Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
a - Đứng đúng chỗ hay không? Miếu hay hãm địa?
b - Sinh ban ngày hay ban đêm?
c - Sinh vào thượng tuần, trung tuần hay hạ tuần trong tháng?
Thái âm đóng Hợi Tí Sửu tốt nhất; Thân Dậu Tuất thứ nhì; ở Dần Mão Thìn thì gọi là thất huy (mất vẻ sáng); ở Tỵ Ngọ Mùi là lạc hãm. Trong chỗ tốt nhất thì Hợi tốt hơn cả, cổ nhân đặt thành cách:”Nguyệt lãng thiên môn”
Sinh ban ngày hay ban đêm chia theo 2 nhóm giờ như sau:
1. Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi.
2. Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí, Sửu.
Về thượng tuần hay hạ tuần thì từ 1 đến rằm là thượng tuần, từ 16 đến ba mươi là hạ tuần. Thượng tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi tròn. Hạ tuần mặt trăng mỗi ngày mỗi khuyết. Tròn tốt, khuyết xấu. Người sinh hôm rằm trăng tròn tới cực điểm lại không đẹp bằng người sinh ngày 13, 14.
Về Thái âm trong những câu luận đáng có một câu đáng chú ý là: “Thái âm tại Mệnh Thân cung tuỳ nương cải giá” – nghĩa là bỏ chồng về nhà mẹ đẻ? Điều này không phải cứ Thái âm là áp dụng. Còn phải tuỳ Thái âm có rơi vào hãm địa không đã. Nếu Thái âm ở Tỵ, lại sinh vào hạ tuần mà sinh vào ban ngày nữa thì lời luận đoán trên rất đúng về cái việc “tuỳ nương cải giá”, còn thêm sát tinh phụ hội thì lại càng đúng hơn, nhất là Hoả Tinh.
Cổ nhân còn viết: “Thái âm thủ mệnh bất lợi cho những người thân thuộc về phái nữ, vào số trai mẹ mất sớm, về cuối đời goá vợ, xa chị em gái; vào số gái cũng thế, ngoài ra còn ảnh hưởng đến cả bản thân nữa”. Điều này cũng chỉ có thể áp dụng qua tình trạng Thái âm lạc hãm, sinh thượng tuần, hạ tuần và sinh ban ngày ban đêm.
Thái âm vào cung Thân, ảnh hưởng còn nghiêm trọng hơn so với Thái Âm đóng Mệnh. Với trường hợp Thái âm tại Tỵ mà gặp Thái Dương Thiên Lương ở Dậu, rồi bên cạnh Thái Âm còn gặp sát tinh hội tụ nữa, ảnh hưởng nặng nề hẳn.
Với thời đại ngày nay, chuyện “tuỳ nương cải giá” không như ngày xưa nên khi nói về hậu quả của sự việc ấy phải rộng rãi hơn. nhiều hướng và nhiều ý nghĩa khác nữa. Nguyên tắc của Tử vi sao hay có cặp đôi thấy Thái Âm thì trước tiên hãy xem thế đứng của Thái Dương.
Trong bản số chỉ có 2 cung Thái Dương Thái Âm đứng một chỗ là Sửu và Mùi. Nếu tốt cả hai cùng tốt, mà xấu thì cả hai cùng xấu. Các sao đi cặp, hễ các sao xung chiếu bị ảnh hưởng tốt xấu đều phản xạ qua sao bên kia.
Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì ở Mùi tốt hơn ở Sửu. Tại sao? Vì Thái Dương ảnh hưởng mạnh hơn Thái âm mà Mùi cung thì Thái Dương không bị “thất huy” như ở Sửu mới có sức trợ giúp Thái âm. Cho nên Nhật Nguyệt ở Sửu, cuộc đời khó hiển đạt và lên xuống thất thường, còn Nhật Nguyệt ở Mùi thì an định hơn.
Nhật Nguyệt đồng cung mang nhiều khuyết điểm, vì cổ ca viết: Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hội, tịnh minh nghĩa là, Nhật Nguyệt đóng Mệnh không bằng chiếu Mệnh hoặc đứng hai chỗ cùng sáng như Thái Âm Hợi, Thái Dương Mão hoặc Thái Âm Tuất, Thái Dương Thìn.
Phú nói:
Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi
Tam phương vô cát phản vi hung.
Vậy thì cách Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần những sao tốt khác trợ lực mới đáng kể.
Thái âm gặp Cự Môn Hoá Kị bị nhiều phiền luỵ. Như trường hợp Mệnh VCD gặp Nhật đóng ở cung Thân, Nguyệt đóng ở cung Ngọ thì lúc ấy bên cạnh Nhật có Cự mà lại thêm Kị thì phá mất cái tốt của việc hợp chiếu. Thái Âm cũng không ưa Thiên Lương, trong trường hợp Thái Âm đóng ở Tỵ mà Dương Lương từ Dậu chiếu sang thường đưa đến tình trạng vợ chồng ly tán. Trường hợp Mệnh Cự Môn Thái Dương mà cung Phu thê có Đồng Âm gặp Hoá Kị duyên cũng khó bền.
Về Thái Âm cổ nhân còn tìm thấy cách “Minh châu xuất hải” (hòn ngọc sáng rực ngoài biển khơi). Cách này đòi hỏi Mệnh VCD tại Mùi, Thái Âm đóng Hợi, Thái Dương đóng Mão. Sách viết: “Nhật Mão Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung. Minh châu xuất hải vị tam công” (Thái Dương Mão, Thái Âm Mùi, Mệnh lập Mùi là cách minh châu xuất hải chức vị cao, quyền thế). Nhưng cách “Minh châu xuất hải” vẫn phải cần Tả Hữu đứng cùng Nhật Nguyệt mới toàn bích, thiếu Tả Hữu mà gặp thêm hung sát tinh thì chỉ bình thường.
Luận về Thái Dương Thái Âm còn phải chú ý đến các cách giáp mệnh. Như Thiên Phủ thủ Mệnh ở Sửu, Nguyệt tại Dần, Nhật tại Tí; Thiên Phủ Mùi, Nguyệt ở Thân, Nhật giáp từ cung Ngọ.
Rồi đến Nhật Nguyệt hiệp Mệnh như Tham Vũ ở Sửu và Mùi. Tham Vũ Sửu thì Thái Âm Tí, Thái Dương Dần. Tham Vũ Mùi thì Thái Âm Ngọ, Thái Dương Thân. Mệnh lập Sửu vẫn tốt hơn Mệnh lập Mùi. Hiệp với giáp vào cung vợ chồng không mấy tốt, nếu kèm theo hung sát tinh đưa đến tình trạng hôn nhân có biến.
Trường hợp Thiên Phủ ở cái thế kho lủng, kho rỗng, kho lộ mà giáp hiệp càng gây khó khăn hơn. Thái Âm là âm thủy chủ về điền sản, tiền bạc.
Thái Âm thủ Mệnh nữ hay nam đều có khuynh hướng về hưởng thụ. Công việc gì cần nhẫn nại gian khổ không thể giao cho người Thái Âm. Thái Âm vào nữ mạng sinh ban đêm là người đàn bà có nhan sắc, có cả Xương Khúc nữa càng mặn mà. Thái Âm trên khả năng thông tuệ nhưng lại thiếu nhẫn nại để mà học cao đến mức hiển đạt về học vấn.
Thái Âm hãm độc tọa thủ Mệnh vào nam mạng thì nội tâm đa nghi. Vì Thái Âm chủ về điền sản nên đắc địa vào cung điền trạch rất tốt. Thái Âm đắc địa thủ mệnh số trai dễ gần cận phái nữ không ồn ào mà âm thầm nhưng khi thành gia thất rồi, vợ nắm quyền.
Thái Âm nữ mạng đắc địa, đa tình lãng mạn, thiện lương nhưng thiếu chủ kiến, có tâm sự u uẩn phải bộc bạch ra mới yên, với bản chất qúy thủy (nước trong) nên bao giờ cũng thích làm dáng, ăn ngon mặc đẹp.
Thái Âm hãm thủ mệnh lại đứng cùng Văn Khúc hãm nữa chỉ thành tựu như một nghệ nhân tầm thường với cuộc sống phiêu bạt, kiếm chẳng đủ miệng ăn. Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn ghi một câu: Thái Âm cư Tí, thủy chừng quế ngạc, Bính Đinh nhân dạ sinh phú quí trung lương (Thái Âm đóng Tí như giọt sương mai đọng trên hoa quế, người tuổi Bính Đinh sinh vào ban đêm giàu sang, tâm địa trung lương vì tuổi Bính tuổi Đinh đều có gặp Lộc Quyền hay Lộc Tồn mà nên vậy)
Sau đây là những câu phú liên quan đến Thái Âm:
- Nguyệt diệu Thiên Lương nữ dâm bằng
(Thái Âm gặp Thiên Lương đàn bà đa dâm và nghèo. Câu này chỉ vào trường hợp Thái Âm ở Mão hay Tỵ, hội chiếu Thiên Lương từ Mùi hoặc Dậu, Thái Âm hãm mới kể)
- Nữ mệnh dung nhan mỹ tú, ái ngộ Nguyệt Lương
(Người đàn bà có nhan sắc là bởi Thái Âm Thiên Lương. Về nhan sắc thì Thái Âm hãm hay đắc địa như nhau, duy Thái Âm đắc địa dung nhan phúc hậu hơn)
- Nữ mệnh kị Nguyệt ngộ Đà
(Đàn bà rất kị Thái Âm gặp Đà La. Tại sao? Vì ưa loạn dâm. Thái Âm vốn dĩ đa tình lại có Đà La tượng trưng sinh thực khí của đàn bà tức kể như nữ tính quá phần mạnh mà loạn)
- Nguyệt tại Hợi cung minh châu xuất hải tu cần Quyền Kỵ Khúc Xương hạn đáo
(Nguyệt ở Hợi là cách minh châu xuất hải, để phấn phát còn cần gặp vận Khúc Xương Quyền Kỵ)
- Âm Dương lạc hãm tu cần không diệu tối kị sát tinh
(Âm Dương đứng không đúng chỗ cần gặp Tuần Triệt, Địa Không ngại gặp sát tinh hãm hại)
- Thái Âm Dương Đà tất chủ nhân ly tài tán.
(Sao Thái Âm gặp Kình Dương Đà La thì nhân ly tài tán. Đây là nói về Thái Âm hãm thôi)
- Âm Tang Hồng Nhẫn Kỵ Riêu, tân liên hàm tiếu, hạn phùng Xương Vũ dâm tứ xuân tình liên xuất phát. (Thái Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Riêu Kỵ người đàn bà đẹp như đoá sen mới nở, nhưng hạn gặp Văn Xương, Văn Khúc tất sa ngã vì tình)
- Thanh kỳ Ngọc Thỏ tuy lạc hãm nhi bất bần
(Mệnh có sao Thái Âm dù không đắc địa, không bao giờ túng quẫn)
- Âm Dương lạc hãm gia Hình Kỵ Phu Thê ly biệt
(Cung phối Nhật hay Nguyệt hãm mà thêm Hình Kỵ vợ chồng không sống đời với nhau)
- Nguyệt phùng Đà Kị Hổ Tang, thân mẫu thần trái nan toàn thọ mệnh
(Thái Âm gặp Đà La, Hóa Kị, Tang Hổ thì mẹ mất sớm)
- Thái Âm đồng Văn Khúc ư Thê cung thiềm cung triết quế
(Thê cung có Thái Âm đứng cùng Văn Khúc như lên cung trăng bẻ cành quế, lấy vợ đẹp và giàu sang. Nếu là Phu cung thì không được như vậy, tuy vẫn gọi là tốt)
- Duyên lành phò mã ngôi cao
Thái Âm đắc địa đóng vào Thê cung
- Vợ giàu của cải vô ngần
Thái Âm phùng Khúc Lộc Ấn Mã đồng
- Âm Dương Tuần Triệt tại tiền
Mẹ cha định đã chơi tiên chưa nảo
(Phải Âm Dương đắc địa mới kể)
- Âm Dương hội chiếu Mệnh Quan
Quyền cao chức trọng mọi đàng hanh thông.
- Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương Khúc
Việt Khôi Hóa Quyền Lộc Đào Hồng
Thiên Hỉ Tả Hữu song song
Giàu sang hổ dễ ai hòng giám tranh
- Thái Âm lạc hãm phải lo
Kỵ lâm thường thấy tay vò đăm chiêu
- Nguyệt gặp Long Trì ở cùng
Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân
- Thiên Cơ với Nguyệt cùng ngồi
Ở cung hãm địa ấy người dâm bôn
(Cơ và Thái Âm ở Dần, đẹp nhưng lãng mạn)
Về hai sao Thái Dương và Thái Âm còn có một luận đoán đáng kể mà không thấy ở các sách Tử Vi chính thống như sau:
Nam mạng Thái Âm thủ mệnh trên cử chỉ thái độ hao hao như nữ tử, trái lại nữ mạng Thái Dương thủ thì tính quyết liệt, động tĩnh nhiều nét nam tử
Nam mạng Thái Dương thường xung động Thái Âm ở cung đối chiếu thường có khuynh hướng tà dâm, đổi lại nữ mạng Thái Âm thủ xung động Thái Dương thường là thủy tính dương hoa (lẳng.lãng mạn) nhiều ít cũng còn phải tùy thuộc cung Phúc Đức. Nam mạng Thái Âm thủ ưa thân cận với nữ phái, ngược lại nữ mạng Thái Dương thủ thích giao du với nam phái.
Có một câu nói rằng "chớ đánh giá cuốn sách qua cái bìa" nhưng thực tế, từ khi nhà triết học Aristotle viết về nghệ thuật xem tướng mặt, người ta nghĩ rằng có thể suy luận ra các đặc điểm tính cách của một người khi nhìn những đường nét trên gương mặt họ.
Theo Telegraph, mặc dù điều này bị coi là thiếu cơ sở khoa học, hiện đã có bằng chứng cho thấy gương mặt một người có thể định hình số phận của họ: Một nghiên cứu của Đại học Princeton (Mỹ) cho thấy chúng ta mất khoảng 1/10 giây để nhìn mặt rồi đoán tính cách một người và ứng xử với họ dựa trên phán đoán đó, dù nó đúng hay sai.
Vì vậy, các nghiên cứu gần đây cho thấy những người mà chúng ta cho rằng có gương mặt uy quyền (hàm đầy đặn, lông mày rậm) thì dễ trở thành CEO, còn các thẩm phán có khuynh hướng tin là những nam giới mang gương mặt trẻ thơ thường không phạm một số tội nhất định; các chính trị gia có gương mặt trông có vẻ thông thái (xương gò má cao, hàm góc cạnh) sẽ có cơ hội được tín nhiệm cao hơn.
![]() |
Ảnh minh họa: Stuff. |
"Tất cả là ở sự cảm nhận chứ không hẳn do hành vi và tất nhiên phần nhiều trong đó có thể là sự tiên đoán tự trở thành hiện thực: những người nhìn có vẻ thông thái thường được nhận những công việc tốt hơn và sau đó bản thân họ sẽ trở nên thông thái thực sự", Lisa DeBruine, người điều hành Trung tâm thực nghiệm nghiên cứu gương mặt tại Viện nghiên cứu thần kinh và tâm lý học, Đại học Glasgow nói. Bà cùng các đồng nghiệp đã nghiên cứu lý do và cách người ta phản ứng khác nhau trước các hình dạng khuôn mặt khác nhau.
Các nhà nghiên cứu thấy có 13 thuộc tính chính mà con người hay đánh giá bộc phát về một gương mặt: sự hung hăng, vẻ hấp dẫn, sự cảm thông, tự tin, khả năng gây ảnh hưởng, mức ổn định về cảm xúc, trí thông minh, tính bủn xỉn, khả năng chịu trách nhiệm, tính hòa đồng, mức đáng tin, sự hạnh phúc, tính kỳ quặc.
"Chung quy lại, điều chúng ta thường nhìn nhận về một người qua vẻ ngoài là họ có tầm ảnh hưởng như thế nào hay mức độ đáng tin ra sao. Chúng ta tự động đọc các dấu hiệu trên mặt để cố gắng đánh giá xem một người muốn làm điều tốt hay điều xấu với ta cũng như khả năng thực hiện việc ấy của họ", nhà khoa học phân tích.
DeBruine cũng cho biết, bạn có thể tin các bài trắc nghiệm chưa đủ cơ sở khoa học kiểu như "hình dáng khuôn mặt tiết lộ điều gì về tính cách bạn", nhưng thực tế là chiều rộng giữa hai mắt của một người hay hình dáng cằm thực sự chẳng nói lên bất cứ điều gì về tính cách của họ. Nhưng điều đó vẫn không ngăn cản tiềm thức của chúng ta đưa ra đánh giá ngay lập tức.
"Mặc dù luôn muốn mình đưa ra các quyết định dựa trên lý trí nhưng chúng ta lại thường bị lung lạc bởi những gợi ý bề ngoài, như diện mạo chẳng hạn", giáo sư Christopher Olivola, Đại học Carnegie Mellon đưa ra nhận định.
Để hiểu rõ hơn điều này, bạn thử tưởng tượng mình có một người anh hay chị sinh đôi khác trứng: Hai người được nuôi dạy giống nhau, thông minh như nhau, sở thích và mọi thứ khác hầu như y hệt nhau, trừ gương mặt có một chút khác biệt: Một người mắt to, trông thông minh, người kia gò má hơi cao, lông mày rậm hơn chút. Và đường đời của họ sẽ rẽ sang hai hướng khác nhau chỉ vì vẻ bề ngoài không giống nhau đó? Câu trả lời là có.
Theo BBC, chỉ nhìn thoáng vẻ ngoài của bạn, người ta đã có thể đưa ra nhận xét bạn có thông thái, đáng tin hoặc bạn là nhà lãnh đạo hay chỉ nhân viên quèn. Những định kiến này có thể định hình các sự kiện trong đời bạn, từ mối quan hệ bạn bè tới sự cân bằng tài chính của bạn. Rõ ràng, dù bạn tới một buổi liên hoan, gặp gỡ người thân, trả lời phỏng vấn hoặc đi vay ngân hàng thì bộ mặt của bạn có thể sẽ quyết định khả năng thành công.
Định kiến phân biệt diện mạo này được coi là một thực tế không may mắn của cuộc sống. Nếu bạn lỡ sở hữu gương mặt có những đường nét "khó ưa", đời bạn cũng dễ ghập ghềnh. Một số nhà khoa học đã kêu gọi đã đến lúc cần hành động để loại bỏ định kiến kiểu này nhưng việc thực hiện có vẻ không dễ dàng.
VnExpress
– Khảm trạch mở vào cung Càn hoặc Càn trạch mở vào cung Khảm phạm vào Lục Sát: Chủ nam nữ dâm loạn, thanh gia không tốt, chủ đạo tặc, tai nạn thai sản.
– Chấn trạch mở vào cung Càn hoặc Càn trạch mở vào cung Chấn phạm Ngũ Quỷ, sao Ngũ Quỷ thuộc Hỏa sinh cung Chấn – Mộc nên càng xấu hơn. Càn Kim khắc Chấn Mộc chủ thương tử, hại cho cha gia chủ hỏa tai, đạo tặc, quan quỷ lao ngục, cha con bất hòa.
– Càn trạch mở vào Tốn cung, hoặc Tốn Trạch mở vào Càn cung phạm Họa Hại. Càn Kim khắc Tốn Mộc hại cho trưởng nữ, chủ tai nạn thai sản, nam sinh bệnh tật, huynh đệ bất hòa. Sao Họa Hại – tồn thuộc Thổ sinh cho Kim cung nên có tiền nhưng dễ mắc bệnh tật tai họa.
– Càn trạch mở vào Ly cung hoặc Ly trạch mở vào Càn cung phạm Tuyệt Mệnh. Ly – Hỏa khắc Càn – Kim, sao cung lại tương khắc chủ hại cho cha già, thiếu phụ gặp tai ương, hỏa hoạn đạo tặc, phá gia tuyệt tự.
– Khảm trạch mở vào Cấn cung hoặc Cấn trạch mở vào Khảm cung phạm Ngũ Quỷ. Thủy Thổ tương khắc, chủ tai họa, tà ma xâm hại, tự tử, hỏa tai, quan trường bất lợi, nam tử bất hiếu, hại cho trung nam dễ tự tử, yểu vong, xuất hiện quả phụ.
– Khảm trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Khảm cung phạm Tuyệt Mệnh. Mẫu khẩc tử, chủ trung nam bất hòa, phụ nữ sinh khó, sẩy thai, bại tài, quan phi khẩu thiệt, mắc bệnh tì vị, âm vượng dương suy, tôi tớ sẽ nắm quyền trong nhà.
– Khảm trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Khảm cung là phạm vào Họa Hại: sao khắc cung chủ trung nam bất lợi, quan phi khẩu thiệt, nữ dễ mắc sản nạn. Ngoại cung Đoài Kim sinh nội cung Khảm thuộc Thủy nên tử tôn tuy giàu có nhưng dễ mắc bệnh hoặc tàn tật cuối đời.
– Cấn trạch mở vào Chấn cung hoặc Chấn trạch mở vào Cấn cung là phạm Lục Sát. Cấn – Thổ khắc Lục Sát – Thủy, nữ bị sản nạn, thiếu nam thiểu vong, nhân khẩu ít, bệnh tật ôn dịch hoành hành.
– Cấn trạch mở vào Tốn cung hoặc Tốn trạch mở vào Cấn cung là phạm vào Tuyệt Mệnh. Mộc Thổ tương khắc, cung mở cổng cửa khắc cung tọa nên sẽ bất lợi cho thiếu nam, phụ nữ đọa thai bệnh tật, phá tài, chủ nhân sinh chơi bời, phá bại.
– Cấn trạch mở vào Ly cung hoặc Ly trạch mở vào Cấn cung là phạm vào Họa Hại. Sao và cung tuy tương sinh, nội cung sinh ngoại cung chủ cha con bất hòa, dâm loạn.
– Chấn trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Chấn cung nên phạm vào Họa Hại chủ dâm loạn, cung tương khắc cung, hao tổn tiền bạc, nhân đinh suy thoái.
– Chấn trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Chấn cung là phạm Tuyệt Mệnh, còn gọi là hai phương Long Hổ, Kim Mộc giao chiến, hại cho trưởng nam, trưởng nữ, quan phi đạo tặc xảy ra và cung tương khắc.
– Tốn trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Tốn cung phạm vào Ngũ Quỷ. Cung khắc cung cha mẹ nhiều tai họa, sản nạn hỏa tai, nữ nhân nắm quyền do âm thịnh dương suy.
– Tốn trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Tốn cung phạm vào Lục Sát. Cung khắc cung hại cho trưỏng nam, con cháu điên loạn, phá bại, dâm loạn.
– Ly trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Ly cung phạm Lục Sát. Cung khắc sao, Thủy Hỏa Thổ tương khắc hỗn chiến nên tán tài, hại gia súc, đọa thai, gia đình hỗn loạn.
– Ly trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Ly cung phạm Ngũ Quỷ. Sao cung tương khắc, hại cho nữ nhân, cha mẹ ly biệt, tán tài, bệnh tật.
Tướng mạo con người là biểu hiện không những số mệnh, cuộc đời mà còn biểu hiện sức khỏe của chính họ. Dưới đây là một số dấu hiệu nhận biết những vấn đề về sức khỏe qua tướng mạo mỗi người.
Hai tai, miệng mũi đều tối tăm. Hai mắt khi nhìn trực diện thì không chuyển động, tương ứng là biết người đó sắp chết.
Nếu như để phán đoán người bệnh sắp chết thì nên quan sát màu sắc của hai tai, miệng, môi và mũi, nếu như những chỗ này đều có khí sắc đen tối thì sinh mệnh của người này sẽ không lâu dài. Ngoài những hiện tượng trên, nếu mắt nhìn thẳng mà không thể đưa mắt được dễ dàng thì cũng dự báo người đó không sống thọ được.
Toàn thân bệnh nặng nhưng tinh thần minh mẫn. Người bệnh có khả năng quan sát nhanh nhẹn, có khả năng nhìn thấy rõ mọi vật, tam dương nhìn xa, màu sắc của tai tốt. Người mắc bệnh nặng mà có những biểu hiện như trên thì có hy vọng sẽ hồi sinh lại được. Ta nên quan sát thêm ở mắt, nếu bệnh nhân tuy bệnh nặng nhưng mắt vẫn còn tinh tường, hơn nữa thần quang có lực, có thể nhìn thấy trong mắt rất sáng, ngoài sự tinh anh, thần thái của đôi mắt thì sắc tai hồng hào, sáng trong tinh khiết thì người bệnh tất sẽ phục hồi lại được.
Xem lá số tử vi để biết tương lai, vận mệnh cuộc đời mỗi người, giúp bạn hóa giải những tai ương nghiệp chướng trong đời.
Khi quan sát người đó thấy có những biểu hiện, sơn căn tối tăm, thân thể u ám. Khí u tối tập trung ở thiên đình, mũi và vầng trán tăm tối thì bệnh tật nặng và số mệnh sắp kết thúc.
Một người có biểu hiện thể chất của bệnh tật sắp phát sinh được thể hiện đầu tiên trên mũi. Nếu như sơn căn trên mũi tối tăm thì tức là biểu thị săp bệnh. Nếu như khí đen tập trung trên trán đặc biệt là vị trí thiên đình cũng là dự báo thể chất nhiễm bệnh, nếu như đầu mũi có màu đen thì có thể mắc bệnh, có khả năng nguy hiểm tới tính mạng.
Lông mày mọc lung tung không có thứ tự. Bị nhiệt trên trán đỏ, chắc chắn bị hư hàn môi trắng mặt xanh.
Phụ nữ có kinh nguyệt không đều thì xem ở trên lông mày cũng có thể biết được hễ lông mày mọc không thuận tức là lông mày có cái trên cái dưới và đâm vào nhau thì thường khổ về bệnh phụ khoa.
Ngoài những biểu hiện trên ra, nếu bệnh phụ khoa do khí nóng phát ra, tức là trong cơ thể quá nóng thì sẽ có chứng bệnh mãn tính nhẹ do cơ thể nóng sinh ra, thường thì những người bệnh có hiện tượng tóc đỏ, tóc hồng.
Nếu là chứng bệnh do khí lạnh gây ra thì màu sắc biểu thị sẽ là màu trắng, nhất định có biểu hiện môi trắng, mặt xanh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Xòe hai bàn tay ở trạng thái tự nhiên, sao cho hai bàn tay đặt ngang bằng nhau. Sau đó bạn quan sát xem hai đường tình duyên ở hai tay thuộc kiểu nào dưới đây, bạn sẽ biết đời sống tình cảm, hôn nhân của mình ra sao.
![]() |
![]() |
► Theo dõi: Tử vi hàng ngày theo cung hoàng đạo được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
![]() |
![]() |
Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa thích.
Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc như những người khác.
Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.
Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với công việc.
Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp”, chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.
Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương số.
Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.
Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”
Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.
Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.
Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.
Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi”. Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng.
Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổi nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.
Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.
Chúng ta thường thấy bàn thờ Ông Địa, Thần Tài xuất hiện phổ biến trong bất cứ đâu tại Việt Nam như các cửa hàng kinh doanh, các công ty - xí nghiệp hoặc các hộ gia đình. Việc thờ cúng đó có nguồn gốc thế nào và cách thờ cúng ra sao cho đúng ? Dưới đây là 1 số hiểu biết cơ bản để các bạn tham khảo và dùng khi hữu sự.
Thần Tài - Ông Địa là một cặp 2 ông thần được thờ trong một cái tủ thờ, đặt ở dưới đất. Tủ thường làm bằng gỗ và có khi được Tủ thờ Thần Tài - Ông Địa đều đặt hướng thẳng ra phía cửa nhà, thường ở vị trí có vách dựa vào (để tạo sự vững chắc cho tủ thờ cũng như cho sự kinh doanh và cuộc sống của bạn).
Người ta không chỉ cúng 2 ông vào ngày Tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán, kinh doanh thì người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho các vị thần này chu đáo hàng ngày thì mới được các Thần phù hộ làm ăn thuận lợi “tiền vào như nước”. Sáng sớm khi mở cửa bán hàng hoặc kinh doanh, người ta thường thắp hương cầu khẩn Thần Tài “phù hộ” cho họ mua may bán đắt.
Thần Tài - Ông Địa là một cặp thờ tuy về hình chỉ có 1 ông Địa và 1 Thần tài, nhưng Mỗi một vị như vậy là đại diện cho 5 người. Về Thần Tài có : Hắc Thần Tài, Thanh Thần Tài, Bạch Thần Tài , Xích Thần Tài Và Hoàng Thần tài là vị chủ chốt. Còn ông Địa cũng có 5 ông : Đông phương Thanh Đế, Tây phương Bạch Đế, Nam phương Xích Đế, Bắc phương Hắc Đế và Trung ương Huỳnh Đế. Về hình thức bên ngoài thì Ông Địa thường bụng phệ, người trắng nõn, để ngực trần, đầu quấn khăn, tay cầm quạt và hay có con cọp đi theo. Cần phân biệt Ông Địa của Việt Nam và Phật Di Lặc. Phật Di Lặc mang bao bố hay cười tươi, có đồng tử đi theo. Hình ảnh Ông Địa còn khá quen thuộc trong đội múa lân, Ông Địa thường có vai trò cản trở Lân trong việc nhặt tiền thưởng hay quà cúng của gia chủ. Thần Tài thường tay cầm cục vàng (kim ngân lượng) hoặc bạc, đội mũ mão, trang phục nghiêm chỉnh hơn Ông Địa.
Nếu như Thần Tài người ta cúng hoa quả thì trái lại Thổ Địa lại cúng chuối xiêm, thuốc lá hay cúng ly cà phê. Thông tường Thần Tài người Hoa kính trọng và khấn vái nhiều, thì trái lại người Việt luôn luôn khấn vái Ông Địa. Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về hoặc bàn thờ cũ hay bị hư cũng được thay thế bàn thờ mới. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và bàn thờ Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.
Nhìn vào cấu trúc bàn thờ Thần Tài - Ông Địa đúng cách, từ ngoài nhìn vào ta thấy dán trên vách 1 tấm Bài vị là 1 tấm màu đỏ được viết bằng mực nhũ kim với nội dung “Ngũ phương Ngũ thổ Long thần, Tiền hậu địa Chúa Tài thần”. Bên trái là ông Thần tài, bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy, 3 hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải chọn ngày và theo một số thủ tục nhất định.
Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, nguời ta dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang, mọi chuyện trở nên trục trặc liền. Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả ”, lọ hoa bên tay phải - thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền…. đĩa trái cây bên tay trái - nên sắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng, các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập, tượng trưng cho ngũ phương, và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển. Cúng 5 chén nước chứ không phải 3 chén cũng vì tượng trưng cho 5 ông Thần tài và 5 ông Địa đã nói ở trên.
Ông Cóc (hình tượng rất đặc trưng văn hóa Việt) để bên trái, lưu ý là sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào trong với mong muốn tiền của không bị trôi đi. Ngoài cùng trên mặt đất, các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước (làm Minh Đường Tụ Thủy) – một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi. Trong miền Nam khi cúng Thần Tài – Ông Địa, thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng tỏi giúp cho ông Địa có phương tiện để bài trừ ”các đạo chích vong binh” ám muội vì người âm cũng có người tốt kẻ xấu như thường giống người dương mình vậy. Ngoài ra, họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác, phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa, Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó (vì người luyện Bùa, Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ, Tỏi, nén, Kiệu).
Trên nóc bàn thờ Thần Tài - Ông Địa, người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự (tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần). Mục đích là để có sự quản lý, không cho các vị Thần làm điều sai trái.
Thổ Công hay Thổ Địa là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam cai quản một vùng đất đai. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Thông thường, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai như : xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt…... thì người Việt đều phải cúng vị thần này. Với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các vị thần Tài. Do ngày xưa, nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu ngày xưa nên thần Đất cũng là 1 thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh : Thổ sinh Kim (đất sinh vàng bạc)…
Có lẽ vì lý do đó mà đến tận bây giờ, Thần Tài và Ông Địa (Thổ Địa) vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty lớn – nhỏ, cửa hàng bán lẻ, tư gia . Người Hoa sang VN làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Ông Địa - Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Theo tín ngưỡng dân gian, Ông Địa - Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều phải có bàn thờ Ông Địa - Thần Tài.Ông Địa - Thần tài được người Hoa truyền cho dân Việt.
Thờ cúng Thần Tài - Ông Địa có 4 đặc tính lưu ý như sau đây:
Chúng ta thường chọn chó theo màu sắc mình yêu thích nhưng không để ý rằng màu lông chó ảnh hưởng tới cả vận may của mình và không phải ai cũng có thể nuôi được loài thú cưng này.
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Fon Fon
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy đi du lịch Hành động đi du lịch là biểu tượng của danh tiếng và sự thành công trong giấc mơ. |
1. Theo ngũ hành hỷ kỵ mà chọn nghề nghiệp
Mệnh chủ hỉ Mộc
Mệnh chủ hỉ Mộc, lấy nghề nghiệp có liên quan đến Mộc là hay nhất. Từ Mộc dẫn dắt đi, loại công việc này đại thể là nghề Mộc, máy xẻ gỗ, đồ dùng gia đình, công việc giống cây trồng, chè, thuốc, hoa quả, bông, nghề làm giấy, văn giáo, nhà văn, xuất bản, hiệu sách rồi đến chính trị, văn thư, công thương, giáo dục, y vụ, tôn giáo v.v...
Mệnh chủ hỉ Hoả
Mệnh chủ hỉ Hoả, lấy nghề có liên quan đến Hoả là tương đối tốt, do Hoả dẫn dắt, công việc đại thể là nghề ăn uống, hàng cơm, khách sạn, nhà máy, bách hoá, mỹ dung, quang học, máy ảnh, gương kính, điện lực, điện khí, pháo, công xưởng, in ấn, nhà bình luận, quân giáo
Mệnh chủ hỉ Thổ
Mệnh chủ hỉ Thổ, làm nghề có liên quan đến Thổ là tương đối thích hợp, do Thổ dẫn dắt, loại nghề này đại thể có nông nghiệp, chăn nuôi, sản phẩm đất, khoáng sản, nhà đất, kiến trúc, mua bán đồ cổ rồi đến môi giới, kinh tiêu, quản lý mua bán, mộ táng, thầy phong thuỷ v.v...
Mệnh chủ hỉ Kim
Mệnh chủ hỉ Kim, làm nghề gì có liên quan với Kim là tương đối thích hợp, Từ Kim dẫn dắt, nghề này đại thể là Ngũ Kim, tiền bạc, cơ giới, giao thông, ô tô, điện gia dụng mài dao, rồi đến nghề luật sư, diễn viên điện ảnh, âm nhạc, kế toán, khoa học kỹ thuật, khai thác, xưởng khoáng sản.
Mệnh chủ hỉ Thuỷ
Mệnh chủ hỉ thuỷ, làm việc gì có liên quan đến thuỷ là thích hợp. Từ thuỷ dẫn dắt, nghề đại thể là thuỷ lợi, hàng hải, thuỷ sản, bơi lội, quán trà nước, nhà tắm, tiêu thuỷ, rồi đến nghề mậu dịch, du lịch, phóng viên, nghề tự do V. V...
Theo ngũ hành hỷ kỵ để chọn nghề nghiệp, có hai vấn đề đáng chú ý. Một là thuộc tính của ngũ hành nghề nghiệp nhất thời chưa định ra được, ví dụ với diễn viên, có người cho rằng diễn viên đi lưu động nhiều, lẽ ra thuộc thuỷ, nhưng cũng có người cho rằng diễn viên lên bục diễn dưới ánh sáng đèn rất mạnh, nên thuộc Hoả là hợp nhất. Hai là ngũ hành hỷ kỵ, không thể không cùng kết hợp với ảnh hưởng của ngũ hành đại vận, nhất là trong mệnh lại có dịch mã, hoặc địa chi gặp phải hình xung thì càng chịu ảnh hưởng của ngũ hành đại vận.
Ngoài ra về ngũ hành nghề nghiệp, còn có vấn đề lẫn lộn, ví dụ như kiến trúc, ở đây tuy quy thuộc hỷ Thổ nhưng trong kiến trúc không thể không dùng cửa song sắt, cửa gỗ, như vậy đồng thời có cả tính chất Kim và Mộc nữa.
Trên đây chỉ nói về nghề nghiệp cá nhân, nếu như làm việc trong quốc doanh, tập thể, công ty, hầm mỏ và những công ty hợp doanh trong ngoài, vì không thuộc cá nhân nên không bị ngũ hành hạn chế, nếu không sẽ linh tinh lộn xộn.
2. Theo hữu thần khác nhau mà chọn nghề nghiệp
Dụng thần Chính quan
Thông thường là nhân viên làm việc cho chính phủ là tốt như cơ quan chính phủ, bộ môn quản lý hành chính cơ quan tư pháp v.v...
Dụng thần Thiên quan là những người làm công việc nghiêm túc là tốt, ví dụ như nhà quân sự, cảnh sát và người khai thác, phá nổ, thám hiểm leo núi, thầy thuốc ngoại khoa, chỉ huy âm nhạc v.v...
Dụng thần Chính ấn dụng thần là chính ấn thường làm công việc văn giáo là tương đối lý tưởng như văn học, giáo dục, nhà văn, thư ký, nghiên cứu học thuật, sự nghiệp tôn giáo, sự nghiệp từ thiện v.v...
Dụng thần Thiên ấn dụng thần là thiên ấn thông thường làm việc theo nghề nghiệp chuyên môn, ví dụ như nghiên cứu khoa học, thiết kế, phát minh sáng tạo kỹ thuật V.V...
Dụng thần Kiếp tài dụng thần là kiếp tài thông thường là người làm nghề tự do là tốt ví dụ như giáo sư, luật sư, thầy thuốc, thậm chí là người quảng cáo bán hàng cũng được.
Dụng thần Tỷ kiên dụng thần là tỷ kiên thường là người làm nghề tương đối tự do, ngoài ra còn thích nghi với người hợp tác kinh doanh, dĩ nhiên phải xem đúng đối tượng.
Dụng thần Chính tài dụng thần là chính tài thông thường là người làm công việc tài chính là tốt như ngân hàng, thương vụ, thuế vụ, kế toán v.v...
Dụng thần Thiên tài dụng thần là thiên tài thường là người làm thương vụ là tốt, có lợi như kinh doanh đầu tư, kinh tế mậu dịch, giao dịch chứng khoán v.v...
Dụng thần Thương quan dụng thần là thương quan thường với người làm việc có tính độc lập như công tác văn nghệ, như nhà thư pháp, mỹ thuật, nặn tượng, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, diễn viên, nhà văn, nhà viết kịch, biên tập v.v...
Dụng thần Thực thần dụng thần là thực thần thường là người làm công tác văn nghệ được phát huy như nhà thư pháp, mỹ thuật, nhà văn, thậm chí nhà ngoại giao, nhà diễn thuyết v.v...
Cách làm kết hợp dụng thần để chọn nghề nói trên, nhà mệnh lý học hiện đại của Đài Loan là Tân Thiết Bút đã quy nạp như sau: dụng thần là quan, sát thì nên làm quan chức chính quyền, quản lý hành chính. Dụng thần là tài tinh nên làm ngân hàng, tài chính, kinh doanh. Dụng thần là ấn khẩn nên làm văn giáo, nghiên cứu học thuật, tôn giáo, từ thiện. Dụng thần là tỷ kiếp nên làm nghề tự do, đấu võ, lưu động hoặc kết bạn làm ăn. Dụng thần là thực, thương nên làm nghề phục vụ, nghệ thuật, kỹ thuật, về cách nói này, ông Nhan Chiêu Bác của Đài Loan còn có cách giải thích hoặc bổ sung là: Sát ấn tương sinh, có quyền nên là giỏi võ; thương quan sinh tài, nguồn tài thịnh vượng, nên làm kinh doanh; thực thần Thổ tú, thông minh, tú khí, nên giỏi nghệ thuật; quan ấn tương sinh, chính quan thanh tuý, nên làm chốn quan trường; Tài cung, nhất chủ đều cường, bay ngang bay dọc, có thể tự mưu sinh phát triển.
Nhật chủ suy tuyệt, hoặc thân vượng không nơi nương tựa, nhưng cầu được yên tĩnh.
Thương quan khéo tay, có sức sáng tạo mới
Thực thần, hoà khí, khinh khứa đến đông
Thiên âm, trầm tư, có thể làm tham mưu
Chính ấn, hiền lành, điều giải được công việc
Kiếp tài là hỷ, bán tài sản tổ tông mà làm giàu
Kiếp tài là kỵ, ăn uống cờ bạc mà phá sản
Chính ấn văn tĩnh, chính quan cẩn thận giữ quan
Thiên ấn bế tắc, kinh doanh nên mở cửa hàng
Thất sát cứng cổ, thương quan mẫn tiệp, kinh doanh nên là trường đấu.
Quan sát, ấn tinh trong Bát tự trùng nhau là công chức, nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.
Thực thương tài tinh trong bát tự trùng nhau, có thể làm kình doanh nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.
Kinh doanh, bát tự hỷ Mộc, thì hành nghề thuộc Mộc là tốt, các loại khác cũng vậy.
Tổng hợp những điều nói trên, Lương Tâm Minh định cư ở Bản Kiểu Đài Loan cho rằng: Trong cuộc đời, con người đi tìm nghề nên thận trọng, nếu như tìm đúng được nghề hợp với hỷ thần trong mệnh là hay nhất, mà thành tựu cũng lớn, nếu làm nghề trùng với kỵ hung thần trong mệnh, thì lao tâm lao lực mà không đạt được gì.
Tuy nói như vậy, nhưng con người sinh ở trên đời, nghề nghiệp chịu nhiều nhân tố ràng buộc như hoàn cảnh, nhân sự, thòi cơ, hơn nữa, còn có vấn đề nhu cầu của xã hội, còn bị các nhân tố bên ngoài chi phối, không phải mình muôn làm gì là được làm việc ấy.
Cũng như những bông hoa trên một cây bị gió thổi lung lay có bông nằm trên gối thêu hoặc được cài trên đâu người đẹp, có bông rơi xuống vũng bùn, có bông bị người ta dày dưới gót chân, huống hồ là con người? Lý Bạch Đào đã nói thế này: “trời đã cho người ta tài ắt phải dùng” cứ nghĩ như vậy thì anh đừng buồn chán khi mình chưa tìm được vị trí thích hợp. Hãy cứ vững tin đứng chắc trên vị trí hiện có của mình, phát ra ánh sáng và ngọn lửa nhiệt tình, công hiến cho loài người tài năng đang có của mình, sẽ có cơ may điều chỉnh vận số” tương lai của mình.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.
Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.
Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.
Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:
Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh
Bình sinh tác sự quả thông minh
Chí cao khí đại vô nam nữ
Bất miễn hình phu lịch khổ tân
(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)
Thất Sát cô tinh Tham tú phùng
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí
Nữ mệnh đắc thử tính bất lương
Chi hảo cô phòng vi tì thiếp
(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)
Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm sảo dung
Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ
Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông
(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.
Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)
Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.
Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu
Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc
Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.
Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:
- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân
(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)
- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư
(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)
- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương
(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)
- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật
(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)
- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)
- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong
(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)
- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân
(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)
- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong
(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)
- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn
(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)
- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong
(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)
- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ
(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)
- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai
(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)
- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)
- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân
(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)
- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)
- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư
(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)
- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)
- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân
Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành
(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)
- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn
(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)
- Mấy người thủy ách, hỏa tai
Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham
(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)
- Dần Thân Sát Kị trùng gia
Thương chiêu đá mạ thật là gian truân
(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)
- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ
Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không
- Sát phùng Phù Hổ hay đâu
Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung
- Sát tinh chiếu ở cung Đoài
Vì người tham của Phật đài họa toa
(Câu này không rõ nghĩa lắm)
- Ngôi cao chức trọng công hầu
Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung
- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát
Tính cang kiên tài cán đảm đương
Được thêm Kỷ Ất sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen
- Sát Kình ở tại Ngọ cung
Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế
Bậc anh hùng địa vị thênh thênh
- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi
Sát Phá Tham lại hội Văn Xương
Ấy là góa bụa đáng thương
Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình
- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân
(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)
- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân
(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)
- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương
(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)
- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết
(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)
- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược
(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)
- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá
Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi
Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì
- Thìn Tuất Thất Sát xem qua
Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên
![]() |
Hạng 1 | Hạng 2 | Hạng 3 | Hạng 4 | Hạng 5 |
Nhật Băng
(150 điều quyết đoán dứt khoát trong Đẩu Số)
1, Kình Dương lạc Bản cung, đôi khi không đáng sợ mà thậm chí còn đại biểu cho quyền lực. Sợ nhất là lạc vào Thiên Di cung chính chiếu. Gặp riêng Hỏa Tinh hay Linh Tinh cần phải luận khác nhau.
2, Thiên Đồng hoặc Thái Âm thủ Mệnh xinh đẹp. Thiên Phủ tại Mão hoặc Tị thủ Mệnh, thì trường hợp đầu có Thái Âm cư cung Phụ Mẫu, trường hợp sau có Đồng Âm cư cung Phụ Mẫu, mà đều là có Thái Âm hãm địa. Bởi lẽ Phụ Mẫu cung là Tướng Mạo cung.
3, Không Kiếp vào Phúc Đức cung, coi tiền bạc như rác rưởi, rất khó có thể có sự tích góp dành dụm.
4, Thiên Mã và Không Kiếp cùng thủ Tài Bạch cung, chủ nghèo túng thiếu thốn, có tiền không hoa mắt không chịu được.
5, Cự Môn tại Tý Ngọ cung là "Thạch Trung Ẩn Ngọc" cách, cưỡng ép xuất đầu lộ diện hoặc đứng đầu thì tất sẽ gặp họa, còn ẩn giấu ngầm hay kín đáo thì phúc không hề mỏng chút nào.
6, Cơ Lương đồng cung hoặc hội chiếu đến Tài Bạch cung, mưu tính về tiền bạc có thừa sự khéo léo, nhưng chưa hẳn đã được xác định là giàu có.
7, Người có Tham Lang thủ Mệnh, có sở trường giao tiếp chén tạc chén thù rất giỏi, cũng giỏi hiểu tâm lý người khác, ở tại cung độ tốt lành lại có tác dụng hóa thù thành bạn.
8, Thiên Lương có huệ căn (trí tuệ sáng suốt), Thiên Cơ đa học đa năng, Tham Lang cũng chuộng tu luyện thuật thần tiên, cũng có thể học tốt thuật số.
9, Nữ nhân mà có Mệnh cung, Phúc cung hoặc Phu cung có Hồng cao chiếu, đa phần là xinh đẹp mà có sức hấp dẫn, nhưng dễ chiêu phong dẫn điệp (chiêu gió đến dụ bướm bay theo, ám chỉ sự lôi thôi với chuyện tình cảm, bị trêu hoa ghẹo nguyệt). Gia thêm Thiên Hình thì có sự giáo dục kề cận, tự hạn chế với khắc chế được ảnh hưởng của tính buông thả.
10, Hỏa Tinh thủ mệnh quả là nóng nảy gấp gáp, có thể nổi giận bất thình lình, tới lúc người ta trung niên mà hỏa khí vẫn thịnh.
11, Nữ nhân Vũ Khúc thủ Mệnh, thông thường đều giỏi giang, có chí hướng của kẻ trượng phu và tượng của người vợ đoạt quyền chồng.
12, Thiên Cơ thủ Mệnh, tất sẽ có hứng thú say mê học một môn nào đó mà chẳng liên quan gì đến nghề nghiệp cả. Nếu như hội cát tinh, bản thân kiêm quản trách nhiệm kiểm đếm. Nếu như tứ sát mà hội chiếu thì có nguy hiểm yểu thọ.
13, Thiên Đồng tại Ngọ cung lập Mệnh mà cùng với Kình Dương đồng cung, là "Mã Đầu Đới Tiễn" cách, Mệnh của đại tướng quân.
14, Thiên Phủ ở Huynh đệ cung, chẳng gặp lục hung thì có nhiều anh em, cỡ 5 người trở lên.
15, Thiên Tướng thủ Mệnh, Thiên Lương với Hóa Lộc giáp củng gọi là "Tài Ấm giáp Ấn", phúc dày; còn nếu như Hóa Kị và Kình Dương giáp củng thì là "Hình Kị giáp Ấn", có tai họa lao ngục.
16, Phá Quân thủ Phu Thê cung, lại thêm Tả Phụ Hữu Bật hội chiếu, hôn nhân bất lợi.
17, Tật Ách có Kình Hình lạc hãm, là kẻ phải trải qua nhiều lần phẫu thuật, mổ xẻ.
18, Thiên Lương hoặc Thiên Đồng miếu địa thủ Mệnh mà không gặp sát tinh, đa phần rất thọ.
19, Phá Quân hội hợp Hóa Kị là có nguy hiểm về sông nước, đặc biệt Văn Khúc hóa Kị là ứng nghiệm.
20, Thiên Lương sợ nhất là 3 sao Kình, Đà, Thiên Hình hội chiếu, cuộc đời tất phải có 1 lần gặp nguy hiểm tới mức cửu tử nhất sinh.
21, Cung Phu Thê mà có Thái Dương miếu cùng với Cự Môn thì rất dễ kết hôn cùng với người dị tộc (QNB chú: dị tộc đây nên hiểu là người dân tộc khác, hoặc là người nước ngoài - ngày nay).
22, Vũ Khúc tại Mão thủ Mệnh, vóc người nhỏ thấp, giọng nói hơi có âm khàn khàn.
23, Phu Thê cung có sao Quả Tú, nếu tam phương tứ chính không hội cát tinh thì rất có thể ly hôn.
24, Nếu như Đại Hạn cùng với Lưu Niên Tử Tức cung là Thái Dương, xác định là sinh con trai; nếu như là Thái Âm thì xác định là sinh con gái.
25, Của cải cơ bản phân ra làm 3 loại: Của cải của Lộc Tồn là tích tụ mà thành tiền tài; Của cải của Vũ Khúc là việc làm ăn buôn bán hoặc do cơ hội đắc tài nào đó mà thành tiền tài; Của cải của Thái Âm là tiền tài của lương bổng hoặc loại thù lao.
26, Về phần tiền của bất chính, Tham Lang hóa Lộc hội Hỏa Linh, tất có tiền của bất ngờ ngoài dự tính, bao gồm cả từ làm ăn hoặc thu hoạch bất ngờ nào đó. Tiền tài của Phá Quân hóa Lộc càng thuộc loại tiền tài "bất ngờ của bất ngờ".
27, Người có Thiên Lương thủ Mệnh phần lớn có dự cảm, linh tính rất mạnh mẽ, đặc biệt là khi ở tại hãm cung là không sai. Nhưng cũng không phải là trọn cả đời trước sau đều có, mà Phong Thủy đối với cái này cũng có lực trợ giúp nhất định.
28, Thiên Cơ tọa thủ cung Tử Tức gặp sát tinh, thì con cái chắc chắn rất ít, còn có rất muộn.
29, Quan Lộc cung hội chiếu đến là sao Thiên Vu với sao Phong Cáo thì có thể chủ thăng chức; Mệnh cung Văn Khúc hóa Khoa cũng cùng thuộc dạng thăng cấp rất nhanh.
(QNB chú: Sao Thiên Vu được an theo tháng sinh. Theo các bài quyết sau:
Tị Thân Dần Hợi, Thiên Vu vị
Phân luân thập nhị nguyệt tinh quân
=
Vị trí của Thiên Vu theo các cung Tị, Thân, Dần, Hợi
Lần lượt phân bố cả 12 tháng.
hoặc bài quyết:
Dần Ngọ Tuất nguyệt Vu ư Tị
Thân Tí Thìn nguyệt tại Dần cung
Tị Dậu Sửu nguyệt Vu ư Hợi
Hợi Mão Mùi nguyệt tại Thân cung
=
Cứ theo tên Địa Chi của tháng mà an Thiên Vu vào cung trong cùng câu quyết.
Thiên Vu đi hình chữ Z trên lá số, bắt đầu từ tháng giêng ở Tị -> tháng 2 ở Thân -> tháng 3 ở Dần -> tháng 4 ở Hợi -> tháng 5 quay về ở Tị ->.... tháng 12 ở Hợi. Chỉ trong 4 cung ấy mà thôi.
Thiên Vu chủ được hưởng, được thừa kế, thăng tiến,...)
30, Tử Phá cùng thủ cung Quan Lộc, quả nhiên chủ sự nghiệp biến động. Lúc này cần xem thêm cung Nô bộc có thể thu hoạch được rất nhiều thông tin gợi mở.
31, Thiên Tướng thủ ở Phu Thê cung, có câu "Thân thượng gia thân", người phối ngẫu có khả năng chính là đồng sự, đồng nghiệp, bạn đồng môn, hoặc là trước kia đã từng là hàng xóm, ở gần nhau, hai nhà đã từng thân với nhau.
32, Vũ Khúc thủ Huynh Đệ cung, anh em dễ bất hòa, nếu lại hóa Kị thì quan hệ anh em càng thêm tồi tệ.
33, Tham Lang thủ Mệnh ở Tuất cung, gặp sao "Thiên Không" cấp Ất (tức là sao cấp thứ nhì, là Thiên Không trước Thái Tuế trong TV Vịt nhà ta), không có gì là bất lương cả, chẳng qua chỉ là thêm vào cái vốn sẵn hứng thú đối với những sự thuộc về số mệnh và những thứ thần bí; vóc dáng cũng thường trở thành thấp bé.
34, Ở trong mệnh bàn mà Đào Hoa thái vượng, nếu như gặp Thiên Không thủ Mệnh thì không những không sợ Đào Hoa phiền nhiễu quấy rầy mà ngược lại còn càng tỏ ra thanh bạch trinh tiết.
35, Hóa Lộc, Quyền, Khoa hội chiếu xung quanh cung Phụ Mẫu, cha mẹ không nhất định phải là giàu có, nhưng mà được trường thọ. Nếu như lại thấy Không Kiếp, có khả năng còn muốn phụng dưỡng cha mẹ một khoảng thời gian rất lâu nữa.
36, Thiên Lương hóa Lộc dễ chiêu chuốc sự tranh luận phê bình cùng người khác, cho nên Thiên Lương không quá hợp với cái sự hóa Lộc.
37, Thái Dương ở tại cung nào đó cũng không hợp hóa Lộc, như Thái Dương tại Ngọ hóa Lộc thì tổn hại đến chất lượng của nó, lại thêm khiến cho Thiên Đồng ở cung Phu Thê hóa ra nhọc nhằn lao khổ.
38, Phá Quân tại Tuất thủ cung Điền Trạch, lại thêm hóa Lộc, rất rất nhiều đều là có gia sản tổ tiên để lại. Nếu không hóa Lộc, thì quan trọng xem cung Phụ Mẫu như thế nào, nếu như cung Phụ Mẫu có tam phương tứ chính được cát tinh củng chiếu, thì cũng là có được tổ nghiệp. Cho dù cung Phụ Mẫu không được cát thì vẫn có thể được hưởng di sản, có điều là có thể nó đến từ trưởng bối trên mình một đời như là cô dì chú bác... độ chuẩn xác cao đáng kinh ngạc.
39, Tật Ách cung có Lộc tinh quá nhiều hoặc là Lộc trùng điệp, rất nhiều khi lại biểu hiện có bệnh tật. Nhưng mà Hóa Lộc tại Tật Ách lại chưa chắc có thể trị khỏi. Hơn nữa, Phu Thê, Điền Trạch bất cát thì tình hình lại càng thêm tồi tệ. Nhưng mà Hóa Lộc thường hay có thể chữa được.
40, Trong cách cục "Nguyệt Lãng Thiên Môn", Thái Âm tại Hợi mà hóa Kị, cung Thiên Di có Thiên Cơ hóa Lộc bị Kị chính chiếu, Quan Lộc cung có Thiên Lương hóa Quyền cùng Lộc Tồn. Ngược lại so với Thái Âm hóa Lộc mà khiến cho Cự Môn hóa Kị ở cung Phúc Đức, cũng đều tốt đẹp cả.
41, Thiên Cơ hóa Kị kép thủ cung Nô, dễ bị bạn bè bán đứng.
42, Thái Dương hội Cự Môn ở Thiên Di cung, thấy Sát Kị, chủ chết nơi đất khách quê người.
43, Thái Dương tọa Mệnh, vận hạn đi tới cung viên có các sao quý hiển tọa thủ, cần phải đặc biệt để ý đến niên hạn khai vận. Cái gọi là quý hiển tinh đó là Tử, Phủ, Thiên Lương, Thái Âm,...
44, Đại hạn Tật Ách là Phá Quân, thấy Vũ Khúc hóa Lộc, tam Sát hội chiếu mà Hỏa Tinh đồng độ, chủ 10 năm có "nha bệnh".
(Nha nghĩa đen có nghĩa là răng, bộ nhá, cắn xé, môi giới cò mồi mối lái, chỗ quan làm việc của quan chức,...
Bệnh có nghĩa đen là bệnh tật, ốm đau, tai ách, lo âu, băn khoăn lo lắng, chỉ trích mắng mỏ,...
Cho nên nghĩa đen của nha bệnh = bệnh ở răng. Còn nghĩa bóng thế nào thì QNB không biết).
45, Thiên Đồng với Hỏa Tinh ở tại cung Điền Trạch của Lưu Nhật thì chủ thay đổi bóng đèn, sửa đồ điện, điện tử.
46, Thiên Đồng tại Điền trạch cung, thấy Hóa Lộc cùng cát thì chủ có khánh điển (buổi lễ mừng long trọng, lễ kỷ niệm, lễ thành lập gì đó,... có lẽ nên hiểu liền với ý ở câu bên trên).
47, Thiên Đồng tại Điền Trạch cung, thấy các văn tinh thì chủ trùng tu sửa chữa.
(cũng nên hiểu liền mạch với các câu trên).
48, Thiên Đồng thấy Hỏa Tinh tại Điền Trạch cung mà Thiên Lương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ sợ bóng sợ gió vật dễ cháy (lo lắng thấp thỏm bất an).
49, Vũ Khúc hóa Kị cư cung Mão, ở thời nay, có khả năng biến thành sinh tử quan đầu (sống chết ở trước mắt).
50, Đại hạn Thái Dương hóa Lộc với Cự Môn đồng độ, chủ được đề bạt cất nhắc bởi người ngoại quốc, hoặc người khác quê hương xứ sở.
51, Câu "Thái Dương phạ phùng Tù Ám Phá Quân" (Thái Dương sợ gặp Tù, Ám, Phá Quân) là chỉ người vốn có Thái Dương tọa Mệnh, ở dưới 1 điều kiện tình hình nào đó, không thích Đại hạn hoặc là Lưu niên Mệnh cung đi qua các cung vị có Liêm, Phá, Cự Môn.
52, Cung viên vốn có Bắc đẩu tinh tọa thủ, (hạn) lại gặp cung viên có Bắc đẩu tinh tọa thủ nữa, cát hung liền tương đối khẩn cấp, quan trọng. Nếu như gặp cung viên có Nam đẩu tinh tọa thủ, thì cát hung lại nhẹ nhàng chậm chạp. Như "tối hiềm Văn Vũ nhị Khúc song hóa Kị" (rất ngại Hóa Kị kép từ Văn Khúc Vũ Khúc) chính là cái ý này.
53, Khi Thiên Đồng hóa Kị kép thủ Điền Trạch cung cần khán tam phương tứ chính Mệnh cung tinh diệu thế nào, như gặp phải tinh diệu bất cát hoặc Thiên Di gặp Liêm Trinh Hóa Kị với Thất Sát đồng cung thì sẽ có tai nạn rất lớn, đặc biệt là đúng với lúc đi xa.
54, Người mà thiên bàn có Quả Tú thủ Phu Thê cung, nếu lại gặp phải sát tinh củng chiếu vào Phu Thê, đa phần là rất khó thành hôn hoặc là người kết hôn rất muộn.
55, Nếu như người đã kết hôn, khi tại đại hạn gặp phải Quả Tú thủ Phu Thê cung, cũng gặp phải các sát tinh giống trên, thì ở trong đại hạn đó rất dễ ly hôn. Lưu niên gặp phải thì không nhất định là ly hôn, có khả năng xảy ra một số chuyện dạng "quả tú".
56, Đồng Cự đồng cung, bởi vì không được hội chiếu Thái Dương, mặc dù không hóa Kị cũng chẳng đẹp đẽ gì, trừ phi trong nó có một sao hóa Lộc, hoặc giả có cát tinh củng chiếu, mới có thể tiêu trừ những ảnh hưởng không tốt.
57, Thiên bàn Vũ Khúc hóa Kị thủ Tật Ách, nhưng đại vận đi thuận, suốt đời cũng chẳng gặp Vũ Khúc hóa Kị thủ Phu Thê cung, thì phải để ý đến Lưu niên mà gặp Vũ Khúc hóa Kị kép thủ Phu Thê cung.
(QNB chú: tức là ban đầu thì nói đến lá số gốc và cung Lưu Phu Thê của đại hạn ko xảy ra mối quan hệ ấy - thực ra có xảy ra nhưng với điều kiện ở hạn > 96 tuổi
Chỉ có điều, chủ ý của tác giả muốn nói ở đây là nếu không gặp mối tương tác ấy trong đời trên phương diện đại hạn thì cần phải rất chú ý đến tương tác của hạn Lưu niên. Vì cuộc đời vốn thuộc định luật bảo toàn lớn, nó chẳng xảy ra ở chỗ/lúc này thì tất sẽ có xảy ra ở chỗ/lúc khác, dưới một hình thức nào đó).
58, Xương Khúc tại nguyên bàn (tức ls gốc) mà giáp Phúc Đức cung, đa phần là người đặc biệt thông minh và thích đọc sách.
59, Vũ Khúc hóa Kị thủ Điền Trạch: một là không thích hợp để bố trí sắp đặt mua bán tài sản, sản nghiệp. Hai là phải đề phòng công ty, gia trạch bị người cướp bóc, cướp đoạt.
60, Cái người Tử Tham Phúc Đức cung gặp sát tinh xung chiếu, khó tránh được cái chuyện sắc dục mà tổn hại đến sức khỏe.
61, Phụ nữ nếu như Thiên Đồng hóa Kị thủ Mệnh, lại thêm nữa là Phu Thê cung vô cùng náo nhiệt, cực kỳ dễ có khả năng luân lạc phong trần.
62, Đồng Lương thủ mệnh, có khuynh hướng "vóc dáng cao".
63, Phu Thê cung náo nhiệt, mà nếu Mệnh cung có Thiên Hình hoặc Thiên Không, phản chuyển thành chủ thanh bạch thuần khiết.
64, Thiên Đồng hóa Kị thủ Điền Trạch, Tử Tức cung lại nhiều sát tinh hội chiếu, nên cái năm sinh con là vì chuyện đó mà có phiền não rất lớn, tức là mẹ con cùng có tiền đề xa cách, là sản nạn.
65, Người bình thường gặp Quan Phù thường sẽ có phát sinh chuyện quan tụng thị phi. Nhưng nếu cùng hội với Long Đức cùng Tấu Thư, thì dù có quan phi cũng sẽ việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không có.
66, Khi Phá Quân hóa Lộc thường có cơ hội mới mẻ cùng với tiền tài không chính thức, tiền tài bất ngờ. Nhưng mà lúc này cung Quan Lộc nhất định là Tham Lang hóa Kị, biểu thị lúc cơ hội mới đã đến đã bắt đầu, ngay lập tức có người mưu đồ phân chia chén canh miếng ăn, thành ra tự nhiên có triệu của sự tranh đoạt.
67, Phong cách của Phá Quân, thường trong những lúc vô tình không để ý mà làm những chuyện khắc bạc quả ân (cay nghiệt bạc bẽo), nên bị người ta cho rằng vô tình vô nghĩa, khó có thể nhận được sự nhất trí tán thưởng đến từ người khác.
68, Người mà Địa Kiếp với Thiên Mã, Hỏa Tinh cùng thủ Mệnh cung, thông thường ngoại trừ bên ngoài cực kỳ hiếu động hoạt bát, thì thường rất hay có những khuyết điểm nóng nảy kiêu căng, không thanh thản. Loại người này có khả năng vô cùng thông minh, học 1 biết 10, nhưng mà mạch suy nghĩ thiếu sự sâu xa cũng như thiếu chu toàn trong việc lập kế hoạch.
69, Vũ Khúc thủ cung Nô, quan hệ với bạn bè chẳng tốt. Ngoài ra như Không Kiếp, Hóa Kị,... mà tiến nhập cung Nô đều thường là chẳng hay ho gì.
70, Sao Tử Vi nếu không có cát tinh triều củng, đặc biệt lại lạc vào Thìn Tuất, cả một đời gặp nhiều tai lắm nạn hơn so với kẻ khác.
71, Tử Vi gặp Không Kiếp mà lại không có bách quan triều củng, nhiều khi có tư tưởng xuất gia đi tu hành.
72, Kẻ có Tử Vi thủ Mệnh đa phần đều tâm cao khí ngạo, và dễ tin lời người khác, nếu không có cát tinh củng chiếu thì tính tình quả là lầm lì quái gở, khó hòa hợp, hoặc là ngang ngược hống hách, lại thêm sát tinh củng chiếu thì lúc chẳng được như ý sẽ tự sa ngã, tự đánh mất chính mình.
73, Kẻ có Tham Lang tại cung an Thân, rất e ngại gặp phải Thiên Cơ hóa Kị, đúng là hay thay đổi hoặc là đa ưu đa lự, bôn ba lao lực hoặc là rượu chè cờ bạc.
74, Kình Đà Hỏa Linh tứ sát cùng hợp lại chiếu vào Thiên Cơ thì có nguy hiểm yểu thọ.
75, Vũ Khúc chẳng phù hợp thủ ở các cung lục thân, thủ ở cung Phụ Mẫu dễ hình khắc, trừ phi có Thiên Phủ, Thiên Thọ để hóa giải; thủ ở Bào cung thì anh em vô duyên cùng không hòa thuận, có cát tinh củng chiếu cùng nhập miếu thì có thể tránh được.
76, Vũ Khúc thủ Tử Tức cung thì chậm muộn có con, có khi chậm đến sau 40 tuổi mới có con cái, mà con cái thì tính nết cương cường, gặp Hóa Kị với Tứ Sát thì chẳng có con.
77, Thiên Đồng hóa Kị tại cung Hợi, lại kiêm hội tứ sát với các sao Kiếp, Không, Thiên Hình, thì hình khắc cô đơn hoặc là vô cùng vất vả lao khổ hoặc là có phá tướng hoặc có các sự việc tai bệnh,...
78, Thiên Đồng thủ Mệnh ở Tuất cung, đối cung có Hóa Kị chính chiếu, nhưng lại kiêm hội Lộc Tồn và hóa Lộc, chính là bĩ cực thái lai, hết cùng lại thông, thuộc loại thượng cách được cưng được quý.
79, Thiên Đồng dễ thay đổi tâm tình, thủ ở cung Phu Thê thì cần chậm hôn nhân mới có thể được bạch đầu giai lão.
80, Liêm Trinh sợ lạc hãm với hóa Kị, như thế dễ bị chìm trong tửu sắc mà đối diện với họa.
81, Thiên Phủ tọa Thìn Tuất nếu hội chiếu đến có lục cát tinh thì bất luận theo sự nghiệp thương mại hay chính trị đều có thể trở nên nổi bật, xuất sắc.
82, Kẻ có Thiên Phủ thủ Mệnh cũng có sở trường ở việc giải hòa, giải quyết tranh chấp mâu thuẫn.
83, Thái Âm với Thiên Cơ đồng độ thủ cung Phụ Mẫu, mặc dù không hình khắc nhưng dễ sớm xa rời cha mẹ.
84, Tham Lang ở tại Thìn Tuất, đối cung có Vũ Khúc hội chiếu, thì trước giàu sau nghèo, phải sau 30 tuổi mới có thể phát đạt được.
85, Kẻ có Tham Lang thủ Mệnh thì lông tóc nhiều, dày và đen, ở Thìn Tuất cung thì vóc người cao lớn.
86, Tham Lang thủ Mệnh lại giỏi việc bố thí chút ơn huệ cho người khác, có thể hóa thù thành bạn.
87, Tham Lang thủ Mệnh tại Dần cung, rất sợ tứ sát củng chiếu, dễ có tai họa lao ngục.
88, Tham Lang thủ Mệnh tại Ngọ cung, là cách "Mộc Hỏa thông minh", chủ nhân lắm kế nhiều mưu.
89, Tham Lang thủ Huynh Đệ cung hội chiếu cát tinh, anh em hòa thuận, nếu ngược lại thì bất hòa. Nếu cùng với Liêm Trinh đồng cung thì cô đơn hoặc là bất hòa.
90, Tham Lang thủ ở Phu Thê cung mà chậm kết hôn hoặc là kết hôn với người từng trắc trở hôn nhân trước đó rồi, thì lại được đẹp đẽ.
91, Tham Lang thủ cung Tử Tức hội chiếu cát tinh thì có 3 con trở lên, cùng với Tử Vi đồng độ thì rất muộn mới có con cái, nếu hóa Kị thì con cái lắm tai bệnh.
92, Tham Lang hóa Kị thủ cung Phụ Mẫu, lại kiêm hội các sao Hồng Loan, Thiên Hỉ, Liêm Trinh, Hàm Trì, Thiên Hình, thì thường đa phần là thứ xuất (con của vợ lẽ sinh ra).
93, Cự Môn hóa Kị lại bị hội chiếu bởi tứ sát cùng các hung tinh, mà lại không có cát tinh hóa giải thì phát sinh tình huống nhảy cầu tự vẫn hoặc uống thuốc độc quyên sinh.
94, Thiên Lương với Thiên Cơ đồng độ, nhiều khi có tư tưởng xuất thế.
(QNB chú: Cũng có thể là ý muốn cao ngút trời mà cũng có thể là tư tưởng xuất gia thoát tục).
95, Thiên Lương không hợp với Tài tinh đồng độ, hội chiếu thì có thể được. Nhất là ở Ngọ cung thì chẳng sai đâu, dễ bị người ta oán, ít có nhân duyên.
96, Kẻ có Thiên Lương tại cung Tị lạc hãm thủ mệnh, thường hay phải gánh vác nhiệm vụ đặc thù nào đó, hoặc hoặc bản thân phải kiêm việc quản lý chức vụ kiểm đếm, thí dụ như kẻ có thân làm gián điệp.
97, Kẻ có Thiên Lương lạc cung Phu Thê, thường hay kết phối với người già hơn, lớn hơn, trưởng hơn, cấp trên,... thí dụ như kết hôn với người lớn tuổi hơn so với bản thân mình.
98, Thất Sát thủ cung Huynh Đệ hội chiếu Tả Hữu, tất nhiên là lắm anh nhiều em.
99, Thất Sát thủ cung Phu Thê thì người phối ngẫu có năng lực xử sự giải quyết công việc độc lập, có thể một mình đảm đương phụ trách công việc.
100, Thất Sát thủ cung Tử Tức thì chậm có con, tại 2 cung Mão Dậu thì càng chậm muộn, cũng không nên hội với các sát kị tinh.
101, Thất Sát thủ cung Phụ Mẫu có tượng là lúc bé phải lìa nhà xa tổ, cũng chủ hình khắc, có Tử Vi hoặc cát tinh đồng độ hoặc hội chiếu thì có thể tránh được.
102, Phá Quân rất sợ lạc Thìn Tuất, cả đời sóng gió rất lớn, vả lại những tai vạ gặp phải đều không hề tầm thường, hoặc là có bệnh tật mãn tính hay kéo dài dây dưa lâu năm.
103, Phá Quân rất hợp với lập Mệnh ở cung Tý Ngọ, có Lộc Quyền Khoa mà không có ác sát hội chiếu, phúc trạch vô cùng dày, có thể là trụ cột của quốc gia, cũng có thể là nho tướng có tiếng tăm danh vọng cực cao.
104, Kẻ có Vũ Phá đồng cung tại Tị hóa Lộc, là tướng lĩnh uy chấn biên cương, tại Hợi thì kém hơn 1 chút xíu.
105, Phá Quân tại Dần Thân lập Mệnh, đa phần là kẻ tính tình quật cường, lúc nhỏ dễ lìa nhà xa tổ. Hơn nữa, thủ mệnh ở Dần Thân cung thì tất là Tử Vi thủ Phụ Thê cung, cần xem xét kỹ nó hội cát hung tinh như thế nào, có kẻ thì cả đời chẳng kết hôn nhưng cũng có người 2 lần lên xe tăng.. à nhầm... lên xe hoa.
106, Phá Quân thủ Huynh Đệ cung, chủ anh em không thích sống chung hoặc là không cùng chí hướng.
107, Phá Quân thủ cung Tử Tức, thì gặp phải tình huống đứa con đầu dễ có phá tướng.
108, Phá Quân lâm vào Phụ Mẫu thì rất sợ có Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh đồng cung, đều chủ hình thương, với Tử Vi đồng cung cùng với cát tinh củng chiếu thì có thể miễn hình khắc.
109, Thái Dương thủ Mệnh, không câu nệ tiểu tiết, tính tình hào sảng, nhưng lại dễ chiêu chuốc oán.
110, Thái Dương thủ Mệnh tại miếu cung, đại đa số đều có sắc mặt hồng nhuận; tại hãm cung thì đại đa số có sắc mặt trắng, thân thể hay có nốt ruồi lạ.
111, Thái Dương hãm hóa Kị lại thủ ở cung Quan Lộc thì sự nghiệp nhất định bấp bênh không ổn định, tượng của sự thay đổi nghề nghiệp / công việc.
112, Nữ mệnh có Thái Dương hóa Kị thủ cung Phu Thê với cung Tử Tức, thì đối tượng (tức là chồng con) khó mà được vừa ý, cũng rất dễ vì nam giới (người đàn ông, chồng, con trai) mà phiền lụy mệt mỏi.
113, Đại hạn có Thái Dương hóa Kị tại cung Quan Lộc, Lưu Niên lại gặp Thiên Cơ của thiên bàn hóa Kị ở cung Tài Bạch, nhất định sự nghiệp sẽ gặp phải gãy đổ rất lớn, kinh tế cũng trở ngại, nguy khốn.
114, Kẻ có Thái Âm hóa Kị thủ cung Huynh Đệ, thì thường là người có sự quan tâm tình cảm anh em huynh đệ quá mức, nguyên nhân của nó là do làm cho người ta không yên tâm.
115, Lưu Niên mà Thái Âm hóa Kị kép tại bản cung là biểu thị có sự lo lắng bất an, mất ngủ, ngủ chẳng ngon và dễ giật mình tỉnh giấc.
116, Thái Âm hóa Kị kép tới cung Thiên Di, năm đó không hợp đi xa vì ở bên ngoài nhất định không được toại nguyện, nhất định không có cách nào để có thể trở về đúng với kỳ hạn dự định. Nhưng tuyệt đối sẽ không gặp phải những sự việc khiến cho không thể quay về được, hoặc là những bất trắc khác (chỉ là không về được theo như dự kiến thôi).
117, Liêm Trinh hóa Kị kép rơi vào cung Tật Ách, sẽ có bệnh tật, bao gồm những bất trắc thương vong nghiêm trọng, nham chứng (ung thư ác tính), bệnh thận, bị thương lở loét mưng mủ, thậm chí bệnh về giới tính.
118, Liêm Trinh hóa Kị kép thủ cung Điền Trạch, rất nhiều khi đúng là ứng vào người thân lớn tuổi ở trong nhà gặp phải tai vạ. Nhưng nếu trong nhà lại có người sinh đẻ, có thể giải được cái kiếp nạn ấy.
119, Liêm Sát đồng cung kiêm ngộ Hóa Kị cùng với tứ sát hội chiếu, có nguy hiểm chết trận ở ngoài chiến trường hoặc là có tai họa hình lục (hình phạt, tổn thương, bị nhục, bị giết).
120, Lưu niên ngộ Liêm Sát, rất không nên đi xa, cần đề phòng tai nạn bất trắc hoặc tai họa đẫm máu.
121, Lưu niên đi tới chỗ Liêm Trinh hóa Kị hội Vũ Khúc, có nguy hiểm của mộc áp lôi kinh (cây đè sét đánh điện giât), ngày nay là chủ cả việc bị tai nạn xe cộ hoặc là bị thú cắn tổn thương.
122, Người mà Lưu niên Liêm Trinh hóa Kị ở Tử Tức cung, cần phải đề phòng phát sinh bất trắc con cái có tai vạ (máu me).
123, Điền Trạch cung gặp Liêm Trinh hội chiếu Vũ Khúc đồng thời hóa Kị, nếu lại có Cô Thần Quả Tú đồng cung thì năm đó trong nhà tất sẽ có người già qua đời.
124, Người mà Lưu niên gặp phải Liêm Trinh hóa Kị kép ở cung Nô, gặp phải những phiền lụy vì bàn bè, hoặc bị bạn bè bán đứng, hoặc là bạn bè gây ra những việc nghiêm trọng, hay là có xung đột rất ghê với bạn bè,... Bởi vì nó thuộc đào hoa tinh, cho nên đối với bạn bè khác giới càng cần phải thập phần chú ý.
125, Cự Môn hóa Kị thủ cung Phụ Mẫu, cha mẹ thường khắc khẩu, tranh cãi.
126, Cự Môn thủ Tài Bạch và Quan Lộc, nếu như mà hóa Kị kép thì chẳng có cát tinh nào có thể giải được, không chỉ có phá tài mất của mà còn cần phải rất đề phòng quan tụng thị phi.
127, Đại hạn đến Cự Môn hóa Kị thủ cung Phu, có sát tinh củng chiếu:
Nếu như chưa kết hôn, hồng loan lại vừa vặn thích hợp thuận tiện cho vào thời điểm này tiến nhập phu cung, tay chồng đó ở vào đại hạn này đấy các cô nhé
Nếu đã kết hôn, chỉ gặp phát là lập tức ly hôn.
128, Phàm khán về hiếu phục thì trước tiên cần phải xem cung Điền Trạch. Nếu như Điền Trạch cát, bản thân đại hạn cũng cát, Thiên Cơ hóa Kị thủ Phụ Mẫu thì chủ sớm lìa cha mẹ, cũng không thể cho rằng cha mẹ đoản thọ được.
129, Thiên Cơ hóa kị thủ cung Phu Thê, "tiểu" thì chính bản thân mình có bệnh khiến cho người phối ngẫu lo lắng không an tâm, "đại" thì có thể gây ra vong mạng khiến cho người phối ngẫu sợ hết hồn.
(QNB chú:
Tiểu: có thể ám chỉ lúc trẻ, cũng có thể ám chỉ vợ bé, thiếp,..
Đại: có thể ám chỉ lúc lớn già, cũng có thể ám chỉ vợ lớn, vợ cả,...
Nhưng nếu hiểu theo nghĩa của nặng-nhẹ trọng-khinh thì có thể hiểu theo cấu trúc câu: nhẹ thì khiến người phối ngẫu bất an mà nặng thì vong mạng khiến người phối ngẫu hoảng sợ.)
130, Thiên Cơ hóa Kị thủ cung Huynh Đệ chủ huynh đệ phân ly hoặc không có hoặc là ít anh em ruột thịt (đồng bào).
131, Thấy Thiên Cơ hóa Kị thủ cung Huynh Đệ hội chiếu có Tả Phụ Hữu Bật thì cần phải quan sát ngay sang cung Phụ Mẫu, bởi vì khi đó rất có khả năng có anh em khác cha/mẹ (dị bào).
132, Tử Tức cung Thiên Cơ hóa Kị, lại thấy sát tinh hội chiếu thì khó có con (trai), nhưng có khả năng có con gái.
133, Lưu niên mà Thiên Cơ hóa Kị, hoặc Thái Âm hóa Kị, thủ ở cung Điền Trạch, hoặc Tử Phá cùng thủ ở Điền Trạch, thì đều là có tượng của sự chuyển nhà, thay đổi chỗ ở.
134, Thiên Đồng nếu hóa Kị kép thủ ở cung Tật Ách, thì phần chân của người đó nhất định có vấn đề, khả năng bị viêm loét mưng mủ hoặc là động đến các thủ thuật dao kéo phẫu thuật,...
135, Thiên Đồng hóa Kị kép thủ ở cung Điền Trạch, trong gia đình có bầu không khí u buồn ảm đạm, nếu như cát tinh hội chiếu thì phòng ốc nhà cửa có sự sửa sang rất tùy tiện, hoặc là thay đổi thay thế nhiều thứ lung ta lung tung.
136, Thiên Đồng hóa Kị kép thủ ở cung Phu Thê thì chứng tỏ sự phức tạp phiền nhiễu trên phương diện tình cảm, đại đa số thuộc kiểu tâm tư biến đổi, cũng không hẳn là có người thứ 3 chen vào, đối với người đã kết hôn mà gặp phải thì dễ sống riêng, ly thân, thậm chí là ly hôn.
137, Thiên Đồng hóa Kị cùng Cự Môn đồng cung ở Sửu Mùi, nếu như là Phu Thê cung, thì vợ chồng không "chiến đấu" long trời lở đất là không chịu được
(Chiến đấu ở đây có nghĩa là cãi cự ầm ĩ, cự nự tranh luận, choảng nhau tung tóe,...).
138, Thiên Đồng hóa Kị thủ Mệnh, đối với người nam mà nói là người bất mãn với hiện thực, mà còn thường rất hay xử sự theo cảm tính.
139, Xương Khúc hóa Kị thủ mệnh cung, là người làm việc rất qua loa sơ sài, cũng chủ về hay quên, đãng chí.
140, Xương Khúc hóa Kị thủ cung Quan Lộc, dễ xảy ra việc lưu ban học lại, cũng dễ gặp phải một số việc nhẹ dạ cả tin khiến cho người ta cảm thấy thất vọng. Cũng phải đề phòng sai lầm sơ suất trong các văn kiện.
141, Văn Xương hóa Kị thủ cung Phụ Mẫu: một là không cách nào kết nối hòa hợp cùng với cha mẹ. Hai là nếu hội hợp Thiên Cơ với sát tinh thì chủ tuổi nhỏ thì đã phải xa cách cha mẹ.
142, Văn Xương hóa Kị kép rơi vào cung Nô, lưu niên Tài Bạch cung lại gặp Thiên Đồng hóa Kị, năm đó sẽ bị bạn bè hoặc là thủ hạ cấp dưới làm liên lụy mà phá tài, mất của.
143, Vũ Khúc hóa Kị thủ cung Tật Ách, ốm đau bệnh tật cũng có phân chia mức độ nặng nhẹ. Nhẹ như đau răng, nặng như bị phù thũng sưng to hoặc là bị sỏi thận. Chủ yếu cần phải khán sự hội chiếu của sát tinh. Nếu như Kình Đà Linh cùng củng chiếu nhưng mà nếu cả 3 sao đều không tiến nhập bản cung thì tình huống sẽ rất nhẹ nhàng; còn sẽ rất nghiêm trọng khi mà 2 sao nhập bản cung còn 1 sao lại hội chiếu.
144, Vũ Khúc hóa Kị kép thủ cung Tài thì có nguy hiểm phá sản.
145, Vũ Khúc tại cung Mão lập Mệnh, hội chiếu Hóa Kị cùng với sát tinh, thì có nguy hiểm cây đè sét đánh. Nếu như lập Mệnh ở cung Dậu cũng có tai vạ bất trắc khó lường, như lại gặp thêm hóa Kị với Sát tinh thì sẽ có tai nạn lao ngục.
146, Vũ Khúc hóa Kị thủ Điền Trạch cung, trong lúc mua sắm bất động sản hay đồ nội thất, rất hay xảy ra tranh chấp bất hòa hoặc là một số chuyện phiền toán mà không dự tính trước được.
147, Tham Lang thủ Dần cung hóa Kị, lưu niên đi tới biến thành Điền Trạch cung hóa Kị kép, nếu lại gặp phải Hỏa Linh, cần đặc biệt chú ý đề phòng hỏa hoạn, bị bỏng (hỏa tai).
148, Tham Lang hóa Lộc có thể trong những lúc tham gia các cuộc giao tiếp, những bữa tiệc, mà lại dẫn đến có tiền tài, hoặc là có được cơ hội tốt. Nếu như gặp Hỏa Linh, là có tiền tài hoạnh phát bất ngờ.
149, Tham Lang hóa Kị thủ cung Thiên Di, thì xa nhà đi du lịch phải coi chừng bị mất trộm.
150, Tham Lang thủ cung Phu Thê, thì trong lúc mà đôi bên biết/gặp được nhau lần đầu tiên, thì căn bản là chưa hề chú ý đến đối phương, sau khi bẵng đi một thời gian lại ngẫu nhiên ưng ý rồi bắt đầu hẹn hò, mãi cho đến tận lúc kết hôn.
(Quách Ngọc Bội sưu tầm và biên dịch)
Phong thuỷ yêu cầu mảnh đất phải “tàng phong tụ khí”, “sơn thanh thuỷ tú”, nước ôm núi, nhấn mạnh trời đất và con người hoà làm một.
Trong cuốn “Dương Trạch Tốỉ Yếu – Tổng luận” có chỉ ra: “ Hình dáng của căn nhà phải vuông vắn, khung nhà phải gọn, có thể quan sát được vị trí tốt. Căn nhà quá cao, quá tròn, quá nhỏ hoặc phình ra phía Đông hẹp phía Tây thì nhất định sẽ phá tài”. Điều này liên quan đến ngoại hình kiến trúc đối xứng. Về kết cấu, nền đất hình vuông tương đối chắc chắn. Về ngoại cảnh thì trông nó có trật tự, đàng hoàng, phù hợp với quan niệm mỹ học truyền thống Trung Quốc.
Ngoài ra, những chất đất khác nhau cũng có quy định khác nhau: “Phàm là những mảnh đất trong kinh thành thì rất cao quý, đắt đỏ”, “Phàm là đất của tỉnh phủ huyện thì đều rộng rãi” (Dương Trạch Thiết Yêu – Tổng luận). “Bên trái căn nhà có nước chảy gọi là Thanh Long; bên phải có đường đi gọi là Bạch Hổ; phía trước có ao , đầm gọi là Chu Tước, đằng sau có gò, đồi gọi là Huyền Vũ. Đây là mảnh đất quý giá nhất” (Dương Trạch thập thư – Luận Trạch ngoại hình). Điều đó chứng minh rằng môi trường bên ngoài của khu đất cũng được quy định theo phong thuỷ. Mà bố cục này được xây dựng trên nền tảng thực tế, đúc rút kinh nghiệm hàng ngàn năm.
Tóm lại, khi chọn lựa mảnh đất trong thành phố hoặc nông thôn đều phải tính đến không gian của nó như phía sau có hạo sơn, phía trước có nước chảy (hoặc bể nước), bên trái và bên phải có núi và đất bảo vệ. Tất cả những thứ đó cấu thành mội đơn nguyên môi trường tương đối khép kín. Chỉ do bản thân kích thước của đơn nguyên môi trường đó có độ to nhỏ khác nhau thì mới tạo ra sự khác biệt tương đối.
Danh: Thanh tú, ôn hòa, lanh lợi, trung niên cát tường, cuối đời hưởng phúc.
Dậu: Nhiều bệnh tật, nếu kết hôn và sinh con muộn sẽ đại cát, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời phát tài phát lộc.
Dĩ: Thông minh, nhanh nhẹn. Công danh, tiền đồ sáng sủa nhưng hiếm muộn đường con cái.
![]() |
Diệp - Thanh tú, đa đài, hiền hậu |
Diễn: Cuộc đời thanh nhàn, trung niên cát tường, có 2 con sẽ đại cát, cuối đời phiền muộn.
Diệu: Thuở nhỏ vất vả, gian khó, trung niên thành công, phát tài phát lộc, là nữ thì trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Diệp: Thanh tú, đa tài, hiền hậu, trung niên cát tường, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.
Do: Phóng khoáng, đa tài, có số đào hoa, trung niên phát tài phát lộc.
Doãn: Đa tài, đa nghệ, trí dũng song toàn. Cả đời thanh nhàn, hưởng vinh hoa phú quý.
Du: Bản tính thông minh, ôn hòa, hiền hậu, danh lợi song toàn nhưng có thể mắc bệnh tật, cuối đời phát tài phát lộc.
Dụ: Học thức uyên thâm, công chính liêm minh, tiền đồ rộng mở, trung niên thành công, có số xuất ngoại.
Dục: Hiền hậu, có số xuất ngoại, trung niên thành công hưng vượng, sống thanh nhàn, phú quý.
Duệ: Bản tính thông minh, đa tài, trung niên hưng vượng, gia cảnh tốt, có số xuất ngoại.
Dũng: Nên kết hôn muộn, đa tài, hiền lành, trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Dụng: Tính tình ôn hòa, chịu thương chịu khó, sau thành công, con cháu hưởng lộc phúc.
Dư: Bản tính thông minh, danh lợi song toàn, trung niên thành công, cuối đời hưởng hạnh phúc.
Dự: Có số làm quan, tay trắng lập nên sự nghiệp, cuối đời thịnh vượng, gia cảnh tốt.
Dữ: Thanh nhàn, đa tài, trung niên đề phòng gặp chuyện không hay, cuối đời hưởng phúc.
Dực: Tài năng, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Dương: Cuộc đời thanh nhàn, nếu kết hôn và sinh con muộn thì đại cát, trung niên bôn ba, vất vả, cuối đời cát tường.
Dưỡng: Lương thiện, phúc thọ viên mãn, có tài trị gia, gia cảnh tốt, con cháu hưng vượng.
Duy: Nho nhã, sống đầy đủ, phúc lộc viên mãn.
Duyên: Phúc lộc song toàn, danh lợi song hành, được quý nhân phù trợ, cuối cát tường.
Duyệt: Cần kiệm, chịu thương chịu khó, trọng tín nghĩa, trung niên vất vả, cuối đời hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
![]() |
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
may mắn cho tình yêu như: hoa bách hợp, hoa dạ hương, quả anh đào.
Trong giao tiếp, nữ giới tuổi Ngọ thường không che giấu suy nghĩ và tình cảm của mình. Sự thẳng thắn này làm số đào hoa của họ bị giảm đi ít nhiều.
Để tăng thêm sự hấp dẫn, nữ tuổi Ngọ nên tế nhị và khéo léo hơn. Trang phục làm tăng sức hấp dẫn cho họ là sơ mi kết hợp váy với gam màu trầm, ấm. Nét mặt tươi tắn với nụ cười hấp dẫn cũng tạo nhiều ấn tượng cho phái kia.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Tý | Sửu | Dần | Mão |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Mr.Bull (theo Xwie)
Hy vọng rằng với bài viết hữu ích này bạn sẽ hiểu và áp dụng màu sắc trong phong thủy để cuộc sống giàu có, hạnh phúc và khỏe mạnh hơn.
Màu sắc là một phần rất quan trọng khi chúng tồn tại khắp mọi nơi từ những nơi đẹp nhất trên thế giới đến khung cảnh gần gũi với chúng ta. Màu sắc cũng có sức mạnh của nó và việc lựa chọn màu sắc sao cho phù hợp với sở thích và tính cách của bản thân cũng chính là phù hợp với toàn bộ nguyên lý trong Ngũ Hành tương sinh, tương khắc đã có từ lâu đời.
Ngũ hành phương vị: có 8 hướng và tất cả đều được chia và quy tụ thành 5 ngũ hành và 5 màu sắc chính:
Phương Bắc – hành Thủy – màu Đen
Phương Nam – hành Hỏa – màu Đỏ
Phương Đông – hành Mộc – màu Xanh
Phương Tây – hành Kim – màu Trắng
Phương Đông Nam – hành Mộc – màu Xanh
Phương Đông Bắc – hành Thổ - màu Vàng
Phương Tây Bắc – hành Kim – màu Trắng
Phương Tây Nam – hành Thổ - màu Vàng Trước khi nói đến ảnh hưởng của màu sắc trong phong thủy có thể nhắc tới mối quan hệ ngũ hành tương sinh tương khắc. Ngũ hành tương sinh: Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc và Mộc sinh Hỏa. Ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Trong tử vi thì Bính Thân là khỉ trên núi, tính cách thông minh, nhanh nhẹn. Người này biết trước biết sau, biết tiên lượng, tài cán hơn người, tính tình khảng khái.
Sơn hạ Hỏa rực rỡ trong cây cỏ, ánh sáng nơi rừng lạnh. Nếu sinh vào mùa thu là được quý cách, có thể làm quan lớn. Mệnh này là Hỏa ưa Thủy, như: Gặp Địa chi Hợi, Tý hoặc nạp âm Thủy, lại ở vào các tháng Thân, Dậu.
Sơn hạ Hỏa thích có núi và cây, như được gió tăng thêm sự sáng, là mệnh cách quý, như: Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc là gió, Quý Sửu Tang đố Mộc, canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc đều là cát lợi. Nhưng cần tránh trường hợp có gió quá nhiều sẽ tản mát khí, không còn được cát lợi.
Tử vi Bính thân Mệnh này gặp được Giáp Thân, Ất Dậu Tịnh tuyền Thủy, Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, lại có Mộc đến tương trợ chủ về có thể làm quan lớn, danh vị hiển hách. Cần tránh gặp Đại hải Thủy nhưng nếu có núi lại là quý cách. Lúc đó dù có gặp Giáp Dần Đại hải Thủy cũng trở nên cát lợi.
Nếu không có Hỏa, không có núi, lại thêm Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa chủ về yểu thọ. Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy là mưa tụ, không nên gặp Bính Thân. Nếu mệnh này có sơn Thủy tương trợ thì có thể hóa giải được.
Các trụ khác có Kim, lấy sự thanh tú làm cát lợi. Ât Sửu Hải trung Kim chủ về sang quý. Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, có gió, nếu được thêm sơn Thủy tương trợ chủ về sang quý. Nếu không có chỉ là hư danh mà thôi.
Bính lộc tại Tỵ, Địa chi khác không thể có Dần, Thân, lộc gặp hình, chủ về một đời thiếu thốn tiền bạc, nên cần kiệm trong chi tiêu.
Thân mã tại Dần, Địa chi khác không thể gặp Tỵ, Thân, là Mã phạm hình. Người này không nên kinh doanh, có thể mất ở nơi đất khách quê ngưòỉ.
Bính Thân Không vong tại Thìn, Tỵ. Địa chi khác không nên có Thìn, Tỵ. Địa chi khác cần tránh có Dần, Tỵ, vì đó là phạm hình.
Địa chi khác nên gặp Hợi, được quý nhân. Tuy nhiên khi gặp Hợi thường có tổn thương về ngũ quan trên cơ thể. Làm việc nên chủ động, tích cực, biểu hiện được khả năng làm việc cao.
Vào các năm Thân, Dần mệnh Bính thân trong nhà thường không được yên ổn. Tuy bản thân không bị tổn thương nhưng người trong nhà khó tránh khỏi họa.
Tử vi Bính thân thì bạn đời không nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Nên chọn người sinh năm Canh, Tân.các trụ khác có Hỏa, thưòng xảy ra nhiều biến động lớn, chủ về trước nghèo sau giàu. Nhật chi có Thìn, khắc thương vợ hoặc chồng. Thời chi có Thìn nên hiến thân cho tôn giáo.
Đây là điển cố thứ Mười bốn trong quẻ Quan Âm, mang tên Tử Nha Khí Quan (còn gọi là Tử Nha Từ Quan. Quẻ Quan Âm Tử Nha Khí Quan có bắt nguồn như sau:
Sau khi Khương Tử Nha học đạo thành công ở núi Côn Luân, lúc đó ông đã bảy mươi tuổi, vâng mệnh thầy xuống núi giúp đỡ nhà Chu diệt vua Trụ. ông đến Tống gia trang ở phía nam Triều Ca (nay là huyện Kỳ ở phía bắc tỉnh Hà Nam), gặp người anh kết nghĩa là Tống Dị Nhân. Tống Dị Nhân tiếp đãi Khương Tử Nha như anh em ruột thịt, giúp ông cưới Mã thị làm vợ. Mã thị lúc này 68 tuối, sau khi kết hôn, hai người chung sống rất hạnh phúc.
Mã thị thấy Khương Tử Nha ăn ở nhờ nhà người anh kết nghĩa không phải là cách tốt, bèn khuyên ông tự lo kiếm sống. Khương Tử Nha bèn đan đồ tre trúc bán, nhưng công việc không thuận lọi, không ai thèm hỏi đến
Khi đó, có con hồ ly tinh chín đuôi hóa thành Tô Đát Kỷ, dùng dung mạo tuyệt đẹp để mê hoặc Trụ Vương, hại chết hoàng hậu Khương nương nương. Sau đó, lại hiến kế, lệnh cho mỗi gia đình trong thành Triều Ca phải nộp bốn con rắn, làm thành “sái bòn” (cái hố to chứa rắn độc), nếu bất mãn với cung nữ hay triều thần nào, liền ném họ xuống “sái bồn” cho rắn cắn chết. Đát Kỷ lại nói dối là mời tiên nữ xuống gặp Trụ Vương, khiến Trụ Vương rất vui mừng. Đát Kỷ gọi Ngọc Thạch Tỳ Bà tinh đến, lệnh cho biến thành tiên nữ để lấy lòng Trụ Vương. Trụ Vương trông thấy ả đẹp như tiên nữ, hết sức vui mừng, lại nghe theo lời của Tỳ Bà tinh, cho xây tòa Lộc Đài cao bốn mươi chín trượng đế gặp gỡ nhau trong đó.
Có một người bán củi tên là Lưu Càn biết Khương Tử Nha giỏi phép thuật, xin gieo cho một quẻ, thấy hết sức linh nghiệm, từ đó Khương Tử Nha nổi tiếng khắp Triều Ca với danh hiệu “hoạt thần tiên” (thần tiên sống).
Một hôm, Tỳ Bà tinh cưỡi mây đi qua, thấy người đến xem bói rất đông, sinh lòng hiếu kỳ, muốn thử tài Khương Tử Nha, bèn đến chỗ vắng người, hóa thân thành một bà quả phụ, tiến vào đám đông. Khương Tử Nha vừa nhìn đã biết ngay quả phụ này là yêu tinh biến thành, bèn nắm chặt lấy tay bà ta không chịu buông. Mọi người đều lấy làm lạ, mỗi người một câu ầm ĩ. Đúng lúc này Thừa tướng Tỷ Can cưỡi ngựa đi đến, sau khi hỏi rõ sự tình, liền lệnh cho Khương Tử Nha đưa Tỳ Bà tinh đến gặp Trụ Vương. Đát Kỷ thấy Khương Tử Nha bắt được đồng bọn, biết rằng không còn cách nào cứu được Ngọc Thạch Tỳ Bà tinh, chỉ biết nén lòng oán hận. Tỳ Bà tinh bị Khương Tử Nha dùng “Tam muội chân hỏa” thiêu đốt làm hiện nguyên hình. Trụ Vương nhìn thấy nguyên hình của yêu tinh, vô cùng kinh hãi, hết lời khen ngợi Khương Tử Nha. Do Khương Tử Nha có công trừ yêu, nên được phong làm Đại phu.
Do Trụ Vương xây dựng Lộc Đài to lớn, làm dân chúng khố cực, hao tốn của cải, khiến cho thần dân khắp nơi oán giận. Khương Tử Nha đã ra sức can ngăn Trụ Vương, mong Trụ Vương dừng việc xây dựng lại, đế cho dân chúng được tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Đát Kỷ nghe vậy, lại càng thêm tức giận. Trụ Vương thấy ái phi không vui, cũng không chịu nghe theo lời Khương Tử Nha. Khương Tử Nha thấy lời can gián của mình không có kết quả, lo lắng bị Trụ Vương bức hại, bèn trốn về Tống gia trang
Để kiếm kế sinh nhai, Khương Tử Nha chỉ còn cách đan đồ tre trúc đi bán, nhưng ông ngày ngày gánh hàng đi rồi lại gánh về, chẳng bán được gì. Thấy chòng buôn bán thất bại, Mã thị rất tức giận. Tống Dị Nhân thấy tình hình như vậy, bèn khuyên Khương Tử Nha đổi nghề khác. Thế nhưng Khương Tử Nha làm gì cũng không thành công, khiến Mã thị càng thêm thất vọng, vợ chồng bất hòa.
Đường sanh đạo
Đó là một trong những đường quan trọng nhất trong bàn tay. Đường này ở giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ và chạy hướng về phía cổ tay. Đường này diễn tả mức độ sinh khí, năng lượng, sức mạnh thể chất, thành tích và sự bền chắc.
Đường nét rất rõ ràng: giới tính phát triển.
Đường cong yếu: thiếu năng lượng và sinh động, nhục cảm suy yếu.
Đường chỉ nhỏ và rõ: sức sống tốt, ý chí tốt.
Đường chỉ rộng: có sức mạnh thể chất nhưng hệ thần kinh rất mong manh.
Đường trí đạo
Nằm ngang ở giữa bàn tay dưới đường tâm đạo, đường chỉ này xác định bạn có suy nghĩ thuần lý hay tưởng tượng.
Nhỏ và sâu: thông minh, đầu óc lanh lẹ.
Rộng: phù phiếm, nông nổi, vật chất.
Đường định mạng (may mắn)
Đường bắt đầu đi lên từ phía đáy bàn tay, hướng về gò thổ tinh và chia bàn tay ra làm hai. Nó diễn tả yếu tố may mắn trong cuộc đời, định mệnh.
Không có: nó cho thấy một cá nhân cần phải làm việc khó nhọc mới thành công.
Đường chỉ sâu: thành công nhưng không thỏa mãn.
Xuất phát từ đường sinh đạo: người này chỉ dựa vào bản thân.
Xuất phát từ cổ tay: nếu khắc sâu, gặp may suốt đời, thành công.
Đường tâm đạo
Đường này nằm ngang ở phần trên của bàn tay. Đường này ngự trị các khía cạnh cảm xúc và biểu lộ tiềm năng tình ái, mối tương quan với người yêu và những người xung quanh, không có đường chỉ này: hoàn toàn vô cảm.
Thẳng: tư tưởng kiểm soát cảm xúc.
Xuất phát từ ngón trỏ: tình duyên và ghen tuông.
Xuất phát dưới ngón giữa: nhục cảm hoàn toàn, thiên về khoái lạc.
Xuất phát từ dưới ngón đeo nhẫn: kém cảm xúc.
Đường thái dương (hay là đường mặt trời)
Song song với đường may mắn, nhiều người không có đường này.
Xuất phát từ cổ tay cho đến ngón đeo nhẫn: may mắn và thành công tuyệt đối, một định mệnh phi thường.
Xuất phát từ gò hỏa tinh: kiên trì và có ý chí thành công.
Xuất phát từ gò mặt trăng: thành công nghệ thuật.
Xuất phát từ đường trí đạo: thành công đến từ sự suy nghĩ.
Xuất phát từ đường sinh đạo: chỉ biết dựa vào bản thân.
Xuất phát từ đường tâm đạo: thành công đến muộn.
Đường hôn nhân (giới tính)
Nằm dưới ngón tay út, nhưng người ta chỉ chú ý đến đường chỉ có nét sâu nhất vì thường có nhiều đường chỉ ở đây. Đây là đường chỉ về hôn nhân hay về giới tính.
Rõ ràng và thẳng: hôn nhân hạnh phúc.
Nhiều đường chỉ cạn: nhiều cuộc sống chung không hôn thú.
Đường chỉ đi lên: độc thân.
Đường chỉ đi xuống: ly thân.
Đường chỉ chẻ đôi lúc đầu: khó khăn khi bắt đầu sống chung.
Đường chỉ chẻ đôi lúc sau: tan vỡ.