Nằm mơ thấy cua là điềm gì –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
– Nằm mơ thấy trời sập: mất mùa lớn.
– Nằm mơ thấy sao rơi: nhà không yên.
– Nằm mơ thấy sương mù: lo lắng, điềm báo tang cha, tang mẹ.
– Nằm mơ thấy bầu trời tối tăm, không thấy mặt trời, mặt trăng: điềm rất xấu.
– Nằm mơ thấy mặt trăng, mặt trời đấu nhau: làm việc đại bại.
– Nằm mơ thấy trời nóng bức: có chuyện binh đao.
– Nằm mơ thấy trời u ám: có mu’a, ốm đau.
– Nằm mơ thấy trời to đất nhỏ: việc quân sự gặp điều xấu.
– Nằm mơ thấy trời mưa nổi bong bóng: việc mình xin không thành.
– Nằm mơ thấy trời có mây đỏ, trắng: điềm dữ.
– Nằm mơ thấy mưa rơi: mùa xuân, mùa hạ thì lành; mùa thu, mùa đông thì dữ.
– Nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu: có việc lo buồn.
Các cụ ta xưa có câu ”Trai khôn dựng vợ, Gái khôn gả chồng”, từ cổ chí kim HÔN – NHÂN bao giờ cũng được xem là việc quan trọng của cả một đời người. Khi hai gia đình nhà trai, nhà gái quyết định tác hợp cho hai trẻ nên vợ nên chồng và tiến hành các thủ tục: lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới. Vào các ngày tiến hành các nghi lễ này thì gia đình bên nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên.
Ngày lễ Chạm Ngõ, gia đình nhà trai làm mâm lễ mặn xôi, gà cúng Gia Thần, Gia Tiên để trình báo việc hệ trọng của chàng trai. Lễ Chạm Ngõ nhà trai mang sang nhà gái gồm: Một cơi trầu (12 mớ trầu), cau bổ tư hoặc để cả buồng, mứt sen, trà, rượu, thuốc lá, một thiếp vàng. Cha cô dâu tương lai mang lễ này đặt lên bàn thờ Gia Thần Gia Tiên để cúng trình báo về việc hệ trọng của con gái.
Lễ ăn hỏi: Nhà gái nhận lễ ăn hỏi của nhà trai gồm: Trầu, cau, trà, rượu, thuốc lá, bánh cốm, bánh phu thê (su xê) theo yêu cầu của mình rồi đặt lên bàn thờ cúng Gia Thần, Gia Tiên. Sau lễ ăn hỏi nhà gái đem chia lễ ăn hỏi cho họ hàng, bạn bè, người thân, cơ quan… Khi chia lễ ăn hỏi người chia lễ đưa thiệp mời dự đám cưới có ngày giờ đã chọn.
Lễ cưới được tổ chức vào ngày lành tháng tốt do hai bên gia đình chọn.
Khi gia đình có hỷ sự: trai lấy vợ, gái gả chồng, nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên sau khi dâng lễ, thắp hương thì khấn:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
Con kính lạy tiên họ..... chư vị Hương linh.
Tín chủ (chúng) con là:........ Ngụ tại:…
Hôm nay là ngày..... tháng.... năm .......
Tín chủ con có con trai (con gái) tên là….. kết duyên cùng ......
Con của ông bà .......................
Ngụ tại:........................................
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật, gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hợp cẩn, trước linh toạ Ngũ tự Gia thần chư vị Tôn linh, truớc linh bài liệt vị gia tiên chư chân linh xin kính cẩn khấn cầu:
Phúc Tổ Di Lai,
Sinh trai có vợ (nếu là nhà trai),
Sinh gái có chồng (nếu là nhà gái)
Lễ mọn kính dâng,
Duyên lành gặp gỡ,
Giai lão trăm năm,
Vững bền hai họ,
Nghi thất nghi gia,
Có con có của.
Cầm sắt giao hòa
Trông nhờ phúc Tổ.
Chúng con lễ bạc tâm thành, xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
![]() |
Số 1 | Số 2 | Số 3 |
Số 4 | Số 5 |
Mộc Trà (theo Lol)
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Người tuổi Ngọ mệnh Thủy có đời sống tinh thần phong phú, có lý tưởng cao đẹp và không sợ khó khăn, gian khổ. Họ thích được tự sắp xếp công việc của mình, luôn phấn đấu để có địa vị cao trong xã hội. Họ cũng luôn muốn hình ảnh của mình thật đẹp trong mắt người khác.
1 số người tuổi Ngọ mệnh Thủy có tính cách 2 mặt hoàn toàn trái ngược nhau. Họ cẩn trọng, khiêm tốn tại nơi đông người nhưng khi ở một mình, họ có thể làm những việc... không giống ai. Họ thích có địa vị xã hội, thích hình ảnh của mình được nâng lên trong mắt người khác.
Họ thích được tự sắp xếp cuộc sống của mình và sẽ đề ra những yêu cầu rất cao đối với chất lượng cuộc sống. Cho dù công việc có bận đến đâu thì họ cũng phải lên lịch cho mình và gia đình những chuyến du lịch hoặc hoạt động cố định để cân bằng và giải tỏa áp lực. Họ luôn giữ tính cách lạc quan và hài hước. Vì thế, cho dù trong lòng có chuyện buồn nhưng trước mặt người khác họ vẫn tỏ ra vui vẻ.
Nhìn chung, người tuổi Ngọ mệnh Thủy có đời sống tinh thần phong phú và thoải mái; có hiểu biết rộng, có lý tưởng sống cao đẹp và không ngại khó khăn, gian khổ.
Nếu được sao tốt tương trợ, họ có thể tạo dựng được sự nghiệp đáng kể. Ngược lại, họ khó có được cơ hội để phát huy năng lực của mình.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
chắc chắn rằng nhà vệ của mình không mắc phải và nếu mắc phải thì khắc phục bằng cách nào:
– Cửa phòng vệ sinh hoặc bồn cầu đối diện cửa chính: Cửa chính là nơi nạp khí, nếu bô” trí như vậy sẽ khiến sinh khí bị xâm phạm do có các luồng uế khí toả ra. Cách tốt nhất là chuyển hướng cửa phòng vệ sinh và hướng bồn cầu.
– Nhà vệ sinh đổi diện phòng ăn: Làm mất vệ sinh do các uế khí xâm nhập vào phòng ăn. Khắc phục bằng cách làm lại hướng phòng vệ sinh.
– Nhà vệ sinh ngay sát cửa chính. Nếu nhà vệ sinh có hai gian thì chuyển thành nhà kho. Nếu không thể sửa chữa thì phải có thêm rèm cửa mới thích hợp.
Thông thường, nhà vệ sinh thường đặt ở vị trí phía sau, bên phải của nhà, phải có khoảng cách nhất định với nhà để tránh mùi xú uế.
Thời trước có một thanh niên danh sĩ tên là Hứa Doãn, cưới người con gái họ Nguyễn về làm vợ . Nguyễn thị vốn giòng dõi thư hương, thuở nhỏ được ăn học nên rất giỏi văn học, nhưng thân hình thật là quê kệch, xấu xí chỉ được mỗi bộ phận tuyệt đẹp là Mũi. Mũi cô này vưà đẹp lại vừa phối hợp với lưỡng quyền. Trái lại, với nhan sắc thuộc loại Chung Vô Diệm của vợ, Hứa Doãn vừa học giỏi, vừa đẹp trai, chỉ có mỗi một khuyết điểm là cái Mũi không mấy thanh nhã, vì vừa thấp lại vừa nhỏ không tương xứng với các bộ vị khác của khuôn mặt.
Thời xưa người ta thường có lệ hứa hôn ngay từ thuở lọt lòng và việc ả chồng lấy vợ cho con cái tùy thuộc hoàn toàn vào cha mẹ đôi bên. Hai họ Nguyễn và Hứa quen nhau từ lâu lắm, nhưng bên đàn trai thấy gái họ Nguyễn qúa xấu xí đã hơi chán, nên trước khi quyết định chung cuộc có nên xem ngày tốt để làm lễ thành hôn hay không đã nhờ một nhà tướng thuật nổi tiếng đến quan sát kỹ càng diện mạo cô dâu tương lai. Thầy tướng quan sát xong nói cho cha mẹ Hứa Doãn biết rằng cô con gái đó có tướng giúp đỡ, phò tá chồng một cách đắc lực cả trong lẫn ngoài. Nghe lời qủa quyết của thầy tướng, họ Hứa yên tâm cử hành hôn lễ cho đôi trẻ.
Theo tập quán, nam nữ thọ thọ bất thân thời đó, Hứa Doãn và Nguyễn thị chỉ biết tiếng đồn về nhau chứ chưa từng được gặp mặt hay có dịp chuyện trò. Sau khi thành hôn, Hứa Doãn thấy vợ thật là xấu xí, còn mình thì đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu, bèn tự nghĩ là con gái họ Nguyễn lấy được mình là phúc lớn lắm rồi. Nhớ lại lời thầy tướng nói là phải nhờ có cô gái xấu xí kia chăn dắt, giúp đõ mình mới mong thành đạt được, Hứa Doãn rất lấy làm hoài nghi, không biết ông ta căn cứ vào đâu mà dám nói như vậy.
Do đó, một hôm trong chốn phòng the, Hứa Doãn mới hỏi vợ rằng : “Tôi nghe thầy tướng nói mình có tướng dạy được chồng, mình có tin như thế không ?”. (Nguyên là chữ “Tướng” phu chi tướng có nghĩa là dẫn dắt, điều khiển chồng hầu đạt đến thành công. Nói rộng ra là chồng phải nhờ có tay vợ mới nên người)
Ngày xưa, vợ rất trọng chồng nên nghe chồng hỏi như vậy, Nguyễn thị tủm tỉm cười đáp rằng:
--“Thiếp không tin rằng mình lại có tướng dạy chồng, nhưng thiếp tin chắc rằng mình là kẻ có phúc”. Hứa Doãn hỏi : “Mình có phúc gì ?” Nguyễn thị đáp: “Thiếp có cái phúc trời ban là khiến chồng”. Người chồng nghe thấy hai chữ “khiến chồng” lấy làm thắc mắc bèn hỏi : “Khiến chồng là gì ?” Vợ đáp : “Ðó là khiến cho chồng yêu mình, nể mình, khiến cho chồng phú quý vinh hoa. Một cô gái xấu xí như thiếp nếu trời không ban cho phúc đó thì làm sao sánh duyên với người tài mạo như chàng.”
Dẫu không biết tướng học, nhưng là kẻ lanh lợi, học thức nên nghe vợ đối đáp một cách thông minh như vậy, Hứa Doãn thấy quả nàng cũng có điểm khiến cho mình tâm phục. Tuy nhiên, vì vẫn chưa giải được nghi ngờ nên Hứa Doãn hỏi tiếp :
-- “Mình có nghe thấy ông thầy tướng nói quý tướng của mình ở chỗ nào không ? Cái quý tướng đó có phải là ở chỗ mắt đẹp, mũi tốt không ? Có phải trời sinh ra toàn thân xấu xí là qúy tướng khiến cho chồng phải yêu chiều mình không ? Hoặc giả quý tướng đó là cái gì khác nữa chăng ?”
Nguyễn thị thấy rằng qua những điều chồng thắc mắc rõ ràng là chàng ta không ưng ý về dung mạo của mình nhưng không dám tỏ vẻ bất bình chỉ nhỏ nhẹ đáp lại :
-- “Thiếp có nghe thầy tướng nói, thiếp cũng tự biết là mình không được xinh đẹp nhưng thiếp có một điểm tướng rất tốt đó là Phu tinh cực tốt.”
-- “Phu tinh ? Phu tinh của mình chính là tôi, giữa cái đó và diện mạo của mình có quan hệ gì ?”
-- “Thầy tướng nói rằng : Mũi là cung thê của đàn ông, là cung phu, chủ về người chồng của đàn bà. Ông ta nói trong Ngũ quan của thiếp hầu hết đều không tốt, nhưng Mũi lại cực tốt, ngay thẳng, cao, mập, lỗ Mũi không lộ cho nên mới gọi là phụ tình cực tốt. Bây giờ quả là đúng. Hiện giờ chàng chẳng phải là Phụ tình của thiếp hay sao ? Sách tướng có câu : “Coi tướng đàn bà không cần coi mệnh của họ, chỉ cần coi Phụ tình của họ” cho nên muốn biết số kiếp thiếp tốt hay xấu chỉ cần coi cách đối xử của chàng đối với thiếp tốt xấu ra sao là đủ.”
Nghe vợ nói đến Mũi, Hứa Doãn tiện tay lấy gương soi mặt để quan sát chính khuôn mặt của mình thấy Mũi tuy khá thẳng nhưng lỗ Mũi hơi lộ và sơn căn nhỏ, thấp so với vợ thì kém xa lắm, bèn quay sang nói với vợ :
-- “Nếu nói như mình, thì Mũi của mình mới được xem là tốt thì quả là Mũi tôi không tốt bằng Mũi của mình phải không? Như thế thì tôi cần phải nương dựa vào mình chứ gì ?”
Nói xong, Hứa Doãn tỏ vẻ bực dọc và không tin rằng mình tướng cách lại thua vợ vì thấy rõ là vợ xấu xí còn mình vừa đẹp trai vừa học giỏi.
Người vợ thấy chồng không hiểu rõ bèn tủm tỉm cười nói rằng:
--“Thiếp thấy chàng cái gì cũng sáng suốt thế mà đối với phép xem tướng chàng có một điểm hết sức tối tăm chẳng thông minh chút nào cả !”
Hứa Doãn nói :
-- “Tại sao lại tối tăm? Tôi dựa theo điều mình nói cả mà. Mình nói rằng mũi của mình tốt như thế này thế nọ, còn Mũi tôi so với Mũi mình không tốt bằng, như thế có gì gọi là không thông minh?”
Vợ đáp:
--“Chàng không thông minh chính là ở điểm đó. Thiếp đã chẳng từng nói rõ là thầy tướng nói rằng Mũi của vợ chính là ngôi sao chủ về chồng, còn Mũi của chồng chính là ngôi sao chủ về vợ. Mũi thiếp cực tốt nghĩa là chồng thiếp sẽ là một văn nhân tài mạo song toàn, được hưỡng vinh hoa phú quý, còn Mũi chàng không được hoàn toàn tốt đẹp có nghĩa là cung thê của chàng không được hoàn toàn. Nói khác đi là thiếp xấu xí, vô tài. Thực tế quả là đúng như vậy, cho nên chàng đừng thắc mắc bực mình vì cả chỉ thêm vô ích.”
Sau lời bàn luận với vợ về tướng học, Hứa Doãn cảm thấy vợ mình không còn là một cô gái đáng chê một cách ghê gớm như trước vì Doãn thấy vợ là người thông minh, hiền thục. Hơn nữa vợ xấu là bởi cái Mũi của mình không được đẹp, cái đó là số mạng tiền định, đâu phải vô lỗi của nàng. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nghĩ như vậy, nên trong lòng không còn ấm ức và đối với vợ, mối hảo cảm ngày càng một gia tăng. Càng chung sống với nhau lâu ngày, Hứa Doãn càng thấy vợ mình quả là có tướng làm xếp mình thật.
Một hôm, hai vợ chồng đàm luận về việc vợ chồng hổ tương phối hợp, Hứa Doãn hỏi vợ:
--“Ðàn bà có tứ đúc là công, dung, ngôn, hạnh. Mình tự xét xem có được mấy đức?”
Nguyễn thị nghe hỏi biết ngay là chồng nhạo báng mình xấu xí nên đáp lại:
--“Ðàn bà có bốn đức thì thiếp đây chỉ thiếu có một đức về dung mạo không được xinh đẹp mà thôi. Nhưng xấu đẹp là do trời xếp đặt chẳng phải cha mẹ hay bản thân muốn mà được, nên việc thiếu sót về dung mạo không phải tội lỗi của thiếp và cũng chẳng lấy thế làm nhục.”
Hứa Doãn nói:
--“Ðàn bà phải có đủ tứ đức thì mới gọi là hoàn toàn. Thế mà mình thiếu mất một đức tức là chỉ được ¾ , có phải vậy không?”
Vợ đáp:
--“Ðúng vậy, nhân vô thập toàn. Thiếp được tới ¾ đức tính của phụ nữ, cũng đã được kể là nhiều rồi chứ quả là không được hoàn toàn đầy đủ.”
Doãn nói:
--“Nhưng mà tôi lại thích người đàn bà đẹp vì vậy cần phải có người vợ đầy đủ tứ đức mới hoàn toàn thỏa nguyện. Mình nghĩ xem, nguyện vọng của tôi như vậy có đúng không? Có nên có tư tưởng đó không?”
Nghe chồng nói như vậy, Nguyễn thị nhịn hết nổi, nàng nhận thấy chồng kêu ngạo, vô lễ, không còn giữ được truyền thống “tương kính như tân” của kẻ sĩ. Nàng tự nhủ, cần phải cho anh chàng kêu ngạo, háo sắc này một bài học đạo lý để anh ta bớt lố lăng, bởi thế nàng bèn đáp:
--“Ðúng, chàng nói đúng, nghĩ đúng, nguyện vọng cũng chính đáng luôn nhưng chàng cũng nên tự xét xem mình có phải là người hoàn toàn hay, hoàn toàn tốt không đã ?”
Nghe vợ vặn lại, Hứa Doãn có vẻ không được vui, nhưng ý đã quyết răn chồng, Nguyễn thị giả bộ như không thấy, lại tiếp tục hỏi bồi thêm:
--“Ðàn bà có tứ đức, thiếp tự biết mình thiếu một đức. Vậy xin phép được hỏi chàng là kẻ sĩ có cả trăm nết tốt, chẳng hay chàng có được bao nhiêu nết?”
Hứa Doãn vênh váo đáp ngay tức khắc:
--“Ta đây có đủ trăm nết.”
Vợ hỏi thêm:
--“Chàng cho phép thiếp hỏi thêm một câu nữa được chăng?”
Hứa Doãn đáp:
--“Ðưọc lắm chứ! Mình có gì cứ việc nói ra ngay đi”
Lúc đó, Nguyễn thị mới thủng thỉnh nói:
--“Trong trăm nết tốt của kẻ sĩ thì đúc độ là nết tốt đứng đầu, trong muôn ngàn nết xấu thì dâm xếp vào số một. Vậy mà giờ đây chàng nói ra miệng là rất trọng đàn bà có sắc đẹp, chứng tỏ rằng chàng là kẻ rất háo sắc. Như thế rất là tai hại cho nết tốt số một trong 100 nết rồi thì làm sao có thể nói là mình có đủ cả trăm đức tính cần thiết của kẻ sĩ ? Thiếp chỉ khuyết có phần dung mạo là phần phụ thuộc nên chỉ dám nhận là mình chỉ có ¾ đức tính đàn bà, chứ không dám nói là mình có đủ nết na. Nay chàng thiếu mất ngay cái nết số một của kẻ sĩ thì chẳng hiểu trong số 100 nết hay đó chàng còn thiếu những gì nữa ?”
Nghe vợ nói đến đây thì Hứa Doãn chết điếng, đúng ngay như bị trời trồng, vô phưong chống chế. Từ đó hết sức nể nang vợ và gần như thần phục bà vợ vậy.
Theo truyền thuyết còn lưu lại thì trong lúc thầy tướng khuyên cha mẹ Hứa Doãn hãy cưới kỳ được con gái họ Nguyễn cho con trai mình, nếu muốn cho Hứa Doãn nên người, vì cô con gái đó có tướng “Tướng phu chi tướng”, nhiều bà con bên trai đều nghi hoặc cho là đứa con gái xấu xí như ma lem lấy được trai họ Hứa là có phúc rồi chứ làm gì lại mang phúc đến cho chồng. Bị gạn hỏi qúa gắt, thầy tướng buộc phải giải thích. : “Ngôi sao vợ của Hứa Doãn đã không đẹp mà cái tính Hứa Doãn lại là đứa thiếu niên háo sắc, nếu lấy một người con gái bình thường thì sau khi cưới vợ rồi sẽ không dứt được thói trăng hoa, khiến cho gia đình sinh tai tiếng hoặc mình bị mang vạ đào hoa. Nếu phối hợp với con gái họ Nguyễn là kẻ có bản lỉnh, đủ sức kềm hãm chồng, không cho sa đọa vào con đường hư hỏng thì hắn mới nên người và gia đình mới có hạnh phúc.”
Trích "Nhân Tướng Học" của Hy Trương
TRẦN VIỆT SƠN (tập hợp các kinh nghiệm cổ kim)
Trong số trước mở đầu loạt bài “Nguyên tắc giải đoán lá số tử vi”, chúng tôi đã cống hiến quý bạn những “chất liệu”, “dụng cụ” để quý bạn sử dụng trong việc giải đoán. Kỳ này chúng tôi xin nêu lên nguyên tắc đầu tiên để ước tính 1 cung Mạng hay hoặc dở, tức là 1 đời người nói chung tốt hoặc xấu.
Các nhà tướng số theo các sách cổ thường nêu lên 1 yếu tố lấy trong tử bình:
- Lấy can chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh rồi xét Âm Dương và xét các hành- Cùng Dương hay cùng Âm là tốt (nhất là cùng Âm thì cuộc đời an lành, không vận hạn)
- Không được thế thì năm Âm, tháng Âm cũng được
- Năm tháng ngày giờ sinh đều có hành (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ). Nếu được năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ là tốt. Nếu khắc nhau thì giảm kém
- Muốn xác định yếu tố đó, phải xem Vạn Niên Lịch và lại phải theo tiết khí chứ không theo tử vi. Vì phải xem Vạn Niên Lịch và theo nguyên tắc Tử Bình cho nên phức tạp. Bởi thế, nhiều cao thủ tử vi bỏ yếu tố đó và chỉ xét những yếu tố khác:
Hai yếu tố đầu không xác định vào chi tiết, chỉ nêu lên sự kiện tốt hơn lên hay giảm bớt đi. Các yếu tố 3,4,5,6,7 đi vào chi tiết, cho phép xác định nhiều sự kiện trong cuộc đời về hình tướng, sức khỏe, tính tình, công danh và việc làm, thế đứng trên bậc thang xã hội
Sau khi chúng tôi trình bày yếu tố, chúng tôi sẽ ngược trở lại để xếp đặt phép giải đoán chung
YẾU TỐ 1: MỆNH & CỤC
- Mệnh có hành, Cục có hành
- Hành Mệnh sinh cho hành Cục: tốt nhiều
- Hành Cục sinh cho hành Mệnh: tốt vừa
- Hành Cục khắc hành Mệnh: xấu vừa
- Hành Mệnh khắc hành Cục: xấu
Như người mệnh Kim, cục Thủy được tốt vì sinh. Bị giảm hay được tốt có nghĩa là giảm đi hay tốt hơn so với những giải đoán trên lá số. Sự giảm đi hay tốt hơn không được chính xác là bao nhiêu. Ở đây còn tùy kinh nghiệm. Nhiều cao thủ tử vi không quá chú trọng yếu tố này
YẾU TỐ 2: VỊ TRÍ CUNG MỆNH
Người ta gọi “Mệnh Dương cư Dương vị”, “Âm cư Âm vị” là tốt. Còn Mệnh Dương cư Âm vị, Âm cư Dương vị là kém tốt
- Các tuổi Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là tuổi Dương
- Các tuổi Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là tuổi Âm
- Tuổi Dương mà Mệnh đóng ở cung Dương trên lá số là tốt
- Tuổi Âm mà Mệnh đóng ở cung Âm (tức các cung Sửu, Mão Tị, Mùi, Dậu, Hợi) là tốt
- Trái lại, tuổi Dương mà Mệnh đóng cung Âm, tuổi Âm mà mệnh đóng cung Dương là xấu
Tốt tức là tăng độ số tốt, xấu tức là giảm độ tốt
YẾU TỐ 3: CHÍNH TINH THỦ MỆNH
Ở cung Mệnh có 1 hay 2 chính tinh thủ Mệnh chỉ về vận mạng đại cương của người (vị trí cao thấp trong xã hội), hình tướng, tính tình, có thể luôn cả sự giàu nghèo, hướng đi trong đời, nghề nghiệp…Đó là cung quan trọng nhất
Đoán Mệnh, thật ra phải kèm luôn cả các yếu tố 4,5,6,7. Nhưng chúng tôi hãy chỉ xin nêu lên các yếu tố chính tinh thủ Mệnh.
Như đã ghi trong số trước, 1 chính tinh có 1 vị trí trên lá số, vị trí đó tốt giúp cho chính tinh có tất cả các hiệu lực, hay vị trí hãm khiến mất hết hiệu lực và có thể thành xấu nữa. Tùy theo vị trí, chính tinh có thể:
Tuy nhiên, vì 1 chính tinh còn Âm Dương, phương hướng, vả lại có những kinh nghiệm thêm vào, cho nên việc ấn định vị trí miếu hay hãm lại không hẳn theo hành. Theo bảng ghi, thì Thiên Tướng miếu tại cung Dần Thân, vượng tại Thì, Tuất, Ngọ, đắc tại Sửu Mùi Tị hợi, hãm tại Mão Dậu.
Có thể làm 1 cuộc so sánh: 1 chính tinh giống như 1 ông cò trọng nhậm ở 1 địa phương: địa phương đó thuận tiên, thích hợp thì ông Cò có thực quyền (nhập miếu, đắc địa); địa phương đó xấu, gặp nhiều người to chèn ép thì ông cò sợ sệt, không có quyền (hoặc có thể kể như ông cò về hưu). Nhưng chưa phải mệnh gặp chính tinh miếu mà là được ảnh hưởng tốt, cũng không phải gặp chính tinh hảm mà là xấu. Còn phải xét Âm Dương của chính tinh nữa. Tùy theo Âm Dương mà chính tinh có thể ảnh hưởng hay không.
Nếu mình tuổi Dương mà chính tinh là Dương thì chính tinh không ảnh hưởng vào mình (không khắc, cũng không sinh dưỡng tốt, kể như chính tinh trung lập đối với mình). Nhưng nếu chính tinh là Âm thì sẽ có trọn ảnh hưởng nếu nhập Miếu, vượng địa hay đắc địa, để ảnh hưởng tốt (sinh dưỡng cho Mệnh) hay xấu (khắc Mệnh).
Cụ Hoàng Hạc giải thích sự kiện Âm Dương theo Dịch Lý, cũng tương tự như các cực của 1 thanh nam châ,: cực Dương và Dương đẩy nhau, cực Âm và Âm đẩy nhau (tức không biết đến nhau, không ảnh hưởng vào nhau). Các cực Dương và cực Âm mà gặp nhau thì hút nhau tức là có ảnh hưởng vào nhau, sinh dưỡng tốt, hoặc là khắc xấu).
Như thế, về 1 chính tinh có tốt cho mình hay không cần phải xem chính tinh có vị trí tốt hay không (miếu vượng đắc hãm), chính tinh có Âm Dương để đạt ảnh hưởng vào đương số hay không, và chính tinh có hành khắc Mệnh hay sinh phò cho mệnh.
Vậy thì 1 chính tinh miếu vượng đắc địa phải có Âm Dương khác với Âm Dương của tuổi và phải có hành sinh cho hành của mệnh mới là tốt.
Ví dụ: người tuổi Mùi, tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh là Vũ khúc tại Sửu (miếu). Vũ khúc là Âm Kim, đồng với tuổi Âm thì Vũ khúc không có ảnh hưởng với tuổi Mùi.
Người tuổi Mão tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh tại Dần là Thiên Tướng (Dương Thủy). Tại Dần Thiên Tướng miếu, thuộc Dương là có ảnh hưởng với tuổi Âm, nhưng hành Thủy lại khắc mạng Hỏa. Vậy Thiên Tướng ở đây tuy là miếu nhưng lại khắc mạng.
(Trong kỳ sau, chúng tôi sẽ xin chiếu theo các lá số để luận về ảnh hưởng của các chính tinh trước khi xét các yếu tố 4,5,6,7)
....
Để xác định 1 mệnh là tốt hay xấu và tốt xấu nghiêng về những hướng nào (tốt là giàu, có công danh, có cuộc sống ngay lành không vận hạn; xấu là nghèo, hèn, hoang tàn, hay đổi thay….), chúng ta lần lượt nhận xét các yếu tố sau này trên cung mệnh:
Ngoài nguyên tắc ấy, còn những cách nêu lên những sự giải đoán khác biệt
MỆNH TỐT
Có mệnh tốt, cuộc đời giàu sang, học hành và công danh khá giả, nếu:
Chính tinh miếu, vượng, đắc địa, có hành dưỡng cho hành mạng, không bị những hung tinh vướng vào và được thêm những bộ sao tốt sau đây (càn được nhiều càng tốt nhiều)
MỆNH XẤU
Không có chính tinh tốt và hạp mạng, mà lại gặp những bộ sao xấu thì Mệnh kém, nhiều sự rủi, nhiều vận hạn:
NHỮNG CÁCH RIÊNG BIỆT ĐỂ XÁC ĐỊNH MẠNG
Vị trí cung Mệnh Thân: phải nhìn xem vị trí cung Mệnh so với các sao trong vòng Thái Tuế. Mệnh được Thái Tuế, Quan Phù, Bạch hổ là người ngay chính, hoạt động hợp với lòng mình và dễ đạt kết quả. Mệnh ở 1 cung đối diện với 3 sao trên là thường gặp nghịch cảnh, khó đạt sở nguyện. Mệnh ở 1 cung sau cung có 1 trong 3 sao trên (theo chiều thuận thì cung đó đứng sau cung có Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ) là người kém vế, đi làm cho người khác. Cung Mệnh ở 1 cung đứng trước cung có Thái Tuế, Quan Phù, bạch hổ là người hay lấn lướt người khác nhưng phải coi chừng ăn người khác rồi cũn dẫn đến thất bại vì gặp Thiên Không tại mệnh hay tam hợp mệnh
YẾU TỐ LỘC TỒN
Phải nhìn xem đương số có được hưởng lộc tồn hay không. Như người tuổi nào thì ghi cung đó và nhìn xem cung đó hay 2 cung tam hợp có Lộc tồn hay không. Không có Lộc tồn là không được hưởng lộc trời (lộc tự nhiên và bền vững, và hạnh phúc với cuộc sống lành, không tai nạn)
Cũng có thể là cung mệnh có Lộc tồn hoặc được Lộc tồn ở tam hợp chiếu về, cũng được hưởng Lộc tồn nhưng hạn chế.
YẾU TỐ VÒNG TRƯỜNG SINH
Phải nhìn xem cung mệnh được sao gì: Được Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Thai, Dưỡng là tốt. các sao còn lại là xấu
YẾU TỐ ĐÀO HỒNG, THIÊN KHÔNG
Phải nhìn cặp Đào hoa, hồng Loan và Thiên Không đứng với nhau tại Mệnh như thế nào:
Về chi tiết các cách, xin đón coi kỳ giai phẩm tới.
******
Về các nguyên tắc giải đoán Tử vi, chúng tôi đã kể đến sự kiện Mệnh, Cục tương sinh hay tương khắc Mạng, đó là những yếu tố rất đại cương để tăng thêm độ số hay giảm hạ độ số.
Kế đó, chúng tôi đã lần lượt kể đến các nguyên tắc đi vào chi tiết để đoán Mạng của một người:
Kỳ này, chúng tôi sẽ nêu lên những cách sao chính mà một cung Mệnh có thể gặp để thấy ngay cái tốt hay cái xấu của một vận mạng.
Ý nghĩa vòng Tràng sinh
Sao của vòng Tràng sinh gặp tại Mệnh chỉ về trạng thái, cấp bậc, trình độ sống của một người.
Vòng Tràng sinh gồm có: Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Cách an các sao trong vòng Tràng sinh dễ đúng với nguyên tắc giải đoán sau:
Giải đoán
Tùy theo cung Mệnh có sao nào của vòng Tràng sinh mà có một ý nghĩa (xin chú ý rằng đây chỉ là một yếu tố để còn phối hợp với các yếu tố khác). Thí dụ: được Đế vượng là được trạng thái sống rất tốt, rất thuận lợi, nhưng nếu các thế sao khác lại hỏng thì đương số được sự thuận lợi để đạt đến mức độ thấp kém hơn như các sao khác cho phép.
Mệnh gặp Tràng sinh (ngay tại cung Mệnh): khỏe mạnh, ít vận hạn, ra đời ở thế khác ngay.
Mệnh có Mộc dục, sinh ra ở trạng thái như tuổi dậy thì, có nhiều triển vọng để tiến.
Mệnh có Quan đới, Lâm quan, hay Đế vượng, có nhiều điều kiện dễ dàng đạt được những bằng cấp, chức vị.
Mệnh có Suy: cuộc đời sút kém, nhưng ít thôi (trạng thái vừa suy sau khi vượng tột bậc).
Mệnh có Bệnh: cuộc đời suy giảm hoặc có cản trở, có bênh làm suy giảm sinh hoạt (đại mạng như Khổng Minh, gặp Suy, cũng vẫn trở nên quan sựu vạn đại nhờ các thế sao tốt, nhưng cuộc đời bị suy giảm, gặp Bệnh cũng tương tự).
Mệnh có Tử: cuộc đời suy kém nhiều (làm nghề cao quý, cũng suy giảm).
Mệnh có Mộ: cuộc đời phẳng lặng ở chỗ tối (không chừng lại đạt hạnh phúc) vì không tham vọng và được sống yên.
Mệnh có Tuyệt: cuộc đời tầm thường, không được nhắc tới.
Mệnh có Thai: cuộc đời có những mầm hé nở để vươn lên.
Mệnh có Dưỡng: cuộc đời tốt, tu tâm dưỡng tính càng tốt.
Các thế chính tinh và trung tinh, hung tinh
Như đã nói mạng số muốn tốt, thì cung Mệnh cần phải có chính tinh miếu, vượng, đắc địa (có như vậy thì chính tinh mới sáng láng) nhưng hành của chính tinh đó cũng phải dưỡng cho Mệnh minh hay hòa thì mới tốt. Nếu chính tinh tốt mà lại khắc mình, thì xấu (còn xấu hơn cả là chính tinh hãm mà phù cho Mệnh của mình).
Vậy khi nói rằng người đó có Tham Vũ miếu tại Mùi là tốt lắm là chưa đủ, còn phải xét xem Tham Vũ đó có phù cho mình không mới được.
Chính tinh ở vào một cách nào đó, như cách Tử phủ vũ tướng, Sát phá liêm tham, Cự nhật, Cơ nguyệt đồng lương. Những cách đó không nhất thiết là tốt hay xấu, sở dĩ được nêu lên là để còn xét với những sự kiện khác, hoặc là để xét về đại vận ( như có Tử phủ, Vũ tướng, đến đại vận Sát phá liêm tham, là người có trí tuệ gặp thêm bàn tay làm việc như Cơ nguyệt đồng lương, gặp những sao nặng phá thì bị họa hại, trong khi Sát phá liêm tham lại không sợ).
Xét chính tinh, chưa đủ ấn định mạng số khá hay kém, mà còn phải xét xem các chính tinh đó được phò hay bị phá.
Nếu chính tinh tốt, mà lại gặp Tuần Triệt thì lại bị giảm kém. Nếu chính tinh hãm, gặp Tuần Triệt thì lại tốt ra.
Một chính tinh như Tử, Phủ gặp Không, Kiếp hãm thì lại bị hỏng nhưng Thiên tướng gặp Không kiếp lại không hề hấn gì. Chính tinh tốt và phò cho Mệnh là tốt, nhưng cũng phải thêm những sao như Khôi Việt, Xương Khúc, Long Phượng, Hổ Cái, Tướng ấn thì việc học hành mới giỏi, đỗ đạt cao, đường công danh tốt có chính tinh tốt mà gặp những hung tinh nặng như Không kiếp, Kình đà, Linh hỏa ở thế hại thì lại hỏng. Những hung tinh miếu vượng và nhập vào cách tốt thì lại được tốt.
Các cách thật phức tạp, kể hết ra thì đó là một cuốn tự điển giải đoán, mà có khi không thực tế bằng công trình nêu lên những nguyên tắc và các cách chính.
Bởi thế, chúng tôi sẽ chỉ nêu lên những nguyên tắc, kèm thêm một số những cách chính (như cách Hồng, Đào, Thiên không, các hung tinh, các trung tinh mạnh…) để quý bạn trông vào lá số thấy ngay những điều mình có thể giải đoán được.
Xin đón các kỳ sau các cách chính để giải đoán Mệnh.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Khi xây nhà, bất kì người nào cũng phải cân nhắc thận trọng vị trí đặt bếp. Khu vực này vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của gia chủ chứ không chỉ đơn thuần là một nơi để nấu nướng.
Bếp thường dựa vào vách trái từ trong nhà nhìn ra và không được đối diện nhà vệ sinh. Đặt chéo với góc trái của nhà cũng thích hợp, có ý nghĩa muốn xua đuổi tai họa. Ngoài ra, những vị trí nên tránh là đặt bếp trên bể nước, dưới gầm cầu thang và quay cùng chiều với cửa chính của nhà. Bể cá cũng không nên đặt gần bếp. Một mặt gương soi lên bếp là điều tôi kị vì như vậy là không may mắn, phúc lộc sẽ rời xa nhà bạn.
Vị trí của bếp phải kê trên nền cao ráo, không khí thoáng và ánh sáng đầy đủệ Chân bếp không được gập ghềnh. Nghiêng lệch là điều tối kị khi đặt bếp. Mái nhà bếp không được để dột, có nước rơi vào.
Bếp được coi là nơi tốt nhất trong nhà để đẩy lùi những điềm xấu, chính vì vậy, người ta thường chọn vị trí nhà bếp theo phong thủy ở những nơi được xem là xấu để chặn những điềm xúi quẩy và mang điều may mắn đến cho gia đình.
Khi đặt bếp cần phải chú ý những đặc điểm quan trọng như sau:
– Kị gió:
Theo phong thủy học, nên đặt ở hướng “Tàng phong tụ khí”, do đó bếp không được đặt ồ nơi đón gió, nên tránh vị trí vị trí gió lùa trực tiếp vào bếp.
Không nên đặt bếp nấu ăn dựa vào tường nhà bếp, bếp nhìn ra cửa chính hoặc phía sau bếp là cửa sổ vì gió sẽ lùa trực tiếp vào bếp. Đặc biệt không nên đặt bếp nấu ăn ở cạnh cửa sổ có mặt trời phía Tây chiếu vào bếp vì nếu bạn đun bằng bếp dầu hay bếp ga, khi gió lùa vào không chỉ làm tắt bếp mà mùi ga dầu còn gây độc hại cho người. Nếu bạn đun bằng bếp than củi, lúc gió thổi lửa ra bốn phía có khi còn gây ra hỏa hoạn. Ngoài ra, không nên đặt bếp cạnh phòng ngủ vì bếp nóng bức, hơi dầu mỡ, người hít phải nhiều hơi này sẽ gây nguy hại cho sức khỏe.
Cho dù thế nào bạn cũng không nên đặt bếp ở nơi đón gió, vì điều đó trái ngược với thuật phong thủy, hơn nữa lại ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như sự an toàn cho bản thân và gia đình.
– Kị nước:
Theo quan niệm của phong thủy học, sự nóng bức của lửa và sự lạnh lẽo của nước không hòa hợp với nhau. “Thủy hỏa bất tương dung” là chỉ nước và lửa không dung hòa với nhau, xung khắc nhau.
Vì thế, phong thủy học có câu nói: “Lư táo kị nước” (Bếp núc kị nước). Có những phương pháp kị nước khi đặt bếp như sau:
+ Tránh đặt bếp ở phía Bắc vì là hướng đón nước, mà hỏa khắc thủy, do đó đây không phải là hướng tốt để đặt bếp.
+ Tránh đặt bếp ở nơi có máng nước.
+ Tránh đặt bếp ăn kẹp giữa 2 vật dụng mang theo nước như máy giặt, tủ lạnh, bồn rửa bát vì thủy kị hỏa. Nhà bếp là nơi rất quan trọng trong gia đình, vì thế bạn nên tạo không khí thông thoáng bằng cách đặt ít đồ đạc, nên đặt quạt thông gió hoặc máy hút khói dầu để làm sạch không khí sau khi nấu ănỂ Hơn nữa, phòng bếp cũng cần đủ ánh sáng, do đó tốt nhất bạn nên lắp đèn neon hoặc đèn chùm.
– Bồn rửa bát:
Bạn không nên đặt bồn rửa bát quá gần bếp nấu ăn hoặc đối diện với bếp nấu ăn vì sẽ gây nhiều bất tiện cho người nấu. Do đó nên đặt bồn rửa bát ở khoảng cách vừa phải ở độ cao tương ứng.
– Thùng gạo:
Theo phong tục tập quán của người phương Đông, trong bữa ăn không thể thiếu cơm gạo. Nên đặt thùng gạo ở hướng Tây Nam hay Đông Bắc của bếp và phía dưới được kê lên để chông ẩm. Một điều cần lưu ý là nên đặt ở nơi kín đáo, không nên đặt ở hướng Đông và đặt quá cao. Bởi vì thùng gạo thuộc “thổ”, vì thế nên đặt ở hướng mang tính “thổ”, là hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc. Vì “mộc” khắc “thổ” nên không nên đặt ở hướng “mộc”, là hướng Đông hoặc Nam.
– Tủ lạnh:
Tủ lạnh là nơi cất giữ đồ ăn, là dụng cụ phổ biến ở các gia đình hiện đại, vì thế rất nhiều người muôn biết đặt tủ lạnh ở đâu là thích hợp nhất? về vấn đề này có rất nhiều cách nói khác nhau, chưa có một kết luận cụ thể. Bởi vì ngày xưa ông cha ta chưa có tủ lạnh nên trong các tài liệu phong thủy của người xưa để lại không đề cập đến vấn đề này. Theo quan điểm của đa ố các nhà phong thủy là nên đặt ở hướng cát (hướng tốt) như phía Bắc, Đông Nam. Vì tủ lạnh là nơi máy móc vận hành liên tục cả ngày. Nếu đặt ở hướng dữ dễ làm chấn động đến các sao dữ và kích động nó gây rốì. Hơn nữa, tủ lạnh là nơi cất giữ thực phẩm, là thành phần quan trọng trong cuộc sống con người, nếu đặt ở hướng xung sẽ không thích hợp.
– Thờ thần táo quân:
Là người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng biết về sự tích ông Công, ông Táo. Tục lệ thờ những vị thần này đã được gìn giữ và lưu truyền đến tận bây giờ. Từ xưa đến nay, hầu như trong gia đình nào cũng thờ ông Công, ông Táo. Vậy, nên thờ Táo quân ở đâu là thích hợp nhất? Các vị thần này nên đặt ở trên bếp nấu ăn, nếu không gian nhà bạn quá chật hẹp thì có thể đặt ở góc nhà bếp phía Nam, bởi vì trong Ngũ hành Táo quân thuộc “hỏa”, cho nên Táo quân cần được đặt ở phía Nam hỏa vượng.
Phong thủy học cho rằng, chức vị của táo quân không chỉ là lo quản nhà bếp, mà chức vụ chủ yếu là thay trời giám sát việc tốt xấu trong nhân gian, sau đó cứ mỗi năm lại trở về triều đình bẩm báo với thiên đình, ngọc hoàng sẽ căn cứ trên những việc tốt xấu của từng gia đình mà có hình thức thưởng phạt thích đáng. Ngoài ra, ông Táo còn là vị thần bảo vệ cho mỗi gia đình, không để cho yêu ma quỷ quái xâm nhập vào nhà.
Ngoài những điều trên, bạn nên lưu ý khi chọn vị trí đặt bếp như sau:
– Nhà bếp nên gần cửa sau hơn cửa trước.
– Nhà bếp không nên đặt ở chính giữ ngôi nhà.
– Không nên đặt bếp đôi diện cửa chính, cửa toilet và các cửa phòng ngủ.
– Không nên đặt bếp ở ngay phía dưới xà nhà.
– Không nên đặt bếp dưới cầu thang.
– Không nên đặt bếp ngay dưới phòng vệ sinh của tầng trên.
– Nhà bếp, đặc biệt là bếp lò không nên đặt ở hướng Tây Bắc vì hướng này được ví như “lửa ở cổng trời”, có nghĩa là mang điềm gở vào nhà, mang đến mối nguy hiểm cho ngôi nhà cũng như người trụ cột của ngôi nhà. Những điềm gở này có thể được cải thiện bằng cách thay đổi vị trí của bếp lò và các công cụ nhà bếp một cách hợp lí. Cần phải có sự cân bằng giữa âm và dươngử Trong bếp, bếp lò (lửa) tượng trưng cho phần dương còn bồn rửa bát (nước) tượng trưng cho phần âm.
– Bếp lò không nên đặt ngay hướng toilet. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến thức ăn đang nấu và có nguy cơ mang đến những điều xấu cho gia đình. Nên nhớ luôn đóng cửa phòng tắm hướng vào bếp.
Sách phong thuỷ xưa có ghi: Ba điều cốt yếu của dương trạch là “môn, chủ, táo”. Phòng bếp là một phần trong ố đó. Thức ăn là nguồn dưỡng mệnh, do đó phong thuỷ của phòng bếp rất quan trọng. Nếu phong thuỷ không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, tài vận bị tổn thương, làm cho gia trạch bất ổn. Để tạo được phong thuỷ tốt cho phòng bếp, bạn cần chú ý:
– Nên thiết kế phòng bếp ở phía Nam của nhà, vị trí tiếp theo là phía Đông hoặc Đông Nam. Kị nhất là phía Bắc, Tây hoặc Tây Bắc.
– Cửa phòng bếp không được dối diện với cửa phòng lớn. “Dương trạch tam yếu” viết rằng: “khai môn kiến táo, tiền tài đa hao” (mở cửa nhìn ngay thấy bếp, thì tiền tài hao hụt).
– Cửa phòng bếp và cửa phòng ngủ kị đối nhau vì khói bếp, mùi thức ăn sẽ ảnh hưởng tới người trong phòng.
– Cửa phòng bếp tránh trực diện với phòng vệ sinh. Bếp là nơi tích tụ cát khí, nhà vệ sinh lại có nhiều uế khí nên không thể đốì diện nhau.
– Sàn của phòng bếp không được cao hơn các phòng khác để tránh: “nhiễm thuỷ đảo lưu”.
– Lôi đi hành lang ban công không được đối diện với bếp, nhà sẽ không tích tụ được tài vận, người dễ bị mặc bệnh huyết áp cao hoặc một ố bệnh khác.
– Bếp không được đôi diện với tủ lạnh, vòi nước. Vì theo phong thuỷ tủ lạnh thuộc hành thuỷ, bếp thuộc hành Hoả nên sẽ xung khắc nhau.
– Không khí trong phòng bếp cần được lưu thông, do vậy, bạn nên lắp máy khử mùi, quạt khí… để làm lưu thông không khí và làm giảm nhiệt độ trong phòng.
– Phòng bếp phải luôn khô ráo, thoáng đãng, độ ẩm không quá lớn. Chỗ nấu bếp phải có khoảng không và độ cao cần thiết.
Những đồ vật sắc trong phòng bếp như dao, kéo không được để lộ ra ngoài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Chuyện ngoại tình của hoàng hậu "bệnh" nhất Trung Hoa Theo sử sách ghi lại, Giả Nam Phong là con gái của Giả Sung, ông là một công thần khai quốc thời nhà Tây Tấn. Giả Sung hiếm muộn, lấy vợ sau một thời gian dài mới sinh được hai cô con gái là Giả Nam Phong và Giả Ngọ.
![]() |
Giả Nam Phong là vị hoàng hậu xấu hiếm có nếu không muốn nói là kỳ dị trong lịch sử Trung Quốc. |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thủy Thần.
Nội dung: Để chuẩn bị người nuôi trâu đã phải lựa chọn rất công phu trong việc tìm và nuôi dưỡng trâu, chăm sóc kĩ lưỡng trong khoảng một năm. Thông thường thì sau Tết Nguyên đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Kạn... mới tìm được con trâu vừa ý. Trâu phải là những con trâu đực khỏe mạnh, da đồng, lông móc, một khoang bốn khoáy, hàm đen, tóc tráp (lông trên đầu cứng, dày để tránh nắng), có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng có khả năng chống chịu được đòn của đối phương.... là trâu gan. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ.
Trường đấu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ trống và hò hét. Người huấn luyện, phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho trâu quen dần với không khí.
Bắt đầu từ hai phía của sới chọi, "ông trâu" được dẫn ra có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai "ông trâu" cách nhau 20 m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Hai trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, hai đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, hai trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Kết thúc lễ hội chọi trâu con thắng làm một cuộc rước giải về đình làm lễ tế thần. Tất cả mọi người dân đều theo, tập tục của từng địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt. Lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần. Mọi người cùng ăn chúc phúc.
Tương truyền rằng, sau khi ăn thịt con trâu thắng cuộc, mọi người đều sẽ gặp được may mắn, đặc biệt là những người dân đi biển.
So với các khoa khác, tử vi xuất hiện tương đối chậm, nhưng đã mở đường cho một học thuật riêng bằng lý số theo một hướng đặc thù. Tử vi có khả năng vạch ra và dự báo những bước đường đời của con người và chỉ dẫn con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra cũng chủ động trước những hiểm hoạ sắp xảy ra.
Xuất phát từ quan điểm “Thiên nhân tương dữ” trong triết học Trung Quốc, Tử vi quan niệm con người là một phần của thế giới tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, “là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ”. Bởi vậy, khi con người sinh ra ở một thời điểm nhất định thì tính cách tương ứng – từ tính cách ấy mà tạo nên số phận. Trần Đoàn đã quy nạp được hầu hết tính cách của con người vào 110 sao, xây dựng một phương pháp nghiên cứu con người và số phận con người. Quy luật của vũ trụ đã được diễn đạt thành quy luật của đời người. Trước đây, Kinh Dịch và Tử vi thường bị người ta quy là mê tín dị đoan. Bởi lẽ, người ta không hiểu được sự phong phú của nó đến nhường nào, thêm vào đó một số người lợi dụng tử vi để kiếm tiền, đã xuyên tạc bản chất của tử vi.
Tử vi đẩu số là phương pháp dự trắc về vận mệnh con người quan trọng nhất trong Mệnh lý học phương Đông. Phương pháp này lấy NĂM, THÁNG, NGÀY và GIỜ SINH để xác định vị trí 12 CUNG, tạo ra LÁ SỐ TỬ VI.
12 CUNG là thuật ngữ thiên văn học để đánh dấu 12 lần gặp gỡ giữa quỹ đạo vận hành của Mặt trời và Mặt trăng trong một năm. 12 Cung cũng nói lên nội dung và nhân tố chính liên quan tới vận mệnh của cuộc đời một con người.
12 CUNG gồm: Mệnh, Huynh đệ (anh em), Phu thê (vợ chồng), Tật ách (bệnh tật), Thiên di (xuất ngoại), Nô bộc, Tài bạch (của cải), Điền trạch (đất đai), Phụ mẫu (cha mẹ), Quan lộc (sự nghiệp), Phúc đức , Tử nữ (con cái). Ngoài ra còn cung Thân (dự đoán tương lai của đời người), cung này tương phối cùng các Cung khác chứ không có vị trí riêng. Trong đó, MỆNH là Cung quan trọng nhất, vì Mệnh tốt, xấu gần như được phản ánh tại cung này.
Vai trò của Cung Mệnh và cung Thân :
Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận "Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân” ; ” Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt ” … Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hổ với nhau . Mệnh và thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng. Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người . Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó.
Do vậy khi đoán cung Mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào ? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào ? Mệnh Thân chỏi nhau như thế nào ? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số.
Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm . Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau. Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm : Nhóm thân cư Mệnh , Tài , Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc , Phối ( Phu, Thê ). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật … thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi, độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt thân cư Mệnh. Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều ! (vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau). Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chỏi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc !
Xuất phát điểm của Tử vi đẩu số là Học thuyết Âm Dương Ngũ hành, phép đếm Can Chi và quan điểm hợp nhất Trời Đất và Con Người (“Thiên Địa Nhân hợp nhất”), lấy ĐẶC ĐIỂM VỊ TRÍ của các sao CÁT, HUNG, HÓA trong chùm sao tử vi để suy luận ra vận mệnh con người.
Phương pháp cơ bản của Tử vi đẩu số là căn cứ ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người định ra 12 cung và an hệ thống sao lên LÁ SỐ rồi xét sự tương quan vị trí các cung, các sao mà đoán ra địa vị, nhân cách, phúc họa, sang giầu của người đó.
SAO là yếu tố cơ bản của Tử vi đẩu số. Sự phân bổ và tổ hợp của Sao cùng độ SÁNG và độ lành dữ (cát hung).
2/ MỖI CUNG CHO TA NHỮNG THÔNG TIN GÌ ?
Cung Mệnh: Tương đương bộ não con người ta, là Cung Chính trong 12 Cung.
Cung Huynh đệ: Phán đoán quan hệ bản thân với anh chị em có tốt không.
Cung Phu Thê: Phán đoán tình trạng hôn nhân, đối tượng kết hôn, cuộc sống hôn nhân mỹ mãn hay không.
Cung Tử Nữ: Suy đoán về cá tính, tư chất, học hành của con cái.
Cung Tài Bạch: Là cung sinh tài (tiền), phán đoán tài vận, khả năng quản lý tài chính và tình hình kinh tế của một người.
Cung Tật Ách: Đoán biết tình hình sức khỏe và thể chất của một người.
Cung Thiên Di: Phán đoán Vận xuất ngoại, phát huy tài năng, biểu hiện sức sống của bản thân.
Cung Nô Bộc: Còn được gọi là cung Thân hữu (bạn bè). Phán đoán mối quan hệ với đối tác, đồng nghiệp, bạn bè.
Cung Quan Lộc: Phản ánh thong tin về sự nghiệp, học vấn, địa vị.
Cung Điền Trạch: Xét xem có thể thừa kế cơ nghiệp tổ tiên không. Hoàn cảnh sống.
Cung Phúc Đức: Phản ảnh điềm lành dữ trong cuộc sống tinh thần như tâm thái, nhân sinh quan, sở thích.
Cung Phụ Mẫu: Dự đoán tính cách, hoàn cảnh gia đình, địa vị của cha mẹ, tình thương của cha mẹ, của sao có ảnh hưởng quyết định tới sự luận giải lá số.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Toàn: Đa tài, nhanh trí, hình dung quý phái. Trung niên vất vả nhưng dễ thành công, phát tài phát lộc, danh lợi song toàn.
Tồn: Bản tính cương trực, thông minh, con cháu ăn nên làm ra. Trung niên vất vả, cuối đời phát tài phát lộc.
Tôn: Tuấn tú, đa tài, phúc lộc song toàn, thành công hưng vượng, gia cảnh tốt.
Tống: Tài năng, trí dũng song toàn, cuộc đời thanh nhàn, trung niên gặp khó khăn, cuối đời phát tài, phát lộc.
Tông: Trí dũng song toàn, danh lợi trọn vẹn đôi đường, phú quý, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, quan lộ mở rộng.
Trà: Trung niên vất vả, cuối đời cát tường hưng vượng.
![]() |
Tên vần T |
Trác: Là người tài năng, trí dũng song toàn, đi xa gặp quý nhân, trung niên thành công, hưng vượng, gia cảnh tốt.
Trạch: Tính tình hiền hậu, nếu xuất ngoại sẽ cát tường, con cháu ăn nên làm ra. Trung niên thành công, cuối đời hưởng phúc.
Trân: Mau miệng, đa tài, số cô độc, không nơi nương tựa, trung niên thành công, hưng vượng.
Trần: Là người hoạt bát, tính tình cương trực, đa tài, trung niên nghèo khổ, cuối đời hưng vượng.
Trang: Thật thà, nhanh nhẹn, cả đời bôn ba vất vả nhưng dễ phát tài, phát lộc, cuối đời được hưởng phú quý.
Trạng: Ưu tư, vất vả, có tài nhưng không gặp thời, trung niên gặp lắm tai ương, cuối đời cát tường.
Tranh: Đa tài, nhanh trí, có số thanh nhàn, phú quý, phúc lộc song toàn. Nếu xuất ngoại sẽ phát tài, phát lộc.
Trát: Thông minh, nhanh nhẹn, cuộc đời thanh nhàn, vinh hoa phú quý. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, số có 2 vợ.
Tri: Lý trí, thông minh, số thanh nhàn, phú quý. Trung niên thành công, hưng vượng, đường quan lộ và tiền tài rộng mở.
Trí: Tính tình thật thà, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời thành công, phát tài, phát lộc.
Trị: Xuất ngoại sẽ gặp phúc, được tài, ái tình trắc trở, lắm bệnh, đoản thọ. Nếu là nữ có thể gặp nhiều tai ương bất hạnh.
Triết: Là người đa sầu, đa cảm, số cô quả, cô đơn, trung niên vất vả.
Triều: Bản tính thông minh, trí dũng song toàn, trung niên thành công, hưng vượng, có số xuất ngoại.
Triệu: Khắc bạn đời, hiếm muộn con cái, trung niên thành công, phát tài phát lộc. Số xa quê mới được thành công.
Trình: Học thức uyên thâm, số thanh nhàn, phú quý, đường làm quan rộng mở.
Trinh: Thanh tú, hiền hậu, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, có 2 con thì cát tường, vinh hoa phú quý.
Trợ: Thanh nhàn, phú quý, có số 2 vợ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời ưu tư, lo lắng.
Trọng: Tính tình cương nghị, linh hoạt, nhạy bén. Trung niên có họa lớn, cuối đời hưởng phúc, được nhờ vợ.
Trụ: Đa tài nhanh trí, thanh tú lanh lợi, chịu thương chịu khó, trọng nghĩa khí, thành công, hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
![]() |
Vùng Cổ Loa còn giữ được nhiều di tích có giá trị mà truyền thuyết đã nhắc đến. Đó là đền thờ Thục Phán An Dương Vương, am bà Chúa Mỵ Châu, đường Mèn… (nơi phát hiện ra hàng vạn mũi tên đồng, vũ khí Vua Thục). Đền thờ An Dương Vương nằm trên địa phận xóm Chùa, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh – Hà Nội, còn gọi là đền Thượng. Trước đền là hai con rồng đá, sân đền lát đá xanh, theo bia ký, đền xây dựng năm 1687 và sửa lại năm 1893.
Đền An Dương Vương được xây dựng trên một gò đất cao dưới chân lũy thành cũ, góc tây – nam. Theo dân gian đó là đầu con rồng. Qua cổng ngoài của đền sẽ tới tam quan cổ kính với lầu thượng cao, hai bên lối đi có hai giếng mắt rồng đối xứng nhau. Bước qua tam quan là vào sân đền, hai bên sân có nhà khách cho người thập phương dừng chân sửa lễ.
Nơi thờ An Dương Vương gồm có hạ điện là một ngôi nhà ba gian to, cao, cột lim đồ sộ, tám mái cong vút. Từ tả hữu của hạ điện có hai dãy nhà hành lang phía ngoài xây kín nối với thượng điện. Khoảng vuông ở giữa là một ngôi nhà chồng diêm tám mái cao. Trên bàn thờ có tượng rùa vàng bằng gỗ sơn son thiếp vàng và một chiếc nỏ đặt sẵn tên. Đó là bàn thờ Thần Kim Quy. Thượng điện cũng ba gian, bàn thờ An Dương Vương đặt giữa, bên đông thờ hoàng hậu, bên tây thờ thái thượng hoàng. Tượng An Dương Vương là pho tượng bằng đồng mặc triều phục.
Phía Tây đền An Dương Vương trên một gò đất cao, xưa kia vua lập miếu thờ Thần Nông, là nhà bia. Cách cổng đền không xa, trước mặt là ao tròn, chính giữa là một cồn đất tròn có giếng nhỏ ở giữa xây gạch. Tương truyền đó là giếng Ngọc, nơi xưa kia Trọng Thủy nhớ Mỵ Châu đã nhảy xuống tự tử.
Cạnh đền vài trăm mét là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương “trái tim lầm chỗ để lên đầu”. Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu. Ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
Từ lâu trong dân gian đã lưu truyền câu: “chết thì bỏ con bỏ cháu, sống thì không bỏ mồng 6 tháng Giêng” để nói lên sự hấp dẫn của lễ hội Cổ Loa. Xưa, hội bắt đầu từ ngày mồng 6 đến hết ngày 18 tháng Giêng. Tương truyền ngày mồng 6 tháng Giêng là ngày Thục Phán nhập cung và ngày mồng 9 tháng Giêng là ngày ông lên ngôi, khao toàn bộ binh sĩ. Cho nên để nhớ ngày long trọng ấy dân Cổ Loa cùng tám xã hộ nhi rước kiệu mở hội đông vui cả một vùng.
1. Không nên cho rằng chỉ có người béo mới dễ bị tai biến mạch máu não hoặc bị cao huyết áp. Người gầy cũng dễ bị.
2. Không nên sợ béo, vì nếu sợ béo mà ăn kiêng thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
3. Không nên kiêng ăn món này hay món kia; người thưòng sợ bệnh, sợ chết lại thưòng mắc bệnh trước, chết trưóc.
4. Người quá gầy hoặc quá béo thì tình trạng bệnh cũng giống nhau.
5. Nên vận động nhiều, tiết chế trong việc ăn uống (có thể ăn kiêng chứ không phải nhịn ăn để giảm béo).
6. Người có thể giữ được cho thanh tâm an lạc, sinh hoạt điều độ đó là người có cuộc sống hạnh phúc, mạnh khỏe, trường thọ.
7. Không nên quá chú trọng đến vè đẹp hình thức, sức khỏe chính là vẻ đẹp hoàn thiện nhất.
8. Nên ăn ngủ điều độ, giữ cân bằng cho cuộc sống, thích nghi nhanh nhạy với hoàn cảnh sống sẽ đem lại sức khỏe và niềm vui.
9. Chớ nên đem những điều vui giận, buồn thương trong lòng mình mà vội vàng thổ lộ ra bên ngoài, làm như thế sẽ gây ra hậu quả hoặc sẽ ảnh hưởng đến bầu không khí xung quanh. Điều gì nên nhẫn nhịn thì phải nhẫn nhịn. Thà phải nuốt nước mắt, nuốt giận trong lòng để nở nụ cười trước mặt mọi người.
10. Chớ nên quá so đo, tính toán hay soi mói vào những lỗi lầm của người khác. Trong Kinh thánh có câu: "Người xem người khác như cái kim trong mắt mình thì người khác sẽ xem mình như cái gai trong mắt họ".
11. Nên hình thành cho mình lòng khoan thứ, bao dung đối với lỗi lầm của người khác.
12. Dùng ký hiệu hoặc ám chỉ để nhắc nhỏ về những lỗi lầm của người khác, thay cho việc chỉ trích, chửi mắng họ.
13. Nên tập sự khiêm tốn, lễ phép, ứng xử có đạo lý, sống sao cho người ta biết mình là người có đạo đức, có lễ độ.
14. Thời đại của sự dã man, ngang ngược, hách dịch, ăn không nói có sẽ qua đi, thay vào đó là sự khiêm tốn, hòa nhã, lễ độ và bác ái.
15. Tôn trọng người khác chính là tôn trọng bản thân mình.
16. Không nên chế giễu, đả kích, xem thường người khác.
17. Tôn trọng người khác chính là tôn trọng bản thân mình.
18. Chớ nên châm chọc, chế giễu hay đánh chửi người khác.
19. Con người không phải là thánh hiền, không ai không có lỗi lầm, phải làm thế nào để tha thứ hoặc khuyên người khác đi theo con đường chính đạo mới là điều vĩ đại.
20. Điều gì mình không muốn thì chớ nên làm cho người khác.
21. Nên tập cho mình thói quen ngủ sớm, dậy sớm.
22. Nên tập cho mình thói quen cần cù, tiết kiệm, quả dục, lạc quan.
23. Không nên tàn ác với người khác để tránh bị xem là kẻ dã man.
24. Nên tập cho mình một thói quen, đối với bất kỳ loài vật nhỏ nào cũng đều yêu thương.
25. Đi đâu làm gì cũng phải thể hiện mình là người có đức độ, tu dưỡng, hòa nhã bác ái, từ thiện để cho mọi người kính trọng và yêu quý.
26. Có thân thể khỏe mạnh thì mối có tâm hồn vui vẻ, có tâm hồn vui vẻ thì mới có sự bác ái, có sự bác ái thì mới gây dựng nên một sự nghiệp bất hủ.
27. Bất kỳ người nào cũng sẽ gặp phải đau khổ và bi quan, phải làm sao để biến đau thương thành sức mạnh sáng tạo nên sự nghiệp của bạn, đó mới là nhân vật vĩ đại.
28. Phải có tầm nhìn xa, có tình cảm sâu sắc, phải xem sự nghiệp là quan trọng thì mới có thể thành công, mói có thành tựu.
29. Mỗi ngày đều nên bớt một chút thời gian để làm những điều mình thích, chỉ cần bạn luôn luôn duy trì điều đó, tích lũy qua năm tháng thì ắt có ngày bạn sẽ thành công trên một lĩnh vực nào đó.
30. "Mười năm gian khổ chẳng ai biết, một ngày danh giá thiên hạ hay". Bỏ thời gian và công sức để rèn luyện, đó là sự trả giá cần phải có.
31. Hy vọng và thành công, đó là con đường thực tế, từng bước từng bước vươn lên, sớm hay muộn cũng đạt được mục đích.
32. Tình yêu thương là để dành cho mọi người, chứ không phải để khư khư giữ trong lòng.
33. Tình yêu thương chính là lòng nhân từ, ứng xử tốt đẹp, là sự quan tâm của bạn, điều đó sẽ mãi mãi lưu lại trong lòng mọi người. Đừng bao giờ đem sự oán trách, giận hờn mà tạo nên ấn tượng xấu trong lòng mọi người.
34. Thời gian còn dài, chớ nên vì những thử thách, sai lầm hay đau khổ tạm thời mà xem đó là thất bại của cả cuộc đòi bạn.
35. Nên khích lệ, an ủi người khác.
36. Nơi có ánh sáng phía trước, ắt sẽ có một quãng tối tăm.
37. Có gieo trồng thì mói có thu hoạch.
38. Chớ nên lấy tuổi tác và thành quả để an ủi và tha thứ cho mình, phải biết rằng "gừng càng già thì phải càng cay".
39. Trí tuệ là thứ vô cùng tận, nó càng được vận dụng thì càng tăng thêm. Vì
vậy cho nên đừng bao giờ sợ "tổn hao chất xám".
40. Khi đối mặt với hiện thực thì tuyệt đối đừng bao giờ bỏ cuộc.
41. Dũng cảm nhận sai lầm, dũng cảm hối lỗi sửa sai, dũng cảm chấp nhận thất bại.
(Tử vi đẩu số giải đoán hạn bệnh - Phan Tử Ngư)
Vì thế, dù sao đi nữa cũng nên lấy dĩ hòa vi quý làm trọng trong bất cứ tình huống nào. Ai trong chúng ta khi nổi giận cũng trở nên vô cùng khủng khiếp và mỗi chòm sao sẽ có cách riêng bộc lộ nỗi tức giận của mình. Vậy hãy thử xem lúc đó bạn sẽ như một ngọn lửa đang phun trào hay là trận động đất rung chuyển Trái Đất?
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thời gian gần đây, chuyện chân dài cặp với đại gia hay những cô gái đào mỏ, đòi hỏi người yêu giàu có cung phụng xuất hiện tràn ngập khắp nơi. Tất nhiên, chuyện này đúng sai do quan điểm của từng người nhưng cũng phải nhấn mạnh rằng các cô ấy cũng có bản lĩnh đấy chứ.
![]() |
![]() |
► Tham khảo thêm: Ngũ hành tương sinh và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh |
![]() |
Chắc chắn trong cuộc đời, sẽ có lúc phải trải qua cuộc sống tập thể, ở chung kí túc xá, chia chung một phòng trọ với người khác. Và từ đó, nảy sinh biết bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười với những người mang tên “bạn cùng phòng”. Điểm danh những chòm sao khó tính là bạn cùng phòng không thể chọc vào nào.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thời gian: tổ chức vào ngày 8 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: làng Hữu Thanh Oai, xã Hữu Hòa, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. (Làng Hữu Thanh Oai trước kia có tên là Hữu Châu gọi nôm là làng Hữu Tó.)
Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh vị vua Lê Đại Hành (thành hoàng làng).
Nội dung: Hội làng mở đầu có phần lễ dâng hương cúng thành hoàng làng, lễ vật dâng lên cúng phải có cơm nắm muối vừng. Phần hội có: thi hát trống quân, ca trù, bơi trải.
Ngày hội làng, lễ vật được dâng lên thành hoàng gồm oản, bánh chè kho, bánh dầy, hương, hoa, quả và một món không thể thiếu đó là cơm nắm muối vừng. Tục lệ ở làng quy định không dâng tiến xôi, thịt trong ngày hội. Vì thế, mâm lễ cơm nắm muối vừng - món ăn tượng trưng cho vua Lê Đại Hành và quân lính sử dụng trong suốt cuộc hành quân ở Hội làng Hữu Thanh Oai - đã trở thành mâm lễ độc đáo so với những hội làng quanh vùng, cũng thờ vua Đại Hành.
Phần độc đáo, phong phú không kém trong hội làng ở Hữu Thanh Oai đó là phần hội. Tham dự sẽ là cuộc thi hát trống quân của những người trong làng. Ai hát hay, người đó sẽ được nhận thưởng. Hiện nay, trong làng còn có cụ Tham (cụ Giổ) gần 90 tuổi, là người có giọng hát trống quân hay, còn sống. Ngoài hát trống quân, trong lễ hội còn có hát ca trù, bơi chải trên sông. Và đặc biệt là thi bơi của các tay bơi giỏi trong làng. Cuộc thi bơi có lẽ thu hút đông đảo trai tráng và dân làng nhất. Chuyện kể lại rằng, để trở thành những tráng binh khoẻ, có thể giúp vua đánh giặc, từ xửa từ xưa, lợi dụng dòng Nhuệ Giang, trai tráng trong làng sáng, tối đều đua nhau ra sông bơi lội. Có những lần trăng đã lên cao, nhưng những trai trẻ của làng vẫn hò hét, thách đố nhau luyện tập. Ngày hội (9 tháng Ba), sau một thời gian rèn luyện kiên trì, cũng là lúc các tay bơi được bộc lộ tài năng thực sự của mình trong tiếng hò reo của nhân dân hai bên bờ, các tay bơi cùng hăng hái vào cuộc đua. Phần thưởng dành cho người chiến thắng sang thì được mảnh vải lụa, còn không thì chỉ là oản, là hoa quả nhưng như thế cũng đủ đem lại vinh quang và niềm kiêu hãnh cho người chiến thắng.
Hội làng kết thúc vào cuối ngày mùng 9 tháng Ba, thế nhưng dư âm không khí của nó còn kéo dài trong suốt cả năm, để rồi đến ngày 8 tháng Ba sang năm, hội lại đến, mọi người lại dự hội tưng bừng để tưởng nhớ vua Lê Đại Hành.
Bói ngày sinh thấy Sinh ra vào tháng 7 giữa cái nóng nực của mùa hè nhưng trái ngược với thời điểm bạn sinh ra bạn lại mang lại cho những người xung quanh bầu không khí vui vẻ bất cứ nơi đâu có bạn. Nhưng khi bị rơi vào cảm giác căng thằng bạn lại là người im lặng đến khó đoán có thể bạn luôn biết rằng mọi quyết định hay lời nói khi tâm trạng không được thông suốt có thể gây ra hậu quá khôn lường. Với nét tính cách này những người sinh tháng 7 được xếp vào tuýp người có lối sống nội tâm. Bạn có xu hướng ở một mình cùng vơi sự yên tĩnh, rất ít khi bạn thích đi đâu và đôi khi thường e dè không việc kết giao thêm bạn mới. Bạn có lòng tự tôn rất lớn và bạn cũng được rất nhiều người biết đến. Bạn là người chân thật và rất dễ an ủi.
Tình yêu, tính cách người sinh tháng 7
Bói tình yêu cho rằng đối với người xung quanh bạn luôn là người biết quan tâm tới cảm xúc của họ. Đây chính là điểm mà mọi người luôn yêu quý bạn. Bạn luôn biết cách cư xử tế nhị, thân thiện và hỏm hỉnh bên mọi người. Sự vui tính của bạn làm cho những người xung quanh cảm thấy bạn thật thân thiện dễ gân. Bạn thường không mang hận thù ai đó làm điều gì sai trái với mình nhưng tha thứ không có nghĩa là bạn đã quên. Mặc dù có lòng vị tha cao cả nhưng bạn cũng là người rất cảnh giác và vô cùng sắc sảo.
Bạn đối xử với mọi người rất công bằng. Bạn không bao giờ vội vàng đưa ra những lời nhận xét người khác một cách vội vã mà luôn quan sát trước khi đưa ra kết luận cuối cùng.
Nhận xét của những người xung quanh, bạn bè về bạn là một người trung thực và rất chân thành. Trong tình yêu bạn là người chung thủy. Có một người yêu sinh tháng 7 là mơ ước của nhiều chàng trai, cô gái.
Về mức độ quan tâm bạn là số 1 đấy nhé.
Trong phong thủy có không ít phương pháp đổi vận, thúc đẩy tài vận nhưng bất kì phương pháp nào cũng có mặt tốt và mặt xấu, mặt phải và mặt trái. Ngũ Quỷ vận tài là phương pháp thúc đẩy tài lộc nhanh nhất nhưng cũng tiềm ẩn nhiều điều không hay. Cùng xem tác hại của Ngũ Quỷ vận tài để cân nhắc trước khi sử dụng.
![]() |
![]() |