Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bí ẩn về vị bá tước trẻ mãi không già

Bá tước Saint Germain (St Germain) là một nhân vật có thật trong lịch sử châu Âu ở thế kỷ XVIII nhưng do hành tung bí ẩn, với vẻ bề ngoài không in dấu thời
Bí ẩn về vị bá tước trẻ mãi không già

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

gian mà nhiều học giả cho rằng những câu chuyện về ông chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, thêu dệt, bịa đặt. Tuy nhiên phần lớn những giai thoại về vị bá tước tài hoa, phong lưu và có bí quyết trẻ mãi không già đã được rất nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng chứng thực. 

Bi an ve vi ba tuoc tre mai khong gia hinh anh
 
Các tài liệu lịch sử ghi lại rằng bá tước St Germain sinh ra trong thập niên 1690. Tài năng của bá tước St Germain được biết đến nhiều nhất là trong nghệ thuật giả kim với kiến thức vô cùng uyên bác. Người ta còn truyền tai nhau rằng nếu uống thứ dung dịch ma thuật biến kim loại thành vàng bạc trong thuật giả kim thì còn người có thể bất tử và bá tước St Germain chính là người phát hiện ra điều đó. 
Là nhà tiên tri và người nắm giữ bí quyết trẻ mãi không già?
 
Người ta thường nhắc đến chế độ ăn uống khoa học của ông với bột yến mạch kèm theo là các công thức nấu ăn loại bỏ các nếp nhăn và giúp tóc luôn giữ được màu đen mượt. Không ngoại trừ khả năng đây cũng là một trong những bí quyết để giữ gìn vẻ tươi trẻ của bá tước.
 
Một giai thoại trong năm 1760 chứng minh rằng bá tước St Germain là người không tuổi. Năm đó nữ bá tước Georgy gặp ông trong một buổi dạ hội tại nhà của quý bà Pompadour (người tình của vua Louis XV của Pháp). Bà mạo muội hỏi bá tước St Germain rằng người bà gặp vào năm 1710 có phải là cha ông không vì diện mạo hai người giống nhau như đúc. Và nữ bá tước đã vô cùng ngạc nhiên khi nghe được câu trả lời tôi chính là người đã gặp bà 50 năm trước. Điều đáng kinh ngạc hơn là sắc diện của bá tước St Germain vẫn không có gì thay đổi so với cách đó 50 năm kiến nữ bá tước phải thốt lên rằng: “Chắc hẳn ông năm nay đã gần 100 tuổi rồi?” Câu trả lời: “Điều ấy không phải là không thể thưa bà” của bá tước St Germain như đã khẳng định về sự trẻ mãi không già của ông.
 
Hoàng tử xứ Walescũng rất tò mò về vị nam bá tước lạ lùng này, nhưng dù ngài đã tìm kiếm, cử người điều tra nhưng vẫn chẳng hề có chút thông tin nào về ông ta. Đại thi hào Pháp Voltaire nổi tiếng thế kỷ XVIII cũng đã nhận định rằng: “Saint-Germain là người đàn ông biết tất cả mọi thứ và không bao giờ chết”. Cũng chính vì sự xuất hiện trải dài từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX mà vẫn giữ nguyên một sắc diện trẻ khỏe, phong lưu nên bá tước St Germain bị nhiều người ám chỉ là một thầy phù thủy sử dụng phép thuật để kháng lại quy luật tự nhiên.
 
Ngoài việc có bí quyết trường thọ bá tước St Germain còn được biết đến là một nhà tiên tri tài giỏi. Những ghi chép của nữ bá tước Adhemar về những lần gặp gỡ với bá tước St Germain đã được lưu giữ trong dòng họ của bà đến ngày nay.
Trong các ghi chép chỉ ra rằng bá tước St Germain đã tiết lộ nhiều điều về tương lai của các thành viên hoàng gia, đặc biệt là hoàng hậu Marie-Antoinette. Trong nhật kí của mình, nữ bá tước Adhemar còn tiết lộ bà đã gặp bá tước St Germain thêm năm lần nữa và hầu hết là vào những thời điểm biến động của vương triều vua Louis XV của Pháp: Ngày hoàng hậu Marie-Antoinette bị giết, một ngày sau khi công tước Enghien qua đời (năm 1804), tháng giêng năm 1813, khi bá tước Berri bị ám sát (năm 1820). Sau đó bá tước St Germain đã biến mất không để lại một dấu vết nào.

Thái tử Charles của xứ Hesse-Kassel sau này đã kể lại trong một bức thư rằng thái tử là người duy nhất được bá tước St Germain tâm sự thực sự. Bá tước kể với thái tử rằng ông là con trai của hoàng tử Transylvanian Francis Racoczi II và khi đến Schleswig ông đã 88 tuổi. Bá tước St Germain đã chết trong nhà máy vào ngày 27/02/1784 khi thái tử Charles đang ở Kassel. Cái chết đã được ghi lại trong sổ đăng ký của Nicolai Thánh Giáo Hội tại Eckernforde. Ông được chôn cất vào ngày 2/3/1784 và chi phí mai táng được liệt kê trong sổ kế toán của nhà thờ ngày hôm sau. 
 
Tuy cái chết của bá tước St Germain đã được xác định như trên nhưng huyền thoại, truyền thuyết và suy đoán về ông vẫn phổ biến rộng rãi trong thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Bá tước St Germain đã xuất hiện nhiều lần trong lịch sử, thậm chí gần đây nhất là năm 1970 và lần nào cũng với bộ dạng một người đàn ông khoảng 45 tuổi.     
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn về vị bá tước trẻ mãi không già

Tìm hiểu về đá Aquamarine –

Tên gọi Aquamarine bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là nước biển. Người Latin cổ đại tin rằng Aquamarine là viên đá của thần biển, những ngư dân khi ra khơi đánh cá thường mang bên mình trang sức được làm từ loại đá này để được bình yên trước những

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên gọi Aquamarine bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là nước biển. Người Latin cổ đại tin rằng Aquamarine là viên đá của thần biển, những ngư dân khi ra khơi đánh cá thường mang bên mình trang sức được làm từ loại đá này để được bình yên trước những con sóng dữ. Chúng là viên đá của tháng tư, người châu Âu cho rằng những viên đá này mang đến yêu thương chân thành và hạnh phúc suốt đời cho các cặp đôi yêu nhau. Bài viết sau đây Tìm hiểu về đá Aquamarine.

Tên gọi đá “Aquamarine,” loại đá của tháng 3, bắt nguồn từ chữ Latin “aqua” – nước, và “mare” – biển vì màu của loại đá này nhìn như màu xanh trong của nước biển. Aquamarine phải chăng là lời nhắc nhở con người đừng bao giờ quên đi biển cả tươi đẹp?

Nội dung

  • 1 Nhận biết đá Aquamarine thật giả
  • 2 Màu sắc đá Aquamarine
  • 3 Sự tích về Aquamarine
  • 4 Phân bố đá Aquamarine

Nhận biết đá Aquamarine thật giả

Đá Aquamarine là khoáng vật nằm trong nhóm Beryl có màu sắc xanh lá cây hoặc xanh lam đậm. Trong đó, loại màu xanh lá cây phổ biến hơn, giá trị thương mại thấp hơn so với loại có màu xanh lam đậm. Việc xử lý bằng nhiệt độ cao có thể thay đổi màu sắc của đá từ xanh lá cây sang xanh lam đậm. Vì vậy, hãy cẩn trọng khi mua những viên màu xanh lam đậm vì rất có thể chúng được xử lý nhiệt để tăng độ đậm của màu sắc

Màu sắc đá Aquamarine

Aquamarine thường có màu xanh nhạt, nhưng nếu xanh càng đậm thì càng có giá trị. Đá kích thước nhỏ ít khi có màu đậm, nghĩa là đá càng lớn thì màu càng đậm.

Các sắc độ của Aquamarine rất rộng, có thể có màu trắng xanh nhạt, xanh nhạt pha chút sắc vàng , xanh lục nhẹ. Tuy nhiên hiếm và đắt hơn cả là màu xanh dương đậm.

Aquamarine là một loại đá cứng và bền, tuy nhiên chúng vẫn có thể bị nứt ở bên trong nếu bị va đập mạnh. Và cũng không may là loại đá này có thể bị mất màu nếu như tiếp xúc lâu ngày với ánh sáng mạnh.

Rất nhiều người nhầm tưởng đá Topaz xanh và ngọc bích là Aquamarine, tuy nhiên Aquamarine có giá cao hơn nhiều so với 2 loại đá trên.

Sự tích về Aquamarine

Aquamarine được biết đến từ khoảng năm 300 trước CN, khi các loại bùa làm bằng đá aquamarine được khảm trên chiếc xe ngựa của thần Poseidon. Nó cũng được tìm thấy trong lăng mộ của người Ai Cập cổ, một loại đá khác để người chết có thể an toàn đi qua thế giới khác.

Khiên ngực của vua Solomon cũng được cho rằng có khảm đá Aquamarine. Hai ngàn năm trước, tương truyền vua Nero đã dùng đá aquamarine làm kính mắt và người ta tin rằng đá aquamarine co thể chữa lành bệnh. Thời trung cổ, đá aquamarine được xem như là thuốc giải độc, nó cũng được dùng để tiên đoán tương lai.

Phân bố đá Aquamarine

Hiện nay, nơi xuất hiện nhiều Aquamarine là Brazin, Zambia, Mozambic, Angola, Nigeria, Madagasca.

Tại một vài quốc gia như Mexico, Mỹ cũng xuất hiện các mỏ Aquamarine với trữ lượng không lớn lắm.

Truyền thuyết kễ rằng những viên đá xanh quyết rũ này được cất giữ trong rương báu của các nàng tiên cá đã bị sóng đánh trôi giạt vào bờ. Vì vậy mà Aquamarine được xem là đá quí của thủy thủ, nó gắn liền với những chuyến hải hành an toàn, thuận lợi, chống lại nguy hiểm và quái vật biển. Aquamarine giúp đem lại sự bình an cho các đôi uyên ương.Vì năng lượng của nó bảo đảm cho một cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc nên Aquamarine đã trở thành một món quà cưới quý giá.

Về mặt sức khỏe, loại đá này được cho là một trong những bác sĩ mát tay giúp giàm trừ các căn bênh liên quan đến thần kinh. Những người sử dụng Aquamarine làm đồ trang trí sẽ tăng cường khả năng cân bằng với thiên nhiên, cuộc sống, cởi mở hơn với ban bè, cũng như sẽ gặp may mắn trong tình yêu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về đá Aquamarine –

Giải mã cơn ác mộng: Mơ thấy mình bị tai nạn

Nếu trong giấc mơ bạn mơ thấy mình bị tai nạn điều này cho thấy bạn đang mong mỏi một tình cảm ổn định. Giải mã giấc mơ mơ thấy mình bị tai nạn
Giải mã cơn ác mộng: Mơ thấy mình bị tai nạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy mình bị tai nạn có ý nghĩa gì? Nếu trong giấc mơ bạn bị thương điều này cho thấy bạn đang mong mỏi một tình cảm ổn định, cuối tuần nếu cùng bạn bè ra ngoài du ngoạn, chơi bời sẽ là sự lựa chọn cực tốt.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Giai ma con ac mong Mo thay minh bi tai nan hinh anh
Ảnh minh họa

 
Nếu trong cơn ác mộng bạn mơ thấy mình bị tai nạn xe cộ thì điều này cho thấy bạn phải nghiêm túc xem lại cuộc sống của mình, suy nghĩ kĩ càng xem cuộc sống của bạn có phải đã bị khống chế hoặc một việc nào đó được xử lí quá vội vàng. 
 Nếu mơ thấy mọi người trong nhà bị tai nạn ngụ ý bạn rất lo lắng cho người nhà mình.
   Mơ thấy có sự cố trong công ty là bạn khát vọng đạt thành tích trên mặt công việc.
   Mơ thấy sự cố khi đang bay ám chỉ việc bạn thiếu lòng tin đối với người khác cũng mất lòng tin vào bản thân mình.
   Nếu trong giấc mơ bạn bị thương điều này cho thấy bạn đang mong mỏi một tình cảm ổn định, cuối tuần nếu cùng bạn bè ra ngoài du ngoạn, chơi bời sẽ là sự lựa chọn cực tốt. Về mặt tình yêu, trước mắt bạn không cần một mối quan hệ cố định, đặc biệt với những người có suy nghĩ cổ hủ vì suy nghĩ của bạn sẽ nhanh chóng chấm dứt mối quan hệ mới bắt đầu. Tuy vậy đừng quá buồn, vì một mối quan hệ mới sắp tìm đến rồi.
   Mơ thấy chiến tranh   Mơ thấy chiến tranh ngụ ý sắp chịu khổ.
   Mơ thấy bản thân tham gia chiến tranh ngụ ý thất tình hoặc chuyện làm ăn thua lỗ.
   Mơ thấy đại chiến là điềm hung, tại khu bạn ở sẽ phát sinh đại loạn.
   Mơ thấy chiến tranh nối tiếp chiến tranh lại là cát mộng, tượng trưng cho gia đình hòa thuận.
   Mơ thấy chiến tranh diễn ra ở rất xa mình ám chỉ việc người thân hoặc họ hàng sắp gặp khó khăn.
   Mơ thấy việc giải cứu
 
Mơ thấy mình cứu được bạn bè hoặc người thân ra khỏi tay kẻ thù hoặc kẻ cướp lại chẳng phải là điềm may, đường thăng tiến của bản thân gặp trở ngại.
   Mơ thấy cứu bạn bè từ trong nguy hiểm hoặc khó khăn là điềm báo lúc nguy nan sẽ được bạn bè giúp đỡ.
   Nam giới chưa kết hôn mơ thấy cứu cô gái danh gia vọng tộc khỏi nguy hiểm, trong tương lai, có lẽ hai người sẽ kết thành đôi uyên ương.
   Mơ thấy mình cứu vợ ngụ ý vợ chồng sẽ hạnh phúc hoàn mỹ.
   Thương nhân mơ mình cứu nhân viên là sẽ giàu có hạnh phúc.
   Mơ thấy mình cứu kẻ thù có nghĩa mình có thể công kích đối thủ.
   Nữ giới mơ thấy chồng được cứu khỏi nguy hiểm lại là điềm xui, vợ chồng cãi cọ.
   Phạm nhân mơ người khác cứu mình là sẽ bị phán án tù chung thân.
   Nữ giới mơ được người yêu mình được cứu ra ám chỉ hai người mãi mãi kết thành uyên ương.
   Mơ thấy mình được đối thủ cứu ra là bản thân sẽ bị giày vò tàn khốc.
   Người bệnh mơ được người khác cứu là điềm lành, không lâu nữa sẽ hồi phục sức khỏe.

Lichngaytot.com
Mơ đi shopping, cẩn thận ví tiền Tâm trạng bất an vì mơ thấy mình bị cướp giết Giải mã giấc mơ chứa đầy sự rủi ro
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã cơn ác mộng: Mơ thấy mình bị tai nạn

Ánh sáng trong phòng ngủ –

Phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi thư giãn, đòi hỏi phải có độ ánh sáng thích hợp. Ánh sáng trong phòng ngủ dù là trên phương diện mĩ thuật hay để đảm bảo sức khỏe đều phải đạt tiêu chuẩn dịu nhẹ và không làm hại mắt. Nếu ánh sáng trong phòng ngủ quá mạnh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

con người sẽ dễ cáu giận bực bội. Ngược lại, nếu ánh sáng quá yếu thì dễ làm cho con người có tâm trạng u uất và mắc chứng trầm cảm.

anhsang_phongngu1

Phong thủy học nói rằng, lắp đặt đèn điện cũng có những điều cấm kị. Chẳng hạn, không nên treo đèn treo ngay trên đầu giường, càng không nên treo ở chính giữa giường. Vì nếu trên đầu có một chiếc đèn treo thì khi ngủ ánh sáng sẽ chiếu trực tiếp vào mắt. Trừ khi bạn đeo một cái che mắt trong khi ngủ, nếu không chắc chắn bạn không thể nào ngủ ngon giấc được. Không chỉ vậy, việc thường xuyên bị ánh đèn chiếu vào mắt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến gan của bạn.

Ngoài ra, hiện nay phần lớn những chiếc giường đôi được thiết kế có một chiếc đèn ngủ kèm theo. Điều này không có gì đáng nói. Tuy nhiên, ánh sáng phát ra từ chiếc đèn ngủ ấy phải dịu nhẹ. Nếu là một chiếc đèn đơn thì nên lắp thêm một cái chụp đèn, màu của chụp đèn phải hợp với màu tường và ngũ hành của chủ nhà. Như vậy, bạn không những có thể ngủ ngon mà sức khỏe của bạn cũng được đảm bảo. Nếu một người có tinh thần luôn luôn sung mãn thì tài sản, cuả cải sẽ tự nhiên tìm đến.

Nếu đèn điện trong nhà bị hỏng thì phải lập tức sửa hoặc thay ngay một cái bóng mới, vì đèn hỏng là chuyện vô cùng xui xẻo. Bởi thế, nếu trong nhà bạn có bất kì bóng đèn nào bị hỏng thì xin bạn đừng ngại việc mà hãy bắt tay vào xử lý ngay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng trong phòng ngủ –

Lư Trung Hỏa - Ý nghĩa như lửa trong lò

Lư Trung Hỏa giả, thiên địa vi lô, âm dương vi thán, quang huy ưu vũ trụ, đào dã ưu càn khôn (Lửa trong lò vũ trụ, trời đất, âm dương, càn khôn đều được đào luyện).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lư Trung Hỏa - Ý nghĩa như lửa trong lò

Lư Trung Hỏa - Ý nghĩa như lửa trong lò

Khái niệm về Lư Trung Hỏa (Lửa trong lò)

Phúc Đăng, Lư Trung dữ Sơn Đầu

Tam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưu

Thiên Thượng, Tích , Sơn hạ Hỏa

Thủy trung nhất ngô cân vương hâu.

Giải thích : Ba loại Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn dầu), Lư Trung Hỏa (lửa bếp lò) và Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi) gặp hành Thủy sẽ khắc kỵ. Khi gặp nước ba thứ lửa trên sẽ bị dập tắt, đúng nghĩa Thủy khắc Hỏa, thuộc diện khắc nhập mất phần phúc.

Sách Bác Vật Vựng Biên chép: "Bính Dần, Đinh Mão, Dần là Tam dương, Mão là Tứ dương, Hỏa được đất lại có Dần Mão Mộc trợ lực, trời đất lúc ấy như lò lửa và vạn vật nảy sinh, nên gọi bằng Lư Trung Hỏa".

Bính Dần Đinh Mão, khí thế phát huy nhờ chất đốt mà hiển minh, âm dương còn lẫn, thiên địa chung một lò lửa. Lửa dung hóa tất cả từ âm dương đến sáng tối cả trời lẫn đất nói chung là vạn vật trong vũ trụ. Dùng Hỏa để cải tạo vạn vật.

Có câu: "Lư Trung Hỏa giả, thiên địa vi lô, âm dương vi thán, quang huy ưu vũ trụ, đào dã ưu càn khôn" (Lửa trong lò vũ trụ, trời đất, âm dương, càn khôn đều được đào luyện).

Người Lư Trung Hỏa có mệnh lớn, tâm tưởng bao la, lúc đắc thế khả dĩ hiển hiện tài hoa danh tiếng với đời. Lư Trung Hỏa mang một khuyết điểm nếu mệnh kèm theo những hung sát tinh hãm dễ thành kiêu căng ngạo mạn, dễ bị nghe theo lời nịnh hót mà thất bại.

Bính Dần Đinh Mão hai hàng chi đều thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa tước nhược gặp hung vận thiếu trầm tĩnh giải quyết công việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lư Trung Hỏa - Ý nghĩa như lửa trong lò

Đặt tủ lạnh đúng phong thủy mang lại giàu sang

Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông.
Đặt tủ lạnh đúng phong thủy mang lại giàu sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy gọi tủ lạnh là "Tài khố" (Kho của). Do đó, nên thường xuyên để thức ăn đầy trong tủ lạnh. Kỵ để tủ trống rỗng, vì như vậy sẽ tượng trưng cho sự nghèo đói, túng thiếu...

Ngoài tác dụng lưu trữ và quản quản đồ ăn, tủ lạnh có tác dụng phong thủy vô cùng to lớn. Biết cách bài trí tủ lạnh hợp phong thủy sẽ mang lại tài lộc cho gia chủ. Rất nhiều người không để ý nhưng tủ lạnh có liên quan mật thiết đến sự giàu có và sức khỏe của cả gia đình.

1. Không để tủ lạnh trống rỗng

Tủ lạnh có liên quan chặt chẽ với chế độ ăn uống, sức khỏe của gia đình. Nếu có nhiều thức ăn, nó tượng trưng cho sự trù phú trong khẩu phần ăn của gia đình. Nếu tủ lạnh trống, nó biểu hiện tình hình tài chính của gia đình sẽ bị hao hụt. Do vậy, hãy luôn giữ cho tủ lạnh đầy ắp thức ăn.

2. Thường xuyên làm sạch tủ lạnh

Trong phong thủy tủ lạnh liên quan chặt chẽ đến may mắn thịnh vượng của các thành viên trong gia đình. Vì vậy, để tránh ô uế, bạn nên thường xuyên loại bỏ hết các thực phẩm đã hết hạn sử dụng, thực phẩm ôi thiu. Một khi tủ lạnh đã gọn gàng, tài chính của gia đình sẽ khởi sắc.

3. Cấm để tủ lạnh đối diện cửa bếp

- Tủ lạnh thuộc Kim. Người thiếu Kim nên đặt tủ lạnh trong nhà. Còn bình thường nên đặt tủ lạnh ở nhà bếp, vì đây là nơi vượng Hỏa. Tủ lạnh đặt trong bếp có thể làm dịu tính Hỏa.

- Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.

 - Những người mệnh Mộc không nên kê tủ lạnh ở gần. Những người mệnh này nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.

Vì vậy, tốt nhất bạn nên đặt tủ lạnh ở nơi thông thoáng, cách bếp nấu khoảng 2 m. Cách bố trí này sẽ giúp tiết kiệm thời gian đi lại trong lúc chế biến thức ăn.

Bất kể gia đình đặt tủ lạnh trong phòng khách hay nhà bếp, không để nó đối mặt với cửa ra vào. Những dòng năng lượng (khí) sẽ đụng độ với nhau và có khả năng gây bất ổn với sự giàu có, thậm chí dẫn đến phá sản.

Tủ lạnh thuộc yếu tố kim, trong khi bếp thuộc lửa. theo thuyết ngũ hành, chúng kị nhau. Do đó, nếu có thể thì nên đặt chúng càng cách xa nhau càng tốt. Đặt chúng đối diện với nhau cũng sẽ gây ra tranh cãi và bất hòa giữa những thành viên trong gia đình.

Cách đặt tủ lạnh trong phong thủy

4. Không đặt các thiết bị điện tử trên nóc tủ lạnh

Chưa tính đến yếu tố an toàn trong gia đình, không nên đặt lò nướng, lò vi sóng, máy ép trái cây hoặc các thiết bị điện tử khác trên nóc tủ lạnh. Chúng sẽ phát ra các luồng không khí điện từ mạnh mẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của người trong gia đình.

5. Không đặt tủ lạnh trong phòng ngủ

Ngày nay, mọi người có xu hướng để thêm một chiếc tủ lạnh nhỏ trong phòng ngủ. Các chuyên gia khuyên mọi người nên để tủ lạnh ra khỏi phòng ngủ bởi nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của mọi người. Sức khỏe suy giảm khiến con người thay đổi tính cách – tư duy cực đoan, kì lạ trong hành động.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tủ lạnh đúng phong thủy mang lại giàu sang

Hướng dẫn bố trí huyền quan hợp phong thủy

Huyền quan là vị trí không thể thiếu trong nhà ở. Những lưu ý để bố trí huyền quan hợp phong thủy dưới đây sẽ giúp gia chủ có một không gian đón may vào nhà
Hướng dẫn bố trí huyền quan hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyền quan là vị trí không thể thiếu trong nhà ở. Những lưu ý nhỏ để bố trí huyền quan hợp phong thủy dưới đây sẽ giúp gia chủ có một không gian đón may vào nhà ưng ý.

 
Huong dan bo tri huyen quan hop phong thuy hinh anh
 
1. Huyền quan ngăn cách với phòng khách   Khi thiết kế nhà ở, nên ngăn cách huyền quan và phòng khách bằng vách kính hoặc kệ bày đồ trang trí. Điều này vừa đảm bảo ngăn ngừa vượng khí thoát ra ngoài nhưng vẫn giữ được mối liên hệ giữa huyền quan và không gian trong nhà thông suốt, sẵn sàng nghênh đón cát khí.   2. Ánh sáng ở huyền quan   Huyền quan hợp phong thủy là phải vừa kín đáo nhưng cũng phải sáng sủa, tốt nhất là đón được ánh nắng tự nhiên, còn không thì nên bố trí thêm đèn, tránh để tối ám. Có thể sử dụng cửa kính mờ để tăng cường ánh sáng cho khu vực này nhưng tuyệt đối không được trổ cửa sổ.   3. Độ cao của huyền quan   Huyền quan (bình phong) nên có độ cao vừa phải, bình thường là khoảng hơn 3m, phía trên bày vật trang trí như bình gốm, cây xanh,… Nếu quá cao sẽ khiến người trong nhà có cảm giác bị áp bức, lại ngăn cản những luồng khí mới mẻ từ bên ngoài lưu thông vào nhà. Nếu quá thấp thì huyền quan không có tác dụng.
Có phải mọi cửa hàng đều cần thiết kế huyền quan? 1 số cấm kỵ khi bố trí huyền quan
4. Giữ gìn vệ sinh huyền quan
  Huyền quan nhất thiết phải sạch sẽ, thông thoáng, không chất chứa nhiều đồ đạc nếu không sẽ gây nhiễu loạn phòng khách, sinh ra những ảnh hưởng phong thủy xấu. Nên bày vật phẩm phong thủy cát tường như Kỳ Lân ở đây để trấn trạch, an gia.   5. Màu sắc của huyền quan   Huyền quan lấy màu ấm làm chủ đạo, mang tới cho người sống trong nhà và khách tới thăm cảm giác ấm áp, thoải mái, quên đi phiền não, cảm nhận được hạnh phúc gia đình.
Huong dan bo tri huyen quan hop phong thuy hinh anh
 
6. Bài trí huyền quan   Xem phong thủy nên trang trí thêm những đồ vật xinh đẹp để làm cho huyền quan thêm sinh động như một ít bồn hoa cây xanh, ảnh chụp gia đình, tranh phong cảnh, nhưng tuyệt đối không treo đồng hồ. Đồng hồ mang tới cảm giác áp lực về thời gian ngay ở ngưỡng cửa nhà, thêm nữa mở cửa gặp chuông (tiếng đồng hồ kêu) hàm chứa ngụ ý không tốt.   Vai trò của huyền quan trong phong thủy nhà ở Các hình thức thiết kế huyền quan Trang trí cho huyền quan
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn bố trí huyền quan hợp phong thủy

Luân hồi - kết quả của nghiệp mà ra

Luân hồi là một trong những hiện tượng tâm linh chưa thể lý giải. Những nhà tâm linh thì hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại của điều này và chỉ ra nguyên nhân
Luân hồi - kết quả của nghiệp mà ra

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

của luân hồi.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Luan hoi - ket qua cua nghiep hinh anh
 

1. Nghiệp cân bằng (Balancing karma)

Đây là hình thức đơn giản nhất của luân hồi, là một loại quan hệ nhân quả cứng nhắc. Nếu kiếp này tạo nghiệp lành, làm điều nhân đức, giúp đỡ người đời thì luân hồi kiếp sau sẽ có cuộc sống hạnh phúc, dư dả, thuận lợi. Kiếp này đau khổ, bệnh tật, nghèo hèn là vì kiếp trước đã tạo nghiệp ác. Đó là sự công bằng, nhân quả rạch ròi.
 

2. Nghiệp lực tự thân (Physical karma) 

Nghiệp lực tự thân là kết quả của việc lạm dụng thân thể ở đời trước, và hoàn trả nghiệp lực phần nhiều sẽ biểu hiện trên bộ phận tương ứng. Nghiệp lực tự thân hơn phân nửa là vì chuyển thế quá nhanh, khiến sinh mệnh trong quá trình chuyển sinh có mang vết thương. Một đứa trẻ sinh ra đã mắc bệnh phổi, là vì nó ở đời trước đã từng có tiền sử chết do ung thư phổi vì hút thuốc. Còn có một người, trên thân thể xuất hiện bớt làm mất nhan sắc, là vì vết bỏng nghiêm trọng trong đời trước di lưu lại.
 

3. Nghiệp lực giả sợ hãi (False-fear karma)

Nghiệp lực giả sợ hãi đến từ việc bị thương trong sinh hoạt ở kiếp trước, nhưng không có quan hệ nhiều với kiếp này.
 

Ví dụ như, có một người nghiện làm việc hồi ức lại tiền kiếp mình từng sống trong thời kinh tế khủng hoảng không cách nào nuôi sống gia đình, anh ta đã tự tay chôn đứa con chết vì đói. Kết quả là ở đời này, anh ta vô ý thức mà tránh cho việc đó không được lặp lại. Vì vậy, loại động lực nội tại này khiến anh ta làm việc ngày đêm không nghỉ ngơi, để bảo đảm cuộc sống gia đình không gặp trở ngại.
 

Nghiệp lực giả sợ hãi cùng nghiệp lực giả tội nói ở bên dưới là dễ dàng thông qua trị liệu kiếp trước (past-life therapy) mà giải quyết. Bởi vì một bệnh nhân một khi hiểu được nguyên nhân của loại cảm giác sợ hãi và tội lỗi này, họ sẽ không quá mức cố giữ cảm giác sợ hãi và tội lỗi khó hiểu này.
 

4. Nghiệp lực giả tội (False-guilty karma)

Cảm giác giả tội là do vết thương hoặc gặp sự cố trong sinh hoạt ở đời trước, nhưng anh ta hoặc cô ta không thật sự có lỗi trong việc đó, còn luân hồi tới kiếp này.
 

Có một người bị bệnh bại liệt trẻ em mà tê liệt hai chi dưới. Anh ta nhớ lại, là vì đời trước lúc anh ta lái xe, đã tông một đứa bé bị thương đến nỗi có tật cà nhắc. Dù đó cũng không phải lỗi của anh ta, anh ta vẫn hay oán trách chính mình. Đương nhiên, anh ta trong khi tự trách mà tiêu nghiệp, do đó đạt được giải thoát bản thân.
 

5. Nghiệp do phấn đấu bản thân (Developed ability and awareness karma)

Tài năng và tri thức phải trải qua đời đời kiếp kiếp tích luỹ mới có thể đạt được.
 

Chẳng hạn như, có một người đối với âm nhạc cảm thấy rất hứng thú, hạ quyết tâm bỏ công sức vào âm nhạc để có thành tựu. Anh ta ở trong sáu lần luân hồi đã một mực bồi dưỡng năng lực âm nhạc của mình, mỗi đời đều có một chút tiến bộ. Cuối cùng, ở đời này, anh ta trở thành một nghệ sĩ nổi danh. Còn có một người phụ nữ, ở kiếp này cô ấy có 30 năm cuộc sống hôn nhân hạnh phúc khiến người khác hâm mộ, đây là bởi vì cô ấy qua nhiều lần chuyển thế luôn một mực chú trọng tăng thêm nhận thức giá trị trong các mối quan hệ.
 

Những người này thành công và hạnh phúc là thông qua sự vất vả hết đời này sang đời khác mà có được, họ trong lúc cố gắng và vất vả mà được tiêu nghiệp và tích đức, do đó luân hồi sẽ đổi lấy sự thành công và hạnh phúc ở đời này. 

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luân hồi - kết quả của nghiệp mà ra

Bài trí thuận ngũ hành, tiền sảnh cửa hàng đại cát

Tiền sảnh không chỉ là nơi đón tiếp mà còn là khoảng trống ngăn cản các xung sát tác động vào cửa hàng. Vì thế, phong thủy tiền sảnh cần phải được bố trí thích
Bài trí thuận ngũ hành, tiền sảnh cửa hàng đại cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hợp, thuận ngũ hành.

Bai tri thuan ngu hanh, tien sanh cua hang dai cat hinh anh
 
Cửa hàng có dáng vuông vức thuộc hành Thổ thì mái tiền sảnh nên làm hình nhọn (hành Hỏa) để Hỏa sinh Thổ.    Cửa hàng sơn màu xanh dương thuộc hành Thủy thì tiền sảnh bố trí  màu trắng (hành Kim) để Kim sinh Thủy.    Trường hợp lối vào cửa hàng bị góc nhọn, vát xéo (hành Hỏa) thì có thể đặt non bộ, gương soi (thuộc Thủy) để khắc bớt.    Khi tiền sảnh dài (hành Mộc), có thể dùng các mảng gạch trang trí thô, điểm nhấn vuông (hành Thổ) để tạo hành tương khắc, giảm bớt cảm giác hun hút.   Dưới đây là bảng đối chiếu màu sắc, hình dáng tiền sảnh dựa vào hướng của cửa hàng, có thể tham khảo.

 
Hướng tiền sảnh Màu hung Màu cát Hình kỵ Hình cát
Bắc Đỏ, hồng Trắng, sữa Vuông Làn sóng
Nam Vàng, da cam Đỏ, hồng Làn sóng Tam giác
Đông Trắng, sữa, kim Xanh Tròn Cao, thẳng
Tây Đỏ, hồng, tím Trắng, sữa, kim Tam Giác Tròn
Tây Bắc Đỏ, hồng, tím Trắng, sữa, kim Tam giác Tròn
Tây Nam Xanh Vàng, da cam, nâu Thẳng đứng Vuông
Đông Bắc Xanh Vàng, da cam, nâu Thẳng đứng Vuông
Đông Nam Trắng, sữa, kim Xanh Tròn Cao, thẳng
  Theo Sách Phong thủy Cát tường
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí thuận ngũ hành, tiền sảnh cửa hàng đại cát

Sống an nhiên theo cách Phật dạy (phần 1)

Sống an nhiên tự tại theo lời Phật dạy sẽ giúp con người thư thái và lành mạnh hơn. Dưới đây là 12 cách tạo nghiệp lành để sống tốt theo quan niệm nhà Phật.
Sống an nhiên theo cách Phật dạy (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Mời các bạn đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

12 cach Phat day de song doi an nhien phan 1 hinh anh
 

1. Lấy từ bi làm tôn giáo của mình

Tạo nghiệp tốt không nhất thiết phải theo tôn giáo, mà con người chỉ cần thể hiện thái độ tử tế ân cần với người khác như một lẽ tự nhiên để sống an nhiên tự tại. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhắc nhở: “Tôn giáo của tôi là lòng từ bi”.
 
Không phải chỉ tử tế với người khác trong chốc lát mà phải luôn luôn, suốt cuộc đời của mình, trong mọi phương diện của đời sống, trong mọi mối liên hệ, trong mỗi công việc làm, trong tất cả những giao tiếp.


2. Trì chú

Trì chú là việc làm cơ bản và dễ nhất cho hành giả tu theo Mật tông để bắt đầu đi trên con đường mở ra những chân trời mới cho tâm trí. Đây là cách thức mạnh nhất để thanh lọc ác nghiệp mà chúng ta đã mang tới trong thế gian này với mình từ quá khứ. Luôn luôn trì chú với ý tưởng mang lợi ích đến cho người khác sẽ cảm thấy mình trở nên khoan dung hơn, bớt bối rối và bình tĩnh hơn. 
 

3. Niệm Phật

Một cách thức mạnh mẽ để giải trừ những ác nghiệp là niệm danh hiệu Phật và lễ Phật sám hối. Trong khi niệm Phật con người phát khởi ý nghĩ sám hối về những nghiệp xấu đã tạo ra trong những kiếp trước và ngay trong kiếp sống này.


4. Thực hành thiền quán

Tham thiền là quá trình tập trung và thâm nhập, nhờ đó mà tâm được an tĩnh và nhất tâm bất loạn rồi đi đến giác ngộ. Khi quán tưởng như vậy, người ta nhẹ nhàng suy ngẫm về mọi sự trên đời, rũ bỏ tà niệm, hiểu thấu được sự quý giá của cuộc sống thì mới có thể sống an nhiên được.

 

5. Nhường đường khi lái xe

Chúng ta cũng có thể nhường đường cho người khác ngay cả khi mình có quyền ưu tiên. Khi không xem con đường là nơi tranh chấp giữa mình và những người lái xe khác, việc lưu thông sẽ thú vị hơn nhiều. Mỗi lần nhường đường cho người khác, tức là kiềm chế tính dễ nổi nóng và đây cũng là một cách để tạo nghiệp tốt.

6. Dành phần thắng cho người khác và chấp nhận thua thiệt

Khi nhường nhịn người khác, chúng ta nhiếp phục được sự tự ái của mình, và không thể để cho tự ngã của mình nghĩ đến những điều vị kỷ. Khi chấp nhận thua thiệt, sẽ là cơ hội cho ta diệt trừ tính kiêu ngạo. Đây là cách tạo nghiệp lành đặc biệt hữu dụng trong đối nhân xử thế.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống an nhiên theo cách Phật dạy (phần 1)

Kiêng kỵ cửa phòng ngủ cắt ngang cửa phong ngủ –

Hiện tượng: Một bên vách tường của cửa phòng ngủ này cắt ngang giữa cửa phòng ngủ đối diện, không tốt. Phương pháp hóa giải: Trên hai cửa phòng này treo rèm vải dài và chỗ bị cắt treo chuỗi đồng tiền Lục Đế để hóa giải. Cũng có thể trên ngưởng cửa ha

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Một bên vách tường của cửa phòng ngủ này cắt ngang giữa cửa phòng ngủ đối diện, không tốt.

Faro-Oak-Bedroom-Package-3858-5257-1390643963

Phương pháp hóa giải: Trên hai cửa phòng này treo rèm vải dài và chỗ bị cắt treo chuỗi đồng tiền Lục Đế để hóa giải. Cũng có thể trên ngưởng cửa hai phòng này đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải sát khí lẫn nhau. Chiếu dài của rèm vải phải vượt, quá 2/3 chiều cao cửa là thích hợp. chất liệu rèm phải là chất liệu không nhìn xuyên qua được, không được là vải rèn hay rèm chuồi hạt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ cửa phòng ngủ cắt ngang cửa phong ngủ –

Giải mã giấc mơ thấy điện thoại –

Trong giấc mơ chiêm bao bạn đã mơ thấy điện thoại, bạn đang lo lắng không biết có điềm báo gì khi xuất hiện giấc mơ đấy. Hãy đọc bài viết sau các chuyên gia giải mã giấc mơ sẽ trả lời cho bạn ý nghĩa giấc mơ thấy điện thoại tối qua cho bạn. Mơ thấy đ
Giải mã giấc mơ thấy điện thoại –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy điện thoại –

Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Nhân sinh như mộng, đường đời có lúc gập ghềnh, có khi bằng phẳng, cách thức để thành công và hạnh phúc thực ra trong ngay mỗi chúng ta thôi.
Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân sinh như mộng, đường đời có lúc gập ghềnh, có khi bằng phẳng, nhưng quan trọng vẫn là ở tâm thế của mỗi người. Cách thức để thành công và hạnh phúc thực ra trong ngay mỗi chúng ta thôi.

Mời các bạn nghe Radio





Tam lon duong tat rong, tam hep duong ghap ghenh hinh anh
 
Con người sống trên đời không ai chưa từng trải qua mất mát, bất hạnh, đau khổ và thất bại. Dù có bao nhiêu tiếc nuối, khóc bao nhiêu nước mắt thì cũng không thể tránh khỏi. Nên dù hạnh phúc hay khổ đau, là xứng đáng hay không xứng đáng, Phật dạy làm người, học một chữ “buông”. Đó chính là chìa khóa của hạnh phúc.   Buông không có nghĩa là quên, buông có nghĩa là chấp nhận. Chấp nhận đau khổ để chờ đón hạnh phúc, chấp nhận mất mát để mạnh mẽ hơn, chấp nhận thất bại để có ngày thành công. Sống mãi trong quá khứ không làm bạn bớt đau buồn, cũng không khiến bạn tốt hơn, chỉ có thanh thản, học cách đối diện và bỏ qua thì mới có thể an nhiên.   Quý trọng hôm nay hơn hôm qua, người bên cạnh hơn người của thời quá khứ mới đích thực là biết cách trân quý cuộc sống. Sinh mệnh vốn không dài, cuộc đời con người ngoảnh đi ngoảnh lại đã tới ngày trở về với cát bụi, nên nếu không tận dụng từng giây từng phút thì như hạt cát trôi qua kẽ tay, bay mất lúc nào không biết.    4 vật phẩm phong thủy trừ tà nên tặng làm quà cho phái nữ
Những vật phẩm phong thủy trừ tà cho nữ giới dưới đây có thể là món quà 8/3 vừa ý nghĩa, vừa thiết thực cho những người phụ nữ mà bạn yêu

Những tổn thương theo năm tháng sẽ dần lành lại, dấu vết chỉ để nhớ và là kinh nghiệm cho bước đường dài phía trước. Phiền não thì sai lầm nối tiếp sai lầm, khổ đau kéo dài khổ đau. Lạc quan thì thành công thay thế sai lầm, hạnh phúc ươm mầm từ đau khổ. Bạn chọn con đường nào?
  Nếu tâm linh một chút, thì những gì chúng ta đang phải gánh chịu ngày hôm nay là quả báo chúng ta gieo từ trước đó. Nên chi bằng bình thản, mạnh mẽ, tự tin đối diện và nhận lấy trách nhiệm. Những gì ta làm hôm nay sẽ trở thành nhân lành cho tương lai dài rộng.  
Tam lon duong tat rong, tam hep duong ghap ghenh hinh anh
 
Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông xoay vòng nhưng sinh mệnh con người không thể luân hồi, ai cũng chỉ có một lần để sống. Nếu sống hoài, sống uổng trong nỗi dằn vạt và những hoài niệm thì liệu nhìn lại, bạn có thấy hài lòng? Nháy mắt hết một đời, nên “hôm nay có rượu hôm nay say”, hạnh phúc và niềm vui không chờ ai, cũng không từ chối ai cả.
  Không phiền não thì không là nhân sinh, không mạnh mẽ thì không biết được hạnh phúc. Dù bạn đang đau khổ vì thất tình, đang buồn bã vì thất bại, đang tuyệt vọng và bất hạnh đến cùng cực thì ngày hôm nay sẽ tươi sáng hơn hôm qua nếu ta biết thắp lửa lòng.
=> Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Mẹ chồng nàng dâu đại chiến, 3 con giáp này chỉ biết đứng nhìn

Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu là câu chuyện muôn thủa. Áp lực từ 2 phía khiến nhiều người đàn ông quyết định nhắm mắt làm ngơ trước nội chiến gia đình.
Mẹ chồng nàng dâu đại chiến, 3 con giáp này chỉ biết đứng nhìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu là câu chuyện muôn thủa trong mọi gia đình. Áp lực dồn đến từ 2 người phụ nữ thân yêu khiến nhiều người đàn ông quyết định nhắm mắt làm ngơ, bỏ mặc mẹ chồng nàng dâu đại chiến.   Hai người phụ nữ cùng yêu 1 người đàn ông thường sẽ xảy ra chiến tranh, thậm chí khi 2 người phụ nữ đó là mẹ chồng và nàng dâu, không ai là người thứ 3 trong câu chuyện tình yêu. Mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu là câu chuyện muôn thủa trong mọi gia đình, cũng là 1 trong những vấn đề nghiêm trọng nhất dẫn đến hôn nhân trở thành bi kịch. 
 
Theo điều tra, cứ 10 gia đình thì có tới 4 gia đình xảy ra đại chiến mẹ chồng nàng dâu. Trong đó, có tới 2/3 nàng dâu đều cho rằng, mẹ chồng thường tỏ ra ghen ghét, đố kị với con dâu và thể hiện tình cảm quá đà với con trai. Cá biệt có nàng than, trước khi cưới, mọi người nói nhìn tướng mẹ chồng khó tính nhất quyết không tin, nghĩ thời buổi này còn ai so đo với con dâu, nào ngờ bây giờ vỡ mộng.
 
Đây là câu chuyện không của riêng ai. Cũng chẳng phải mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu chỉ nảy sinh khi cô dâu mới về nhà, mà có nhiều trường hợp, ngay từ khi con trai đưa bạn gái về nhà, nhiều bà mẹ đã sẵn sàng tỏ thái độ răn đe, đàn áp. Có người còn tuyên bố “Mẹ thì chỉ có một, chứ vợ không lấy đứa này thì đã có đứa khác” để con trai, con dâu biết đường mà hành xử.
 
Khoan nói đến mẹ chồng hay nàng dâu là người gây mâu thuẫn, nhiều người cho rằng khổ nhất vẫn là người đứng giữa, người chồng – người con trai. Bởi lẽ bao đời nay vẫn vậy, nào có ai trả lời được câu hỏi “Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?” 


Me chong nang dau dai chien, 3 con giap nay chi biet dung nhin hinh anh 2
 

Áp lực dồn đến từ 2 người phụ nữ thân yêu khiến nhiều người đàn ông quyết định nhắm mắt làm ngơ, bỏ mặc mẹ chồng nàng dâu đại chiến. Hãy thử điểm danh 3 con giáp nam bó tay bất lực trước mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu nhé.
 

Đàn ông tuổi Dậu: nhu nhược, sợ va chạm
 

Trong số 12 con giáp, đàn ông tuổi Dậu là người luôn e ngại mỗi khi người xung quanh xảy ra mâu thuẫn. Khi mẹ và vợ tranh cãi với nhau, họ không dám đứng ra khuyên can hay đứng về phía ai. Sự nhu nhược khiến họ không dám đắc tội với người nào, cuối cùng lựa chọn đứng ngoài cuộc chiến.
 
Trong công việc, đàn ông sinh năm Dậu có thể là người thông minh, năng lực nhưng họ lại tỏ rõ sự bất lực trước mâu thuẫn trong gia đình. Có người đàn ông như vậy trong nhà, bạn đừng hy vọng họ sẽ đứng lên giải quyết bất cứ tranh chấp nào, chứ chưa nói đến việc dám thẳng thắn chỉ ra sai sót ở đây là của mẹ hay của vợ.
 

Đàn ông tuổi Thân: thích xem náo nhiệt
 

Bản tính trời sinh lanh lợi, hoạt bát, người tuổi Khỉ cũng rất hiếu kì với mọi việc xảy ra xung quanh mình, thậm chí ngay cả với những người thân thiết nhất. Khi mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu bùng nổ, việc đầu tiên họ làm không phải là nhanh chóng tìm cách hòa giải mà là bàng quan đứng cạnh xem trò. 


Me chong nang dau dai chien, 3 con giap nay chi biet dung nhin hinh anh 2
 
  Đàn ông tuổi Thân ghét bị những chuyện rắc rối quấn lấy mình. Họ cảm thấy mẹ và vợ không vừa ý với nhau thì tự đi mà giải quyết, họ không có trách nhiệm trong việc này. Trong mắt họ, đây chỉ là chút mâu thuẫn hay hiểu lầm nho nhỏ, phụ nữ hay thích “bé xé ra to”, sớm muộn gì mọi chuyện cũng ổn thỏa cả thôi, không nhất thiết phải mạo hiểm thân mình “xông pha nơi tên bay đạn lạc”.
 

Đàn ông tuổi Hợi: hiền lành chất phác
 

Gặp phải chuyện mẹ chồng nàng dâu “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, người này thực sự không biết làm thế nào để xoa dịu. Bản chất thật thà, hiền lành, họ không có khả năng giải quyết bất cứ mâu thuẫn nào, đứng nói đến chuyện đại chiến giữa 2 người phụ nữ trong nhà. 
 
Đàn ông tuổi Hợi không hiểu mối quan hệ phức tạp giữa mẹ chồng và nàng dâu, cũng không hiểu tại sao 2 người không thể chung sống hòa bình mà nhất định phải tranh cãi đến mức không nhìn nổi mặt nhau. Chính vì thế, người chồng - người con trai này hoàn toàn bó tay bất lực trước nội chiến trong nhà, lặng lẽ làm người quan sát phía sau.
 
Đọc xong những điều này, những cô nàng chưa chồng có thấy hoang mang, lo lắng? Thực ra mọi chuyện xảy ra đôi khi là vì không ai chịu nhường ai, hãy cố gắng học hỏi những cách để làm dâu không khó. Hãy khéo léo và đối xử chân thành với nhau nhé.

Hy Vũ

Xem là biết liền tướng mẹ chồng khó tính Những lỗi phong thủy khiến quan hệ mẹ chồng nàng dâu căng thẳng Quan sát tướng mặt để lấy lòng mẹ chồng (P1)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹ chồng nàng dâu đại chiến, 3 con giáp này chỉ biết đứng nhìn

6 nốt ruồi báo hiệu chủ nhân hưởng phúc đức suốt đời

Bạn có sở hữu nốt ruồi may mắn, hưởng nhiều phúc đức nào trên cơ thể mình không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Nốt ruồi “Điền trạch đa tiến”

Trong nhân tướng học, nốt ruồi “Điền trạch đa tiến” chỉ nốt ruồi mọc ở vị trí xương bả vai. Dù là nam hay nữ, có tướng nốt ruồi này đều được nhờ vào hồng phúc tổ tiên, thừa hưởng khối tài sản lớn.

Sau này, khi trưởng thành biết duy trì và phát huy tài sản đó, có được địa vị nhất định trong xã hội, suốt đời không phải lo lắng về vật chất, cuộc sống an nhiên, tự tại. Đây là một trong những nốt ruồi may mắn trên cơ thể, bạn không nên tẩy xóa.

Nhung tuong not ruoi may man tren co the con nguoi hinh anh
 
2. Nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”

Ba nốt ruồi nối tiếp nhau ở vị trí giữa cổ và bả vai được gọi là nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”. Chủ nhân của tướng nốt ruồi này thông minh, lanh lợi, học hành giỏi giang, hiếu học, tài năng xuất chúng.

Bên cạnh đó, người này dũng cảm, hành hiệp trượng nghĩa, đi tới đâu cũng được mọi người yêu mến, tôn trọng.

3. Nốt ruồi “Đức cao phúc dày”


Vị trí nốt ruồi này khá khó tìm. Nó nằm ở phía dưới cùng của xương bả vai phải, nơi tiếp giáp với cột sống.

Như tên gọi của nốt ruồi “Đức cao phúc dày”, người có kiểu nốt ruồi này, dù là nam giới hay nữ giới, đều được phúc đức bao bọc, công thành danh toại, tài lộc hanh thông.

4. Nốt ruồi “Phúc như Đông hải”


Đây là nốt ruồi ở vị trí chính giữa cột sống (không lệch sang trái hay sang phải). Người có tướng nốt ruồi này thường được sinh ra trong gia đình giàu có, bố mẹ khỏe mạnh, có tiềm lực kinh tế lớn mạnh.

Cuộc sống hôn nhân bền vững, con cháu hiếu thảo, công thành danh toại, có địa vị khá cao trong xã hội, được nhiều người ngưỡng mộ.

5. Nốt ruồi “Thọ diên cổ hi”

“Thọ diên cổ hi” ý chỉ sống thọ, tuổi thọ cao, xưa nay hiếm thấy. Nốt ruồi này nằm thẳng dưới rốn.

Sở hữu nốt ruồi này, tuổi thọ của chủ nhân rất cao, càng sống lâu càng được hưởng nhiều phúc lộc. Người này hay hành thiện giúp đời, kiến thức uyên thâm, cuộc đời an nhiên, tự tại. Sau này con cái hiếu thảo, hòa thuận nên phúc đức càng nhiều.

6. Nốt ruồi “Quy vĩ”

Nốt ruồi “Quy vĩ” (đuôi rùa), ý chỉ vị trí của nó nằm ở phần cuối cùng của xương sống. Người có nốt ruồi như vậy đa tài, học hành xuất chúng, tiền đồ xán lạn.

Hơn thế, sức khỏe của người này cường tráng, văn võ song toàn, đồng thời có con mắt nhìn đời tinh tế, dễ gặt hái được thành công. Đa phần những người này thích hợp làm nhà văn, nhà thơ hay nhà tâm lý học, tư tưởng học.


Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 nốt ruồi báo hiệu chủ nhân hưởng phúc đức suốt đời

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao tử vi là vua của các vì sao, chủ quyền về sự uy quyền, tài lộc và phúc đức. Tử vi khắc chế được đặc tính hung ác của các sao hỏa tinh và linh tinh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao tử vi thuộc hành thổ, là một quý tinh.

Miếu địa ở: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân ( thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn và uy nghi).

Vượng địa: Thìn, Tuất (Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong).

Đắc địa: Sửu, Mùi (thông minh, thao lược, hay liều lĩnh).

Bình hòa: Hợi, Tý, Mão, Dậu (Kém thông mình, nhân hậu).

Sao tử vi không có vị trí hãm địa.

Sao Tử Vi an tại cung nào thì giáng phúc tại cung đó.

Sao Tử vi an tại Hợi, Tý, Mão, Dậu: Kém rực rỡ, giảm uy lực, nên không cứu giải được tai ương hay họa hại.

Sao Tử Vi gặp thiên tướng, văn xương, văn khúc, thiên khôi, thiên việt, tả phù và hữu bật thì uy quyền hiển hách. Tử Vi gặp những sao này giống như vua gặp được bề tôi trung lương có tài phò tá.

Sao Tử vi gặp sao thiên phủ thì của cải súc tích. Sao thiên phủ được ví như một vị thần coi kho cho nhà vua.

Sao Tử vi gặp sao lộc tồn và sao thiên mã thì tăng thêm quyền lực.

Sao tử vi làm cho sao thất sát thêm rực rỡ, ban quyền hành cho sao thất sát. Tử vi gặp thất sát ví như vua cầm cây kiếm báu.

Tử vi khắc chế được đặc tính hung ác của các sao hỏa tinh và linh tinh.

Sao Tử Vi kị gặp sao tuần, triệt án ngữ và kình dương, đà la, không kiếp, địa kiếp. Sao tử vi gặp những sao này chẳng khác gì vua bị vây hãm, bị quân hung đồ làm hại, nên sẽ thường sinh ra những chuyện chẳng lành.

Cung mệnh có Sao Tử Vi miếu địa vượng địa hay đắc địa tọa thủ thì thân hình đẫy đà và cao, da hồng hào, mặt đầy đặn, có trí thông minh, suốt đời được hưởng phúc, tuổi thọ cũng gia tăng. 

Tử vi bình hòa nên thân hình vừa phải, kém thông minh nhưng trọn đời vẫn được cơm no áo ấm, sống lâu.

Từ Vi miếu địa và bình hòa: tính nhân hậu và thẳng thắn, về già lại rất khiêm cung.

Sao Tử vi vượng địa hay đắc địa có nhiều mưu cơ, thủ đoạn, đôi khi giám làm cả những việc bất nghĩa.

Tử Vi gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp nhất là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Vũ Khúc, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả phù, Hữu Bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Long Trì, Phượng Các: Tất có uy quyền hiển hách, phúc thọ song toàn và được hưởng giàu sang trọn đời.

Sao Tử Vi gặp sao Tuần, Triệt nên sớm khắc một trong hai thân, hay khắc anh chị em, lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng, thường đau yếu và có nhiều bệnh tật. Lại phải ly tổ buôn ba dấn thân vào những chốn hiểm nghèo nên hay mắc bệnh tai họa khủng khiếp, đôi khi phải mang tàn tật. Về già mới được an nhàn sung sướng. Có cách này, nếu không sớm lìa bỏ gia đình, bôn tẩu phương xa chắc chắn là yểu tử.

Tử vi gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội họp nhất là Không Kiếp thì suốt đời phải lao tâm khổ tứ, công danh trắc trở hay gặp những chuyện chẳng lành.

Cung mệnh an tại Mão, Dậu có sao Tử vi tọa thủ gặp Tham Lang đồng cung: là người yếm thế, thường nhìn đời bằng con mắt bi quan, đôi khi lại muốn lánh xa khỏi cảnh trần tục để tu dưỡng thân tâm. Có cách này mà còn chen chân vào chốn phồn tạp, dĩ nhiên còn phải lao khổ. Nhưng sớm biết tu hành, tất được yên thân và hưởng phúc.

Đối với nữ: Tử vi thủ tại mệnh gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp là người có đức độ, sống lâu, được hưởng giàu sang trọn đời và rất vượng phu ích tử.

Sao tử vi gặp tuần, triệt án ngữ, nên lúc thiếu thời cô đơn, gian khổ, đôi khi có bệnh tật khó chữa, nếu không xa cách những người thân, tất không thể sống lâu được, lại phải muộn lập gia đình hay lấy kế, lẽ mới tránh được độ buồn thương. Nếu sơm lập gia đình, chắc chắn phải bỏ chồng, khóc chồng, hay sầu não vì con.

Tử Vi gặp nhiều sao mờ ám hội họp: là người hạ tiện, dâm dật, hay ưa chuyện ong bướm đi về, tuy khắc chồng hại con nhưng vẫn được cơm no áo ấm.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

Phật giáo tu hành có thể coi là một dạng trị liệu tâm lý hay không? Cùng Lịch ngày Tốt xét tới tác dụng chữa bệnh của Phật giáo.
Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo tu hành có thể coi là một dạng trị liệu tâm lý hay không? Câu hỏi này chắc chắn là tâm điểm chú ý của nhiều người bởi không ít người tìm đến tâm linh như một liệu pháp chữa trị các vết thương tinh thần, tìm lại niềm vui cuộc sống. Cùng xét tới tác dụng chữa bệnh của Phật giáo.

phat giao chua benh
 

Tôn giáo là “thuốc” của tâm hồn, quan điểm này đã được nhiều nhà Triết học ghi nhận và chứng minh bằng lý thuyết thực tiễn. Giống như cơ thể, muốn hồi phục cần có liệu pháp, tinh thần cần có con đường của riêng mình.
  Phật giáo hình thành từ thế kỉ thứ 6 TCN, trải qua hàng ngàn năm phát triển đã trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới với hệ thống tư tưởng sâu sắc, rộng lớn. Trong Phật giáo không chỉ có niềm tin tâm linh, hệ thống Phật pháp, kinh sách mà còn có triết lý cuộc sống, kinh nghiệm cuộc đời, con đường tĩnh tâm. Vì thế mà tác dụng chữa bệnh của Phật giáo được không ít người thừa nhận.   Lý luận cơ bản nhất của Phật giáo là nội dung nhân quả luân hồi, ngũ giới thập thiện, tích cực hướng thiện, hài hòa thế tục và duy trì thân thể khỏe mạnh. Phật giáo phản đối quan niệm số mệnh, khổ hạnh, tế tự, thần định mà nhấn mạnh rằng hoàn cảnh của bản thân do nghiệp lực chính mình tạo ra. Có thể thông qua sám hối, bố thí, tu hành tạo thiện hạnh để thay đổi.   Không ít nhà nghiên cứu tâm lý, nghiên cứu xã hội học đã tìm hiểu về vấn đề tác dụng chữa bệnh của Phật giáo, một số quan điểm chính như sau.   1. Phật giáo giúp con người minh xét sự vật, hiểu rõ bản thân và nhận thức hiện thực. Họ có thể lý giải động cơ, hoàn cảnh và thậm chí cả tương lai thông qua triết lý Phật giáo, từ đó buông bỏ khổ não, buồn khiền, định hướng tốt hơn cho cuộc sống. Một người hiểu rõ chính mình thì giải quyết vấn đề cũng dễ dàng hơn.   2. Phật giáo mặc dù có yếu tố tín ngưỡng nhưng đặc điểm lớn nhất là đặt “Người” ở trung tâm, không giống như các tôn giáo khác đặt “Thần” ở trung tâm. Một mặt, Phật giáo phản đối mê tín, phản đối sùng bái quỷ thần mù quáng , thừ nhận tiềm năng vô hạn của con người.    Mặt khác, Phật giáo có quan niệm vô thường, vô ngã khiến người ta càng tỉnh táo nhận ra giá trị tồn tại của bản thân, càng thêm quý trọng sinh mạng, không bao giờ tìm đến cái chết và có thể hướng tới cuộc sống an nhiên ngay lập tức. Phật giáo lấy sám hối, hành giới, bố thí, phát tâm bồ đề là nội dung tu hành, khơi gợi lòng trắc ẩn, hướng thiện trong mỗi con người   3. Phật giáo lấy “sinh tử” là ý nghĩa tu hành chính nhằm giải quyết các câu hỏi “Ta là ai?”, “Ta sinh ra từ đâu?”, “Ta chết đi sẽ hướng về đâu?”, đây là vấn đề căn bản nhất của nhân sinh. Nhìn thẳng và giải quyết triệt để vấn đề này là một trong những phương pháp chữa bệnh của Phật giáo, đương nhiên là chữa bệnh về mặt tinh thần.   Nhận thức được sự tồn tài của chính mình, có câu trả lời về bản thân, về nguồn gốc và tương lai sẽ giúp mỗi người không bỡ ngỡ, không lạc lối trước quá nhiều cám dỗ của đời sống. Đây là một trong những nguyên tắc cốt lõi của phương pháp trị liệu tinh thần hiện đại: tăng tính tự giác giúp con người đối diện với ngoại cảnh một cách tích cực nhất. 
phat giao chua benh 2
 
Phật giáo tu hành đánh vỡ sự vô minh, loại bỏ chấp niệm trong lòng, làm thanh sạch ý thức nên gia tăng sự trân quý sinh mạng, đề cao lợi ích của chúng sinh, cuối cùng đạt tới cấp độ Niết Bàn. Nhờ vậy có thể coi tu Phật là một hình thức chữa bệnh tinh thần.   4. Tu Phật là một trải nghiệm cá nhân, không mang tính tập thể dù cộng đồng Phật tử rất đông. Mỗi người có con đường tới với Phật pháp và cách tu hành riêng, cảm giác riêng, không ai giống ai, càng không ai có thể định hướng cho ai, chỉ có thể cùng nhau trao đổi, truyền thụ kinh nghiệm và tìm ra lối đi cho mình.    Trong kinh Phật hướng con người tới thiện tu, giáo lý sâu rộng, phương pháp phong phú mà lại không khó thực hiện nên dễ quy tụ được lòng người. Tĩnh tọa, thiền định là cấp bậc cao của tu hành, đòi hỏi sự thanh lọc trong tâm hồn và chấn chỉnh tư tưởng một cách nghiêm cẩn.    5. Phật giáo cho rằng, có 4 phương pháp giáo dục chúng sinh, theo thứ tự là: thế giới tất đàn, mọi người tất đàn, đối trị tất đàn, đại nghĩa tất đàn. 4 phương pháp này xem xét ở 4 góc độ, có liên quan tới trị liệu tâm lý.   Thứ nhất, thế giới tất đàn, thế gian xem tất cả sự vật đều là nhân duyên, các sự kiện dựa vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau tạo ra kết quả mà trong đó yếu tố then chốt là “tâm” hay nói cách khác là tinh thần. Chúng sinh khẩn cầu hợp với nguyện lực và công đức của Phật Bồ Tát mới phát huy tác dụng, dù Phật Bồ Tát thần thông quảng đại đến đâu cũng cần có tiền đề là ý nguyện của chúng sinh.    Thế mới có câu "Phật không độ người không có duyên. Như vậy tức là mọi việc đều xuất phát từ mong muốn, tinh thần của mỗi cá nhân. Nội tâm mạnh mẽ, ắt mọi sự thành, nội tâm yếu đuối, không thể thành công. Xem thêm bài viết Triết lý Phật giáo nâng bước thành công   Thứ hai, mọi người tất đàn, chúng sinh không có căn cơ đồng nhất, mỗi người có con đường riêng, sức mạnh riêng, có người thành Phật, Bồ Tát, có người thành Phật tử. Vì thé không cầu người chỉ cầu mình, không nhìn người, chỉ nhìn mình.   Thứ ba, đối trị tất đàn, vô minh – không minh mẫn, sáng suốt là nguồn cơn của tất cả các loại bệnh. Để chữa bệnh, cần phải có trí tuệ. Niệm Phật, bái Phật, đọc kinh, sám hối, nguyện đều là các loại "thuốc", chữa trị những muộn phiền trong lòng chúng sinh, khiến bản thân tự biết tâm mình, thanh lọc tâm mình, thu được hạnh phúc vui sướng.    Phật giáo cho rằng, lòng người bất đồng, phương thức tu hành tự nhiên cũng có điều biến hóa. Đây được coi là một liệu pháp thích ứng về tinh thần, thuận theo tự nhiên và hướng tinh thần vào khuôn khổ nhưng không thúc ép. Khi tinh thần sáng suốt, có trí tuệ, tự khắc phân biệt được đúng sai tốt xấu.   Thứ tư, đại nghĩa tất đàn, mục đích cuối cùng của giáo dục là thấy được chân tướng của mọi chuyện, hướng tới Niết Bàn giải thoát. Phật giáo không hướng con người tới sự sùng bái mù quáng, cúng bái mê muội, lợi dụng lòng tin mà muốn hướng lòng tin đó tới sự chân thật, coi như đó là tác dụng chữa bệnh của Phật giáo, bệnh về tinh thần.   “Tín ngưỡng chân chính không phải sinh ra từ sự tin tưởng mà hình thành từ sự chân thật”. Chỉ có sự thật mới trường tồn và phát triển cùng với thời gian. Bởi thế, sự khách quan, công bằng chính là một trong những lý do quan trọng để Phật giáo trở thành một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới, quy tụ hàng triệu tín đồ mộ đạo.   Bất cứ ai cũng có thể vận dụng phương pháp chữa bệnh bằng Phật giáo bởi ai sinh ra trên đời chẳng có “tâm bệnh”. Lo buồn khổ sở vì trăm thứ chuyện khiến tinh thần mệt mỏi, tìm đến Phật giáo có thể coi là một hình thức dưỡng tâm khá tốt, Lời Phật dạy về chữ tâm - có tâm ắt hưởng phúc lành, có nhiều lợi ích mà không nặng nề
phat giao chua benh 1
 
Hiện nay, người không theo đạo Phật nhưng tin tưởng theo con đường dưỡng sinh dưỡng tâm của Phật giáo không hề ít. Cụ thể, có một số hình thức mà bạn đọc có thể áp dụng như sau:   1. Ăn chay – dưỡng sinh và dưỡng tâm, tránh sát sinh theo quan điểm Phật giáo và tốt cho sức khỏe theo quan điểm khoa học.   2. Nghiên cứu giáo lý nhà Phật – một hình thức khai mở trí tuệ, tiếp thu kiến thức Triết học và đúc rút kinh nghiệm về cuộc sống.   3. Tụng kinh niệm Phật – thói quen điều hướng tinh thần tới điều thiện, có chỗ dựa về tinh thần, có mong mỏi về chuyện tốt đẹp.   4. Làm việc thiện – hành động cụ thể để tinh thần thoải mái, không hành ác không sợ hãi. Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là chữa bệnh về tâm, nên hiểu theo hướng này để vận dụng tôn giáo một cách đúng đắn, không mê tín dị đoan, không mù quáng thiển cận, như vậy mới đích thực là hướng Phật thành tâm.
3 nguyên tắc cơ bản của Phật giáo giúp tu 3 giờ hiệu quả như 3 năm Vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác? Lịch Phật hàng năm - những ngày lễ lớn kính ngưỡng Phật, Bồ Tát
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác dụng chữa bệnh của Phật giáo là có thật?

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở - Phong thủy - Xem Tử Vi

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở, tu vi Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở

Ai cũng cầu mong sức khỏe, tài lộc, may mắn, tiền bạc, hạnh phúc và tình yêu trong cuộc sống. Điều đó lý giải vì sao ngày nay nhiều người coi trọng phong thủy với mong muốn có những nguồn năng lượng tốt bổ trợ và thay đổi vận mệnh tốt lên của mình.

Những lọ hoa héo khiến căn nhà vừa xấu vừa làm người khác đánh giá chủ nhà không chăm chút cho gia đình
– Phong thủy trong cuộc sống, công việc đang là xu hướng được rất nhiều người đi theo. Nếu biết vận dụng thuật phong thủy tốt, gia chủ sẽ nhận được những nguồn khí bổ trợ tốt. Tuy nhiên, cũng có những việc làm không thuận với phong thủy, khiến họ chưa nhận được nguồn năng lượng tích cực. Dưới đây là 7 điều nên tránh làm trong phong thủy:

Kê một bên giường quá sát với tường

Đây được coi là sai lầm phổ biến nhất trong cách bày trí phòng ngủ của rất nhiều người. Việc chiếc giường bị kê quá sát với tường nhà hoặc nằm trong một góc phòng sẽ phong tỏa mọi nguồn năng lượng thịnh vượng khi bạn đang say ngủ. Chúng ta ngủ hằng ngày là để thư giãn, tĩnh dưỡng và trẻ hóa, và việc kê sai giường sẽ khiến quá trình ấy thu giảm đáng kể. Vị trí giường ở góc nhà sẽ khiến chủ nhân khó thoát ra khỏi giường khi có những tình huống bất ngờ xảy ra. Thêm vào đó, một chiếc giường không thoáng cả hai bên sẽ là trở ngại lớn cho các cặp vợ chồng, dễ gây cho họ những mối bất hòa không đáng có.

Để hành lang tối và cửa ra vào không sinh động

Một sai lầm đáng kể đến từ việc trang trí ngôi nhà đó là để hành lang tối, không có đèn thắp sáng, cộng với việc gia chủ để mặc cửa ra vào bị rợp bóng cây hoặc kém màu sắc tươi tắn, sinh động. Bố trí cửa ra vào đầy đủ ánh sáng, quang đãng, sinh động sẽ giúp ngôi nhà thu hút được những nguồn năng lượng tốt, mang đến niềm hạnh phúc, vui vẻ cho các thành viên trong gia đình và khách ghé thăm. Thêm vào đó, tuyệt đối không để hành lang gợi lên cảm giảm tối sâu hun hút. Hãy lắp đặt hệ thống ánh sáng vừa đủ, trang trí các bức tranh nghệ thuật hoặc đặt chậu cây cảnh… để hành lang mang màu sắc tươi tắn, đáng yêu.

Đặt tivi trong phòng ngủ

Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu gia đình bạn đang đặt một chiếc tivi trong phòng ngủ. Đó được xem là kẻ giết chết các mối quan hệ vợ chồng một cách thầm lặng. Tivi, đồ điện tử hay máy chơi game là những đồ vật khiến vợ chồng dễ xa cách nhau tại chính căn phòng ngủ của bạn. Hãy nhớ, xem phong thuy phòng ngủ là không gian riêng tư, nghỉ ngơi đầy lãng mạn của mỗi người, mỗi cặp vợ chồng, vì thế, hãy cố gắng để chúng không bị tác động bởi các đồ vật khác.

Để hệ thống ống nước rò rỉ

Mặc dù rất ít người coi trọng và lưu tâm, nhưng để hệ thống ống nước nhà bạn rò rỉ mà không sửa chữa ngay, đồng nghĩa với việc năng lực tài chính, năng lượng cá nhân, thậm chí là sức khỏe của gia chủ đang có vấn đề. Nếu chủ nhân ngôi nhà không có kinh nghiệm thì hãy gọi ngay đội sửa chữa đến càng sớm càng tốt. Tuy nó là một vấn đề nhỏ nhưng để lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của gia đình bạn và làm tiêu tan những nguồn khí tích cực của ngôi nhà.

Bày trí những bức tranh không phù hợp

Nếu chủ nhân ngôi nhà là người yêu thích các bức tranh nghệ thuật liên quan đến chiến tranh, tôn giáo, đồ cổ kỳ lạ thì hãy treo chúng ở một gian phòng riêng. Bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các thành viên còn lại của gia đình và khách ghé thăm. Trong các gian phòng khách, phòng ngủ, phòng trẻ… bạn nên treo những bức tranh sinh động, màu sắc hài hòa, tươi tắn, đáng yêu để mang đến cảm giác chào đón, nồng hậu, vui vẻ cho mọi người.

Lắp các tấm gương lớn đối diện nhau

Trong phong thủy, việc lắp hai tấm gương đối diện nhau ở hai bên bức tường là điều tối kỵ. Bởi khi đó, vùng không gian ở giữa hai gương sẽ là những nguồn năng lượng phản xạ, đối lập nhau, khiến cho gia chủ và người thân gặp phải nguồn khí không có lợi. Thay vào đó, gia chủ có thể đặt những chậu cây cảnh nhỏ xinh, đặt những bình thủy sinh để tô điểm cho ngôi nhà mà vẫn khiến không gian sâu rộng, tươi mát.

Để cây cảnh đã chết trong nhà hoặc ngoài sân

Nếu không muốn người khác hiểu rằng nguồn sinh khí trong căn nhà bạn đang héo mòn và chết dần thì tuyệt đối không được để cây cảnh, chậu hoa, bình hoa đã héo úa và chết trong nhà hoặc ngoài sân. Điều lưu tâm cơ bản nhất của chủ nhân ngôi nhà là luôn tạo cho căn nhà mang vẻ sức sống, tươi mới. Do đó, hãy nên chú ý đến các loại cây trồng trong nhà bạn. Chăm sóc chúng thật tốt, rửa bụi bẩn, thay nước và thay hoa đều đặn. Hãy để hoa, cây cảnh mang sức sống, sự tươi mới và sinh động theo đúng nghĩa của nó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên tránh trong phong thủy nhà ở - Phong thủy - Xem Tử Vi

Nguyên tắc làm đẹp cho nhà ở –

Phòng cần phải đẹp, căn phòng đẹp có thể khiến con người cảm thấy an nhàn, thoải mái và ấm áp. Cũng giống như con người, căn phòng sau khi được trang hoàng mới trở nên tráng lệ. Tuy nhiên, mọi người thường chú trọng đến việc trang điểm cho chính mìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

9-21

h mà bỏ quên việc tô điểm cho căn phòng mình ở; hay cho dù có coi trọng việc đó thì cũng không biết bắt đầu từ đâu.

Để khiến ngôi nhà là mái ấm đẹp, dễ chịu thì phải bỏ công sức quan tâm đến. Làm đẹp cho căn phòng có quy luật nhất định nhưng không phải là không thể thay đổi được. Bạn có thể căn cứ vào kinh nghiệm của mình cộng với tham khảo để tạo cho mình một khoảng không gian riêng như ý.

(1) Lấy ánh sáng, vệ sinh

Căn phòng ngoài ngăn nắp sạch sẽ, không bám bụi ra thì ánh sáng đầy đủ là điều vô cùng quan trọng. Nếu cửa sổ nhỏ, lấy ánh sáng không đủ nên sử dụng các đồ màu nhạt và bố trí đèn có ánh sáng mạnh.

(2) Kinh tế, hợp lý

Tất cả đồ đạc và việc sắp đặt chúng phải thuận tiện theo yêu cầu của cuộc sống; không gian phải sử dụng một cách kinh tế, có hiệu quả; cho dù là không gian nhỏ cũng không được biến thành góc chết.

(3) Bài trí đơn giản

Bài trí trong phòng phải có điểm nhấn, có trật tự, đồ đạc không nên quá nhiều, nếu không sẽ có cảm giác bừa bộn. Sự bài trí đồ đạc trong mỗi phòng phải thể hiện được phong cách của phòng đó chứ không được chất đồ lung tung, chẳng hạn phòng ăn không nên để dụng cụ làm vườn, phòng ngủ không nên để đồ làm bếp.

(4) Hài hòa, thống nhất

Đồ đạc lung tung chắc chắn là không đẹp, chất liệu và hình dáng của đồ dùng trong nhà và đồ trang trí dệt may tốt nhất nên thống nhất để thể hiện được cái đẹp của sự hài hòa.

(5) Phối hợp nhịp nhàng

Các loại đồ dùng phải có tỉ lệ thích hợp mói tạo cảm giác hài hòa.

(6) Đối xứng

Việc sắp xếp đồ đạc phải cân bằng, ví dụ hai bên phải đặt ghế sofa có kích cỡ giống nhau, cốc quanh ấm trà phải có kích cỡ thích hợp tạo cảm giác hài hòa, dễ chịu.

(7) Màu sắc hài hòa

Màu sắc trong và ngoài phòng phải hài hòa cân xứng, mỗi căn phòng lại có màu sắc vui mắt riêng nhưng nguyên tắc là mỗi phòng không nên sơn quá hai màu.

(8) Tạo cảm giác

Có 3 thứ có thế tạo cảm giác, đó là màu sắc, đèn và sự bài trí đồ đạc, trong đó đèn là công cụ tốt nhất để điều tiết tình cảm.

(9) Đan xen, thay đổi

Đồ dùng trong nhà tuy cố gắng làm sao cho đơn giản, thống nhất, nhưng cũng phải có sự thay đổi và phối hợp đan xen, ví như sự đan xen thú vị giữa các đồ dùng trong nhà, con người cố ý tạo ra sự cao thấp không giống nhau, màu sắc không giống nhau như vậy mới tạo được cảm giác đẹp mới lạ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc làm đẹp cho nhà ở –

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Con đường sự nghiệp của người tuổi Thìn như thế nào

Theo quan niệm truyền thống, rồng tượng trưng cho vua chúa, sự thịnh vượng và quyền lực. Người ta cho rằng những người tuổi Thìn đều có sứ mệnh riêng, rất đặc
Con đường sự nghiệp của người tuổi Thìn như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

biệt.

Diem mat 4 con giap su nghiep thang tien am am trong nam Dinh Dau 2017
 

Khi còn trẻ những người này luôn thích thử thách bản thân mình, thích được đảm đương những nhiệm vụ quan trọng cho dù là con út trong gia đình.

Người tuổi Thìn có năng lực và trí tuệ hơn người. Sự nhiệt tình có thể thôi thúc họ dấn thân vào những sự việc mạo hiểm. Tất cả họ đều có một tiềm năng dồi dào và luôn làm việc với lòng nhiệt tình, hăng hái nhất. Tuy nhiên, nếu nhiệt tình không đúng chỗ thì rất có thể họ sẽ tự "đốt cháy" mình với nhiều rắc rối khác kèm theo.

Người ta thường ví tuổi Thìn như các vệ sĩ của tiền tài và quyền lực. Nếu tự cao, tự đại một cách mù quáng thì họ dễ trở thành nô lệ của những điều đó.

Họ là những người mạnh dạn, quyết đoán nhưng không xảo trá. Chính vì vậy trong các cuộc đàm phám được quyết định bằng sức mạnh thì họ dễ dành phần thắng lợi.

Tuổi Thìn có số mệnh tốt. Khi về già họ thường có cuộc sống an nhàn, sung sướng.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Thìn như thế nào

Những lưu ý phong thủy về hành lang trong nhà

Theo phong thủy, hành lang cũng có một ý nghĩa rất quan trọng trong bố trí thiết kế mặt bằng kiến trúc của ngôi nhà. Dưới đây là những điều nên và không nên khi bài trí hành lang theo phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành lang là lối đi trong nhà, trong nhà có hành lang sẽ tiện lợi hơn rất nhiều. Đồng thời khi hoạt động trong nhà cũng tránh vì phải đi qua các phòng mà làm ảnh hưởng đến việc học và nghỉ ngơi của mọi người.

1. Khi thiết kế hành lang nên tuân theo bốn nguyên tắc sau:

- Chiều rộng: Chiều rộng thông thường của hành lang khoảng 1 m, rộng nhất cũng không vượt quá l,3 m. Hành lang quá rộng và quá hẹp đều
không tốt.

- Chiều dài: Chiều dài của hành lang thông thường không vượt quá 2/3 chiều dài của ngôi nhà. Nếu hành lang chạy suốt tới cuối nhà, tức chia ngôi nhà thành hai nửa không gian, đó chính là dấu hiệu gia đình rạn nứt. Cách cứu chữa là kê tủ đựng đồ ở cuối hành lang để rút ngắn chiều dài của hành lang từ 2/3 chiều dài của ngôi nhà trở lại.

- Phương vị và hướng: Hành lang hướng Đông, hướng Đông Nam, hướng Nam và hướng Tây Nam có điều kiện đón ánh sáng và thông gió tương đối lý tưởng.

- Cuối hành lang không được đối diện với nhà vệ sinh, để tránh khí uế từ nhà vệ sinh bay ra làm ô nhiễm bầu không khí trong nhà.

2. Hành lang nên tránh thông qua các phòng làm ảnh hưởng tới mọi người

Đối với những ngôi nhà có nhiều tầng toạ Bắc hướng Nam, cầu thang đặt chính giữa chia ngôi nhà thành hai nửa không gian, cách bố cục của phòng phía Đông hoàn toàn trái ngược với phòng phía Tây, nhưng vẫn có thể dùng để ở.

Điều cần lưu ý là lối hoạt động trong nhà phải thông thoáng. Lối đi không nên thiết kế quá nhiều, càng không nên thiết kế qua các phòng, tốt nhất nên lấy phòng khách là trung tâm, có thể thông thẳng tới từng phòng mà không phải đi vòng vèo, xuyên qua hết phòng nọ đến phòng kia. Ngoài ra, trong nhà không được thiết kế hành lang chạy vòng vèo, trong phong thuỷ cho rằng hành lang như vậy sẽ không tốt cho trạch vận.

Trên thực tế, ngoài nhà hàng khách sạn và một số nhà trọ thì thường rất hiếm gặp trường hợp hành lang được thiết kế ở tứ phía.

(Theo Phong thủy gia đình)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy về hành lang trong nhà

5 bước bài trí ban thờ đón Tết nhanh - gọn - chuẩn

Sau ngày 23 Ông Công Ông Táo lên chầu trời là các gia đình Việt bắt đầu nhộn nhịp chuẩn bị đón một cái Tết đầm ấm sum vầy. Bài trí bàn thờ gia tiên ngày Tết là
5 bước bài trí ban thờ đón Tết nhanh - gọn - chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

một trong những phong tục đẹp và cần thiết được duy trì.


5 buoc bai tri ban tho don Tet nhanh - gon - chuan hinh anh
 
Bài trí ban thờ ngày Tết không chỉ là hoạt động thường niên, năm mới đón điều mới mà còn chứa đầy giá trị tâm linh, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ đến những người thân đã khuất trong gia đình. Truyền thống đầy nhân văn này là bài học cụ thể, nhắc nhở con cháu và các thế hệ sau về lòng biết ơn, lòng hiếu thảo cùng cách thức tôn trọng văn hóa dân tộc.   Các bước cụ thể khi dọn ban thờ đón Tết rất quy củ, có bài bản. ## xin liệt kê giúp bạn đọc dễ dàng thực hiện .   1. 23 tháng Chạp tiễn Ông Công Ông Táo lên trời xong, gia chủ nên bắt tay ngay vào việc dọn dẹp ban thờ đón Tết. Đây là thời gian thần linh trong nhà vắng mặt, tranh thủ dọn dẹp để sau khi thần linh quay lại thấy được vẻ khang trang, rạng rỡ, tươi mới của ban thờ.   2. Việc trước tiên là vệ sinh bát nhang, rút chân hương, hóa chân hương cũ và lau chùi bát nhang sạch sẽ.   3. Dọn dẹp, lau chùi, phủi bụi toàn bộ ban thờ và những đồ vật trang trí, đồ thờ như đỉnh đồng, đèn, hạc, chén nước, đĩa bày hoa quả,… Dùng nước sạch và khăn bông vệ sinh kĩ càng. Đồ thờ bằng gỗ, đồng có thể đánh bóng, làm mới lại. Cuối cùng nấu “ngũ vị hương” từ 5 loại cỏ thơm để tẩy uế một lượt rồi phơi khô.
Nguồn gốc Tết Việt: Người Việt phải hiểu rõ
Tết cổ truyền hay Tết Nguyên Đán thường bắt đầu vào dịp đầu năm mới theo Âm lịch. Đây là dịp lễ quan trọng nhất và lớn nhất trong văn hóa của người Việt Nam.

4. Bày biện lại ban thờ theo thứ tự chính giữa nơi cao nhất là bài vị khắc tên người được thờ, nhưng thông thường người Việt ít thờ bài vị mà chỉ thờ bát hương.
  Bát hương thờ Phật ở chính giữa, cao nhất, bát hương thờ Thổ Công và bát hương thờ tổ tiên cha mẹ đặt hai bên. Nếu bày lư đồng thì lư ở giữa to nhất, lư hai bên kích thước nhỏ hơn và bằng nhau.   Lọ hoa, lọ hương, đế đèn, nến sắp xếp hai bên phải trái cân bằng. Phía trước ban ở chính giữa bày chén nước và đĩa hoa quả. Tất cả tuân theo quy tắc cân bằng Âm – Dương, “tả dương, hữu âm”, “tả nam, hữu nữ”.   5. Hương thắp ngày Tết chọn loại hương trầm, có mùi thơm, có thể sử dụng hương vòng để đốt được lâu. Hoa chọn loại thanh khiết, tươi tắn, mùi thơm thuần nhị, không quá gắt, có thể trưng cành đào, cành mai mang không khí mùa xuân.   Mâm ngũ quả truyền thống của từng vùng miền có khác nhau về các loại quả nhưng đều mang ý nghĩa mong muốn một năm mới an khang, vui vẻ và sung túc hơn. Số 5 tượng trưng cho ngũ hành hòa hợp Kim – Mộc - Thủy – Hỏa – Thổ, cho 5 đức tính đáng quý Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín, rất tốt lành.  
5 buoc bai tri ban tho don Tet nhanh - gon - chuan hinh anh 2
 
Miền Nam trưng “cầu – sung – vừa – đủ - xài” (mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài); miền Bắc bày chuối, bưởi mang nghĩa vuông tròn, cam, quýt, quất tươi tốt, con đàn cháu đống, táo, lê hanh thông hạnh phúc,…
  Ban thờ ngày Tết không thể thiếu cặp bánh chưng, thể hiện sự no ấm, đủ đầy, phu thuận thê hòa, gia đình đầm ấm. Ngoài ra bày thêm các loại bánh kẹo, nước ngọt cho phong phú, đẹp mắt.   Tết đến xuân về là lúc con cháu tỏ lòng hiếu thảo và tưởng nhớ tiền nhân. Ban thờ ngày Tết chứa đựng cả tấm lòng và sự thành tâm của những người còn sống. Hãy chuẩn bị thật chu đáo và chân tâm để lòng mình thanh thản.  
► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Trình Trình
Xem Clip Nghi thức thờ cúng tổ tiên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 bước bài trí ban thờ đón Tết nhanh - gọn - chuẩn

Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Những lưu ý như không treo gương đối diện cửa sổ, gần cửa ra vào sẽ có ích cho những ai muốn đổi tài vận trong năm 2015.
Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Kỵ treo gương đối diện với cửa sổ

Đây là một trong những kiến thức cơ bản nhất về treo gương theo phong thủy. Gương trong phòng khách tuyệt đối kiêng kỵ treo ở vị trí đối diện với cửa sổ. Theo quan niệm dân gian, nếu thẳng hướng cửa sổ có nhà khác sinh sống, việc treo gương sẽ gây bất lợi cho nhà đó.

Trường hợp không có người khác thay thế, điều bất lợi và xui xẻo sẽ đến với chính chủ nhân ngôi nhà. Ngoài ra, khi có ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào gương sẽ tạo cảm giác chói chang, không thoải mái.

3-1df58-1465-1421130680.jpg

2. Không nên treo gương ở gần hoặc đối diện cửa ra vào

Theo quan niệm cổ xưa, mỗi chiếc gương đều có một vị “thần gương” ngự trị, cửa ra vào cũng có “thần cửa” canh gác. Do đó, nếu treo gương ở gần hoặc đối diện với cửa ra vào, ánh sáng chói lọi của thần gương sẽ “bắt nạt” thần cửa và thần tài, khiến những vị thần này sợ hãi mà bỏ đi. Điều đó đồng nghĩa với việc chủ nhân ngôi nhà sẽ không được hưởng tài phúc trọn vẹn.

Ngoài ra, nếu bạn làm kinh doanh, việc treo gương đối diện với cửa ra vào này sẽ khiến việc kinh doanh bất lợi, tổn hao nhiều tiền của.

3. Kiêng treo gương trên trần phòng khách

Một số gia chủ có sở thích khác người, ốp gương mỏng lên trần nhà. Điều này không những phá thế phong thủy mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của các thành viên trong nhà.

Khi ngồi ở phòng có treo gương kiểu này, bạn sẽ có cảm giác như bị ức chế, có cái gì đó đè nặng lên đầu. Khi có ánh nắng hoặc ánh đèn, gương sẽ phản chiếu ánh sáng gây chói mắt, khó tập trung và thư giãn.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Những cái tên tránh sử dụng trong năm Ngọ

Kim, Linh, Ngân, Mỹ, Vinh, Tú, Hòa… là những cái tên đẹp theo phong thủy năm Giáp Ngọ, được chuyên gia khuyên đặt. Còn Nam, Phú, Cương, Thủy, Giang, Hà, Hải là những tên nên tránh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tên không chỉ đơn thuần là một danh từ để gọi, mà nó còn toát lên đường công danh, sự nghiệp trong tương lai của mỗi người.

Dễ dính lưới tình?

Người sinh năm Ngọ, tính tình khoáng đạt, tư duy nhanh nhạy, năng lực quan sát tốt, có năng lực buôn bán. Theo dân gian, người tuổi Ngựa tính khí nóng nảy, hay sốt ruột, làm việc vội vàng. Họ dễ rơi vào lưới tình, song cũng thoát ra nhanh chóng và nhẹ nhàng. Họ thường thoát ly gia đình khi trưởng thành, dù ở nhà vẫn mang tinh thần độc lập và chờ thời cơ bay nhảy. Sức sống của người tuổi ngựa mạnh mẽ, song thường có biểu hiện lỗ mãng, vội vàng, ưu điểm lớn nhất là lòng tự tin mạnh mẽ, xử sự hào nhã. Họ thích mặc màu nhạt, kiểu cách độc đáo và đẹp.

theo dân gian, người tuổi ngựa tính khí nóng nảy, hay sốt ruột, làm việc vội vàng.
Theo dân gian, người tuổi Ngựa tính khí nóng nảy, hay sốt ruột, làm việc vội vàng. 

Người tuổi ngựa luôn làm theo ý mình, thích mình là trọng tâm. Khi trình bày quan điểm họ vung tay múa chân, quyết nói ra toàn bộ suy nghĩ của mình. Hiện tượng mâu thuẫn trước sau trong tính cách của họ là do tình cảm hay thay đổi của họ sinh ra. Họ làm việc theo trực giác, có thể làm tích cực được nhiều việc cùng một lúc, khi đã quyết định, họ lao vào làm ngay.

Người tuổi Ngọ rất khó làm việc theo kế hoạch của người khác, thích làm những việc có tính hoạt động, giỏi giải quyết việc gay cấn, rắc rối, khi nói chuyện thường không tập trung. Nữ tuổi Ngọ có sức sống mạnh mẽ, cử chỉ nhẹ nhàng, nói nhiều. Phụ nữ có thể dịu dàng nhưng có lúc tỏ ra cực đoan.

Nhiều cách đặt tên

Theo một chuyên gia phong thủy Nguyễn Thị Luyện (Hải Phòng), năm Giáp Ngọ là mệnh Kim (Sa Trung Kim - vàng trong cát). Người tuổi Ngọ là người cầm tinh con ngựa, sinh vào các năm 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014, 2026…

Dựa theo tập tính của loài ngựa, mối quan hệ sinh – khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội) và ngữ nghĩa của các bộ chữ, chuyên gia phong thủy đã gợi ý một số tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Ngựa.

Tuổi Ngựa thường gắn với cỏ, nên dùng những từ có bộ Thảo (cỏ), bộ Kim (vàng) sẽ có học thức uyên bác, yên ổn, giàu có, vinh quang, hưởng phúc suốt đời.

Theo đó, những từ nên có trong tên con trong bộ Thảo là Cửu (một loại cỏ thuốc); Miêu (mạ, cây giống); Thiên (um tùm); Vu (khoai sọ); Chi (cỏ thơm); Duẩn (măng); Cầm (cây thuốc); Hoa (bông); Phương (thơm); Linh (cây thuốc Phục Linh); Bình (táo tây); Minh (trà); Trà (trà); Thảo (cỏ); Tiến (cỏ thơm); Lợi; Diệp (lá); Lan (hoa lan); Lam (màu xanh da trời); Liên (hoa sen); Vạn (họ Vạn)…

người tuổi ngựa rất hợp với tên thuộc bộ thảo.
Người tuổi Ngựa rất hợp với tên thuộc bộ Thảo.

Bộ Kim cũng được chuyên gia phong thủy này khuyên đặt, như Kim (vàng); Xuyến (vòng đeo tay); Linh (cái chuông); Ngân (bạc); Nhuệ (lanh lợi); Cẩm (gấm); Toản (kim cương); Luyện (gọt rũa); Kính (gương soi); Điền (tiền cổ)…

Hay là những chữ có bộ Ngọc, Mộc, Hòa (cây lương thực) sẽ khiến người được đặt tên nhận được sự giúp đỡ từ quý nhân, trở nên đa tài khôn khéo, thành công rực rỡ.

Bộ Ngọc là các chữ Giác (ngọc ghép thành 2 miếng); Doanh (đá ngọc); Tỷ (ấn của nhà Vua); Bích (ngọc quý)…

Bộ Mộc gồm Đông (phương đông); Sam (cây tram); Bân (lịch sự); Vinh (vinh dự); Nghiệp (nghề nghiệp)…

Bộ Hòa là Hòa (cây lương thực); Tú (đẹp); Khoa (khoa cử); Nhu (mềm mỏng); Lâm (mưa to); Kiệt (tài giỏi); Sâm (rừng)…

Thậm chí, có thể chọn những chữ có bộ Tỵ (rắn), Mùi (dê), Dần (hổ) Tuất (chó) vì hợp với ngựa như Bưu (hổ con); Thành (họ Thành); Dần (hổ); Kiến (xây dựng); Quần (đám đông); Nghĩa (tình nghĩa); Độc (một mình); Mỹ (đẹp); Tiến (tiến lên)…

Chuyên gia này cũng đưa ra những từ kiêng kỵ khi đặt tên con tuổi Ngựa.

Bộ Điền, Hỏa, Chấm thủy, Thủy, Băng (nước đá), Bắc (phương Bắc) được khuyên không nên sử dụng trong khi đặt tên con. Vì ngựa mạng Hỏa, đặt tên cho người tuổi Ngựa những chữ thuộc bộ này sẽ khiến họ luôn lo âu mệt mỏi, tinh thần hoặc tính tình ngang ngạnh, dễ xảy ra tranh cãi, mọi việc bất thuận

Những tên nên tránh là Giáp (can giáp); Do (họ Do); Đĩnh (bờ ruộng); Nam (con trai); Điện (ngoại ô); Phú (phú quý); Cương (bờ cõi); Hoán (sáng sủa); Thủy (nước); Băng (nước đá); Giang (song); Tấn (con nước); Hà (sông); Dương (biển lớn); Hải (biển); Đông (mùa đông); Loan (vịnh); Thục (thùy mị); Hoài (sông hoài); Thanh (trong)…

Và cũng không nên dùng chữ có bộ Dậu (gà), Tý (chuột) hay Ngưu (Trâu).

Theo Nguyễn Vũ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cái tên tránh sử dụng trong năm Ngọ

Xem bói tử vi tuổi Mùi

Xem bói tử vi tuổi Mùi qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Mùi, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Mùi qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Mùi, sự xung khắc của tuổi Mùi với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Tân Mùi, Kỷ Mùi, Đinh Mùi, Ất Mùi, Quý Mùi theo tháng sinh và giờ sinh.

Nằm ở vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng 12 con giáp là các cá nhân tuổi Mùi. Họ là những con người kiểu cách, nhạy cảm và đáng tin cậy. Họ điềm tĩnh, thông minh và luôn đầy sức hút trong mắt tập thể.

xem bói tử vi tuổi Mùi
1. Tính cách người tuổi Mùi

Con dê theo như trong sách lịch sử Trung Quốc là con vật dịu dàng, ôn hòa nhất. Người sinh năm Mùi là người luôn vui cười, sống chân thực và thân thiết với mọi người, rất dễ động lòng trắc ẩn với những bất hạnh của người khác. Tính cách của những người sinh năm Mùi rất hiền lành, thậm chí hay tỏ ra xấu hổ, bẽn lẽn. Nếu được phát huy hết mọi sở trường, sẽ trở thành những nhà nghệ thuật đầy tao nhã hoặc có tính sáng tạo cao. Còn nếu không có những thành công trong sự nghiệp, họ sẽ trở thành con người bi quan, chán nản và buồn bã.

Những người tuổi Mùi thường điệu dàng và có tâm hồn nghệ sĩ. Một người sinh vào năm Mùi được nhắc đến nhiều ở khía cạnh nghệ thuật với tài năng tuyệt vời trong những nỗ lực sáng tạo. Người tuổi Mùi có mắt thẩm mỹ và có năng khiếu về thời trang.

Đây là những người sống nội tâm, khép kín. Họ không phải là những người thích chống đối, hay đấu tranh khi có điều gì không vừa ý. Họ thích cuộc sống lúc nào cũng tươm tất bằng phẳng, không có những khúc quanh, không có những đoạn gồ ghề, lúc nào cũng phải là một con đường trải nhựa sạch sẽ. Là những người sâu sắc, tốt bụng, hay giúp đỡ, và quan tâm đến người khác, vì thế họ luôn được đền đáp xứng đáng trong cuộc sống. Thực tế, những người này rất may mắn trong sự nghiệp và chuyện tiền bạc.

Người tuổi Mùi chính trực, hiền lành và dễ cảm thông được với nỗi khổ của người khác. Họ thường là những nhà nghệ thuật và làm những việc có tính sáng tạo. Là người vị tha, độ lượng nên họ dễ tha thứ cho sai lầm của người khác, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của người đó để biết những khó khăn của họ, hiểu và thông cảm cái lý của người khác. Người tuổi Mùi bằng những cử chỉ tế nhị rất giàu lòng thông cảm với người khác. Họ cũng ít khi phê bình người khác. Người tuổi Mùi không thích sự thay đổi và sự xung đột nên họ luôn né tránh những cuộc tranh luận, giữ quan hệ tốt với mọi người. Đồng thời họ cũng là người chu đáo. Họ luôn cẩn thận để không làm tổn thương bất kỳ ai, và nếu phải làm thế thì họ cũng sẽ giải quyết lại tình huống đó. Trên hết, người sinh năm Mùi là người được bạn bè ngưỡng mộ và dễ hòa đồng.

Người tuổi Mùi là người đa sầu, đa cảm nên khi gặp phải khó khăn họ luôn bi quan đau khổ. Họ sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán một việc gì, hay trù trừ do dự nên có thể để vuột cơ hội, dịp may lớn. Người tuổi Mùi khó thích ứng với công việc có tính trách nhiệm cao, hoặc công việc cần có sự quyết đoán, giải quyết nhanh chóng.

Người sinh năm Mùi không thích bị bó buộc, không thể tự do làm mọi việc. Họ luôn hiểu lòng người, mặc dù là người hiền lành, ít phản kháng song nếu dùng vũ lực để ép họ làm thì rất khó. Người tuổi Mùi gặp những việc hứng thú thường cần phải ép buộc. Những việc anh ta không muốn làm thì sẽ tìm mọi cách từ chối. Nếu không biết được thay đổi tâm lý của anh ta sẽ rất dễ tức giận, khó chịu. Tóm lại người tuổi Mùi thích cuộc sống phẳng lặng, luôn tạo bầu không khí xung quanh hòa thuận, thế nhưng khi không làm được việc, họ sẽ chạy về nhà, gọi “sư huynh” ra giúp đỡ.

Thái độ làm việc của người tuổi Mùi có thể khiến người ta khó chịu, tức giận nhưng không thể thay đổi được họ vì đó là thuộc tính của họ. Nếu thời gian rất gấp, bạn luôn phải sắp xếp thời gian với anh ta mà vẫn không xong thì bạn có thể dùng biện pháp cứng rắn để đối phó. “Đập bàn”, “giậm chân”, “hét to” như kiểu một con sư tử đang nổi giận để anh ta hiểu rằng bạn sẽ không quan tâm hay đồng ý với anh ta. Hiệu quả sẽ rất khách quan, không khí căng thẳng giữa bạn với anh ta sẽ tiêu tan.

Với đặc tính ôn hòa, người tuổi Mùi có thể kết bạn với những người mạnh mẽ, biết khống chế họ. Họ phải được làm việc ở những nơi có nội qui nghiêm khắc mới phát huy được hết sở trường. Thái độ nghiêm khắc và cưỡng chế của các đồng sự sẽ giúp anh ta nâng cao được hiệu suất lao động.

Họ là những người không quen với việc quản lý, dẫn đầu, và thật sự cảm thấy không thoải mái khi phải gánh vác nhiều trách nhiệm. Những người tuổi Mùi thường thích được che chở, bảo bọc, nâng niu, chiều chuộng. Họ luôn sống với một thái độ bình thản, chậm rãi, biết hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. Họ luôn ao ước cảm nhận sự tuyệt vời từ nghệ thuật như âm nhạc, hội họa.

Hầu hết những người thuộc cung mệnh này đều có xu hướng thiên về gia đình. Họ tìm thấy sự hứng thú đam mê trong việc trang trí nhà cửa, làm bánh mức, cắm hoa, nấu ăn. Họ thiên về những gì truyền thống, thích vẻ đẹp kín đáo mà tinh tế. Họ thường chỉ thích sự dễ dàng nhẹ nhàng, vì thế họ rất ưa chuộng những thứ máy móc, tiện nghi giúp họ giảm bớt việc nhà và có thời gian theo đuổi những đam mê nghệ thuật.

Chủ kiến của những người này thường có những cách thể hiện mâu thuẫn nhau. Gặp những lúc khó khăn hay đau khổ, họ luôn giữ chặt tình cảm trong lòng, cũng không muốn để lộ suy nghĩ của mình ra ngoài để người khác hiểu, thậm chí kể cả những bực tức trong lòng. Lúc còn nhỏ, những người tuổi Mùi luôn được bố mẹ yêu chiều, nên người Trung Quốc tin rằng tuổi của họ sẽ mang lại hạnh phúc vì họ có tấm lòng lương thiện, thuần khiết. Đồng thời, họ còn là những người khẳng khái, hào phóng. Nếu bạn rơi vào hoàn cảnh mất nhà cửa, cháy túi thì hãy tin rằng người bạn tuổi Mùi của bạn sẽ quyết không để bạn rơi vào cảnh túng quẫn mà không quan tâm. Chỉ cần ai gặp khó khăn là họ sẵn sàng biếu tiền giúp đỡ. Cuộc đời của người tuổi Mùi phải có ba cái lớn: ăn uống, nhà ở và quần áo. Cho dù có đi đến đâu, họ vẫn rất muốn được giao tiếp với mọi người, những ai muốn hợp tác với họ đều nhận được sự đối đãi tử tế. Không những thế, người tuổi Mùi còn nói lên sau này anh ta nhất định sẽ có cuộc hôn nhân mỹ mãn, không những nhận được tình yêu của bạn đời mà còn được họ hàng thân thích yêu mến.

Người ta nói rằng người tuổi Mùi mà sinh vào mùa đông thì cuộc sống của họ sẽ gặp phải những gập ghềnh, trắc trở bởi vì mùa đông là mùa không có thức ăn và dê sống trong mùa này thường xuyên phải chịu đói. Tuy nhiên bất luận người tuổi Mùi rơi vào hoản cảnh thế nào cũng không buồn phiền, chán nản. Người tuổi Mùi thuộc con vật cầm tinh thứ Tám, đối với người Trung Quốc, “số Tám” là tượng trưng cho cuộc sống yên ổn, sung túc.

Vận mệnh của người tuổi Mùi rất tốt. Nếu chẳng may người tuổi Mùi là người nghèo khó thì họ sẽ luôn nhận được sự giúp đỡ có giá trị từ bố mẹ và người thân của họ. Cả những người có thế lực cũng muốn che chở họ, được mọi người coi trọng và kết nghĩa anh em. Tóm lại, một người tuổi Mùi với vận mệnh tốt thì sẽ không gặp khó khăn bởi vì mỗi lần gặp thất bại, họ đều nhận được sự quan tâm giúp đỡ của người khác. Thái độ nghiêm khắc của các đồng sự sẽ giúp anh ta nâng cao được hiệu suất lao động, cho dù thái độ đó tưởng như vô lí. Nói một cách đơn giản, bạn hãy nghĩ ra một cách để loại bỏ tâm lý ỳ trong họ.

Khi nói chuyện với người tuổi Mùi, bạn phải tỏ rõ là người biết lắng nghe, luôn tỏ ra tán đồng và công nhận quan điểm của họ, có như vậy cuộc nói chuyện mới thành công. Cũng đừng hi vọng họ sẽ thổ lộ tâm sự ngay với bạn, bạn phải tiếp xúc với họ từng chút một để hiểu họ hơn, đồng thời luôn luôn tỏ rõ bạn là người không biết cáu giận.

Người tuổi Mùi thường tự trói buộc mình trong một cái “vòng tròn nhỏ”, họ không thể tách ra khỏi gia đình mình, cũng không thể thiếu những đồ vật mà mình yêu thích. Họ cũng không quên ngày sinh nhật, ngày đáng nhớ của mình và mọi người. Mỗi lần đến một ngày đặc biệt nào đó, họ thường dùng hình thức phô trương đến chúc mừng.

Những người tuổi Mùi thích tận hưởng cảm giác thoải mái khi có những người bạn thân thiết và các mối quan hệ thân thiện trong công việc. Mặc dù không phải sinh ra để làm lãnh đạo nhưng họ có những ý kiến thông minh và tinh thần sẵn sàng sẻ chia, góp phần vào sự thành công cho tập thể - đây là điều khiến họ trở nên một thành viên tuyệt vời của nhóm. Người tuổi Mùi sẽ luôn luôn tìm kiếm sự đồng thuận, đặc biệt là từ những người mà họ tôn trọng. Suốt cuộc đời mình, họ sẽ cần được thúc bách liên tục và cần đến sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía gia đình và bạn bè.

Với những người tuổi Mùi có tính hay phiền muộn, ưu tư, nhìn mọi vấn đề cũng bằng con mắt buồn phiền, lo lắng, luôn cho mọi việc là đen đủi, họ luôn cảm động và suy nghĩ tốt với những người hết mình giúp họ, xóa bỏ những bóng đen đè nặng lên họ. Họ kì vọng rằng mọi người xung quanh hãy ủng hộ giúp đỡ họ, hi vọng ngày càng có nhiều bạn. Nhược điểm của con người này là luôn phân vân khi làm việc. Sai lầm điển hình của họ là không thể để những món tiền chi tiêu vào nơi thích đáng.

Những phụ nữ trẻ tuổi Mùi lại rất quan tâm đến thời trang cầu kì và mỹ phẩm. Họ tiêu phí khá nhiều thời gian trang điểm cho bản thân để làm nổi bật vẻ đẹp của mình. Họ làm việc lề mề, chậm chạp như thể họ là búp bê bằng sứ. Phụ nữ trung niên tuổi Mùi lại quá chú ý đến sự sạch sẽ. Họ rất quan tâm đến vệ sinh cá nhân, chú ý dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp. Họ cũng là những người nội trợ đảm đang, khéo léo. Các cô gái tuổi Mùi rất bạo dạn biểu lộ tình cảm của mình với người mà các cô có cảm tình. Họ có thể theo sát các chàng trai hàng ngày, coi anh ta là người tin cậy của mình. Nếu cô gái tuổi Mùi không thích bạn thì tôi khuyên bạn không nên trách móc, giận dỗi với cô ấy, cô ấy có thể sẽ không để ý đến bạn và cũng giống như con gái tuổi Sửu có thể cầm gậy đuổi bạn đi. Nếu cô ấy hợp ý với bạn thì có thể nắm tay bạn bởi vì cô ấy cho rằng động tác đó thể hiện sự “lôi cuốn”. Khi cô ấy nói “đúng” thì có nghĩa là “không đúng”, còn cô ấy nói “không” thì lại mang ý nghĩa là “có”.

Người sinh năm Mùi biết cách lấy trí thông minh bù đắp những chỗ yếu kém của mình. Họ giỏi sử dụng những phương cách uyển chuyển, khéo léo, chiến thuật mềm dẻo khiến người khác mềm lòng. Họ cũng rất giỏi trong việc đánh giá tâm lí đối phương, vì thế không được coi thường họ bằng không sẽ gặp thất bại thảm hại. Với thái độ chân thành, bình tĩnh, khi diễn giải một cái gì, bao giờ họ cũng mang giọng điệu cảm thương người khác. Họ còn rất giỏi trong việc phá vỡ những thành kiến. Cho dù họ phải ra pháp trường biện hộ cho mình thì vẫn luôn có thái độ chân thành đầy ấn tượng thay cho lời nói khiến mọi người phải tin phục.

Nếu có một người tuổi Mùi đứng chặn trên đường bạn đi, giơ tay lục túi xin tiền, trong khi bạn định hét “không”, thì chú ý ngay đến vẻ mặt thật thà, chất phác của anh ta, thậm chí mắt còn nguyên ngấn nước, đôi môi run run như muốn khóc, bạn sẽ có cảm giác như thấy một con cừu non đang bị một con yêu tinh vứt vào nơi giết mổ. Bạn liền tình nguyện đáp ứng yêu cầu oái oăm của anh ta mà không bao giờ có thể hiểu nổi con người khốn khổ đó làm thế nào lại chinh phục được mình. Đương nhiên một thí dụ không thể nói rõ mọi vấn đề. Phần lớn người tuổi Mùi luôn gặp yên ổn nhưng lại hay tỏ thái độ bất mãn với những lỗi lầm không thực tế. Nói tóm lại, mọi người rất yêu thích anh ta bởi anh ta có bản chất tốt, tấm lòng lương thiện, luôn chia sẻ ngọt bùi với người khác. Vì thế họ chung sống với mọi người rất tốt.

Nhìn chung, người sinh năm Mùi có xu hướng ít gặp các vấn đề về sức khỏe, có lẽ bởi vì họ là người hiền lành. Họ có thể có vẻ bề ngoài mong manh, nhưng đừng để điều đó đánh lừa bạn, họ là tuýp người tiêu biểu cho sự khỏe mạnh. Tuy nhiên, nỗi buồn sẽ làm những người tuổi Mùi thấy suy sụp. Khi họ vui vẻ thì họ khỏe mạnh, nhưng khi họ buồn thì họ sẽ lâm bệnh ngay.

Tính cách của người tuổi Mùi hợp với tính thẳng thắn của người tuổi Hợi, tính ôn hòa, nho nhã của tuổi Mão. Họ khó chịu với tính cố chấp, bảo thủ và quan niệm truyền thống của người tuổi Sửu, tính cặn kẽ, chi li của người tuổi Tý, tính cuồng nhiệt của người tuổi Dần và tính lạnh lùng của người tuổi Tỵ.

2. Tình yêu của người tuổi Mùi

Những người tuổi Mùi thường có rất nhiều bạn tuy nhiên bạn thân thì lại rất ít. Điều đó có thể do bản chất người tuổi Mùi vốn không bày tỏ hết cõi lòng của mình với người khác trừ khi đã biết họ rất rõ. Hoặc cũng có thể là họ ít tin vào người khác vì sợ bị làm tổn thương. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa những người tuổi Mùi và những người mà họ tin cậy lại rất bền lâu.

Người tuổi Mùi thường có tính cách hiền lành, dịu dàng, ưa cuộc sống khép kín và bình lặng. Sau khi kết hôn, gia đình của họ luôn ấm áp, hạnh phúc. Những người tuổi Mùi thường rất nghiêm túc trong các mối quan hệ tình cảm. Họ là những người thiên về đời sống gia đình nên họ rất thích thú khi được quan tâm chăm sóc cho tổ ấm của mình. Những người tuổi Mùi là người kín đáo, vì thế việc hiểu được họ xem như là một thách thức. Họ sẽ là người quyết định xem họ sẽ chia sẻ cuộc sống cá nhân với ai và khi nào.

Đàn ông sinh năm Mùi thường hay xấu hổ, cảm thấy nhút nhát khi đứng trước phụ nữ. Phần lớn người sinh năm Mùi không những có vẻ đẹp tao nhã mà còn có phong cách thướt tha, mê hoặc lòng người. Trong tình yêu, tuy ít chủ động bày tỏ tình cảm hay theo đuổi tình yêu đến cùng nhưng họ là người chân thành. Cách thể hiện tình cảm của họ luôn khiến cho đối phương cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Nam giới tuổi Mùi là người chung thủy trong tình yêu và hôn nhân.

Tuy nhiên, số đông người sinh năm Mùi lại không có trách nhiệm cao, ý chí kém vì thế dễ bị người khác mê hoặc trên đường tình duyên, bị người khác dụ dỗ, lôi kéo sẽ dẫn đến việc không nhận thức được và luôn chìm trong mộng tưởng ngọt ngào.

Nếu đúng như những điều nói trên, phần lớn những người sinh năm Mùi có tính cách giống con gái, thích ỷ lại người khác. Trong tình yêu luôn ở vị trí bị động, có thể tự cảm nhận hoặc không cảm nhận được tình yêu. Đàn ông tuổi Mùi là người chồng, người cha chu đáo. Họ biết cảm thông, chia sẻ và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Giống như nam giới tuổi Ngọ, mục tiêu phấn đấu của họ là luôn tạo dựng kinh tế gia đình vững chắc và không khí tràn đầy yêu thương.

Đối với những cô gái sinh năm Mùi, họ luôn mộng tưởng được kết hôn với những người đàn ông giàu có hoặc muốn tìm được mẫu đàn ông hào phóng, hoặc muốn dựa dẫm vào những người có thế lực, cũng có thể họ sẽ dựa dẫm vào bố mẹ để sống. Nói tóm lại, tính ỷ lại trong họ rất mạnh.

Nữ giới tuổi Mùi có khá nhiều người theo đuổi nhưng đáng tiếc đó lại không phải là mẫu người mà nàng thích. Vì thế, không ít nàng chỉ biết yêu đơn phương. Cũng do không chủ động bày tỏ tình cảm và theo đuổi chàng trai mình thích, nhiều cô gái tuổi Mùi đành chấp nhận kết hôn với người mà mình không thực sự yêu thương. Khi ấy, mối tình đầu dù không thành nhưng vẫn để lại trong lòng họ những vương vấn khó quên. Tuy tình cảm đôi lúc không ổn định nhưng phụ nữ tuổi Mùi cũng thường khá khuôn phép và lễ độ. Họ hiểu và tôn trọng luân thường đạo lý cũng như những chuẩn mực khác trong xã hội.

Với cuộc sống gia đình, người phụ nữ tuổi Mùi là người vợ mẫu mực. Họ biết cách sắp xếp, tổ chức mọi việc trong nhà. Vì vậy, họ được chồng chiều chuộng, yêu thương hết mực. Vì tính cách yếu đuối, họ không thể đảm nhận những công việc lớn trong gia đình, mọi việc lớn nhỏ đều do chồng quyết định. Tuy nhiên, nếu người vợ nhận được sự cảm thông, chia sẻ, động viên, khích lệ của chồng, họ sẽ cố gắng phát huy hết khả năng của mình để đạt được kết quả tốt nhất.

Thông thường người sinh năm Mùi luôn có một giai đoạn tình yêu cực kì lãng mạn. Mong ước về tình yêu của họ là phải đẹp một cách thơ mộng. Trên thực tế, quan niệm về tình yêu của họ khác xa với quan niệm truyền thống, họ coi trọng sự hưởng thụ. Tuy nhiên trong tình hình này, họ thường bị người khác lừa dối. Vì vậy, bạn cần phải suy nghĩ thận trọng trước những việc bạn còn đang phân vân.

Có thể bạn đã kết hôn, có thể bạn đang hạnh phúc, hòa hợp với gia đình, nhưng bạn phải biết rằng hòa hợp không có nghĩa là tất cả đều hoàn mỹ. Bạn cần phải khắc phục yếu điểm của bạn, phải đặc biệt chú ý quan hệ với bạn đời. Nếu xử lí không đúng thì người phải hối hận sau cùng chính là bạn. Cô gái sinh năm Mùi rất quan tâm chăm sóc bạn đời, vì thế luôn đáp ứng yêu cầu của bạn đời. Bạn có vẻ ngoài tha thướt, dịu hiền nhưng kì thực trong lòng luôn biết cách xoay sở theo ý mình, mọi việc đều suy nghĩ kĩ và làm cẩn thận.

Khuyết điểm nữa của người sinh năm Mùi là không dám đối diện với thực tế, điều này dẫn đến những theo đuổi của bạn ít thành công và bạn là người ít từ chối nên càng chuốc thêm phiền phức cho mình.

Trong cuộc sống gia đình, bạn biết cách suy nghĩ thận trọng trước khi làm, bạn còn là người vợ đảm đang, thực hiện đầy đủ chức năng của người phụ nữ. Tuy nhiên với tính cách yếu đuối bạn không thể đảm nhiệm những trọng trách quá lớn. Bên cạnh đó, bạn cần phải biết cách chăm sóc chồng. Nếu như vợ của người sinh năm Mùi nói với anh ta câu: “Anh làm không tốt lắm” thì nếu bạn là anh ta, bạn sẽ cảm thấy không vui, nhưng nếu có người chồng tuổi Mùi biết cách chăm sóc vợ sẽ có thể làm cho người vợ phát huy được hết sở trường hiền dịu của cô ấy.

Chàng trai sinh năm Mùi có thái độ chân thật với tình yêu, thường khiến bạn đời cảm thấy thoải mái. Bạn mãi mãi là một cậu bé không lớn được, vừa có cái thơ mộng, lãng mạn của tuổi thơ, vừa có phong độ quan tâm chăm sóc người khác của một chàng trai thanh niên. Với vẻ ngoài tuấn tú, tinh lực dồi dào, vì thế phong độ của bạn rất thanh thoát. Tuy nhiên bạn là người trung thành với tình yêu, thậm chí còn tình nguyện làm “thân trâu ngựa”, bạn rất biết cách lấy lòng phụ nữ. Trong cuộc sống gia đình, bạn là người chồng tốt quan tâm đến vợ, là một người cha tốt chăm sóc chu toàn con cái. Mặc dù bạn là người biết chăm sóc chu đáo, cẩn thận nhưng lại là người so đo tính toán. Bạn là người “biết nghe lời” vợ với mục tiêu được hưởng những ngày hạnh phúc với vợ con.

Tình yêu của người tuổi Mùi nhóm máu A

Tình yêu của người tuổi Mùi xuất phát từ tình bạn thân thiết lâu ngày. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén", tình cảm của họ được phát triển thông qua sự gần gũi, tiếp xúc lâu ngày mà thành. Vì người yêu, những người này có thể hy sinh tất cả công danh, sự nghiệp thậm chí ngay cả bản thân mình. Đôi khi, họ có thái độ ghen tuông vô cớ khiến "nửa kia " cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt. Nếu vượt qua những sóng gió này thì họ sẽ có tình yêu bền vững. Tuy nhiên, vì một lí do nào đó mà hai người không thể tiếp tục mối quan hệ thì người tuổi này vẫn đủ tỉnh táo để làm chủ cảm xúc của mình. Họ ít khi rơi vào trạng thái thất tình, bi lụy làm ảnh hưởng đến bản thân. Cuộc hôn nhân của người tuổi Mùi thuộc nhóm máu A là cuộc hôn nhân khá lý tưởng khiến nhiều người phải mơ ước. Nữ giới thường rất coi trọng luân thường đạo lý. Họ là mẫu người điển hình để trở thành người vợ tốt, người mẹ hiền trong gia đình. Nam giới là những người giỏi phấn đấu cho sự nghiệp. Với tính cách hiền lành, thuần phác nên họ sẽ mang lại cảm giác an toàn cho gia đình. Họ cũng thường xuyên chia sẻ công việc nhà với vợ vì thế mà cuộc sống luôn tràn ngập niềm vui, tiếng cười.

Tình yêu của người tuổi Mùi nhóm máu B

Với người tuổi Mùi thuộc nhóm máu B những giây phút ngọt ngào lãng mạn trong buổi hẹn hò luôn là điều mà họ mong đợi. Tuy nhiên, để có được tình yêu bền vững, họ cần sự kiên trì và không ngừng vun đắp tình cảm lứa đôi. Tình yêu không chỉ là những nụ hôn đắm say mà còn cần cả sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Những cô gái tuổi Mùi thích nhận được sự quan tâm và chiều chuộng của người mình yêu. Một chút nũng nịu, một chút giận hờn là nét đáng yêu của họ trong mắt các chàng. Không phải là những người đào hoa nhưng họ cũng có sức hấp dẫn đối với người khác giới. Họ có nhiều cơ hội để lựa chọn người yêu, chọn bạn đời. Tuy nhiên điều đáng tiếc là không ít người lại rơi vào vòng tam giác tình ái. Người mà họ thật lòng yêu thương lại không thể cùng sánh bước trên con đường đời. Với nhiều người trong số họ, tình yêu và hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình bạn. Sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau là điều mà họ cảm thấy an tâm khi bước vào cuộc sống lứa đôi. Tuy nhiên điều này có thể khiến đời sống vợ chồng thiếu nồng thắm và sức hấp dẫn mới lạ. Sự đơn điệu và tẻ nhạt đôi khi cũng là điều khó tránh khỏi. Khi gặp chuyện không vui giữa hai vợ chồng, hình ảnh "người xưa" có thể trở về trong tâm trí của họ. Tuy nhiên, với họ, gia đình vẫn là tất cả và dù trải qua nhiều khó khăn trong đời sống tình cảm, họ vẫn biết hướng tới người thân và gia đình của mình.

Tình yêu của người tuổi Mùi nhóm máu AB

Với người tuổi Mùi thuộc nhóm máu AB, tình yêu dường như là cuộc tìm kiếm hình mẫu lý tưởng. Ánh mắt nụ cười hay những cảm nhận ban đầu về một chàng trai/ cô gái cũng đủ khiến con tim rung động nếu họ thấy thấp thoáng ở đó bóng hình người trong mộng của mình. Lời tỏ tình của người tuổi Mùi thuộc nhóm máu này tuy không nồng nàn và lãng mạn nhưng đối phương có thể dễ dàng cảm nhận được sự chân thành và thẳng thắn. Họ bày tỏ tình cảm với một nửa của mình qua những món quà nghệ thuật đầy ý nghĩa. Những câu thơ tình, những bức tranh nhỏ xinh là tất cả tấm lòng mà họ dành tặng cho người mình thương mến. Khó khăn khi kiếm tìm hình tượng trong mộng khiến không ít người tuổi Mùi thuộc nhóm máu AB bước vào cuộc sống hôn nhân khá muộn. Họ khó mở lòng ngay cả với những đối tượng vốn được xem là lý tưởng trong mắt người xung quanh. Sự chờ đợi khiến nhiều người hướng đến cuộc sống độc thân mặc dù trong thâm tâm, họ luôn muốn có được gia đình hạnh phúc. Cả nam giới và nữ giới thuộc tuổi này nên xây dựng hạnh phúc lứa đôi với người vui tính, hoạt bát và thông mình. Cuộc sống của họ sẽ trở nên hạnh phúc và tràn đầy tiếng cười vui.

Tình yêu của người tuổi Mùi nhóm máu O

Tình yêu của người tuổi Mùi thuộc nhóm máu O thường nhẹ nhàng, bình lặng. Những người này luôn mơ ước về một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Họ mong muốn có được người cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi gặp đối tượng ưng ý họ lại không bạo dạn để bày tỏ tình cảm của mình. Họ chỉ lặng lẽ quan sát và theo đuổi đối phương. Nhưng cuối cùng, sự nhiệt tình của họ cũng được đền đáp xứng đáng. Họ sẽ mau chóng công khai tình yêu và sớm tổ chức lễ cưới trong sự chúc phúc của người thân và bè bạn. Sau khi kết hôn, nữ giới tuổi Mùi thuộc nhóm máu O trở thành những người phụ nữ chiều chồng thương con hết mực. Họ rất bao dung, sẵn sàng tha thứ mọi sai lầm của chồng trừ chuyện ngoại tình. Những người đàn ông kiên cường và chín chắn sẽ là người chồng lý tưởng với họ. Với nam giới, họ nên kết hôn với những phụ nữ hoạt bát, lạc quan và thẳng thắn. Sự kết hợp này sẽ mang lại cho cả hai người hạnh phúc trọn vẹn và lâu dài.

3. Sự nghiệp của người tuổi Mùi

Với bản chất nghệ sĩ, nhiều người mệnh Mùi đã trở thành những nghệ sĩ tài năng, ca sĩ, diễn viên, nhạc công. Thiết kế, họa sĩ là những ngành họ có thể tỏa sáng. Cho dù họ làm gì đi chăng nữa thì người hâm mộ của họ cũng rất đông.

Đối với những người tuổi Mùi thì quyền lực và địa vị không quan trọng. Họ thích là một phần của tập thể hơn, nhưng sẽ đảm nhận vai trò lãnh đạo nếu được yêu cầu trực tiếp. Tuy nhiên, họ lại chẳng bao giờ xung phong làm thế. Loại công việc có thể phát huy tính sáng tạo sẽ đem lại thành công cho những người tuổi Mùi.

Biết cách tạo môi trường làm việc hài hòa là ưu điểm của người tuổi Mùi và vì thế họ thường nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp. Không chỉ có tài tổng hợp, họ còn là người có óc phân tích, luôn biết cách nhìn nhận vấn đề, sự việc một cách tỷ mỉ. Đây là một ưu điểm mà không phải ai cũng có được.

Doanh nhân tuổi Mùi thiếu quyết đoán nên thường để cơ hội tuột khỏi tay. Tuy nhiên, với trí thông minh và sự khéo léo thiên bẩm của mình, họ vẫn có thể tạo nên nhiều thành công đáng khâm phục. Trong kinh doanh, họ không quá chặt chẽ. Dễ tin người cũng là nét tính cách dễ thấy ở những người tuổi Mùi. Trong cuộc sống hay làm ăn kinh doanh, không ít lần họ bị kẻ xấu lừa gạt. Lời khuyên cho họ là nên tránh đảm nhiệm những công việc cần có sự can thiệp của nhiều người, nhất là công việc đầu tư tiền tệ. Tuy nhiên, nếu được sự bảo trợ của một ai đó thì họ rất dễ thành công với hoạt động đầu tư bất động sản hoặc chứng khoán.

Xét một cách toàn diện, tuổi Mùi thường có cuộc sống bình lặng, ổn định. Tuy không phải ai cũng có thể trở nên giàu có nhưng ít người tuổi Mùi phải vất vả, lo lắng tới việc mưu sinh. Con đường sự nghiệp của họ phát triển khá ổn định và vững chắc.

Nếu bạn sinh năm Mùi thì tuổi thơ và hậu vận của bạn thường gặp may mắn, nhưng thời thanh niên và trung niên sẽ xuất hiện nhiều sóng gió. Tuy nhiên bạn cũng rất lãng mạn và có nhiều kỷ niệm lãng mạn vì tính cách và khí chất của bạn khá đặc biệt. Như vậy, tính cách và khí chất này có ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh bản thân bạn.

Nói chung, khi còn nhỏ bạn sống trong môi trường phẳng lặng, yên ổn. Vì thế bạn luôn nghĩ về thuở niên thiếu, hoài niệm về những giây phút hạnh phúc, bạn luôn hi vọng mình sẽ mãi không lớn lên. Bước vào thời thanh niên là thời kỳ quan trọng của đời bạn. Lúc này có nhiều vấn đề xuất hiện khiến bạn lo lắng, phiền lòng. Sau đó là thời kỳ trung niên, bạn cũng có những sóng gió như vậy. Đặc biệt là với tính cách quá lãng mạn, nó đã đem đến cho bạn nhiều phiền muộn về mặt tình cảm. Thế nhưng hậu vận của bạn lại rất hạnh phúc.

Tóm lại cuộc đời bạn sẽ không có phiền muộn lớn về kinh tế. Nhưng không phải bạn là triệu phú giàu có để có thể bình thản, ổn định bước vào cuộc sống. Về mặt kinh tế, bạn đầy đủ nhưng không sung túc.

Theo tính cách của bạn, nếu bạn chuyên tâm vào sự nghiệp thì từ bàn tay trắng gây dựng cơ đồ, từ con số không thành một doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, bạn còn có suy nghĩ tinh tế, tài năng khác thường. Nếu biết sử dụng hết mọi ưu thế thì sẽ thu hoạch được rất lớn. Tuy nhiên, nguồn gốc tài sản của bạn có thể không chắc chắn, nên nhớ lỗi lầm của con người không thể tránh được, và vì bạn quá tin bạn bè nên dễ bị lừa. Bởi vậy tránh không nên vì nghĩa mà đảm bảo cho người khác, ví dụ như người đầu tư tiền tệ. Việc đầu cơ tuyệt đối không làm, nhưng những vụ đầu tư bất động sản bảo đảm an toàn hay những người nhập trái phiếu thì có thể. Đây mới là phương pháp tích lũy tiền của thông minh nhất.

4. Vận mệnh người tuổi Mùi với tháng sinh

Sinh tháng Giêng (Tiết đầu xuân)

Thông minh, năng động, nhạy cảm. Tuy cơm ăn áo mặc không dư dật nhưng có công việc cao sang, nhiều niềm vui, khó tránh khỏi chuyện thị phi, thường gặp sự cố bất thường.

Sinh tháng hai

(Tiết Thanh minh): thông minh xuất chúng, nhạy bén hơn người, thẳng thắn cao thượng, mọi chuyện may mắn, uy danh lẫy lừng, tiền lợi đều đạt được, ăn ngon mặc đẹp, phú quí, khỏe mạnh, hạnh phúc, danh lợi song toàn, có thể thành công trong đại sự, lập được kì công, sung sướng không gì sánh được.

Sinh tháng tư (Lập hạ)

Thường gặp hạn, phúc hay đến sau,có thay đổi bất thường, có thể xóa bỏ khó khăn, đạt được mục đích thành công, có sự cản trở nhưng vẫn vượt qua. Tính cách mạnh mẽ, có chí tiến thủ, một đời no đủ, con cháu ngoan hiền.

Sinh tháng năm (Mang chủng)

Tài lợi đầy đủ, phong phú,quyền chức cao, có danh tiếng, tính cách cương chính, thông minh, chịu thay khó khăn cho người khác và được mọi người kính phục. Làm việc được như ý, lời nói có trọng lượng và trí tuệ, có khả năng chỉ huy, thu hoạch nhiều.

Sinh tháng sáu (Tiểu thử)

Nhiệt tình, chính trực, mọi người yêu mến, được phúc trời, gan dạ thông minh hơn người, mưu trí song toàn, đạt nhiều danh lợi, không gặp trở ngại hay chuyện buồn, gia đình hưng vượng, vinh hoa một đời, hậu vận hưởng phúc.

Sinh tháng bảy (Lập thu)

Thanh cao nổi bật, tài trí song toàn, ý chí kiên định, không khuất phục, vạn sự như ý, sự nghiệp lớn sẽ thành, kiệt xuất tài năng, được lộc trời, phát tài phát lộc.

Sinh tháng tám (Bạch lộ)

Địa vị thăng tiến, được trời bảo vệ, luôn làm chủ, không sợ tiểu nhân, tự lực làm mọi việc.

Sinh tháng chín (Hàn lộ)

Làm việc thành công, nhưng lập nghiệp gặp khó khăn, cuộc sống đầy đủ. Thường bị tiểu nhân hại, hay mắc bệnh, vất vả, gặp nhiều chuyện đáng lo, giữ ổn định tinh thần thì một đời bình an.

Sinh tháng mười (Lập đông)

Thời tiết chưa lạnh, nên xuất đầu lộ diện, có tài về nghệ thuật, khoa học, có tên trong bảng vàng, có nhiều bạn. Tuy cuộc sống không khá nhưng vận mệnh lớn,thăng quan tiến chức nên tăng bổng lộc, một đời may mắn.

Sinh tháng mười một (Đại tuyết)

Mặc dù có lộc trời nhưng không có đường tiến, tinh thần mệt mỏi, hay gặp khó khăn, mưu sự khó thành, mọi việc không tiến triển, đừng quá thất vọng, tuổi trung niên bắt đầu phất lên.

Sinh tháng mười hai (Tiểu hàn)

Bốn phía là băng, khó đi lại, thức ăn sắp cạn nhưng lại có bao nhiêu khó khăn trở ngại cản trở. Suốt đời phải phấn đầu thì cuối đời mới hưởng phúc được.

5.Vận mệnh của người tuổi Mùi

Sinh năm Tân Mùi - 1991: Dê được lộc (Thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành)

Họ là người tự tin đồng thời cũng có tính tự tôn rất cao. Nhờ khả năng giao tiếp tốt, họ tạo được nhiều mối quan hệ thân thiện trong công việc cũng như trong cuộc sống. Đây cũng là những người dũng cảm, mạnh mẽ. Họ luôn nhiệt tình giúp đỡ người thân, bạn bè và có lòng bao dung, độ lượng. Trong công việc, người tuổi Mùi mệnh Thổ dám nghĩ dám làm. Tuy nhiên, họ cần dựa trên thực lực của bản thân để có nền tảng vững chắc cho thành công, tránh những tham vọng quá sức. Một số người thường hành động theo cảm tính, thiếu sự cân nhắc thận trọng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả công việc của họ. Người tuổi Mùi mệnh Thổ nếu được quý nhân phù trợ thì tương lai rất hiển đạt. Tuy nhiên, chỉ khi bước sang tuổi trung niên, sự nghiệp của họ mới thực sự phát triển. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Thổ thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng.

Sinh năm Quí Mùi – 1943, 2003: Dê trong bầy (Thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành)

Cả nam giới và nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường có vẻ ngoài ưa nhìn. Đây là những người có nghị lực, luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ không phải là những người quá tham vọng. Họ biết tự lượng sức để tiếp tục duy trì địa vị xã hội và thực lực kinh tế hiện có của mình. Họ cũng luôn lạc quan, hài lòng với cuộc sống. Một số người tuổi Mùi mệnh Mộc lại có tính đa nghi và điều này đôi khi ảnh hưởng tiêu cực đến công việc. Sự do dự trong những tình huống cần phải quyết đoán khiến họ bị mất đi không ít cơ hội trong làm ăn kinh doanh. Đa số người tuổi Mùi mệnh Mộc, đặc biệt là phụ nữ thường khá nhạy cảm. Họ coi trọng phép tắc, lễ nghĩa trong cuộc sống. Khi còn trẻ, người tuổi Mùi mệnh Mộc thường khá chăm chỉ, sống tiết kiệm. Cuộc sống của họ khá bình lặng, ít nhờ vả anh em, bạn bè. Sau khi lập gia đình, họ sẽ có cuộc sống khá giả hơn. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng con.

Sinh năm Ất Mùi - 1955: Dê được trọng (Thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành)

Họ là người cẩn thận, nghiêm túc trong công việc cũng như trong quan hệ giao tiếp. Thích giúp đỡ mọi người, sống chân thành và nhiệt tình cũng là những ưu điểm của họ. Một số người tuổi Mùi mệnh Kim thường bảo thủ trong suy nghĩ và lối sống. Họ mang tư tưởng an phận, dễ bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Chính vì vậy họ cũng để mất đi những cơ hội vươn lên trong sự nghiệp. Tuy nhiên, với tính cách độc lập, họ ít khi bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực của hoàn cảnh sống. Là người biết kiềm chế nhưng rất có thể họ sẽ thể hiện thái độ phản kháng nếu gặp phải sự chỉ trích, phê phán mạnh mẽ của người khác. Lúc còn nhỏ, cuộc sống của người tuổi Mùi mệnh Kim thường gặp nhiều khó khăn. Khi trưởng thành, lập gia đình, cuộc sống của họ khá an lành, vợ chồng hòa hợp. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Kim rất biết chăm lo cho công việc gia đình.

Sinh năm Đinh Mùi - 1967: Dê lạc bầy (Thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành)

Họ là người có khả năng quan sát, tư duy nhanh nhạy, có tài ăn nói, thích tham gia các hoạt động tập thể. Đây là người có tinh thần cầu tiến, khá cẩn trọng trong công việc và cuộc sống. Nhiều người tuổi Mùi mệnh Thủy có tính cách khảng khái, thường đặt ra yêu cầu cao với cả bản thân và người xung quanh. Dù có khả năng trong nhiều lĩnh vực nhưng họ khá khiêm tốn, thậm chí sẵn sàng chịu sự chi phối của người khác. Tuy nhiên, điều này đôi khi lại hạn chế năng lực cá nhân và sự sáng tạo của họ trong công việc. Đây cũng là người sống sống độ lượng, thích giúp đỡ người khác mà không trông chờ sự trả ơn. Đáng chú ý là tuổi Mùi mệnh Thủy có khả năng kiếm tiền nhưng thường không biết cách giữ tiền. Một số người thường hay mắc vào chuyện thị phi. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Thủy thường là những người vợ hiền và được hưởng cuộc sống an lành. Nam giới tuổi Mùi mệnh Thủy có ý chí phấn đấu xây dựng sự nghiệp cho bản thân. Tuy khá coi trọng vật chất nhưng họ cũng là người nhiệt tình trong việc giúp đỡ người thân và bạn bè. Chính vì vậy, họ được nhiều người giúp đỡ khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn.

Sinh năm Kỷ Mùi - 1979: Dê thả hoang (Thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành)

Cũng giống những người tuổi Mùi mệnh khác, người tuổi Mùi mệnh Hỏa thông minh, giỏi giao tiếp và có sức hấp dẫn đối với người khác giới. Mang khí chất của Hỏa, họ khá nóng tính. Đôi khi, chỉ cần cảm thấy bị ức chế là sẽ nổi nóng, thậm chí sẵn sàng "đọ sức" với người khác mà không hề tính toán đến hậu quả. Dù biết tiếp thu ý kiến của người khác nhưng họ không thích bị chi phối, bó buộc trong cuộc sống cũng như trong công việc. Khi gặp chuyện không vui, họ cũng ít khi tìm sự cảm thông hay chia sẻ ở người khác mặc dù họ có khá nhiều bạn bè thân thiết. Người tuổi Mùi mệnh Hỏa có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán. Tuy nhiên, không giống người mệnh Hỏa cầm tinh con giáp khác, người tuổi Mùi mệnh Hỏa có đời sống nội tâm rất sâu sắc. Họ cũng là người trọng nghĩa khí và sống ân tình. Họ có trách nhiệm với gia đình, có ý chí phấn đấu cho sự nghiệp. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Hỏa thường có cuộc sống khá sung túc, an nhàn và đặc biệt họ giúp đỡ chồng con rất nhiều trong sự nghiệp và cuộc sống.

6. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Mùi và các tuổi khác

Tuổi Mùi và tuổi Tý

Tí và Mùi không phải là cặp đẹp đôi nhưng nếu nỗ lực và cố gắng hiểu nhau, mối quan hệ của họ cũng sẽ tốt đẹp. Vấn đề giữa hai “hành tinh” này là nhu cầu và sở thích khác nhau. Chuột có nhiều bạn bè và rất quan tâm đến các hoạt động xã hội, còn Dê lại có tâm hồn nghệ sĩ. Trong khi tuổi Chuột thấy thích thú với những điệu nhảy hoặc các bữa tiệc bạn bè, thì tuổi Dê lại yêu những gì thuộc về nội tâm, tự thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.

Tuy vậy, nếu là một cặp uyên ương, Tí và Mùi lại khá gắn bó với nhau. Tuổi Tí tuy có nhiều bạn bè nhưng luôn dành cho tình yêu những tình cảm đặc biệt, sự hào phóng, độ lượng đến đắm say. Đây là điểm mà Mùi khâm phục Tí. Trong khi đó, Dê là người của gia đình, chăm chút con cái nên luôn tạo cảm giác thật thoải mái cho tuổi Tí lúc trở về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi. Đôi khi, Tí thật chán với cuộc sống khá bằng lặng và êm đềm của tuổi Mùi; Mùi cũng hơi khó chịu với sự phóng túng vốn có của Tí.

Khi là đối tác làm ăn, hai con giáp này khá ăn ý. Chuột sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến, luôn giải quyết các vấn đề về khách hàng, tổ chức và các sự kiện. Chuột thích kiếm tiền, thích địa vị và “cái đầu” làm ăn rất giỏi. Tuổi Dê không có hoài bão kiếm tiền nhiều như tuổi Chuột nhưng khá sáng tạo, có thể đảm nhiệm vai trò của hậu phương. Nếu “hai cái đầu” cùng hợp lực, chắc hẳn sẽ tạo ra một đế chế khá bền vững.

Tuổi Mùi và tuổi Sửu

Mối quan hệ giữa Sửu và Mùi có rất nhiều điểm cần bàn vì đây là hai con giáp đối dường như đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa hai “hành tinh” này bắt nguồn từ bản chất hoàn toàn khác nhau. Trong khi tuổi Mùi mơ mộng và có phần hơi lập dị thì tuổi Sửu lại hết sức thực tế và nhạy cảm. Bởi vậy, họ luôn tìm thấy những điểm khó chịu ở nhau. Người tuổi Dê cho rằng chính sự bảo thủ và thực tế của tuổi Trâu khiến người cầm tinh con con Trâu hạn chế khả năng của chính họ. Còn tuổi Trâu thì thấy tuổi Dê sống quá thiên về cảm xúc, ướt át đến mức khó chịu.

Nếu là bạn bè hay người yêu thì hai con giáp này đều khó hòa hợp. Trong những buổi hẹn hò đầu tiên, tuổi Mùi đã gây sự chú ý bằng vẻ nũng nịu mà trong mắt tuổi Sửu thì điều đó thật khó coi. Ngược lại, tuổi Sửu thể hiện sự nghiêm túc, sâu sắc hơn so với tuổi. Chính bởi nét tương phản này mà người cầm tinh con Dê thấy tuổi Trâu chẳng có chút sáng tạo nào, lúc nào cũng đặt cho mình những quy tắc; còn tuổi Dê luôn bất bình thường trong mắt tuổi Trâu. Họ chỉ có thể đi chung một con đường nếu cả hai cùng chịu khó hiểu nhau và không coi sự đối lập là điều tiêu cực. Tuy vậy, có đôi lúc, Mùi cũng rất khâm phục sự trung thực và đáng tin tưởng của Sửu.

Khi là đối tác làm ăn, hai tuổi này cần cố hiểu nhau thì mọi chuyện sẽ mới êm ấm. Khi mỗi người coi những điểm mạnh của người kia là tài sản quý giá thì họ sẽ tạo thành một tập thể khá vững chắc. Nhưng nói bao giờ cũng dễ hơn làm, bởi vậy đòi hỏi cả hai tuổi này phải cùng cố gắng và kết hợp hài hòa.

Tuổi Mùi và tuổi Dần

Sự mạnh mẽ của bạn sẽ áp đảo khả năng làm chủ của người tuổi Mùi. Bản tính yếu đuối cần được che chở của người này sẽ nhanh chóng khiến bạn nhận ra mình đang lún sâu, không dễ gì từ bỏ mối quan hệ này. Dần bản chất dũng cảm, can đảm và có sức hút rất lớn có thể lấn át Mùi. Sớm hay muộn, Mùi sẽ đòi hỏi và yêu cầu Dần phải làm theo ý kiến của mình. Tuổi Dần vốn thích tự do bởi vậy nên không dễ dàng để mình bị trói buộc vào những khuôn phép mà tuổi Mùi đặt ra. Mùi vốn nhạy cảm, sáng tạo và đặc biệt mong muốn được an toàn trong tình yêu. Lúc đầu, Dần còn chiều chuộng nhưng bản tính của người cầm tinh con Hổ là đặt quyền độc lập, tự do lên trên hết. Vậy nên, nếu tuổi Mùi càng đòi hỏi và yêu cầu càng nhiều thì Dần càng tách khỏi mối quan hệ và có thể chẳng bao giờ trở lại.

Tuổi Dần dũng cảm, gan dạ và thích nắm quyền. Tuổi Mùi tuy thích hướng về ngôi nhà của mình và có phần nhút nhát hơn nhưng không vì thế mà không làm việc theo ý mình. Mùi cũng thích thể hiện mình trong công việc và đi theo con đường riêng mà không cần sự lãnh đạo của Dần.

Nếu hai “hành tinh” này là đồng nghiệp, Dần cần để không gian cho Mùi phát huy khả năng sáng tạo. Tuy trong con người Mùi có tính nghệ sỹ nhưng không vì thế mà không đảm nhiệm tốt được công việc kinh doanh. Trong công việc, Mùi không thích mạo hiểm, làm điều gì cũng phải chắc chắn. Dù gì thì Mùi vẫn may mắn vì được làm việc cùng Dần vì sự lạc quan, dũng cảm, hài hước của Dần là món quà tặng lớn đối với tuổi Mùi vốn bi quan và mẫn cảm.

Tuổi Mùi và tuổi Mão

Mối quan hệ giữa Mão và Mùi sẽ rất bền chặt. Hai tuổi này có những điểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác nhau. May mắn là điểm khác nhau lại bổ sung cho nhau để hai con giáp này dễ dàng hòa hợp. Mão và Mùi đều mơ mộng, có tâm hồn nghệ sĩ và thường đưa ra quyết định theo cảm tính. Cả hai hành tinh này đều cần một bờ vai để dựa.

Bởi vậy nếu Mão và Mùi là một cặp uyên ương, họ sẽ rất nồng thắm và cảm thấy bình yên vì được người kia luôn ủng hộ. Mão biết cách tận dụng lợi thế của tuổi khác bởi tính hay dựa dẫm và bị động. Nhưng điều này chẳng có vấn đề gì với Mùi cả bởi Mùi hoàn toàn làm được. Mâu thuẫn xảy ra khi hai hành tinh này không có tâm lý ổn định. Cả hai tuổi này sẽ cảm thấy bi quan khi gặp khó khăn và không tìm ra phương án giải quyết hợp lý. Trong thời điểm này thì Mão mạnh dạn hơn và có thể giúp đỡ Mùi. Nếu Mão và Mùi cùng sống trong một ngôi nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất thoải mái và được trang hoàng theo rất đẹp vì cả hai đều nhạy cảm và thích trang trí.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Mùi có thể kết hợp thật tốt nếu phát huy được tính sáng tạo trong công việc. Tuy nhiên, về tài chính thì sẽ cần sự can thiệp và giúp đỡ của nhân vật thứ ba. Bởi thực tế là cả hai hành tinh này đều không thạo lắm về tài chính. Điều họ quan tâm và tập trung nhiều thời gian hơn cả đó là nghệ thuật, tình cảm. Bên cạnh đó, Mùi còn phải đảm nhiệm một số việc thay Mão vì Mão không có khả năng làm được. Mão sẽ đóng vai trò làm người dẫn đường vì khả năng giao tiếp và điều khiển cảm xúc tốt hơn.

Tuổi Mùi và tuổi Thìn

Vấn đề là ở chỗ, Mùi sống khá độc lập và không thích nghe lệnh của người khác. Trong khi đó, Thìn tính cách mạnh mẽ, thích ra lệnh và chỉ huy. Bởi vậy nên khi người tuổi Mùi không thể chịu đựng được nữa thì mâu thuẫn giữa hai con giáp này sẽ xảy ra.

Nếu Thìn và Mùi yêu nhau, đặc biệt là khi sống chung trong một mái nhà thì họ có thể dễ hài hòa hơn. Mùi vốn nhạy cảm và có tâm hồn nghệ sĩ nên rất hay lo lắng cho cuộc sống và cảm thấy an tâm hơn khi có Thìn mạnh mẽ để làm chỗ dựa. Bên cạnh đó, với tuổi Thìn, Mùi thật tuyệt trong công việc nhà cửa bởi tuổi Mùi biết cách giữ cho ngôi nhà chung của họ luôn thoải mái và gọn gàng. Mùi thích mình có vai trò quan trọng trong mắt người yêu. Điều này Thìn hoàn toàn có thể làm được và Mùi chẳng bao giờ phải lo đến vị trí của mình trong tim Thìn bởi Thìn đã đặt cho Mùi một vị trí xứng đáng.

Nếu hai hành tinh này làm ăn chung với nhau thì họ có thể tạo thành một tập thể “liên tục đi lên” bởi họ có những tính cách bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Thìn thông minh và năng lượng dồi dào sẽ đóng vai trò làm người ở “tiền tuyến”. Còn Mùi cũng thích chỉ huy nhưng là những việc ở “hậu phương”. Vì vậy, giữa hai con giáp này không có chuyện tranh giành quyền lực.

Tuổi Mùi và tuổi Tỵ

Cả hai con giáp này đều cần giao tiếp với những người năng động hơn để cho cuộc sống thêm sôi động và có ý nghĩa. Tị có vẻ như năng động hơn Mùi, có sức hút, được nhiều người biết đến hơn Mùi. Tuy nhiên, về cơ bản, Tị sống khá khép mình và cũng thích nghỉ ngơi. Trong suy nghĩ, Mùi năng động và có nhiều suy nghĩ tiến bộ và sáng tạo nhưng Mùi lại cần không gian tĩnh lặng để giữ cân bằng về mặt tình cảm trong cuộc sống thường ngày.

Có thể nói, trong tất cả các mối quan hệ giữa hai “hành tinh” này thì họ kết hợp ăn ý nhất trong tình yêu. Tâm hồn họ gặp nhau ở chỗ, họ cùng rất nhạy cảm. Người cầm tinh con Rắn rất duyên dáng, gợi cảm và hấp dẫn. Con giáp này có thể tạo sức hút với rất nhiều đối tượng. Khi yêu, Rắn có tính sở hữu vì đôi khi họ cảm thấy bất an. Mùi ngại những cuộc khẩu chiến nên thường chiều Tị. Bên cạnh đó, họ hợp nhau ở chỗ: Mùi thích được người yêu đánh giá cao và tôn trọng. Bởi vậy, tính hay ghen và sở hữu của Tị lại làm Mùi thấy vui vì Mùi nghĩ rằng đó là cách thể hiện tình yêu nồng nàn của Tị. Nếu hai con giáp này sống chung trong một ngôi nhà, họ sẽ trang trí tổ ấm của mình rất đẹp, đặc biệt là nơi để đọc sách.

Khi là đối tác làm ăn, Tị và Mùi sẽ tạo thành một đế chế khá vững mạnh và có nhiều ý tưởng sáng tạo, với điều kiện: Khi họ có chung mục tiêu. Tị rất nhiệt tình trong công việc mà mình tin tưởng và Mùi rất tuyệt vời trong việc xây dựng các ý tưởng. Tị sẽ người ở ngoài “chiến tuyến” để mở rộng khách hàng và góp mặt trong các cuộc họp.

Tuổi Mùi và tuổi Ngọ

Có thể khẳng định, hai con giáp này đến với nhau như một lẽ tất yếu. Giữa họ cũng có nhiều điểm khác biệt, nhưng thú vị là những điểm đó lại bổ sung cho nhau. Ngựa khá khó hiểu và bí ẩn, họ không thích cảm giác ràng buộc và cuộc sống gia đình, họ chỉ hướng tới những gì vui vẻ và tươi trẻ. May mắn thay, tuổi Mùi lại rất nghệ sĩ và phóng khoáng, họ cũng khá thú vị để khám phá. Người tuổi Ngựa tự thấy mình rất hợp với Dê, còn Dê thì quý Ngọ ở sự thông minh hài hước đầy cá tính.

Trong tình yêu, họ đổ vào nhau như một cơn bão, nhưng có chúa mới biết được rồi mối tình ấy sẽ đi về đâu. Ngựa thì chỉ biết yêu mà không lo nghĩ tương lai, còn Dê thì lại mơ mộng và dễ tụt hứng nếu bạn tình không ngưỡng mộ, ve vuốt họ. Cuộc tình có thể đi đến hồi kết nếu Ngựa bắt đầu tỏ ra chán nản, và sự nhạy cảm ở Dê thừa đủ để họ cảm thấy bị tổn thương. Nhưng dù thế nào, họ vẫn rất hợp nhau về “chuyện ấy”.

Nếu là đối tác làm ăn, Dê sẽ là người đứng đầu, vì con giáp này thích công việc quản lý hơn là ngựa. Dê suy nghĩ khá cấp tiến, và là người hoạch định tốt. Nếu cả hai mở công ty, thì Ngựa có thể rất được lòng nhân viên, nhưng người thực sự có quyền lực lại là Dê.

Tuổi Mùi và tuổi Mùi

Hai tuổi Mùi rất hợp nhau vì họ đều có tâm hồn nhạy cảm, suy nghĩ tiến bộ và dễ hiểu lòng người. Đôi khi hai người tuổi này có thể nảy sinh sự bất đồng về quan điểm, đặc biệt là khi căng thẳng. Nhưng họ cũng sớm hòa hợp trở lại bởi có những điểm chung như mơ mộng, lãng mạn, nhiều ham muốn.

Khi yêu, họ cuốn hút nhau bởi những điểm chung trong tâm hồn và những nét đẹp về ngoại hình. Người tuổi Mùi rất đề cao tình cảm, không quan trọng vật chất. Họ sống rất lãng mạn và luôn biết cách làm cho người mình yêu vui bằng những món quà, hoa, những bức tranh xinh xắn do họ tự vẽ hay trổ tài nấu ăn vào những dịp cuối tuần… Người tuổi Mùi luôn thích được đánh giá cao, nên khi yêu, họ sẽ luôn chú ý làm đối phương có cảm giác là mình rất quan trọng. Khi có sự bất ổn, rạn nứt, người tuổi Mùi với bản tính đa cảm rất dễ nhận ra và tìm cách hàn gắn. Tuy nhiên, hai người tuổi này hiếm khi xảy ra mâu thuẫn vì họ biết cách tạo cho người kia cảm giác an toàn.

Trong làm ăn kinh doanh, hai người tuổi Mùi nên tìm người thứ ba để giúp đỡ trong việc quản lý tài chính. Bản tính lãng mạn, mơ mộng nên họ ít quan tâm đến việc đổi mới, cách tân để xây dựng công ty hoặc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. Cả hai đều lãng mạn nên nơi làm việc của họ được trang trí rất nghệ thuật và hợp phong thủy.

Tuổi Mùi và tuổi Thân

Mặc dù mối quan hệ của Thân và Mùi rất vui vẻ nhưng Thân cần điều chỉnh lối sống sôi động và cách chơi “bạt mạng” của mình sao cho Mùi không phải lo lắng. Mùi rất nhạy cảm và dễ xúc động. Do đó, khi có cảm giác không được yêu thương, họ thường lo lắng và mất thăng bằng. Thân có tính cách sôi động, dễ gần, luôn tò mò và ưa mạo hiểm. Thân và Mùi dễ nảy sinh cảm xúc khi cùng tham gia những nhóm hoạt động xã hội, nhưng để làm cho Mùi cảm thấy thoải mái lâu dài, Thân sẽ phải cố gắng rất nhiều.

Khi yêu nhau, mối quan hệ của họ thường bắt đầu ở những bữa tiệc tối hoặc một câu lạc bộ nào đó. Đây là những nơi đông vui, rất thích hợp để Mùi tự do, thoải mái trò chuyện và thể hiện cá tính. Thân sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn, bí ẩn và tâm hồn nhạy cảm của Mùi. Khi đã là người yêu, Mùi thường dành tặng Thân những món quà có ý nghĩa cả về vật chất và tinh thần. Bù lại, Mùi rất thích được quan tâm, chiều chuộng. Tuy nhiên, điều này không dễ thực hiện vì Thân thường chỉ thích sự vui vẻ và ít để tâm đến việc chăm sóc người khác.

Trong mối quan hệ làm ăn kinh doanh, hai người có thể sẽ phải chịu đựng những căng thẳng. Thân thường chỉ ham vui, chứ không thực sự là con người của công việc. Mùi là người có tham vọng phát triển các ý tưởng độc đáo, nhưng lại không giỏi trong vấn đề quản lý tài chính. Mùi thích trang trí nơi làm việc của mình theo phong cách riêng. Mặc dù thích quyền lực, nhưng cả Mùi và Thân đều không quyết đoán, dễ bị dao động trước những lời xu nịnh. Do đó, họ cũng dễ bị kẻ xấu lợi dụng.

Tuổi Mùi và tuổi Dậu

Mùi và Dậu phải hết sức cố gắng phân định xem ai chịu trách nhiệm về phần nào nếu muốn mối quan hệ của họ được suôn sẻ. Mùi không thích những cuộc cãi vã còn Dậu thì xem những sự tranh luận là vớ vẩn, nên những cuộc cãi lộn giữa họ là ít thấy. Mâu thuẫn chính là do những nguyên tắc “bất di bất dịch” của Dậu trái ngược với những việc làm của Mùi.

Khi yêu nhau, hai người thường lâm vào trạng thái đau khổ, rầu rĩ nhiều hơn là vui vẻ. Nếu họ sống chung trong một mái nhà thì nhà cửa lúc nào trông cũng rất yên tĩnh, sạch sẽ, tinh tươm, được trang trí rất có phong cách (mặc dù Dậu thích kiểu trang trọng còn Mùi thì không). Cả hai đều rất chú ý đến những chi tiết, không gian trong gia đình. Vậy nên họ sẽ có thể gặp những bất đồng quan điểm trong việc cố gắng để làm mọi thứ theo ý mình. Tuy nhiên, tính hay để ý của Dậu đến những thứ lặt vặt trong gia đình khiến họ hay cằn nhằn với người bạn đời hoặc con mình. Dậu cấu toàn nhưng việc cằn nhằn chỉ làm cho Mùi ngày càng xa Dậu hơn. Mùi là một người lãng mạn và hào phóng, muốn người khác ngưỡng mộ. Dậu hay cằn nhằn, nhưng rất chung thủy trong tình yêu.

Mùi và Dậu có thể hợp nhau hơn khi là bạn làm ăn. Dậu là người có con mắt tinh tế và có đầu óc, rất phù hợp với việc quản lý tài chính và những công việc tương tự khác. Còn Mùi có thể đưa những ý tưởng, sáng kiến hay trong kinh doanh. Mùi khá may mắn còn Dậu khá “có duyên” với tiền, nên hai tuổi hợp lại làm ăn sẽ rất phát đạt.

Tuổi Mùi và tuổi Tuất

Mùi và Tuất có đôi chút không hợp nhau, tuy nhiên Tuất rất khéo léo trong cách cư xử nên không có vấn đề gì giữa hai người là không thể vượt qua. Vấn đề chính là Mùi và Tuất có sự khác biệt về sở thích, và khả năng. Mùi thích đứng một mình vì thấy rằng như thế sẽ tốt hơn là rơi vào những cảm xúc rối bời trong các mối quan hệ xã hội. Mùi thấy hạnh phúc và thoải mái với lối sống mơ mộng của mình. Ngược lại, Tuất người sống thực tế hơn. Tuất thích giao lưu bạn bè và không ngừng phát triển những mối quan hệ của mình. Tuất thích những người bạn có năng lực và thích phiêu lưu.

Khi yêu nhau, cả hai sẽ hơi mất thì giờ vào việc giới hạn thời gian của họ. Tuất có thể thiếu kiên nhẫn với những sự mơ mộng của Mùi. Tuất thích những hoạt động thể chất, thậm chí đơn giản chỉ là những công việc vườn tược quanh nhà. Tuất là một người sống có nguyên tắc, nên sẽ không để cho những tình huống thiếu kiên nhẫn và mất bình tĩnh với Mùi biến họ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ. Trong tình yêu, Mùi thường làm cho người yêu mình hạnh phúc bởi những sự chăm sóc ân cần, như nấu những bữa ăn ngon, hay tạo ra những niềm vui nho nhỏ khác. Tuất sẽ cảm thấy mình được quan tâm đặc biệt khi họ sống cùng nhau. Mùi khá đa cảm và dễ bị kích động, nên đôi khi Mùi dễ rơi vào trạng thái đau khổ tột cùng vì lo lắng.

Khi là bạn làm ăn kinh doanh, Mùi và Tuất có thể hỗ trợ nhau tốt hơn. Với khả năng ngoại giao tốt, Tuất có thể là người đại diện cho công ty trong công việc giao thiệp với khách hàng. Tuất rất trọng chữ “Tín” khi làm một việc gì đó. Mùi có thể tin tưởng vào sự chân thật của người bạn đồng hành với mình.

Tuổi Mùi và tuổi Hợi

Mùi và Hợi có nhiều điểm chung nên tình yêu của họ rất êm dịu, ngọt ngào. Họ luôn tạo cho nhau cảm giác thoải mái. Hợi là người ham chơi, nên thích những cuộc vui chè chén, đắm chìm trong tình yêu, và nghỉ ngơi thư giãn. Mùi không phải là người quá coi trọng vật chất - họ sống trong sự giàu có về tâm hồn. Nhưng đặc biệt, trong tình yêu Mùi cũng có nhiều ham muốn về thể xác. Trong mối quan hệ giữa hai người, Hợi luôn ngưỡng mộ trí tuệ và sự thông minh của Mùi. Mùi sẽ yêu sự hào phóng, chung thủy và đáng tin cậy của Hợi.

Hợi và Mùi sẽ tạo thành một cuộc hôn nhân hạnh phúc, vì cả hai đều giàu tình cảm. Thực tế, Mùi cần nhiều tình cảm và luôn muốn được Hợi tôn trọng. Điều này sẽ giúp duy trì sự thăng bằng trong tình cảm cho Mùi. Hợi là chỗ dựa vững chãi của Mùi. Mặc dù Mùi có thể đứng một mình và xoay sở tốt mọi việc, nhưng có Hợi, Mùi sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều. Hợi cực kỳ hào phóng và nhiệt tình giúp đỡ người mình yêu vì họ cho rằng mối quan hệ tốt đẹp với người yêu là quan trọng hơn tất cả.

Trong làm ăn kinh doanh, Mùi và Hợi có thể hợp tác và xây dựng được một công ty có tiếng tăm và uy tín. Họ sẽ thành công nếu họ biết chọn lĩnh vực phù hợp với khả năng và đầu óc tinh tế của Mùi. Nhìn chung Mùi khá may mắn nên luôn có được nhưng thành công bất ngờ trong kinh doanh. Tuy nhiên, Mùi không được thực tế cho lắm vì thế nên vấn đề tài chính thường do Hợi làm chủ. Hợi là người chăm chỉ trong công việc và dễ dàng làm theo sự chỉ dẫn của người khác. Bởi vậy, Mùi sẽ là người đứng đằng sau và nắm quyền lực của công ty.

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Mùi với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Mùi

Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới

Đáng lẽ mừng đám cưới như tục lệ trói buộc thành ra lo đám cưới. Tục cũ đã truyền nhiễm lâu không dễ một mai đổi ngay được. Vậy phải làm thế nào ?
Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để giúp các gia đình cưới dâu, một số gia vùng nông thôn có tục góp lễ cưới: đầu năm gia đình báo cho họ hàng xóm giềng biết dự định cưới dâu vào tháng nào, thông thường vào sau vụ thu hoạch. Lần lượt các gia đình đóng góp các khoản gạo nếp, gạo tẻ, đậu xanh, rượu hoặc tiền theo định lượng.
Còn lợn gà thì gia đình nào tự liệu cho gia đình ấy. Tục góp cưới cũng giống như hội tương tế tương trợ, hội cày cấy, hội lợp nhà... luân phiên  các gia đình. Đây là một tục hay, cùng nhau lo dần đến lượt mình đỡ phải lo những khoản lớn. Tiền, quà cưới của khách, bạn đưa tới thực chất cũng là hình thức góp lễ cưới, nhưng không chủ động được kế hoạch, thứ có không cần, thứ cần không có, thành ra tốn kém. Lệ chơi họ ngày nay, chung vốn để kinh doanh buôn bán cũng là xuất phát từ hình thức góp tiền nhau để làm nhà cưới vợ, tậu trâu bò ở nông thôn. Vì xuất phát từ họ hàng giúp nhau nên mới gọi là chơi họ.
Nếu Đoàn Thanh niên địa phương nào vững mạnh, cán bộ đoàn công tâm liêm khiết tháo vát, tổ chức "Hội chơi họ cưới vợ" có kế hoạch quản lý kinh doanh sử dụng phân phối chặt chẽ, ắt được nhiều bạn thanh niên hưởng ứng, tham gia...Bước đầu cũng đã có một số địa phương tổ chức "Dịch vụ đám cưới" như mua sắm cho thuê quần áo cưới, bát đĩa, ấm chén bàn ghế, phông màn, tổ chức trang trí, chụp ảnh, ca nhạc...vừa kinh doanh gây quỹ, vừa phục vụ thuận tiện, có chế độ ưu đãi với người góp cổ phần,với Đoàn viên.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd