Dáng đi theo tướng pháp Trung Hoa –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
ong từng nét vẽ, nét truyền thống trong các hình vẽ.
Khoảng mấy tháng trở lại đây , hình xăm henna trở thành một trào lưu được khá đông các teen tai các quốc gia khác có sở thích hình xăm hưởng ứng. Hình xăm henna ngày càng được yêu thích bởi những hình vẽ đẹp, uyển chuyển và điều quan trọng là ai cũng có thể thử bởi nó chỉ là tạm thời.
Một trong những lý do các bạn trẻ tìm đến Henna là do họa tiết, khả năng tạo màu rất đẹp mắt. Vy Mai Trang – một teengirl sở hữu hình xăm phượng hoàng chia sẻ: “Điểm cuốn hút nhất của loại xăm này chính là họa tiết. Họa tiết càng độc, càng lạ mắt teen mình càng ưa chuộng. Ngoài ra khác với xăm thường, chủ yếu là màu xanh, đen, thì Henna lại có nhiều tông màu hơn với các gam nâu, vàng, đỏ, thừa sức giúp bạn nổi bật trước mọi người.
Vừa sở hữu được những hình xăm ấn tượng thể hiện cá tính bản thân lại không phải chịu đau đớn như xăm đá, xăm sẹo, trào lưu vẽ henna được giới trẻ đón nhận nhiệt tình.
Ma quỷ trong Phật giáo là khái niệm rất khác so với quan điểm ma quỷ trong tâm linh dân gian. Vì thế, khi nhà Phật nhắc tới ma quỷ thì hãy hiểu sâu xa hơn, có tính triết lý hơn nhé. Ma quỷ trong tâm linh là một dạng năng lượng kì bí, ma quỷ có thể là vong linh người chết chưa siêu thoát hoặc những năng lượng xấu xa tích tụ, thường xuyên quấy nhiễu khiến con người hoảng sợ. Ma quỷ tượng trưng cho cái xấu và cái ác, có thể làm hại hoặc ám ảnh linh hồn. Ma quỷ trong Phật giáo cũng có một số nét tương đồng, là năng lượng xấu nhưng nhà Phật không cho rằng có ma thực sự mà đó là “quỷ sứ cám dỗ”. Ma quỷ không phải linh hồn mà nảy sinh trong chính mỗi con người, tượng trưng cho xu hướng tâm thần bấn loạn và sự lầm lẫn, u mê cản trở con đường tu tập của hành giả.
![]() |
![]() |
Nếu người tuổi Dần thăng chức nhờ nỗ lực, người tuổi Thìn lại dễ được đề bạt bởi quá may mắn, thường được quý nhân phù trợ.
No.1 Tuổi Dần
Sáng tạo, quyết đoán, biết cách đối nhân xử thế là những tố chất hội tụ ở những người tuổi Dần. Đây đều là yêu cầu cơ bản để bạn trở thành sếp thành công trong tương lai. Khi đã có điều kiện cần, con giáp này còn biết nắm bắt cơ hội, nỗ lực hết mình để đạt những gì mong muốn, không quan ngại khó khăn.
Cho dù trong quá trình phấn đấu, việc va chạm với đối phương là không thể tránh khỏi, nhưng bằng cách đối nhân xử thế khôn khéo, con giáp này vẫn “được lòng dân”. Do vậy, người tuổi Dần sẽ tận dụng mọi cơ hội để được cất nhắc cho vị trí quản lý. Tất nhiên, nỗ lực của họ đa phần đều thành công. Điểm trừ nhỏ duy nhất của người tuổi Hổ là nóng tính.
No.2 Tuổi Thìn
Nếu người xem boi tu vi tuổi Dần thăng chức nhờ nỗ lực, thì người tuổi Thìn lại dễ được đề bạt bởi quá may mắn, thường được quý nhân phù trợ. Trên thực tế, lối sống hòa đồng, phóng khoáng của con giáp này dễ đi vào lòng người, nên ai cũng quý trọng và sẵn sàng hậu thuẫn để họ đạt được ước nguyện.
Hơn nữa, người tuổi Rồng luôn chứng minh được mình căng tràn sức sống. Trong những hoàn cảnh khó khăn, họ vẫn mỉm cười và tìm ra giải pháp xử lý. Kết quả là công việc của con giáp này luôn thuận buồn xuôi gió. Mặt khác, người tuổi Thìn cần chú ý tránh để vấn đề tình duyên ảnh hưởng tới sự nghiệp. Bởi lẽ, con giáp này số mệnh đào hoa.
No. 3 Tuổi Hợi
Biết nhìn xa trông rộng, luôn chăm chỉ và làm việc rất tỉ mỉ, người tuổi Hợi cũng xứng đàng nằm trong top ứng viên con giáp có số mệnh trở thành sếp. Để bắt đầu một cái mới, người tuổi Hợi sẽ gặp bất lợi vì độ sáng tạo của họ chưa cao, nhưng qua bước khởi đầu, mọi việc sẽ rất hoàn hảo vì độ trau chuốt của họ.
Hơn nữa, con giáp này rất biết cách dùng người, dùng tiền. Họ phát huy năng lực của nhân viên một cách tối đa, trong khi vẫn trọng đãi họ thỏa đáng nên rất được ngưỡng mộ. Vào những hoàn cảnh khó xử, người tuổi Hợi lại có đủ sự lạnh lùng để đặt công việc lên trên hết, tránh bị tình cảm gây xao nhãng.
Địa Điểm: Chùa Bồ Đề nằm ở phố Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội (trước thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Từ trung tâm Hà Nội chỉ cần đi qua cầu Chương Dương rẽ xuống một đoạn 500m là tới chùa..
Ngày lễ chính:
Ngày 24, 25 tháng Giêng Âm lịch: ĐẠI LỄ HÚY NHẬT ĐẠI ĐỨC HÒA THƯỢNG
Ngày mùng 8 &9 tháng 4 Âm lịch: ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
Ngày mùng 5 tháng 7 Âm lịch: LỄ VU LAN
Ngày mùng 1 & 2 tháng 10 Âm lịch: ĐẠI LỄ HÚY NHẬT CỦA CHƯ VỊ TỔ SƯ
Chùa Bồ Đề tên chữ là Thiên Sơn tự nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng. Chùa xưa được kiến tạo vào cuối đời nhà Trần (khoảng 1427) trên gò đất cao nên gọi là Núi Trời, nhờ vậy có tên chữ là Thiên Sơn. Nơi chùa chính thờ Phật pháp, vương triều nhà Trần, tam toà thánh Mẫu. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.
Lịch sử: Chùa Bồ Đề được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: “Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì”. Dinh được gọi tên là dinh Bồ Đề vì lúc ấy trong khuôn viên có hai cây bồ đề to. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “Đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ.
Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 – 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.Trong chùa còn có khắc án văn Hoa Nghiêm kinh và Pháp Hoa kinh. Công đức Đại sư rất to lớn trong việc xiển dương đạo pháp.
Đầu thế kỉ XX, chùa Bồ Đề trở thành trung tâm đào tạo tăng ni của thành phố Hà Nội, trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hoà thượng Thích Trí Hải đảm trách. Năm 1946, Pháp trở lại gây chiến, trung tâm đã dời đi nơi khác. Năm 1951, thành phố bị lũ lụt lớn, chùa bị sạt lở, chỉ còn lại toà thượng điện. Năm 1971, chùa một lần nữa được trùng tu như kê kích lại toàn bộ thượng điện và xây dựng lại hậu cung phía sau, nâng cao nền chùa. Năm 1986, chùa được trùng tu nhà Tổ, hậu liêu, nhà khách, nhà Tăng, nhà bếp cũng như khu vực nhà ở của hơn 50 cô nhi đang được nuôi dạy tại chùa. Năm 1999, chùa tiếp tục xây lầu bát giác và tôn trí tượng Bồ Tát Quan Thế Âm cao 3,2m.
Hiện nay, chùa là mái ấm tình thương dành cho các em bé mồ côi, cơ nhỡ, đồng thời cũng là điểm tham quan thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.
Tới Chùa Bồ Đề ta không chỉ cảm nhận được cái không khí linh thiêng của xứ phật mà còn cảm nhận được cái ấm áp của tình thương và lòng người. Hãy 1 lần ghé thăm ngôi chùa này… Để cảm nhận một không gian thanh bình giữa cuộc sống tấp nập nơi phồn hoa đô thị… Ở nơi đó, các bạn sẽ gặp những tấm lòng vàng, những tấm lòng vẫn ngày đêm trăn trở, mang đến cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn này 1 cuộc sống tràn ngập yêu thương….. Hãy đến và chia sẻ tình yêu thương của mình, để thấy cuộc sống này thật ý nghĩa!
Từ xa xưa, việc chọn lựa đối tưởng kết hôn luôn được các bậc cha mẹ, thậm chí những người trẻ tuổi quan tâm. Bởi vì, đây cũng xem như là yếu tố giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và viên mãn về sau. Nếu bạn đã có hoặc chưa có đối tượng, hãy cùng tham khảo để tìm được ý trung nhân hợp tuổi và có hạnh phúc trọn vẹn trong năm nay nhé!.
1. Tuổi Tý và tuổi Thìn
Chuyện tình cảm của cặp con giáp này trong năm Bính Thân khá chật vật và bất ổn. Đặc biệt những cặp đôi có sự cách biệt về tuổi tác khá lớn đã khiến họ khó giữ hòa khí hơn. Tuy nhiên, với năm Đinh Dậu 2017 này, tình yêu của họ sẽ chuyển sang trang mới. Nếu như cặp đôi này đi đến hôn nhân thì quả là một định sáng suốt. Khi về chung một nhà, tình cảm của họ sẽ được nâng đến tầm cao mới, thậm chí sẽ nồng nàn như thời mới yêu.
Ảnh Internet
2. Tuổi Thân & tuổi Tý
Năm vừa qua chính là năm tuổi của các cá nhân tuổi Thân nên họ như vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần, nằm chờ hồi sức vậy. Vì vậy, khi bước sang năm Đinh Dậu, vận mệnh của tuổi Thân sẽ có bước chuyển biến mới, đặc biệt là chuyện tình cảm. Nếu những cô nàng, anh chàng tuổi Thân có người yêu tuổi Tý thì hãy mau mau nghĩ đến chuyện kết hôn trong năm nay nhé. Các bạn nhất định sẽ hạnh phúc khi "về chung một nhà" và xây dựng tổ ấm hạnh phúc về sau.
3.Tuổi Dần & tuổi Ngọ
Trong năm 2017 này, tuổi Dần sẽ phải đón nhận trọng trách lớn trong công việc. Dù vậy nhưng mọi thứ rồi cũng suôn sẻ, đâu vào đấy nên con giáp này cũng đừng quá lo lắng. Mà thay vào đó, chuyện hôn nhân trong năm nay sẽ rất tốt đối với tuổi Dần. Sẽ tuyệt vời hơn nữa nếu, cô, cậu tuổi Dần kết hôn với những người tuổi Ngọ thì chắc chắn hai bạn sẽ có hạnh phúc tuyệt vời. Không những thế khi về chung một nhà, cả sự nghiệp lẫn tiền tài của cả hai sẽ phất lên như diều gặp gió.
Ảnh Internet
4. Tuổi Mão & tuổi Hợi
Vỗn dĩ hai con giáp này nằm trong "tam hạp", tức về cơ bản nếu kết hợp với nhau đã tốt rồi, nay còn tính chuyện hôn nhân thì không gì hợp hơn nữa. Cả hai con giáp đều là những người trân trọng giá trị gia đình, sống tình cảm, và nếu kết hôn năm 2017 thì vô cùng tuyệt vời. Kể cả rằng tuổi tác có cách nhau xa đến mấy (như Quý Hợi 1983 và Quý Mão 1963 chẳng hạn), vẫn có thể có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc nếu cả hai cùng biết chia sẻ, quan tâm lẫn nhau. Điều đặc biệt, năm 2017 này lại là năm tình yêu bùng cháy đối với hai con giáp này, nếu như cả 2 vẫn còn độc thân thì hãy nhanh chóng tìm bạn đời tuổi này để có được hạnh phúc viên mãn nhé!
An xong Mệnh bàn, chỉ thấy hơn mười tinh diệu bày đầy bàn, có khi thiện ác lẫn lộn. Xem Mệnh cung đóng ở đất nào, cũng tức là sao nào đồng cung là chủ yếu. Thứ nữa là xem cung Thân cùng với sao nào đồng cung. Thứ ba thì xem xét tam phương tứ chính của Mệnh cung và Thân cung xem có cát diệu nào củng chiếu hoặc không bị Dương Đà Hỏa Linh tứ sát trùng phá, sau đó lại xem Giáp-Củng (củng: chiếu về, Giáp: kẹp bên cạnh - ND) như thế nào? Cùng với Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên di và Phúc Đức như thế nào.
Mệnh Thân hai cung là quan trọng nhất, nếu được Nam Bắc hai hệ sao miếu vượng thủ trị mà Tam phương lại được các cát diệu củng chiếu mà không bị Tứ Sát, Không Kiếp, Hao Kỵ hội nhau trùng hợp hay giáp thì không cần biết Mệnh Thân đóng cung nào đều kết luận là đẹp.
Nếu lại được hợp Cục, nhập Cách, thêm cát tinh củng chiếu, giáp biên thì là đẹp lại càng thêm đẹp, thật là tối mỹ vậy.
Nếu thấy Mệnh cung, Thân cung đều mạnh, mà ba cung Tài-Di-Quan cũng đều có cát tinh đầy đủ hội hợp thì Mệnh này tất thuộc loại phi phàm. Là người trưởng thành thì có cả phú lẫn quý (Chú ý: Quan lộc cung tốt thì đoán là Quý, nếu Tài bạch cung mà thắng Quan lộc cung thì đoán là Phú, còn nếu thấy Tài Quan đều đẹp thì đoán là phú quý song toàn. Riêng Mệnh mà đạt Phú Quý song toàn thì nhất định phải nhập các cách tốt như “tam kỳ gia hội”, “tướng tinh đắc địa”, “minh châu xuất hải”, “Nhật chiếu lôi môn”, “Hùng tinh triều viên”, nếu không thế thì nên cẩn thận, không thể đoán bừa). Nếu là người thiếu niên thì cũng có thể đoán ngày sau ắt sẽ phát đạt.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp 6 cung Mệnh Thân cung Tài Di Quan Phúc đều mạnh, nhưng đại hạn thì lại bị Hình Tù Hao Kiếp nhàn hãm, hoặc ngộ Tứ sát, thì tức là loại “mỹ ngọc hà điểm” (ngọc đẹp có vết), tuy đẹp mà không toàn diện, độ số giảm mạnh, thì chỉ đoán là Trung cách bình thường.
Nếu Mệnh Thân cùng Tài Quan Di Phúc đều tốt, mà tam phương tứ chính lại có một hoặc hai trong nhóm Dương Đà Hỏa Linh thì dù rằng Mệnh có nhập cách đi nữa, cùng không thể luận là đẹp.
Còn nếu như không nhập cách, thì đoán là một đời sầu não. Nếu như Đại hạn mà đến đất nhiều Hung ít Cát thì khó tránh được tại nạn, lo sầu phát sinh.
Mệnh cung mà có Cát tinh và Hung tinh cùng đóng, mà Tam phương được cát tinh chiếu về, là chủ về một đời trục trặc không thông suốt, gặp được đại hạn tốt thì cũng thành công không nhỏ. (chú ý: Hung tinh mà bình hãm thì yếu, kể như không. Cát tinh mà bình hãm thì lại chỉ luận là khiếm cát – tốt ít mà thôi. Tuy đại hạn cực tốt, thì cũng khó thông đạt, ngoài ra lại chủ về người tính tình bất ổn, yêu ghét khó định).
Nếu như thấy Mệnh cung có Cát tinh thủ đóng, nhưng Tam phương lại có cả Hung tinh, Cát tinh chiếu về thì tức là “tú nhi bất thực” – Cây mọc mà không ra quả (Chú ý: chỉ cần thấy 1 sát tinh trong Tứ sát, hoặc Không Kiếp cũng kết luận là thế). So với người mà có Mệnh cung cùng có sát tinh bình-nhàn tọa thủ, cũng không khác là mấy (xem đoạn trên).
Đại khái, Tam phương chỉ là ba cung Tài – Quan – Di mà thôi, đều không nên có sát tinh đóng ở đó, nhập Tài thì tổn tài, nhập quan thì công danh lận đận, nhập Thiên di thì chủ về ra khỏi nhà nhiều nạn, cũng trực tiếp ảnh hưởng đến Tài-Quan vậy. (Chú ý: Nếu như tam phương thấy tứ hung Sát Phá Liêm Tham, người thường ngoài việc không ngại tai họa của Tứ sát, còn chủ về cá tính cứng rắn, ý chí kiên định, riêng những người binh nghiệp thì ngược lại rất tốt. Tuy nhiên, nếu Mệnh có Thất sát bình – nhàn tọa thủ, hoặc chiếu về thì chung quy vẫn là bất lợi).
Thường là Mệnh mà có Trường Sinh, Đế vượng, hay Lâm Quan lại được cát tinh thủ chiếu thì cuối cùng cũng phát đạt.
Người theo binh nghiệp thì sẽ tốt nếu được Bác sĩ, Thanh long, Tướng quân cùng thủ Mệnh Thân, lại không gặp Sát tinh Củng – Giáp, nhất định không thể không tốt. Nếu chỉ riêng Mệnh Thân đều đẹp, lại không có Tứ sát, ác tinh hội hợp thì vẫn còn chưa đủ. Cần phải Tài-Quan-Di tam phương đều có cát tinh hội hợp thì mới luận là đẹp (Chú ý: Mệnh của Ngô Bội Phu tướng quân là như thế). Nếu không phải thế thì giảm nhiều tốt đẹp, hoặc giầu có mà không quý hiển, hoặc quý mà không phú, hoặc phú quý có lấy được cũng chẳng hề dễ dàng. Chỉ là đi ra ngoài thì được đôi chút thuận lợi mà thôi.
Đại để, Mệnh Thân đều tốt, mà cung Quan lộc cũng tốt thì tuy cung Tài có chút khiếm khuyết cũng vẫn chủ về được bổng lộc, không đến nỗi phải lo về cơm áo. Nếu mà Tài Quan hai cung đều tốt, nhưng cung Quan có đôi chút khiếm khuyết thì phần nhiều là người thường, người buôn bán hay làm kỹ nghệ, cũng đều không phải lo lắng đến cơm áo y thực. Cả hai trường hợp trên nếu mà lại có Thiên di khiếm khuyết, chủ về một đời vất vả, khó khăn với người khác, người thường khó mà thành thịnh vượng được, quan lại thì khó lòng thăng tiến.
Riêng Tài-Quan mà đã khiếm khuyết, nếu như Thiên Di lại cũng khiếm khuyết, thì kể cả Mệnh Thân hai cung có tốt đi nữa, cũng khó lòng mà được “Bình bộ thanh vân” (nhẹ bước đường mây) toại tâm toại ý được, không những thế, lại thêm một đời phiền lo, cô đơn kém vui, thậm chí khổ não vì nghèo khó quanh năm.
Nếu như Mệnh Thân trở thành bác tạp (tốt xấu lẫn lộn) khiếm khuyết, mà ba cung Tài-Quan-Di cũng đều không tốt, nhưng lại có Phúc Đức, Nô Bộc, Phụ Mẫu tốt, thì đoán là một đời kiêu ngạo (dựa dẫm nhờ thế lực gia đình, không làm nên trò trống gì), Mệnh Thân có thêm Hình Kỵ Hao Tù Tử Tuyệt cũng với Tuần Triệt Không Kiếp hoặc Cô Thần Quả Tú hội hợp thì càng nặng nề.
Nam giới thì cung quan trọng là 9 cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc, Thê, Nô, Huynh Đệ. Riêng có 6 cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc là tối quan trọng. Nữ giới thì quan trọng là Mệnh, Thân, Phúc, Phu, Tử, Phụ Mẫu, Huynh Đệ, nhưng quan trọng nhất là 4 cung Mệnh, Thân, Phu, Phúc.
Có điều, Mệnh Thân cả nam lẫn nữ cùng với Phúc Đức, Thiên Di đều không nên có Thất sát tọa thủ. Nếu như Mệnh có Thất Sát tọa thủ, ở vào cách “Ngưỡng đẩu, Triều đẩu” mà hợp cục, nhập cách – đàn ông thì cứng rắn mà phú quý nhất thời, nhưng cuối cùng ắt sẽ không đẹp (chú ý: Như Viên Thế Khải là chính gốc cách “Thất sát triều đẩu” chết đột ngột năm 58 tuổi là một ví dụ). Nếu không nhập cách thì luận là rất không tốt, không có sát tinh hội hợp thì tính tình quái gở, bảo thủ quá mức, dễ với mình mà khó với người, cuối cùng rồi thì sẽ gặp tai ách. Nếu có sát tinh giao hội, chủ về bần tiện cô quả, cũng chủ về gian tà bừa bãi, một đời khó có thể phát đạt. Nếu như lại có Thất sát trùng vào Mệnh thì họa không phải là nhỏ, cả đời không có ngày thành đạt. lại chủ về ra ngoài thích tranh giành, mọi việc so đo tính toán, không gặp nhân duyên, cầu mưu không thành. Nhập vào Nô bộc thì thường bị người xâm hại, chủ giao kết với bọn băng đảng, thuộc loại bất tình bất nghĩa. Đóng vào Phúc Đức thì phúc bạc, tối tăm hèn mọn, bại hoại thuần phong, cũng chủ về một đời dung tục, không có chút chí lớn nào.
Đàn bà mà nếu có Thất Sát thủ Mệnh, nếu không phải là Sinh vượng, Miếu Vượng, không bị Sát tinh hội hợp, thì chủ về cô đơn lạnh lùng, gàn bướng, tính khí làm việc như đàn ông, hình khắc nặng nề. Nhập vào cung Thân thì họa không nhỏ, chủ về một đời lao khổ, Thân thể lại dị thường, đóng vào Thiên di thì thích tranh giành, thường gây thù chuốc oán với người, này sinh oán hận. Rất không nên đóng vào Phúc đức, không chủ về kỹ nữ, tỳ thiếp thì cũng chủ về dâm tiện, hình phu khắc tử, tư thông với người khác mà lo lắng.
Đàn ông được Sát Phá Liêm Tham hội hợp, tuy không gặp sát tinh nhưng cũng chủ về thăng trầm vô độ, có sát tinh thì một đời lo lắng, tai họa liên miên khó có ngày nào yên, nếu mà lại gặp sát tinh Hao Kỵ Không Kiếp ắt là sẽ nay đây mai đó trôi dạt khắp nơi, là người tứ xứ phiêu đãng. Riêng gặp Vũ Phá Liêm Tham trùng hợp mà không gặp Thất Sát và Tứ sát giao hội, lại có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu Tử Phủ hội chiếu thì vẫn là thượng cách, ắt sẽ phú quý. Đàn bà mà gặp cách này thì là người hiền năng, kiên trinh, tài trí hơn người mà lại vượng phu ích tử.
Mệnh cung có Thất Sát Liêm Trinh hợp thủ (Liêm Sát sửu mùi), bất luận đóng ở đâu, trai gái đều bất lương. Mệnh Thân đều có Sát-Liêm chia nhau đóng cũng thế.
Mệnh cung mà có Tham Lang Liêm Trinh hợp thủ, hoặc Mệnh Thân chia nhau mỗi cung một sao, Nam nữ đều dâm tà. Phần lớn Tham Lang đóng ở Mệnh Thân cung mà hãm địa, đều là người đam mê tửu sắc, nữ nhân thì ai cũng có thể làm chồng. Nếu có một sao Liêm trinh độc thủ Mệnh Thân, nam nữ tuy không tránh được chuyện tửu sắc, nhưng so với Tham Lang thì vẫn còn là tốt.
Xem người có tài trí hay không, thì xem Mệnh Thân của người ta có Xương Khúc Khôi Việt hay không, rất tốt đẹp nếu có cả 4 sao này hội hợp. Gặp được một hai sao này cũng chủ về người thông minh tài trí. Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu Mệnh Thân, cần phải xem có sát tinh xâm phạm không, xem cả nơi chỗ đóng sinh khắc như thế nào… Đại để, nếu gặp Hình Sát hoặc đóng vào đất khắc, thì Văn tinh bị hại, phần nhiều là kẻ không có thực học, lại là kẻ xảo quyệt gian trá, thích ghen ghét, phản phúc vô thường. Thân có Văn Khúc ở Sinh Vương địa, mà Mệnh có Văn Xương thủ chiếu, nếu 3 cung Mệnh-Tài-Di lại khiếm khuyết thì ắt là người đam mê sách vở thi ca, khó lòng quý hiển, một đời làm thanh hàn bần sĩ.
Mệnh gặp Vũ Tham Hỏa Linh miếu vượng mà không có Không Kiếp Hình Tù Hao Kỵ hội hợp, đàn ông dễ thành công trong quân đội, phú quý có đủ, đàn bà thì quyền hành thay mặt chồng, cũng chủ về tài trí song mỹ, chí khí hơn cả nam nhân.
Tử vi hoặc Thiên phủ thủ Mệnh, mà Tam phương không bị sát tinh, Nam Nữ đều chủ tốt đẹp, nhất là 2 sao đồng cung, hoặc chia nhau đóng vào Mệnh Thân thì rất tốt, Tử vi trao quyền cho Thất sát, có thể chế được hung họa. Cho nên, phàm là Thất Sát đóng ở Mệnh Thân, nên gặp Tử vi thủ chiếu, nếu không thì là đại kỵ.
Cự môn là sao của thị phi, đóng ở Mệnh Thân thì cần phải miếu vượng hoặc gặp Thái Dương. Nếu đóng ở chỗ hãm thì dù cho có gặp Thái Dương vượng cũng là khiếm cát (không tốt), rất kỵ gặp Tứ sát trùng hợp, ắt chủ về đang vô sự lại sinh thị phi, một đời khó làm nên vậy.
Mệnh gặp Không Kiếp thủ chiếu, dẫu cho có nhập cách cũng phí uổng, khó có cơ hội vượng đạt. Gặp hai sao này đồng cung đóng vào Mệnh, nhất định chủ về người thay đổi điên đảo, trăm sự khó thành. Hai sao này đồng cung đóng vào Mệnh thường chủ về tai họa lớn bất ngờ, cần phải có Cát tinh giải cứu. Không Kiếp giáp Mệnh, cả đời không toại chí, thuở nhỏ thường gặp tai nạn. Hai sao Không Kiếp đóng vào cũng nào cũng bất lợi, gặp chỗ miếu vượng thì có thể giảm nhẹ được tai họa.
Cung Tật ách mà có sát tinh tọa thủ, lại hội thêm sát tinh, thường gặp phá tướng, hoặc Thân thể tàn tật, bằng không thì đến trung niên khó tránh được hung hiểm.
Cung Phụ mẫu mà có sát tinh tọa thủ, lại hội thêm sát tinh, mà Mệnh Thân không gặp Tang Điếu Hình Hổ thì chủ về song Thân không toàn.
Đây mới chỉ được phần xem Mệnh, bài viết không nhiều nên không lấy từng cung một để thuật rõ, mà chỉ cố gắng khái quát. Xin kết thúc ở đây.
(Bài viết sưu tầm)
1. Dòng xe cộ đi lại và cửa chính
Hiện nay có rất nhiều nơi kinh doanh, các khách sạn ngày càng gần những con phố lớn, trước cửa, người xe qua lại, khi chọn mua hoặc thuê dùng những nơi như vậy, có thể theo phương hướng cửa xe cộ đi lại của đường chính để phán đoán sự tốt xấu, hung cát của những toà nhà này, khi lựa chọn mua càng phải cẩn thận hơn.
Cửa vào của toà nhà thương mại ỏ trung tâm phía trước (cửa chu khuyết), không cần phải hiểu rõ phương hướng đi của xe cộ, trong trường hợp này, phải theo cát luận. Tốt nhất phía trước cửa vào có một khoảng trống hoặc be nước, công viên… về cát luận đó là chủ vượng tài.
Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại theo hương phải trái (đi theo hương từ Bạch hổ đến Thanh long). Lúc này phía trước toà nhà mở gần phía trái (cửa Thanh long) để lấy cát luận, toà nhà này có thể mua.
Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại theo hướng trái phải (từ hướng Thanh long đến Bạch hổ). Lúc này, cửa phía trước của toà nhà mở phía phải (hạch hổ môn), có được từ cát luận, tòa nhà này có thể mua.
Phía cửa trước của tòa nhà, lại không có đường lớn, đều là mặt bằng thì dùng cửa mở giữa phía trước và mở phía trái trước là cát luận.
2. Toạ thực
Phía sau toà nhà là núi, tất nhiên thuộc vế toạ sơn, nếu đằng sau toà nhà không có núi thì cần quan sát những điểm sau:
Phía sau toà nhà, nếu có một toà lầu rộng, cao lớn sẽ thuộc chỗ ngồi phía sau có tựa, cũng thuộc vào bố cục của toạ thực.
Phía sau toà nhà, có toà nhà khác cao bằng với toà nhà nơi bạn mở cửa hàng, bời vì toàn thể toà nhà quần tụ với nhau, lực lượng cũng được tập trung lại, có thể làm trụ vững cho toà nhà, cũng thuộc vào bố cục dựa sau, tức là toạ thực.
Phía sau toà nhà, có một ngọn núi nhỏ, nhưng độ cao lại thấp hơn toà nhà của mình, nhưng vì đây là ngọn núi tự nhiên, cho nên cũng có thế làm núi tựa, bởi vì môi trường tự nhiên có khá năng ảnh hưởng rất lớn dối với phong thủy. Toà nhà này thuộc vào chỗ dựa sau cũng được gọi là một kiểu của toạ thực.
Phía sau toà nhà tuy có các toà nhà, nhưng lại thấp hơn tòa nhà của bạn thì thuộc vào loại không có chỗ tựa.
3. Tú thủy ngũ tướng
Căn cứ vào nguyên tắc thông thường, phía trước cửa toà lầu thương vụ có bể nước hoặc vòi phun nước là rất tốt. Nhưng có một điểm cần phải chú ý, căn cứ vào nguyên tắc huyền không phỉ tinh phong thủy, nếu cửa chính của toà nhà thương vụ là hướng Tây, tức là trước cửa nhà không thể nhìn thấy nước, nếu có nước là chính thần hạ thủy, sẽ bị phá sản.
Tú thủy có ngũ tướng
Nước phải trong sạch – có ý nghĩa dùng phương pháp kinh doanh chính đáng để kiếm tiền, tài vặn vượng phát.
Khí vị sạch mới (có một số nơi vòi phun nước còn có mùi thơm) – là thượng cát, chù tụ tài.
Nước chảy bình lặng hoặc tắc thanh tế có điệu (minh hà thủy) – chủ có thể thích hợp với việc kiếm tiến, tài lộc đến từ các phương.
Hình dáng nước có tình (hừu tình thủy) – dòng chảy hoặc hình tròn hoặc hình bán nguyệt vây quanh phía trước, chủ tụ tài.
Thủy phải dương vận (linh thần thủy) – chú tài vận lập tức tốt lên (ví dụ vận 8 tại phương Nhất Bạch gặp nước).
Ác thủy có ngũ tướng
Thủy chất ô nhiễm (ô tuế thủy) – chủ phá sản hoặc không thể kiêm cử kim tiền.
Khí vị tinh sầu (tinh sầu thủy) – chủ thân thể không khỏe mạnh, tài miên bất tụ như mình kênh chi thủy.
Dòng chảy nếu quá mạnh (nộ tu thủy) – dòng chảy tiếng quá lớn, thường gây phá sản hoặc là chủ gia bất ổn.
Hình dáng nước nếu vô tình (vô tình thủy) – dòng chảy ngược hình cung, chảy tam giác, chủ tài miên bất tụ.
Thủy kỵ thất vận (thất vận thủy) – chủ tài vận tiết tiết thoái lui (gặp nước ở phương dương vận).
Trong phong thủy học, nhà ở vuông vức là tốt lành. Đó là những ngôi nhà có hình vuông hoặc hình chữ nhật, bôn phía không có góc khuyết, lại đôi xứng trái phải.
Sông trong những ngôi nhà như vậy, theo nguyên tắc phong thủy học, hình dáng nhà vuông vức thì năng lượng khí sản sinh dòng lưu động tuần hoàn cân bằng, đem lại ảnh hưởng tốt đôi với thể chất và tinh thần cho chủ nhà, còn đôi với kiểu nhà nhiều góc cạnh thì khí bên trong ngưng trệ hoặc lưu chuyển không theo quy luật nào, khiến cho sự phân bố của trường năng lượng không đồng đều, mất cân bằng, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe và tinh thần của chủ nhà.
Nhìn từ quan niệm khoa học hiện đại, hiệu suất sử dụng của căn phòng vuông vức là rất cao, sắp xếp đồ gia dụng cũng thuận tiện và rất có lợi cho việc thông gió, lấy ánh sáng tự nhiên, ở trong những căn phòng như vậy, chủ nhà sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu.
Tuy vậy, đã có rất nhiều công ty đầu tư và phát triển nhà đô thị ngoài việc thiết kế ra những toà nhà có nhiều phòng vuông vức thì họ cũng tạo ra những căn phòng có nhiều góc cạnh với giá rẻ hơn những căn hộ kia, vừa để tận dụng mặt bằng vừa có thể thu được lợi nhuận cao nhất trên khu đất họ khai thácể Bởi vậy, khi chọn mua nhà chung cư, nếu bạn chỉ đủ tiền để mua một căn hộ có nhiều góc cạnh thì phải chú ý đến môi trường xung quanh để khắc phục hung tướng.
Ngày nay nhiều người cho rằng, để chứng tỏ được mức độ giàu có của mình thì phải sống trong “nhà cao cửa rộng”, mặc dù nhà có bốn người nhưng vẫn sống trong căn hộ hơn 200m2. Trong điều kiện kinh tế cho phép, sống trong căn nhà có diện tích rộng rãi một chút sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, song phong thủy học cho rằng, nhà ở cần tụ khí, diện tích nhà quá lớn mà nhân khẩu ít, khí trường của người (hay còn gọi là hơi người) tán mà không tụ, âm khí nặng mà dương khí suy giảm, sẽ dẫn tới sự mất cân bằng trạng thái khí trường
Trái với trường hợp trên, có người eo hẹp về điều kiện kinh tế, chỉ có thể ở trong căn nhà cấp 4 chật chội. Bốn, năm người sông trong một căn hộ vài chục m2. Điều này cũng không tốt bởi sông trong không gian chật hẹp, không khí tù túng, rất khó lưu thông hô hấp, đương nhiên là không có lợi cho sức khỏe và tinh thần của người sông trong căn nhà. Nhìn từ góc độ phong thủy học, không gian quá tù túng thì trạch khí bị đình trệ, đó là điều đại kỵ.
Vì vậy, diện tích nhà và nhân khẩu theo một tỷ lệ vừa phải, sẽ mang lại cho người sống một không khí đầm ấm, vui vẻ, thịnh vượng. Để chọn được căn hộ thích hợp, bạn có thể tính diện tích theo những cách sau:
– Lấy tổng số tuổi của những người trong gia đình nhân với 1,1 m2.
Ví dụ: người chồng 30 tuổi, người vợ 25 tuổi, đứa con nhỏ 1 tuổi, tổng số tuổi là 56. Vậy diện tích thích hợp của mặt sàn nhà ở khoảng 56 x 1,1 = 62m2 là vừa.
– Cách tính diện tích nhà cho 3 thế hệ
+ Ông bà và các cháu trên 18 tuổi cần khoảng 20m2/người
+ Hai vợ chồng cần 50m2
+ Các cháu từ 16 – 18 tuổi cần 15m2/cháu
+ Trẻ nhỏ chưa đến tuổi đi học cần 10m2/trẻ
Thực tế, diện tích nhà ở đã vừa phải chưa chủ yếu quyết định bởi số người ở là bao nhiêu và cũng không có một chuẩn mực chính xác. Nguyên tắc chung là: Rộng mà không bỏ trông, hẹp mà không chật chội, thuân tiên dễ chiu, hài hoà là đươc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Có một người bị mù và một người bị què chân sống chung với nhau trong một gia đình, trong đó có vài người khác cùng chung sống để giúp đỡ cho họ. Song một hôm những người kia đều có việc phải ra ngoài, người đi câu cá, người đi mua sắm, người đi chơi, người mù và người què là những người còn lại trong nhà.
Trong cái ngày đặc biệt ấy căn nhà bỗng xảy ra hỏa hoạn, người mù không thấy được đường nên không thể thoát ra được. Người què thấy được, nhưng không có đôi chân lành lặn để đi ra. Thật nan giải! Chắc chắn họ sẽ bị chết cháy thôi!
Lúc đó, có một vị thiện tri thức cho họ lời khuyên: ” Các anh đều có thể thoát được nạn cháy, có thể thoát ra được ngôi nhà lửa này. Làm cách nào để thoát? Người mù hãy sử dụng đôi mắt của người què và người què sử dụng đôi chân của người mù.” Họ liền theo chỉ dẫn của thiện tri thức.
Có phải người què móc mắt của mình ra rồi gắn vào hốc mắt của người mù chăng? Bất kỳ một cuộc giải phẫu với phương pháp ấy đều thất bại cả. Nếu như người ta tìm cách gắn đôi chân của người mù vào thân của người què cũng đều là vấn đề nan giải, vượt qua ngoài quy luật tự nhiên. Thế thì họ làm sao?
Họ tạo ra một tình huống tốt nhất bằng cách người mù cõng người què.
Người què có mắt nên hướng dẫn: ” Quẹo phải, quẹo trái, đi thẳng,”
người mù có đôi chân, tuy không thấy đường nhưng có thể ( Tin ) nghe được lời chỉ dẫn của người què. Nhờ nghe lời khuyên đúng lúc và hợp lý, cả hai đều tự xoay xở để tự cứu được mình.
Thưa, nếu chúng ta chỉ đơn thuần có Niềm Tin mà không được Trí Tuệ soi sáng,
chúng ta sẽ bước những bước chân (hành động) mù lòa.
Nếu chúng ta có Trí Tuệ mà không có Niềm Tin, chúng ta có cái ” thấy xa trong rộng ” nhưng lại hạn chế bởi sự què ( không hành động ) nên rốt cùng cũng không có lợi ích chi.
Niềm Tin và Trí Tuệ là đôi cánh bất khả phân của người tu Phật vậy.
Thích Tánh Tuệ
Nhà ở là một vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của chúng ta, một căn nhà tốt về mặt phong thủy đảm bảo cho gia đình được êm ấm hạnh phúc, tiền bạc làm ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo. Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống.
Vì thế, khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và thuật phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phương cách hóa giải cũng có rất nhiều và đa dạng phong phú. Tuy nhiên, chọn lựa phương cách hóa giải phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà cần phải nghiên cứu từng bước một.
Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm căn nhà
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một suy nghĩ sai lầm bởi một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà đúng hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm ngay giữa nhà thì cũng không tốt.
Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không. Khi xét phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ quên đặc điểm khác.
Nhận biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà.
Phân loại các khuyết điểm về phong thủy
Âm dương: Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm. Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc mang nhiều khí xấu đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
Hình thể nhà và đất: Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối.
Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Những trường hợp như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa, phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc…đều gây ra những ảnh hưởng không tốt cho gia chủ.
Những tác hại xấu do bên ngoài như ngã ba đâm vào, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí không đúng phương cách như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
Các phương cách hóa giải
Với gia đình của người lớn tuổi, nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu muốn hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc để bài trí trong nhà.
Trái lại, vợ chồng son trẻ không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Đoan Trang
![]() |
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch.
Điạ điểm: xã Yên Duyên, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Khát Chân (thành hoàng), Bà Chúa.
Nội dung: Quy định lễ hội bơi chải Yên Duyên khá nghiêm ngặt. Người được tuyển vào đội bơi phải kiêng “trần tục” trước 7 đến 9 ngày, ăn ngủ tập trung để bảo đảm ngày xuống chải thân thể tinh khiết. Thông lệ, hội bơi được mở trong ba ngày từ 13 đến 15 tháng 8 (Âm lịch). Ngày đầu là nội dung “bơi thờ”, nghĩa là làm lễ khai quang chải (dụng cụ chèo thuyền) và các cụ bô lão bơi vòng quanh một vòng, ngày thứ hai “bơi lèo” là giải vòng loại để chọn các đội xuất sắc vào vòng chung kết, ngày thứ ba là “bơi giải”.
Lễ hội bắt đầu với nghi thức trang nghiêm. Các cụ lão trượng xuất hiện với trang phục áo dài đỏ, đội khăn xếp vàng, dây đai lưng màu, bước trên chòi trống hình tám mắt in trên thuyền rồng, có kết hoa và giải lụa vòng quanh. Cụ “Cả Trượng” đánh ba hồi chín tiếng trống. Dứt hồi trống cuộc thi bắt đầu, những “cây chải” (cây chèo thuyền) rẽ sóng đưa bốn con thuyền lao trên mặt nước như bốn con rồng, mỗi thuyền rồng là một màu áo, đầu rồng và đuôi được sơn son thếp vàng, cờ xí rực rỡ.
Trên bờ sông, mọi người nhất loạt hò reo cổ vũ cùng với tiếng cồng la của người bắt nhịp, tiếng trống thúc giục của cụ “Cả Trượng”, tiếng “rằm bơi” của các chải đập liên hồi xuống mặt nước, hoà quyện vào nhau, tạo nên âm thanh sống động… Khoảng cách điểm xuất phát bơi tới đích dài một cây số, mỗi lèo bơi 3 vòng và đều chấm giải: nhất, nhì, ba, tư. Để giành chiến thắng, các tay chèo phải khổ công rèn luyện để có sức khỏe dẻo dai và có tính đồng đội cao trong thi đấu.
Thời gian: Tổ chức vào ngày 15 tới ngày 20 tháng 8 âm lịch (chính hội vào ngày 18 tháng 8).
Địa điểm: Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, Thiên Thành Công Chúa - phu nhân Đại Vương, Hoàng Thái Hậu Quyên Thanh Công Chúa - Phu nhân Trần Nhân Tông, Anh Nguyên quận chúa - phu nhân Phạm Ngũ Lão.
Nội dung lễ hội: Ngày nay 20/8 âm lịch mới là chính hội nhưng một vài ngày trước đó khách thập phương đã nô nức kéo về, thuyền đậu chật bến sông. Ngày hội chính được tổ chức rất long trọng, mở đầu bằng lễ dâng hương của chính quyền địa phương. Đại diện chính quyền đọc diễn văn ca ngợi công đức của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, ca ngợi thắng lợi của cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông và giữ lại không khí oanh liệt, hào hùng của dân tộc hơn bảy trăm năm trước, đồng thời biểu dương tinh thần đại đoàn kết và lòng yêu nước của nhân dân ta. Sau lễ dâng hương là đại lễ với nghi thức tế uy nghiêm. Sau lễ tế là đến lễ rước, đây là một nghi lễ rất quan trong của lễ hội, Người được chọn chèo thuyền xem đó là một điều vinh hạnh lớn, việc chuẩn bị thuyền rước cũng quan trọng không kém.Tất cả các thuyền rước đều được trang trí những dải vải đỏ ở mạn thuyền, trên thuyền chăng đèn kết hoa rực rỡ. Riêng thuyền rước Long kiệu trang trí vải màu vàng ở mạn thuyền, trên thuyền trang trí cờ hoa màu vàng.lễ rước không giới hạn trong một địa phương mà nó là đám rước của toàn dân, quy tụ người từ khắp nơi với nhiều loại phẩm vật dâng lễ của các vùng miền. Khi lễ rước bắt đầu Bài vị Ðức Thánh Trần được rước trên Kiệu sơn son thiếp vàng, đi qua Tam Quan hướng tới bờ sông. Từ đây kiệu được rước lên thuyền rồng. Cuộc rước kéo dài khoảng 2 giờ, sau đó lại rước Ngài trở lại đền để làm lễ tạ - đồng thời kết thúc ngày hội lớn.
Phần hội khá phong phú và đa dạng đan xen phần lễ với nhiều cuộc thi như thi làm cỗ tiễn thánh, đua thuyền, đấu vật, hát dân ca, quan họ…. Một trong những trò diễn hấp dẫn của lễ hội Kiếp Bạc là đua thuyền trên sông Lục Ðầu với hàng trăm chiếc thuyền lướt như tên bắn cùng trống thúc, chiêng dồn và tiếng hò reo dậy đất náo nức lòng người. Trảy hội Kiếp Bạc được sống lại không khí ra trận năm xưa của Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, mỗi người dân Việt Nam càng thấy tự hào hơn về lịch sử vẻ vang của dân tộc mình.
Thời gian: Tổ chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn 14 vị vua Trần.
Nội dung lễ hội: Hội đền Trần diễn ra từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng năm. Những năm chẵn hội mở to hơn năm lẻ. Song không đợi đến chính hội, khách thập phương đã nô nức về trẩy hội đền Trần. Hành hương về cội nguồn ai cũng mong muốn điều tốt lành, thịnh vượng. Trước sân đền phấp phới lá cờ đại - lá cờ truyền thống với năm màu rực rỡ biểu trưng cho ngũ hành, hình vuông biểu tượng đất (âm), rìa tua hình lưỡi liềm biểu tượng trời (dương). Chính giữa cờ hội thêu chữ "Trần" bằng chữ Hán do hai chữ "Đông" và "A" ghép lại.
Lễ hội được cử hành trang nghiêm. Nghi lễ được diễn ra với các lễ rước từ các đình, đền xung quanh về dâng hương, tế tự ở đền Thượng thờ 14 vị vua Trần. Lễ dâng hương có 14 cô gái đồng trinh, đội 14 mâm hoa đi vào đền trong tiếng nhạc lễ dâng lên 14 ngai vua. Nghi lễ này là hồi ảnh của cung cách triều đình phong kiến xa xưa.
Phần hội có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá phong phú, độc đáo như chọi gà, diễn võ năm thế hệ, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn, múa bài bông. Chính những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo này đã tạo cho hội Đền Trần sức hấp dẫn và cuốn hút du khách thập phương.
Lễ hội Đền Trần là một trong những lễ hội truyền thống lớn, niềm tự hào của mỗi người dân Nam Định khi nhớ về cội nguồn dòng giống của các bậc đế vương và của dân tộc Việt Nam.
Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 16 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: xã Thanh Hòa, huyện Lai Cậy, tỉnh Tiền Giang.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bốn vị anh hùng thời chống pháp là: Đước, Long, Rộng, Thận.
Nội dung: Mở đầu lễ hội tứ kiệt là lễ dâng hương tưởng nhớ tới các vị anh hùng sau đó là phần lễ hội với các trò chơi dân gian vô cùng đặc sắc.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Người Trung Quốc xưa cho rằng, cách bố trí, sắp xếp các vật dụng, trang thiết bị ở nơi làm việc luôn tạo ra một trường năng lượng và trường năng lượng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như hiểu rõ công việc của bạn.
Vì vậy, hiểu rõ những ảnh hưởng của việc bài trí sẽ giúp bạn bố trí căn phòng làm việc của mình một cách hợp lý và cân đối, từ đó tạo ra trường năng lượng tích cực giúp công việc và cuộc sống của bạn được tốt hơn.
Bàn làm việc phù hợp
Đầu tiên, việc chọn lựa một chiếc bàn làm việc phù hợp sẽ giúp bạn khơi dậy khả năng sáng tạo của mình một cách hữu hiệu. Bạn nên sử dụng không gian riêng này để cân bằng với môi trường làm việc tổng thể xung quanh.
Chẳng hạn nếu sếp bạn là người khó tính, thì bạn có thể làm dịu bớt tính khó chịu của người đó bằng cách sử dụng bàn làm việc bằng gỗ có màu kem nhạt hay nâu.
Theo các chuyên gia phong thủy, khi chọn bàn làm việc, bạn nên cân nhắc đến các yếu tố như lọai bàn đó có tạo sự thỏai mái cho bạn , gúp bạn tạo ấn tượng tốt với đối tác sẽ làm việc hay không? .
Về chất liệu bàn làm việc, thông thường người ta thích chọn lọai gỗ tốt( gỗ thích, gỗ sồi, gỗ tếch, gỗ thông..)., lý do là bề mặt sáng lóang, bóng mượt của gỗ tạo hiểu quả dương về mặt tinh thần, giúp duy trì năng lượng và giảm stress.
Ngày nay, một số văn phòng hiện đại, người ta lại thích dùng bàn bằng kim lọai. Tuy nhiên, bạn không nên dùng ghế cũng làm bằng kim lọai( kim lọai mang năng lượng sắc bén và xuyên thấu) vì cơ thể bạn sẽ cảm thấy không được thỏai mái . Bạn nên ngồi trên một chiếc ghế gỗ hay ghế bọc da.
Các chuyên gia phong thủy cho rằng, trên bàn làm việc, không nên bài trí đồ nội thất bằng kim lọai kết hợp với thủy tinh, điều này sẽ tạo ra những mâu thuẫn gay gắt và tình trạng không ổn định.Tốt nhất là nên kết hợp kim lọai, thủy tinh với gỗ hay ván ép.
Kích thước của bàn làm việc cũng rất quan trọng. Một chiếc bàn làm việc lớn tượng trưng cho quyền lực của bạn trong công việc. Tuy nhiên, ngồi ở một chiếc bàn quá lớn sẽ khiến cho bạn không thể với tới các vật phẩm đặt ở xa, khi đó quyền lực của bạn sẽ bị sút giảm.
Một số yếu tố để xác định bàn làm việc có phù hợp với vóc dáng của bạn hay không gồm: Khi đứng bạn có thể chống hai tay lên mặt bàn, khi ngồi trên ghế bạn vẫn có thể vươn tới phía trước bàn, mặt bàn đủ rộng để có thể đặt 1 tờ báo…
Thường kích thước của một bàn làm việc chuẩn khỏang 1,52 m x 0,76 m.Nếu có sử dụng máy vi tính thì kích thường là 1,82 m x0,91 m. Hình dạng của bàn làm việc cần phải phù hợp với công việc đặc thù của bạn.
Thường thì người ta chọn bàn hình chữ nhật vì hình chữ nhật tạo ra năng lượng thổ, hỗ trợ rất nhiều trong công việc trí óc.Tuy nhiên, hai bàn hình chữ nhật ghép lại với nhau sẽ tạo một năng lượng thổ rất mạnh.Bàn hình chữ L giúp người ta cảm thấy an tòan hơn so với bàn hình chữ nhật.
Ngòai ra, khi chọn ghế ngồi bạn cũng nên chú ý lọai ghế có lưng ghế thích hợp. Người Trung Quốc rất quan trọng đến những yếu tố hỗ trợ từ phía sau, vì thế lưng ghế phải là điểm tưa vững chắc cho bạn.Lưng ghế cao vừa đủ để hỗ trợ phần lưng trên cũng như phần lưng dưới của bạn
Không gian làm việc tốt
Khi chọn chỗ ngồi trong văn phòng, bạn nên chọn cho mình một vị trí ngồi tốt nhất. Vị trí đó phải hội đủ 4 yếu tố sau đây: Từ vị trí của bạn ngồi có thể quan sát cửa ra vào của văn phòng. Điều này giúp bạn cảm thấy an tâm hơn bởi nhìn thấy mọi người ra vào văn phòng, giúp bạn khả năng phản ứng kịp thời.
Bàn làm việc không nên kê gần sát cửa ra vào vì năng lượng ở cửa ra vào không ổn định và rất dễ thay đổi. Nên chọn vị trí ngồi có bức tường kiên cố phía sau. Những trung tâm năng lượng ở lưng di chuyển trường năng lượng xuyên suốt cơ thể bạn.
Bức tường kiên cố phía sau giúp bảo vệ những trung tâm này và làm cho năng lượng lưu thông một cách nhẹ nhàng khắp cơ thể bạn.Cuối cùng nếu có thể được, nên chọn phòng làm việc có bức tường bên phải hay bên trái bạn. Với một bức tường bên cạnh, bạn chỉ cần quan sát mọi họat động xung quanh trong phạm vi 90 độ thay vì 180 độ!.
Hướng ngồi tốt cũng rất quan trọng trong thuật phong thủy.Bạn nên kê bàn làm việc sao cho bạn sẽ ngồi đối diện với đồng nghiệp/đối tác khi họ bước vào phòng làm việc của bạn. Điều này sẽ giúp làm tăng thêm uy thế cũng như sự tự tin của bạn.
Nếu không gian văn phòng không cho phép, bạn hãy ngồi hướng ra cửa hay gắn gương lồi vào màn hình máy tính để có thể quan sát mọi việc phía sau lưng. Ngòai ra, khung cảnh xung quanh cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất làm việc cũng như cảm hứng của bạn.
Về điểm này, bạn cần tránh các yếu tố sau: Thứ nhất, sự hiện diện của một bức tường trống trước mặt.Bức tường trống tượng trưng cho một tầm nhìn hạn hẹp, thiếu hiểu biết và cơ hội bị hạn chế.Bạn có thể trang trí bức tường đó bằng một bức tranh hay các chậu cây cảnh.
Thứ hai là tránh những “mũi tên độc”, đây là thuật ngữ dùng để chỉ những góc cạnh bén nhọn (góc tường, góc tủ) có thể tạo ra một luồng năng lượng đối nghịch gây ảnh hưởng xấu đến bạn.
Nếu vị trí của bạn đặt ngay trước nguồn phát năng lượng đối nghịch này sức khỏe của bạn sẽ bị ảnh hưởng không tốt.Bạn có thể hóa giải mũi tên độc đó bằng cách sơn hai bên của góc cạnh bén nhọn đó cùng một màu hay đặt một chậu cây, một vật dụng có tác dụng hoà tan năng lượng đối nghịch đó.
Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin. Cuộc sống nhiều lúc sẽ khiến bạn mệt mỏi, thất vọng và dường như mất niềm tin vào tất cả mọi thứ. Nhưng bạn à, nếu bạn mất niềm tin thì cuộc sống của bạn cũng cứ phải diễn ra, bạn cũng phải đối mặt với nó.
Do vậy mà bạn hãy quên đi những gì buồn bã đã qua, hướng về một tương lai tốt đẹp, có niềm tin vào cuộc sống của mình. Và bài viết này sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn qua những câu nói hay về niềm tin lí tưởng cho tất cả mọi người. Cùng đọc và suy ngẫm bạn nhé.
Cùng tham khảo những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin, chắc chắn với những câu nói này bạn sẽ nhận ra nhiều điều thú vị trong cuộc sống. Hãy tích lũy cho mình những kiến thức trong cuộc sống bằng những cau noi hay trong bài viết dưới đây bạn nhé!
1. Để làm được những điều to lớn, chúng ta không những phải hành động mà còn phải mơ mộng, không những phải có kế hoạch mà còn phải có niềm tin.
To accomplish great things, we must not only act, but also dream; not only plan, but also believe.
Anatole France
2. Hãy tin rằng đời đáng sống, và niềm tin của bạn sẽ giúp thiết lập sự thực đó.
Believe that life is worth living and your belief will help create the fact.
William James
3. Để làm được những điều to tát, đầu tiên bạn phải tin vào nó.
To achieve great things you have first to believe it.
Arsene Wenger
4. Bạn nhắm mắt lại. Đó là điều khác biệt. Đôi lúc bạn không thể tin điều mắt thấy, bạn phải tin điều mình cảm nhận. Và nếu bạn muốn người khác tin tưởng mình, bạn phải cảm thấy mình cũng có thể tin tưởng họ, thậm chí ngay cả khi bạn ở trong bóng tối. Ngay cả khi bạn đang rơi.
You closed your eyes. That was the difference. Sometimes you cannot believe what you see, you have to believe what you feel. And if you are ever going to have other people trust you, you must feel that you can trust them too, even when you’re in the dark. Even when you’re falling.
Khuyết danh
5. Tôi tin vào mọi thứ cho tới khi nó bị bác bỏ. Vì vậy tôi tin vào tiên, thần thoại, rồng. Tất cả đều tồn tại, thậm chí dù nó chỉ ở trong tâm trí bạn. Ai dám nói rằng giấc mơ và ác mộng không thực như điều ở đây lúc này?
I believe in everything until it’s disproved. So I believe in fairies, the myths, dragons. It all exists, even if it’s in your mind. Who’s to say that dreams and nightmares aren’t as real as the here and now?
John Lennon
6. Chúng ta bảo tình yêu là sự sống; nhưng tình yêu không có hy vọng và niềm tin là cái chết đau đớn.
Love, we say, is life; but love without hope and faith is agonizing death.
Elbert Hubbard
7. Nghi ngờ không phải một trạng thái dễ chịu, nhưng tin chắc thì thật ngu xuẩn.
Doubt is not a pleasant condition, but certainty is absurd.
Voltaire
8. Tất cả chúng ta đều có cuộc đời riêng để theo đuổi, giấc mơ riêng để dệt nên, và tất cả chúng ta đều có sức mạnh để biến mơ ước trở thành hiện thực, miễn là chúng ta giữ vững niềm tin.
We all have our own life to pursue, our own kind of dream to be weaving, and we all have the power to make wishes come true, as long as we keep believing.
Louisa May Alcott
9. Chúng ta thường dễ tin người chúng ta không biết bởi họ chưa bao giờ lừa dối chúng ta.
We are inclined to believe those whom we do not know because they have never deceived us.
Samuel Johnson
10. Tình yêu đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.
Love comes to those who still hope even though they’ve been disappointed, to those who still believe even though they’ve been betrayed, to those who still love even though they’ve been hurt before.
Khuyết danh
11. Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.
Helen Keller
12. Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin.
Sometimes life is going to hit you in the head with a brick. Don’t lose faith.
Steve Jobs
13. Bạn không thể kết nối các điểm trong đời bạn khi nhìn về phía trước; bạn chỉ có thể kết nối chúng khi nhìn lại phía sau. Vì vậy bạn phải tin tưởng rằng các điểm đó rồi sẽ kết nối trong tương lai. Bạn phải tin vào cái gì đó – lòng can đảm, vận mệnh, cuộc đời, nghiệp chướng, bất cứ điều gì. Cách tiếp cận này chưa bao giờ khiến tôi thất vọng, nó đã tạo nên tất cả sự khác biệt trong cuộc đời tôi.
You can’t connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something — your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life.
Steve Jobs
14. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn.
Getting ahead in a difficult profession requires avid faith in yourself. That is why some people with mediocre talent, but with great inner drive, go so much further than people with vastly superior talent.
Sophia Loren
15. Lạc quan là hạt giống gieo trồng trên mảnh đất của niềm tin; bi quan là hạt giống cất giữ dưới căn hầm ngờ vực.
Optimism is a seed sown in the soil of faith; pessimism is a seed hoarded in the vault of doubt.
William Arthur Ward
16. Niềm tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin tưởng.
A faith is a necessity to a man. Woe to him who believes in nothing.
Victor Hugo
17. Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.
Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.
Helen Keller
18. Thế giới tưởng chừng như thật điên rồ mà chúng ta đang chứng kiến là kết quả của một hệ niềm tin không hoạt động. Để nhìn thế giới khác đi, chúng ta phải sẵn lòng thay đổi hệ niềm tin của mình, để quá khứ trôi qua, mở rộng nhận thức về hiện tại và làm tan chảy nỗi sợ hãi trong tâm tưởng.
The world we see that seems so insane is the result of a belief system that is not working. To perceive the world differently, we must be willing to change our belief system, let the past slip away, expand our sense of now, and dissolve the fear in our minds.
William James
19. Hãy sống theo niềm tin cùa mình, và bạn có thể xoay chuyển cả thế giới.
Live your beliefs and you can turn the world around.
Henry David Thoreau
20. Người ảnh hưởng tới bạn là người tin vào bạn.
The people who influence you are the people who believe in you.
Henry Drummond
21. Hạt giống niềm tin nhỏ bé nhất cũng tốt hơn nhiều trái hạnh phúc to lớn nhất.
The smallest seed of faith is better than the largest fruit of happiness.
Henry David Thoreau
22. Luôn luôn, ở bất cứ đâu, và đối với bất cứ ai, thật sai lầm khi tin vào bất cứ thứ gì khi không đủ bằng chứng.
It is wrong always, everywhere, and for everyone, to believe anything upon insufficient evidence.
William James
23. Niềm tin… phải được gia cố bằng lý lẽ… khi niềm tin mù, nó sẽ chết đi.
Faith… must be enforced by reason… when faith becomes blind it dies.
Mahatma Gandhi
24. Tin tưởng là biết ngoài kia là đại dương bởi mình nhìn thấy suối.
Faith is knowing there is an ocean because you have seen a brook.
William Arthur Ward
25. Hãy theo đuổi con đường mà bạn có thể đi với tình yêu và lòng tôn kính, dù nó có hẹp và quanh co đến mức nào.
Pursue some path, however narrow and crooked, in which you can walk with love and reverence.
Henry David Thoreau
26. Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học.
Society lives by faith, and develops by science.
Henri Frederic Amiel
27. Đôi khi bạn phải tin vào niềm tin của người khác cho tới khi tìm được niềm tin của riêng mình.
Sometimes you’ve got to believe in someone else’s belief in you until your belief kicks in.
Les Brown
28. Một lượng nhỏ những tinh thần quyết tâm được nung nấu bởi niềm tin son sắt vào sứ mệnh của mình có thể làm thay đổi dòng lịch sử.
A small body of determined spirits fired by an unquenchable faith in their mission can alter the course of history.
Mahatma Gandhi
29. Người có lòng tin thì mạnh mẽ; người lắm nghi ngờ thì yếu ớt. Niềm tin mãnh liệt vượt lên trên những hành động to tát.
He who believes is strong; he who doubts is weak. Strong convictions precede great actions.
Louisa May Alcott
30. Cuồng tín là sự bồi thường quá đà cho ngờ vực.
Fanaticism is overcompensation for doubt.
Robertson Davies
31. Người ta sống nhờ tin vào điều gì đó: không phải nhờ bàn luận và tranh cãi về quá nhiều thứ.
A man lives by believing something: not by debating and arguing about many things.
Thomas Carlyle
32. Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức.
Man must cease attributing his problems to his environment, and learn again to exercise his will – his personal responsibility in the realm of faith and morals.
Albert Schweitzer
33. Ai cũng phải tự mình làm lấy hai điều; niềm tin của chính mình và cái chết của chính mình.
Every man must do two things alone; he must do his own believing and his own dying.
Martin Luther
34. Niềm tin thấy đóa hoa yêu kiều trong một cái nụ, khu vườn xinh đẹp trong một hạt giống, và cây sồi lớn trong một quả sồi.
Faith sees a beautiful blossom in a bulb, a lovely garden in a seed, and a giant oak in an acorn.
William Arthur Ward
35. Ai không sống theo đức tin của mình cũng sẽ không tin tưởng.
He does not believe who does not live according to his belief.
Thomas Fuller
36. Sự trung thành với chính mình cần thiết cho hạnh phúc của mỗi người. Thiếu trung thành không nằm ở việc tin hay không tin mà nằm ở việc tự cho là mình tin điều mình không tin..
It is necessary to the happiness of man that he be mentally faithful to himself. Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.
Thomas Paine
37. Niềm tin tạo ra hiện thực.
Belief creates the actual fact.
William James
38. Để có sự phản bội, đầu tiên phải có sự tin tưởng.
For there to be betrayal, there would have to have been trust first.
Suzanne Collins
39. Giành được lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề.
Từng thề ước – Đồng Hoa
40. Tôi rất hiếm khi có cảm giác tin tưởng một ai đó. Những người sống một mình quá lâu sẽ đều như tôi. Không phải vì đa nghi hay khó tính, mà là vì không thấy an toàn. Thế giới này rất rộng lớn và xa lạ, người có thể khiến chúng ta gửi gắm lại rất nhỏ bé…
Thủy Vũ
41. Đừng đặt tất cả niềm tin vào một ai đó. Hãy giữ lại một chút cho riêng mình. Để ngay cả khi mất niềm tin vào người mình yêu thương nhất, ta vẫn còn bản thân mình để tin.
Đoạn Đường Ký Ức – Gỗ & Born
42. Nếu không có niềm tin thì sẽ không bao giờ là mãi mãi.
Và nếu không có lòng chân thành thì mọi thứ cũng bằng không.
Khuyết danh
43. – Lòng tin giống như một tờ giấy, một khi nó đã bị nhàu nát thì không bao giờ được phẳng phiu trở lại.
44. Thứ đắt giá nhất trên thế gian này là lòng tin. Nó có thể mất hằng năm để có được, nhưng nó cũng sẽ bị đánh mất chỉ trong vài giây.
45. Tôi không tin tưởng một ai một cách dễ dàng, vì thế khi tôi nói “Tôi tin bạn”, làm ơn đừng làm tôi hối hận vì điều đó.
46. Sự tin tưởng, một khi đã mất đi thì không hề dễ dàng để lấy lại, có thể cần đến một năm nhưng cũng có thể cần cả cuộc đời! – J.E.B. Spredemann.
46. Lòng tin giống như một cục tẩy, nó sẽ mòn dần sau mỗi lỗi sai mà ta mắc phải
47. Không bao giờ lừa dối những người luôn tin tưởng bạn và không bao giờ tin tưởng những người luôn lừa dối bạn.
48. Tôi sẽ tha thứ nhưng tôi sẽ không quên. Tôi hy vọng bạn biết bạn đã đánh mất sự tôn trọng của tôi.
49. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn – Sophia Loren.
50. Niềm tin là một thứ khó tìm nhất nhưng cũng là thứ dễ mất nhất.
51. Tình yêu chẳng có nghĩa lý gì nếu không có sự tin tưởng.
52. Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin – Steve Jobs
53. Sự trung thành với chính mình cần thiết cho hạnh phúc của mỗi người. Thiếu trung thành không nằm ở việc tin hay không tin mà nằm ở việc tự cho là mình tin điều mình không tin – Thomas Paine
54. Niềm tin giống như một tấm gương, bạn có thể lắp ráp lại khi nó bị vỡ những cuối cùng bạn vẫn cứ nhìn thấy sự hiện diện của những mảnh vỡ trong sự phản chiếu đầy ngu ngốc. – Lady Gagacau-noi-hay-ve-long-tin-
55. Khi một ai đó kể cho bạn nghe về những vấn đề họ mắc phải, đó không có nghĩa là họ đang phàn nàn, mà có nghĩa là họ tin bạn.
56. Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực – Paulo Coelho
57. Tôi không buồn khi bạn lừa dối tôi. Tôi buồn vì từ bây giờ tôi không thể tin bạn được nữa – Friedrich Nietzsche
58. Lòng tin bắt đầu và kết thúc với sự thật – Santosh Kalwar
59. Bạn có thể bị lừa dối nếu bạn tin tưởng quá nhiều, nhưng bạn không thể tồn tại nếu bạn không có lòng tin. – Frank Crane
60. Tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.
61. Tin tưởng chính mình và bạn sẽ dần tin tưởng những người khác – Santosh Kalwar
* Lưu ý: Các ngày trên giống các ngày Thập ác đại bại, Tứ ly, Tứ tuyệt, làm gì vào những ngày ấy cũng đều thất bại…
![]() |
Số 1 | Số 2 | Số 3 |
Số 4 | Số 5 | Số 6 |
Mộc Trà (theo Lol)
Những chàng trai cô gái sinh vào tháng 12 của năm thường là người trung thành và tử tế. Nếu là con gái chắc hẳn bạn rất quyến rũ. Bạn có nhiều tham vọng nhưng đôi khi lại dễ bị nhận định của đám đông làm ảnh hưởng. Bạn có tư duy logic và thích sống hòa mình vào với cộng động. Bạn rất thích được khen ngợi và thích được mọi người quan tâm chú ý. Nếu là con trai bạn rất đáng yêu – đáng yêu theo đúng nghĩa một cậu “em út” đôi khi tỏ ra rất người lớn trưởng thành, là chàng trai đĩnh đạc nhưng đôi khi lại tỏ ra rất trẻ con, ưa được chiều chuộng và thích được nâng niu.
Tình yêu, tính cách chàng trai cô gái tháng 12
Trong tất cả các mối quan hệ bạn rất chân thành, thật lòng và không giả dối. Bạn không đặt nặng cái tôi của mình nhưng tính cách của bạn lại có đôi chút “sớn nắng, chiều mưa” tuy nhiên bạn lại rất vui vẻ, trẻ trung, bạn đặc biệt không thích việc bị ai đó quản thúc, bạn có năng khiếu hài hước nên thích làm trò đùa, mang lại nhiều niềm vui cho người khác. Điểm nổi bật trong tính cách của những người sinh tháng 12 là thiếu kiên nhẫn và hay vội vàng.
Nếu bạn đang yêu một chàng trai cô gái sinh tháng 12 bạn sẽ luôn phải nhường nhịn, đôi khi còn phải nuông chiều, nịnh nọt nữa. Nhưng sự hấp dẫn trong tình yêu của họ lại nằm chính ở điểm này. Bời họ dễ hờn, dễ giận nhưng lại không bảo giờ để bụng, họ giận đấy tức đấy rồi lại quên ngay. Tình yêu của người sinh tháng 12 sẽ luôn vui vẻ rộn rã tiếng cười.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.
Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".
Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.
Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.
Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.
Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.
Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.
Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.
Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.
Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.
Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.
Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.
Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.
Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."
Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.
Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:
(1) Mệnh Chủ:
Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.
(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".
(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:
Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.
(4) Độ sáng của sao:
Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"
(5) Đại Hạn:
Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.
(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.
TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".
(7) Thiên Không và Địa Không:
Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.
Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).
Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.
Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.
Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.
Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.
Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".
Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.
Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".
Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.
Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.
Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.
Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.
Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:
- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.
- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.
- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".
- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.
- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.
Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.
Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.
Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.
Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.
Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.
Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.
Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.
Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...
Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.
Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.
Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.
Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.
Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".
Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.
Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.
Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.
Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.
Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".
Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:
- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.
Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:
- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.
- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.
1. Trong giấc mơ thấy bản thân một mình vác ba lô đi du lịch, dấu hiệu cho thấy bạn sẽ nhận được sự kính trọng của mọi người, cuộc sống sau này của bạn sẽ vô cùng hạnh phúc.
2. Nếu bạn mơ thấy mình cùng với người yêu cùng nhau đi du hí ở nơi nào đó, điều này có nghĩa hai bạn đang trong giai đoạn mật ngọt tình yêu, luôn hiểu và chia sẻ cho nhau mọi cảm xúc, tình yêu ấy rất có thể là nền tảng tốt đẹp giúp hai bạn tiến tới hôn nhân hạnh phúc.
3. Người kinh doanh buôn bán nếu mơ thấy mình đi du lịch, đó là điềm báo phát tài lộc và mở rộng hơn nữa sự nghiệp cuả mình.
![]() |
4. Mơ thấy bản thân cùng bạn bè đi du lịch, dấu hiệu bạn sẽ có được báo đáp từ những người bạn đã nhiệt tình giúp đỡ. Họ sẽ sẵn sàng “nhảy vào lửa” mỗi khi bạn cần sự trợ giúp.
5. Trong mơ thấy mình và người đi du lịch nói chuyện vui vẻ, điềm báo cho thấy bạn sẽ có được sự may mắn và thuận lợi hơn trong công việc. Hàng loạt tin tốt sẽ dồn dập đến với bạn.
6. Mơ thấy bản thân đi du lịch ở nước ngoài, vốn dĩ bạn có thể giao tiếp với họ một cách thuận lợi nhờ vốn ngoại ngữ rất tốt của mình, nhưng đột nhiên bạn lại không hiểu họ đang nói gì. Điều này ám chỉ bạn đang lo lắng về vấn đề nào đó sẽ xảy ra trong tương lai mà không thể dự liệu được.
Mr.Bull
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy xe máy Khi loại xe thông dụng này xuất hiện trong giấc mơ của bạn, điều đó có ý nghĩa gì? |
Cũng giống như bất kỳ đồ vật nào khác, việc sắp xếp bàn trang điểm trong không gian phòng ngủ có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn đến phong thủy của không gian đặc biệt này. Do đó, để thu hút được vận may, đồng thời tránh sự xung khắc với các trang thiết bị nội thất khác trong phòng, bạn cần lưu tâm đến các yếu tố Phong thủy khi bố trí bàn trang điểm.
Bàn trang điểm luôn có gương đi kèm do đó gương soi không nên đặt ở vị trí đối diện và xung khắc với cửa ra vào. Nếu phạm phải điều này, khi bước chân vào phòng ngủ mọi người rất dễ bị sự phản chiếu hình ảnh trong gương làm giật mình, hoảng hốt…
Trong không gian phòng ngủ, điều tối kỵ bạn cũng nên chú ý là không nên để gương của bàn trang điểm chiếu thẳng vào đầu giường vì theo phong thủy, phòng ngủ, nhất là giường ngủ là nơi yên tĩnh, không nên để bất cứ luồng sáng nào chiếu trực tiếp lên, sẽ khiến người ngủ trên giường bị ác mộng hoặc tinh thần bị “tán” không tốt cho sức khỏe.
Về hướng, theo phong thủy, gương trên bàn trang điểm nên được đặt theo hướng Đông Nam, hướng Bắc hoặc hướng Đông giúp cải thiện sức khỏe. Gương trên bàn trang điểm nếu được đặt theo hướng Đông Nam sẽ có tác dụng giúp gia chủ làm ăn phát đạt và hướng Bắc giúp đường công danh thuận lợi.
Không nên đặt bàn trang điểm theo hướng Nam vì nó sẽ khiến gương trên bàn tương tác với lửa, mà gương được xem như một yếu tố của nước, vì vậy nước sẽ kỵ với lửa.
Trên thị trường trang thiết bị nội thất hiện nay, bàn phấn, bàn trang điểm rất đa dạng và phong phú về chủng loại và hình dáng. Tùy vào nhu cầu, sở thích, bạn có thể lựa chọn được những loại phù hợp với căn phòng của mình.
Bàn trang điểm hiện nay thường đồng bộ với các đồ nội thất khác trong phòng ngủ như giường ngủ, tủ, táp đầu giường… tạo sự nhất quán và hiện đại cho không gian căn phòng. Với những căn phòng nhỏ, hạn chế về diện tích, bạn có thể lựa chọn những loại bàn trang điểm nhỏ gọn, có ghế ngồi thu gọn trong gầm bàn hoặc loại bàn trang điểm tích hợp các chức năng khác như bàn uống nước nhỏ, bàn làm việc… rất tiện dụng.
Để tốt về mặt phong thủy, nên chọn kiểu bàn thiết kế cho hai cánh cửa ở hai bên. Khi ngồi trang điểm thì mở hai cánh cửa ra, nếu không sử dụng thì đóng cánh cửa đó lại. Sử dụng kiểu bàn này, bất luận đặt ở vị trí nào cũng không sợ bị xung với cửa hoặc chiếu vào đầu giường.
(Theo Xzone)
Chàng tuổi Mùi yêu
Nam giới tuổi Mùi thường có vẻ ngoài phong độ, đầy sức cuốn hút. Trong tình yêu, tuy ít chủ động bày tỏ tình cảm hay theo đuổi tình yêu đến cùng nhưng họ là người chân thành. Cách thể hiện tình cảm của họ luôn khiến cho đối phương cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Nam giới tuổi Mùi là người chung thủy trong tình yêu và hôn nhân.
![]() |
(Ảnh chí mang tính chất minh họa) |
Nàng tuổi Mùi yêu
Nữ giới tuổi Mùi có khá nhiều người theo đuổi nhưng đáng tiếc đó lại không phải là mẫu người mà nàng thích. Vì thế, không ít nàng chỉ biết yêu đơn phương. Cũng do không chủ động bày tỏ tình cảm và theo đuổi chàng trai mình thích, nhiều cô gái tuổi Mùi đành chấp nhận kết hôn với người mà mình không thực sự yêu thương. Khi ấy, mối tình đầu dù không thành nhưng vẫn để lại trong lòng họ những vương vấn khó quên. Tuy tình cảm đôi lúc không ổn định nhưng phụ nữ tuổi Mùi cũng thường khá khuôn phép và lễ độ. Họ hiểu và tôn trọng luân thường đạo lý cũng như những chuẩn mực khác trong xã hội.
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
Hành: Hỏa
Loại: Sát Tinh
Đặc Tính: Nóng nảy, táo bạo, liều lĩnh
Tên gọi tắt thường gặp: Hỏa
Là sao phụ tinh, thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa). Phân loại theo tính chất là Đoản Thọ Tinh.
Nếu sao Hỏa Tinh tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.
Đắc địa: Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Hãm địa: Tý, Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Cung Mệnh có sao Hỏa Tinh là người có thân hình thô, xấu, tóc và lông màu vàng hay đỏ, thường có tỳ vết ở chân tay hay răng miệng, vóc người ốm.
Tính Tình: Người can đảm, dũng mãnh, có chí khí, tính tình nóng nảy, táo bạo, liều lĩnh.
Công Danh Tài Lộc:
Sao Hỏa Tinh vốn là sát tinh nên sao này ít ý nghĩa tốt, trừ phi đắc địa ở các cung ban ngày (Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ) và nếu gặp thêm nhiều cát tinh.
Phúc Thọ Tai Họa:
Sao Hỏa Tinh dù hãm địa, nhưng gặp chính tinh đắc địa và hợp Mệnh cũng can đảm, nghiêm túc, hay ghen táo bạo, liều lĩnh. Nữ mệnh Âm, nam Thái Dương đắc địa, đẹp và nghiêm túc.
Những bất lợi trên đặc biệt xảy ra cho người có Mệnh đóng ở Tây (Dậu) và Bắc (Tý) có Hỏa Tinh hãm địa tọa thủ. Vì là sao Hỏa nên sự tác họa rất mau.
Vốn xấu vì hãm địa, Hỏa Tinh càng xấu khi gặp sát tinh, hãm địa khác:
Sao Hỏa Tinh gặp Kình Dương: Công danh trắc trở, tài lộc kém, hay bị tai nạn.
Sao Hỏa Tinh gặp Thiên Mã, Kình Dương, Đà La: Tay chân bị tàn tật.
Riêng việc giáp Hỏa Tinh cũng là biểu hiện của bại cách, suốt đời phải tha phương, bất đắc chí, bất mãn.
Người sinh năm Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, có Hỏa Tinh đắc địa là hợp cách, vì Hỏa Tinh là sao Hỏa, chịu ảnh hưởng của ban ngày, đắc địa ở Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ. Trong trường hợp này, nếu gặp nhiều cát tinh thì chắc chắn phú quý trọn đời.
Người mà ở cung Mệnh ở hướng Đông, Nam (tức là Mão và Ngọ) có Hỏa Tinh đắc địa tọa thủ cũng hợp cách, phú quý.
Nếu cung Mệnh ở hướng Tây (Dậu) và Bắc (Tý), có Hỏa Tinh đắc địa chiếu, cũng được phú quý nhưng không bền.
Sao Hỏa Tinh là sao võ cách, đắc địa thì hiển hách về võ nghiệp. Nếu đồng cung và đắc địa thì càng đẹp hơn.
Sao Hỏa Tinh vốn là sát tinh, sao này hãm địa rất xấu về các phương diện tính tình, bệnh lý, tai họa, phúc thọ.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ khắc khẩu, giảm thọ, nếu có khá giả thì cũng có bệnh tật, tai nạn.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Phúc Đức:
Giảm thọ, may rủi đi liền nhau.
Nếu công danh sự nghiệp phát đạt bất ngờ thì cũng hay gây tai biến, tai họa.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, trong nhà, trong họ có người cùng túng, nghèo khó.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, có mồ mả phát hình cái bút, hoặc có hình dài.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Điền Trạch:
Dù có nhà đất của ông bà để lại cũng không giữ được, phải tự tay gầy dựng, hay có tai biến hoặc thiên tai về nhà cửa.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp hoặc sao Đại Hao, không tiền của, đất đai, tán tài.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Quan Lộc:
Nếu đắc địa là người có tinh thần làm việc cật lực, dũng mãnh, có óc phán đoán sâu sắc, nóng tính, nếu hãm địa thì công danh, chức vụ chỉ được một thời gian, vất vả.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, công danh hay bị trắc trở.
Hỏa Tinh, Tang Môn, Bệnh Phù, công danh hèn kém.
Hỏa Tinh, Thiên Hư, Địa Không, Địa Kiếp hoặc các sao Thiên Hình, Đại Hao, công danh không có.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Nô Bộc:
Thường sống chung đụng với những người có điểm giống nhau về chủng tộc, nghề nghiệp, tôn giáo.
Hỏa Tinh đắc địa thì bè bạn, đồng nghiệp, người giúp việc tốt.
Hỏa Tinh hãm địa mà có thêm các sao Đại Hao, Địa Kiếp thì càng nhiều bạn lại càng nhiều tai họa.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài vất vả, dù có gặp thuận lợi cũng không lâu bền, hay gặp tai nạn, trắc trở.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Cự Môn, cẩn thận khi đi đường, dễ gặp tai nạn nguy hiểm chết người.
Hỏa Tinh, Thiên Mã, Linh Tinh, bôn ba, phiêu lưu, lận đận, nay đây mai đó.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, cô độc, tán tài, danh bại, tha phương cầu thực.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Tật Ách:
Sao Hỏa Tinh nếu đắc địa mà không có sao xấu thì là người có sức khỏe tốt, nếu có thêm các sao Bệnh, Bệnh Phù thì hay bị sốt.
Gặp các sao Linh Tinh, Mộc Dục thì bị phỏng nước sôi, phỏng lửa.
Gặp các sao Linh Tinh, Thiên Hình, Thiên Việt thì bị chết đâm, chết chém.
Gặp các sao Thiên Hình, Phi Liêm, bị sét đánh, chết vì súng đạn.
Gặp các sao Linh Tinh, Kình Dương hãm địa tại Cung Thìn, bị chết đuối.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Tài Bạch:
Tài lộc hoạnh phát hoạnh phá, lúc có lúc không, lên xuống thất thường, khó cầm giữ.
Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp hoặc sao Đại Hao, không tiền của, tán tài.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Tử Tức:
Làm giảm số lượng con cái.
Hiếm con, muộn con.
Con cái có tướng lạ, con lai. Con ngoại hôn, hoặc tàn tật, khó nuôi.
Đồng cung với sao Linh Tinh, về già mới có con, nhưng con khá giả.
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Phu Thê:
Xung khắc gia đạo.
Kiếp Sát (nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu).
Ý Nghĩa sao Hỏa Tinh Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em xa cách, trong nhà có người đau bệnh, tàn tật, tự tử.
Gặp sao Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, anh chị em nghèo khổ, ly tán.
Sao hỏa Tinh Khi Vào Các Hạn:
Hỏa Tinh đắc địa, thì hỷ sự về tiền bạc hay công danh một cách nhanh chóng.
Hỏa Tinh hãm địa, thì có tang, hay bệnh hoạn, bị kiện, mất của, truất quan, hoặc phỏng đồ nóng, hoặc cháy nhà (nếu có thêm Tang Môn), có thể bị loạn trí, điên cuồng.