Màu sơn móng tay đem đến vận may
![]() |
![]() |
![]() |
| Màu đỏ | Màu cam | Màu vàng |
![]() |
![]() |
![]() |
| Màu xanh da trời | Màu xanh lá cây | Màu tím |
Chocopie (theo Sina)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
| Màu đỏ | Màu cam | Màu vàng |
![]() |
![]() |
![]() |
| Màu xanh da trời | Màu xanh lá cây | Màu tím |
Chocopie (theo Sina)
Vẽ hình quẻ Thăng và đặt ở hướng Đông hoặc Đông Nam khu vực thuộc hành Mộc, để phát huy sự may mắn của quẻ này. Nếu cửa chính thuộc khu vực hành Mộc, sẽ được may mắn nhất khi phối hợp quẻ Thăng trong thiết kế cửa. Bạn có thể vẽ quẻ Khôn và đặt ở trên ô cửa trong nhà.
Quẻ Thăng ngụ ý nói trong những giai đoạn đầu của phát triển, đà phát triển xuất phát từ lòng tin của bản thân. Tuy đó là những ngày đầu tiên nên quẻ Thăng khuyên ta phải khiêm tốn. Rồi sau đó sự trợ giúp sẽ đến từ bốn phương.
Quẻ Thăng cũng ngụ ý rằng bạn sẽ được quý nhân phù trợ. Đó là những người nhận ra tài năng và công sức của bạn. Vận may về quý nhân sẽ tiếp tục cho đến khi ổn định và bạn nên tiếp tục thể hiện sự kiên nhẫn, chịu khó của mình. Vì quẻ Thăng hàm ý nhiều loại vận may, những người theo phái Kinh Dịch thường xem quẻ Thăng như một biểu tượng may mắn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Giờ Tý (23 giờ - 1 giờ) Là giờ thần đầu tiên trong 24 giờ thần của mỗi ngày, bởi vì trong số mệnh ngũ hành, giờ Tý có ngụ ý là khoảng cách của hai ngày. Vậy nên, trên phương diện tình cảm, mệnh chủ sinh vào giờ thần này luôn có tính chủ động. Tý vi Thủy, Thủy trụ đào hoa, người ra đời vào giờ thần này thường không cự tuyệt những người đến với mình, là điển hình của hình tượng đa tình. Giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ) Giờ Sửu là thời điểm hừng đông, vạn vật vẫn còn đang say giấc. Giờ Sửu đại diện cho Thổ trong Ngũ hành, do thiếu ánh sáng trong khoảng thời gian này, nên người trụ giờ Sửu khá nội tâm trong chuyện tình cảm. Khi yêu thích người sinh ra trong giờ Sửu, bạn cần phải là người chủ động "giữ lửa", như vậy mối tình mới dài lâu.
Giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) Đây là khoảng thời gian bắt đầu xuất hiện ánh sáng. Giờ Dần trong địa chi đại diện cho Mộc, là khí trường thuộc Dương, có xu hướng chủ động. Vậy nên, người sinh vào thời điểm này khá lạc quan và vui vẻ về vấn đề tình cảm. Theo quan điểm tình yêu và giờ sinh, khi ở bên những người này luôn có niềm vui bất ngờ Giờ Mão (5 giờ - 7 giờ) Giờ thần Mão thuộc Thổ của Địa chi, hoa cỏ khi thấy ánh sáng sẽ phái triển sinh sôi này nở. Ngoài ra, Mão còn đại diện cho đào hoa, thuộc khí trường Chính đào hoa. Vì vậy, người sinh ra trong khoảng thời gian nầy khá thuận lợi về mặt tình duyên
Giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) Vào giờ Thìn, mặt trời đã lên cao, ánh sáng chiếu rọi xuống mặt đất, vạn vật đều vui vẻ tiếp nhận ánh sáng. Mệnh chủ trong khoảng thời gian này trong phương diện tình cảm luôn rạng ngời, có kiến giải riêng về tình yêu, thuộc trường phái chủ động. Giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ) Tỵ đại diện cho Hỏa trong Ngũ hành, thời điểm này nhiệt độ bắt đầu dâng cao. Vậy nên, những người trụ giờ sinh ngày rất yêu thích kiểu tình yêu "tiếng sét ái tình", "tốc chiến tốc thắng" trong tình cảm. 
Giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) Ngọ là một trong "tứ đào hoa". Đào hoa vào thời điểm giữa trưa làm con người yêu thích nhất, tuy nhiên cũng rất nguy hiểm. Vậy nên, mệnh chủ giờ Ngọ tốt nhất nên tự vấn bẩn thân liệu mối tình đang nhem nhóm đấy có tốt cho bản thân Giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) Giờ Mùi thuộc Thổ khô nóng, Thổ trường mang khói, có nghĩa là gây khó khăn cho sự phát triển của thực vật. Bát tự trụ giờ thần này không chịu được sự tức giân của đổi phương do tính khí của bản thân không tốt, vậy nên cuộc tình luôn gặp trục trặc, cãi vã. Giờ Thân (15 giờ - 17 giờ) Giờ Thân là buổi chiều trong ngày, là Ngũ hành thuộc Kim sắc nhọn, nên người có giờ sinh này có tính cách thẳn thắn. Vậy nên, khi có tình cảm với mệnh chủ giờ Thân, bạn cũng cần điềm đạm, hiền lành, nếu không dễ dẫn đến lục đục.
Giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) Vào giờ Dậu, mặt trăng và các vị tinh tú bắt đầu xuất hiện trên bầu trời, thế nên người sinh giờ Dậu luôn hy vọng tạo ra và nhận được sự lãng mạn trong tình yêu. Khi "người thương" sinh vào giờ thần Dậu, thì mối tình đó rất đẹp và đáng trân trọng. Giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ) Đây là thời điểm trời tối, đại diện Thổ khí trong Ngũ hành. Tuất Thổ tàng vật, những người có giờ sinh này có tính cách tốt, chấp nhận khuyết điểm của người khác. Vậy nên, tình cảm của họ có xu hướng là sự bao dung. Giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ) Giờ Hợi là Thủy của sông lớn, Thủy chủ lưu động. Mệnh chủ có tính cách tươi sáng, dứt khoát, hỷ nộ ái ố đều thể hiện rõ ràng. Khi tiếp xúc với họ, không cần phải lo sợ việc giấu diếm. Tương tự trên phương diện tình cảm, họ cũng rất thẳng thắn, đáng được trân trọng. Theo: Lịch Ngày Tốt
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Thành công trên quan trường là điều mà mỗi người làm chính trị đều mong muốn. Nhưng không dễ dàng để chạm tới thành công, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ngoài năng lực bản thân, sự hài hòa về thiên thời, địa lợi, việc hỗ trợ về mặt tinh thần của nửa kia cũng vô cùng quan trọng.
Thế nên mới có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận rao sao.
1. Ngũ quan đoan chính, không có nét phá tướng
Tướng do tâm sinh, ngũ quan (mắt, mũi, tai, miệng, lông mày) đoan chính, không bị khuyết hãm thì tâm hồn lương thiện, trong sáng. Một chính trị gia rất cần người phụ nữ như vậy để có thể cùng kề vai sát cách trên quan trường.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
18 cấm kị phong thủy về nữ giới không thể không tin
Thời gian: tổ chức vào ngày 16 tới ngày 17 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: đình làng Nam Đồng, Phường Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Hội đình Nam Đồng được tổ chức trong không khí trang nghiêm. Buổi sáng diễn ra các hoạt động tế lễ, lần lượt từ đội nam tế rồi tới đội nữ, lễ dọc Thần phả của đình, buổi chiều thường diễn ra những tiết mục văn nghệ và các trò chơi. Cuối cùng, các cụ ông trong trang phục tế lễ làm phần dã hội.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Đối với doanh nhân tuổi Giáp Thân (1944), nam giới nên hợp tác với người cùng tuổi Giáp Thân, tuổi Bính Tuất (1946), tuổi Đinh Sửu (1937). Nữ giới nên hợp tác với người cùng tuổi Giáp Thân, tuổi Mậu Tý (1948), tuổi Canh Dần (1950).
Đối với doanh nhân tuổi Bính Thân (1956), cả nam giới và nữ giới đều nên hợp tác với người tuổi Đinh Dậu (1957), tuổi Canh Tý (1960), tuổi Quý Mão (1963).
Đối với doanh nhân tuổi Mậu Thân (1968), nam giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Dậu (1969), tuổi Quý Sửu (1973), tuổi Ất Mão (1975). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Dậu (1969), tuổi Đinh Mão (1987).
Đối với doanh nhân tuổi Canh Thân (1980), nam giới nên hợp tác với người tuổi Nhâm Tuất (1982), tuổi Mậu Thìn (1988), tuổi Kỷ Dậu (1969). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Nhâm Tuất, tuổi Ất Sửu (1985), tuổi Mậu Thìn.
Đối với doanh nhân tuổi Nhâm Thân (1932, 1992), cả nam giới và nữ giới đều nên hợp tác với người tuổi Nhâm Thân, tuổi Giáp Tuất (1934, 1994), tuổi Mậu Dần (1938, 1998)
(Theo Việt Báo)
Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương sinh là: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim… Hoặc theo quy luật tương khắc là: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

Ngoài quy luật tương sinh, tương khắc chung, các Địa chi còn phân ra sáu cặp Địa chi xung nhau rất mạnh. Đó là:
– Dần xung Thân và ngược lại – Thìn xung Tuất và ngược lại.
– Tị xung Hợi và ngược lại – Tý xung Ngọ và ngược lại.
– Mão xung Dậu và ngược lại – Sửu xung Mùi và ngược lại.

Hãy đọc chậm dãi, và ghi nhớ những điều sau đây, trong sổ tay cá nhân hay trong tiềm thức của bạn. Bạn hãy nhớ rằng…
1. Sự hiện diện của bạn là món quà của cả thế giới.
2. Bạn là duy nhất và không ai giống bạn cả.
3. Cuộc sống của bạn hoàn toàn phụ thuộc theo mong muốn của bạn.
4. Hãy biết tận hưởng trọn vẹn một ngày.
5. Hãy đếm những điều mà bạn hạnh phúc, đừng đếm những điều phiền muộn.
6. Bạn sẽ vượt qua được tất cả mọi thứ, dù có khó khăn đến đâu.
7. Có hàng tá câu hỏi và câu trả lời trong chính bạn.
8. Hãy trở nên có hiểu biết, can đảm và mạnh mẽ.
9. Đừng tự tạo những giới hạn cho chính bản thân bạn.
10. Có nhiều giấc mơ đang chờ được thực hiện.
11. Những quyết định cũng không kém phần quan trọng như những cơ hội mà bạn có.
12. Hãy vươn đến đỉnh cao của chính bạn, vươn tới ước mơ và khát vọng.
13. Không gì làm lãng phí năng lượng của bạn hơn là ngồi một chỗ và lo lắng về hàng tá chuyện.
14. Một người kiên nhẫn có thể chấp nhận một việc thậm chí còn hơn cả bản chất của sự việc đó.
15. Đừng biến bất cứ điều gì trở nên trầm trọng.
16. Hãy sống một cuộc sống thanh bình, đừng sống một cuộc đời tiếc nuối.
17. Hãy nhớ rằng một tình yêu nhỏ có thể đi cả một quãng đường dài.
18. Cũng hãy nhớ rằng nhiều thứ sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quay trở lại.
19. Hãy nhớ rằng tình bạn là một sự đầu tư khôn ngoan.
20. Cuộc sống thật quý giá khi người ta ở bên nhau.
21. Hãy nhận ra rằng mọi thứ không bao giờ là trễ cả.
22. Hãy thực hiện những điều bình dị theo những cách phi thường nhất.
23. Hãy luôn nhớ về gia đình, luôn có những ước mơ, hy vọng và niềm hạnh phúc trong cuộc sống.
24. Thời gian luôn chuyển động và hãy ước rằng, một lúc nào đó, ta sẽ vươn tới những vì sao.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
![]() |
![]() |
| Hình vuông | Hình oval |
![]() |
![]() |
| Hình tam giác | Hình chữ nhật |
Mộc Trà (theo Avenue)
Trong tử vi, sao Thiên Đồng được hình tượng hóa từ nhân vật Tây bá hầu Cơ Xương (1090 TCN - 1050 TCN - sau được con trai ông là vua Chu Vũ Vương truy phong là Chu Văn Vương). Ông là người đã xây dựng nền móng cho triều đại nhà Chu sau này, tồn tại tới 867 năm - triều đại lâu đời nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Sau khi Đát Kỷ nhập cung làm phi, các đại thần trong triều thường xuyên khuyên can Trụ vương nên lấy việc nước làm trọng, nhưng sự thực mất lòng, Trụ Vương đều bỏ ngoài tai những lời trung nghĩa, thậm chí còn xuống tay sát hại trung lương. Khương Hoàng hậu là nạn nhân đau tiên, sau đó, đại thần Triệu Khải bị khép hình thiêu cột đồng, tức bị trói vào cột đồng rỗng, đốt lửa bên dưới cho đến khi chết bỏng.
Sao Thiên Đồng - Chu Văn Vương Cơ Xương
Nguyên lão tam triều kiêm Tể tướng Thương Dung cũng thẳng thắn can gián, khiến Trụ Vương nổi giận, định trị tội ông ta. Thương Dung bèn tự đập đầu vào cột rồng trong đại điện tự tận. Từ đo về sau, bá quan trong triều đình không còn dám mở lời can gián, sống trong nơm nớp đề phòng nghi kỵ lẫn nhau.
Gian than Phí Trọng lo rằng Đông Bá hầu Khương Hoàn Sở, cha của Khương Hoàng hậu, một trong tứ đại chư hầu thời bấy giờ, cùng các chư hầu lớn nhỏ khác tạo phản, bèn dâng lên Trụ Vương một quỷ kế như sau: "Bệ hạ hãy ngầm ra chỉ dụ triệu tứ đại chư hầu về kinh, gán tội cho họ mà giết đi, chém đầu thị chúng, các chư hầu nhỏ mất đi chủ tướng, sẽ không cồn dám làm phản nữa!" Trụ Vương liền phê chuẩn, và như vậy, Phí Trọng đã bắt đầu thực hiện hàng loạt âm mưu hãm hại trung thần.
Khi đó, trong lãnh thổ của Tây Bá hầu Cơ Xương, tức khu vực Tây Kỳ, dân giàu thế mạnh, phong tục thuần hậu, đời sống thanh bình, dân trong nước đều cung kính nhường nhịn nhau, nên khách qua đường hay quan khâm sứ qua đó đều cảm thấy rõ sự chênh lệch giữa nền chính trị tàn bạo dâm loạn của Trụ Vương với cảnh tượng thanh bình no ấm nơi đây.
Sau khi nhận được thánh chi, Tây Bá hầu Cơ Xương bèn triệu tập tả hữu đại thần là Tán Nghi Sinh và Nam Cung Quát đến bàn rằng: "Thiên tử triệu ta nhập triều, nên chuyện trong ngoài phải nhờ hai vị giúp sức". Sau đó gọi con trưởng là Bá Âp Khảo căn dặn: "Thiên tử triệu ta vào chầu, ta tự gieo một quẻ, thấy lành ít dữ nhiều, đi chuyến này ắt sẽ có tai hoạ bảy năm. Con thay ta quản lý chính sự, không được tự ý thay đổi chính lệnh, cần phải yêu thương trăm họ, anh em thuận hoà. Đợi khi kiếp nạn của ta chấm dứt, tự nhiên sẽ quay trở về. Nhớ là tuyệt đối không được tự ý rời bỏ chức phận đi đón ta!". Dặn dò xong, Tây Bá hầu bèn đi bái biệt mẹ già Thái nương và Nguyên phi Thái Tự (chị gái của Trụ Vương).
Sáng sớm hôm sau, ông dẫn theo mấy người tuỳ tùng, bắt đầu khởi hành đến Triều Ca. Phí Trọng được tin tứ đại chư hầu đã tập trung đầy đủ, bèn hiến kế với Trụ Vương rằng: "Bôn Bá hầu ngày mai có lẽ sẽ có tấu chương dâng lên, Đại vương cứ bỏ qua một bên, lập tức sai võ sĩ trong điện trói họ lai mang ra Ngọ Môn chém đầu thị chúng." Trụ Vương liền nghe theo.
Hôm sau, Đông Bá hầu Khương Hoàn Sở và Nam Bá hầu Ngạc Sùng Vũ đều bị khép cho những tội vu vơ rồi đem chém; Bắc Bá hầu do giám sat việc xây dựng lầu Trích Tinh có công, nên được tạm tha. Tây Bá hầu Cơ Xương do được chúng đại thần khẩn thiết cầu xin, nên Trụ Vương tạm giữ lại quan sát. Phí Trụng thấy tình thế không ổn, nghĩ rằng: "Không trừ được Cơ Xương, giữ lại ắt có hậu hoạ".
Sáng hôm sau, Cơ Xương được xá miễn, liền dẫn các tuỳ tùng đi ra cửa Tây đến đình Thập Lý, từ biệt các đại thần theo tiễn như Tỷ Can, Vi Tử, Hoàng Phi Hổ chuẩn bị lên đường về Tây Kỳ. Nào ngờ Phí Trọng cũng đến từ biệt, Cơ Xương không biết hắn có mưu gian, nên đã trúng kế của gian thần. Phí Trọng sau khi chúc rượu Cơ Xương bèn hỏi rằng: "Nghe nói Tây Bá hầu giỏi đoán thần số tiên thiên, vậy trước khi ngài lên đường, hãy bói một quẻ xem vận nước của triều Ân Trụ ra sao?" Cơ Xương không tiện từ chối, đành phải bói một quẻ. Quẻ hiện ra tượng vận nước suy thoái, bèn y theo tượng quẻ mà giải thích cho Phí Trọng.
Sau đó, chưa khởi hành được bao lâu, thì vua Trụ đã phái người ngựa đến chặn đường, bắt Cơ Xương giải về triều. Phí Trọng bèn tâu với Trụ Vương rằng: "Thần nghe Cơ Xương giỏi thuật đoán thần số tiên thiên, quẻ chưa hiện đã biết kết quả. Bệ hạ hãy bảo ông ta bói một quẻ xem có ứng nghiệm hay không. Nếu ứng nghiệm sẽ tha cho tội chết. Nếu không ứng nghiệm, bấy giờ chém đầu cũng chưa muộn".
Cơ Xương liền lấy tiền đồng gieo một quẻ, rồi giật mình mà tâu với Trụ Vương rằng: "Bệ hạ, giờ Ngọ ngày mai Thái miếu sẽ có hoả hoạn!". Mọi người nghe vậy đều giật mình kinh sợ, phấp phồng chờ đến hôm sau xem kết quả.
Hôm sau, giờ Ngọ đã qua, Thái miếu vẫn bình yên vô sự, các đại thần bện chuẩn bị hồi cung bẩm báo. Đột nhiên một tia sét loé sáng phóng từ trên trời xuống, đánh trúng Thái miếu, khiến cả Thái miếu bừng cháy. Trụ Vương và Phí Trọng thấy Cơ Xương đoán việc như thần, trong lòng không khỏi chấn động, nhưng lời đã nói ra, cũng không còn cách nào để xử lý Cư Xương, đành giam ông vào trong ngục Dữu Lý. Từ lúc đó đến khi Cơ Xương được tha về, vừa đúng bảy năm.
Cư Xương nghĩ rằng: "Trụ Vương vô đạo dâm loạn, không quan tâm đến sự an nguy của trăm họ, khiến nhân dân lầm than cùng khổ. Nếu như có thể khiến cho dân giàu nước mạnh chỉnh đốn quân đội, thì có thể vì dân mà hỏi tội tên hôn quân, cứu giúp muôn dân trong cơn nước lửa", từ đó bắt đầu nghiên cứu việc chấn hưng Tây Kỳ.
Tuy đến cuối đời, Cơ xương vẫn được an hưởng phúc phận, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi, nên vẫn chưa thực hiện được tâm nguyện này. (Cho đến khi Chu Vũ Vương diệt An Trụ kiên lập nên vương triều Chu, mới truy phong cho cha là Chu Văn Vương).
Khi Tây Bá hầu Cơ Xương qua đời, hồn phách của ông bay đến trước đài Phong Thần, được phong làm sao Thiên Đồng, trở thành vị thần ôn hoà, hoá khí là phúc đức, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải trừ tai ách, chế hoá.
Sử ký Tư Mã Thiên viết: Chu Văn Vương bị giam ở Dũ Lý mà diễn thành Chu dịch. Khi ở chốn lao ngục, Văn Vương đã suy diễn Bát quái thành 64 quẻ (gọi là 64 quẻ Văn Vương), đem ứng dụng vào việc dự trắc mọi việc. Sau này Khổng Tử đem 64 quẻ đó cùng phần quái từ của Văn Vương san định sách, hình thành Chu dịch.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
3. Người có cổ dày và ngắn ít khi ốm, nếu ốm thường rất nặng.
4. Con trai có cổ dày, các mạch máu ở cổ chồng chéo lên nhau có khả năng mắc bệnh xuất huyết não cao hơn bình thường.
5. Người có cổ dày, đầu nhỏ sống không thọ.
6. Những người tự tin có xu hướng xoay cổ sang trái.
7. Người có nốt ruồi trên cổ thường làm cấp dưới.

8. Người có cổ béo hay “ruột để ngoài da”.
9. Phái nữ cổ ngắn thường tự cho mình là đúng, luôn coi bản thân là trung tâm. Khó ai chế ngự được mẫu con gái này.
10. Con trai cổ ngắn, chúi người về phía trước khi bước đi, thường sống nội tâm, hay tính toán.
11. Người có cổ mỏng, vai rủ về phía trước hay gặp khó khăn trong công việc và cuộc sống, thích hùa theo đám đông. Người này không có khả năng đánh giá, bao quát tình hình nên không thể làm lãnh đạo.
12. Người cổ ngắn, vai u có khả năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng trong chính phủ.

13. Người cổ dài làm lụng vất vả, kết quả thu được không nhiều.
14. Người cổ gân guốc, không bằng phẳng rất bình tĩnh trong công việc. Người này thường mắc các bệnh liên quan đến dạ dày và có nguy cơ đột quỵ cao.
Thái Âm là phú tinh nên có nhiều ý nghĩa tài lộc nhất.
Thái âm chủ về tình cảm, hóa khí là phú, chủ cung Điền trạch.
Thái âm lạc hãm, vợ không hỗ trợ, cha mẹ không thể giúp đỡ, bất động sản không nhiều, tình cảm bất lợi, muôn sự không được như ý, Thái âm thêm sát tinh chủ về gan không tốt.
- Đại, tiểu hạn gặp thì nữ giới trong nhà chịu thương tổn.
- Thái âm lạc hãm chủ về muôn sự không toại ý, nếu thêm sát tinh thỉ có thể thương tổn. Mệnh nữ gặp chồng không tốt, tái giá 3 lần.
- Thái âm miếu vượng, vợ đảm đang, hiền thục, xinh đẹp hoặc ít ra có 1 trong 3 đặc điểm trên.
- Thái âm ở cung đối diện có Dương nhân chủ về vì ung thư Gan hoặc ung thư tuyến tụy mà qua đời.
- Thái âm và Văn xương đồng cung, có thể học xem mệnh, làm giáo viên hoặc hoạt động trong giới nghệ thuật
- Thái âm đồng cung với Thiên đồng ở cung Ngọ là người dễ mắc bệnh tương tư ,thuộc dạng người dễ thất tình hoặc yêu thầm người khác
- Thái âm đóng tại cung Tỵ là người số phạm đào hoa là mệnh nữ phần lớn là không chính trực ,nam thì đam mê tửu sắc, những người này có tài nhưng không gặp thời ,cả đời thường lưu lạc tha hương
- Thái âm miếu vượng tại Tuất ,Hợi tuy không tọa cung phụ mẫu cũng có mẹ tốt, không tọa cung điền trạch cũng có bất động sản
Nguồn Internet
Người xưa cho rằng: mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.
Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm (là tốt nhất) hoặc hàng tháng tại chùa (là tốt nhất) hay tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:
Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng
Lễ cúng dâng sao Thái Dương vào ngày 27 hàng tháng. Thắp 12 ngọn nến.
Bài vị màu vàng, mũ vàng, cùng hương hoa, phẩm oản.
Tiền vàng và 36 đồng tiền
Hướng về phương Đông làm lễ giải sao.
Theo quan niệm của người xưa, sao Thái Dương chỉ tốt với nam giới, không tốt với nữ giới.
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cực Tử Vi Tràng Sinh Đại đế.
- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Nhật cung Thái Dương Thiên tử Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiên lập linh án tại (địa chỉ)……………………………………………………………để làm lễ giải hạn sao Thái Dương chiếu mệnh:
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
No.1: Tuổi Dần
Những teen tuổi Dần sẽ có một tháng vô cùng thuận lợi. Mọi khó khăn, trăn trở trong tháng Cô hồn sẽ tan biến, thay vào đó Thần May mắn sẽ gõ cửa nhà bạn thường xuyên. Không chỉ suôn sẻ ở công việc, học hành, mà chuyện tình cảm của bạn cũng được cải thiện đáng kể. Những xích mích, hiểu lầm sẽ được hóa giải.
Ngoài ra, mọi quan hệ của bạn đều có bước tiến mới. Mọi người nhìn nhận bạn một cách tích cực hơn. Bởi lẽ, tháng 8 âm này, bạn căng tràn năng lượng, chủ động làm việc và thể hiện sự cởi mở. Từ đó, càng nhiều bạn bè sẵn sàng giúp đỡ, vận may càng đến với bạn.
![]() |
No.2: Tuổi Mùi
Khác với người tuổi Dần, tuổi Mùi tiếp nối vận may trong tháng 7 trước đó, mặc dù mọi sự suôn sẻ, thuận lợi hơn không đáng kể. Đặc biệt trong chuyện tình yêu, người giàu cảm xúc như con giáp này, chắc chắn sẽ tìm được đối tượng đồng cảm và mối quan hệ sẽ có bước nhảy vọt. Thậm chí, bạn vui vẻ tới mức vội vã kết luận đó chính là một nửa đích thực của mình.
Một vài cơ hội thăng tiến cũng đến với teen cầm tinh con dê. Chỉ có điều, tính khí nhút nhát sẽ kìm hãm động lực để con giáp này nắm bắt đúng thời cơ. Hãy mạnh dạn thể hiện bản thân, vận may còn đến liên tục và mạnh mẽ hơn nữa.
![]() |
No.3: Tuổi Tỵ
Tháng 8 đánh dấu thành công của người tuổi Tỵ trong công việc hoặc học tập. Bạn sẽ ghi được cú đúp về thành tích, thậm chí là xuất hiện trên một số kênh thông tin đại chúng vì kết quả ấy. Vận may đến với con giáp này trong hoàn cảnh bất ngờ, nên niềm vui càng được nhân lên gấp nhiều lần.
Tài chính của người tuổi Tỵ cũng nở rộ trong tháng 8 âm. Một vài cơ hội kiếm tiền dễ như trở bàn tay sẽ xuất hiện và giúp con giáp này bội thu. Cho dù hào phóng chi tiêu, bạn vẫn không lo hết tiền, thậm chí đó còn là động lực giúp bạn lao vào “cày cuốc” nhiều hơn.
![]() |
Mr.Bull (theo DT)
![]() |
Top 3 con giáp gặp vận tiền tài trong tháng 9 |
Đôi khi, do điều kiện không cho phép, bạn bắt buộc phải ngăn phòng, xây phòng cho bé yêu không thuận với phong thủy. Điều này cố thể sẽ gây bất lợi cho bé.
Dưới đây là một số biện pháp hóa giải để bạn tham khảo.
Theo phong thủy, nếu phòng trẻ ở các hướng dưới đây thì ngoài gây mất ngủ, bất an còn có những bất lợi sau:
– Đông Bắc: Hướng này khiến trẻ có tâm lý bất an, hay khó chịu quấy, khóc, mất ngủ về đêm…
– Nam: Hướng này khiến trẻ có khuynh hướng hấp tấp, nóng vội, làm gì cũng hỏng.
– Tây Nam: Hướng này khiến trẻ trở nên già dặn trước tuổi, khó có bạn bè cùng lứa, bất lợi cho sự hình thành tính cách của trẻ.
– Tây Bắc: Hướng này không có lợi cho mối quan hệ của trẻ với cha mẹ về sau này, trẻ dễ nảy sinh mâu thuẫn với cha mẹ.
Cách hóa giải:

Nếu phòng trẻ ở huớng Bắc: Đây là hướng mang lại sự yên tĩnh, nhưng với tính cách của trẻ nhỏ, sự yên tĩnh thái quá cũng không tốt, vì thế, nếu đặt tại hướng này bạn cần làm một số biện pháp phong thủy để thay đổi không khí yên tĩnh thành vui tươi, hào hứng, phấn khích hơn.
Có thể kích động sự yên tĩnh của phương Bắc bằng cách thêm tính dương của hành Kim và gam màu đỏ chói của hành Hỏa. Đó có thể là sự hiện diện những đồ chơi kim loại, chuông gió… sơn tường hoặc sử dụng giấy dán tường màu đỏ.
Nếu phòng ngủ của trẻ ở hướng Đông Bắc: Bạn nên giảm bớt sự bất an của hướng này này bằng cách tăng tính âm của hành Thổ và Kim thông qua việc sử dụng màu hồng pha gỉ sắt, vàng hơi xám trong trang trí căn phòng của trẻ. Ngoài ra, kết họp sử dụng sự mềm mại của chất liệu vải và cói mềm trải lên bề mặt căn phòng.
Đặt một món đồ choi bằng vải mềm mượt, có màu sắc hài hòa vào góc Đông Bắc căn phòng của trẻ cũng là gợi ý tốt cho bạn.
Nếu phòng ngủ của trẻ ở hướng Tây Bắc: Bạn nên giảm bớt tính trang trọng thái quá của hướng này bằng cách thêm các yếu tố đại diện cho hành Thủy. Đó có thể là màu trắng ngà của tường, đồ vật hay các hoa văn không đều trong trang trí. Thêm tranh ảnh sinh động, vui tươi.
Nếu phòng ngủ của trẻ ở hướng Nam: Bạn nên giảm xung lực khiến trẻ hấp tập, nóng vội của hướng này bằng cách thêm sự hiện diện của hành Thổ trong trang trí phòng trẻ. Nên dùng vàng nhạt và màu da bò. Tránh dùng màu hồng, đỏ (thuộc hành Hỏa). Đặt thêm quả địa cầu để trang trí.
Nếu phòng ngủ của trẻ ở hướng Tây Nam: Bạn nên giảm xung lượng khiến trẻ có tính cách già trước tuổi của hướng này bằng cách thêm tính dương của hành Hỏa và Kim. Sử dụng các màu tím, đỏ hồng kết hợp với hoa văn đường vòng hay hình ngôi sao. Đặt thêm các món đồ chơi trong phòng trẻ, treo tranh ảnh vui nhộn có khung bằng kim loại.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Hướng nhà là một trong những yếu tố cực kì quan trọng, quyết định phong thủy nhà ở. Nhà ở tốt hay xấu liên quan trực tiếp tới vận trình gia trạch nên không thể không quan tâm.
![]() |
![]() |
Liễu là loại cây đẹp với bóng dáng mềm mại và màu xanh dịu mát. Nó thường được trồng nhiều ở ven hồ, trong các công viên tạo vẻ đẹp thơ mộng. Vậy cây liễu có thích hợp khi trồng trước cửa nhà?
|
Xét về quan điểm hình thế, phần trước của ngôi nhà (minh đường) luôn cần sự quang đãng, sáng sủa, tránh bị che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Cây lá lòa xòa trước nhà, theo phong thủy như vậy tức là Mộc khắc Thổ. Nếu cây to sẽ có rễ lớn ăn vào đất ảnh hưởng đến nền nhà, đi lại dễ bị va vấp. Loại cây nhiều lá thì lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu ánh sáng mặt trời. Như vậy, gia chủ gặp nhiều điều bất lợi.
Cây liễu được trồng nhiều bên bờ hồ nhưng khi trồng vào khuôn viên nhà với diện tích đất nhỏ, không đủ độ thoáng, thiếu mặt nước rộng tạo độ ẩm để cây phát triển tốt... thì từ liễu rủ nó sẽ dễ trở thành lòa xòa, rũ rượi không đẹp mắt.
Đa phần nhà ở truyền thống của cha ông ta đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam là hướng gió chủ đạo. Cây có nhiều lá trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Vì thế trước nhà chỉ nên trồng cây kiểng hoặc cây mảnh, dáng cao, lá sáng (cau, dừa cảnh). Sau nhà là những cây lá dày rậm (như chuối, bàng…) để che bớt gió lạnh phương Bắc và Đông Bắc.
(Theo Landtoday)
|
Khi đánh giá vấn đề người ta thường sử dụng từ khoa học. Hiện nay người ta thường gắn văn hóa vật chất phương tây với khoa học và kỹ thuật (hình thái được vật chất phương tây với khoa học kỹ thuật, hình thái được vật chất hóa của khoa học) vào làm một. Do đó khoa học bèn trở thành bình phẩm có giá trị cao nhất. Khi người ta muốn đưa một sự việc hay sự vật lên giá trị cao, đáng được tôn trọng nhất thì người ta gắn cho nó cái “ mũ” khoa học, hoặc là đã được “khoa học chứng minh”.
Một số học giả gần đây, tuy ít thì muốn nêu cao tư tưởng tinh hoa của nho gia, nhưng ngược lại cho học thuyết âm dương, ngũ hành là cặn bã. Họ gọi âm dương, ngũ hành – một học thuyết đã từng thống trị trong các lĩnh vực thuật số như thiên văn, ngũ hành, hình pháp (phong thuỷ, tướng thuật), đoán mệnh, y thuật, vọng khí, v.v.. là “mê tín”. Đó rõ ràng là đứng trên quan điểm thể nghiệm thế giới theo văn hóa phương Tây để bình phẩm những hiện tượng của văn hoá Trung Quốc cổ.
Xem qua lịch sử Trung Quốc cận đại, đó là một bộ lịch sử hoặc là với thái độ dùng phương thức truyền thống của Trung Quốc để chống lại, bài xích văn hóa phương Tây, hoặc với thái độ lợi dụng văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc, hoặc với thái độ cam tâm tình nguyện tiếp thu toàn bộ văn hóa phương Tây làm cho lịch sử triệt tiêu lẫn nhau. Từ sau khi văn hóa phương Tây dùng nước thánh, thuốc phiện, pháo hạm mở rộng cánh cửa vào Trung Quốc, người ta bắt đầu so sánh hai nền văn hóa dưới những góc độ khác nhau và cuối cùng rút ra kết luận phổ biến là: phương Tây “tiên tiến” còn Trung Quốc “lạc hậu”. Văn hóa của Trung Quốc chỉ có thể so sánh với một giai đoạn nào đó trong quá khứ của phương Tây. Sự biến đổi các hình thái và thứ lớp của văn hóa phương Tây bèn trở thành mô hình duy nhất, con đường duy nhất để phát triển văn hóa của nhân loại. Họ có những cái mà ta không có như chế đọ “dân chủ”, thể chế chính trị – kinh tế, phương pháp quản lý khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp hiện đại, giáo dục, v..v.. đều là những cái mà chúng ta đang lạc hậu và là những điều kiện đủ để trở thành tiên tiến. Còn cái mà ta có, họ không có thì lại trở thành nguyên nhân lạc hậu của ta, thành nhân tố hạn chế, làm trở ngại có sự tiến lên, thành gánh nặng lịch sử. Từ đó mà vứt bỏ hết “ truyền thống”, dấy lên phong trào tìm kiếm “chân lý” trong văn hóa phương Tây. Người ta hy vọng từ trong “ công nghiệp cứu quốc”, “ khoa học kỹ thuật cứu quốc”, “giáo dục cứu quốc” để tìm được “thuận với trào lưu thế giới”, cho đó là “cứu quốc bảo trọng”. Trong quá trình phá bỏ trật tự cũ, âm dương, ngũ hành bèn trở thành đối tượng bị đả phá đầu tiên, cho dù trên một ý nghĩa nào đó, đấy chỉ là sự phá bỏ hình thái bề ngoài.
Một ví dụ đầy kịch tính nhất là sự thay đổi trong đánh giá về Trung y – một trong những thuật y học cổ đại của Trung Quốc. Trong phong trào văn hoá mới, trung y cũng giống như các phương thuật khác đã từng bị xem là mê tín. Âm dương, ngũ hành là đại bản doanh của mê tính. Kết luận là : “cái chết có liên quan đến sự sống chết của ông cha ta đều là sản phẩm của quan niệm âm dương ngũ hành này”. Với chi phối của cách đánh giá đó, trung y đã từng bị coi là một tai ách. Nhưng về sau, đặc biệt là mấy chục năm gần đây, tình hình này đã có sự thay đổi căn bản. “Mê tín” nhảy vọt thành “khoa học”. Trung y với tư cách là một sự thật, bản thân nó không hề thay đổi, mà thay đổi là sự đánh giá. Ở đây rõ ràng mê tính hay khoa học chẳng qua chỉ là sự đánh giá. Thuật số làm một trong những hình thái quan trọng của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Sau nhà Đường và Ngũ đại, thuập số đoán mệnh được lưu hành hơn 1000 năm, cao nhất là vua cho chí thường dân đều thành tâm tin tưởng. Mấy chục năm lại đây ngược lại bị xem là mê tín. Sở dĩ nói đó chỉ là một sự bình phẩm vì Trung y và thuật đoán mệnh đều cùng một hệ thống, cùng có sắc thái như nhau, thế mà y học thì lại được xem là khoa học. Cho nên “mê tín” là một sự bình phẩm mang thiên kiến.
“Mê tín” và “khoa học” đều chỉ là một tín ngưỡng. Đối với mê tín thường được định nghĩa là: “sự tín ngưỡng thiếu bản chất lý tính, chỉ thuần tín ngưỡng hoặc tập tục”. Vì trước hết nó là một tính ngưỡng, sau nữa là “thiếu bản chất lý tính”. Song trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lập với mê tín là khoa học thì lại chính là được xây dựng trên cơ sở của sự tín ngưỡng. Đó là sự tín ngưỡng đối với “công lý” ( theo Bách khoa toàn thư).
Sistot cho rằng, công lý là nguyên lý thứ nhất không thể chứng minh được. Tất cả mọi khoa học có tính chứng minh đều bắt đầu từ nguyên lý thứ nhất này. Mỗi môn khoa học đều có nguyên lý thứ nhất của nó. Như hình học giải tích – môn biểu hiện rõ nhất “tinh thần lý tính” của Hy lạp là được xây dựng trên một số tiên đề – cái phải tự thừa nhận chứ không chứng minh được.
Cái phải tự thừa nhận mà không thể chứng minh được chính là dựa trên tín ngưỡng. Chỉ có thừa nhận những nguyên lý thứ nhất đó thì loài người mới có thể thu được tri thức. Do đó “ Kinh thánh” tuyên bố “ mầm mống và tinh hoa của tín ngưỡng đều là mở đầu của tri thức”. Bất luận là công lý hay mầm mống tinh hoa của tín ngưỡng đều là sự thể nghiệm, đều là chân lý tự hiểu, không chứng minh. Loại sự thực mà không thể dùng lý tính hoặc logic suy đoán để chứng minh thì đó là sự biểu hiện của tín ngưỡng. Loại tín ngưỡng này không có “bản chất lý tính”.
Khoa học ngày nay được xem là vạn năng, do đó nó cũng là một loại tín ngưỡng. Mọi người , boa gồm cả hàng vạn nhà khoa học đều sùng bái khoa học, thực chất đó là một hành vi tín ngưỡng. Khoa học hiện đại là biểu tượng của vũ trụ cơ học. Trong thế giới thể nghiệm về sự vận động cơ học thì giữa tôi và vật tách rời nhau. Ta là người đứng riêng ra để nghiên cứu, chỉ quan sát, mô phỏng ( ví dụ như thí nghiệm, lập mô hình toán học, v.v.) . Sự vận động của vật chất là một tồn tại khách quan. Dưới sự so sánh, tham chiếu các hiện tượng của vũ trụ cơ học thì thế giới “vạn vật có trong tôi”, khi đó “vạn vật với tôi làm một” tự nhiên bị xem là chủ nghĩa thần bí. Đó chính là hai sự tín ngưỡng khác biệt nhau, do một bên “ khoa học” xem vật tách khỏi tôi và một bên “ mê tín” cho tôi và vạn vật hòa làm một, do cái biểu tượng của hai thế giới thể nghiệm khác nhau tạo nên.
Khoa học hiện đại ngày nay chỉ là sự mô phỏng vũ trụ cơ học. Các môn khoa học hiện đại được các nhà khoa học tín ngưỡng thực chất là sự mô phỏng theo vật lý học, là sự mô phỏng theo các hiện tượng của vũ trụ cơ học. Theo lời sử gia khoa học người Anh - Tapi mà nói: “ Khoa học có thể gọi là những tri thức có đầu có đuôi về các hiện tượng tự nhiên, cũng có thể gọi là sự nghiên cứu lý tính giữa các loại quan niệm diễn đạt các hiện tượng tự nhiên”. Những nghiên cứu này , những kiến thức này đều tiến hành và thu được theo sự chi phối của quan niệm vũ trụ cơ học. Đặc trưng cơ bản nhất của vũ trụ cơ học là sự vận động cơ học về số lượng và khối lượng. Vật lý học bèn trở thành mô hình kinh điển của biểu tượng vũ trụ này, sử gia khoa học người Anh nói: “Những người tự xưng là “nhà khoa học” trong những lĩnh vực này luôn luôn thừa nhận rằng mình đã tuân theo phương pháp kinh nghiệm của vật lý, giam mình trong phòng thí nghiệm vật lý hiện đại, phân tích thế giới qua các con số . Họ không biết rằng phương pháp mà họ cố tuân theo không những không có hiệu quả mà cũng là phương pháp không làm cho vật lý học thành công.” (A.F. Charmosse: “Khoa học thực chất là gì”).
Vật chất và máy móc là các hình thái văn hóa bề mặt, là hình tượng của ý thức, là vật dụng. Bản thân khoa học kỹ thuật và đối tượng của nó đều là vật chất. Khi con người gọi chung chính trị, hệ thống quản lý là khoa học và dùng kỹ thuật để xử lý nó thì nền văn hóa phương Tây với danh nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo, đề cao cái tôi lên hàng đầu, cũng đã đồng thời đem con người đặt ngang với vật chất. Đáng tiếc là loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái , trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái, trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này chứng tỏ xu hướng tìm đến kỹ thuật của nên văn hóa phương Tây. Khoa học ngày nay chẳng qua là một hệ thống trừu tượng của thế giới vật lý. Cho nên nếu cứ khăng khăng tìm kiếm kỹ thuật tức là chỉ lo tìm hình tượng mà không chú ý đến bản chất, như thế tất nhiên sẽ dẫn đến hậu quả bi kịch là chỉ nắm kỹ thuật, bỏ qua đạo lý. Những nhà sáng tạo thuộc thế hệ mới ở phương Tây đã nhạy cảm hơn chúng ta nhiều khi cảm thấy nền văn hóa của họ đang đứng trước những nguy cơ bao gồm cả những hiện tượng bề mặt như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ khủng hỏang năng lượng, vấn đề dân số, v..v. kể cả nguy cơ tín ngưỡng.
Trong khi chúng ta, những người ở khu vực phi văn hóa phương Tây đang cố tìm kiếm kỹ thuật phương Tây thì một số nhà triết học phương Tây đã sớm bắt đầu tìm phương cứu thế từ bên ngoài văn hoá phương Tây. Điều đó chứng tỏ văn hóa phương Tây đang mất dần vị thế thống trị hơn 100 năm nay. Hình thái văn hóa phương Tây là lấy kỹ thuật làm biểu tượng dẫn đầu. Còn các nhân sĩ văn hóa phương Đông của chúng ta khi sử dụng kỹ thuật của phương Tây lại không hiểu được đạo lý của biểu tượng đó, tức là dùng kỹ thuật mà bỏ quên đạo lý. Như thì làm sao mà thoát khỏi được những bế tắc của đám bụi trần do lịch sử tích tụ lại.
Ý rõ, đạo sáng để thể hiện thế giới. Sự khác nhau giữa khoa học hiện đại với “ mê tín dạng Trung Quốc” chỉ là ở chỗ: cái trước thể nghiệm thế giới theo các: con người tách khỏi xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh hòa làm một. Am dương ngũ hành, cái bị gọi là đại bản doanh của mê tín chính là thế giới quan tự nhiên hay triết học tự nhiên của người Trung Quốc cổ đại chứ không phải người ngày nay khiên cưỡng , phụ họa ra. Vì trong sự thể nghiệm của người Trung Quốc cổ đại không có thiên nhiên đối lập với con người, trời đất đối lập với bản thân ta. Am dương, ngũ hành thống triệt trong tất cả mọi thứ nghiệm. Nó là biểu tượng toàn bộ thông tin giữa vũ trụ với cuộc sống con người. Thuật toán mà ngày nay bị xem là “mê tín” , ngày xưa vốn chiếm một vị trí rất cao. Giá trị vị trí của nó còn cao hơn cả khoa học ngày nay, vì không những nó là biểu tượng mà con là mô phongr thế giới thể nghiệm; là mô hình bầu trời ( hay đạo). Ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. Am dương ngũ hành là biểu tượng, trong biểu tượng nó bao gồm cả ý nghĩa; thuật số là kỹ thuật , nhưng trong kỹ thuật đó đã có đạo. Rõ được điều đó tức là ý rõ , đạo sáng. Nền văn hóa chân chính là sự hòa quyện không chỉ giữa biểu tượng với vật thể mà còn là ở ý và đạo. Sự dung hợp nền văn hóa mới không chỉ lấy kỹ thuật làm trọng mà phải là một quá trình “đồng hóa” rộng rãi hơn, to lớn hơn, tinh hoa hơn, sâu sắc hơn trong đó lấy sự thể nghiệm thế giới làm cốt lõi. Hiểu rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa tận cùng của văn hóa Trung Quốc chính là ở chỗ này.
![]() |
| Cao ốc đứng riêng biệt phạm phải thế Cô độc sát |
BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ VÕ VĂN CHÂU
Khoa Tử vi xuất hiện ở VN không phải mới mẻ gì nhưng thử tính đến nay có được bao nhiêu tác phẩm xuất hiện trước công chúng? Chỉ vỏn vẹn hơn 10 cuốn.
Với số lượng ít ỏi đó, người đang học hỏi, nghiên cứu tử vi lúc nào cũng cảm thấy không thỏa mãn, mặc dù các quyển lý số này từa tựa nhau trên căn bản lập số, đoán số nhưng cũng có những điểm đặc thù thích thú.
Trong tinh thần học hỏi để tiến bộ, người viết sẽ lần lượt phân tích dưới nhãn quan của người hậu học 10 tác phẩm sau đây:
Và cũng vì khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo, người viết sẽ chỉ ghi lại những nét đại cương của từng tác phẩm với hậu ý tóm tắt toàn bộ vấn đề hầu quý độc giả thưởng lãm trong mùa xuân Ất mão 1 cách trọn vẹn.
Đó là điều mong muốn của mọi người, ở năm này, các nhà Tử vi lẫy lừng phổ biến các bí quyết, các kinh nghiệm, các tuyệt chiêu cho dàn hậu bối thụ hưởng qua các soạn phẩm tử vi mà các vị còn ôm ấp, còn luyến tiếc, còn mơ màng thời vàng son rực rỡ.
1. TỬ VI CHỈ NAM – SONG AN ĐỖ VĂN LƯU
Đây là quyển sách lâu đời, ra đời năm 1934 và tái bản lần thứ 3 năm 1957, đến nay kể như tuyệt tích trên thương trường.
Tác giả kể lại hoàn cảnh tin số mệnh, tìm hiểu số mệnh để rồi biết số mệnh và long nhiệt thành, quyển sách này mới ra đời.
Toàn bộ Tử vi chỉ nam gồm có 3 quyển, có tất cả 236 trang. Với số trang khiêm nhượng trên, độc giả không phải thất vọng vì được tác giả hướng dẫn cách thức an sao lập số, cách đoán tử vi trên các cung số rõ ràng, đầy đủ, trọn vẹn. Và với 32 lá số mẫu, tác giả giúp cho ta thấm nhuần phương pháp giải đoán thông thường mà mỗi người học số đều phải vượt đến.
Ở tác giả, ta thấy tác phẩm có lời văn bình dị, mộc mạc mà người đọc cũng thâu nhận dễ dàng, tuy rằng sự xếp đặt thứ tự các mục chưa được khúc chiết cho lắm, còn nhiều lẫn lộn. Điều đó không đáng kể vì người ta chỉ cần cha đẻ của đứa con tinh thần đó thật tâm truyền thụ cho đứa con xứng đáng, danh dự phô trương với đời. Có lẽ trong kinh nghiệm tìm kiếm thầy hay mà tác giả cay đắng gặp phải nên ở tác phẩm này, các tinh hoa của nền học thuật Đông phương cổ cộng với kinh nghiệm hành nghề, được cụ dốc hết tâm ý giãi bày cho hậu thế thưởng lãm. Vì vậy, sách TVCN đã tiết lộ thêm nhiều tình tiết Thái tuế từng năm (trang 170), xem số trẻ con (trang 121) nhất là bang bạc các trang của quyển thứ 3.
Dẫu biết rằng các cách đặc thù kể trên đều được tiền nhân kê cứu sẵn nhưng thử hỏi các tác phẩm Tử vi hiện thời đã có mấy quyển “xì” các bí quyết đó ra?
Thế cho nên, với số sách hạn chế trong Tử vi, ta sẽ còn phải đắn đo chọn lựa và chắc hẳn rằng sách xem được dung nghiên cứu được sẽ không vượt quá số đầu ngón tay.
Một dịp nào thuận tiện, chúng ta sẽ phân tích tận tường các nguyên nhân thúc đẩy đến tình trạng nghèo nàn nhất, bi thảm nhất của làng Tử vi VN.
2. TỬ VI BỔ TÚC – NGUYỄN MẠNH BẢO
Tôi được biết 1 sĩ quan QLVNCH đã thuộc làu các bài thơ trong quyển Tử vi bổ túc này, mặc dù ông không biết tử vi là gì. Được hỏi lý do, ông cho biết rằng tại thể thơ hợp với sở thích, vì vậy ông đọc tới đọc lui lâu ngày nên thuộc
Nói như vậy để độc giả thấy rằng quyển TVBT ít ra đã làm hài lòng giới hâm mộ thi phú và người học hỏi tử vi sẽ thích thú khi đọc qua tác phẩm này. Các câu phú trên do Ma Y lão tổ trước tác và cụ Lê Quý Đôn diễn giải ra quốc âm với hơn 400 cách lý đoán mà phần nhiều đề cập đến các bàng tinh.
Nhiều lúc gặp thầy giải đoán chuyên chú, má sát vào các chính tinh, tôi đâm ra nghi ngời sự diệu dụng của khoa Đẩu số vì với 14 chính tinh vận hành trên 12 cung số dĩ nhiên sự khác biệt sẽ bị thu hẹp rất nhiều, sự trùng hợp do đó sẽ xảy ra. Tôi cùng các bạn hữu bèn quay qua quan sát các sao nhỏ, tuy gọi là không quan trọng nhưng thật ra chúng đã từng làm đảo lộn thế cờ giải đoán. Quyển sách này đã trợ giúp chúng tôi đắc lực và trong 183 trang, chúng ta được đọc qua phần Tử vi tổng luận phú, các sao đắc hãm tại 12 cung, luận Mệnh viên nam nữ….tạm gọi khá đầy đủ để bổ túc them kiến thức đẩu số toàn vẹn, nhất là bổ túc cho quyển tử vi đẩu số cùng tác giả
Công cuộc sưu tầm của tác giả thật tỉ mỉ và quan trọng với sở nguyện khoa học hóa môn tử vi, đemmôn lý học này phổ biến cho ngoại quốc, thì với ấn bản trên làm vững niềm tin cho đám hậu học chúng ta khá nhiều, xem như là 1 tài liệu khả tín, ứng dụng chính xác vào bản số.
Tiếc thay, trong giờ phút này, người thừa kế không tiếp tục toàn vẹn hóa khoa Tử vi như ý nguyện của tác giả mà hình như hững hờ trước việc làm của tác giả khiến cho người thích nghiên cứu phải dò dẫm trở lại từ con số 0.
3. TỬ VI ĐẨU SỐ TÂN BIÊN – VÂN ĐẰNG THÁI THỨ LANG
Chúng ta dành 1 phút để tưởng niệm linh hồn cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang đã tử nạn lưu thông, trước khi xem lại Tử vi của người.
Ta thấy tác phẩm của cụ từng ghi “Tham Lang ngộ Bạch hổ: phải phòng cá thú cắn”. Đối với ngày nay, ác thú của loài người không phải cọp beo vô uy lực trong các chuồng ở vườn Bách thú mà chính là các xe cộ qua lại như mắc cửi hung hãn hơn vị hung thần.
Thành ra những quan niệm xưa áp dụng vào thực tế ngày nay phải thay đổi theo từng thế hệ, từng thời đại trên chiều hướng tiến bộ của loài người. Khi đọc tác phẩm này, trong tinh thần mới đó, chúng ta sẽ dễ dàng thâu nhận các tinh hoa của khoa Tử vi vậy.
Sách phân là 3 phần: Lập thành; Luận đoán tổng quát; và Luận đoán vận hạn.
- Ở phần 1, chắc rằng mọi người đều đã rõ. Chỉ riêng đại mục lý giải ngũ hành, Can chi, biên giả cũng như hầu hết các tác giả khác ghi ra lấy lệ chứ không nói rõ công dụng của nó sinh, khắc, hòa hợp với nhau như thế nào trong tử vi. Một dịp nào đó, ta sẽ bàn chi tiết hơn vấn đề này
- Trong phần 2, ta sẽ lưu ý đến phần hướng dẫn của tác giả khi luận đoán 1 lá số. Đây là căn bản nhập môn mà í tai chịu hướng dẫn rạch ròi, đầy đủ mà áp dụng khá chính xác. Nói về tính lý các sao, biên giả sắp xếp thật phân biệt, kỹ lưỡng và phối hợp khá đầy đủ 1 cách đơn giản (kết hợp 1 số ít sao để luận) cũng như phụ luận các cung số qua kinh nghiệm của cụ, đã rộng mở đường hiểu biết của độc giả không phải nhỏ.
- Tại phần 3, phần quan trọng khả dĩ hướng dẫn 1 bộ óc thông minh trung bình tạm thời giải đoán khá ổn thỏa, đúng phương pháp sau 1 thời gian ngắn theo dõi tác phẩm này.
“Tôi học ít. Sự suy xét còn nông cạn…Nhưng với tấm long thành muốn góp 1 phần nhỏ vào công việc phổ biến tử vi đẩu số, tôi mạo muội biên soạn và đưa xuất bản cuốn sách này”. Ai lại không phục lời nói khiêm cung, hòa nhã của cụ Vân Đằng? Trước 1 nhiệt tình đầy dẫy, trước 1 người hữu công đã khuất, tôi mạo muội dừng bút nơi đây mà chưa vội lạm bàn đến các khiếm khuyết của tác phẩm.
4. TỬ VI ÁO Bí – HÀ LẠC DÃ PHU VIỆT VIÊM TỬ
Nhìn qua quyển sách dày như quyển tự điển, với tên đề, ta thấy tử vi sẽ ảo diệu bao nhiêu, sẽ ngăn chùn bước chân chập chững vào vườn hoa lý số của bao người.
May mắn thay, nhìn vào trang cuối, ta thấy tác giả để địa chỉ liên lạc hầu giải quyết các thắc mắc của độc giả ham tìm tòi. Tôi chưa có dịp tìm đến cụ Hà Lạc, tuy nhiên tôi cảm thấy vui sướng khi tác giả làm việc đó mà các tác giả khác, các soạn giả, biên giả khác chưa hoặc quên làm. Tôi có cảm tưởng họ buông thả đứa con tinh thần của họ, mặc sống chết ra sao, cũng chả cần biết đến hậu quả hành động của chúng hữu ích hay tác hại (?) để gánh lấy 1 phần hãnh diện hay trách nhiệm.
Trở về nội dung của tác phẩm, ta thấy tác giả thực sự chỉ dẫn độc giả phương pháp lập thành lá số, nhưng lại dài dòng ở chương 2. Nhưng ta phải thành tâm nhận xét rằng, với chương 3, chương đặc biệt hơn tất cả, tác giả đã phân tích các quan niệm an sao của các hệ phái để cuối cùng dứt khoát nên chọn con đường nào hợp lý nhất để đi, nhất là cách an Vòng Tràng Sinh. Tại chương 8 và 9, tác phẩm giúp ta nắm vững các cách của đẩu số, vận hành và tương quan 12 cung đối với mệnh viên.
Nhìn chung, quyển Tử vi áo bí có 1 trình độ cao hơn các quyển đồng loại khác: độc giả muốn nghiên cứu thông đạt ắt hẳn phải có 1 kiến thức dồi dào về môn lý số này vì có nhiều chủ đề (ví như Ngũ hành) tác giả quảng diễn thiếu khúc chiết, mạch lạc và chân thực, từng gây lung túng cho độc giả không ít. Sự chủ quan của cụ hà Lạc trong các cách giải thích rườm rà hẳn phát sinh trong đầu óc người xem những nghi vấn cần được giải tỏa
Và cũng như đa số tác giả khác, những “tại sao như thế này…” không được cụ hướng dẫn kỹ càng, thành ra đọc xong, ta chấp nhận như là 1 kết quả thực tế kinh nghiệm chứng minh chứ không thể tìm đến chân lý của vấn đề.
5. TỬ VI HÀM SỐ - NGUYỄN PHÁT LỘC
Non 500 trang, do Khoa học Nhân Văn xuất bản năm 1972, Tử vi hàm số được sắp xếp thật khoa học, giúp cho người nghiên cứu nắm vững các vấn đề phiền toái của môn tử vi học.
Đặc biệt, tác giả nêu ra qui tắc luận đoán 1 lá số thật cầu kỳ, tỉ mí, đầy đủ khiến cho ta cảm thấy rằng khoa lý học này rất toàn vẹn, toàn bích và đâm ra ngỡ ngàng trước kiến thức hạn hẹp của mình. Thật vậy, tôi đã từng nhìn thấy 1 nhà tử vi thiết lập lời giải đoán dài 100 trang giấy học trò, cũng chưa đủ các yếu tố cần thiết như tác giả đã trình bày. Thế mới biế, tử vi là bao la, rộng lớn đến dường nào?
Trong phần luận thuyết về Hàm số tử vi được xem như 1 chủ đề mới mẻ, trong đó, bao giờ tác giả cũng lưu ý đến cung Phúc đức, 1 cung có giá trị tột độ ảnh hưởng mật thiết với các yếu tố khác. Đây là phần có giá trị thiết thực như 1 tài liệu tham khảo mà mọi người không thể bỏ qua được.
Tiếc thay, đôi lúc tác giả tự mâu thuẫn với mình vì quá mê say phối hợp các hệ phái tử vi khi chứng minh rằng tử vi không thần quyền mà tại phần tính lý các sao, ông lại rơi vào các điều thần bí mà ông bài bác ở trên.
Tiếp đến là phần ý nghĩa các chính và phụ tinh, ta thấy tác giả đã công phu sưu tầm, biên khảo với kinh nghiệm dồi dào, sắp xếp mạch lạc, giúp cho những ai muốn rạch ròi phân biệt khi nghiên cứu, học hỏi tử vi.
Tác phẩm TVHS có 1 giá trị khá cao trong làng sách hiện hành và người muốn tham khảo môn này, ít nhất phải có quyển sách này làm căn bản tối thiểu để tiến tới, tuy rằng nó có khuyết điểm cố hữu ở sự gán ép của tác giả khiến cho ta không nắm vững vấn đề hoặc làm thừa thãi ở sự phối hợp các sao.
Dù sao, quyển TVHS vẫn còn thiếu sót như tác giả mặc nhiên thú nhận: phải có quyển Tử vi tổng hợp (chưa xuất bản) mới định rõ giá trị thật sự của tác phẩm này được
6. TỰ TÌM HIỂU ĐỜI MÌNH – NGUYỄN MẠNH LONG
Sách do hương Giang ấn hành năm 1971 với giá đề 400 đồng, dày 350 trang, khổ nhỏ. Đây là quyển sách có thể gọi là tiêu chuẩn sơ cấp cho những ai mới có dịp tìm hiểu tử vi đẩu số, vì với lối hành văn giản dị, dễ hiểu, với cách an sao rút gọn thành hệ thống đồ bản sẽ giúp hoàn thành 1 lá số rất dễ.
Tác giả hướng dẫn cách luận đoán tạm thời bản số tử vi qua các cách cục xấu tốt, thuận nghịch, sinh khắc giữa ngũ hành bản mệnh, cục, sao cung. Tác giả bàn qua đặc tính tổng quát của các sao chính, phụ ứng chon am mệnh, nữ mệnh và vận hạn kèm theo 1 bản phụ giải về phú đoán, căn bản cố truyền của các nhà lý số dung trong việc đoán số.
Có thể nói, tác phẩm bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết cho các truyền nhân của lão tổ Trần Đoàn.
Như đã nói trên, quyển sách này là căn bản sơ đẳng của người mới nhập môn nên dĩ nhiên còn thiếu sót rất nhiều từ cách kết hợp các sao đến việc trưng bày lá số mẫu. Muốn tiến hơn, người học cần phải trau dồi them ở các quyển tử vi khác, ở các kinh nghiệm bằng hữu, ở chiêm nghiệm thường xuyên, ở sự tiếp thu chân thành của mình.
Đó là chưa kể các vấn đề cần xét lại (tương sinh giữa mệnh và cục – trang 47 – hành mệnh và hành sao – trang 48-) hoặc thiếu sót (tính lý các sao tại các cung, ảnh hưởng ngũ hành Can chi ứng dụng vào tử vi,,ục lục…) hoặc cẩu thả (in sai, thứ tự sắp xếp các trang, sự sắp xếp các đại tiểu mục…).
Được thừa hưởng di sản của nhà tử vi tăm tiếng 1 thời, GS Nguyễn Mạnh Long hẳn đã góp phần vun vén, tái bồi cho khoa mệnh học chưa được xứng ý cho lắm.
7. TỬ VI NGHIỆM LÝ – THIÊN LƯƠNG
Chúng ta chưa thấy quyển tử vi nào được giới thiệu nhiều, bàn luận nhiều như quyển Tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương, kể cả các quyển ấn hành đồng thời hoặc trước đó.
Không phải là ân sủng, đặc quyền. Quyển sách có 1 điểm đặc dị: phát kiến vòng Thái Tuế để nghiên cứu tính tình con người qua lý số. tương lai, những nhà nghiên cứu con người ắt hẳn không thể bỏ qua việc phối hợp tử vi vào các phương pháo và phương tiện khảo cứu sẵn có được.
Tuy rằng trên căn bản, các phát kiến của Thiên Lương không có gì sai lạc ý hướng cổ nhân, nhưng phải coi rằng nó mới lạ và giản dị, dễ hiểu và dễ ứng dụng vào các lá số không sai chạy. Kinh nghiệm đó tác giả không bắt buộc ta phải chấp nhận như 1 tín điều. Sự kiện này nếu có dịp tiếp xúc với tác giả, ta sẽ thấy ngay ý tưởng chân thành biểu lộ sự thanh cao, bất vụ lợi của tác giả. Nhưng khi đọc xong, ta vẫn khả chấp như 1 tin tưởng rằng Tử vi không đến nỗi mù mờ, dành đặc quyền cho 1 hạng người nào và cho ta thấy tính lý con người, thời vận hưng khởi hoặc suy tàn để tri thiên mệnh, để biết người biết ta. Hay ho là chỗ đó! Thâm thúy là nơi đó!
Tác giả đã không minh chứng các điều phát minh 1 cách rõ ràng làm đa số độc giả khó thâu nhận kịp thời các nguyên tắc lý số, nhưng bang bạc các lá số danh nhận ở phần thứ nhì của tác phẩm vừa giúp kinh nghiệm giải đoán, vừa áp dụng tức thời các nguyên tắc tìm thấy ở phần thứ nhất.
Ước mong rằng quyển TVNL ra đời là nguồn phấn khởi cho bao người còn nặng mang “bí kiếp” hãy mau mau cống hiến cho đời kẻo mai một – sự mai một đã được chứng minh cụ thể cho nền học thuật tử vi ngày nay – cho bao người đang lăm le hoặc đã nhúng tay vào nghiệp dĩ lý số có dịp ngắm các khám phá thực tiễn, các nguyên lý tối vi, các kinh nghiệm quý giá để nân cao đất đứng cho môn tử vi, để cởi bỏ lớp áo huyền vi của khoa đẩu số.
8. TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ – VŨ TÀI LỤC
Ngay lời dẫn, dịch giả đã giúp ích nhiều cho kiến thức của chúng ta về môn Tử vi học và đi đến kết luận rằng, con người dù sao cũng bị số mệnh chi phối và biết số mệnh không phải là vô bổ, là huyễn hoặc, là hạ cấp vì “bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử”.
Ở đây ta thấy Vũ Tài Lục dịch và bình chú cuốn TVĐSTT của Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn, cùng bổ túc thêm vào ít khám phá mới của các tác giả khác. Vì thế ta có dịp biết tử vi qua truyền thuyết dân gian mà các sao được gán ghép qua các nhân vật truyện Phong Thần (nhưng nguyên bản Phong Thần, các sao được hình dung qua các nhân vật khác với của dịch giả). Dù là huyền thoại nhưng xem qua cũng thấy hay hay: ta có thể suy nghiệm kết quả các cuộc đấu chiến của các nhân vật trong truyện để luận đoán sao thủ Mệnh gặp sao nào ở vận hạn là khắc chế, thắng bại, tiền hung hậu kiết…
Dịch giả đưa ra 1 nghi vấn cho rằng trong TVĐSTT chỉ có 85 sao trong khi Tử vi Việt có đến 104 vị. ông cho rằng chỉ sao Đào hoa là có giá trị, còn các sao kia là gượng ép trong khi ông không rõ do đâu có sự sai biệt lượng số các sao. Thành ra ta phải dung thực tế, dung sự thật để chứng tỏ rằng các sao của Tử vi Việt không phải không có giá trị,chứ không thể căn cứ vào 1 quyển sách nhập cảng để bác bỏ đồ nội hóa vì luật sinh tồn từng hung hồn minh chứng rằng cái gì vô giá trị sẽ bị thải hồi qua thời gian như 1 số sao ta từng thấy, như các sao Mệnh chủ, Thân chủ.
Thiết tưởng sách TVĐSTT ra đời cũng chỉ góp phần vào vườn hoa tử vi thêm 1 loài hoa mới. Chúng ta phải áp dụng để chiêm nghiệm hơn là mặc nhiên chấp nhận như 1 chân thư. Đừng vì 1 lời nói, đừng vì 1 nhãn hiệu mà bài bác, phá hủy công trình nghiên cứu của làng tử vi Việt. “Thức đêm mới biết đêm dài”, “đường dài mới biết ngựa hay” có lẽ áp dụng được vào các mâu thuẫn của quyển sách này với các soạn phẩm tử vi của người Việt.
9. TỬ VI PHÚ GIẢI – THÁI VÂN TRÌNH
Hầu hết các quyển tử vi hiện hành, không nhiều thì ít, cũng có ghi ở phần phụ lục các câu phú của cổ nhân. Tất nhiên các câu phú được sao lục lại đó có thiếu sót.
Và quyển TVPG ra đời nhằm mục đích kết hợp các câu phú của mọi hệ phái lý học, giúp cho độc giả đỡ công tìm tòi, truy lục.
Sở dĩ tôi ke quyển TVPG này vào 1 trong 10 quyển sách tử vi hiện đại là vì căn bản xem số của các nhà tử vi đều lấy các câu phú làm tiêu chuẩn ứng dụng vào bản số. Tất cả cho rằng các sách vở hoặc bị ngoại nhân cướp đoạt nên các nguyên tắc về tử vi khó long ghi chép được đầy đủ để lưu tuyền đến nay. Do đó, đa số còn bám víu, tin tưởng vào chiếc phao cuối cùng do sự giáo luyện truyền khẩu các bí quyết lý số bằng những bài văn dễ nhớ, dễ thuộc: các câu phú vì lẽ ấy được các vị sư phụ chiếu cố kỹ cảng, tìm hiểu thâm sâu để truyền lại cho môn đệ có những miếng nghề tin tưởng hơn các lò khác.
Tuy nhiên, tin vào các câu phú cũng y như sử dụng con dao 2 lưỡi: lợi cũng nhiều mà hại cũng không ít (Cụ Phong Nguyên đã dẫn giải khá nhiều trên KHHB về các câu phú). Nói như thế để cho độc giả ước định được sự thật của vấn đề không có gì tuyệt đối cả. Cùng 1 câu phú, nhưng 2 ông thầy sẽ giảng giãi khác tùy theo kinh nghiệm giải đoán cũng như trí linh mẫn của mỗi người khác nhau. Điều này chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng trong quyển sách trên với lối ghi chú gượng ép, mơ hồ, đôi khi tối nghĩa.
Thái độ dè dặt của ta khi dung sách là điều cần có trước tiên, vì áp dụng phú vào mỗi lá số không phải công việc thay các con số vào công thức của toán học được.
Sách có giá trị ở công trình sao lục chứ chưa bày tỏ được quan điểm của soạn giả.
10. TỬ VI DƯỚI MẶT KHOA HỌC – VU THIÊN NGUYỄN ĐẮC LỘC
Thiếu quyển sách này là 1 thiếu sót trầm trọng cho kiến thức hạn hẹp về tử vi của ta hiện tại chỉ thuần về huyền bí, vì chưa có ai giải thích tại sao con người lại chịu ảnh hưởng mật thiết của các dữ kiện được gọi là “Sao” đó, tại sao ông sao này lại an thế này, ông sao kia lại an thế kia…?
Sử dụng tử vi ngày hôm nay cũng giống như mình sử dụng chiếc xe hơi, sử dụng hột gạo để nấu cơm, sử dụng căn nhà để ở chứ không quay về nguồn xem cách thức cấu thành chiếc xe hơi thế nào, xem các giai đoạn trồng trọt cây lúa ra sao…
Tác giả Vu Thiên đơn phương làm công việc về nguồn đó sao cho hợp với quan điểm của Hi Di Trần Đoàn mà không xa rời khoa học hiện đại. ông đã thành công 1 phần công trình nhiêu khê trên.
Việc chấp nhận hay không sẽ là 1 đề tài dài làm tốn bao nhiêu giấy mực của người ham học hỏi, thích nghiên cứu trước vấn đề mới mẻ này. Tại tác phẩm, tác giả có những quan niệm về an sao lập số đặc dị hơn các sách mà ta có trong tay. 1 cuộc cách mạng tử vi để thay đổi quan niệm lỗi thời, cũ rích ắt không phải là con đường xa lộ dẫn đến mục tiêu. Bởi 1 vấn đề nho nhỏ là ngũ hành các sao của các môn phái tử vi đương thời còn là 1 hố cách biệt thay huống hồ là công tác trọng đại này.
Tuy nhiên, năm này ta chưa cải cách được thì 10 năm, 20 năm sau giới trẻ chúng ta sẽ lại bắt tay vào công cuộc khám phá nối tiếp công trình của tác giả để khoa học hóa môn tử vi, đưa nó vào chương trình giáo dục văn hóa đặc thù của dân tộc Việt. âu cũng là 1 phương thức cải cách đời sống tinh thần của người VN cho hợp lẽ tự nhiên của tạo hóa mà tác giả đã bắt đầu gieo cuống nó 1 hạt giống rồi vậy.
Qua 10 tác phẩm tử vi, chúng ta vừa phớt qua trên căn bản tổng quát, ta thấy 10 tác giả là 10 quan niệm khác nhau do kinh nghiệm, do bí truyền, do sáng kiến của cá nhân. Thành ra khoa Tử vi thật sự chỉ cống hiến cho đời 1-2 khía cạnh tầm thường nặng về quyền lợi vật chất, nặng về danh quyền khoa bảng, nặng về cá nhân phù du (ba vạn sáu nghìn ngày là mấy?), và dưới nhãn quan của dân chúng, thầy tử vi được đồng hóa …
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Những điều kiêng kỵ đầu tháng ngày mùng 1 âm lịch theo tâm linh thường được mọi người truyền tai nhau và thực hiện. Để an tâm, bạn cũng nên tham khảo nhé.
Vào ngày đầu tháng, mọi người thường kiêng xuất tiền của vì sợ bị "dông" cả tháng. Tương tự như vậy, dân gian kiêng đi vay mượn, đi trả nợ.
![]() |
| Ăn thịt chó vào đầu tháng sẽ bị xúi quẩy |
Theo quan niệm dân gian, nếu ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt, xôi trắng vào ngày đầu tháng (từ mồng 1 - mồng 10) theo Lịch Vạn Niên thì sẽ bị hãm tài, xúi quẩy, bệnh tật lâu khỏi, mất của, không may...
![]() |
| Ra ngõ gặp gái rất kỵ cho người làm ăn buôn bán |
Người buôn bán rất kỵ việc vào buổi sáng sớm có khách tới xem hàng, đã thỏa thuận giá cả nhưng lại không mua hàng nữa. Họ quan niệm như vậy thì trong cả ngày đó việc buôn bán sẽ gặp xúi quẩy. Để xua đuổi sự xúi quẩy này người bán hàng sẽ phải "đốt vía" bằng cách vơ vội nắm rác hay que đóm, tờ giấy... quanh đó rồi châm lửa đốt ngay trước mặt người mua hàng vô duyên đó.
Điều kiêng ngày mùng 1 mà hầu như ai cũng biết là cát tóc. Người ta cho rằng, tóc là một phần thân thể, cắt vào ngày đầu tháng thì tháng đó sẽ tiêu hao tiền bạc, sức khỏe.
![]() |
| Cãi nhau đầu tháng khiến bạn gặp nhiều xui xẻo |
Nhiều người quan niệm nếu đầu tháng mà nói bậy chửi tục thì cả tháng sẽ gặp những chuyện thị phi, nói điều rủi thì sẽ gặp điều xấu giống như lời nói. Vì vậy nói lời không hay là điều không nên làm ngày đầu tháng.
Ông bà ta quan niệm, vỡ, bể là những từ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa trong gia đình. Vì thế, trong ngày đầu tháng theo lịch âm không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.
Theo Những điều kiêng kỵ theo phong tục dân gian
Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Cơ mưu, quyền biến, gian xảo, thủ đoạn, dối trá, đa nghi, ám hạiTên gọi tắt thường gặp: Binh
Phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Cũng là một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn).
Ý Nghĩa Phục Binh Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Phục Binh ở Mệnh thì có tính đố kỵ, cạnh tranh, hay nói xấu, dèm pha người khác, hoặc mình cũng hay bị nói xấu, đố kỵ, bị người mưu hại.
Ý Nghĩa Phục Binh Với Các Sao Khác