Phong thủy nữ tuổi Mậu Ngọ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Top 1: Người tuổi Ngọ
Chỉ số may mắn: ★★★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Cảnh giác khi đầu tư, kí kết hợp đồng
Xin chúc mừng những quý ông, quý bà, quý anh, quý chị cầm tinh con giáp này. Tháng 5 này là quãng thời gian đại phát, đại tài, đại cát đại lợi với họ. Tiền bạc thu về đã tốt, nguồn lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ còn đáng ngưỡng mộ hơn.
Tốc độ tăng trưởng tiền bạc trong tài khoản chính, tài khoản công ty và tiền vốn đối tác đổ về sẽ “rầm rập” và nhân theo tốc độ phi mã. Đặc biệt hơn nữa là, trong 30 ngày tới, họ sẽ được quý nhân phù trợ đắc lực nên không hề gặp bất cứ trở ngại nào trong công việc, ký kết hợp đồng nên nhờ đó nhanh chóng xử lý được các khoản nợ tồn đọng từ đầu năm đến giờ.
Vận may, thần tài và niềm vui sẽ luôn ở bên, bầu bạn, sẻ chia với họ trong suốt 1 tháng tới. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý rằng, cần hạn chế cho vay vì một khi tiền đã trao đi sẽ rất khó đòi lại.
Khi làm ăn, cần chi li, chặt chẽ, đối tác dù tin cậy đến mấy cũng cần có chứng từ khi kí quỹ, chuyển khoản để tránh các khoản thất thoát không đáng có. Cổ phiếu sẽ đem lại cho họ nguồn doanh thu rất có triển vọng nhưng cũng đừng vì thế mà “ham hố” lướt sóng ngắn ngày, nếu tiền vốn dài hơi và dư sức, hãy chịu khó chọn những mã chứng khoán thanh khoản tốt để đầu tư dài hạn.

Top 2: Người tuổi Thìn
Chỉ số may mắn: ★★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★
Nhắc nhở: Tránh nhẹ dạ, cả tin trong làm ăn
Các cá nhân tuổi rồng trong tháng 4 có vẻ hơi lận đận một chút về tài chính, trục trặc một chút trong sự nghiệp. Nhưng chuyển sang tháng mới, tài vận, may mắn của họ sẽ thăng hoa tuyệt vời.
Thứ nhất, doanh thu và tiền lãi của họ sẽ rất ổn định, không chập chờn hay xuống dốc như thời điểm tháng trước. Các khoản thu phụ tuy không đem lại quá nhiều tiền bạc nhưng cũng đủ để họ luân chuyển tiền vốn đổ vào kinh doanh.
Tiếp đến là, các cơ hội đầu tư liên tục và dồn dập “đổ” xuống đầu họ, nhiều đến nỗi mà, chỉ cần ngồi không với các ý tưởng kinh doanh táo bạo, họ cũng “kiếm chác” được một món hời! Bù lại cho tháng 4 vất vả, nhọc nhằn bao nhiêu là một tháng 5 ấn tượng, “hoành tráng bấy nhiêu”.
Tuy nhiên, 30 ngày tới, họ cần đặc biệt chú ý khi giao dịch, kí kết hợp đồng, tránh việc bị lừa gạt. Khi làm việc không nên nhẹ dạ cả tin, cũng tuyệt đối không trao tiền, không chuyển khoản khi đối tác chưa đưa ra các bằng chứng, thông tin rõ ràng.
Top 3: Người tuổi Tuất
Chỉ số may mắn: ★★★★
Tài chính: ★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★
Nhắc nhở: Tiết kiệm trong chi tiêu, chú ý cân đối tài chính tránh hao hụt quá nhiều.
Tháng 5 là quãng thời gian hoàng kim với người tuổi Tuất, tài vận của họ vô cùng vượng. Vượng đến mức, chỉ cần động vào bất cứ dự án, món hàng hoặc triển khai ý tưởng kinh doanh nào, họ đều thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
Điểm trừ của họ là do thích tiêu pha và không giỏi cân đối tài chính nên thu vào thì nhiều mà chi ra cũng ác liệt không kém. Nếu không gắt gao, sát sao trong việc cân đối thu chi thì 10 ngày cuối tháng, nhiều kế hoạch của họ sẽ đổ bể.
Bù lại, tháng này, các cơ hội vàng sẽ xuất hiện khá nhiều với tần suất cao. Người tuổi Tuất cần chủ động nắm bắt lấy chứ đừng mang nặng tâm lý “ôm cây đợi thỏ”. Hành động đúng, cẩn thận và tinh tế, họ sẽ kiếm được những món hời không nhỏ. Vì thế, lời khuyên dành cho người tuổi Tuất tháng này là nên tiết kiệm và “năng nhặt chặt bị”.
Ngoài ra, tuyệt đối không được “mon men” đến gần thị trường chứng khoán, không đầu tư ngắn hạn và cũng tránh bỏ tiền túi để liều mình đầu tư dài hạn theo cảm tính nhất thời. Không mạo hiểm đầu tư lớn và tránh cho vay, dù được gợi ý mức lãi suất cao đến mấy đi chăng nữa.
Top 4: Người tuổi Hợi
Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Lên kế hoạch rõ ràng và dài hơi cho mọi dự án và các khoản đầu tư.
Tháng 5 này, người tuổi Hợi nên chủ động hơn nữa trong kinh doanh, hãy chịu khó lăn xả vào các đối tác tiềm năng. Để nhanh chóng bắt kịp với xu thế và khắc phụ khó khăn cùng bất cập trong quản lý, họ cần lên kế hoạch dài hơi và ngắn hạn rõ ràng, súc tích, chi tiết.
Chỉ cần làm được điều đó, khoản thu cố định của họ sẽ nhỉnh hơn tháng trước từ gấp 3 đến gấp 5 lần, thậm chí là tăng vọt vào cuối tháng đấy. May mắn nhất là 30 ngày tới, họ sẽ đòi lại được các khoản nợ xấu tồn đọng từ năm trước, thậm chí nhiều đối tác tự nguyện “dâng tiền đến tận miệng”. Điều đó là nhờ vào việc họ được các quý nhân giấu mặt phù trợ và giúp đỡ âm thầm.
Top 5: Người tuổi Mùi
Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★
Nhắc nhở: Cần đổi mới tu duy liên tục.
Từ đầu năm đến giờ, người tuổi Mùi đã phải vất vả, lăn lộn không ít trên thường trường, trong sự nghiệp. Các mối quan hệ với đối tác sẽ được cải thiện bất ngờ, chính nhờ vào sự nỗ lực miệt mài của họ.
Nguồn vốn đổ về nhiều hơn, tăng dần từ đầu đến cuối tháng, đặc biệt “nở hoa” vào 10 ngày cuối, tài lộc vì thế trở nên dồi dào như thể là bất tận. Có thể do quá quen với việc phải nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ nên các cá nhân tuổi Mùi sẽ thấy khá ngạc nhiên nhưng cũng vô cùng thích thú.
Điểm họ cần lưu ý là, các mặt hàng kinh doanh có khả năng bị cạnh tranh đạo nhái cao nên cần đổi mới tư duy liên tục, cập nhật theo đúng xu thế thị trường. Các khoản thu tuy nhiều nhưng cũng có khá nhiều công việc đòi hỏi chi trả, thanh toán gấp nên chớ dại dột cho vay nhiều, vay lâu.
NHÂM THÂN: KIẾM PHONG KIM
Trong tử vi Nhâm Thân là con khỉ nơi sơn động, tính cách nhanh nhẹn khéo léo, biết tính toán trước sau, dũng cảm hơn người, thông minh lanh lợi.
Người mệnh Kiếm phong Kim, Bạch Đế (một trong ngũ đế của Trung Quốc) nắm quyền, trải qua trăm lần tôi luyện, hào quang đỏ chiếu rọi bò tót, dao sắc vùi trong tuyết sương.
Nhâm Thân là Kim Lâm quan, ưa gặp Thủy, Thổ. Nếu gặp Bính Thân Sơn hạ Hỏa, Bính Dần Lư trung Hỏa, Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa chủ tai họa.

Trong tử vi Nhâm Thân Kiếm phong Kim mang uy của thiên tướng, tư chất khí Lâm quan. Người sinh vào mùa thu đông, chủ nắm quyền sinh sát; người sinh vào mùa hạ thường gặp khó khăn mà ít được thuận lợi. Nếu hợp cách chủ thành công nhờ tự mình phấn đấu, là tượng hàn môn xuất danh tướng. Ngược lại nếu mang sát chủ là kẻ cướp, không thể thành tài.
Tạo hóa của Kim này không có Thủy thì không thể sinh, nhật trụ và thời trụ gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, hoặc Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy là thượng cách. Nhật trụ và thời trụ gặp Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy là Bảo kiếm hóa long cách.
Được Mộc chủ cát lợi, gặp Quý Sửu Tang đô Mộc là Kiếm khí xung đấu cách.
Nếu gặp Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Dương liễu Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, chủ vất vả khổ cực.
Gặp Thổ chỉ nên gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ, Mậu Dần, Kỷ Mão Thành đầu Thổ vẫn chưa có tác dụng mài giũa tôi luyện. Các Thổ còn lại e rằng vùi lấp Kim này.
Kim thích đồng loại, nếu Nhâm Thân gặp Nhâm Thân, lại có Thủy gọi là Bàn căn thác tiết cách.
Nạp âm thiếu Thủy, chủ mang bệnh tật, hoặc tướng mạo không đẹp.
Nhâm Thân gặp Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa cũng gọi là quý cách.
Trong tử vi Kiếm phong Kim chính là Kim sắc bén, chỉ nên gặp Thủy nhuận, không nên gặp Hỏa hình. Chi khác kỵ gặp Dần, Tỵ là tam hình, đại hung.
Nhâm quý tại Mão, chi khác gặp Mão, chủ về cát lợi.
Nhâm lộc tại Hợi, chi khác gặp Hợi chủ phú quý, nhưng Nhâm Thân Không vong tại Hợi, trái lại là bần tiện.
Gặp năm Thân, Dần, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
Chi khác có Thân, vợ chồng duyên mỏng. Chi khác có Dần, con cái duyên mỏng. Thời chi có Thìn, nên nương nhờ cửa Phật. Nhật chi có Thìn, khắc bạn đời.
Trụ khác có Kỷ Mão, quý nhân trùng trùng, cát lợi.
Bạn đời chớ nên chọn người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.
Trâu là loài vật được thuần dưỡng từ rất sớm, gắn bó với đời sống của người Á Đông khá chặt chẽ. Với đặc điểm chịu khó, hy sinh, cần mẫn, tạo phúc thiên hạ nên trâu được coi là linh thú phong thủy tốt lành, trưng trong nhà vừa may mắn vừa lành tính.
![]() |
![]() |
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của bạn |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
No1: Tuổi Hợi
Không chỉ khéo tay, con giáp này còn rất hoạt bát, biết tận dụng mọi cơ hội để mang lại lợi ích cho bản thân. Vào thời điểm cuối năm với nhiều dịp lễ lớn như Giáng sinh, Tết, cơ may kiếm tiền sẽ liên tiếp xuất hiện và người tuổi Hợi sẽ không bỏ lỡ.
![]() |
Có thể họ sẽ thu về rất nhiều lợi nhuận từ công việc kinh doanh đồ hand-made phát lộc của mình dịp cuối năm. Tài ăn nói khéo léo sẽ giúp họ bán sản phẩm dễ dàng hơn. Mặt khác, sự tính toán tỉ mỉ tới từng “cái kim, sợi chỉ” sẽ hỗ trợ đắc lực họ trong việc buôn bán không thua lỗ.
No2: Tuổi Mão
Là con giáp không thường xuyên gặp may mắn trong cuộc sống, nhưng người tuổi Mão rất nỗ lực để vượt lên hoàn cảnh khó khăn, mang lại cuộc sống sung túc. Điều này có thể suy ra họ sẽ nắm bắt bất kỳ công việc gì nhàn hạ nhất, nhưng kiếm được thật nhiều tiền trong dịp cuối năm, chào đón năm 2015.
![]() |
Sự kiên trì sẽ giúp họ bám trụ được với công việc làm thêm đòi hỏi mất nhiều thời gian, thậm chí làm đêm như giao hàng hay bán quần áo, hoa quả. Người tuổi Mão nghĩ rằng, nếu họ cố gắng 200% sức lực trong dịp này, thì đầu năm mới sẽ có hầu bao rủng rỉnh hơn, hứa hẹn trong năm tới sẽ không phải lo lắng nhiều về tài chính.
No3: Tuổi Thân
Nếu tuổi Mão dựa vào lòng kiên trì, sự nỗ lực, tuổi Hợi kiếm tiền bằng sự khéo léo, thì người tuổi Thân lại có nhiều cơ hội sở hữu thu nhập “khủng” nhờ vào sự sáng tạo, làm những gì mà chưa ai từng làm trước đó.
![]() |
Họ sẽ nghĩ ra được hình thức kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó đặc trưng cho dịp cuối năm để kiếm tiền. Số vốn bỏ ra sẽ rất ít, trong khi con giáp này lại thu về siêu lợi nhuận. Nói cách khác, đây là thời điểm tốt nhất để người tuổi Thân “bán chất xám” của mình.
Mr.Bull (theo SN)
![]() |
| Nam giới nên nói không với những cô nàng có tướng này |
![]() |
| (Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Tuy nhiên trong tình yêu, đây là những người khá cầu toàn. Với họ, người bạn đời phải là hình mẫu lý tưởng và được nhiều người ngưỡng mộ. Một cô gái xinh xắn và hiền thục, một chàng trai hào hoa và thông minh... với tình yêu chân thành và tấm lòng thủy chung son sắt là mẫu người mà họ kiếm tìm.
Đối với một số người tuổi Dậu thuộc nhóm máu O, duyên số là điều mà họ tin tưởng và mong đợi nhưng không vì thế mà họ bỏ qua sự lựa chọn kỹ càng của bản thân.
Mái ấm gia đình của người tuổi Dậu sẽ tràn ngập tiếng cười nếu họ biết lựa chọn được những người hòa hợp với mình. Sự hiền dịu, thủy chung của người vợ và sự thông minh, nhanh nhẹn của người chồng sẽ là bến đỗ bình yên cho những người tuổi Dậu thuộc nhóm máu O.
Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân
![]() |
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa). Phân loại theo tính chất là Đoản Thọ Tinh.
Nếu sao Hỏa Tinh tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.
Vị Trí Ở Các Cung
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Tý | Sửu | Dần | Mão |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Kunie
![]() |
Soi mức độ toan tính của 12 con giáp Trong cuộc sống, bạn có hay toan tính? Tìm hiểu câu trả lời theo con giáp của mình nhé! |
Không chỉ trong ngày lễ mà cả các ngày trong năm, đông đảo nam thanh nữ tú tới chùa Hà cầu duyên vì niềm tin vào ngôi chùa và họ cùng chung duyên nợ với chữ “tình”.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Mời các bạn xem: Lịch vạn sự và Lịch âm dương chuẩn xác nhất |
Tại sao lại nói Hoa Mẫu Đơn là vật phẩm phong thủy của phú quý và tình duyên? Củ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu về hoa mẫu đơn trong bài viết sau đây để có câu trả lời nhé!
Nội dung
Mẫu đơn là loài hoa vương giả sang trọng ở Hồng Kông biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng, sắc đẹp.
Ở Nhật Bản, Mẫu Đơn tượng trưng cho cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con cháu.
Còn trong ngôn ngữ loài hoa phương Tây, nhờ những đặc tính y học tuyệt vời, Mẫu đơn còn được xem như một loại dược thảo chữa bệnh và mang ý nghĩa “sự e lệ”.

Mẫu đơn có nguồn gốc từ Hồng Kông và Tây Tạng, là một trong những cây hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm.
Khi những nhà truyền giáo đạo Phật đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa Mẫu đơn này. Người Nhật luôn là một dân tộc yêu hoa, nên bông hoa đẹp mới đến nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của Tháng Sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Tên tiếng Việt : Hoa Mẫu Đơn
Tên Hồng Kông : Sho-Yo (hay Shao-Yao)
Tên tiếng Anh : Peony
Tên tiếng Pháp : Pivoine officinale
Tên Latin : Paeonia officinalis
Tên khoa học : Paeonia lactiflora
Họ : Paeoniaceae
Peony được đặt tên theo Paeon, một thầy thuốc học trò của Thần Y Asclepius trong thần thoại Hy Lạp.Ông được nữ thần Leto (mẹ của thần Mặt Trời Apollo) mách bảo cách lấy được chiếc rễ thần kỳ mọc trên đỉnh Olympus mà nó có thể xoa dịu được cơn đau của người phụ nữ khi sanh nở. Asclepius trở nên ghen tức với Paeon. Để cứu Paeon thoát chết vì sự phẫn nộ của Asclepius, thần Zeus đã biến ông thành một bông hoa Mẫu đơn.

Ngày nay, Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh. Từ xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Hồng Kông. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh “Chúa của muôn hoa”. Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau Công Nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Thành phố Lạc Dương (tiếng La Tinh là Luoyang, 1 trong 4 thành phố cổ kính nhất Hồng Kông), nổi tiếng về nhiều chủng loại Mẫu đơn phong phú, rực rỡ sắc màu nhờ thời tiết ôn hòa và đất đai thích hợp. Ngày 21/9/1982, người dân Luoyang chính thức chọn Mẫu đơn là biểu tượng hoa của thành phố mình. Tháng 4 là tháng của Hoa Mẫu Đơn, thật sự là mùa vui cho những người yêu hoa ở xứ sở này. Hoa Mẫu đơn nở đẹp lộng lẫy, hương thơm, sắc màu hoa hiện diện khắp nơi trong thành phố. Và lễ hội Mẫu đơn Louyang – Luoyang Peony Festival được tổ chức từ 15/4 – 25/4 hằng năm là một lễ hội văn hóa lớn, niềm tự hào của cư dân Luoyang. Suốt mùa lễ hội, tưng bừng những đèn lồng sặc sỡ, các hoạt động kinh tế cũng khá nhộn nhịp, không khí vui tươi và gây một ấn tượng sâu sắc cho tất cả các du khách trên khắp thế giới đến chơi. Ở Luoyang có những loài Mẫu đơn quý hiếm, màu sắc thay đổi lạ, hay cả những bông hoa lớn đến hàng trăm cánh, sống đã hàng trăm tuổi.

Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến những khả năng kỳ diệu lạ thường của cây hoa mà người ta đã lưu truyền trong dân gian. Dược tính của Mẫu đơn chủ yếu ở rễ và hạt. Rễ cây có tính kháng sinh, giúp giảm đau, trị bỏng, làm giảm huyết áp, giúp trẻ mọc răng, chữa bệnh vàng da, dị ứng, thận…Hạt hoa từng được xem như một loại gia vị thông dụng. Những tập tục mê tín còn tin rằng nếu đeo một vòng cổ kết bằng hạt Mẫu đơn, bạn sẽ tránh được các bệnh như hủi, động kinh, mất trí và nó còn xua tan những cơn ác mộng, như một lá bùa hộ mạng bảo vệ người ta chống lại ma quỷ hay những thế lực của bóng đêm !
Khoảng năm 77 sau Công Nguyên, trong cuốn sách Pliny”s Natural History đã mô tả chi tiết về cây hoa và 20 bệnh chữa bằng những bộ phận của nó. Không lâu sau đó, Dioscoride cũng đã viết một luận án về những cây thảo dược, trong đó có Peony. Vì là một cây thuốc quan trọng, dược liệu Mẫu đơn được sản xuất với lượng lớn hằng năm nhằm đáp ứng nhu cầu ở Hồng Kông và thể giới.
Hoa Mẫu đơn – Peony còn là biểu tượng hoa của tiểu bang Indiana – Hoa Kỳ từ ngày 13/3/1957
Những Tích Truyện Xa Xưa Về Hoa Mẫu Đơn
Chuyện Thứ Nhất
Ngày xưa… ở một làng miền núi có một bà mẹ. Bà mẹ sinh được mười người con trai. Làng của mẹ bị giặc chiếm đóng. Người cha của mười anh con trai bị giặc giết ngay từ ngày đầu tiên, khi chúng tiến vào làng. Mười người con trai của bà vào đội quân chống giặc ở trong núi. Người con trai cả là chủ tướng của đội quân. Đội quân nay đã làm cho bọn giặc thất điên bát đảo. Đã nhiều lần giặc mở những trận càn quét mà không sao tiêu diệt được đội quân của cái làng bé nhỏ ấy.
Tên tướng giặc sai quân bắt bà mẹ đến, hắn bảo:
– Này mụ già, mụ hãy khuyên các con mụ trở về. Ta sẽ cho con mụ làm tướng. Bằng không, ta sẽ giết mụ.
Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt tên tướng giặc, nói lớn:
– Hỡi quân độc ác! Hẳn nhà ngươi cũng có một bà mẹ. Mẹ ngươi chắc không bao giờ dạy người phản bội lại quê hương. Là một người chân chính, ta cũng không thể dạy các con ta phản bội lại quê nhà.

Bọn giặc trói mẹ trên một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của mẹ đến cứu. Chúng bảo bà mẹ hãy đứng dậy mà gọi con, chúng sẽ tha. Tiếng người mẹ:
– Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản bội quê hương.
Mệnh lệnh của người mẹ là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi rừng. Bọn giặc run sợ. Những người con của mẹ thì thêm sức mạnh chiến đấu. Giặc bịt miệng bà mẹ. Chúng đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng…
Khi bọn giặc đi rồi, dân làng lên đồi tìm chỗ bà mẹ bị hành hình, người ta thấy trái tim của người mẹ vẫn nguyên vẹn và nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Đêm đêm, từ ngôi mộ, trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Mùa xuân đến. Từ ngôi mộ, trái tim ấy mọc lên một cái cây. Cây ra hoa. Bông hoa đỏ chót hình ngọn lửa bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loại hoa mang tên Mẫu Đơn. Cây hoa tượng trưng cho người mẹ đã chiến đấu bằng một trái tim…
Chuyện Thứ Hai
Chuyện kể rằng, vào đời Đường Cao Tông, do say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng hà do con trai (Hoàng Thái Tử) còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một hôm, Võ Tắc Thiên (được biết nhiều qua phim ảnh dã sử của Trung Hoa) khi ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ, trơ trọi liễu đào, ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn:
Lai triều du thượng uyển – Hỏa tốc báo xuân trị
Bách hoa liên dạ phát – Mạc đãi hiểu phong xuỵ
Dịch nghĩa:
Bãi triều du thượng uyển – Gấp gấp báo xuân haỵ
Hoa nở hết đêm nay – Đừng chờ môn gió sớm.
Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn cây Hoa Mẫu Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam (!). Nhưng lạ thay, khi tới vùng đất nghèo nàn hơn hoa lại nở rộ và vẻ đẹp luôn rực rỡ làm đắm đuối lòng người, và từ đó ngay cả sử sách Trung Hoa cũng ghi nhận vùng Giang Nam luôn xuất hiện nhiều tuyệt sắc giai nhân, những mỹ nữ có sắc đẹp nghiêng thành đổ nước. Cũng từ đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, một biểu trưng cho quốc sắc thiên hương…
Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh cao.
Về sau người ta dùng từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời) để hình dung hoa mẫu đơn. Hoặc có cách phác họa khác là: “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ).
Hình tượng Hoa Mẫu Đơn và Tác Dụng Trong Phong Thủy ngày nay
Với vẻ đẹp của Hoa Mẫu Đơn, người đời ví đây là biểu tượng của phú quý, trong các dịp khai trương, người ta hay tặng nhau tượng hoặc tranh mẫu đơn để chúc nhau ngày càng phú quý, giàu sang…
Hoa Mẫu Đơn được mệnh danh là bà chúa của các loài hoa. Loài hoa này thể hiện vẻ đẹp sang trọng, quý phái, sức hấp dẫn nồng nàn, cảm xúc của sức trẻ toát ra mạnh mẽ. Tinh hoa nó toát ra đem lại vẻ đẹp, sức quyến rũ và may mắn trong tình yêu. Nên khi đặt tượng hoặc tranh hoa mẫu đơn tại cung tình duyên (Tây-nam) trong phòng ngủ là một việc rất đáng làm!
Do đó, trong các thế giới của Vật Phẩm Phong Thủy, Hoa Mẫu Đơn được gọi là vật phẩm cho phú quý, tình duyên.
- Ngón tay áp út ngắn: Không khoe khoang, tranh đua, không óc thẫm mỹ, cô độc.- Ngón tay áp út bè bè: Ưa kịch nghệ, khiêu vủ, thể thao, giàu nghị lực hoạt động.
- Ngón tay áp út có đường ngang trên lóng tay: Hay gặp khó khăn.
- Ngón tay áp út có đường hướng thượng trên lóng: Tình cảm tốt, thuận lợi.
- Ngón tay áp út dài: Có lý tưởng, có cá tính nghệ sĩ.
- Ngón tay áp út nhọn: Xa xỉ, ham cờ bạc.
- Ngón tay áp út vuông: Sành tâm lý, thực tế, kiên quyết.
- Ngón tay áp út dài hơn ngón trỏ: Thông minh, gặp nhiều may mắn vật chất.
- Ngón tay áp út quá dài: Nữa ưa bài bạc, ham tiền, ham nổi bật trên mọi phương diện.
- Lóng 1 dài (lóng có móng) : Ưa nghệ thuật.
- Lóng 1 thật dài: Khó hiểu, kỳ quặc.
- Lóng 1 ngắn: Tính đơn giản, ít đua đòi; ngược lại : Ưa cầu kỳ, thậm chí kiểu cách ngoài khả năng của mình.
- Lóng 1 dầy: Ưa nghệ thuật trong khoái lạc hình thể vật chất như điêu khắc, họa sĩ.
- Đầu lóng 1 tròn: Hoạt bát, dễ mến nhung có lúc thiển cận.
- Lóng 2 dài: Ước vọng mong đạt tới mục đích, có khiếu về sáng tác nghệ thuật, có thể nổi danh, nếu quá dài: tính kỳ quặc.
- Lóng 2 ngắn: Yếm thế, muốn vươn lên nhưng đầy lo ngại.
- Lóng 2 mập: Không có khiếu trong mỹ thuật.
- Lóng 2 có hình tròn: Sẽ bị loạn trí.
- Lóng 3 dài:. Ưa đòi hỏi cùng với sự khoe khoang.
- Lóng 3 ngắn: Hay thất bại.
- Lóng 3 mập: Sung túc.
- Lóng 3 ốm: Chập nhận sứ mạng, ít bận tâm tới tiền hay nghèo giàu.
Nguồn: Tổng hợp.
Quan điểm về người vợ lý tưởng trong xã hội hiện nay có thế đưa ra một vài mẫu hình để bạn đọc tham khảo:
1. Nhân hậu: Những phụ nữ nhân hậu luôn quan tâm và giúp đỡ mọi người. Nàng sẽ nuôi dạy các con bạn trở thành người tốt. Chắc chắn bạn sẽ ngưỡng mộ và cảm phục đức tính này của cô ấy.
2. Lạc quan: Cuộc sống không phải luôn trải toàn hoa hồng. Một người bạn đời lạc quan, suy nghĩ tích cực sẽ tiếp thêm sức mạnh để bạn vượt qua khó khăn. Không chỉ thế nàng còn gieo tinh thần lạc quan vào tâm hồn bé nhỏ của con bạn. Bạn và mọi người sẽ vui và hạnh phúc khi ở bên cô ấy.
3. Vui tính hóm hỉnh: Một người vui tính, hóm hỉnh trong giao tiếp và cuộc sống hằng ngày luôn được quý mến. Vì vậy, hóm hình trở thành tiêu chuẩn chọn bạn đời của không ít quý ông. Tính cách dí dỏm đồng nghĩa với sự thông minh và biết cách làm giảm căng thẳng trong mọi tình huống. Khi ở bên cạnh một cô gái như thế bạn sẽ thêm yêu cuộc sống.
4. Tôn trọng khoảng trời riêng của bạn: Ngoài cuộc sống hôn nhân ai cũng cần có một góc riêng của mình. Hãy chọn một cô gái biết tôn trọng điều ấy và cho bạn những khoảng thời gian riêng nhất định. Nếu làm được điều này, nửa kia của bạn thật sự là một người chín chắn, sâu sắc và biết tôn trọng người khác. Hơn thế điều đó chứng tỏ nàng rất tin tưởng bạn.
5. Thông cảm và biết chia sẻ: Rất khó để dạy trẻ nghệ thuật thông cảm và biết chia sẻ với người khác. Khi là người biết cảm thông và chia sẻ, cô ấy sẽ biết cách dạy con bạn thông qua những cử chỉ của bàn thân. Cuộc sống hôn nhân cần sự cảm thông của hai người. Nếu người phụ nữ bên cạnh bạn biết chia sẻ, đó sẽ là cuộc hôn nhân hạnh phúc.
5. Biết cách ứng xử: Hôn nhân không phải là chuyện của riêng hai người. Một người vợ tốt sẽ không làm bạn khó xử về chuyện tranh cãi với mẹ chồng hay giành cháu với bà. Một cô gái biết cách ứng xử sẽ biết cách dung hoà khéo léo giữa các mối quan hệ với nhau.
7. Thích đọc sách: Trẻ con sẽ có thói quen đọc sách, nếu hình ảnh bố mẹ ngồi đọc sách trở nên quen thuộc. Ngoài ra, một cô gái thích đọc sách sẽ hiểu biết rộng về mọi lĩnh vực. Bạn sẽ có thêm một quân sư đáng tin cậy.
8. Thích chăm sóc gia đình: Ngày nay, nhiều phụ nữ thích chứng tỏ bản thân bằng các hoạt động xã hội. Họ dành phần lớn thời gian để phát triển sự nghiệp và lơ là chuyện gia đình. Chọn một cô gái có thiên hướng gia đình, bạn sẽ được hưởng một cuộc sống gia đình ấm áp. Nàng không nhất thiết phải là người nội trợ mà chỉ cần biết cân bằng giữa gia đình và công việc.
9. Vị tha, khoan dung: Những người phụ nữ vị tha thường có một gia đình hạnh phúc và một cuộc sống hôn nhân viên mãn. Sự khoan dung và vị tha ở cô ấy là động lực giúp bạn vững bước trên con đường của mình. Tuy nhiên, nền tảng chính của gia đình vẫn là sự hoà hợp và ý thức của cả hai. Đừng bao giờ lợi dụng lòng bao dung của nàng để làm chuyện không phải nhé!
10. Tự tin: Tự tin là tính cách rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại. Một người mẹ tự tin sẽ dạy con mình tính cách làm nên thành công này. Sự tự tin chứng tỏ nàng biết rõ vị trí của mình trong mắt người khác và tự hào với những gì mình có. Ở vị trí người vợ, nàng sẽ làm bạn hãnh diện với mọi người về sự tự nhiên và tự tin của mình. Khi làm mẹ, nàng sẽ truyền tính cách đáng quý này cho các con của bạn.
(Tử vi đẩu số - Tứ hóa khảo luận vận thế đời người - Phan Tử Ngư)
| ► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của 12 cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Chùa Từ Hóa tọa lạc ở đường Tam Thai, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế do Hòa thượng Thích Thanh Liên trụ trì. Chùa Từ Hóa do Hòa thượng Trừng Diên khai sơn. Hòa thượng tên Võ Văn Phước (1884) tại Quảng Ngãi, pháp danh Trừng Diên, pháp tự Vạn Sanh, pháp hiệu Hưng Phước. Ngài xuất gia học đạo tại chùa Báo Quốc năm 1900, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 42.
Năm 1925, ngài lập thảo am tu hành tại làng An Cựu, thôn Tứ Tây. Năm 1939, ngài về quê bán ba mẫu đất của gia tộc dành riêng cho ngài để tu tạo lại thảo am và đặt hiệu chùa Từ Hóa.
Hòa thượng viên tịch vào năm 1974, tháp mộ tọa hướng đông nam trong khuôn viên chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông.
Thượng tọa Thích Thanh Liên, đệ tử của Hòa thượng, kế vị trụ trì đã tổ chức trùng tu, sửa chữa nhiều lần, tạo cảnh quan thanh tịnh chốn già lam.
![]() |
![]() |
| ► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
Thực ra, chữ ký thì gồm có hàng muôn triệu kiểu chữ ký khác nhau, có thể nói rằng mỗi một người là một kiểu chữ ký, mà không ai có thể ký giống nhau được. Tuy nhiên về dạng tự tức là hình thể và tầm vóc của chữ ký thì chúng tôi nhận xét chỉ có 10 loại hình chính thức được phân chia như sau:
1) Kiểu chữ ký đi tới (tiến về trước).
2) Kiểu chữ ký đi thụt lùi (thoái bộ).
3) Kiểu chữ dâng lên cao (leo dốc).
4) Kiểu chữ ký tụt xuống thấp (sâu trũng).
5) Kiểu chữ ký gút thắt (chữ thập).
6) Kiểu chữ ký gián đoạn (đứt khoảng).
7) Kiểu chữ ký lọng che (đội tàn, nón).
8) Kiểu chữ ký lửng lơ (thiếu gạch đít).
9) Kiểu chữ ký nền tảng (gạch đít).
10) Kiểu chữ ký loạn thị (bí hiểm lung tung).
Sau đây là kiểu mẫu ký các chữ ký được phân loại Khi đã phân loại được các mẫu tự của chữ ký rồi, tức là ta đã có ý thức chữ ký của mình thuộc
loại nào, bây giờ ta hãy đi vào phần giải đoán tổng quát của các loại chữ đó.
Nên nhớ đây là phần giải đoán tổng quát, nghĩa là giải đoán chung cho người mang nét chữ ký đại diện đó, riêng phần chi tiết thuộc về cá nhân thì sẽ có rất nhiều sự khác biệt mà chúng tôi sẽ trình bày sau:

![]()
![]()
1) Kiểu chữ ký đi tới biểu lộ một con người luôn luôn hướng về tương lai, họ ưathích tạo một đời sống tốt đẹp sắp tới, thích hăng say làm việc và rất ghét nhắc đến dĩ vãng dù tốt hay xấu, người có kiểu ký này không thích kỷ niệm mà luôn thực tế.
Họ vào đời bằng nhiều sự may mắn, họ thành công lớn nhờ sự kiên nhẫn và lòng tự tin, họ có thể vượt qua được nhiều trở ngại, nhưng phạm vào một lỗi lầm là có tính độc đoán.
CÓ THƠ RẰNG:
Chữ ký nghiêng nghiêng bước tới nhiều,
Có phần sự nghiệp có danh cao,
Đời sống chẳng ưa điều dĩ vãng
Mà thích hướng tới việc mai sau
.![]()

Trích Nghệ thuật xem chữ kí
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử vi không ít.
Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1. Sinh bất phùng thời :
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )
2. Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :
- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )
- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3. Đời là bể khổ : Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...
4. Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”
Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5. Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :
– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?
6. Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7. Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8. Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9. Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10. Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)
Thể nghiệm là gì ? Khi ta nói “Tôi đau khổ”, “Tôi sung sướng”... thì điều muốn diễn đạt là một cảm giác có thật, cũng là diễn đạt một loại thể nghiệm, trần thuật lại một loại thể nghiệm. Còn vô số điều khó mà diễn đạt được bằng lời, chẳng hạn như “Chiêm bao” là sự trầm tích từ đáy lòng về một thế giới đa dạng, nhiều sắc thái, đầy sáng tạo. Mỗi vùng, mỗi đất nước đều có nền văn hóa với những hạt nhân khác nhau. “Trời” có thể nói là hạt nhân của văn hóa Trung Hoa . Không biết “ Trời” thì cũng không thể hiểu, hoặc không cảm nhận được sự thể nghiệm này.
Nhưng đây là khái niệm “Trời” có lịch sử. Sự ra đời của Văn hóa nhà Chu giữa giao thời An – Chu, hạt nhân của nó là “Lấy Trời làm trên hết, lấy đức làm gốc”. Nó được hun đúc qua các thời Chiến Quốc, Tần Hán và đã có những biến đổi to lớn. Nếu nói Trời của người đời Chu được hiện ra thành hệ thống lớn thiên hạ thì Trời ở thời Chiên Quốc, Tần Hán lại hiện thành hệ thống lớn thiên, địa, nhân.
Toàn bộ sự hiển hiện của thể nghiệm này là sự tiêu giảm, tăng trưởng của âm dương, tượng vận hành của năm khí. Đạo gia gọi đoa là “ Đạo”, lý học gọi đó “Lý”, Đồng Trọng Thư gọi đó là “ Trời”. Đương nhiên đạo, lý, Trời đều là sự xạ ảnh, mô phỏng, tượng trưng ra bên ngoài của sự thể nghiệm vũ trụ đó. Còn âm dương, ngũ hành là hệ thống công cụ để biễu diễn sự thể nghiệm đó.
Âm dương và ngũ hành đều khởi nguồn từ sự thể nghiệm sinh mệnh được tuôn trào ra từ tâm linh của người Trung Quốc cổ. Khác với sự thể nghiệm chân thực, ở đây là sự thể nghiệm mô phỏng, tượng trưng ẩn dụ.
Như mộng, theo dạng đặc biệt này mà nói: mộng cảnh là tượng, mộng ý là thể nghiệm. Về căn bản mà nói: sự thể nghiệm bị con người ngày nay xem là “ thần bí” đó không thể dùng lời nói và logic để truyền lại mà chỉ có thể tự mình “ cảm nhận”. Nhưng trải qua sự thể nghiệm trời, đất, vạn vật hòa quyện với nhau làm một và khi sự thể nghiệm đó đã “phát hiện” được cách biểu đạt thích hợp thì tự nhiên nó được giải thích bằng lời, bằng văn một cách sinh động. Sáng tạo là “thiên tích” (trời cho), tức là từ “tượng” mà toát thành lời. Giống như nghệ thuật tạo hình là phương thức thể nghiệm không diễn đạt được thành lời còn nhiều, còn phong phú hơn cả những cái đã được diễn đạt bằng lời. Chữ Hán không có sự lặp lại một cách máy móc như các loại chữ khác mà ưu tạo hình của nó chính là kết tinh của phương thức biểu đạt sự kết hợp giữa sự thể nghiệm của con người đối với thế giới chung quanh cộng thêm ngôn ngữ. Âm dương, ngũ hành đã mượn cái công năng vượt khỏi ngôn ngữ trong Hán tự, nó là hệ thống ngôn ngữ để biểu diễn sự thể nghiệm về vũ trụ, song nó vẫn chưa diễn đạt hết những ý cảnh không nói được bằng lời đó.
Nếu nói âm dương, ngũ hành là cái giá, cái khuynh, vậy thì chỉ có xuyên qua nó mới có thể ngầm hiểu được thế giới ẩn tàng trong đó, mới có thể nắm được cái thế giới mà người xưa sống trong đó. Cho nên nói, ta muốn thông qua âm dương, ngũ hành để học các dạng kỹ thuật, thuật số thì trước hết phải hiểu rõ tính chất của : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà người đời xưa đã thể nghiệm. Tức là dùng một hệ thống khái niệm và một tự tính toán tối giản để cố gắng diễn đạt một tư tưởng hết sức hòan chỉnh và phong phú. Quan niệm về âm dương và ngũ hành được bắt nguồn không phải từ văn hoá đời Chu. Từ thời Tần Hán, học thuyết âm dương, ngũ hành đã bắt đầu trở thành hệ thống biểu diễn được quán triệt trong mọi lãnh vực. “Lã thị xuân thu” được hình thành ở miền đất phía Tần đã cụ thể hoá một bước thuyết âm dương, ngũ hành vốn đã được lưu truyền rất rộng rãi, rất thịnh hành thời đó. Trong “ Thập nhị kỷ” đã miêu tả trong một năm, các thiên tượng, khí tượng, vật tượng tương ứng với sự vận động của năm khí và lấy đó làm căn cứ để chế dịnh ra luật lệnh vũ trụ của mười hai tháng trong một năm.
“Lệnh tháng” là dùng ngũ hành và âm dương để miêu tả lại sự cảm thụ đối với sự thay đổi thời tiết của các mùa. Đến giữa đời Tây Hán hai học thuyết âm dương và ngũ hành đã kết hợp lại với nhau và dần dần được thừa nhận là một hệ thống biễu diễn chung. Trong hệ thống khái niệm mà học thuyết âm dương ngũ hành biểu diễn này, vũ trụ là một bức tranh trong đó trời đất, vạn vật hòa quyện với nhau, cảm ứng lẫn nhau, xâm nhập lẫn nhau “khiến cho con người vừa bị ràng buộc, vừa sợ hãi”. Con người sống trong thế giới đó “thuận theo thì tốt, nếu làm ngược lại, không chết thì cũng gặp tai hoạ”. Người hòan thành cuối cùng của hệ thống biểu diễn này là “Chuẩn nam tử” và Đổng Trọng Thư. Họ tuy phân biệt đại biểu cho hai truyền thống lớn là Đạo gia và Nho gia, nhưng cùng đưa ra một hệ thống quan niêm, cùng sử dụng một hệ biểu diễn ( âm dương, ngũ hành), cùng có một phẩm chất tinh thần như nhau. Trong hệ thống văn hóa Trung Quốc cổ, tuy hai người ở những tầng thư và lĩnh vực khác nhau, nhưng lại xác lập cho nhau, bổ trợ cho nhau, thống nhất làm một. Nền văn hóa Trung Quốc luôn lấy “hệ thống lớn” làm đạo.
Đạo này không phải là “hệ thống lớn thiên hạ” gồm hai chiều không gian mà các nhà Nho, Pháp đời Tần trước đây truy tìm mà là “ Hệ thống lớn: cổ, kim, thiên, địa, nhân”, lập thể và thời gian gồm bốn chiều lấy âm dương và ngũ hành làm biểu tượng. Nho, Đạo, Mặc, Danh, Pháp gia đều tìm thấy vị trí của mình trong hệ thống này. Âm dương, ngũ hành là từ thời Tần Hán về sau, người Trung Quốc sống trong thế giới lập pháp chế định ra, là nhân tố thống triệt trong mọi lĩnh vực văn hóa khác và hình thành nên văn hoá Trung Quốc ngày nay.
“Người” là con người có gốc ở trời. Về bản chất Trời là cái gì đó không thể nói được bằng lời, nhưng trời thông qua âm dương và ngũ hành để thể hiện. Con người thông qua hiểu rõ âm dương, phân biệt ngũ hành để có thể hiểu được chí trời, đạo trời. Thực tế là con người lấy âm dương, ngũ hành để miêu tả lại sự thể nghiệm đối với trời. Người là con người có gốc ở trời. Đổng Trọng Thư qua “Thái cực đồ thuyết” nói rõ: âm dương, ngũ hành đều ra đời từ Thái cực. Thái cực là chỉ “năm khí phân bố”, “hai khí giao cảm”, tức là muốn nói âm dương, ngũ hành đều là khí.
Con người là tú khí của âm dương ngũ hành nên cao quý nhất trong vạn vật. Con người là vật quý nhất trong vũ trụ, vì hình thể của con người là do thiên số hóa thành; khí huyết của con người là do thiên khí hóa thành; đức hạnh của con người”. Vì trời là tổ của vạn vật, con người được thụ mệnh của Trời trong hệ thống lớn, do đó con người phải hành động thuận với lẽ trời, không được làm ngược lại.
Con người vì sao lại có mệnh vận ? Cái quan trọng nhất của con người là mệnh vận. Điều mà con người thể nghiệm sâu sắc nhất là mệnh vận. Cái khó nhất, mơ hồ nhất của con người thể nghiệm về thế giới cũng là mệnh vận. Mệnh vận mà chúng ta nói không phải là một lực lượng siêu tự nhiên, siêu nhân nào khác nằm bên ngoài hoặc từ bên ngoài đến, mà thực chất là một loại thể nghiệm. Cái gọi là “thần của mệnh vận”, “lực của mệnh vận” chẳng qua là sản vật được thể hiện ra bên ngoài của sự thể nghiệm về mệnh vận. Mệnh vận tồn tại khắp mọi nơi, mọi lúc. Tất cả mọi cảm thụ, mọi hoạt động, mọi sự sáng tạo của con người đều lấp lánh ánh sáng của sự thể nghiệm về vận mệnh. Mệnh vận với tư cách là một dạng thể nghiệm, rất khó nói bằng lời, căn bản không thể tìm ra được một định nghĩa ngắn gọn thích hợp. Mênh vận tuy có thể biết được, nhưng là vô hình, muốn nói rõ về nó thì trước hế phải thể hiện nó bằng hình tượng. Sự thể nghiệm hệ thống lớn thiên, địa, nhân là lấy tượng âm dương, ngũ hành để diễn đạt.
Sự biến đổi của thiên tượng là ở sự biến đổi của âm dương ngũ hành. Sự biến đổi của âm dương, ngũ hành bắt nguồn ở sự biến mất của người hay sự việc. Cho nên nói: sự biến mất của người hay sự việc và sự biến đổi của thiên tượng là đều do cảm ứng của âm dương, ngũ hành mà ra. Mệnh của con người thể hiện sự “biến đổi” của vũ trụ, cũng tức là sự thể nghiệm một trạng thái nhất định nào đó trong quá trình biến dịch của vũ trụ. Con người tàng chứa toàn bộ “thông tinh” của những trạng thái này. Điều đó được gọi là “bẩm sinh”. Những “thông tin” của trạng thái vũ trụ được biểu tượng bởi âm dương, ngũ hành. Người ta dùng can, chỉ để biểu thị nó. Nhưng sự biến đổi khác nhau của vũ trụ, mệnh sẽ biểu hiện thành những vận khác nhau. Vì vậy mới có từ gọi là mệnh vận. Mệnh là một trạng thái vũ trụ nhất định nào đó cố kết lại, còn vận là những cảnh ngộ gặp phải trong trạng thái vũ trụ khong ngừng lưu biến.
Âm dương, ngũ hành là khí. Mệnh vận mà nó biểu hiện được hiển hiện thành những khí có cấu thành bởi các “thành phần” khác nhau. Đối với mỗi người mà nói, vì phân lượng khó bẩm sinh thụ đắc khác nhau nên có sự chênh lệch nhau. Người hấp thụ được khí trong, thuần khiết, đầy đặn thì bẩm sinh tốt, người hấp thu được khí đục, tạp, khô, mỏng thì bẩm sinh không tốt. Con người sống giữa trời đất. Một trạng thái khí nhất định nào đó của vũ trụ đều nằm trong sự biến đổi không ngừng của vũ trụ.
Khi ta đã hiểu rõ tượng của âm ương, ngũ hành thì sẽ ngầm hiểu được thế giới “vạn vật với ta làm một”. Trong thế giới này, một sự vật dù to hay nhỏ, đều tuân theo quy luật “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, giao cảm lẫn nhau, tác động lẫn nhau. Do đó thế giới này là “thế giới thông tinh” mà âm dương, ngũ hành là biểu tượng của các thông tin đó. Mệnh vận của từng cá thể vốn có trong vũ trụ. Đó chính là ý nghĩa cơ bản của trị mệnh. “Tri mệnh thì không lo”, đó thực sự là chân trời cao cả.
Lược trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa.
![]() |
![]() |
Trên nguyên tắc Hồng Loan chủ về hôn nhân và Thiên Hỉ chủ về sinh dục nhưng hai sao quan hệ mật thiết nên Thiên Hỉ cũng ảnh hưởng đến hôn nhân và Hồng Loan cũng ảnh hưởng đến sinh dục.
Hồng Loan hợp với Xương Khúc, Xương Khúc làm tăng ảnh hưởng về hỉ sự cho Hồng loan. Hồng Loan lấy niên chi làm căn cứ, cái chất của niên chi chủ về hình hài, Hồng loan Thiên Hỉ biểu tượng cho thân thể đã đi vào giai đoạn thành thục.
Hồng Loan khởi từ Mão tính đi. Tại sao khởi từ Mão? Vì Mão là lúc xuân tiết ấm áp nhất cho hoa cỏ nở bừng, lúc này mặt trăng cũng đã trong sáng lên khác hẳn tình cảnh lạnh lẽo âm u của đông tiết. Bởi vậy Mão mới là tháng của hoa nguyệt.
Trong khi Thiên Riêu lại tính theo tháng những chu kỳ của nguyệt kinh lại khởi từ Sửu là thời điểm âm dương giao hoán. Bởi vậy Hồng Loan là chân thiện mỹ. Mà Thiên Riêu là nhu cầu nhục thể. Hồng Loan khi vào yêu đương với tấm lòng chân thiện mỹ. Thiên Riêu khi vào yêu đương thường với tâm tình dâm đãng.
Do những lý lẽ trên khi Hồng Loan bị Không Kiếp cổ nhân mới gọi là cách lãng lý hành châu ví như con thuyền nhỏ đi trong sóng lớn, ví như người con gái với cái lòng yêu thiện chân của mình mà bị đối đáp bởi bọn sở khanh lưu manh, bị lừa gạt. Gặp Tham Lang cũng thế.
Hồng Loan yêu thương qua nhu yếu tình dục nhất thời. Con gái Hồng Loan khó quên tình sầu, con gái Thiên Riêu xem tình ái là trò rỡn.
Thiên Hỉ đi cặp với Hồng Loan, Thiên Hỉ chủ sinh dục nên người nữ Hồng Hỉ sau khi sanh con rồi nét quyến rũ nam phái vẫn còn đậm đà.
Hồng Đào Thiên Hỉ Đào Hoa là những hoa thảo sở dĩ không hợp khi vận về già. Về già thấy Hồng Đào Hỉ là thấy tang sự chết chóc, trong khi lúc trẻ là làm đám cưới, là những cuộc tình, hoa thảo về già hoa tàn cỏ nát nên vậy.
Hồng Loan Thiên Hỉ là tin vui, nếu gặp Hóa Lộc Lộc Tồn thì vì tình ái mà hao tốn tiền bạc, nặng ắt khuynh gia bại sản, cổ nhân gọi bằng “đào hoa phá tài”.
Hồng Loan ở nam mạng thì sao? Vẫn căn cứ vào những ý tượng trên để luận đoán. Tỉ dụ Hồng Loan Không Kiếp mà vào nam mạng thì truân chuyên với danh phận, tiền tài.
Cho nên mới có câu phú:
Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quí
(Mệnh có Hồng Loan, Không Kiếp thì đừng nói chuyện giàu sang)
Hồng Loan ngộ Kiếp Không đồng thủ
Xá bàn chi bần lũ yểu vong
Hồng Loan gặp các văn tinh Xương Khúc thì học hành giỏi, nhất là lại thêm Thiên Khôi, vì Khôi sáng giá trên thực tế hơn Xương Khúc.
Hồng Khôi Xương Khúc phù trì
Sân rồng dâng trước, trong thì thanh cao
Hồng Loan thủ mệnh nữ mà có một vài sát tinh đi kèm thường hai đời chồng, nhất là Hồng Loan đứng bên Cô Thần Quả Tú.
Hồng Loan vào số nữ là người đàn bà khéo, nhưng nếu gặp sao Tướng Quân, Phục Binh thì cuộc đời lại lắm phiền nhiễu về tình duyên.
Hồng Loan may vá cửi canh
Hiềm phùng Binh Tướng ắt sinh tai nàn
Hồng Loan đóng cung Phu Thê phải có một bận khắc chồng, căn cứ vào câu phú: “Hồng Loan cư phu thê tiền khắc”, nhưng lại có những sách khác bàn rằng Hồng Loan đóng Phu Thê chỉ ở những cung Thìn Tuất Sửu Mùi mới khắc thôi.
Phu cung đóng ở miền tứ mộ
Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng
Bằng vào kinh nghiệm thì chuyện khắc vợ khắc chồng của Hồng Loan nặng với Mệnh nữ hơn Mệnh nam. Hồng Loan hội Hóa Kị thì đàn bà bỏ chồng đi lấy chồng khác
Hồng Loan ngộ Kị Phu cung
Tơ hồng đã dứt má hồng còn vương
Hồng Loan đóng cung Tí tại Mệnh sớm đạt công danh (cho nam mạng) theo cổ nhân viết: “Hồng Loan cư Tí, thiếu niên định chiếm khôi nguyên”. Hồng Loan đứng với Địa Kiếp ở Phu cung, mệnh tốt thì trăm năm đầu bạc, mệnh xấu thì không quá bảy tám năm (Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư Phu Quân, mệnh hảo chi bách, bất hảo chi thập).
Hồng Loan Thiên Hỉ mà gặp Đào Hoa gọi chung bằng bộ tam minh, thường ăn nói có duyên dễ gần người khác phái và khi ra đời phấn đấu cũng hay gặp những may mắn. Hồng Loan Đào Hoa tuy không là đối tinh nhưng dễ gặp làm thành một cặp mà Thái Âm vẫn gọi Đào Hồng
Trong đoạn Đẩu Số Phát Vi Luận có câu phú: “Dâm bôn đại hạnh, Hồng Loan tu phùng Tham Tú”, nghĩa là Hồng Loan hội Tham Lang đàn bà rất dâm. Tham Lang gặp Đào Hoa thì dâm loạn. Phải chăng Hồng Loan gặp Tham Lang cũng dâm như thế ? Chỉ khác Tham Đào lộ liễu mà Tham Hồng kín đáo (dâm ngầm).
Nguồn: Tử Vi
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |