuất - Quẻ mệnh: Càn Kim - Ngũ hành: Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch( Xem giải thích chi tiết quẻ mệnh, hướng tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường Tuổi Giáp Tuất:

– Năm sinh dương lịch: 1994

– Năm sinh âm lịch: Giáp Tuất

– Quẻ mệnh: Càn Kim

– Ngũ hành: Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch( Xem giải thích chi tiết quẻ mệnh, hướng tốt xấu)

– Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Thiên Y); Tây Nam (Diên Niên); Tây (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh);

file.363014

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1994 Giáp Tuất –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

4 con giáp nhiều tiền lì xì nhất các dịp năm mới

4 con giáp nhiều tiền lì xì nhất năm Bính Thân là ai, cùng xem nhé.
4 con giáp nhiều tiền lì xì nhất các dịp năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Dẫn đầu “danh sách vàng” này không ai khác chính là những chú Mèo xinh xắn, tinh ranh...


Tết đến xuân sang, nhà nhà tưng bừng, người người hạnh phúc. Vui mừng ra mặt có lẽ là những con giáp có tên dưới đây, bởi nhiều khả năng họ sẽ “bội thu” về khoản tiền mừng tuổi đầu năm mới.

Quán quân: Người tuổi Mão

Bước sang năm Bính Thân, thứ tài của người tuổi Mão phất như diều gặp gió. Được nhận tiền mừng tuổi “đậm tay” chính là bằng chứng đầu tiên cho điều đó.

con giap nhieu tien li xi nhat, tien li xi hinh anh
 
Đi tới đâu, sức hút của những chú Mèo xinh xắn và tinh ranh cũng lan tỏa tới đó. Dường như họ luôn mang niềm vui, tiếng cười đến khắp mọi nơi nên luôn được chào đón nồng nhiệt. Tất nhiên, đầu năm mới không thể “chào đón suông” đâu nhé, bạn sẽ được mọi người dành sự quan tâm đặc biệt và không tiếc việc rút phong bao lì xì “dày cộm” mừng cho bạn.

Hơn thế, sau Tết Nguyên Đán, thứ tài của con giáp này ngày một vượng hơn. Chỉ cần bạn biết nắm bắt cơ hội, kiên định mục tiêu tới cùng, ắt sự nghiệp “thông tiền thoáng hậu”, thuận lợi vô cùng, thăng tiến không ngừng.

Á quân: Người tuổi Tý


Tương tự người tuổi Mão, những chú chuột có đường thứ tài ví như “thuận nước đẩy thuyền”, ngày càng khởi sắc mạnh mẽ. Đây cũng là một trong những con giáp nhiều tiền lì xì nhất năm Bính Thân.

Không chỉ “bội thu” với tiền mừng tuổi đầu năm, con giáp này còn có vận đỏ như son, tham gia trò chơi du xuân nào đó đều dễ dàng giành thắng lợi, thậm chí ra ngoài đường còn nhặt được tiền.

Nhìn chung, người tuổi Tý có thể “ăn ngon ngủ kĩ”, vô lo vô nghĩ về mọi phương diện cuộc sống trong năm con Khỉ. Bởi vận trình đang lên như thế chẻ tre, công việc thuận lợi, thăng quan tiến chức, gia đình yên ấm, tình duyên nở rộ.

con giap nhieu tien li xi nhat, tien li xi hinh anh 2
 
No3. Người tuổi Thìn


Sang năm 2016, không chỉ tài vận tốt mà vận quý nhân của những chú Rồng oai phong, quý phái cũng rất mạnh.

Nhờ những mối quan hệ hữu hảo, bạn không chỉ nhận được tiền lì xì kha khá. Hơn thế, công việc, sự nghiệp cả năm Bính Thân cũng thuận buồm xuôi gió, hễ gặp khó khăn sẽ có người đưa tay cứu giúp, hoạn nạn ắt tan biến. Thậm chí trở lực biến thành động lực giúp người tuổi Thìn vững tâm chinh phục những mục tiêu lớn lao trong đời.

Top 5 con giáp tốt toàn diện năm 2016
Được nhiều cát tinh và quý nhân phù trợ, những con giáp này không những gặt hái thành công trong công việc, sự nghiệp mà cả đường tình duyên cũng mĩ mãn.
No4. Người tuổi Dần


Trong dịp Tết Bính Thân, đường thứ tài của người tuổi Dần bỗng rực sáng, mang lại nhiều may mắn về tiền bạc. Không chỉ rủng rỉnh tiền tiêu vì được lì xì đầu năm nặng túi, chuyến du xuân của bạn cũng vô cùng thuận lợi và “cá kiếm” được kha khá.

Điều quan trọng hơn, Thần May mắn sẽ luôn đồng hành cùng những chú Hổ dũng mãnh, phóng khoáng trong suốt năm 2016. Chỉ cần bạn nỗ lực phấn đấu, kiên trì theo đuổi mục tiêu ắt sẽ được đền đáp xứng đáng.

► Xem lịch âm chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Ngọc Diệp
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp nhiều tiền lì xì nhất các dịp năm mới

Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Những gợi ý về màu hợp, màu kỵ của 12 con giáp sau đây có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho màu sắc trang phục của mình trong năm Quý Tỵ.
Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những gợi ý về màu hợp, màu kỵ của 12 con giáp sau đây có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho màu sắc trang phục của mình trong năm Quý Tỵ.

 

Tuổi Tý

Hợp: Màu xanh da trời

Kỵ: Màu vàng

Về cơ bản, vận thế của người tuổi Tý trong năm Quý Tỵ là khá tốt; tuy nhiên Tý là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa; Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, tựu chung là bất lợi; bạn không nên mặc quần áo quá sẫm màu.

Riêng màu xanh da trời có thể tạo thế bình hòa, tăng vận may, giảm xui xẻo. Tuy nhiên, màu vàng lại có những ảnh hưởng rất xấu đến vận thế của bạn trong năm nay.

Tuổi Sửu

Hợp: Màu vàng nhạt

Kỵ: Màu xanh lục

Sửu là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ; xét theo ngũ hành, Thổ màu vàng nhưng lại là Dương Thổ, vì vậy, người tuổi Sửu dùng màu vàng nhạt là tốt nhất.
Mộc khắc Thổ, Mộc màu xanh, vì vậy, những người tuổi này kỵ dùng màu xanh. Vận thể người tuổi Sửu trong năm Tỵ đạt mức trung bình, không quá vượng, do đó, màu sắc bạn dùng nên nhạt một chút.

Tuổi Dần

Hợp: Màu xám

Kỵ: Màu trắng

Dần là Dương Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Tuy Dương Mộc có khả năng sinh Âm Hỏa nhưng lại không tăng vượng cho tự thân người tuổi Dần, do vậy phải dụng Thủy để sinh Mộc. Màu đen là Thủy trong ngũ hành, tuy nhiên vì Âm Dương tương khắc nên bạn có thể dùng màu xám. Màu trắng là Kim, Kim khắc Mộc, do vậy, nên tránh màu này để không ảnh hưởng đến vận thế trong năm Quý Tỵ.

Tuổi Mão

Hợp: Màu đen

Kỵ: Màu trắng

Mão là Âm Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Cũng như tuổi Dần, Âm Mộc có thể sinh Âm Hỏa. Bạn nên chọn màu đen vì xét theo ngũ hành, cả hai đều là Âm, đẹp nhất với tuổi Mão là sắc đen tuyền. Tương tự, màu tối kỵ của tuổi Mão trong năm nay là màu trắng.

Tuổi Thìn

Hợp: Màu đỏ cam

Kỵ: Màu xám

Thìn là Dương Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Dương Thổ; Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Trong năm 2012, vận thế của người tuổi Thìn rất xấu, năm nay cũng không quá vượng. Bạn nên dùng màu đỏ cam cho hợp vận. Vốn dĩ Thổ khắc Thủy, nếu dùng màu xám, tuổi Thìn dễ gặp xui xẻo.

 
Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Tỵ

Hợp: Màu xanh lục

Kỵ: Màu đen

Tỵ đối Tỵ, đây chính là năm bản mệnh của người tuổi Tỵ, do vậy, xét tổng thể là xấu. Bạn có thể dùng màu xanh của Mộc trong ngũ hành để vận thể thêm vượng, nhưng tuyệt đối không dùng màu đen. Màu đen là Thủy, Thủy khắc Hỏa, nếu ưa chuộng màu này, vận thế của bạn sẽ sa sút nhiều phần.

Tuổi Ngọ

Hợp: Màu xanh

Kỵ: Màu xám

Ngọ là Dương Hỏa, Tỵ là Âm Hỏa, cùng là hành Hỏa nên hợp nhất với bạn là Mộc; màu xanh là Mộc; do vậy bạn có thể dùng màu này cho thêm phần may mắn. Nhưng vì Thủy, Hỏa tương khắc nên màu xanh lá cây sẽ tốt hơn. Màu xám không hợp với mệnh của tuổi Ngọ trong năm nay.

Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Mùi

Hợp: Màu đỏ

Kỵ: Màu xanh lục

Mùi là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ, do đó, vận mệnh của bạn năm nay khá tốt nhưng chưa phải là hoàn hảo. Để tăng cường vận thế, bạn nên sử dụng màu đỏ. Sắc màu rực rỡ này sẽ đem lại may mắn cho bạn, tăng phần vượng, giảm phần hung. Lại nói, Mộc khắc Thổ, Mộc là xanh lục, vì vậy, bạn nên tránh xa màu này.

Tuổi Thân

Hợp: Màu vàng cam

Kỵ: Màu đỏ

Thân là Dương Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Dương Kim, do vậy, vận thế của tuổi Thân năm nay khá bất lợi. Nếu “làm bạn” với màu vàng cam, thần may mắn sẽ luôn ở bên bạn. Màu đỏ là Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bạn cần tránh màu này, chẳng hạn không nên trang điểm bằng sắc son đỏ đậm.

Tuổi Dậu

Hợp: Màu vàng

Kỵ: Màu đỏ

Dậu là Âm Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Âm Kim, cùng là Âm nên khi lựa chọn màu sắc, bạn nên ưu tiên màu đậm. Đẹp nhất là màu vàng thuần túy, nhưng lại cực kỵ màu đỏ.

Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Tuất

Hợp: Màu đỏ cam

Kỵ: Màu đen

Tuất là Dương Thổ, tuy Âm Hỏa có thể sinh Dương Thổ nhưng vì Âm Dương tương khắc, bạn nên chọn màu đỏ cam để vận thế thêm vượng. Mặt khác, Thổ khắc Thủy, nên màu đen là màu đại kỵ của bạn trong năm Quý Tỵ.

Tuổi Hợi

Hợp: Màu trắng

Kỵ: Màu vàng

Hợi là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, vì vậy, người tuổi Hợi có thể dùng Kim (sinh Thổ) để hóa giải. Màu trắng là Kim, do đó bạn dùng màu này là hợp nhất.

Thổ màu vàng, Thổ khắc Thủy, để tránh xui xẻo, bạn tuyệt đối không nên vận trang phục hoặc sử dụng những vật có màu sắc tươi sáng này.

 

(Theo Kienthuc.net.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Hướng bếp hợp người sinh năm 1950 Canh Dần –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1950: - Năm sinh dương lịch: 1950 - Năm sinh âm lịch: Canh Dần - Quẻ mệnh: Khôn Thổ - Ngũ hành: Tùng Bách Mộc (Gỗ tùng bách) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông B

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1950:

005

– Năm sinh dương lịch: 1950

– Năm sinh âm lịch: Canh Dần

– Quẻ mệnh: Khôn Thổ

– Ngũ hành: Tùng Bách Mộc (Gỗ tùng bách)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);

– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1950 Canh Dần –

Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Người xưa cho rằng, nếu một người có đủ cả 5 yếu tố của ngũ hành (về mặt tính cách) đồng thời phát triển đồng đều thì người đó sẽ rất hoàn thiện. Trên thực tế
Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

thì điều này là không thể có.

Tuy nhiên bạn vẫn có thể cải thiện, bù đắp cho bát tự của mình theo các bước sau:

Bước 1: Đầu tiên tra thiên can và địa chi của tuổi mình trong cuốn lịch vạn niên. Ví dụ bạn sinh năm 1987 thì tuổi của bạn là Đinh Mão (can Đinh và chi Mão). Chú ý là phải căn cứ theo lịch âm.

Bước 2: Theo quy luật âm dương ngũ hành của can chi để tìm ra thuộc tính âm hay dương của thiên can và địa chi.

Can Giáp và Ất theo ngũ hành thuộc hành Mộc nhưng phân chia tiếp theo âm dương thì Giáp là dương Mộc còn Ất là âm Mộc; Bính thuộc âm Hỏa, Đinh thuộc dương Hỏa; Mậu thuộc dương Thổ, Kỷ thuộc âm Thổ; Canh thuộc dương Kim, Tân thuộc âm Kim; Nhâm thuộc dương Thủy, Quý thuộc âm Thủy.

Bước 3: Nắm vững quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Trước tiên, cần nắm vững các quy luật sinh, khắc, chế, hóa của các hành với nhau xem sự thúc đẩy phát triển và kìm hãm lẫn nhau như thế nào để phán đoán và bổ khuyết cho mình.

Bước 4: Tìm hành có quan hệ tương sinh, tương khắc với mình. Nếu thiên can của bạn thuộc Mộc, theo ngũ hành thì Thủy sinh Mộc và Kim khắc Mộc. Bạn nên học tập những ưu thế của người thuộc hành Thủy đó là những đức tính linh hoạt, khiêm tốn; nên học hỏi người hành Kim phẩm chất quả cảm, quyết đoán và kiên định. Bởi vì những đức tính đó là chỗ mạnh của người khác, nhưng là cái mà bạn thiếu.

(Theo Tử Bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Phong thủy giải tỏa áp lực: Chỉ cần vận dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, niềm vui sẽ quay trở lại.
Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Áp lực công việc, gánh nặng cơm áo gạo tiền, chuyện tình cảm... khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và bế tắc. Nhưng chỉ cần vận dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, niềm vui sẽ quay trở lại.


Theo quan điểm phong thủy, bản thân mỗi người có thể tự điều chỉnh không gian xung quanh để tạo ra sự cân bằng âm dương, đón rước điềm lành và xua đi những điều xui xẻo. Người ta chia ngôi nhà thành những khu vực mang các nguồn năng lượng khác nhau để chúng có thể dễ lưu chuyển và giữ được trạng thái cân bằng.

1. Đặt đồ vật lớn ở vị trí trung tâm các phòng trong nhà

Trong ngôi nhà, tất cả các phòng (trừ phòng tắm) nên đặt các đồ vật kích thước lớn ở vị trí trung tâm. Đồng thời, các vật nặng nên đặt trực tiếp trên sàn nhà chứ không được vứt vào góc phòng hay kê sát vào tường. Trong trường hợp phải kê những đồ vật đó, nên kê cao một chút giúp không khí lưu thông dễ dàng hơn.

Giai toa ap luc nho ap dung yeu to phong thuy cuc don gian hinh anh 2
 
2. “Tổng vệ sinh” ngôi nhà


Lộn xộn, bừa bãi là một trong những yếu tố kị phong thủy, phá vỡ cục diện tốt và mang tới điều xui xẻo. Do đó, để giải tỏa áp lực, trước hết bạn nên sắp xếp đồ đạc các phòng khách, bếp, ngủ, tắm gọn gàng. Đồng thời, bỏ đi những đồ dùng không cần thiết, kẻo chúng sẽ cản trở sự lưu thông của các dòng năng lượng.

3. Chiếu sáng căn phòng

Gia chủ có thể dùng các thiết bị chiếu sáng bổ sung cho những nơi không nhận đủ ánh sáng tự nhiên. Việc làm này có tác dụng kích thích thị giác và hệ thần kinh, giúp tinh thần bạn phấn chấn, thoát khỏi cảm giác uể oải, nhàm chán.

Ngoài đèn chiếu sáng, gương hoặc phụ kiện bằng pha lê cũng là giải pháp tốt giúp chiếu sáng mọi ngóc ngách trong nhà bạn.

Giai toa ap luc nho ap dung yeu to phong thuy cuc don gian hinh anh 2
 
4. Loại bỏ các góc cạnh sắc nhọn


Thay vì sử dụng những vật hình vuông, chữ nhật hoặc tam giác có nhiều góc cạnh sắc nhọn trong không gian sống của mình, bạn nên chọn đồ đạc có hình tròn hay ô van. Như vậy vừa tạo cảm giác an toàn lại kích thích các dòng năng lượng lưu chuyển tốt, mang tới những điều tốt lành.

5. Cân bằng âm dương ngũ hành ở mọi không gian

Việc sử dụng và kết hợp các yếu tố ngũ hành như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong phong thủy để tạo ra sự cân bằng là điều thường thấy. Nếu không gian sống quá cứng nhắc, bạn có thể điểm thêm chút nữ tính, mềm mại bằng việc sử dụng đồ nội thất hoặc trang trí màu sắc.

Ngược lại, nếu không gian sống của bạn quá nữ tính, có thể điểm xuyết một vài nét cứng cỏi thì đồ vật làm từ kim loại sẽ phát huy tác dụng tối ưu.

► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Nhận biết tướng thọ yểu –

Theo Ma-y thần tướng Quách Lâm Tông có đưa ra 8 hình tướng nói đến thọ yểu. Ông cho rằng Nhân trung là cung thọ yểu, song chưa đủ xác đáng mà còn phải xem thần khí là chủ nên phải xem xét kỹ thần sắc một người mới có thể nói thọ hay yểu. 1. Thần khí
Nhận biết tướng thọ yểu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng thọ yểu –

Mùa Vu Lan báo hiếu, xem cách 12 chòm sao hiếu thảo với cha mẹ

Tấm lòng của cha mẹ con cái hiểu rõ và để đáp lại 12 chòm sao hiếu thảo cũng có những hành động cực kì dễ thương dành cho đấng sinh thành của mình đấy.
Mùa Vu Lan báo hiếu, xem cách 12 chòm sao hiếu thảo với cha mẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc đời này, bất kể là từng yêu ai hay từng được ai yêu cũng không thể có thứ tình cảm nào lớn lao, mạnh mẽ và sâu sắc như tình cảm của cha mẹ dành cho con cái. Tấm lòng ấy con cái hiểu rõ và để đáp lại 12 chòm sao hiếu thảo cũng có những hành động cực kì dễ thương dành cho đấng sinh thành của mình đấy. Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, hãy cũng xem qua nhé!

Mua Vu Lan bao hieu, xem cach 12 chom sao hieu thao voi cha me
 

Bạch Dương: mua cho cha mẹ đồ vật mà họ thích

  Là chòm sao có tính cách thẳng thắn và ngây thơ, không vòng vo, đối với Bạch Dương tình yêu chính là sự thể hiện trực tiếp nhất. Tuy không tinh tế, hay để ý nhưng cừu trắng nhất định sẽ biết cha mẹ mình thích gì. Đôi khi vì thấy cha mẹ nâng lên đặt xuống, không nỡ mua vì tiếc tiền lại thấy khó chịu trong lòng.   Khi có điều kiện, nhất định Bạch Dương sẽ dùng tiền mình kiếm được để mua món đồ đó cho cha mẹ, kể cả dốc sạch tiền cũng cam lòng. Tưởng vô tâm nhưng chòm sao này thật ra rất dễ thương, hiếu thảo và biết cách làm cha mẹ vui lòng đấy chứ nhỉ. Chắc chắn cha mẹ bạn sẽ vô cùng trân trọng món quà này.  

Kim Ngưu: tổ chức kỉ niệm ngày cưới cho cha mẹ

  Đây là chòm sao mang dáng vẻ ôn nhu điển hình, trước mặt cha mẹ lúc nào cũng hiếu thuận. 12 chòm sao hiếu thảo không thể quên phần của Kim Ngưu được đâu, vừa trầm tĩnh lại vừa quan tâm, mong muốn quan hệ tình cảm của cha và mẹ càng ngày càng tốt, càng ngày càng hòa hợp.   Thế nên Ngưu chan nhất định muốn tổ chức cho hai người một buổi kỉ niệm ngày cưới thật long trọng, đáng nhớ và ấm áp. Có thể là bạn tự bí mật tổ chức, cũng có thể là trợ giúp bố những việc quan trọng để làm mẹ bất ngờ trong ngày đáng nhớ. Quả là đứa con rất hiểu chuyện, lại còn lãng mạn nữa.  

Song Tử: giúp bố mẹ chụp lại ảnh cưới

  Ai cũng có thanh xuân, bố mẹ chúng ta cũng từng là những chàng trai cô gái rạng rỡ nhất, tươi trẻ nhất, hạnh phúc nhất trong ngày cưới của mình. Năm tháng phôi phai, cùng với thời gian và sự trưởng thành của mình, cha mẹ cũng đã già đi. Song Tử muốn lưu lại những tháng ngày tốt đẹp nhất bằng cách giúp cha mẹ chụp lại bộ ảnh cưới.   Tuy không son trẻ nhưng rất ý nghĩa, có tác dụng hâm nóng tình cảm cảm vợ chồng và mang tới niềm an ủi vô bờ bến cho những đáng sinh thành. Gì chứ bày trò là Song Tử giỏi nhất rồi, nên chắc chắn họ sẽ thuyết phục được cha mẹ nghe theo ý tưởng của mình và tận tâm chuẩn bị, cho ra đời bộ ảnh cưới độc nhất vô nhị. Chòm sao hết mực hiếu kính cha mẹ theo cách riêng của mình.  

Cự Giải: ở bên chăm sóc cha mẹ đến già


12 chom sao yeu thuong cha me
 
Là chòm sao yêu gia đình nổi tiếng nhất trong 12 chòm sao hiếu thảo nên Cự Giải chắc chắn không chỉ muốn đối xử tốt một chốc một lát. Tính cách ngoan ngoãn lại thích gần gũi người thân nên nhất định bạn sẽ ở bên chăm sóc cho người nhà, hàng ngày làm những công việc bình thường nhưng ấm áp dành cho họ.   Chuyện cảm động nhất mà Cự Giải có thể nghĩ ra chính là sống cuộc sống hiện thực, chính mình phải tự tay chăm lo cho cha mẹ khi già yếu, phụng dưỡng cha mẹ cho tới cuối đời. Cần gì những thứ màu mè hoa mỹ gì khác, có con cái bên cạnh chính là niềm vui lớn nhất rồi.  

Sư Tử: khoe với cha mẹ thành tích mà mình đạt được

  Cha mẹ nào chẳng mong con cái công thành danh toại, phương trưởng thành tài. Thế nên Sư Tử nhà chúng ta làm con ngoan chính là nỗ lực để đạt được vinh dự, thành tựu và mang tới khoe với cha mẹ để người lớn có thể tự hào, cũng có thể yên tâm về mình. Không chỉ giỏi giang mà nhất định phải thành đạt nữa.   Tâm tư của cha mẹ là con cái sống tốt nên Sư Tử sẵn lòng sống thật tốt để cha mẹ được vui. Ví dụ như sẽ mang thành tích học tập, thành tích thi cử về hoặc đưa cha mẹ tới nơi mình làm việc tham quan, tới căn nhà mình mới mua để ở, cảm giác lúc đó đã đền đáp được phần nào kỳ vọng của họ vậy.  

Xử Nữ: cùng cha mẹ đi du lịch hưởng thụ

  Với con người khó tính như Xử Nữ thì thực ra có rất nhiều chuyện không hài hòa với bố mẹ nhưng nội tâm vẫn là ỷ lại, vẫn là yêu quý bố mẹ vô cùng. Vì thế, dù bên ngoài không nói ra nhưng nhất định vẫn muốn làm điều gì đó, ví dụ như cùng đi du lịch, để bố mẹ hưởng thụ một lần chẳng hạn.    Trong trời đất bao la, bao nhiêu là cảnh đẹp nhưng người lớn trong nhà thì lại chẳng được đi tới đâu vì muốn chăm lo cho con cái. Thế nên để hiếu kính, Xử Nữ sẽ tổ chức du lịch gia đình, thông qua chuyến đi vừa tăng tình cảm gắn kết lại giúp bố mẹ được nghỉ ngơi thoải mái, thăm thú đây đó.  

Thiên Bình: bất kể ngày lễ nào cũng ở bên cha mẹ

  Cách 12 chòm sao yêu thương cha mẹ không hề giống nhau, như Thiên Bình họ sẽ ở bên người thân trong mọi dịp lễ tết. Quanh năm bận rộn bên ngoài, lo lắng những việc khác rồi, ngày nghỉ lễ chính là lúc gia đình quây quần bên nhau, tuyệt đối không có ngoại lệ. Là chòm sao thường xuyên có lỗi không nhận, nhiều khi khiến cha mẹ buồn nên bạn muốn tìm cách để xin lỗi kín đáo.   Bình nhi hi vọng rằng, cha mẹ sẽ không cô đơn trong những lúc nhà nhà đông đủ. Phận làm con cái, có thể thấy cha mẹ hạnh phúc sẽ cố gắng kiên trì. Không mải mê kiếm tiền, không vui thú bạn bè càng không cố tình ở bên người yêu, mỗi năm chỉ có đôi dịp được ở cùng cha mẹ thôi mà.  

Hổ Cáp: chủ động chăm sóc cha mẹ

  Cha mẹ chăm con không quản ngày quản tháng, con chăm cha mẹ thì con đếm từng ngày, riêng với Hổ Cáp họ tình nguyện chăm sóc cha mẹ từng li từng tí. Ngày bình thường thì làm việc nhà, quan tâm tới thân thể; khi cha mẹ già yếu sẽ ngày ngày ở bên giúp đỡ.   Những việc như vệ sinh cá nhân, chăm người ốm Hổ Cáp cũng không ngại ngần đâu. Người con hiếu nghĩa không chỉ khiến cha mẹ cảm động mà còn khiến tất cả những người xung quanh khen ngợi. Chòm sao này thì không cần, chỉ thấy thanh thản và vui vẻ trong lòng là đủ rồi.  

Nhân Mã: vì cha mẹ từ bỏ nhiều thứ

  Quan hệ giữa Nhân Mã và cha mẹ rất tốt, cảm giác ung dung hạnh phúc giống như những người bạn vậy. Bạn có thể làm nhiều việc vì cha mẹ, ví như chăm sóc, yêu thương và quan trọng nhất là ở thời điểm cần lựa chọn, chòm sao hiếu thảo này sẽ luôn chọn cha mẹ, bất chấp tất cả.   Mã Mã can đảm dám từ bỏ những thứ như tiền bạc, công việc, bạn bè, người yêu thậm chí cả tương lai nếu cha mẹ cần. Với họ, quan trọng nhất là người nhà vui vẻ, hạnh phúc và có sự giao lưu kết nối với nhau, thà hi sinh để được ở gần bên còn hơn là sau này hối hận.  

Ma Kết: hỗ trợ cha mẹ hoàn thành nguyện vọng


12 chom sao hieu thao voi cha me
 
Chòm sao theo đuổi thành công, dục vọng rất lớn, nỗ lực tích cực tiến về phía trước, nhiều khi vô tình khiến cha mẹ phiền lòng, không cảm thông cho nhau. Nhưng không vì thế mà quan hệ cha mẹ con cái trở nên lạnh nhạt, 12 chòm sao hiếu thảo với cha mẹ so sánh với nhau đều là ngang hàng.   Ma Kết âm thầm hoàn thành tâm nguyện của cha mẹ, thậm chí sẵn sàng định hướng tương lai của mình theo ý muốn của người lớn. Có những việc dù không nói ra nhưng họ đã cố gắng rất nhiều với ý định để cha mẹ có thêm niềm vui, bớt đi nỗi buồn, không phải quá lo lắng vì mình.  

Bảo Bình: đưa bạn đời về thăm cha mẹ

  Bề ngoài Bảo Bình có vẻ vô tâm, không để ý bất cứ chuyện gì nhưng không phải thế đâu, đây là chòm sao tinh tế và trọng tình lắm. Họ đối nhân xử thế đơn giản, ôn hòa, tuy không thân mật nhưng chân thành, hết lòng hết dạ. Với cha mẹ bình thường sẽ chẳng ngọt ngào những bất cứ lúc nào cũng đưa bạn đời về thăm.   Gia đình nhỏ về thăm gia đình lớn, ở lại mấy ngày để cha mẹ không cô đơn. Cảm giác thấy con cái mình trưởng thành, có gia đình riêng và sống hạnh phúc thật là bình yên và đáng quý. Cha mẹ sẽ vì hành động này của Bảo Bình mà thêm vui vẻ, ấm áp trong lòng.  

Song Ngư: muốn ở cùng cha mẹ

  Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Song Ngư kể cả đã lập gia đình vẫn muốn ở chung với bố mẹ. Khi nhỏ không hiểu chuyện thì nghịch phá khiến cha mẹ phiền lòng, lớn lên rồi biết trước sau rồi thì lại phải ở riêng. Tốt nhất là vẫn một nhà hài hòa, không có chia cách, đó là nguyện ý lớn nhất, bảo sao mà bạn thuộc top Đáng ngưỡng mộ 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc   Lựa chọn quan trọng nhất của Song Ngư đó là chọn cha mẹ, chọn gia đình, điều này không phải ai cũng làm được. Có nhiều người muốn tự do tự tại, muốn tận hưởng cuộc sống riêng để thoải mái. Ngư nhi cũng muốn, nhưng còn muốn hơn là ở bên chăm lo cho cha mẹ khi tuổi già, làm họ vui vẻ trong những tháng ngày còn lại. 
Thất Tịch này, tình yêu của 12 chòm sao biến động ra sao? Phát hoảng những chiêu trò khi 12 chòm sao nữ yêu BỊ BỒ ĐÁ - 12 chòm sao nam vì đâu nên nỗi
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mùa Vu Lan báo hiếu, xem cách 12 chòm sao hiếu thảo với cha mẹ

10 sai lầm phong thủy nhà cửa khiến hao hụt tài vận

Bày trí nhà cửa sai phong thủy là nguyên nhân khiến bạn dễ bị “lọt” tiền tài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ít người thắc mắc, tại sao mình công ăn việc làm ổn định, lương cũng không đến nỗi nhưng không thể nào tiết kiệm được tiền, hơn nữa chẳng biết tại sao mà tiền tài cứ “lọt” mất. Thông thường, ngoài việc phải chú ý đến sử dụng tiền hợp lý ra, chúng ta còn phải chú ý đến phong thủy tài vận nhà mình.

Sau đây là 10 lỗi cấm kị trong phong thủy nhà cửa mà bạn nên tránh.

Gương đối diện với cửa chính

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 1

Gương có thể trừ tà, cũng có thể sinh tà

Có rất nhiều gia đình, vừa bước chân vào cửa chính là nhìn thấy gương. Trong phong thủy, sử dụng gương đúng cách có thể trừ tà, nhưng nếu như sử dụng không đúng cách, cũng sẽ sinh ra tà khí, thậm chí sẽ thu hút hung khí.

Gương đối diện với cửa chính sẽ sinh ra tà khí rất lớn, không chỉ ảnh hưởng đến tài vận của người trong gia đình, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Tuy nhiên thông thường các gia đình đều đặt gương cố định, rất khó di chuyển hoặc thậm chí là không thể di chuyển, lúc này chỉ có thể đặt vào giữa gương và cửa chính một bức bình phong, che gương lại, hoặc là treo rèm châu ở cửa chính.

Cửa sổ phòng khách đối diện cửa chính

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 2

Từ cửa chính nhìn xuyên ra cửa sổ không tốt cho phong thủy tài vận

Khi bước vào trong nhà, có thể trực tiếp nhìn thấy cửa sổ ở ban công phòng khách, điều này không có lợi cho tài vận và gia vận của gia đình bạn, dễ bị phá sản, lọt tiền tài, tiền đến tiền sẽ đi, rất khó giữ.

Nếu mắc phải lỗi phong thủy này, bạn cần lắp thêm cửa phụ  ở giữa cửa chính và cửa sổ, hoặc là đặt đồng tiền Khai quang Ngũ đế (tiền cổ thời nhà Thanh) ở dưới đệm lót chân đặt trước cửa chính để hóa giải. Ngoài ra còn một điều cần chú ý, nếu như nhà nhỏ hẹp thì không được lắp cửa to, nếu không sẽ rất khó giữ tiền tài.

Từ cửa chính có thể nhìn xuyên bếp

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 3

Nhà bếp là kho tài của một gia đình

Nếu như vừa mở cửa là có thể nhìn thấy bếp, chắc chắn sẽ hao tài tốn của, có tài vận cũng khó mà giữ được.  Nhà bếp là kho tài của một ngôi nhà, vừa mở cửa ra đã nhìn thấy kho tài, thì tiền tài sẽ rất khó cất giữ.

Nếu gia đình mắc lỗi phong thủy này, có thể treo rèm châu ở trước cửa chính để che bớt đi, đương nhiên, nếu như có điều kiện, tốt nhất là lắp thêm cửa hoặc tấm bình phong ở giữa để hóa giải.

Mở cửa chính nhìn thấy vòi nước

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 4

Vòi nước rò rỉ sẽ dễ bị lọt tài

Mở cửa nhìn thấy bếp tức là nhìn thấy kho tài, điều này rất xui xẻo. Còn mở cửa nhìn thấy vòi nước cũng khó giữ tiền tài, bởi vì trong phong thủy, nước giữ tài, nếu mắc lỗi phong thủy này sẽ rất dễ xảy ra tình trạng tiêu hao tiền của.

Vì vậy nên thường xuyên đóng cửa phòng bếp, phòng vệ sinh để giảm ảnh hưởng. Nếu như các đồ gia dụng như vòi nước có hiện tượng rỉ nước sẽ dễ lọt tài, khiến cho tiền kiếm được nhưng không giữ được, hơn nữa rỉ nước cũng rất lãng phí, cần sửa chữa kịp thời.

Nhà tắm và phòng bếp liền kề nhau

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 5

Nhà tắm và phòng bếp liền kề nhau là điều cấm kỵ trong phong thủy

Người ta thường nói “như nước với lửa”, nước lửa tương khắc tất có tổn thất, không chỉ hao tài tốn của, không lợi cho tài vận, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của gia đình. Với tình trạng thế này, di chuyển là điều không thể nào, chỉ có thể lợi dụng phong thủy để hóa giải ví dụ như đặt bình Bình An ở trước cửa nhà tắm, hoặc đặt một đôi kỳ lân ở sau cửa nhà bếp.

Trên tường xuất hiện vết nứt

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 6

Không sửa chữa vết nứt kịp thời sẽ dẫn đến hao tài tốn của

Một căn nhà ở lâu năm sẽ khó tránh khỏi xuất hiện các vết nứt trên trần nhà và trên tường. Lúc này cần sửa chữa kịp thời, nếu không sẽ bị lọt tài, hơn nữa cũng không tốt cho sức khỏe. Đối với các đôi vợ chồng hiếm muộn càng cần phải chú ý đến điều này.

Nếu như trong nhà có các vật dụng bị hỏng gần như không sử dụng được nữa thì cũng nên xử lý kịp thời, tuy nhiên cũng nên tùy theo hoàn cảnh cá nhân để quyết định chứ không nên lãng phí. Ví dụ như dưới đáy cốc bị thủng một lỗ, chúng ta không thể nào dùng được nữa thì có thể ném đi; hay bát đĩa bị mẻ thì tốt nhất cũng nên thay kịp thời, nếu không không những trong lúc sử dụng hay rửa có thể bị thương, mà còn dễ bị lọt tài, hao tài tốn của.

Trong nhà lộn xộn và u ám

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 7

Nhà phải sạch sẽ và sáng sủa mới tốt cho phong thủy tài vận

Các vật dụng trong nhà cần phải giữ gìn sạch sẽ, gọn gàng, tránh chồng chất cao và dồn ép. Nếu nhà không đủ ánh sáng, tốt nhất là lắp đèn hoặc là các thiết bị chiếu sáng khác để bổ sung ánh sáng cho phòng, nhằm tích tụ tài vận một cách tốt nhất.

Cửa chính đối diện cầu thang hoặc thang máy

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 8

Đi lên cầu thang nhìn thấy cửa chính dễ xuất hiện tà khí

Mở cửa ra, nếu đối diện có cầu thang hoặc thang máy đều sẽ bị lọt tài, hao tài tốn của. Nếu như đi lên cầu thang mà nhìn thấy cửa chính trước mặt thì sẽ xuất hiện tà khí rất lớn, ảnh hưởng đến gia vận. Nếu như xuống cầu thang nhìn thấy cửa chính trước mặt thì tài vận và gia vận sẽ không ngừng sa sút.

Thang máy đối diện với cửa chính, do mỗi ngày thang máy đều đóng và mở thường xuyên, khí rất loạn, tài vận trong nhà sẽ bị “hút” đi. Nếu như gặp phải tình trạng này, có thể đặt đồng tiền Khai Quang Lục Đế ở dưới tấm đệm lót chân trước cửa chính, hoặc đặt chậu cây lá rộng thật lớn trước cửa để hóa giải.

Giường đặt dưới cửa sổ hoặc đối diện cửa chính

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 9

Đặt giường dưới của sổ khiến tâm trạng không ổn định và dễ xảy ra sai sót

Giường trong phòng không được đặt dưới cửa sổ hoặc đối diện với cửa chính, điều này không chỉ ảnh hưởng đến tài vận, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của chủ nhân, khiến người nằm trên đó có tâm trạng không ổn định, làm việc thường sai sót. Lúc này nên buông rèm hoạc đóng cửa phòng ngủ để giảm ảnh hưởng không tốt.

Màu sắc trong nhà không hợp lý

 10 sai lam phong thuy nha cua khien hao hut tai van - 10

Hãy dùng gam màu trắng nếu bạn không hiểu màu sắc trong Ngũ Hành

Điều này cũng có thể là nguyên nhân khiến bạn “lọt” tài, hao tốn tiền của. Màu sắc Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) của mỗi người có phần khác nhau, nếu như bạn không biết màu nào phù hợp nhất thì hãy lấy màu trắng hoặc trắng sữa làm chủ đạo, tốt nhất không nên sử dụng gam màu đỏ để trang trí nhà, nếu không sẽ không có lợi cho khí vận của cả gia đình.

Trong cuộc sống, những thứ như tiền tài vật chất đều nên cất kỹ, không nên để tiền của mình bày ra trước mắt người khác, nếu không sẽ có thể bị “lọt” tiền tài. Cho nên, mọi người cần chú ý hơn đến những thói quen nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, như vậy mới có thể khiến tài vận của mình càng thêm thịnh vượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 sai lầm phong thủy nhà cửa khiến hao hụt tài vận

Tử vi Mậu thìn Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi lý số Mậu Thìn là rồng nơi biển cả, tướng mạo uy nghiêm, ngoài cương trong nhu, chính trực, lương thiện, trọng lời hứa, được xem là bậc quân tử.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

MẬU THÌN: ĐẠI LÂM MỘC

Trong tử vi lý số Mậu Thìn là rồng nơi biển cả, tướng mạo uy nghiêm, ngoài cương trong nhu, chính trực, lương thiện, trọng lời hứa, được xem là bậc quân tử.

Đại lâm Mộc là rừng cây chắn gió, cao vút hiên ngang che lấp mặt trăng mặt trời. Mộc này sinh vào giao mùa xuân hạ phương Đông Nam, sinh trưởng thành rừng, lấy Thổ làm nguồn nuôi dưỡng, Quý Sửu là núi. Nếu không bị hình xung phá hại, chủ phúc lộc quyền quý.

Gặp Thổ gánh vác như Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ thì ưa gặp Tân Mùi, chủ về hiển quý, ưa Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ; Bính Tuất, Đinh Hợi ốc thượng Thổ, lại được Nhâm Thân hoặc Quý Dậu Kiếm phong Kim là mệnh cách cát lợi, sự nghiệp có thành tựu, vinh hoa phú quý. Nếu không phải là lương tướng cũng là hiền thần.

Mộc này bất luận vượng hay suy đều cần gặp Thổ, nếu không sẽ là không có gốc, không những bần cùng chán nản mà còn đoản thọ.

Trụ khác có Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa; Mậu Ngọ Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa đều chủ về trường thọ. Hành đến đại, tiểu hạn cũng chủ về cát tường như ý.

Gặp Đinh Mùi Thiên hà Thủy, mang quý gọi là Linh trà thiên hà cách, sinh vào hai mùa thu, đông là tốt.

Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, chủ bần cùng yểu mệnh.

Mậu Thìn gặp Quý Hợi gọi là Thương long đằng hải cách. Nếu ngũ trụ phối hợp tốt chủ vô cùng hiển quý.

Cũng ưa Đinh Sửu Giản hạ Thủy.

Không nên gặp các Kim, duy có Ât Sửu Hải trung Kim thì có thể được, còn các Kim khác không dùng, gặp phải chủ yểu mệnh, ti tiện.

Với Mộc, ưa gặp Quý Sửu Tang đố Mộc. Nếu là Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc cần gặp Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ, gọi là Bình lâm tại dã cách.Can khác tối kỵ gặp Giáp, phạm vào thì gặp phúc biến thành thành họa, khiến cho mệnh chủ bần cùng chán nản.

Mậu lộc tại Tỵ, chi khác có Tỵ là không tốt do phạm Kiếp sát, Cô quả. Trước giàu sau nghèo, đến trung niên gặp phá bại.

Mậu quý tại Mùi, chi khác gặp Mùi, chủ phú quý.

Trong tử vi lý số  Người sinh năm Mậu, Thiên cơ hóa kỵ, dễ bị thương tật, công việc và kê hoạch không dễ thực hiện.

Mệnh nữ tối kỵ, chủ phúc mỏng, hôn nhân không bền, nhiều bệnh tật, con cái yểu mệnh, cô độc đau khổ.

Mỗi khi gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến ngưòi nhà.

Bạn đời chớ nên gặp ngưòi sinh năm Giáp, Ât. Nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Chi khác có Thìn, phạm Phục ngâm, còn phạm hình, làm việc có đầu mà không có cuối, vợ chồng duyên mỏng.

Nếu thời chi có Thìn, nên nương nhờ nơi cửa Phật.

Trong tử vi nếu Địa chi của ngũ trụ có 4 Thìn, nam khắc 4 vợ, nữ khắc 4 chồng.

Mậu Thìn, Mậu Tuất là Khôi canh tương hội, Càn Khôn hậu đức, được che chở lại hàm chứa tương sinh, không thể là xung.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Mậu thìn Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Phong thủy phòng con: Bố mẹ đừng lơ là

Phong thủy phòng ngủ cũng như phòng học có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi, thể trạng của trẻ, cần được bố mẹ quan tâm đặc biệt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những đứa trẻ luôn có hành động vô lễ, thiếu tôn trọng với mọi người, thường xuyên mắc lỗi ở trường... khiến cho bạn đau đầu và rất thất vọng. Thực tế, bạn hoàn toàn có thể khắc phục tình trạng này bằng một số giải pháp phong thủy đơn giản trong căn phòng thuộc về con như phòng ngủ, phòng học.

 phong thuy phong con: bo me dung lo la - 1

Phòng ngủ của trẻ nếu được thiết kế và bố trí hợp lý theo phong thủy không những giúp trẻ ngon giấc mà còn tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe nói chung.

Hãy thử áp dụng 8 bí quyết sau đây và quan sát sự thay đổi đáng ngạc nhiên!

1. Tránh không gian hẹp

Tránh để trẻ ở trong những căn phòng quá hẹp và chật chội. Cố gắng dành cho con một căn phòng càng rộng càng tốt để tạo điều kiện cho chúng phát triển tiềm năng của bản thân một cách đầy đủ nhất.

2. Giữ căn phòng đủ ánh sáng, sạch sẽ

Để thu hút nguồn năng lượng tích cực tốt đẹp đến với căn phòng của trẻ, bố mẹ phải chú ý việc vệ sinh và duy trì đầy đủ ánh sáng. Đảm bảo sự sạch sẽ trong phòng ngủ hoặc phòng học của con sẽ giúp trẻ hóa năng lượng của chúng mỗi ngày.

3. Tránh sự lộn xộn

Phòng của trẻ nên được tổ chức ngăn nắp, hợp lý, bởi vì sự lộn xộn sẽ phá vỡ dòng chảy của năng lượng và tạo nên cảm giác về sự hỗn loạn, mơ hồ. Nếu căn phòng có thùng rác, nó phải được đậy kín mọi lúc và làm sạch thường xuyên. Bố mẹ nên dạy trẻ cách làm việc nhà và chịu trách nhiệm vệ sinh chính căn phòng của mình.

 phong thuy phong con: bo me dung lo la - 2

Hãy dọn dẹp và loại bỏ những vật dụng không còn phù hợp với độ tuổi của trẻ hoặc không cần sử dụng đến để căn phòng luôn gọn gàng, sạch sẽ.

4. Vị trí của phòng ngủ

Phòng ngủ nên nằm ở khu vực mở và thoáng đãng. Tránh bố trí phòng ngủ của trẻ trong tầng hầm. Lý do là vì, tầng hầm chứa nhiều năng lượng âm sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ.

5. Lựa chọn giường ngủ rất quan trọng

Luôn luôn chọn một chiếc giường ngủ đủ lớn dành cho con của mình. Tránh để trẻ phải ngủ trên chiếc giường quá bé, khiến chân chạm hoặc vượt ra ngoài phần cuối giường. Điều này sẽ hạn chế sự tăng trưởng về thể chất của trẻ.

Đối với giường ngủ, đầu giường chắc chắn với thiết kế đơn giản là lý tưởng nhất vì nó tượng trưng cho sự hỗ trợ mạnh mẽ trong cuộc sống của trẻ. Bên cạnh đó, đừng đặt đệm trực tiếp trên sàn nhà, giữa đệm và sàn nhà phải có khoảng cách nhất định. Bạn có thể đặt đệm trên một phần khung nếu không có giường ngủ.

Gầm giường trống, thoáng đảm bảo dòng chảy năng lượng tốt đẹp cho trẻ trong khi ngủ. Giường tầng cũng không thực sự tốt vì nó gây ra áp lực và căng thẳng cho trẻ đang ngủ. Cuối cùng, cố gắng không sử dụng giường nước vì nước bị mắc kẹt trong giường tạo ra năng lượng âm quá mạnh, có hại cho sức khỏe.

 phong thuy phong con: bo me dung lo la - 3

Chọn chiếc giường có thành giường và đầu giường vững chắc vô cùng quan trọng nhằm mang lại sự hỗ trợ tốt nhất cho các con của bạn.

6. Vị trí của bàn học

Tránh kê bàn học của trẻ ở vị trí tạo thành một đường thẳng với cửa ra vào. Vị trí này khiến trẻ phải tiếp nhận nguồn năng lượng đột ngột, gây nên sự bất hạnh. Theo phong thủy, cửa sổ tượng trưng cho sự hỗ trợ nghèo khổ, vì thế, bố mẹ phải lưu ý không để lưng của con đối diện với cửa sổ khi ngồi học. Điều này sẽ ngăn chặn việc tiếp xúc với năng lượng tiêu cực và gây ra tình trạng bất lợi cho trẻ.

Thêm vào đó, cần chọn vị trí kê bàn tránh xa các đồ vật nhô ra như điều hòa, đèn chùm, xà nhà... nó sẽ làm cho trẻ hay mệt mỏi, mắc bệnh.

7. Tránh để cây xanh trong phòng ngủ

Tuyệt đối không để cây xanh (dù thật hay giả) trong phòng ngủ của con bởi vì nó sẽ mang đến bệnh tật, sức khỏe suy yếu và lấy đi năng lượng của trẻ.

 phong thuy phong con: bo me dung lo la - 4

Khi bước vào phòng ngủ, phía bên trái được gọi là khu vực kiến thức, nên đặt bàn học và tủ sách ở đây.

8. Tránh để tính năng nước trong phòng ngủ

Các tính năng nước như đài phun nước, bể cá cảnh, thác nước... được khuyến cáo là không nên bố trí trong phòng ngủ của trẻ. Nếu những thứ này xuất hiện và tồn tại trong không gian nghỉ ngơi của trẻ thì rất có hại đến mối quan hệ của trẻ với bố mẹ, bạn bè và những người thân thiết nói chung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng con: Bố mẹ đừng lơ là

Đặc tính Hỏa trong phong thủy –

Hỏa là: “Viêm thượng”, Viêm là nóng, nhiệt; thượng là hướng lên trên. Chính vì Hỏa có tính phát nhiệt, ấm áp, hướng thượng. Hoả có chức năng đuổi lạnh, trừ âm, tôi luyện kim loại. Hỏa sinh ra từ Mộc, tính tình nóng vội, nhưng lại khiêm cung, Hỏa chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hỏa là: “Viêm thượng”, Viêm là nóng, nhiệt; thượng là hướng lên trên. Chính vì Hỏa có tính phát nhiệt, ấm áp, hướng thượng. Hoả có chức năng đuổi lạnh, trừ âm, tôi luyện kim loại.

small_1241581898.nv[1]

Hỏa sinh ra từ Mộc, tính tình nóng vội, nhưng lại khiêm cung, Hỏa chủ là Lễ.

Trong tứ trụ người là Hỏa vượng, tinh thần mạnh mẽ, tích cực cầu tiến, coi trọng lễ nghĩa, hình thức, nhiệt tình giúp đỡ người, chân thành với bạn bè.

Trong Tứ trụ nếu là Hỏa quá vượng, mặt đỏ, nói to, tính tình vội vàng, dễ bị xúc dộng, tính hiếu thắng, dễ chuốc điều thị phi; hỏa mà suy thì người gầy, đầu nhỏ, ăn nói thị phi, gian giảo đố kỵ, không bền chí, thiếu độ tin cậy.

Hỏa chủ Lề, mang biểu hiện nóng vội, trọng lễ nghĩa, vị đắng, màu đỏ đậm. Người Hỏa thịnh, đầu nhỏ chân dài, lông mày rậm, tai nhỏ, tinh thần tỏa sáng, cung kính, chan hoà với mọi người, chất phác, vội vàng. Người thuộc Hỏa suy thì dáng gầy, da vàng, ngôn ngữ vong diên, dối trá, cay độc, làm việc không có đầu cuối.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính Hỏa trong phong thủy –

Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Bình thường thì đứng đắn nhưng khi thân mật thì 12 chòm sao nam của chúng ta cũng rất biết tình tứ đấy nhé. Cùng xem các chàng trai hoàng đạo thích kiểu quyến
Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bình thường thì đứng đắn, đàng hoàng nhưng khi thân mật thì 12 chòm sao nam của chúng ta cũng rất biết tình tứ đấy nhé. Cùng xem các chàng trai hoàng đạo thích kiểu quyến rũ nào.


Cac chom sao nam thich lam tinh voi kieu phu nu nao hinh anh
 
Bạch Dương
  Chủ động, trực tiếp và nhiệt tình, chòm sao nam cuồng nhiệt như Bạch Dương luôn thích những điều hấp dẫn, cuốn hút, mới mẻ. Nên chẳng cần phải chuẩn bị cầu kì làm gì, chỉ cần có cảm xúc là mọi sự thuận theo tự nhiên, bất cứ cô nàng nào khơi dậy được sự đam mê của Bạch Dương là cuộc vui bắt đầu.
Kim Ngưu   Chòm sao nam Kim Ngưu rất chú trọng tới tư thái cùng dáng vẻ nên người có thể gây hứng thú cho chàng ta chắc chắn phải là cô gái có khuôn mặt đẹp, khí chất tốt, hiền lành thùy mị.   Song Tử   Trong 12 chòm sao nam thì Song Tử đặc biệt thích cảm giác mới mẻ nên những người trái dấu thường thu hút họ. Đó là cô nàng đặc biệt hiền lành hay quá mức mãnh liệt, chưa có kinh nghiệm hay chinh chiến tình trường đã lâu đều được.   Cự Giải   Ngược lại, Cự Giải thích sự quen thuộc, chòm sao nam này luôn muốn có cảm giác an toàn và ấm áp nên nhất định phải qua tìm hiểu kĩ càng mới có thể tiến tới chuyện phong hoa tuyết nguyệt.
3 cô nàng hoàng đạo càng lớn tuổi càng hấp dẫn 5 chòm sao nam dại gái nhất vòng tròn hoàng đạo 5 cô nàng hoàng đạo thích mê nụ hôn cuồng nhiệt

Sư Tử
  Người phụ nữ biết ca ngợi và dựa dẫm vào Sư Tử là tuyệt nhất, cả khi yêu đương lẫn khi thân mật tình tứ. Đừng quá chủ động nhưng cũng đừng quá nhút nhát, Sư Tử rất thích những cô nàng biết tiến biết lui.   Xử Nữ   Yêu cầu an toàn của Xử Nữ cực kì cao nên trong bất kì tình huống nào, họ chỉ thân mật với người phụ nữ được pháp luật thừa nhận, danh chính ngôn thuận mà bên nhau.   Thiên Bình   Không khí, âm nhạc, rượu ngon là những thứ không thể thiếu trong cuộc vui của Thiên Bình, họ thích những cô gái hơi có chút e thẹn, phong nhã.   Thiên Yết   Theo đuổi thân mật cực đoan, cảm giác chinh phục nên Thiên Yết thích phụ nữ gợi cảm, có thể dễ dàng khơi gợi cảm xúc nguyên thủy của họ.   Nhân Mã   Tùy tâm tùy tính, Nhân Mã là chàng trai hoàng đạo có thể thể hiện cảm xúc thân mật ở bất kì đâu với một cô nàng nóng bỏng, hoang dã.
Cac chom sao nam thich lam tinh voi kieu phu nu nao hinh anh
 
Ma Kết
  Có lập trường và thích an toàn, Ma Kết rất thích những cô nàng chuẩn mực và biết cách ca ngợi.   Bảo Bình   Tính cách của Bảo Bình hướng họ tới những cô nàng mạnh mẽ, phóng khoáng và sexy hết cỡ. Đó là những người có thể cùng Bảo Bình sáng tạo những cuộc thân mật đỉnh cao.
Song Ngư   Yêu và yêu là yếu tố tiên quyết mà chàng trai Song Ngư yêu cầu, đừng quá chủ động cũng đừng quá cứng nhắc, thật tự nhiên và thoải mái là được.
Bật mí 4 chòm sao nam cực siêu chuyện chăn gối
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Lộ diện những con giáp khó phấn đấu lên sếp

Mặc dù những con giáp này không phải không có số làm lãnh đạo, nhưng vì bản tính cố hữu, khó thay đổi khiến con đường phấn đấu lên sếp của họ vô cùng gian nan.
Lộ diện những con giáp khó phấn đấu lên sếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

1. Người tuổi Tý
 
Người tuổi Tý thông minh lanh lợi, có đầu óc kinh doanh nhưng lại ích kỉ, chỉ chăm chút lợi ích cá nhân. Họ thích làm theo số đông hơn là tự mình đi theo một hướng. Chính điều đó khiến người tuổi Tý mất lòng tập thể, tất nhiên con đường để họ phấn đấu lên sếp sẽ càng gian nan, trắc trở hơn.   2. Người tuổi Mùi
Ẩn sau vẻ ngoài mạnh mẽ và quyết đoán của người tuổi Mùi chính là sự tự tin, rụt rè, sợ bản thân làm không tốt, vừa khổ mình lại ảnh hưởng đến người khác. Do đó, trong tình huống thông thường, người tuổi Mùi sẽ không bằng lòng gánh vác trách nhiệm chứ chưa nói tới những tình huống khẩn cấp.

Lo dien nhung con giap kho phan dau len sep hinh anh
Ảnh minh họa

Đối với con giáp này, cuộc sống bình yên là điều quan trọng nhất. Họ chỉ mong muốn suốt đời được mạnh khỏe, yên bình mà không phải lo toan những việc đao to búa lớn. Do đó, người tuổi Mùi không có số để làm lãnh đạo.
  3. Người tuổi Mão
 
Đa phần người tuổi Mão làm gì cũng rất thận trọng, suy đi tính lại kĩ càng vấn đề trước khi đưa ra kết luận cuối cùng. Dù trong đầu đã có phán đoán riêng nhưng người tuổi Mão vẫn im lặng, chờ đợi động tĩnh của người khác ra sao rồi mới quyết định.
 
Chính vì sự suy nghĩ quá chu toàn đó khiến người tuổi Mão do dự vì đã nhìn thấy mặt tiêu cực của vấn đề. Hơn ai hết, họ hiểu rõ giá trị của cuộc sống bình yên. Thay vì chạy đua tranh giành những thứ hào nhoáng, họ muốn được thảnh thơi và làm những thứ theo sở thích cá nhân.
 
4. Người tuổi Hợi
Người tuổi Hợi thường biết cách hài lòng với cuộc sống hiện tại và không có quá nhiều tham vọng. Với họ, nếu phải bon chen để giành giật quyền hành, chức vụ thì cuộc sống sẽ trở nên ngột ngạt như thiếu không khí để thở. Do đó, họ chỉ nỗ lực hết mình để hoàn thành công việc được giao một cách vui vẻ mà không phải tranh giành nảy lửa với người khác.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lộ diện những con giáp khó phấn đấu lên sếp

Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

Các cặp đôi nam tuổi Tý - nữ tuổi Ngọ, nam tuổi Dần - nữ tuổi Thân hãy chiêm nghiệm xem những lời thú tội dưới đây có đúng không nhé!
Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1. Nam tuổi Tý, nữ tuổi Ngọ

Một người thích tự do bay nhảy, làm việc phóng khoáng và cực kỳ thăng hoa với những ý tưởng mới. Mặt khác, người kia lại rất kỵ những người thiếu nguyên tắc, không tuân theo quy định sẵn có. Đó là trường hợp của cặp đôi nữ tuổi Ngọ và nam tuổi Tý. Hơn nữa, chàng trai cầm tinh con chuột lại luôn thích “lên lớp” đối phương, nên cô nàng tuổi Ngọ dễ bị tổn thương vì cho rằng mình không được tôn trọng.

ngo-9547-1439742005.jpg

Cặp đôi này sẽ luôn cảm thấy áp lực từ đối phương. Hơn nữa, cô nàng tuổi Ngọ thường không khéo léo trong cách thể hiện sự quan tâm với “gấu”, nên chàng càng có lý do để kết tội vô tâm, chỉ lông bông lo nghĩ chuyện không đâu.

No.2. Nam tuổi Dần, nữ tuổi Thân

Yếu điểm của chàng trai tuổi Dần là kém lãng mạn, khô cứng, nóng tính và hay dỗi. Điều đáng nói đây chính là những đặc điểm mà các nàng tuổi Thân ghét cay ghét đắng ở một người con trai. Họ cho rằng, phái mạnh thì cần ga lăng, hào hoa và rộng lượng, thay vì chỉ cần lỗi nhỏ đã giận, gây ra chiến tranh lạnh. 

than-8504-1439742006.jpg

Hơn nữa, các bạn nữ cầm tinh con khỉ lại đặc biệt “bồ kết” những lời nói hoa mỹ, cử chỉ lãng mạn. Họ lấy đó là thước đo tình cảm của đối phương. Vậy nên, nếu kết đôi, chuyện tình của nam tuổi Dần và nữ tuổi Thân sẽ sớm nở, chóng tàn.

No.3. Nam tuổi Mão, nữ tuổi Dậu

Điểm khắc tính khiến cho nam tuổi Mão và nữ tuổi Dậu không thể hòa hợp. Chàng trai cầm tinh con mèo thích sự phóng khoáng, lãng tử, đặc biệt ham chơi và khá bất cần trong chuyện tình cảm. Họ yêu theo bản năng, quyết định mọi chuyện bằng con tim, không suy nghĩ chín chắn nên bị cho là vô tâm. Cho dù chân thành đến đâu, cô nàng tuổi Dậu cũng không đánh giá cao.

dau-7040-1439742006.jpg

Với sự quyết đoán, tôn sùng chủ nghĩa hoàn hảo, cô nàng tuổi Dậu có tiêu chí rất cao trong việc chọn người yêu. Vậy nên, chàng tuổi Mão càng không phải là đối tượng phù hợp. Khi mâu thuẫn xảy ra, không ai chịu nhường nhịn, nên tình yêu sẽ sớm tan vỡ.

Mr.Bull (theo HCL)

ktt283tuoity28kienthuc-1438614-4741-4869 Top 3 con giáp nữ khiến 'đầu keo' ngán ngẩm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam

Tết nguyên đán rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Ngày tết đến người người nhà nhà sum họp vây quần bên nhau. Bên cạnh đó thì những phong tục truyền thống trong những ngày tết việt nam cũng rất quan trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cúng ông Công, ông Táo.
Ngay từ ngày 23 tháng Chạp, các gia đình Việt Nam đã dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp để cúng ông Công, ông Táo, lễ cúng truyền thống phải có cá vàng để tiễn ông về trời, mong ông sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng những điều tốt vì theo quan niệm dân gian đây là ngày mà Ngọc Hoàng sẽ trách phạt hay thưởng gia chủ dựa trên những gì mà ông Táo báo cáo.
 


2. Gói bánh Chưng
Bánh Chưng là món ăn truyền thống, lâu đời của người Việt. Ngay từ những ngày 28, 29 Tết, các gia đình Việt Nam thường gói bánh Chưng để làm quà biếu Tết và để thưởng thức. Ăn bánh Chưng để nhớ về công ơn của tổ tiên, cha mẹ và gợi nhớ đến câu chuyện vua Hùng kén phò mã từ rất lâu đời.
 


3. Hoa Tết

Ngày Tết, người Việt thường mua những cây hoa tượng trưng cho sự may mắn như: đào, mai, quất..để xua đuổi tà ma, cầu cho một năm mới luôn vui vẻ, hạnh phúc, thịnh vượng, viên mãn cho cả gia đình.
 


4. Mâm ngũ quả

Bày mâm ngũ quả cũng là một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của các gia đình Việt. Mâm ngũ quả tượng trưng cho Kim- Mộc- Thủy- Hỏa- Thổ, 5 yếu tố cấu thành nên vũ trụ theo quan niệm của Khổng giáo với nghĩa chung sâu sắc, gắn liền vơi sụ hiếu thảo và mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới.
 


5. Rước vong linh ông bà

Đêm giao thừa, người Việt thường bày biện hoa quả, đồ cúng thành mâm cỗ để dâng lên ông bà, tưởng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của năm cũ, ước mong cho năm mới sắp đến.
 


6. Hái lộc

Hái lộc đầu xuân là một nét đẹp trong ngày Tết truyền thống của người Việt. Người dân Việt Nam thường đi hái lộc vào đêm giao thừa hoặc sáng mồng một để cầu một năm mới luôn may mắn và viên mãn, rước lộc về nhà.
 


7. Xông đất

Xông đất là một phong tục rất quan trọng của người Việt Nam vì họ quan niệm rằng, người xông đất sẽ quyết định cả một năm vui vẻ, phát đạt hay không may mắn của mình. Vì thế, họ thường mời những người có vận may, có tuổi hợp với chủ nhà đến xông đát vì họ tin rằng, người đó sẽ mang may mắn, điềm lành trong suốt cả một năm. Người xông đất phải ăn mặc chỉnh tề, sau đó phải đi hết 1 vòng quanh nhà với hi vọng may mắn sẽ luôn tràn ngập.

8. Chúc Tết

Vào ngày mồng một, người Việt Nam có phong tục đi chúc Tết họ hàng, bạn bè và những người thân quen của mình.
 


9. Mừng tuổi

Ngày Tết, người Việt Nam có phong tục lì xì cho trẻ em. Phong bao lì xì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn, đoàn viên, mong ước hạnh phúc sẽ đến cho năm mới.
 
10. Tống cựu nghinh tân
Những ngày cuối năm, người Việt có phong tục quét dọn nhà cửa sạch sẽ, mua sắm đồ dùng, quần áo mới. Người lớn cũng dặn dò con cháu, trong giây phút chuyển giao sẽ không cãi cọ, không trách phạt hay mắc lỗi. Những người có hiềm khích với nhau cũng xí xóa hết, giây phút năm mới chỉ chúc tụng nhau những gì tốt lành và may mắn.

11. Xuất hành

Ngày mồng một đầu năm, người Việt Nam thường chọn giờ đẹp, hướng đẹp để xuất hành, hi vọng có năm mới may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà.

12. Thăm mộ tổ tiên.

Con cháu thường đi thăm mộ tổ tiên từ khoảng 23 đến 30 tháng chạp, sửa sang, dọn dẹp để bày tỏ lòng hiếu thảo và mời vong linh tổ tiên về với con cháu.

13. Khai bút

Ngày đầu xuân, trẻ em có tục khai bút, treo câu đối đỏ để cầu may mắn và hi vọng tốt lành sẽ đến trong năm mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd