Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Sửu

Xem hướng nhà theo tuổi phụ nữ trong trường hợp phụ nữ độc thân hoặc góa. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Sửu.
Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng nhà theo tuổi thường lấy tuổi đàn ông, nhưng với gia đình mẹ góa con côi, người độc thân thì làm nhà, mua nhà xem theo tuổi chủ gia đình, có thể là phụ nữ. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Sửu.

Xem huong nha theo tuoi cho phu nu tuoi Suu
 
Xem hướng nhà theo tuổi phụ nữ cũng tương tự như nam giới, căn cứ mệnh cục để xác định hướng tốt hướng xấu. 
 

1. Tuổi Kỷ Sửu 2009 – mệnh Càn

  - Hướng tốt:    Hướng Tây Nam – Diên niên: Nhà này được giàu sang phú quý, tăng nhân đinh, nhiều tài lộc, gia đình hòa thuận, trường thọ, con cháu thông minh hiển đạt, thịnh vượng lâu bền.    Hướng Đông Bắc – Thiên y: Kinh tế khá hưng vượng, gia đình hạnh phúc. Con người nhân hậu. Nhưng do nhà thuần dương nên bất lợi cho người con gái trong nhà về mặt sức khỏe.   Hướng Tây Bắc – Phụ vị: Nhà này con cháu nhiều người thành đạt, con trưởng tài hoa, gia tài được hưng vượng nhưng dương thịnh, âm suy, phụ nữ hay ốm yếu, khó nuôi con.   - Hướng xấu:   Hướng Tây – Sinh khí: Mặc dù đây là hướng tạo sinh khí nhưng do Tham Lang Mộc tinh bị cung Đoài Kim khắc nên nhà này ban đầu giàu sang, thịnh vượng, đông nhân đinh nhưng về sau dễ suy kém.   Hướng Nam – Tuyệt mệnh: Sao Phá Quân Kim tinh nhập cung Hỏa, bị hướng nhà Ly Hỏa khắc, cho nên sự hung có phần giảm bớt song vẫn rất xấu.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu kinh tế tương đối tốt nhưng dần bị dần bị hao tổn khỏe; phụ nữ trong nhà dễ bị tổn thương; con cái không tu chí, dễ hư hỏng.   Hướng Đông Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu làm ăn khá phát đạt. Tuy nhiên do có tương khắc nên về sau người trong nhà sẽ phát sinh bệnh tật, khó sinh con và khó nuôi con, người con gái lớn trong nhà cũng gặp nhiều bất lợi. Tuy nhiên hướng nhà là Tốn Mộc khắc sao Thổ, cho nên sự hung ác của Lộc Tồn có phần giảm bớt.   Hướng Đông – Ngũ quỷ: Gia sự có thể phát sinh điều dữ, thường hao tổn về tài sản, hỏa hoạn dễ xảy ra; người nhà hay gặp nhiều chuyện thị phi, kiện cáo, không yên ổn, hay bị bệnh tật. Do Chấn đại diện cho trưởng nam nên người con trai trong nhà dễ bị tổn thương.
Xem thêm bài viết Chọn hướng nhà đại cát cho 12 con giáp
 

2. Tuổi Đinh Sửu 1997 – mệnh Chấn

  - Hướng tốt:   Hướng Nam – Sinh khí: Nhà này phát phúc nhanh chóng, phụ nữ lương thiện, sống hiếu thảo. Con trai và con gái đều thông minh, giỏi giang. Giàu có và phú quý.   Hướng Đông Nam – Diên niên: Nhà này công danh rất phát, phúc lộc thọ đều tốt. Người trong nhà đều có chí lớn, biết rèn luyện thành tài, công danh hiển hách nhà này sẽ sinh ra hiền tài làm công thần cho đất nước.   Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này giàu có, phú quý, mọi người sống nhân hậu. Nhưng vì thuần dương nên phụ nữ trong nhà suy yếu, bệnh tật.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Phục vị: Xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Sửu, nhà này lúc đầu khá giàu có. Nhưng do thuần dương nên vợ con tương khắc, dễ bất hòa trong gia đình, phụ nữ dễ sinh bệnh, nhân khẩu không tăng.   Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này không giàu có, gia sản suy bại, nhiều chuyện, kinh doanh khó khăn; Cung Chấn (đại diện cho trưởng nam) bị khắc nên người con trai cả trong gia đình dễ đoản thọ.   Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này làm ăn khó khăn, tài lộc không có. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Tây Nam – Họa hại: Nhà này nhân đinh ít, làm ăn khó khăn; người bà người mẹ (đại diện của cung Khôn bị khắc) là người dễ bị tổn thương.   Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này làm ăn sa sút, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi. Con trai trưởng sẽ hay gặp rắc rối về bệnh tật và sức khỏe.  

3. Hướng Ất Sửu 1985 – mệnh Ly


Xem huong nha cho phu nu tuoi Suu
 
- Hướng tốt:   Hướng Đông – Sinh khí: Nhà này phú quý, thịnh vượng, người trong nhà đỗ đạt cao, có tài có danh, con cháu khỏe mạnh và thông minh, gia đình hòa thuận.   Hướng Bắc – Diên niên: Nhà này giàu sang. Sức khỏe người trong gia đình tốt. Con cái thông minh, thành đạt trong cuộc sống. Tuy nhiên cần hóa giải Thủy - Hỏa xung.   - Hướng xấu:    Hướng Đông Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu thịnh vượng, có tài có danh, giàu có, phụ nữ thông minh và nhân hậu. Nhưng về sau nam giới hay bị bệnh, không thọ. Phụ nữ dễ thành cô quả.   Hướng Nam – Phục vị: Nhà này lúc đầu cũng có tài lộc, nhưng không giàu có. Do nhà thuần âm, dương khí kém nên nam giới dễ mắc bệnh, giảm về nhân đinh.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Xem hướng làm nhà, nhà này khó giàu, làm ăn sa sút, tai họa nhiều. Bậc cha ông không thọ, phụ nữ trong nhà phải sống cô đơn.   Hướng Tây Nam – Lục sát: Nhà nay âm thịnh dương suy, nên nữ giới nắm quyền, nam giới kém, tổn thọ.   Hướng Đông Bắc – Họa hại: Nhà này kinh làm ăn khó khăn, kinh tế suy kém. Nhiều chuyện thị phi, tai ương.   Hướng Tây – Ngũ quỷ: Nhà này âm thịnh dương suy, nam giới đoản thọ; phụ nữ nhất là con gái thứ cũng gặp nguy hại. Kinh tế sa sút.
Xem thêm bài viết Chọn hướng làm nhà tránh Không Vong
 

4. Tuổi Quý Sửu 1973 – mệnh Càn

  - Hướng tốt:    Hướng Tây Nam – Diên niên: Nhà này được giàu sang phú quý, tăng nhân đinh, nhiều tài lộc, gia đình hòa thuận, trường thọ, con cháu thông minh hiển đạt, thịnh vượng lâu bền.   Hướng Đông Bắc – Thiên y: Kinh tế khá hưng vượng, gia đình hạnh phúc. Con người nhân hậu. Nhưng do nhà thuần dương nên bất lợi cho người con gái trong nhà về mặt sức khỏe.   - Hướng xấu:    Hướng Tây – Sinh khí: Mặc dù đây là hướng tạo Sinh khí nhưng do Tham Lang Mộc tinh bị cung Đoài Kim khắc nên nhà này ban đầu giàu sang, thịnh vượng, đông nhân đinh nhưng về sau dễ suy kém.   Hướng Tây Bắc – Phục vị:  Nhà này con cháu nhiều người thành đạt, con trưởng tài hoa, gia tài được hưng vượng nhưng dương thịnh, âm suy, phụ nữ hay ốm yếu, khó nuôi con.   Hướng Nam – Tuyệt mệnh: cha già không thọ; phụ nữ nhiều hơn nam, phụ nữ nắm quyền; bệnh tật ở mắt và ở đầu. Kinh tế suy giảm và tán tài.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu kinh tế tương đối tốt nhưng dần bị dần bị hao tổn khỏe; phụ nữ trong nhà dễ bị tổn thương; con cái không tu chí, dễ hư hỏng.   Hướng Đông Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu làm ăn khá phát đạt. Tuy nhiên do có tương khắc nên về sau người trong nhà sẽ phát sinh bệnh tật, khó sinh con và khó nuôi con, người con gái lớn trong nhà cũng gặp nhiều bất lợi.    Hướng Đông – Ngũ quỷ: Gia sự có thể phát sinh điều dữ, thường hao tổn về tài sản, hỏa hoạn dễ xảy ra; người nhà hay gặp nhiều chuyện thị phi, kiện cáo, không yên ổn, hay bị bệnh tật.  

5. Tuổi Tân Sửu 1961 – mệnh Chấn


Xem huong lam nha
 
- Hướng tốt:   Hướng Nam – Sinh khí: Nhà này phát phúc nhanh chóng, phụ nữ lương thiện, sống hiếu thảo. Con trai và con gái đều thông minh, giỏi giang. Giàu có và phú quý.   Hướng Đông Nam – Diên niên: Nhà này công danh rất phát, phúc lộc thọ đều tốt. Người trong nhà đều có chí lớn, biết rèn luyện thành tài, công danh hiển hách nhà này sẽ sinh ra hiền tài làm công thần cho đất nước.   Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này lúc đầu giàu có, phú quý, mọi người sống nhân hậu. Nhưng vì thuần dương nên phụ nữ trong nhà suy yếu, bệnh tật.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Phục vị: Nhà này lúc đầu khá giàu có. Nhưng do thuần dương nên vợ con tương khắc, dễ bất hòa trong gia đình, phụ nữ dễ sinh bệnh, nhân khẩu không tăng.   Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này không giàu có, gia sản suy bại, nhiều chuyện, kinh doanh khó khăn; người con trai cả trong gia đình dễ đoản thọ.   Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này làm ăn khó khăn, tài lộc không có. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Tây Nam – Họa hại: Nhà này nhân đinh ít, làm ăn khó khăn; người bà người mẹ (đại diện của cung Khôn bị khắc) là người dễ bị tổn thương.   Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này làm ăn sa sút, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi. Con trai trưởng sẽ hay gặp rắc rối về bệnh tật và sức khỏe.
Xem thêm bài viết Cách hóa giải hướng nhà xấu theo phong thủy không hợp tuổi gia chủ
 

6. Tuổi Kỷ Sửu 1949 – mệnh Ly

  - Hướng tốt:   Hướng Đông – Sinh khí: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này phú quý, thịnh vượng, người trong nhà đỗ đạt cao, có tài có danh, con cháu khỏe mạnh và thông minh, gia đình hòa thuận.   Hướng Bắc – Diên niên: Nhà này giàu sang. Sức khỏe người trong gia đình tốt. Con cái thông minh, thành đạt trong cuộc sống. Tuy nhiên cần hóa giải Thủy - Hỏa xung.   - Hướng xấu:    Hướng Đông Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu thịnh vượng, có tài có danh, giàu có, phụ nữ thông minh và nhân hậu. Nhưng về sau nam giới hay bị bệnh, không thọ. Phụ nữ dễ thành cô quả.   Hướng Nam – Phục vị: Nhà này lúc đầu cũng có tài lộc, nhưng không giàu có. Do nhà thuần âm, dương khí kém nên nam giới dễ mắc bệnh, giảm về nhân đinh.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Xem hướng nhà cho phụ nữ tuổi Sửu, nhà này khó giàu, làm ăn sa sút, tai họa nhiều. Bậc cha ông không thọ, phụ nữ trong nhà phải sống cô đơn.   Hướng Tây Nam – Lục sát: Nhà nay âm thịnh dương suy, nên nữ giới nắm quyền, nam giới kém, tổn thọ.   Hướng Đông Bắc – Họa hại: Nhà này kinh làm ăn khó khăn, kinh tế suy kém. Nhiều chuyện thị phi, tai ương.   Hướng Tây – Ngũ quỷ: Nhà này âm thịnh dương suy, nam giới đoản thọ; phụ nữ nhất là con gái thứ cũng gặp nguy hại. Kinh tế sa sút.
  
Giải đáp những thắc mắc thường gặp để xác định hướng nhà tốt Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủy Xem hướng nhà theo tuổi: Nam tuổi Sửu nên và không nên làm nhà theo hướng nào?
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Sửu

3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời

Xem tử vi chọn bạn đời không chỉ giúp bạn tìm được hồng nhan tri kỉ ưng ý mà còn đảm bảo tương lai tốt đẹp cho cuộc sống gia đình.
3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi chọn bạn đời không chỉ giúp bạn tìm được hồng nhan tri kỉ ưng ý mà còn đảm bảo tương lai tốt đẹp cho cuộc sống gia đình.


3 cach cuc tu vi tuyet doi khong nen chon lam ban doi hinh anh 2
 
Bói tử vi khoa học chọn bạn đời là phong tục lâu đời của người phương Đông, thể hiện sự coi trọng yếu tố hòa hợp trời sinh giữa người nam và người nữ. Việc xem tuổi kết hôn hay xem tuổi vợ chồng đều là một hình thức của tục này.    Dựa vào bát tự (giờ, ngày, tháng, năm sinh), người ta tổng kết có 3 mệnh cục không nên chọn làm bạn đời dưới đây.
1. Bát tự vượng đào hoa   Đào hoa trong tử vi đại diện cho nhân duyên với người khác phái. Bất luận là nam hay nữ, chỉ cần trong bát tự có đào hoa vượng ví như ngày sinh tọa đào hoa, giờ sinh tọa đào hoa thì đều là người đa tình, phong lưu, phát sinh nhiều mối quan hệ tình cảm nam nữ. Nếu độc thân, chưa kết hôn thì có thể xem xét, nhiều cơ hội để lựa chọn. Nhưng đã yêu hay kết hôn rồi thì không nên lấy vì đào hoa vượng dẫn tới tình cảm không chuyên nhất, ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình.   Hướng dẫn xác định số mệnh có Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân tốt lành
Trong khoa học tử vi, Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân sẽ mang tới may mắn và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp, nhiều thành công. Cùng

2. Nữ có bát tự thuộc mệnh Quan Sát hỗn tạp
  Đối với nữ mệnh, Chính Quan hoặc Thất Sát (xưng là Thiên Quan) đại biểu hôn nhân, quan hệ với người khác phái. Chính Quan đại diện cho người chồng, Thất Sát đại biểu cho nhân duyên với người khác phái. Nữ mệnh nếu bát tự có cả Chính Quan và Thất Sát thì hình thành mệnh Quan Sát hổn tạp, dễ ngoại tình hoặc phát sinh khúc mắc trong tình cảm.    Hơn nữa, nếu mệnh Quan Sát hỗ tạp thì ngoài sáng trong tối lẫn lộn, ở ngoài sáng có người yêu, chồng nhưng trong tối ngấm ngầm thân mật với người đàn ông khác. Điều này có tính chất dự báo, tham khảo.   3. Nam có bát tự thuộc mệnh Tài Tinh hỗn tạp  
3 cach cuc tu vi tuyet doi khong nen chon lam ban doi hinh anh 2
 
Đối với nam mệnh, Chính Tài hoặc Thiên Tài đại biểu hôn nhân, quan hệ với người khác phái, Chính Tài đại diện cho người vợ, Thiên Tài đại diện cho nhân duyên với người khác phái. Bát tự của người nam vừa có Chính tài lại có Thiên Tài thì cấu thành mệnh Tài Tinh hỗn tạp, dễ ngoại tình hoặc phát sinh những điểm rắc rối trong quan hệ nam nữ. 
  Người mà có mệnh này thì vừa có vợ hiền ở nhà, vừa bao nuôi nhân tình bên ngoài, thông đồng với người khác phái hoặc trêu hoa ghẹo nguyệt, tình cảm không rõ ràng. 
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời

Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay, 12 con giáp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay, tu vi Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay, tu vi 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay

Người tuổi Dần hoặc Mão rất khó 'thoát ế' trong năm Bính Thân do vận đào hoa không ở trạng thái tốt, điều này dẫn đến việc nhiều cô nàng đưa ra những quyết định không lí trí.

Cuộc sống càng hiện đại, con người càng quay cuồng với nhịp sống, điều đó khiến nhiều cô gái vẫn nằm trong danh sách 'gái ế'. Cùng xem trong năm Bính Thân, 12 con giáp nữ nên làm cách nào để thoát kiếp 'gái ế' nhé!

1. Tuổi Tý, Hợi

Cách thoát FA cho 12 con giáp năm nay

Đối với các bạn nữ tuổi Tý hoặc Hợi chưa có 'người thương', các phương pháp bên ngoài không giúp đỡ được nhiều, nên xuất phát từ vấn đề bên trong. Cách tốt nhất chính là thay ngôi đổi vị. Người tuổi Tý hoặc Hợi có thể suy nghĩ về việc chuyển chỗ ở, nên chọn phòng ốc có hướng chính Đông. Ngoài ra, bên ngoài phòng ngủ nên đặt chậu cá nhỏ, đợi đến thời điểm Trung thu thả cá, điều này có tác dụng vượng đào hoa. Nếu làm theo cách tử vi phong thủy này, 'đức lang quân' phù hợp sẽ tự tìm đến bạn.

2. Tuổi Sửu, Thìn, Mùi, Tuất

Khác cách làm trên, nữ mệnh thuộc Sửu, Thìn, Mùi và Tuất nên đến những nơi có Thủy tính vượng như: ao hồ, sông suối,… khi Lập Xuân đến. Đặc biệt là khi có các cuộc gặp mặt, xem mắt, những người tuổi này nên thuận theo tự nhiên, điều này có lợi cho sự phát triển của vận đào hoa. Nếu gặp được người chân thành, việc nắm bắt trái tim đối phương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, phương pháp này phụ thuộc nhiều vào thời điểm và cơ hội, các 'gái ế' nên tranh thủ thời gian.

3. Tuổi Dần, Mão

Người tuổi Dần hoặc Mão rất khó 'thoát ế' trong năm Bính Thân do vận đào hòa không ở trạng thái tốt, điều này dẫn đến việc nhiều cô nàng đưa ra những quyết định không lí trí. Vì vậy, bạn nên nhân cơ hội đối ứng vận đào hoa của bản thân, thông qua sự giúp đỡ của hội bạn thân để giành được vận đào hoa tốt. Nữ mệnh cần tìm đến người bạn thân xin chủ kiến, sau đó hãy đưa ra quyết định.

4. Tuổi Tỵ, Ngọ

Người tuổi Tỵ, Ngọ muốn thoát 'ế' trong năm 2016 không phải điều dễ dàng, vấn đề tình cảm phải làm lại từ đầu, không chịu khó sẽ không đạt được kết quả. Vậy nên, nếu có được cơ hội bạn hãy thể hiện tình cảm của bản thân, chủ động và tích cực. Chuyện tình cảm lúc này sẽ như việc nhìn thấy ánh sáng trong lúc rối ren.

5. Tuổi Thân, Dậu

Mùa thu chính là thời điểm tốt nhất cho nữ mệnh Thân, Dậu tìm được 'bạn đời', hướng chính Tây giúp đỡ rất nhiều cho sự phát triển tình cảm của bạn. Muốn thành sự cần phải chú ý: đầu tiên cần xem xét việc thay đổi vị trí của giường sang hướng chính Tây, sau đó cần tránh vật phẩm mang nhiều tính Thủy như chậu cá. Sau Lập Thu, con giáp Thân, Dậu có thể điều chỉnh, nếu có thể chuyển phòng ngủ sang hướng chính Tây thì hiệu quả càng tăng cao.

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách thoát F.A cho 12 con giáp năm nay - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Con giáp nào không thể sống thiếu thời trang

Người cầm tinh con rắn, chó và ngựa đều đam mê thời trang và thích ăn diện trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Con giáp nào không thể sống thiếu thời trang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Người tuổi Tỵ

Dù là nam hay nữ, đa số người cầm tinh con rắn đều thông minh, có tinh thần vui vẻ, đồng thời tôn sùng chủ nghĩa thần bí. Họ thích theo đuổi cái đẹp, liên tục cập nhật các xu hướng thời trang mới nhất. Đó là cách người tuổi Tỵ thể hiện phong cách sành điệu không lẫn vào đâu được của mình.

ti-7480-1428405011.jpg

Đôi khi cách ăn mặc của con giáp này khiến mọi người không khỏi “giật mình” nhưng xét về tổng thể vẫn được xem là có gu thẩm mỹ cao. Đi tới đâu, người tuổi Tỵ cũng muốn trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn nên họ khá cầu kỳ và chỉn chu trong chuyện ăn mặc.

No2: Người tuổi Tuất

Thẳng thắn, chân thành và cởi mở là những nét nổi bật trong tính cách người tuổi Tuất. Con giáp này thích làm việc theo hứng và trưng diện thời trang theo phong cách không giống ai, nhưng vẫn đảm bảo mỹ quan và được nhiều người khen ngợi.

tuat-6436-1428405011.jpg

Với những anh chàng và cô nàng tuổi Tuất, chuyện ăn mặc không chỉ thể hiện gu thẩm mỹ của mỗi người, đó còn là cá tính, bản chất riêng. Họ thích nhìn nhận và đánh giá người khác trước tiên là qua phong cách ăn mặc. Do đó, nếu muốn chiếm được cảm tình ngay từ cái nhìn đầu tiên của người tuổi Tuất, bạn nên chỉn chu hơn trong cách phối đồ của mình nhé.

No3: Người tuổi Ngọ

Tính cách người cầm tinh ngựa vô cùng phóng khoáng, vui vẻ. Theo đó, phong cách thời trang của họ cũng khá nổi bật. Người tuổi Ngọ biết phát huy những thế mạnh trên cơ thể cũng như trong tính cách của mình để thu hút sự chú ý và tình cảm của mọi người.

Ngo-6051-1428405014.jpg

Do đó, ngoài việc chăm chỉ chọn những món hàng có thương hiệu, con giáp này còn chọn cho mình cách phối đồ theo xu hướng thời trang mới nhất trên thế giới. Họ thích trưng diện thời trang không chỉ để làm đẹp vẻ ngoài mà còn muốn khẳng định con mắt tinh tế và cá tính đích thực của mình.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào không thể sống thiếu thời trang

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thìn (P2)

Những người tuổi Thìn sinh ngày 16 âm lịch đều thông minh thiên bẩm, khả năng ứng biến nhanh nhạy, chăm chỉ ham học, gia nghiệp hưng thịnh, tài lộc dồi dào.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thìn (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người tuổi Thìn sinh ngày 16 âm lịch đều thông minh thiên bẩm, khả năng ứng biến nhanh nhạy, chăm chỉ ham học, gia nghiệp hưng thịnh, tài lộc dồi dào.



Người tuổi Thìn sinh ngày 16
  Những người tuổi Thìn sinh ngày 16 âm lịch đều thông minh thiên bẩm, khả năng ứng biến nhanh nhạy, chăm chỉ ham học, gia nghiệp hưng thịnh, tài lộc dồi dào.   Người tuổi Thìn sinh ngày 17   Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, gặp quý nhân tương trợ, công danh sự nghiệp phát đạt, cuộc sống bình yên và hạnh phúc.   Người tuổi Thìn sinh ngày 18   Số được nương tựa vào cha mẹ, không phải vất vả kiếm sống, tuy tiền tài không quá dồi dào nhưng cả đời đủ ăn đủ mặc.
Người tuổi Thìn sinh ngày 19   Đa phần người tuổi Thìn sinh ngày 19 thường hay gặp tai họa, phá tài, thất bại nhiều hơn thành công, nhân duyên với gia đình kém, cuộc sống khá vất vả.
Người tuổi Thìn sinh ngày 20   Người này có tính tình cương trực nhưng lại hay so đo tính toán, thích thể hiện, sự nghiệp phát triển bình ổn, đạt được những thành tựu nhất định.   Người tuổi Thìn sinh ngày 21   Tâm tính lương thiện, nam nữ đều hiếu thuận, nam mệnh lấy được vợ hiền, nữ mệnh có được chồng tốt, cuộc sống gia đình hài hòa, yên ấm.   Người tuổi Thìn sinh ngày 22   Người này vượng vận đào hoa, nam mệnh phong lưu đa tình, nữ mệnh cũng phong lưu không kém. Nhìn chung cuộc sống của người này khá vui vẻ, phóng khoáng, không bị ràng buộc những lễ giáo phong kiến cổ hủ.
Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Thin P2 hinh anh
Ảnh minh họa
  Người tuổi Thìn sinh ngày 23   Số mệnh cô đơn, không được nương tựa vào gia đình, người thân. Người này phải sống xa quê hương, tay trắng lập nghiệp.   Người tuổi Thìn sinh ngày 24   Cuộc đời người này cát tường như ý, mưu sự đại thành, công danh sự nghiệp đều thuận buồm xuôi gió.
Người tuổi Thìn sinh ngày 25   Thông minh lanh lợi, có tài năng xuất chúng, công thành danh toại, phần đông là những người có danh tiếng trong thiên hạ.   Người tuổi Thìn sinh ngày 26   Người này tâm địa nhỏ mọn, làm việc gì cũng tính toán thiệt hơn, không biết nhìn xa trông rộng. Nữ mệnh hợp hơn nam mệnh, cuộc sống yên ổn, không phải chịu nhiều thiệt thòi.    Người tuổi Thìn sinh ngày 27   Cuộc đời người này nhiều vất vả, thăng trầm, làm việc gì cũng trúc trắc, khó thành.
Người tuổi Thìn sinh ngày 28   Số mệnh có cát tinh chiếu rọi, gia đình sự nghiệp đều viên mãn, vợ chồng hòa hợp, đời sống vật chất dư giả.   Người tuổi Thìn sinh ngày 29   Người  này khá tham lam, có nhiều tham vọng về sự nghiệp, tiền bạc. Ngoài ra, người tuổi Thìn sinh ngày 29 vượng vận đào hoa, cần đề phòng vướng vào tửu sắc, gây phá tài.   Người tuổi Thìn sinh ngày30   Tài hoa hơn người, có thể lãnh đạo tập thể, uy danh bốn phương trời, số mệnh phú quý, giàu sang.   Kết luận: Ngày sinh đại cát của người tuổi Thìn là ngày mùng 1, 3, 9, 12, 13, 16, 21, 22, 24, 25, 28 và 30.   Đắc Minh (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thìn (P2)

Giải mã giấc mơ đám cưới, đám hỏi – nằm mơ thấy cưới hỏi –

Đám cưới, đám hỏi là những cột mốc khá quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đánh dấu giai đoạn bạn sắp bước vào cuộc sống hôn nhân, gia đình. Vậy nếu ngủ mà nằm mơ thấy những chuyện này là tốt hay xấu, chúng có mang đến những điềm báo gì khôn
Giải mã giấc mơ đám cưới, đám hỏi – nằm mơ thấy cưới hỏi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ đám cưới, đám hỏi – nằm mơ thấy cưới hỏi –

Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống nhà bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn mang lại sự giàu có, thịnh vượng và tốt cho đường tình duyên của gia chủ.
Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, đào hoa vị là huyệt đạo nếu được tác động sẽ có tác dụng làm tăng vận khí đào hoa của người sống trong ngôi nhà đó. Đặt bình hoa ở đúng vị trí đào hoa của mỗi người sẽ rất tốt cho chuyện tình duyên của gia chủ:

Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo tuổi, vị trí này phân bố như sau:

- Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa ở hướng chính Đông, do đó nên bài trí bình hoa ở hướng chính Đông.

- Tuổi Thân, Tí, Thìn: nên bài trí bình hoa ở hướng chính Tây.

- Tuổi Tị, Dậu, Sửu: nên bài trí bình hoa nằm ở hướng chính Nam.

- Tuổi Hợi, Mão, Mùi: nên bài trí bình hoa ở hướng chính Bắc.

Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo màu sắc thì cần tìm những màu chủ đạo của bình hoa, cụ thể như sau:

- Đào hoa ở hướng chính Đông: Đặt bình hoa màu xanh lục.

- Đào hoa ở hướng Tây: Đặt bình hoa màu vàng kim (vàng óng), màu trắng.

- Đào hoa ở hướng Nam: Đặt bình hoa màu đỏ, tím, cam.

- Đào hoa ở hướng Bắc: Đặt bình hoa màu đen, xám.

Đặt bình hoa theo chất liệu và hình dáng bình.

Trong phong thủy học, bình cắm hoa tốt nhất là bằng chất liệu gốm hoặc sứ. Bình hoa bằng sứ nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, còn bình hoa thuỷ tinh nên đặt ở phía Bắc trong phòng hay ngôi nhà. Hình dạng bình hoa cũng rất quan trọng, bình hoa có hình dạng khác nhau nên đặt ở các hướng khác nhau. Các loại bình hoa hình cầu nên đặt ở hướng bắc hoặc tây bắc, hình nón nên đặt ở phía Nam.

Đặt bình hoa trong phòng ngủ là tốt nhất

Phòng ngủ là nơi tốt nhất để đặt bình hoa. Trong nhà bạn có thể đặt nhiều bình ở những hướng tốt. Nếu bình bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ, bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là hướng Tây Nam. Song nếu không có điều kiện, bạn đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình bằng kim loại thì đặt ở góc Tây hoặc Tây Bắc. Bạn nên đặt bình vào nơi kín đáo, ví dụ trong tủ của phòng ngủ.

Ngoài ra, đối với phái mạnh, dù đã cao tuổi hay còn thanh niên, nếu muốn thu hút sự chú ý của phái nữ có thể đặt một bình hoa với vài cành hoa tươi ở vị trí bên phải cửa ra vào.

5 lưu ý quan trọng khi đặt bình hoa trong nhà

- Không để bình hoa rỗng trong nhà, nếu không sẽ khiến vợ hoặc chồng ngoại tình

- Thường xuyên thay nước hoặc bổ sung nước cho bình hoa, để nước bị hao hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như tài sản trong gia đình

- Hạn chế cắm hoa khô/hoa giả, sẽ làm căn nhà không có sức sống, gây nên một số trở ngại. Nếu đặt bình hoa khô/hoa giả thì phải để một lọ nước hoa bên cạnh.

- Hoa úa phải bỏ/thay ngay, để lâu ngày sẽ phá hỏng bầu không khí trong gia đình.

- Không gian xung quanh nơi đặt bình hoa phải sạch sẽ, gọn gàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Cây đồng tiền và thỏi vàng phong thủy –

Cây đồng tiền Cây đồng tiền có nguồn gốc từ thần thoại xưa. Theo sách phong thủy, người ta treo những xâu tiền vàng và những thỏi vàng trên cây đồng tiền. Loại cây này có một số biến thể, trong số đó được ưa chuộng nhất vẫn là cây ngọc ước làm bằng đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cây đồng tiền

Cây đồng tiền có nguồn gốc từ thần thoại xưa. Theo sách phong thủy, người ta treo những xâu tiền vàng và những thỏi vàng trên cây đồng tiền.

cay-tai-loc-da-peridote-lon

Loại cây này có một số biến thể, trong số đó được ưa chuộng nhất vẫn là cây ngọc ước làm bằng đá quý và trưng bày để được may mắn. Ngày nay thì cây đồng tiền được chế tác đa dạng hơn, người ta đính đá quý trực tiếp lên cây, gọi là cây tài lộc.

Bạn có thể bài trí cây tài lộc tại cửa hàng kinh doanh, ngay cạnh quầy thu ngân, đem lại tài lộc sung túc, thu hút vận may cho nơi kinh doanh của bạn.

Thỏi vàng

vat-pham-mang-ali-may-man-ve-tien-tai-4

Thỏi vàng thu hút tài lộc liên tục vào nhà. Trưng bày thỏi vàng luôn mang đến may mắn bởi nó tượng trưng cho tài lộc, của cải vật chất, tiết kiệm và giá trị. Cho càng nhiều thỏi vàng vào thuyền, bình tài lộc rồi để trong nhà hoặc văn phòng càng tốt.

Thỏi vàng còn gọi là kim nguyên bảo. Kim Nguyên bảo chính là các thỏi vàng mà người ta thường bày trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa, có tác dụng chính là Sinh tài, Vượng tài.

Tuy nhiên, nó còn được dùng để Hóa giải chỗ ngồi, chỗ nằm vì lý do không thể xoay trở khác được, mà phải hướng lưng, đầu ra cửa sổ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cây đồng tiền và thỏi vàng phong thủy –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Có rất nhiều sở thích giúp phán đoán tính cách của một người. Hãy xem sở thích tắm của bạn nói lên điều gì! Thích tắm dưới vòi hoa sen Bạn là người sống cởi mở, khá thoải mái, tuy nhiên có lúc hơi cẩu thả, tùy tiện. Điều này cũng phản ánh thái độ của
Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Đàn ông thế nào thì khả năng giường chiếu tốt?

Nhắc tới khả năng giường chiếu nhiều người có phần ngại ngùng, nhưng thực tế, chuyện này rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ vợ chồng.
Đàn ông thế nào thì khả năng giường chiếu tốt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhắc tới chuyện “giường chiếu” nhiều người có phần ngại ngùng, nhưng thực tế, chuyện này rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ vợ chồng. Vậy người đàn ông có khuôn mặt ra sao thì khả năng “giường chiếu” tốt?


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Dan ong the nao thi kha nang giuong chieu tot hinh anh goc
Ảnh minh họa
  1. Theo nhân tướng học người có nhiều lông trên cơ thể là người khỏe mạnh, mười phần tinh lực, khả năng giường chiếu cũng tốt.   Các loại “lông” trên cơ thể không giống nhau, trước tai thì gọi là tóc mai, trên môi thì gọi là ria, dưới môi thì gọi là râu, gần tai thì gọi là râu quai nón, sau tai là tóc…   Sách cổ có ghi ghép, nhìn một người có tinh lực hay không thì chỉ cần nhìn vào bộ lông, người đàn ông mà da trắng mịn màng thì không thọ. Lông ở đây bao gồm tóc, lông trên cơ thể, râu ria các loại, bộ lông phản ánh tinh lực của con người.   Trong cuốn Hoàng Đế Nội Kinh cũng có viết: Người có tinh lực là người có nhiều râu ria, râu ria mềm đẹp, râu quai nón dài, lông nách nhiều, lông ở hạ bộ đẹp, lông ngực đẹp, lông chân đẹp.    Như vậy có thể thấy được, nhìn vào bộ lông của người đàn ông thì có thể biết được tinh lực người đó có dồi dào hay không. Người có nhiều lông, đặc biệt là lông mày dày và đậm là người máu nóng, nhưng lông mềm mại và đen óng thì tốt, lông với thận có liên quan trực tiếp với nhau, người nhiều lông thì thận mạch dồi dào.

Dan ong the nao thi kha nang giuong chieu tot hinh anh goc
 
  2. Sống mũi đại diện cho cột sống, sống mũi thẳng thì xương cột sống cũng chắc khỏe. Người có lỗ mũi lớn mà cánh mũi dày thì hệ hô hấp tốt, phổi khí cũng tốt.   Đầu mũi quyết định vẻ dẹp của toàn bộ cái mũi, mũi lớn thịt dày, sống mũi thẳng , lỗ múi lớn thì thân thể khỏe mạnh, tốt bụng, bao dung độ lượng. Đặc biệt người có nốt ruồi ở mũi thì khả năng “giường chiếu” rất tốt, rất được lòng chị em phụ nữ.   3. Nhân Trung trong phép xem tướng tiểu nhân đại diện là bộ phận sinh dục của đàn ông, cũng là khả năng sinh sản mạnh hay yếu. Sách xem tướng cổ có viết: “Nhân trung sâu dài, là long mạch đời sau”.   Người có nhân trung rõ nét và sâu là người có con đàn cháu đống, vì sao? Vì người này tinh lực dồi dào, khả năng trên giường khá mạnh.   Lệ Mỹ
“Bắt thóp” bản tính đàn ông qua tướng râu Lông mày sâu róm, cả xóm chửa hoang? Lật tẩy tướng mặt đàn ông ham hố “chuyện ấy”
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông thế nào thì khả năng giường chiếu tốt?

Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại, tu vi Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại

Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại, trong tình yêu, chia tay là chuyện hết sức bình thường. Có những cặp đôi chia tay xong có thể làm bạn, lại có những cặp chia tay rồi lại quay lại. Nhưng với 5 cặp đôi dưới đây sau khi chia tay thì không bao giờ có chuyện quay lại, cả hai người đường ai nấy đi, coi nhau như “người dưng nước lã”. TOP 1: Bạch Dương và Nhân Mã   Xem bói tình yêu của Bạch Dương và Nhân Mã, họ có tính cách tương tự nhau, trong chuyện tình cảm họ đều áp dụng chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” để đạt được mục đích của mình. Cả đời Bạch Dương luôn theo đuổi tình yêu, họ bước rất nhanh và không bao giờ do dự, cái gì đã trôi qua thì dứt khoát để nó trôi qua chứ không níu kéo làm gì. Nhân Mã cũng như vậy, họ nhất định phải chọn người phù hợp với bản thân vì thế họ không ngừng tiến về phía trước. Sau khi chia tay đường ai nấy đi rồi Bạch Dương và Nhân Mã đều sợ vì tình cũ mà bỏ lỡ mất cơ hội đi tìm tình mới, cũng không muốn bị tình cũ quấy rầy, làm phiền vì thế mà cả hai đều không thể chủ động đi tìm đối phương ôn lại kỉ niệm xưa. Tổ hợp hai cung Bạch Dương và Nhân Mã một khi chia tay đều sẽ gấp rút đi tìm tình yêu mới nên sẽ không rảnh để nghĩ đến việc quay lại với nhau.   TOP 2: Xử Nữ và Bọ Cạp   Xem bói cung Xử Nữ là người theo chủ nghĩa hoàn mĩ nên họ hi vọng tình cảm của mình nhất định phải thật hoàn hảo. Trong thế giới của Xử Nữ những thứ không hoàn hảo phải bị loại bỏ một cách triệt để.  Bọ Cạp cũng như vậy, đối với chuyện tình cảm hoặc là có tất cả hoặc là một chút cũng không cần. Nếu như Xử Nữ và Bọ Cạp là một đôi, chỉ cần một trong hai người cảm thấy đối phương không dành đủ yêu thương cho mình, họ nhất định sẽ không níu kéo mà đề nghị chia tay, người kia cũng sẽ không miễn cưỡng. Bởi vì cho dù người bị chia tay là ai cũng đều sẽ cảm thấy nếu người kia đã không muốn tiếp tục hẹn hò thì việc gì phải mất công níu kéo làm gì, chi bằng dứt khoát chia tay luôn cho xong.   top cung hoàng đạo chia tay thì không bao giờ quay lại   TOP 3: Kim Ngưu và Ma Kết   Tính cách của Kim Ngưu và Ma Kết rất giống nhau, đặc biệt là lúc phải đưa ra những quyết định quan trọng, thái độ của hai người lại càng giống nhau hơn. Họ sẽ không bao giờ dễ dàng nói ra lời chia tay với đối phương, một khi họ đã nói ra chắc chắn đã suy nghĩ rất kĩ rồi mới đưa ra quyết định. Thậm chí có khả năng ngay từ khi trong đầu xuất hiện ý nghĩ chia tay Kim Ngưu đã tiến hành thống kê, phân tích xem Ma Kết có phải là người yêu phù hợp với họ hay không ? Sau khi hoàn thành công việc phân tích, trong lòng Kim Ngưu xác định tình cảm hiện tại của họ bây giờ đã không còn như trước nữa mới đưa ra quyết định, vì thế việc quay lại với tình cũ là điều không thể xảy ra.   TOP 4: Song Tử và Thiên Bình   Trái tim của Song Tử không bao giờ thuộc về bất cứ ai, khi còn đang hẹn hò trái tim của họ có lẽ đã bay đến nơi nào khác mất rồi, sau khi chia tay ánh mắt của Song Tử càng tha hồ để ý đến những người khác giới khác. Đối với Song Tử mà nói thì tình yêu giống như việc thưởng thức món ăn vậy, thế giới này rộng lớn như thế còn rất nhiều điều mới lạ đang chờ họ khám phá, làm gì có thời gian để nhớ nhung tình cũ. Trong khi đó các mối quan hệ của Thiên Bình cũng rất rộng, khi còn yêu nhau họ vẫn dành thời gian để đi chơi với những người bạn khác giới bình thường. Sau khi chia tay họ càng không ngại ngần đi chơi với bạn khác giới nhiều hơn nữa và hoàn toàn không có thời gian để suy nghĩ xem người cũ có đau buồn về việc này hay không. Hai người như Song Tử và Thiên Bình nếu như chia tay sẽ không bao giờ có chuyện quay trở lại.   chia tay   Top 5: Bảo Bình và Cự Giải   Bảo Bình và Cự Giải nếu như là một đôi, hai người lại vì lí do nào đó mà chia tay vậy thì tỉ lệ quay lại với nhau là rất thấp. Bảo Bình và Cự Giải đều thuộc tuýp người khó có thể hình thành mối quan hệ với người khác vì thế mà việc phát triển tình cảm với họ đã là khó khăn lắm rồi. Mỗi một bước đi trên con đường tình cảm của Bảo Bình và Cự Giải đều rất thận trọng, họ cũng phải suy nghĩ rất nhiều mới đưa ra được quyết định chia tay, như vậy Bảo Bình và Cự Giải sao còn có thể quay lại với nhau cơ chứ? Cự Giải bởi vì sợ một lần nữa phải chịu tổn thương cho nên họ không thể tiếp nhận lời giảng hòa của người yêu cũ. Bảo Bình lại thuộc tuýp người coi chuyện tình cảm không là cái gì cả, họ không bao giờ cầu xin người yêu cũ quay lại. Một người không chịu cầu xin, một người không dám quay đầu lại vì thế mà cặp đôi này một khi đã chia tay thì sẽ lập tức mỗi người một ngả, đường ai nấy đi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 cặp đôi Hoàng Đạo đã chia tay thì không quay lại - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Chu Dịch với Môn học Chu Dịch Dự Đoán Học

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Chu Dịch với Môn học Chu Dịch Dự Đoán Học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh Dịch với môn học Chu Dịch Dự Đoán

Người có công đầu chuyên biệt hoá khả năng dự đoán của Kinh Dịch, giúp Kinh Dịch áp dụng vào công việc dự đoán trong thực tiễn dễ dàng hơn. Đó là Nhà Triết học Thiệu Khang Tiết đời Tống. Ông đã đưa Hệ thông Thiên Can Địa Chi và mã hoá chúng thành các con số nhằm xác định thời điểm vận hành của các qui luật. Từ đó hình thành nên môn học Chu Dịch Dự Đoán.
(Hệ thống Thiên Can Địa Chi nằm trong Hệ Lịch Cổ Trung Hoa. Hệ Lịch này lấy Mặt Trăng làm điểm qui chiếu. Ta thường gọi là Âm lịch)
Kinh Dịch & Chu Dịch Dự Đoán Học liên hệ với nhau như thế nào trong dự đoán ?

Mối liên hệ giữa chúng như sau :

(Tôi mượn 1 số thuật ngữ bên Tin Học để mô tả mối liên hệ)
Kinh Dịch là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp.
Chu Dịch Dự Đoán là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao.
Bậc Thấp & Bậc Cao diễn tả mối quan hệ bậc thang.
- Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp là cái nền. Cái nền được sử dụng đề dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Cái nền ấy xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian không xác định.

Ví dụ : Khi Hitler đưa ra chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng. Căn cứ vào Hình Thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể xác quyết được rằng: nhà độc tài này có ý muốn thống trị thế giới, sẽ có những hành động cực đoan với các dân tộc khác, sẽ lôi kéo cả dân tộc chuẩn bị lực lượng cho 1 cuộc chiến tranh tổng lực. Biết được hậu quả của cuộc chiến tranh, và cái kết của cuộc chiến ấy.


- Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao là ngôn ngữ dự đoán đã được chuyên biệt hoá. Sự chuyên biệt hoá được sử dụng để dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Sự chuyên biệt hoá này xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian được xác định.

Ví dụ : Khi xác định được thời điểm Hitler công bố chủ thuyết ấy, ta có thể biết được suy nghĩ, thái độ, hành động & bước đi tiếp theo của ông ta.
Điều này lý giải vì sao tồn tại những người có khả năng ngoại cảm rất tốt. Họ nhìn thấy các sự kiện đã diễn ra, biết trước diễn tiến các sự việc trong tương lai mà bản thân họ không cần phải trông thấy trực tiếp. Trong vô thức, họ đã nắm được những qui luật bất biến của con người & vũ trụ.
Nhà Ngoại cảm nghe qua sự kiện, có thể đưa ra lời dự đoán.
Nhà Dự Đoán Học Trung Hoa cũng chỉ cần như vậy.
Điều này cho ta nhận xét rằng: Phải chăng Chu Dịch là cấu trúc cơ bản của khả năng ngoại cảm ?

Dự Đoán theo Chu Dịch & dự đoán theo Chu Dịch Dự Đoán Học, tôi gọi là Dự Đoán Học Trung Hoa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu Dịch với Môn học Chu Dịch Dự Đoán Học

Phân tích sao Liêm trinh trong lá số Tử vi

Trong tử vi, sao Liêm trinh là sao thứ đào hoa, chủ về tình cảm.Liêm trinh coi trọng tình cảm, thiếu lý trí, nên dùng Thiên phủ, Lộc tồn hóa giải...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi, sao Liêm trinh là sao thứ đào hoa, chủ về tình cảm. Liêm trinh và hệ sao tổ hợp  của nó có sát tinh đồng cung, phạm Bạch hổ sẽ gặp việc liên quan đến pháp luật  hoặc bỏ mạng nơi đất khách. Liêm trinh coi trọng tình cảm, thiếu lý trí, nên dùng Thiên phủ, Lộc tồn hóa giải.

Liêm trinh và hệ sao của nó tọa cung Phu thê chủ về khoan dung với vợ (chồng), tuy nhiên đôi khi thường hay soi mói, coi thường người khác.

Liêm trinh và hệ sao tổ hợp của nó tọa cung Thiên di chủ về sớm rời xa quê hương.

Trong tử vi Liêm trinh tọa cung Quan lộc, thêm sát tinh khó tránh phạm việc liên quan đến pháp luật.

-Sao Liêm trinh đóng tai cung Dần -Thân thì vợ chồng hòa thuận ,là người thông minh nhanh trí,vợ thì giúp chồng dạy con

Sao Liêm trinh đóng tai cung Tỵ- Hợi có Tham lang đồng cung là người thiếu chung thủy,tình cảm hay trắc trở,kỵ đánh bạc

-Sao Liêm trinh đóng tai cung Ngọ có Thiên tướng đồng cung là người trước nghèo sau giầu,phạm đào hoa ,mệnh lao lực,không nên tham gia cạnh tranh, tránh làm về chính trị và kinh doanh

-Sao Liêm trinh đóng tai cung Sửu- Mùi có Thất sát đồng cung cả đời thất bại, ít thành công

-Sao Liêm trinh đóng tai cung Tuất có Thiên phủ đồng cung nên nghiên cứu khoa học kỹ thuật, sáng tác,thêm văn xương có thể làm nhạc sỹ, dễ là người nổi tiếng

-Sao Liêm trinh đóng tai cung Sửu - Mùi có Thất sát đồng cung lại thêm sát tinh thường là người đoản mệnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích sao Liêm trinh trong lá số Tử vi

Gieo quẻ bằng 3 đồng xu cổ

Trước khi gieo, đặt 3 đồng tiền vào lòng 2 bàn tay, rồi úp lại, tâm hướng đến việc cần xem, chừng nửa phút thì lắc và thả xuống (mặt bàn, đất, khay). Làm như vậy 6 lần.
Gieo quẻ bằng 3 đồng xu cổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước khi gieo, đặt 3 đồng tiền vào lòng 2 bàn tay, rồi úp lại, tâm hướng đến việc cần xem, chừng nửa phút thì lắc và thả xuống (mặt bàn, đất, khay). Làm như vậy 6 lần.
Ghi từng lần 1 theo thứ tự từ dưới lên trên.1 đồng sấp là Dương, thì gạch 1 gạch dài (---) 
2 sấp là Âm thì gạch 2 gạch ngắn (- -) 
3 sấp là Lão Dương, thì vẽ một vòng tròn (0) 
3 ngữa là Lão Âm, thì vẽ hai đường chéo (X) 
1 gạch dài (---) là Thiếu Dương, còn vòng tròn (0) gọi là Lão Dương - tức là hào Dương động. 
2 gạch ngắn (- -) là Thiếu Âm, còn chữ (X) gọi là Lão Âm - tức là hào Âm động. 
Trong quẻ có vòng tròn, dấu chéo, thì gọi là quẻ động. 

Ví dụ: 
Thứ sáu: 1 sấp, thì vạch 1 vạch dài (---) 
Thứ năm: 3 ngữa, thì nên vạch 2 vạch ngắn và viết kế bên một chữ X (- - X) 
Thứ tư: 1 sấp, thì vạch 1 vạch dài (---) 
Thứ ba: 2 sấp thì vạch 2 vạch ngắn (- -) 
Thứ hai: 3 sấp, thì nên vạch 1 gạch dài và vẽ kế bên một vòng tròn (--- 0) 
Thứ nhất: 2 sấp, thì vạch 1 gạch ngắn (- -) 

Như vậy ta được quẻ Hỏa Thuỷ Vị Tế hóa Thuỷ Hỏa Ký Tế như sau: 
--- 0 
- - x (3 hào trên hợp lại là quẻ ngoại, gọi ngoại quái) 
--- 0 
- - x 
--- 0 (3 hào dưới hợp lại là quẻ nội, gọi nội quái) 
- - x 
Quẻ Hỏa Thuỷ Vị Tế hóa Thuỷ Hỏa Ký Tế, nạp thành 6 hào như sau: 
Hỏa Thuỷ Vị Tế -- Ký Tế 
Huynh Tỵ Ứng 0 Quan Tí 
Tử Mùi x ------ Tử Tuất 
Tài Dậu 0 ----- Tài Thân 
Huynh Ngọ Thế x Quan Hợi 
Tử Thìn 0 ----- Tử Sửu 
Phụ Dần x ----- Phụ Mão 

2/ Ứng dụng:
Kỹ thuật gieo quẻ đồng xu được giới dịch học khá tin dùng. Kỹ thuật có lợi thế là người xem có thể xem bất cứ lúc nào nếu muôn. Việc luận đoán cũng đa dạng và chi tiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gieo quẻ bằng 3 đồng xu cổ

Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

Theo phong thủy, cách thiết kế và trang trí một ngôi nhà có thể làm ảnh hưởng đến vận khí của gia chủ. Cùng ione tìm hiểu và cải thiện ngôi nhà của bạn để tránh được điềm gở và vận xui nhé.
Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cửa chính màu đen

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau

Cửa chính màu đen mang đến điềm gở

Theo phong thủy, màu sắc của cửa chính ảnh hưởng lớn đến tài vận của gia chủ. Màu sắc tương hợp phụ thuộc vào hướng cửa ra vào. Chỉ nên sơn cửa màu đen nếu cửa nhà bạn đối diện hướng Bắc. Nếu không thì đừng sơn. Vì màu đen là màu mang âm khí, không may mắn nhất trong các màu, nó có thể mang lại xui xẻo cho bạn.

2. Cây nhiều gai nhọn

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-1

Xương rồng là một trong những cây gai nhọn mang vận xui 

Những vật thể nhọn, lởm chởm được coi là sẽ mang đến rủi ro cho ngôi nhà của bạn. Vì thế, nếu muốn may mắn tìm đường đến với mình, tuyệt đối đừng để những cây nhiều gai trong nhà như xương rồng chẳng hạn.

3. Gương rọi thẳng về phía giường ngủ

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-2

Gương chiếu thẳng giường ngủ gây ra mâu thuẫn trong hôn nhân hoặc tình yêu 

Nếu để hình ảnh giường ngủ phản chiếu trong gương sẽ mang đến nguồn năng lượng tiêu cực cho phòng ngủ và gia chủ. Gây ảnh hưởng xấu đến đời sống tình cảm hoặc hôn nhân của bạn. 

4. Đặt lịch treo tường sai vị trí

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-3

Lịch treo trước cửa ra vào ảnh hưởng đến tuổi thọ của gia chủ

Nếu treo lịch ở vị trí cửa chính nhà bạn, hãy cẩn thận. Vì vị trí này gợi nhớ về khoảng thời gian trôi đi trong cuộc sống mà không thể lấy lại được. Có thể làm giảm tuổi thọ của gia chủ và mọi người trong gia đình.

5. Treo tranh con tàu/thuyền bị đắm

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-4

Những bức họa tàu/thuyền bị đắm gây nên ưu tư, buồn phiền cho gia chủ

Nếu bạn đang treo bức họa có hình ảnh con tàu/thuyền bị đắm ngoài khơi trong nhà mình, tốt nhất là nên bỏ nó đi, đừng để trong nhà nữa. Những bức họa kiểu này sẽ mang đến phiền muộn, bi quan và làm giảm năng lượng tích cực của gia chủ.

 Alexandra V (theo elledecor)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Theo các chuyên gia phong thủy thì ngoài việc chọn hướng nhà, sắp xếp các phòng cho hợp lý thì các gia chủ nên cân nhắc kỹ lưỡng một số những yếu tố về màu sắc, vật dụng nội thất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo thuyết ngũ hành, ngay cả chuyện màu sơn của ngôi nhà cũng tác động tới tài vận, sức khỏe của cả gia đình nên cần thiết phải có cái nhìn đúng đăn về vấn đề này.

Tuổi Bính Thân: Tuổi này sinh vào những năm 1956 và 2016. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh, Ngũ hành: Sơn hạ hỏa (Lửa dưới chân núi). Các hướng tốt: Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên)l; Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Riêng về năm 2015, tuổi Bính Thân tuy không phạm phải Tam tai nhưng lại phạm vào Kim lâu và Hoàng ốc vì vậy mà không nên tiến hành xây dựng.

Xét theo tuổi này, cách bày trí nội thất cũng có những đặc điểm khác so với những người cùng tuổi Thân khác. Mang mệnh Hỏa nên màu sắc hợp với bản mệnh là màu đỏ, tím, hồng, tuy nhiên, nếu như gia chủ không thích những màu này thì có thể chọn màu xanh để thay thế. Màu xanh tượng trưng cho mệnh Mộc, trong Ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa sẽ rất tốt cho gia chủ. Bên cạnh đó, để có được màu sơn thích hợp với gia đình mình, các gia chủ cũng có thể pha trộn các màu với nhau miễn sao đảm bảo được tông màu gốc.

Về bày trí nội thất, tốt nhất là gia chủ nên sử dụng các vật dụng bằng gỗ làm chủ đạo. Ví dụ như việc làm cầu thang, tốt nhất là nên sử dụng gỗ mà không nên sử dụng inox hay kính vì không tương thích với bản mệnh. Ngay cả những vật phẩm phong thủy cũng nên tuần theo nguyên tắc này, sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, hồng, cam, tím, xanh lá. Còn về việc bày trí phòng bếp, phòng ngủ, phòng thờ thì cứ căn cứ theo các hướng tốt của bản thân để quyết định.

Tuổi Canh Thân: Tuổi này sinh năm 1980. Quẻ mệnh Không (thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ câu lựu). Các hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y). Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát). Về năm 2015, tuổi Canh Thân không phạm phải Tam tai và Kim lâu nhưng lại phạm Hoàng ốc. Do đã đạt được hai yếu tố căn bản nên có thể cân nhắc việc xây dựng nhưng tốt nhất là nên làm lễ cẩn thận, nếu được thì tìm người tuổi đẹp để động thổ giúp.

Trong việc bày biện nội thất, Ngũ hành tương sinh tương khắc, Thủy sinh Mộc (nước nuôi cây) nên các màu của nước sẽ hợp với Mộc như màu đen của đất hay màu xanh dương, màu xanh da trời của nước. Tiếp đến là các màu bản mệnh của mộc như xanh lá cây, màu gỗ, và các gam màu thuộc hỏa như đỏ, hồng, tím. Mệnh Mộc cũng hợp với các chế phẩm từ gỗ, hoa cỏ và những hình trang trí như hổ, thỏ, mèo…

Không nên sử dụng màu trắng trong trang trí nhà cho người mệnh Mộc. Người mệnh Mộc hợp với các đồ dùng có màu xanh lá cây và màu gỗ. Người mệnh này cũng có thể bổ sung thêm các vật dụng màu đỏ, hồng, tím để tô điểm cho không gian nhà nhưng chỉ với số lượng vừa phải. Những người tuổi Canh Thân nói riêng và mệnh Mộc nói chung nên hạn chế tối đa các vật dung bằng kim loại khi bày trí nội thất trong gia đình vì theo Ngũ hành Kim sẽ khắc Mộc, không có lợi.

 bo tri mot so vat dung noi that giup gia chu tuoi than don tai loc - 1

Nội thất màu vàng phù hợp với người tuổi Mậu Thân. 

Tuổi Giáp Thân: Người tuổi này sinh năm 1944. Quẻ mệnh: Khôn Thổ thuộc Tây Tứ Mệnh nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch. Ngũ hành: Tuyền Trung Thủy (Nước trong suối). Các hướng tốt gồm: Tây Bắc: Diên Niên; Đông Bắc: Sinh Khí; Tây: Thiên Y; Tây Nam: Phục Vị. Còn hướng xấu sẽ là: Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Chết chóc. Đông – Họa Hại: Nhà có hung khí. Đông Nam – Ngũ Quỷ: Gặp tai họa. Nam – Lục Sát: Nhà có sát khí. Năm 2015, tuổi này không phạm Tam tai, không phạm Kim lâu nhưng phạm Hoàng ốc, có thể xây dựng được.

Theo phong thủy ngũ hành bạn có thể bài trí nhà cho người mệnh Thủy theo tương sinh, tương hợp. Nghĩa là những màu sắc thuộc hành Thủy, hành Mộc và hành Kim sẽ tốt cho người mệnh Thủy nhất. Màu sắc chủ đạo của mệnh Thủy là các tông màu xanh, đen, còn màu sắc của hành Kim là trắng, ánh kim và không nên dùng màu nâu, vàng, đỏ thuộc hành Thổ và hành Hỏa. Bởi vì chủ nhà mệnh Thủy, nên các chất liệu kim loại, gỗ, thủy tinh rất phù hợp để sử dụng. Đồ vật nên dùng hình tròn, hình trụ, hình lượn sóng thuộc Kim, Mộc, Thủy, tránh những đồ vật hình nhọn thuộc Hỏa khắc Thủy. Trong nhà luôn có cây xanh, treo chuông gió bằng kim loại hoặc các bức tượng bằng đồng, bằng gỗ.

Một lời khuyên là những gia chủ mệnh này nên sử dụng nhiều vật dụng bằng kim loại, kính và ngược lại chỉ nên sử dụng các loại đồ gỗ một cách có chừng mực. Theo Ngũ hành, Kim sinh Thủy mà hai chất liệu kia lại tượng trưng cho mệnh Kim vì vậy sẽ bổ trợ cho bản mệnh của gia chủ, đồ gỗ nhiều sẽ khiến cho gia chủ thêm ưu tư lo phiền.

Tuổi Mậu Thân: Năm sinh dương lịch: 1968, 2028. Quẻ mệnh: Khôn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Đại trạch thổ (Đất thuộc khe lớn). Các Hướng tốt: Đông Bắc (Diên Niên); Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị). Hướng xấu: Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ quỷ); Nam (Lục Sát); Bắc (Tuyệt mệnh). Năm 2015, tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên việc xây dựng có thể lui lại đến thời gian sau, trong tình huống bắt buộc thì phải nhờ người động thổ giúp, tránh mặt trong những lúc khởi công và đổ mái.

Theo quan điểm phong thủy, một số nền văn hóa cổ xưa tôn sùng màu vàng bởi đây là màu của sức mạnh, quyền năng và duy trì sự sống. Căn phòng cho người mệnh Thổ được sơn vàng hoặc các vật dụng trang trí màu vàng luôn tỏa ra một niềm vui như mùa thu tỏa nắng, khi được trang trí căn phòng sẽ toát lên niềm lạc quan, yêu đời. Nội thất phòng khách dưới đất là một gợi ý cho người mệnh Thổ với bức tường gạch nung, sofa màu vàng, vật liệu gỗ nâu trầm, đèn chùm trang trí pha màu vàng và các đồ vật trang trí khác bằng gốm sứ…Những gam màu tối của không gian Thổ luôn tạo ra sức mạnh của uy quyền và do đó, gợi lên sự sang trọng, tinh tế nên không gian Thổ thường được đưa vào nội thất phòng khách của những người đã có sự thành đạt nhất định trong cuộc sống.

Tuổi Nhâm Thân: Người này sinh năm 1992. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Kiếm phong kim (Vàng đầu mũi kiếm). Hướng tốt: Tây Nam (Sinh khí); Tây (Diên Niên); Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Năm 2015, người tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên không nên xây dựng, tốt nhất là lui lại thời gian khởi công vào những năm sau.

Màu sắc chính của người mệnh Kim là màu trắng. Do đó mệnh Kim có thể sử dụng màu trắng là gam màu chính cho các đồ dùng trong gia đình. Ngoài ra, theo tương sinh thì Thủy sinh Kim, mà màu xanh lam và đen đại diện cho thủy nên người mệnh này cũng có thể sử dụng các vật dụng màu này để bổ sung cho mình. Cũng theo ngũ hành thì Hỏa khắc Kim, nên nếu trong nhà đã lựa chọn màu trắng làm chủ đạo thì nên hạn chế hoặc không sử dụng đến các màu đỏ và tím. Những gia chủ có mệnh Kim thì nên hạn chế hoặc tránh sử dụng đồ nội thất hoặc trang trí nhà với gam màu đỏ, tím.

Người mệnh Kim nên chọn các vật liệu trang trí nhà bằng kim loại như thép, nhôm, vàng, bạc… Đặc tính kim loại của chúng có thể thúc đẩy sự lưu thông không khí. Vì vậy, với các vị trí kín trong nhà, nên trưng bày các vật bằng kim loại. Về các loại cây trồng, người mệnh Kim nên trồng hoặc trang trí các loại cây, hoa sau trong nhà: hoa ngọc lan, cửu lý hương, kim bách hợp, hàm tiếu, mễ lan, kim quế và hoa kim ngân.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Dù vất vả nhưng trong tương lai họ sẽ là con giáp phát tài

Những người sinh vào giờ này, mặc dù cả đời phải trải qua nhiều vất vả, khó khăn nhưng nhờ thông minh hơn người nên trong tương lai họ sẽ là con giáp phát tài.
Dù vất vả nhưng trong tương lai họ sẽ là con giáp phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con giáp phát tài này, mặc dù cả đời phải trải qua nhiều vất vả, khó khăn nhưng nhờ thông minh hơn người nên cuộc sống của họ luôn sung túc, chẳng bao giờ phải lo cơm áo gạo tiền.
 

► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Người sinh giờ Tý


Du vat va nhung trong tuong lai ho se la con giap phat tai hinh anh
Người sinh vào giờ Tý (khoảng 23 giờ đến 1 giờ đêm)
Con giáp phát tài đầu tiên là những người sinh vào giờ Tý. Người sinh vào giờ Tý (khoảng 23 giờ đến 1 giờ đêm), từ nhỏ đã được quý nhân phù trợ. Cuộc đời họ phải trải qua nhiều trắc trở, bởi vì họ thông minh sẵn có nên trong cuộc sống và sự nghiệp đều mang mệnh vất vả, đa số đều phải bận bịu đến tuổi trung niên mới có thể được nghỉ ngơi. Tuy nhiên, cả đời họ chẳng mấy khi bị rơi vào khốn cảnh, tiền kiếm được nhiều hơn tiền tiêu đi nên trong ví lúc nào cũng rủng rỉnh, vấn đề cơm áo gạo tiền không thể làm khó được người sinh vào giờ Tý.  

Người sinh vào Thân

  Người sinh vào giờ Thân (khoảng 15 giờ đến 17 giờ chiều) thường cũng rất nhanh nhẹn và tháo vát. Do bản tính theo đuổi sự hoàn mỹ nên cả đời họ luôn chạy theo những lý tưởng và hoài bão rất cao xa. Cuộc đời họ có thể coi là khá bằng phẳng, tiền tài không thiếu, có điều số mệnh vẫn khá vất vả, chạy đôn chạy đáo. Trong sự nghiệp, người sinh giờ Thân phải đảm đương nhiều trọng trách, dù rất có năng lực nhưng khó có thời gian rảnh rỗi.   Dù phải bôn ba khắp nơi nhưng họ luôn cố gắng chăm sóc chu đáo cho gia đình. Mục tiêu kiếm tiền của họ là chỉ dành một phần nhỏ cho bản thân còn lại là để người nhà và con cháu sau này hưởng phúc.  

Người sinh giờ Hợi


Du vat va nhung trong tuong lai ho se la con giap phat tai hinh anh
Người sinh vào giờ Hợi (khoảng 21 giờ đến 23 giờ đêm)
Người sinh vào giờ Hợi (khoảng 21 giờ đến 23 giờ đêm) thường rất hiền hòa, giàu tình cảm. Họ quan niệm tiền bạc chỉ cần đủ tiêu là được, nhưng do bản tính quá cẩn thận, quá nhạy cảm khiến cho cuộc sống của họ gặp khá nhiều nhọc nhằn. Người sinh giờ Hợi rất để ý cái nhìn của người khác với mình, cho nên đôi khi mục tiêu cố gắng của họ chỉ là để chứng minh bản thân. Chính điều này khiến họ phải hao tổn nhiều tâm trí, số mệnh vất vả nhưng cũng là một trong những con giáp phát tài dễ dàng về sau này.   Người sinh vào giờ Hợi cũng có rất nhiều quý nhân giúp đỡ, sự nghiệp thuận lợi, tiền tài dư dả nhưng vì số vất vả nên không có nhiều thời gian hưởng thụ cuộc sống, kiếm được tiền cũng để cho người khác hưởng dụng.

ST.
12 con giáp kết hôn tuổi nào để trọn đời hạnh phúc? Top 5 con giáp đại phú đại quý trong năm 2017 4 con giáp phạm Thái Tuế năm 2017

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dù vất vả nhưng trong tương lai họ sẽ là con giáp phát tài

Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Sau khi kết hôn, có người hạnh phúc, có người không. Mơ thấy mình có hôn ước cũng vậy, đôi khi là cát mộng nhưng nhiều phần là ác mộng.
Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôn ước là chuyện hệ trọng cả đời người, tuy nhiên, sau khi kết hôn, có người hạnh phúc, có người không. Mơ thấy mình có hôn ước, đôi khi là cát mộng nhưng nhiều phần là ác mộng.
 

► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

Mơ thấy xem hôn lễ của người khác là gia trạch có vận tốt, cha thì thăng chức hoặc bệnh của mẹ khỏi hoặc anh em thi cử thông suốt. Bản thân bạn thì cũng trải qua những tháng ngày bình yên.

 
Mơ thấy mình làm cô dâu là tình yêu bắt đầu thăng tiến. Những cuộc hẹn hạnh phúc sẽ diễn ra trong bầu không khí có nhạc, có mỹ thuật vô cùng lãng mạn, càng khiến cho tình cảm hai bạn thắm thiết.



Mo thay co hon uoc la diem bao gi hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy mình tham gia lễ kết hôn ngụ ý mặt tình yêu bị trì trệ, vì chuyện nhỏ mà phải cãi vã với người yêu… vì đôi bên đều cố chấp nên không có cơ hội làm lành.

 
Người độc thân mơ thấy bỏ trốn kết hôn là điềm báo bạn ở trong trạng thái bất mãn, không muốn đối diện với cuộc sống hoặc một cá nhân nào đó.
 Người có gia đình mơ thấy mình bỏ trốn kết hôn là điềm báo tình cảm gặp rạn nứt.

 
Cha mẹ mơ thấy có con gái lấy chồng là ngụ ý gia đình tan vỡ.

 
Nữ giới chưa kết hôn mơ thấy lấy chồng là ngụ ý bản thân rất hi vọng được kết hôn.

 
Nữ giới đã kết hôn mơ thấy lấy chồng là ngụ ý bạn bất mãn với cuộc hôn nhân hiện tại.


Mơ thấy chồng thì hãy xem lại tình trạng hôn nhân của mình Cảnh báo: Phụ nữ mơ thấy chuột túi là sắp ly hôn chồng? Lập tức tổ chức lễ kết hôn sau khi… mơ thấy mình đi may áo
Nam giới mơ thấy mình cưới thiếp là ngụ ý cuộc sống không thỏa mãn.

 
Nữ giới mơ thấy chồng mình cưới thiếp là ngụ ý cảm thấy nguy cơ trong tình cảm.
 
Nữ giới đã kết hôn mơ thấy nam giới khác cầu hôn bản thân là ngụ ý cuộc sống hôn nhân sẽ gặp sóng gió.

 
Nam giới đã kết hôn mơ thấy cầu hôn nữ khác ngụ ý cuộc sống sẽ gặp sóng gió, có lẽ bản thân sẽ có chuyện ngoại tình.

 
Nam giới mơ thấy mình cầu hôn cô gái mình thích ngụ ý cuộc sống thực anh ấy yêu thầm cô gái này nhưng không biết làm sao có được trái tim cô ấy nên cảm thấy buồn phiền.

 
Nữ giới mơ thấy người khác cầu hôn mình ngụ ý sắp có ý trung nhân xuất hiện và bạn hi vọng được đối phương chú ý.

 
Nữ giới đang yêu mơ thấy người khác cầu hôn hoặc bạn trai cầu hôn ám chỉ bạn rất yêu người ấy, thậm chí bạn còn cảm thấy giày vò bản thân vì không biết anh ấy nghĩ gì, sao không hỏi trực tiếp anh ấy.

 
Mơ thấy từ hôn là điềm báo tình cảm không ổn định.

 
Mơ thấy một cuộc hẹn để từ hôn ngụ ý bạn không nắm bắt được nhân phẩm của người mình yêu, hoặc mặt tài sản phân chia lo lắng có sự không công bằng.

 
Mơ thấy anh chị em mình từ hôn ngụ ý tình cảm của bạn với anh chị em rất sâu đậm.

 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy có hôn ước là điềm báo gì?

Cô nàng tuổi nào mê trai đẹp nhất?

Con gái tuổi Tỵ, Mão và Ngọ cũng háo sắc không kém hội đầu keo đâu nhé.
Cô nàng tuổi nào mê trai đẹp nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Cô nàng tuổi Tỵ

Không chỉ quan tâm, chăm chút cho vẻ ngoài của mình, các nàng tuổi Tỵ còn vô cùng chú ý tới diện mạo bảnh bao của các chàng trai.

ty-8399-1412952813.jpg

Con giáp này có thể dành hàng giờ đồng hồ để tám chuyện về vẻ điển trai, lịch lãm của các ngôi sao nổi tiếng, hay chỉ đơn giản là anh chàng phong độ của lớp bên cạnh. Chỉ cần nhìn thấy trai đẹp từ xa, cô nàng tuổi Tỵ mắt sẽ long lanh hướng ánh nhìn vào chàng mà quên hết mọi thứ xung quanh.

Á quân: Cô nàng tuổi Mão

Không kém phần mê trai đẹp như người tuổi Tỵ, con gái tuổi Mão còn treo hàng loạt ảnh các anh chàng hot boy có ngoại hình cuốn hút trong phòng của mình để ngắm hàng ngày.

tho-4410-1412952813.jpg

Điều đó giải thích lý do tại sao hầu hết những bộ phim yêu thích của cô nàng tuổi mão đều thuộc tuýp phim Hàn Quốc trai xinh, gái đẹp.

No3: Cô nàng tuổi Ngọ

So với hai đối thủ nặng ký về mức độ mê trai đẹp phía trên, cô nàng tuổi Ngọ còn tỏ vẻ thích ra mặt mỗi khi đề cập tới mẽ ngoài của các chàng.

ngo-3162-1412952813.jpg

Họ không tỏ vẻ xấu hổ hay ngại ngùng khi bàn tán tới vẻ ngoài, thậm chí cả đời tư của những anh chàng điển trai. Con giáp này coi đó là một trong những vấn đề cần lưu tâm hàng đầu khi chọn nửa kia cho mình.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cô nàng tuổi nào mê trai đẹp nhất?

Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Bi thạch đoạn pháp là thế mộ hung hiểm thứ hai trong phong thủy âm trạch. Nên đọc để tránh mang họa cho cả nhà.
Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bi thạch đoạn pháp là thế mộ hung hiểm thứ hai trong phong thủy âm trạch. Nên đọc để tránh mang họa cho cả nhà.


Phong thuy am trach The mo nguy hiem bi thach doan phap hinh anh
 
Âm trạch nếu không chăm sóc và xây dựng cẩn thận theo phong thủy dễ dẫn đến nhiều điềm xấu và tai họa cho cả gia đình. Bi thạch đoạn pháp là những sai lầm trong phong thủy âm trạch liên quan tới bia mộ. Bia mộ tượng trưng cho sự tồn tại của vong linh trên chốn trần gian. Khí từ bia mộ tiến vào bên trong, cảm ứng tới vong linh.   Tùy theo gia cảnh và điều kiện của gia đình, bia mộ thường là đá nguyên khối, trên có khắc tên tuổi, thông tin của người đã khuất. Một số người dùng cả đá Quan Âm, đá bành hồ hay các loại đá đắt tiền, quý hiếm để dựng bia.   Bia mộ xây dựng cho người khuất làm bằng đá sẽ bị mài mòn qua thời gian, dưới tác động của ánh nắng, mưa, gió, độ ẩm sẽ sản sinh các phản ứng hóa học nên xuất hiện vết ố, mờ, nứt, vằn. Từ các hiện tượng trên bia mộ có thể suy ra tình hình bên trong mộ phần, dựa vào đó luận đoán cát hung, họa phúc trong hậu vận của con cháu.   Yếu tố gây động trong phong thủy âm trạch
Phong thủy âm trạch (tức mồ mả) của thế hệ trước có sự ảnh hưởng nhất định tới cuộc sống của người hiện tại.

Bia mộ độ cứng cao, không bị thay đổi do mưa nắng, ánh sáng màu sắc nhu hòa, không lẫn tạp chất, hoa văn rõ ràng là phong thủy tốt, con cháu vượng tài.
  Bia mộ có chỗ bị nứt mòn, vết bẩn không thể tẩy sạch thì đề phòng con cháu trong nhà có người có bệnh.   Quang ám, ánh sáng mờ tối, bia lung lay, người trong nhà gặp họa bất ngờ hoặc có tai nạn.

Trên đây là đôi nét cần biết về phong thủy âm trạch, các gia đình nên biết để làm theo tránh tai ương, mang lộc về nhà!
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch: Thế mộ nguy hiểm "bi thạch đoạn pháp"

Sao Triệt Không

Loại: Tùy Tinh Đặc Tính: Bế tắc, chướng ngại, chặn đứng. Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Kh...
Sao Triệt Không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Loại: Tùy TinhĐặc Tính: Bế tắc, chướng ngại, chặn đứng.
Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.
Ý Nghĩa Của Tuần Triệt
Tác dụng của Tuần, Triệt có tính cách toàn diện, không có biệt lệ, tức là hai sao này chi phối tất cả các sao đồng cung và tất cả các cung có Tuần, Triệt án ngữ, không vị nể một sao nào hay một cung nào. Tuy nhiên, có sự phân biệt ít nhiều ý nghĩa của hai sao này, từ đó, có ảnh hưởng trên sự luận đoán:
Sự Khác Biệt Ý Nghĩa Giữa Tuần, Triệt:
Tuần là Ám Tinh, Triệt là Không Tinh. Như vậy, ý nghĩa Tuần tất nhiên nhẹ hơn Triệt. Tuần báo hiệu sự trắc trở, khó khăn còn Triệt báo hiệu sự bế tắc, chướng ngại lớn, sự lụn bại nặng nề.
Tuần ảnh hưởng suốt đời, còn Triệt chỉ mạnh cho đến khoảng 30 tuổi, tuổi tam thập nhi lập, tuổi từ đó con người có thể tự lập thân, không còn chịu ảnh hưởng nặng của gia đình.
Tác Dụng Tương Đồng Của Tuần, Triệt:
Trong thời gian hai sao còn ảnh hưởng, Tuần, Triệt đóng ở bất cứ cung nào đều tiên quyết:
Gây trở ngại ít hay nhiều cho cung đó. Mức độ ít hay nhiều này tùy thuộc sự tốt, xấu của 3 cung Phúc, Mệnh, Thân. Điều này có ngoại lệ cho cung Tật sẽ nói đến sau này.
Tác họa ít nhiều trên các sao đồng cung. Sự tác hóa này có hai cường độ: hoặc biến hoàn toàn ý nghĩa của sao (như biến sao xấu thành tốt hay ngược lại) hoặc chỉ giảm ảnh hưởng của các sao (như làm cho bớt tốt, bớt xấu).
Tuy nhiên, tác dụng tiên quyết này có 3 ngoại lệ:

  • Nếu chính và phụ tinh tọa thủ vốn xấu mà gặp Tuần hay Triệt thì bớt xấu, có thể trở thành tốt được.
  • Tuần, Triệt đóng tại cung Tật rất tốt vì tiên quyết ngăn trở rất nhiều bệnh tật, tai họa lớn cho đương số, bất luận tại cung Tật có sao tốt hay xấu.
  • Tuần, Triệt đóng tại cung vô chính diệu thì lại hay. Nhưng ảnh hưởng tốt này cũng không tuyệt đối và tùy thuộc mức độ tốt của cung vô chính diệu. Nếu vô chính diệu mà được Tứ Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) thì rất đẹp, được Tam Không thì đẹp, đươc Nhị Không thì tầm thường, còn chỉ Nhất Không thì kém.
Tác Dụng Của Các Sao Khác Đối Với Sao Triệt:
Mặc dù sao Triệt chi phối tất cả các sao đồng cung nhưng sao này không phải bất khả xâm phạm, nó vẫn bị các sao kia chi phối lại, nhất là chính tinh. Có sự ảnh hưởng qua lại hai chiều cho nên kết luận giải đoán chung cuộc chỉ có thể đưa ra sau khi cân nhắc ảnh hưởng hai chiều đó với hàm số Phúc, Mệnh, Thân.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Mệnh
  • Tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm.
  • Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp.
  • Sinh bất phùng thời.
  • Nếu vô chính diệu có Tứ hay Tam Không thì làm nên danh phận nhưng không bền, tuổi niên thiếu vất vả.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mất sớm, nhất là nếu Nhật, Nguyệt lạc hãm hay bị Không Kiếp chiếu. Cần cân nhắc với hai sao Nhật, Nguyệt và cung Phụ Mẫu có Tuần, Triệt.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phúc Đức
  • Phúc đức bị trục trặc trên phương diện nào đó.
  • Triệt, Dương: Dòng họ thất tự, phải lập con nuôi.
Ý Nghĩa Triệt Cung Điền Trạch, Tài Bạch
Triệt ở hai cung Điền Trạch, Tài Bạch có thể có nhiều nghĩa:
  • Không có tài sản, hoặc chỉ có trong một giai đoạn nào đó.
  • Làm ra của nhưng phải chật vật.
  • Không được hưởng di sản tổ phụ.
  • Không có của để lại cho con.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh lận đận, khó nhọc mới làm nên.
  • Phải chịu vất vả trong một thời gian.
  • Thiên Tướng, Triệt, Tuần: Có thể bị bãi chức, hay bị tai nạn trong công vụ.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Nô Bộc
  • Triệt ở cung Nô có nghĩa là tôi tớ thay đổi, ra vào luôn, không ai ở lâu dài.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Tật Ách
  • Rất cần có Tuần, Triệt tại cung Tật Ách vì nhờ hai sao này mà bệnh, tật và họa sẽ tiêu tán hay giảm thiểu đi rất nhiều. Sức khỏe và may mắn sẽ được bảo đảm nhiều hơn.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Tử Tức
  • Sát con, nhất là con đầu lòng.
  • Sinh con đầu lòng khó khăn, khó nuôi.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Phu Thê
  • Triệt ở cung này tiên quyết nói lên sự trắc trở hôn nhân, nhất là sự thất bại của mối tình đầu.
  • Lấy người khác làng, khác tỉnh mới tốt, nhưng nhân duyên phải gặp khó khăn.
  • Triệt gặp Mã: Vợ chồng bỏ nhau rất dễ dàng.
Ý Nghĩa Triệt Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em xung khắc hoặc ít anh chị em.
  • Anh cả, chị cả mất sớm.
Triệt Khi Vào Các Hạn
  • Nếu gặp sao sáng sủa thì hạn lại mờ ám, mưu sự trắc trở, thất bại.
  • Nếu gặp sao xấu xa thì hạn được sáng sủa, dù có gặp trắc trở ban đầu.
Đặc biệt cung Hạn gặp Tuần, Triệt rất đáng lưu ý vì hai sao này có hiệu lực mạnh ở các đại, tiểu hạn.
Tóm lại, Triệt làsao hết sức quan trọng, chi phối các cung, các sao, biến tốt thành tương đối xấu, biến xấu thành tương đối tốt. Hiệu lực nghịch đảo đó có thể làm lạc hướng luận đoán nếu sự cân nhắc không tinh vị.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Triệt Không

Cách tạo cảm giác rộng rãi cho phòng khách –

Hãy biết cách tận dụng màu sắc và chú ý cách bài trí để mở rộng không gian đối với các căn phòng có diện tích khiêm tốn. Khéo léo tận dụng những tấm gương soi Các tấm gương không chỉ làm sáng sủa căn phòng của bạn, mà còn có tác dụng làm cho nó trôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phongkhanh

Hãy biết cách tận dụng màu sắc và chú ý cách bài trí để mở rộng không gian đối với các căn phòng có diện tích khiêm tốn.

Khéo léo tận dụng những tấm gương soi

Các tấm gương không chỉ làm sáng sủa căn phòng của bạn, mà còn có tác dụng làm cho nó trông rộng hơn rất nhiều. Chắng hạn, nếu bạn tận dụng khả năng phản chiếu của mặt gương cũng như các tấm kính trong phòng, đồng thời kết hợp với treo một tấm gương lớn trên tường, bạn sẽ thấy rằng không gian căn phòng bé nhỏ của mình dường như được nhân đôi.

Khéo léo tận dụng màu sắc

Thứ nhất, điểu tiết không gian bằng màu sắc khác nhau giữa các bức tường. Chẳng hạn, sau khi quét xong một lớp sơn tường, hãy sơn đè lên đó một lớp sơn thứ hai có màu tương ứng theo thứ tự mức độ từ đậm đến nhạt dần bắt đầu từ chân tường cho đến độ cao cách mặt đất khoảng 1,8 m. Chú ý, màu sơn đó phải đậm hơn màu sơn ban đầu. Như vậy sẽ hiệu quả nghệ thuật cho cả căn phòng. Thứ hai, màu sắc của tường, trần nhà, nền nhà, rèm cửa sổ, và các vật dụng khác trong nhà không được quá đậm hoặc tối. Màu đậm và tối sẽ làm căn phòng trở nên chật hẹp; trong khi đó các màu dịu nhẹ, tươi sáng sẽ tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu, lí đó sẽ giúp mở rộng không gian cả căn phòng.

Khéo léo sắp xếp các đồ dùng trong gia đình

Kiểu dáng đồ dùng cần đơn giản, nhỏ gọn mà đẹp mắt. Chẳng hạn, không chọn loại ghế sopha dành cho 3 người mà chỉ chọn loại cho 2 người. Cũng không nên chọn loại ghế sopha thiết kế theo kiểu khép kín, tốt nhất nên chọn loại lộ chân ghế. Các đồ vật càng nhỏ gọn thì chiếm diện tích càng ít, như vậy sẽ tiết kiệm tối đa không gian cho căn phòng của bạn.

Khéo léo tận dụng các đường nét

Nếu nhà bạn hơi ngắn, hãy kẻ những đường ngang men theo chân tưòng, như thế căn phòng của bạn trông sẽ dài hơn một chút. Còn trong trường hợp nhà bạn hơi thấp, hãy kẻ các đường kẻ sọc dọc các bức tường để kéo dài thêm chiều cao của căn phòng.

Cách tránh cảm giác ức chế do những chiếc đèn treo gây ra

Để tránh cảm giác ức chế do treo quá nhiều đèn treo hoặc đèn treo quá lớn, quá nặng gây ra, khi trang trí đèn treo, bạn cần chú ý những điểm sau:

  •  Với các phòng cao khoảng 2,6 m đến 2,8 m, độ cao của các vật trang trí trần nhà không nên vượt, quá 10 cm.
  • Màu sắc của các vật trang trí trần nhà phải nhạt, không được đậm hơn màu của bốn bức tường bao. Với gam màu nhạt sẽ làm trần nhà trông có vẻ cao hơn.
  • Với những căn phòng thấp, tốt nhất là để mái bằng, trần nhà để thô không trang trí, chỉ cần treo một chiếc đèn chùm ở giữa làm chủ đạo là đủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tạo cảm giác rộng rãi cho phòng khách –

Cách xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ –

Xem ý nghĩa vị trí từng nốt ruồi trên mặt phụ nữ. Xem nốt ruồi, đoán tương lai 1- Số làm mệnh phụ. 2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ. 3- Hại cha mẹ. 4- Không người phục dịch. 5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít. 6- Ha
Cách xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ –

8 loại cây dễ trồng khiến muỗi “kinh sợ”

Những loài cây, loài hoa giúp đuổi muỗi hiệu quả Một số loài cây, loài hoa không chỉ có tác dụng làm đẹp cho không gian ngôi nhà của bạn mà còn có thể phòng chống và xua đuổi muỗi hiệu quả. Thay vì xịt thuốc, đốt hương muỗi và sử dụng các chất hóa học thì bạn có thể trồng các loại cây này để đuổi muỗi mà không gây hại cho sức khỏe của người thân trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cây sả

cây sả

Cây sả là một trong những loại cỏ rất tự nhiên, dễ trồng và khá nhiều tinh dầu. Dầu sả được đặt trong nến và lồng đèn có thể khiến muối phát sợ. Những nghiên cứu cho thấy, tinh dầu sả còn có tác dụng trị muỗi và xua đuổi muỗi tốt hơn gấp nhiều lần thuốc trị muỗi thông thường.

Ngoài được coi là loại thảo mộc phòng chống muỗi, cây sả còn được coi là một loại gia vị thơm ngon cho một số món ăn.

2. Cây húng thơm

cây húng thơm

Cũng được coi là một loại thảo dược vừa có lợi cho sức khỏe con người vừa giúp phòng chống và xua đuổi muỗi. Được biết tinh dầu của cây húng thơm cũng có thể giúp phòng chống muỗi hữu hiệu cho cả gia đình bạn.

3. Cây hương thảo

cây hương thảo

Từ lâu cây hương thảo cũng được coi là một loại thảo dược hấp dẫn và đầy công hiệu với sức khỏe. Ngoài tác dụng có thể nấu ăn được, cây hương thảo còn giúp xua đuổi và phòng chống muỗi.

Tuy cây hương thảo ưa sống và phát triển tốt trong khí hậu nhiệt đới, nhưng khi mùa đông đến, bạn vẫn có thể lấy lá hương thảo và đun nó trong nồi nước để chống muỗi cho cả gia đình.

4. Cúc vạn thọ

cúc vạn thọ

Cúc vạn thọ cũng được coi là một trong những loại cây “khắc tinh” của nhiều loại côn trùng gây hại cho con người. Chúng cũng là một loại cây giúp phòng chống và xua đuổi muỗi cũng như các côn trùng khác có thể tấn công rau quả hoặc loài rệp vừng.

Vì thế, bạn có thể trồng cúc vạn thọ với đủ các loại màu sắc khoe hương vừa giúp sân vườn bạn rạng rỡ vừa phòng chống muỗi.

5. Húng chanh

húng chanh

Húng chanh là loại cây rất dễ trồng, dễ dàng phát triển ngay cả trong bóng râm. Mọi người thường sử dụng húng chanh làm rau thơm, phơi khô làm trà thảo dược và đặc biệt đây cũng là cây có khả năng đuổi muỗi vô cùng tuyệt vời.

6. Cây bạc hà mèo

cây bạc hà mèo

Khi nói đến những loại cây có tác dụng trong việc đuổi muỗi thì không thể bỏ qua bạc hà. Trong thành phần của tinh dầu bạc hà mèo có chứa nepetalactone – một loại hóa chất mà muỗi rất sợ. Vì vậy trồng bạc hà quanh sân và hiên nhà là cách đuổi muỗi đơn giản nhưng hiệu quả gấp chục lần DEET (một loại chất thường có trong các sản phẩm đuổi côn trùng).

7. Cây oải hương

hoa oải hương

Một trong những cách chống muỗi tự nhiên là sử dụng cây hoa oải hương. Không chỉ có sắc tím hút hồn, oải hương còn sở hữu mùi hương quyến rũ và giúp thư giãn thần kinh. Tuy nhiên muỗi lại không hề thích thú với mùi này. Nếu có thể bạn hãy trồng những chậu oải hương quanh nhà hoặc trên cửa sổ. Hoa oải hương được phơi khô còn có thể dùng làm trà thảo dược cũng rất tốt.

8. Cây phong lữ

hoa phong lữ

Hoa phong lữ đẹp và cũng có mùi hương rất quyến rũ, nhưng muỗi và côn trùng lại rất sợ. Bạn có thể trồng những chậu hoa phong lữ trong nhà vừa có tác dụng trang trí, tô điểm cho ngôi nhà mà lại không lo muỗi làm phiền.

Lưu ý: Nếu chẳng may bị muỗi đốt, bạn cũng có thể sử dụng ngay một số loại tinh dầu có trong chúng để thoa lên trên vết muỗi cắn nhằm thoát khỏi tình trạng bị sưng và ngứa ngáy.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 loại cây dễ trồng khiến muỗi “kinh sợ”

Phong thủy tiền sảnh những điều nên biết

Cửa là nơi tiếp giáp và thu nạp vượng khí, có thể ảnh hưởng tới toàn bộ bố cục của tòa nhà, tài vận của công ty. Vì vậy mà bố trí phong thủy tiền sảnh hợp lý
Phong thủy tiền sảnh những điều nên biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa là nơi tiếp giáp và thu nạp vượng khí, có thể ảnh hưởng tới toàn bộ bố cục của tòa nhà, tài vận của công ty. Vì vậy mà bố trí phong thủy tiền sảnh hợp lý không chỉ làm đẹp cảnh quan mà còn tăng cường tài vận, giúp công việc làm ăn được hanh thông, thuận lợi hơn.


Phong thuy tien sanh nhung dieu nen biet hinh anh
Tiền sảnh hợp phong thủy mang tới tài vận tốt cho công ty

Tiền sảnh rất có ích trong việc gây dựng thiện cảm với đối tác và chính nhân viên của công ty: làm tăng cảm giác về thực lực của công ty; làm tăng cảm giác về sự đoàn kết trong công ty; làm tăng cảm giác về sự quy của trong công ty; làm tăng cảm giác về nét đặc trưng riêng của công ty; làm tăng cảm giác tin tưởng vào việc kinh doanh của công ty. 
 
Phong thủy tiền sảnh đại kị đặt bình phong ở cửa ra vào, tạo thành vật cản, gây trở ngại cho vượng khí vào trong tòa nhà, phòng làm việc và ngăn tài vận.

Phong thuy tien sanh nhung dieu nen biet hinh anh 2
Những đồ vật trang trí có tính động ở tiền sảnh chuyển hóa tà khí thành vượng khí

Trong trường hợp hướng cửa không thuận lợi, không tốt bị thu nạp tài khí thì biện pháp hóa giải tốt nhất là đặt những đồ vật trang trí có tính động như bể nước, đài phun nước phong thủy hoặc bể cá ở khu vực tiền sảnh. Vì nước có thể chuyển hóa từ trường, làm tà khí chuyển thành vượng khí, cân bằng phong thủy tiền sảnh hỗ trợ cho sự phát triển toàn diện của công ty.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tiền sảnh những điều nên biết

Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Nhiều người vẫn tâm niệm rằng, mơ thấy máu là điềm xấu, tìm mọi cách để hóa giải vận xui. Nhưng máu xuất hiện trong giấc mơ thì lại là cát mộng.
Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người vẫn tâm niệm rằng, mơ thấy máu là điềm xấu, tìm mọi cách để hóa giải vận xui. Nhưng máu xuất hiện trong giấc mơ thì còn đại diện cho cuộc sống, tình yêu, niềm đam mê, nên chưa chắc giấc mơ nào có hình ảnh máu cũng là điềm dữ đâu nhé. 


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác


Thấy máu bạn đang chảy hoặc bị mất máu trong mơ, ám chỉ rằng bạn đang kiệt sức hoặc  cảm thấy cạn kiệt cảm xúc. Ngoài ra, điều nay cũng có thể mang ý nghĩa là sự đối đầu quyết liệt giữa bạn và thân hữu của bạn. Những hành động đã qua trong quá khứ thường hiện về trong tâm trí bạn.Tuy nhiên nếu mơ thấy máu chảy ra nhiều là giấc mơ lành báo rằng chuyện làm ăn của bạn sẽ được thuận buồm xuôi gió và bạn sẽ nhanh chóng phát đạt.


Mo thay mau la lanh hay du hinh anh
Ảnh minh họa
Kinh nguyệt là chuyện “hơi dơ bẩn” trong hiện thực, ví dụ như tới kỳ thì kiêng thờ cúng, kiêng vào chùa… nhưng nó lại hoàn toàn ngược lại trong giấc mơ.


Nữ giới mơ thấy kinh nguyệt, một mặt ám chỉ bạn sắp thoát khỏi buồn phiền bắt đầu một cuộc sống vui vẻ mới. Mặt khác nó  còn ngụ ý rằng bạn đang phải chịu áp lực nặng nề về chuyện bầu bí. 
 
Nữ giới mơ thấy kỳ kinh nguyệt của mình ra nhiều máu là mọi ước mong của bạn đều có thể thực hiện, cuộc sống hạnh phục được kéo dài.

 
Mơ thấy mình dính máu kinh nguyệt là điềm báo bạn sắp có được bạn bè hợp tác mới, chuyện làm ăn không ngừng tốt đẹp.

 
Nữ giới mơ thấy mình đến tháng và làm bẩn hết quần áo thì bạn nên chú ý vấn đề sức khỏe, có thể sắp tới bạn sẽ phải đi khám bệnh. 
 
Chồng mơ thấy vợ mình đến tháng là điềm báo về cuộc sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc.

 
Nam giới mơ thấy mình dính kinh nguyệt phụ nữ là điềm báo bạn sắp thành công trong một lĩnh vực nào đó hoặc sắp được thăng chức.   
Nếu có cái gì đó được viết bằng máu, thì nó đại diện cho năng lượng bạn đã đưa vào một dự án. Bạn đã đầu tư rất nhiều công sức vào cái gì mà bạn không sẵn sàng từ bỏ nó.
  
Mơ thấy máu bắn hoặc dính vào quần áo, giấc mơ này mang đến một tin vui là bạn sắp có được thành công ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống.
Trong giấc mơ, bạn thấy người khác bị chảy máu là điềm báo bạn sắp thắng lợi trong công việc của mình.
 
Nếu như bạn mơ thấy máu ở những lò sát sinh thường là điềm báo rằng bạn sẽ có được vận may bất ngờ về mặt tài chính.
 
Nếu bạn mơ mình dẫm phải một vũng máu thì bạn nên cẩn trọng hơn tới những công việc mình làm. Điềm báo này nói rằng có thể bạn sẽ gặp phải rắc rối nào đó có liên quan đến pháp luật.
 
Mơ thấy máu bắn lên mặt hoặc trên mặt có vết máu cũng thường là điềm không hay, ám chỉ rằng bạn sẽ phải đảm nhận một trọng trách vượt quá khả năng của bạn.

Mơ thấy nội tạng có đáng sợ không?
Thật không may nếu bạn mơ thấy trái tim hay lá phổi của mình. Những giấc mơ này sẽ khiến cho tinh thần sa sút, bạn cảm thấy chán nản và mất hết hi vọng. 
 
Nếu bạn mơ là bạn đang hiến máu, thì nó cho thấy cơ thể bạn bị vắt kiệt sức lực vì căng thẳng.
 
Mơ thấy những người khác chảy máy ám chỉ một cảm xúc đau khổ cần được giúp đỡ.
 
Mơ thấy tay bạn dính máu ám chỉ bạn đã phạm một lỗi lầm nào đó.
 
Mơ thấy bạn đang chảy máu nghĩa là mất đi sự sinh tồn, mất đi lòng tin vào bản thân, và không tự tin.
 
Mơ thấy bạn đang chảy hoặc mất máu ám chỉ rằng bạn đang bị kiệt sức hoặc cảm thấy cảm xúc bị vắt kiệt. Nó cũng có thể biểu thị những sự đối mặt cay đắng giữa bạn và bạn bè mình. Hành động trong quá khứ quay trở lại ám ảnh bạn. Hãy xem bạn bị chảy máu từ đâu và cân nhắc những biểu tượng của phần cơ thể đó.
 
Mơ thấy bạn đang được truyền máu có nghĩa là bạn đang cần được nạp năng lượng và sinh khí. Trường hợp mơ thấy máu này bạn có thể đang thiếu cảm hứng và cần vài động cơ mới cho cuộc sống.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd