Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Hóa giải vận hạn cho người gặp năm bản mệnh

Người có năm bản mệnh sẽ bị sao Hung chiếu kéo theo nhiều điều xui xẻo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Giới thiệu về năm bản mệnh

Trong cuộc đời khi một người gặp phải một năm có địa chi giống như năm mà người đó sinh ra, thì năm đó gọi là năm bản mệnh hay năm tuổi.

2. Năm 2015 là năm bản mệnh của những người nào?

Mỗi năm sẽ có những người bước vào năm bản mệnh, bị các sao Hung chiếu, khiến cho cuộc sống lận đận, không thể yên ổn. Năm nay những người sinh năm 1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003 sẽ bước vào năm bản mệnh.

 hoa giai van han cho nguoi gap nam ban menh - 1

Năm nay là năm bản mệnh của những người cầm tinh con Dê.

3. Năm bản mệnh có ảnh hưởng như thế nào?

Năm bản mệnh cũng giống như một chiếc ghế có hai người cùng ngồi, một bát cơm có hai người cùng ăn, hoặc đi đường, làm việc phải cõng thêm một người nữa. Năm bản mệnh có cái tốt cũng có cái xấu. Điều tốt là tiền tài sẽ tăng lên nhanh chóng, sự nghiệp lên như diều gặp gió; điều xấu là điều xui xẻo liên tiếp kéo tới.

Tóm lại, những người trong năm bản mệnh sẽ không thể có một năm yên lành. Trong năm 2015, năm bản mệnh là thiên can Ất Mộc khắc chế Vị Thổ, khiến cho những người tuổi Dê chịu nhiều ràng buộc, khó có thể tiêu dao tự tại.

4. Vận thế của những người năm bản mệnh 2015

Những người tuổi Dê một khi bước vào năm Dê Ất Vị, sẽ bị các sao hung Kiếm Phong, Thái Tuế, Trạng Thi chiếu. Khi đó dễ có hiện tượng sức khỏe bị tổn hại, công việc sự nghiệp có biến động lớn, hoặc là nhảy việc, từ chức, thất nghiệp, đương nhiên cũng có cả thăng chức, điều động,...- không nhất định là chỉ có những ảnh hưởng xấu. Về tài vận, nhất là những người kinh doanh, khi đầu tư khoản tiền lớn thì cần vạch kế hoạch kĩ càng, kể cả phương án khống chế rủi ro để tránh lâm vào bước đường cùng, đói quá hóa liều.

Những người năm bản mệnh có áp lực tâm lý lớn, thường rơi vào trong mâu thuẫn, khó có thể thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, cần tự điều chỉnh, gặp gỡ giao lưu với nhiều người và tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể.

 hoa giai van han cho nguoi gap nam ban menh - 2

Những người thuộc năm bản mạng cần vạch rõ kế hoạch khi kinh doanh để tránh rủi ro.

5. Vận thế của từng năm bản mạng cụ thể thế nào?

Những người sinh năm 1931: tránh ngã bị thương.

Những người sinh năm 1943: chú ý các bệnh về tim, ngực, huyết quản.

Những người sinh năm 1955: chú ý bệnh về gan, thận.

Những người sinh năm 1967: tài vận không ổn định, đầu tư cần thận trọng.

 Những người sinh năm 1979: dễ chiêu đào hoa, cần giữ mình thanh khiết.

Những người sinh năm 1991: công việc dễ gặp nhiều biến động.

Những người sinh năm 2003: học tập dễ phân tâm, không thể tập trung tinh thần.

Trên đây chỉ là những vấn đề nổi trội của từng năm chứ không có nghĩa là những người trong năm đó chỉ có hung mà không có cát.

6. Cấm kỵ trong năm bản mạng

- Những người năm bản mạng kỵ nhất là bị thương, chảy máu, phẫu thuật - nhất là những người tuổi đã cao hoặc những người hoạt động ngoài trời càng cần chú ý.

- Không được đặt đồ ví dụ như bàn làm việc, đầu giường …. ở hướng sao Thái Tuế cũng không được đặt ở hướng tương phản với Thái Tuế, tức hướng Tuế Phá. Nếu như đặt đồ vào hai hướng ấy sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra. Đồng thời vị trí Thái Tuế cần được giữ gìn sạch sẽ, có thể trồng cây phong thủy để tăng thêm may mắn, không nên động thổ, tu sửa ở hướng này. Năm nay hướng sao Thái Tuế là hướng Tây Nam, hướng Tuế Phá là Đông Bắc.

7. Cách hóa giải cho những người năm bản mạng

- Dùng vải đỏ: trên những cây cổ thụ gần đền chùa thường treo rất nhiều mảnh vải đỏ. Nhiều người không biết những mảnh vải này dùng để làm gì, thật ra là dùng để hóa giải tai kiếp. Mua 1/3m vải đỏ, dùng bút viết tên và thời gian sinh của mình, và cả ước nguyện, sau khi viết xong buộc ở eo hoặc đặt dưới gối. Ba ngày sau, chọn giờ lành đem buộc lên cây cổ thụ. Trước khi buộc lên cây cổ thụ cần đi quanh cây bên trái 3 vòng, bên phải 3 vòng, vừa đi vừa lẩm nhẩm ước nguyện của mình.  

Vì sao như vậy lại có thể hóa bỏ tai ương và bảo vệ cho bạn? Là bởi vì những cây cổ thụ có tuổi thọ cao, sức sống mãnh liệt, khả năng chịu đựng và chống chọi với tự nhiên khắc liệt lớn, trải quả hàng trăm năm mưa gió bão bùng còn không bị đổ, huống chi là gánh vác chút khó khăn của bạn.

- Phóng sinh: 3 ngày trước khi phóng sinh, mua 3 đến 5 còn rùa, mỗi con khoảng nửa cân, trên lưng rùa khắc tên của mình. Nuôi những con rùa này trong phòng ngủ của mình 3 ngày. 3 ngày sau chọn giờ lành đem thả ở ao, sông hoặc hồ.

Nếu như có thể kiên trì phóng sinh trong nhiều năm, thì không những sức khỏe dồi đào, mà sự nghiệp, tình duyên cũng thuận lợi. Thời gian thích hợp nhất để phóng sinh, thường là những ngày cuối cùng của một năm hoặc những ngày đầu tiên của một năm, lấy Âm lịch làm chuẩn.

 hoa giai van han cho nguoi gap nam ban menh - 3

Phóng sinh rùa là một cách hóa giải vận hạn năm bản mạng.

- Đi chùa: Nếu như có điều kiện, đầu năm những người năm bản mạng nên đến chùa, miếu bái Thái Tuế hoặc đốt hương cầu phúc.

 hoa giai van han cho nguoi gap nam ban menh - 4

Đốt hương cầu Phúc là việc không thể thiếu trong những ngày Tết để hóa giải vận hạn.

- Dùng bùa: Cách này tương đối phức tạp, còn dựa vào từng người cụ thể, tốt nhất nên hỏi ý kiến của những người có chuyên môn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải vận hạn cho người gặp năm bản mệnh

Chọn nhà trong thời gian Bát vận chú ý những gì? –

Trong Bát vận, thông qua cách dùng Hậu thiên Bát quái ngũ nhập Trung cung, Bát Bạch phi nhập hướng Đông Bắc. Vị trí này trong Bát quái gọi là quẻ Cấn. Cũng có thể nói chính thần phương Bát vận tại Đông Bắc; linh thần phương Bát vận tại Tây Nam. Cũn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

g có nghĩa căn nhà toạ Đông Bắc hướng Tây Nam trong 20 năm Bát vận (2004 – 2023) sẽ rất phát đạt.

p32

Nếu một căn nhà không chỉ toạ Đông Bắc hướng Tây Nam mà còn có vòi phun nước hoặc bể bơi, bể cá ở hướng Tây Nam thì thế vượng của căn nhà càng thêm vượng. Chính thần nhìn thấy sơn thì vượng nhân đinh, linh thần nhìn thấy thuỷ thì vượng tài lộc. Bát vận ở hướng Tây Nam nhìn thấy Thuỷ thì vô cùng có lợi cho sự phát triển sự nghiệp và tài vận. Ngược lại, nếu hướng Đông Bắc và vị trí toạ sơn của căn nhà nhìn thấy Thuỷ , cộng thêm chủ nhân có ngũ hành kỵ Thuỷ thì không những không mang lại tài vận tốt mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ của chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn nhà trong thời gian Bát vận chú ý những gì? –

Nhìn lại năm Bính Thân đầy biến động của 12 con giáp

Chỉ còn vài giờ nữa thôi là chúng ta sẽ tạm biệt năm Bính Thân và chào đón năm Đinh Dậu. Hãy cùng tổng kết lại những thành tựu 12 con giáp đã đạt được trong năm vừa qua nhé!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý

Năm 2016 đánh dấu bước chuyển biến lớn với cuộc sống của người Tuổi Tý. Nhờ có sự giúp đỡ tận tình của quý nhân mà bạn đã gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp. Tài chính của người tuổi Tý khá dồi dào vì ngoài thu nhập từ công việc chính ra bạn còn tham gia các hoạt động đầu tư ở bên ngoài nữa. Chuyện tình cảm của người tuổi Tý trong năm nay cũng rất tốt đẹp, tình cảm của bạn và người ấy rất mặn nồng, hầu như không phải gặp phải sóng gió gì.

Tuổi Sửu

Năm 2016 của người tuổi Sửu trôi qua một cách khá êm đềm, không có chuyển biến gì quá lớn lao cả. Nửa đầu năm nay bạn luôn trong tình trạng bận "tối mắt tối mũi" vì công việc của mình. Nhưng đến cuối năm người tuổi Sửu đã dần gặt hái được những thành quả của công sức bạn đã bỏ ra trong năm nay. Chuyện tình cảm của người tuổi Sửu không được suôn sẻ cho lắm tuy nhiên nhờ sự chân thành của bản thân mà tình cảm của bạn và người ấy lại trở nên tốt đẹp như lúc ban đầu.

Tuổi Dần

Người tuổi Dần đã trải qua năm Bính Thân đầy khó khăn và thử thách. Do đặt niềm tin quá nhiều vào những người xung quanh mà bạn tự chuốc họa vào thân. Tuy nhiên đến cuối cùng người tuổi Dần cũng vượt qua được tất cả nhờ sự bình tĩnh đáng ngạc nhiên của bản thân. Tài chính của người tuổi Dần trong năm nay khá ổn định, tuy có nhiều việc cần phải dùng đến tiền xảy ra nhưng ngân sách của bạn không bị thâm hụt quá nhiều, vẫn đủ để lo cho cuộc sống của bản thân.

Tuổi Mão

2016 là năm để người tuổi Mão phát huy khả năng của bản thân mình. Sự nghiệp của người tuổi Mão trong năm rất rực rỡ, bạn chính là tâm điểm chú ý của đám đông khi ở nơi làm việc. Tuy nhiên do người tuổi Mão dành quá nhiều thời gian cho công việc nên đã lơ là chuyện tình cảm của bản thân khiến cho mối quan hệ giữa bạn và người ấy ít nhiều bị rạn nứt.

Nhìn lại năm Bính Thân đầy biến động của 12 con giáp - Ảnh 1.

Tuổi Thìn

Năm 2016 đến cùng với những ý tưởng hay ho dành cho người tuổi Thìn và bạn đã không bỏ lỡ cơ hội biến những ý tưởng ấy thành hiện thực. Mặc dù trong quá trình phấn đấu người tuổi Thìn gặp phải rất nhiều khó khăn, thử thách nhưng bạn vẫn hài lòng với thành quả mình đạt được. Năm nay do có việc phải tiêu tốn khá nhiều tiền nên tình hình tài chính của người tuổi Thìn ít dư dả nhưng vì bạn là người biết quản lý chi tiêu nên không bị rơi vào cảnh túng thiếu.

Tuổi Tỵ

Năm 2016 của người tuổi Tỵ trôi qua một cách khá như ý. Sự nghiệp của người tuổi Tỵ trong đầu năm gặp đôi chút khó khăn nhưng càng về sau công việc của bạn lại càng thuận lợi. Chuyện tình cảm của người tuổi Tỵ cũng khá tốt đẹp, đặc biệt là những bạn còn đang độc thân. Tuy nhiên vì phải chịu những áp lực do công việc và cuộc sống mang lại nên sức khỏe của người tuổi Tỵ không được ổn định, thường xuyên bị mắc những bệnh vặt vãnh như cảm cúm chẳng hạn.

Tuổi Ngọ

2016 là năm thuận buồm xuôi gió đối với người tuổi Ngọ. Sự nghiệp của người tuổi Ngọ đã tiến thêm một bước dài trong năm nay do bạn đã nắm được cơ hội thăng quan tiến chức trong công việc. Nguồn tài chính của người tuổi Ngọ khá dư dả vì "lậu" của bạn nhiều hơn "lương", với ngân sách dồi dào như vậy bạn đã không ngần ngại "vung tay quá trán" để mua những món đồ bạn ưa thích trong năm nay.

Tuổi Mùi

Năm 2016 của người tuổi Mùi có thể gói gọn trong hai chữ "tỏa sáng". Trong năm nay bạn đã thể hiện hết khả năng của mình cho cấp trên thấy và có được sự trọng dụng của lãnh đạo. Chuyện tình cảm của người tuổi Mùi trong năm 2016 nhìn chung là khá tốt, chỉ có điều "nửa kia" dường như không còn dành nhiều sự quan tâm cho bạn nữa, thiết nghĩ người tuổi Mùi nên nói chuyện thẳng thắn với người ấy để hâm nóng lại tình cảm của cả hai.

Nhìn lại năm Bính Thân đầy biến động của 12 con giáp - Ảnh 2.

Tuổi Thân

Năm 2016 của người tuổi Thân giống như những con sóng nhấp nhô, gập ghềnh. Những biến cố đến một cách dồn dập trong năm nay làm người tuổi Thân mệt mỏi đến mức muốn buông xuôi. Nhưng nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ mà bạn đã vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. Chuyện tình cảm của người tuổi Thân khá tốt, sau tất cả những biến cố tưởng chừng như không thể vượt qua được thì tình cảm giữa bạn và người ấy lại càng trở nên mặn nồng và sâu sắc.

Tuổi Dậu

2016 là năm sôi nổi và đầy màu sắc với người tuổi Dậu. Bạn đã chứng minh được với những người xung quanh mình là người nhiệt huyết và luôn cố gắng hết mình trong công việc. Tuy nhiên vì bạn ôm đồm quá nhiều việc vào mình đã gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của bản thân. Vì vậy người tuổi Dậu nên học cách cân bằng giữa công việc và cuộc sống để cơ thể của bạn luôn ở trạng thái khỏe mạnh nhé.

Tuổi Tuất

Cuộc sống của người tuổi Tuất có bước phát triển vượt bậc trong năm 2016. Nhờ có quý nhân phù trợ mà bạn đã bộc lộ được hết khả năng cho đồng nghiệp và cấp trên thấy. Tài chính của người tuổi Tuất trong năm nay ở mức ổn định, những khoản lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư cứ đều đều rơi vào túi bạn trong suốt cả năm.

Tuổi Hợi

Năm 2016 của người tuổi Hợi trôi qua một cách không được ổn định cho lắm. Sự nghiệp của bạn trong năm nay gặp khá nhiều khó khăn nhưng nhờ vào khả năng tùy cơ ứng biến tốt của bạn mà mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa. Ngoài ra do bỏ quá nhiều thời gian và công sức vào công việc mà sức khỏe của người tuổi Hợi trong năm 2016 không được tốt lắm, bạn thường xuyên bị mất ngủ và mắc một vài căn bệnh vặt vãnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn lại năm Bính Thân đầy biến động của 12 con giáp

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Quan Âm Nam Hải

Quan Âm Nam Hải là kiếp cuối cùng của đức Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thành công chúa Ấn Độ tên là Diệu Thiện, đứng đầu và cai quản các đấng Bồ Tát
Quan Âm Nam Hải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hà Lan tên là De Groot thì Quan Âm Nam Hải trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.

Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.

Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự.

Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).

Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.

Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.

Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.

Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.

Nhờ huyền diệu ấy mà nàng Diệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.

Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.

Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.

Quan Âm Nam Hải
Quan Âm Nam Hải

Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.

Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn.

Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.

Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.

Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.

Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.

Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.

Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.

Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.

Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.

Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.

Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.

Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan Âm Nam Hải

Giải mã giấc mơ được tặng quà –

Bạn vẫn cảm thấy vui khi nhớ lại giấc mơ tối qua. Bạn mơ thấy được nhận quà, bạn đang vui điều đó. Tuy nhiên liệu ý nghĩa giấc mơ được nhận quà có được đẹp như trong giấc mơ không? hay đang dự báo những điều không may mắn sẽ đến với bạn. Hãy cùng chú
Giải mã giấc mơ được tặng quà –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ được tặng quà –

Nhận biết tướng tai ương theo Ma-Y –

1. Đàn bà mà cặp mắt ác thì hình phu. Nghĩa là: Mắt tròn lồi là ác tướng, ăn hiếp chồng con. 2. Giọng nói sắc ác, mặt ngang: Ế chồng. Nghĩa là: Đàn bà mà giọng như lệnh vỡ, thịt mặt thớ ngang thì ế chồng. 3. Trán nhọn, tai phản trật lộn thì nhiều đờ
Nhận biết tướng tai ương theo Ma-Y –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng tai ương theo Ma-Y –

Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Đàn bà có gò má ngang, gò má cao, tai nhỏ, đầu nhọn, mặt vênh, bàn tay cực lớn, sắc mặt xanh lam, mặt gẫy, nổi gân, mày lớn trán bóng…là tướng khắc chồng. Tướng trinh tiết Là phụ nữ có đôi mắt to đen và rất sáng, không nhìn lấm lét, dáng người thon
Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Thủ tục mượn tuổi xây nhà như thế nào cho đúng?

Mượn tuổi làm nhà thực chất rất khó, và cũng nhiều câu hỏi xoay quanh việc tại sao phụ nữ lại không được chú trọng trong việc “nhà cửa” để tìm hiểu kỹ hơn về việc xem tuổi làm nhà và trong câu hỏi mượn tuổi làm nhà thế nào cho đúng, các chuyên gia sẽ lý giải rõ hơn về vấn đề này.
Thủ tục mượn tuổi xây nhà như thế nào cho đúng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Cách mượn tuổi làm nhà khi bạn có dự định xây nhà mới mà năm đó bạn không hợp tuổi, cần phải đi mượn tuổi người khác để làm nhà.

Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng?

Mượn tuổi làm nhà thực chất rất khó, và cũng nhiều câu hỏi xoay quanh việc tại sao phụ nữ lại không được chú trọng trong việc “nhà cửa” để tìm hiểu kỹ hơn về việc xem tuổi làm nhà và trong câu hỏi mượn tuổi làm nhà thế nào cho đúng, các chuyên gia sẽ lý giải rõ hơn về vấn đề này.

*Làm nhà xem tuổi đàn ông

Theo phong thủy thì trong việc "khai môn lập hướng" tính phong thủy cho một ngôi nhà người ta ít khi lấy tuổi đàn bà mà coi tuổi người đàn ông như một tiền đề để định cát hung. Thực tế, xét cho cùng cũng bởi thuyết Âm dương Ngũ hành với nguyên lí Âm thuận tòng dương. Đối với một gia đình hai vợ chồng thì lý thuyết này coi người chồng là dương, vợ tính là âm. Bởi vậy người xưa mới có câu "lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông".

Trong một đại gia đình, các thành viên có quan hệ huyết thống, vai trò người cha, người ông được xem như gốc rễ của cái cây phả hệ. Thuyết Âm dương Ngũ hành coi người đứng đầu như ông, cha trong gia đình như một chủ thể đại diện. Còn các vai vế khác trong gia đình như vợ, con, cháu... nằm trong mối quan hệ phụ thuộc. Có thể hiểu rằng người đứng đầu trong gia đình (ông, cha) thuộc tính dương được ví như chiếc đầu tàu kéo theo những toa thành viên còn lại trong gia đình đi theo. Lý thuyết này không thay đổi cho dù ở bất cứ thời đại nào, dù là chế độ chính trị khác nhau.

Dân gian còn quan niệm, đối với nhà nhiều thế hệ, dù lấy tuổi đàn ông làm nhà nhưng vẫn chú trọng lấy tuổi cao nhất. Điều này thể hiện sự sống lâu nên nhà sẽ bền vững.

*Mượn tuổi lớn hơn gia chủ thì càng tốt

Hiện nay còn duy trì quan niệm nếu không được tuổi làm nhà thì mượn tuổi tốt theo cửu trạch. Người này sẽ khấn hộ trước bàn thờ thần linh khi động thổ. Cách làm này chưa chính xác. Bởi nếu đã quan niệm thần linh thiêng liêng, nhìn được trăm sự thì việc mượn tuổi lại biến thành hành động lừa dối. Vì thế, về nguyên lý là chưa phù hợp. Còn để đúng tuổi người mượn thì cần có sự mua bán theo khế ước thực sự. Khi làm nhà xong bán lại theo khế ước cho chủ cũ. Tuy nhiên, người tốt, hay làm phúc đức thì năm tháng nào cũng tốt nên có thể làm nhà bất cứ thời điểm nào. Còn người xấu thì ngày tốt cũng là vận hạn.

Ở quan điểm khác, nếu mảnh đất không hợp với tuổi gia chủ thì có thể nhờ người thân hoặc bạn bè đứng tên sổ đỏ để làm nhà. Tuy nhiên, đây là cách làm chưa đúng. Bởi học thuyết phong thủy ra đời cách đây đã mấy nghìn năm và có nhiều ứng dụng trong thực tiễn.

Các giấy tờ quyền sở hữu đất đai, sổ đỏ sổ hồng như ngày nay là hoàn toàn xa lạ với đời sống con người ở thời kỳ đó. Vì thế, khi nghiên cứu phong thủy nên loại bỏ các vấn đề liên quan tới hành chính. Không có các yếu tố về hồ sơ hành chính hay sự sở hữu, phong thủy vẫn tồn tại độc lập và ảnh hưởng khách quan tới các cá nhân trong ngôi nhà mà ta sinh sống.

Xét cho cùng, môn phong thủy là nghiên cứu sự tương tác của môi trường tới đời sống và sinh hoạt của con người. Sự tương tác này là tương tác thực sự và trực tiếp tới những cá nhân trong địa bàn cư trú. Thực chất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể giải quyết được những vấn đề phong thủy. Các yếu tố phong thủy chỉ tác động đến người trực tiếp ở trong căn nhà. Quan niệm "thay tên, đổi chủ" trên giấy tờ để mong hóa giải được những bất lợi về mặt phong thủy là sai lầm".

Trong thực tế nếu trong năm nào đó gia chủ chưa được tuổi làm nhà thì có thể mượn tuổi người thân hoặc bạn bè hợp tuổi đứng ra động thổ giúp. Người mượn tuổi nên là nam giới, nếu tuổi tác lớn hơn gia chủ thì càng tốt. Một điều cần chú ý là gia đình không có tang chế và điều quan trọng nữa đó là tuổi không phạm vào các hạn Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Quan điểm về mượn tuổi làm nhà của các Trường Phái:

+ Quan điểm của Duy Vật: Chúng ta đang sống trong vũ trụ, mọi sự vật, sự việc đều chịu sự tác động, chi phối của trường khí vũ trụ. Khí trường vũ trụ năm đó tác động lên nhà của bạn thì chính bạn chịu tác động của tương hỗ của khí đó. Còn người cho mượn tuổi không bị ảnh hưởng của trường khí đó và việc mượn tuổi để làm nhà sẽ chỉ là biện pháp trấn an tâm lý?

+ Quan điểm của Duy Tâm: Người cho mượn tuổi thay mặt chủ nhà thì các Thần Linh trong khu đất đấy sẽ chứng kiến việc người cho mượn tuổi xây nhà, khi đó Thần Linh sẽ giúp đỡ hay quở trách người cho mượn tuổi mà sẽ không ảnh hưởng đến chủ nhà. Vì vậy, nên mượn tuổi của người trong nhà hay trong nội tộc càng gần càng tốt.

+ Quan điểm của Dịch Học: Động thổ để xây nhà mới như là việc khai mở huyệt đạo. Nên lựa chọn Trạch thời cho đúng hay phù hợp sẽ nhận được cát khí của vũ trụ hỗ trợ cho Trạch vận.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khi bạn làm nhà mới sẽ rất vất vả, cuộc sống sẽ bị xáo trộn (đi thuê nhà, ở tạm…) nên cần chuẩn bị: Tâm Lý tốt ( hòa hợp, nhất trí cao trong toàn thể gia đình), bố trí công việc khoa học, chuẩn bị chu đáo… thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn, tránh được những vấp váp trong quá trình làm nhà.

Kinh nghiệm "mượn tuổi làm nhà"

+ Nên mượn tuổi của người thân trong nhà, trong nội tộc, gần nhà bạn có dự định xây là tốt nhất sẽ thuận tiện cho bạn về các thủ tục sau này.

+ Người cho mượn tuổi không được cho người thứ 2 cùng mượn tuổi trong thời gian mà người mượn trước chưa làm nhà xong. Vì vậy, khi mượn tuổi ai đó bạn cũng nên hỏi kỹ vấn đề này trước khi bạn có ý định nhờ để giúp mình động thổ.

+ Chỉ được phép mượn tuổi để khởi công xây nhà mới. Không mượn tuổi khi sửa nhà.

Nếu bạn dự định sửa chữa nhỏ mà không động đến đất thì chỉ cần chọn ngày tháng đẹp để làm.

Nếu bạn sửa nhà mà động đến đất thì cần xem đến năm vì khi đó động chạm đến Thần Linh.

Nếu năm bạn định sửa nhà mà không được tuổi thì nên chọn năm khác.

Hướng dẫn thủ tục mượn tuổi làm nhà

+ Chủ nhà làm giấy bán nhà tượng trưng cho người mượn tuổi;

+ Khi động thổ, người được mượn tuổi làm lễ khấn vái và động thổ ( cuốc 5 hay 7 cái tượng trưng tại hướng đẹp).

+ Trong thời gian làm lễ, gia đình chủ nhà nên tránh đi chỗ khác khi làm lễ xong có thể về và làm các công việc bình thường.

+ Khi đổ mái ( làm nóc) người được mượn tuổi cũng làm các thủ tục thay chủ nhà và gia đình chủ nhà cũng tránh đi nơi khác trong quá trình làm lễ.

+ Khi nhập trạch người được mượn tuổi làm các thủ tục cần thiết như: Dâng hương, khấn hoàn thành nhà mới.

+ Bàn giao lại nhà cho gia chủ: Chủ nhà làm giấy mua lại nhà ( với giá tượng trưng cao hơn giá bán khi động thổ).

+ Chủ nhà làm lễ nhập trạch.

Thủ tục về nhà mới(nhập trạch) khi mượn tuổi

+ Nếu là 1 gia đình có vợ chồng con cái thì đầu tiên là vợ gia chủ cầm 1 cái gương tròn đem vào nhà trước( mặt gương soi vào nhà ), kế đến là gia chủ tự tay bưng bát nhang thờ Tổ Tiên, rồi lần lượt các người trong nhà mới đem vào Bếp lửa ( tốt nhất là Bếp còn đang cháy đỏ từ nhà cũ đem tới ), chăn nệm, gạo, nước……vv…

+ Nếu nhà vắng đàn ông thì người mẹ bưng bát nhang thờ Tổ Tiên vào trước, kế đến là con cái lần lượt mang Bếp, gạo, nước…vv…..
Chuyển đồ đạc vào nhà trước, dọn đồ cúng sau.

+ Không ai được đi tay không vào nhà. Tuồi Dần không được phụ dọn. Phụ nữ có thai không được phụ dọn ( nếu muốn phụ, thì mua 1 cây chổi mới, dùng chổi quét qua 1 lượt các đồ vật thì không sao). Trong giờ tốt, gia chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang, tài sản quý giá cất vào tủ.

+ Lễ vật để đi Tân Gia mà người ta quý và có ý nghĩa tốt đẹp, mang lại điều lành cho gia chủ chính là: 1 nồi cơm điện ( theo quan niệm bây giờ cho tiện ), hay 1 bộ soong nồi ( bởi ngày xưa chưa có đồ điện mà ). Đây là những món quà mang ý nghĩa sung túc, no đủ, nên ta hãy đem tặng cho người thân, bạn hữu thân tình khi họ Tân Gia nhé !

Các lễ vật cúng

+ Khi cúng động thổ, quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ), bông tươi, nhang đèn,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 trứng vịt luộc ), xôi thịt, 3 miếng trầu cau ( đã têm ), giấy vàng bạc, 1 dĩa muối gạo, 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.

+ Sau khi cúng xong, đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp, nơi thờ cúng Táo Quân.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thủ tục mượn tuổi xây nhà như thế nào cho đúng?

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

CANH-THÌN 14 TUỔI: (Sinh từ 5/2/2000 đến 23/1/2001) Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng trong nếntrắng)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM:  Cung Ly sao Thái-Dương, hạn Tán-Tận:  Mẫu người sáng trí thông minh, lao động trí óc, thường có kế hoạch riêng, thích lưu lạc giang hồ, tự lập và hành sự độc đoán. Tình cảm phức tạp nên tiền vận lao đao chìm nổi. Hôn nhân cách trở khó khăn. Lấy vợ không hạp tuổi thì chia ly đổ vỡ. Phải chăng vì “Canh cô Mồ qủa” mà số cô đơn, xa cha mẹ, không gần anh chị em? Tuy nhiên nhờ đi xa, tha hương lập nghiệp lại thành công. Kỵ màu đỏ, hạp màu vàng, trắng. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, sẽ phải ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học cũng có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“ Tuổi trẻ ai ai cũng học hành

Mai sau rạng rỡ bước công danh

Siêng năng cần mẫn lo đèn sách

Chữ hiếu đền ơn đấng sinh thành”

 

NỮ: Cung Càn sao Thổ-Tú, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người thông minh, tâm đức tu dưỡng hiền lương, đôi khi trở thành rường cột của gia đình. Số cô đơn cách biệt người thân, có khi xa cha mẹ, không gần anh chị em; phải chăng tại“Canh cô Mồ qủa”? Tiền vận trước 30 vất vả gian nan. Lấy chồng không hạp tuổi thì tình nghĩa phu thê tan hợp bất thường. Ly hương dễ phát đạt giàu sang. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ.

Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không chịu học hành, phải ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, cũng có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“Cơm cha áo mẹ công thầy

Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo

Tương lai sung sướng ấm no

Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”

MẬU-THÌN  26  TUỔI: ( Sinh từ 17/2/1988 đến  5/2/1989)

Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( Cây trong rừng lớn).

NAM:  Cung Chấn, sao Thái-Am, hạn Diêm-Vương: Mẫu người thông minh, khí khái, cương trực, tự tin có kế hoạch, ứng phó và giải quyết được những khó khăn. Các bạn sanh tháng 2, 9, 10 thường  lập gia đình trễ. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần mẹ xa cha, gần cha xa mẹ, hay sớm bị mồ côi. Vậy  giờ nào việc ấy. Hãy tận dụng những gì mình đang có trong tay để thăng hoa cuộc sống. Đây là thời gian phải dồn tất cả sức lực vào học vấn để tự mình mở rộng cánh cửa tương lai. “Tận nhân lực tri thiên mệnh”. Nghĩa là phải làm hết sức mình rồi Trời mới giúp. Nếu nghĩ rằng tương lai được xây dựng bằng hiện tại, thì mỗi một giây phút cố gắng bây giờ là một viên gạch xây dựng lâu đài sự nghiệp rạng rỡ cho tương lai. Xây nhà hay làm ăn nên chọn hướng Nam hay chánh Đông. Cưới vợ hạp với tuổi Bính-Tí (1996), Đinh-Sửu (1997), Tân-Mùi (1991) và Canh-Ngọ (1990).

“Khí khái cương trực thông minh

Cây trong rừng lớn một mình đứng cao

Siêng năng học tập giồi trau

Hôm nay khó nhọc ngày sau thành tài”

Năm nay bạn nào đi thi sẽ đậu, tốt nghiệp ra trường sẽ kiếm được việc làm như ý. Bạn nào làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại, sẽ phát đạt thành công tài lộc thịnh vượng. Nếu muốn thay đổi chỗ ở chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại cũng thực hiện được. Tuy nhiên bạn nào làm việc nhiều bằng computer sẽ dễ bị đau mắt.

NỮ: Cung Chấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-La: Mẫu người thông minh, có tài năng nhưng tình cảm khô khan. Mặc dù nhanh nhẹn, cơ trí và thẳng thắng, cương quyết, nhưng tiền vận bôn ba, không gặp thời. Hậu vận kiên tâm nhẫn nhục, hiếu thảo, thích triết, thích đạo lý, tạo nhiều thiện nghiệp và có tâm hồn hướng thượng. Người sinh tháng 1, 2, 6, 10 hưởng nhiều phước đức. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha, hay sớm bị mồ côi. Vậy giờ nào việc ấy. Hãy tận dụng những gì mình đang có trong tay để thăng hoa cuộc sống. Đây là thời gian phải dồn mọi nỗ lực vào việc học để tự mình mở rộng cánh cửa tương lai.“Tận nhân lực tri thiên mệnh”. Nghĩa là phải làm hết sức mình trước, sau mới nói tới số trời. Nếu tương lai được xây dựng bằng hiện tại, thì mỗi một giây phút cố gắng bây giờ là xây một viên gạch cho lâu đài sự nghiệp tương lai. Lấy chồng hợp với những tuổi At-Mão (1975), Qúi-Hợi ( 1983), Tân-Dậu ( 1981), Đinh-Mão (1987), Ất-Sửu (1985) và Mậu-Ngọ (1978). Lấy chồng bất luận năm nào, nên chọn ngày giờ cưới hỏi trong tháng 4, và 10 âm lịch là tốt nhất. Làm ăn thương mại, chọn hướng chánh Nam hay chánh Đông.

“Nữ nhi trí tuệ thông minh

Tâm hồn hướng thượng tánh linh hơn người

Học hành đến chốn đến nơi

Tương lai hạnh phúc sáng ngời chẳng sai”

Năm nay cử mặc đồ trắng và hay đau ốm lặt vặt hao tài trong tháng 5. Tuy nhiên, bạn nào đi thi sẽ đậu; ra trường kiếm được việc làm như  ý. Bạn nào làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Nếu muốn chuyển trường, thay đổi chỗ ở hay chỗ làm việc đều gặp hoàn cảnh thuận lợi. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

BÍNH-THÌN 38 TUỔI (Sinh từ 31/1/1976 đến 17/2/1977).

Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).

NAM:  Cung Càn, sao Thổ-Tú, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người hào phóng, năng động sôi nổi, thích mạo hiễm rày đó mai đây, kết giao bằng hữu. Những người ly hương thường học hành đỗ đạt, giàu sang. Nếu không ly hương, tiền vận rất gian nan. Nếu bạn là con út trong gia đình, cha mẹ có thể phải ly tán cách biệt: Gần mẹ xa cha, gần cha xa mẹ. Nên chọn vợ trong những tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983) và Đinh-Mão (1987). Tối kỵ tuổi Canh-Thân (1980) và Tân-Dậu (1981). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“Mẫu người năng động nổi trôi

Rày đây mai đó cuộc đời ly hương

Tình trường ai cũng vấn vương

Cũng nên tính toán con đường hôn nhân.”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” kỵ xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8 trong gia đình có người ốm đau, bệnh hoạn hay tang chế bà con. Nếu phải thay đổi chỗ ở, hay chỗ làm việc, cứ xuôi theo tự nhiên, sau cùng mọi việc sẽ được hài hòa. Tuy nhiên, hạn chế đi xa xuất ngoại sẽ chịu nhiều hao tán vô ích. Nếu phải lái xe đi xa, nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng mới khỏi bị nằm đường.

NỮ: Cung Ly, sao Vân-Hớn, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người có chí khí biết tính toán và lãnh đạo. Tính tình rộng rãi, nhân từ, hiếu thảo thủy chung, có đức hạnh. Nhưng nếu bạn là con út trong gia đình thì cha mẹ ly tán hoặc có thể bị mồ côi. Đám cưới, đám hỏi nên tổ chức trong tháng 4, hay10 âm lịch là tốt nhất, bất luận  năm nào. Người tri kỷ tri âm dễ tìm thấy trong các tuổi Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Ất-Tị (1965), Mậu-Thân (1968), Quý-Sửu (1973) và Tân-Dậu (1981). Tối kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966) và Nhâm-Tí (1972). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.

“ Mẫu người hiếu thảo thủy chung

Giữ gìn hạnh đức công dung vẹn toàn

Hôn nhân tình đẹp sắc son

Gặp người tri kỷ chẳng còn khổ đau”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không tốt cho công việc xây cất nhà cửa, hay cơ sở kinh doanh. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Cuối năm, phải cẩn thận lời nói để tránh ngộ nhận, tạo ra miệng tiếng rầy rà. Phải cẩn thận khi lái xe. Trước khi lái đi xa, phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

GIÁP-THÌN 50 TUỔI:  (Sinh từ 13/2/1964 đến 1/2/1965).

Mệnh: Phú-Đăng-Hỏa (Lửa ngọn đèn).

NAM: Cung Ly, sao Thái-Dương hạn Tán Tận: Mẫu người lương thiện, có chí lớn, có tài lãnh đạo, khéo léo về giao tế, biết thuật dụng người. Thiếu niên tân khổ, nhưng nhờ sức chịu đựng, tự tin và nhẫn nại phi thường nên chung cuộc cũng thành sự nghiệp hơn người. Qúy ông sinh tháng 2, 3, 9 thường hay trắc trở tình duyên.  Lấy vợ hạp tuổi cũng giống như mua bảo hiểm: gặp nghịch cảnh, có thể chịu đựng được nghịch cảnh mà lòng dạ giữ được sắc son, khỏi phải thay chồng đổi vợ. Đó là các tuổi Nhâm-Tí (1972), Kỷ-Dậu (1969), Canh-Tuất (1970) và Canh-Tí (1960). Tối kỵ Giáp-Dần (1974) và Ất-Mão (1975). Làm ăn và nhà cửa hợp với hướng Đông và Bắc.

“Thiếu niên tân khổ chuyện thường

Nhẫn hòa chịu đựng can trường tiến lên

Làm ăn phát đạt, ơn trên

Giàu sang phú qúi vững bền trăm năm”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không nên xây cất nhà cửa, hay cơ sở thương mại. Mọi việc làm ăn đều nằm trong chiều hướng tiến lên thuận lợi. Nhờ đó, tình trạng tài chánh được cải thiện khả quan. Tốt nhất là mùa Hè và mùa Đông. Tuy nhiên, hay bị trục trặc, rắc rối về xe cộ. Do đó, hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại để tránh phiền phức.

NỮ: Cung Càn, sao Thổ-Tú hạn Huỳnh-Tuyền: Số người rất thông minh, chịu rèn luyện để ứng phó được nghịch cảnh. Nữ nhân mà nam tướng và nam tánh. Can đảm quyết liệt, dứt khoát. Đại kỵ màu đen, hạp màu đỏ. Hạnh phúc chỉ cảm nhận trong trái tim, nhưng lại do bàn tay và khối óc tạo thành. Lấy chồng hạp tuổi cũng là một yếu tố thuận lợi cho sự bền vững của hôn nhân. Các tuổi ấy là Ất-Tị (1965), Đinh-Dậu (1957), Tân-Mão (1951), Tân-Sửu (1961), Đinh-Mùi (1967) và Quý-Tỵ (1953). Kỵ tuổi Nhâm-Dần (1962) và Bính-Ngọ (1966). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc.

“Nữ nhân nam tính Trời sanh

Can đảm quyết liệt tranh giành lợi danh

Hạnh phúc đôi lứa mong manh

Bàn tay khối óc tạo thành tương lai”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không nên xây cất nhà cửa hay cơ sở kinh doanh. Công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, không nên khuếch trương mở mang, tránh tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Tháng 4, tháng 8 trong gia đình có người bệnh hoạn ốm đau, hay tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại để khỏi khó khăn về tài chánh. Trước khi lái xe đi xa, phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, phòng bị nằm đường.

NHÂM-THÌN  62 TUỔI: (Sinh từ 27/1/1952 đến 13/2/1953).

Mệnh: Trường Lưu Thủy (Nước chảy thành dòng lớn).

NAM: Cung Chấn, sao Thái-Am, hạn Diêm-Vương:“Nam Nhâm nữ  Quý”, tuổi Nhâm có cách hơn người đó là thông minh hùng biện, thích lãnh đạo chỉ huy, mưu đồ đại sự và có tinh thần trách nhiệm. Trước khó khăn không lùi bước, cố gắng tiến lên. Ly hương giàu sang phú quí. Hướng nhà cửa và kinh doanh ưu tiên là chánh Nam và chánh Đông. Tuy nhiên phương hướng chỉ đóng góp 20% cho sự thành bại mà thôi. Còn 80% do khí mạch đất đai, lối cấu trúc, môi trường... nói chung là phong thủy, địa lý. Lấy vợ không hợp tuổi có thể nhiều phen thay đổi. Nếu hiền nội nhằm tuổi Mậu-Tuất (1958), Kỷ-Hợi (1959), Canh-Tuất (1970) và Tân-Hợi (1971), thì sau lưng một người đàn ông thành công quả đã có một người đàn bà vĩ đại.

“Nam Nhâm, nữ Quý số trời

Tài trai lãnh đạo hợp thời chỉ huy

Tinh thần trách nhiệm gắng ghi

Giàu sang phú quí nam nhi hưởng đời.

Năm nay  bàn tay Kim Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở thương mãi, có thể thực hiện được. Muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi. Qúy ông làm công chức sẽ được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng thành công, tài chánh vững vàng. Gia đình có hỉ sự như thêm cháu nội ngoại. Tuy nhiên, qúy ông dùng nhiều về computer, hay bị đau mắt.

NỮ: Cung Chấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-La: Nữ nhân mà nam tánh, vừa làm mẹ vừa làm cha và là rường cột của gia đình. Sẵn sàng đứng đầu sóng ngọn gió, phản ứng nhanh nhẹn, đối đầu với phong ba bão táp, cố gắng không ngừng để vươn lên. Dù trong lúc thất thế ngậm đắng nuốt cay, hay khi vinh quang rực rỡ, luôn là người sống không thẹn với lòng. Đừng sợ phải nhìn lại quá khứ đau thương, đó chẳng qua là do duyên nghiệp đẩy đưa ta vào chỗ đoạn trường. Đã sang sông đừng tiếc con thuyền, hãy tiến về phía trước với những hứa hẹn đón mời. Tình đầu bao giờ cũng đẹp, nhưng tình cuối mới là tình bất diệt. Qúy bà sinh mùa Thu, Đông luôn luôn sung túc vững bền. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Đông và chánh Nam. Nếu phu quân nhằm tuổi Ất-Mùi (1955), Ất-Dậu (1945), hay Tân-Mão (1951) thì đường chồng con mới khỏi trắc trở phần nào.

“Nữ nhân nam tánh lạ thường

Gia đình quán xuyến cột rường vững tin

Phong ba chèo chống một mình

Vượt qua cay đắng, quang vinh sáng ngời”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa, cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Nếu muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ được như ý. Qúy bà làm công vụ sẽ được thăng quan tấn chức. Qúy bà kinh doanh thương mãi, rất thành công về tài chánh. Gia đình có hỉ sự như có cháu nội, ngoại…

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

Hút vượng tài vào nhà với hoa tươi

Hoa tươi có thể làm cho môi trường sống trong gia đình trở nên tươi đẹp, vượng tài, mang lại cảm giác tự nhiên, ấm áp và tràn đầy sức sống. Dựa theo lý luận phong thủy, bày biện hoa tươi ở vị trí thích hợp trong nhà vừa có thể tô điểm cho ngôi nhà, đồng thời lại có thể nâng cao tài vận.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vậy trong phong thủy nhà ở, hoa tươi phải bày ở vị trí nào mới vượng tài nhất? Theo ứng dụng của phong thủy Chu dịch thì phong thuỷ vượng tài từ hoa tươi thông thường phải tuân theo những nguyên tắc sau:

Hoa tươi bày ở Tài vị: Tài vị tức chỗ góc tường nằm trên đường chéo với cửa phòng. Sở dĩ trong phong thủy gọi đó là Tài vị do vị trí này là nơi thích hợp nhất, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều sinh khí nhất trong nhà.

Nói chung, để chậu cây có tán lá rộng ở vị trí Tài vị trong nhà rất có lợi cho việc tích tụ sinh khí, đặc biệt càng có thể thúc đẩy tích tụ tài khí, từ đó đạt hiệu quả vượng tài cho gia đình.
 
    Hoa tươi bày ở cạnh Thuỷ vị: Mọi người đều biết thuộc tính ngũ hành của hoa tươi là Mộc, cây xanh và hoa tươi để bên cạnh những vật dụng dạng nước và những đồ trang trí dạng nước trong nhà như máy nước nóng lạnh, thiết bị làm ẩm, bể cá... hình thành thế lưu thông ngũ hành Thuỷ Mộc tương sinh, điều này có lợi cho việc nâng cao tài vận. Ttrong phong thuỷ thì Thủy chủ tài, Thủy lưu thông thì sinh sôi nảy nở không ngừng, tài lưu thông thì tài lộc dồi dào.    
    Hoa tươi bày ở cạnh Hỏa vị: Hỏa vị nói ở đây chủ yếu là chỉ đồ điện trong nhà như ti vi, máy tính, tủ lạnh... và bài vị tổ tiên. Cây xanh và hoa tươi bày cạnh Hỏa vị trong nhà hình thành cách Mộc Hoả thông minh Mộc Hỏa  tương sinh, tượng trưng cho tài vận của gia trạch được quý nhân phù trợ mà đời sống ngày càng khá giả, tiếng tăm vang xa.    
    Hoa tươi bày ở giữa Thủy Hỏa vị: Trong thực tiễn kiểm chứng phong thủy phát hiện, có thể là do hiện nay giá nhà đất quá cao, diện tích quá nhỏ hẹp nên bố cục trong nhà của rất nhiều gia đình đều tồn tại cách cục Thủy Hỏa tương xung, ví dụ, máy tạo độ ẩm để quá gần bài vị tổ tiên, bể cá cảnh để quá gần ti vi, Thủy chủ tài, Hỏa chủ danh, Thủy Hỏa tương xung thì tài mất danh bại.

Vậy phải hóa giải như thế nào để biến cái bất lợi thành có lợi? Thực ra chỉ cần bày thêm chậu cây xanh hoặc lọ hoa tươi ở giữa Thuỷ vị và Hoả vị là được.
   
    Hoa tươi bày ở nơi hợp mệnh lý: Theo phong thủy bát tự, nói chung người nào có ngũ hành ưa Mộc thì cây xanh hoặc hoa tươi nên bày ở phía bắc của ngôi nhà để hình thành cách Thủy sinh Mộc, hoặc bày ở phía đông Mộc vượng. Người nào có ngũ hành ưa Hỏa thì nên bày ở phía bắc để hình thành cách Mộc hóa Thuỷ mà sinh Hỏa, hoặc ở phía nam thành Mộc sinh Hỏa.

Người nào có ngũ hành ưa Thổ thì bày ở phía nam thành Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Người nào có ngũ hành ưa Kim thì bày hoa cảnh thân thảo ở phương tứ ngung để Thổ sinh Kim. Người nào có ngũ hành ưa Thủy thì bày hoa cảnh thân gỗ ở phương tứ ngung để khắc chế Thổ bảo vệ Thủy.
   

(Theo VietQ)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hút vượng tài vào nhà với hoa tươi

Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Ngày nay, các thành viên trong gia đình thường trang bị tivi trong phòng ngủ để tiện cho nhu cầu giải trí. Nhưng ít người biết đến ảnh hưởng
Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là nơi bạn nghỉ ngơi và tái tạo sức sau ngày lao động mệt mỏi. Sự bài trí đồ đạc trong phòng: giường ngủ, tủ đựng quần áo, bàn trang điểm... đều có ảnh hưởng nhất định đến phong thủy của không gian này.

(Ảnh minh họa)

Ngày nay, các thành viên trong gia đình thường trang bị tivi trong phòng ngủ để tiện cho nhu cầu giải trí. Việc làm này có thể mang lại sự thư giãn, giúp chủ nhân chìm vào giấc ngủ dễ dàng. Nhưng ít ai biết đến ảnh hưởng không tốt từ việc đặt tivi tại đây.

Tivi là 1 trong những loại đồ điện gia dụng có khả năng bức xạ điện từ. Nó tạo nên hiệu ứng bức xạ sóng điện từ mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Nếu bạn đặt tivi hướng thẳng vào giường thì sóng bức xạ sẽ chiếu vào người. Điều này sẽ hủy hoại năng lượng dương, tăng năng lượng âm trong cơ thể. Vì thế, người ở đây sẽ có nguy cơ mất cân bằng cả về thể chất lẫn tinh thần.

Mặt khác, vừa nằm vừa xem tivi sẽ khiến mắt mệt mỏi. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến hệ thống xương cổ, xương sống.

Đặt tivi cũng đòi hỏi cân nhắc vị trí phù hợp với ngũ hành. Tivi là vật có tính Hỏa mạnh. Tivi càng to thì tính Hỏa càng mạnh.

Cặp vợ chồng nào đều thiếu Hỏa thì có thể đặt tivi trong phòng ngủ. Với người cần Thủy thì nên đặt tivi ở hướng Nam.

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Tử vi Tân Sửu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

TÂN SỬU: BÍCH THƯỢNG THỔ   Tử vi Tân Sửu là con trâu rừng, tính cách đôn hậu, đại lượng vô tư, bậc quân tử kính trọng mà kẻ tiểu nhân thì đố kỵ. Bích thượng Thổ là chỗ nương tựa của nóc nhà, xà nhà, dựng cổng dựng cửa, có đức ngăn nóng chống lạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TÂN SỬU: BÍCH THƯỢNG THỔ

 

Tử vi Tân Sửu là con trâu rừng, tính cách đôn hậu, đại lượng vô tư, bậc quân tử kính trọng mà kẻ tiểu nhân thì đố kỵ.

Bích thượng Thổ là chỗ nương tựa của nóc nhà, xà nhà, dựng cổng dựng cửa, có đức ngăn nóng chống lạnh, có công che sương che tuyết.

Đây là tường đất trong nhân gian, không có Bình địa Mộc không có chỗ dựa. Tý Ngọ là trụ chính trong thiên địa, gặp nó rất cát khánh.

Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc cũng là nóc nhà, xà nhà. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Môc, có gió, nếu như không có Thổ chịu lực lại thêm Thủy tất làm việc khó thành, nghèo khó, yểu thọ.

Gặp Kim hoàn toàn không tạo ra sự thay đổi, phạm chủ về nguy nan. Nếu như mệnh trưóc tiện gặp Mộc, lại gặp Hỏa trợ chủ về họa hoạn, yểu thọ. Các trụ khác có Thủy bổ cứu còn có thể giảm bớt điềm hung.

suu-1

Thủy gặp Giáp Thân Tịnh tuyền Thủy là cát lợi nhất, tiếp đến là Ất Dậu. Thiên thượng Thủy cũng tốt. Duy kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, chủ về trôi dạt, Thổ này sao có thể yên định được?

Trong các Kim duy ưa Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim.

Trong mệnh trước tiên gặp Mộc chủ về quý, có thành tựu.

Không ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim, phạm chủ về thương hại, các Kim khác vô dụng.

Tân lộc tại Dậu, các Địa chi của trụ khác ưa Dậu.

Tân “quý tại Dần, các Địa chi của trụ khác ưa Dần, gặp đại, tiểu hạn hoặc lưu niên Thái tuế Dần chủ cát tường như ý.

Người sinh năm Tân, Văn xương tại Tuất, các Địa chi của trụ khác có Tuất, là người thông minh, có tài ăn nói, giác quan thứ 6 nhạy bén, có thể học đoán mệnh, giáo viên.

Tân Sửu Không vong ở Thìn, Tỵ. Các Địa chi của trụ khác có Thìn, Tỵ là mệnh không tốt.

Tân Đương nhẫn tại Tuất, các Địa chi của trụ khác có Tuất, không tốt.

Tử vi Tân Sửu gặp năm Ngọ, năm Mùi, trong nhà không yên ổn. Nếu không thương hại đến bản thân cũng tổn thương người nhà.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Giáp, Ất. Không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh.

Các trụ khác gặp Giáp, Dần, lộc quý thích đạp.

Nhật chi gặp Sửu, vợ chồng duyên bạc, khắc bạn đời.

Trước khi kết hôn nếu như thấy ngũ trụ của đối phương có 2 Sửu, nên cự hôn, tránh hối hận.

Thời chi gặp Sửu, nên hiến thân cho tôn giáo.

Các trụ khác lại có Đại dịch Thể, Thành đầu Thổ, chủ trưóc nghèo sau giàu, xuất thân nghèo khổ nhưng sau làm quan lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Tân Sửu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Ngọ 1966 –

Như chúng ta cũng biết ngựa là đại biểu của tuổi Ngọ, được xếp ở vị trí thứ 7 trong 12 địa chi. Tính về thời gian là khoảng 11 giờ đến 1 giờ trưa. Về phương vị là hướng chính Nam. Căn cứ theo mùa là vào khoảng tháng 6 Dương lịch – tức tháng 5 Âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

.

Theo Dân gian, Bắc Đẩu Đệ Nhất Tinh Quân và Đại Thế Chí Bồ Tát – một vị đại bồ tát của Phật Giáo, chính là Phật bản mệnh của người tuổi Ngựa.

Bằng cách vận dụng phong thủy hợp lý, người tuổi Bính Ngọ sinh năm 1966 có thể dùng linh vật phong thủy, đá quý phong thủy để thu hút vận may, rước tài lộc vào nhà. Tuy nhiên linh vật phong thủy hay đá phong thủy đó là gì? có rất nhiều người không biết điều ấy. Vì thế hãy cùng đọc bài viết về cẩm nang phong thủy tuổi Bính Ngọ 1966 để có câu trả lời.

Nội dung

  • 1 Đá phong thủy cho tuổi Bính Ngọ
  • 2 Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Bính Ngọ
  • 3 Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Bính Ngọ
  • 4 Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Bính Ngọ

Đá phong thủy cho tuổi Bính Ngọ

Tuổi Bính Ngọ sinh năm 1966 có ngũ hành năm sinh là Thiên Hà Thủy, kỵ hợp các loại đá quý sau đây:


Đeo các loại đá quý màu trắng, xám, ghi (hành kim) để được tương sinh (kim sinh thủy), như: thạch anh trắng, mã não trắng, sapphire ghi, tourmaline trắng, garnet trắng, topaz trắng,…

Đeo các loại đá quý màu đen, xanh nước biển, xanh da trời (hành thủy) để được tương hợp, như: aquamarine, iolite, lapis lazuli, sapphire lục, spinel lục, tanzanite, topaz xanh nước biển, zircon lục, thạch anh khói, thạch anh tóc đen…

Tránh đeo các loại đá quý màu vàng, nâu (hành thổ) vì thổ khắc thủy, như: thạch anh tóc vàng, mắt hổ, thạch anh vàng, sapphire vàng…

Tránh đeo các loại đá quý màu đỏ, cam, hồng, tím (hành hỏa) vì thủy khắc hỏa, như: amber hổ phách, thạch anh ametrine, thạch anh citrine, thạch anh tím amethyst, fancy diamond (kim cương màu), garnet ngọc hồng lựu, kunzite, morganite, opal lửa, thạch anh hồng, ruby, sapphire hồng, đá mặt trời sunstone, topaz đỏ, tourmaline hồng, zircon (đỏ, cam, hồng)…

Không nên đeo các loại đá quý màu xanh lá cây (hành mộc) vì mệnh cung bị sinh xuất, làm giảm năng lượng (thủy sinh mộc), như: alexandrite, fancy diamond (kim cương màu), emerald ngọc lục bảo, garnet xanh, cẩm thạch, ngọc phỉ thúy, đá mặt trăng (loại có hiệu ứng ánh trăng xanh), peridot, sapphire xanh, tourmaline xanh, turquoise và zircon xanh…

Lưu ý

Các loại đá quý đa sắc có thể đeo cho tất cả các mệnh như tourmaline đa sắc, thạch anh đa sắc, đá melody (super seven)…

Các loại đá quý không màu như kim cương, zircon không màu… có thể đeo cho tất cả các mệnh

Các loại đá quý có nguồn gốc hữu cơ như ngọc trai, ngà voi, mai rùa có thể đeo cho tất cả các mệnh

Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Bính Ngọ

Phật Tổ Như Lai
Phật Di Lặc
Bồ Tát Đại Thế Chí (Phật bản mệnh tuổi Ngọ)
Tỳ Hưu
12 con giáp
Vòng tay phong thủy
Thiềm thừ (Cóc tài lộc)
Chúa gê-su…

Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Bính Ngọ

Nam Bính Ngọ sinh năm 1966 có cung Mệnh là Đoài thuộc Tây Tứ Trạch, Mệnh nạp âm là Thiên Hà Thủy.


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng Tây (Đoài): Được Phục vị, Phù Bật Thủy tinh.
Hướng Đông Bắc (Cấn): Được Phúc Đức, Vũ Khúc Kim tinh.
Hướng Tây Nam (Khôn): Được Thiên y, Cự Môn Thổ tinh.
Hướng nhà, giường ngủ, cửa phòng bếp, bàn thờ: Tây, Đông Bắc, Tây Nam.
Nhà vệ sinh, bếp: Nhâm, Ất, Quý, Đinh.
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Tây tứ mệnh.
Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Đặt một bình hoa to trong phòng khách và phòng ngủ, treo tranh hình chim hạc theo hướng sao tốt.

Về mặt trí tuệ: Đặt Tâm kinh , tháp Văn Xương theo hướng sao tốt.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt quả cầu thủy tinh, treo xâu tiền Ngũ đế hướng Phúc Đức, Phục vị.

Về mặt tài lộc: Đặt một bể cá cảnh ở hướng Tây Nam hoặc treo bức tranh 7 con cá chép.

Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Bính Ngọ

Nữ Bính Ngọ sinh năm 1966 có cung Mệnh là Cấn thuộc Tây tứ trạch, mệnh nạp âm là Thiên Hà Thủy.


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng chánh Tây (Đoài): Được Phước Đức, Vũ Khúc Kim tinh.
Hướng Tây Bắc (Càn): Được Thiên Y, Cự Môn Thổ tinh.
Hướng nhà, giường ngủ, hướng cửa bếp và bàn thờ: Tây, Tây Bắc.
Nhà vệ sinh, bếp nấu: Đinh, Ất.
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Tây tứ mệnh.
Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Treo bức tranh chữ Phúc hoặc Ngọc Pháp luân theo hướng sao tốt.

Về mặt trí tuệ: Đặt Tâm kinh hoặc tháp Văn Xương hoặc ngọn Trường minh đăng theo hướng Đông Bắc để hóa giải sinh khí kỵ.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt tượng Mã thượng phong hầu bằng ngọc ở hướng Phúc đức, Phục vị.

Về mặt tài lộc: Đặt bể cá cảnh ở hướng Tây Nam, nuôi 5 hoặc 8 con cá vàng, đặt một con nghê bằng đồng quay đầu ra cửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Ngọ 1966 –

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, tu vi Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay? Tình yêu của bạn giống như tượng đài khó đổ trước gió. Đó có phải sự thật không nhỉ? Hãy chọn một lá bài dưới đây.

Quy tắc bói bài:

 

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân: “Tình yêu của mình có dễ lung lay?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

Lựa chọn 1: The Fool

the-fool.jpg

Lựa chọn 2: The Emperor

 
the-emperor.jpg

Lựa chọn 3: Two of Cups

two-of-cups_1440469560.jpg

Xem kết quả:

Lựa chọn 1: The Fool – Như ngọn đèn trước gió

Chắc chắn mối quan hệ này không bền vững vì những sự cố lớn trong thời gian gần đây đã đẩy lên đỉnh điểm. Bạn và người ấy xung khắc chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, ví như chọn địa điểm đi ăn, đi chơi xa với ai đó… Tuy nhiên, vì ai cũng đặt nặng cái tôi cá nhân, nên khoảng cách ngày càng xa dần, dẫn đến rạn nứt.

Đã không ít lần tình yêu của hai bạn được đưa ra phán xét là sẽ đi đến hồi kết. Sau cùng cả hai vẫn quyết định duy trì mối quan hệ ở mức độ hời hợt và không thể khẳng định sẽ kéo dài bao lâu. Chỉ cần vài yếu tố tác động nhỏ, bạn và “gấu” sẵn sàng từ bỏ tình yêu. Điều cần làm là hãy xác định lại tình cảm của bạn một cách chín chắn.

Lựa chọn 2: The Emperor – Không gì có thể xoay chuyển

Bốc được lá bài này cho thấy bạn rất kỹ tính, kiên định và sống trọng tình cảm. Tất cả những yếu tố này hòa hợp giúp bạn tinh tường trong tình yêu, từ việc lựa chọn “gấu”, vun đắp cho mối quan hệ và xác định rõ ràng tương lai của hai người. Mặt khác, người ấy luôn thể hiện thái độ nghiêm túc, chín chắn và hết lòng với bạn. Bạn càng quý trọng mối tình của mình hơn.

Mặt khác, thời gian mới yêu, mối quan hệ của bạn được thử thách rất nhiều. Thậm chí, sóng giớ lớn ập đến nhưng hai bạn vẫn vượt qua nên tình yêu càng bền chặt. Theo từng ngày, sự quan tâm lẫn nhau như chất keo dính giúp tình không bị dao động trước bất kỳ khó khăn nào.

Lựa chọn 3: Two of Cups – Tình yêu hờ hững, nhưng khó rời

Khó định nghĩa mối quan hệ giữa hai bạn ở thời điểm hiện tại. Đó không hẳn là tình yêu sâu sắc, nhưng hơn tình bạn thân thiết. Nói cách khác, bạn và người ấy dễ xao động, tuy nhiên khó để dứt khoát hoàn toàn. Vậy nên bạn thường suy nghĩ khổ tâm về người ấy, thấy mình bị tổn thương và vẫn loay hoay tìm lối thoát.

Khi gần dứt khoát, quyết tâm chia tay, nửa kia lại muốn níu kéo. Người dễ mềm lòng như bạn không thể từ chối và sẽ quay đầu lại. Ngọn lửa ấy chẳng duy trì được lâu, nhanh chóng nguội lạnh và cả hai lại rơi vào trạng thái yêu hờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Những yếu tố linh động trong việc giải đoán Tử Vi

Bài viết về một chủ đề rất hay! Những yếu tố linh động trong việc giải đoán lá số tử vi. Rất đáng để bạn tham khảo!
Những yếu tố linh động trong việc giải đoán Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của Phong Nguyên

Nhiều vị cao thủ về Tử vi đã từng tâm sự với tôi rằng khi mới biết sơ qua về cách giải đoán Tử vi thường thường ta thấy khoa Tử vi cũng giản dị và rõ ràng nhưng khi đã đạt được mức thâm thúy thì đôi lúc lại thấy việc giải đoán quả khó khăn, dễ bị sai lầm và có thể còn thấy mù mịt, không còn biết đi tới kết luận nào nữa. Mới thoạt nghe tâm sự như vậy ai cũng tưởng các vị đó quá nhún mình hoặc gián tiếp giấu nghề, nhưng sau khi nghe các vị đó giải thích và trình bầy nhiều khía cạnh thì chúng ta không thể không dè dặt khi đoán số Tử vi. Đó là lý do đã thúc đẩy tôi viết bài hôm nay để thảo luận cùng quý bạn về đôi lời tâm sự của các nhà Tử vi kể trên.

Thực vậy, sau khi đã qua được giai đoạn ABC về tử vi, tôi mới nhận thấy rằng có các sao tốt hoặc các yếu tố Tử vi tốt cũng chưa thể cho là tốt, ngược lại cũng vậy, đành rằng tỷ lệ tốt của các sao tốt vẫn luôn luôn cao hơn tỷ lệ tốt của các sao xấu. Điều khó khăn là chúng ta phải căn cứ vào những yếu tố nào để biết sao xấu trở thành tốt và sao tốt trở thành xấu. Để tìm hiểu khía cạnh đó, tôi tạm chia bài này làm hai phần, một phần về lý thuyết và một phần về thực tế.

1) LÝ THUYẾT

Có một vài nhà Tử vi đã thâu thập được khá đầy đủ những tài liệu nêu rõ tất cả các sao tốt trở thành xấu và các sao xấu trở thành tốt khi kết hợp với những sao khác hoặc khi bị thay đổi về vị trí, về Can, Chi của năm sanh hoặc năm xem hạn. Riêng về phần này mớ tài liệu đó đủ thành một cuốn sách, nhưng rất tiếc các vị đó không thể cho phổ biến và cũng không thể cho tôi coi kỹ càng, mà chỉ có bàn luận với tôi về một số sao, cho nên tôi cũng chỉ liệt kê sau đây một phần nhỏ mà thôi mặc dầu trong tâm hồn luôn luôn mong mỏi phổ biến được tối đa những sở học về Tử vi.

Lộc tồn

Quý bạn đều biết sao này là "chân nhân chi tú", một sao gần như không có gì đáng chê cả, ở cung nào ban phúc cho cung đó, nhất là ở cung Phúc đức là "phúc lộc hà sa" thì cuộc đời của ta tha hồ hưởng phúc của ông cha để lại dù cho các cung khác yếu kém nhiều, sau nữa là ở Mệnh hoặc Thân là cách suốt đời được no cơm ấm áo, mặc dầu nhiều vị và nhiều sách chê cung Tử tức có Lộc tồn vì cho đó là cách hiếm hoi hoặc hình khắc con cái nhưng tôi đã nghiệm nhiều lá số có cách đó mà vẫn đông con (đủ cả trai gái) chỉ có điểm là cha mẹ cứ phải lo cho các con ngay cả khi chúng đã trưởng thành, có lẽ xấu là chỗ cha mẹ hơi vất vả về con cái mà thôi. Đấy là nói về khía cạnh tốt của sao tốt. Còn về khía cạnh xấu thì phải nói ngay rằng ở bất cứ vị trí nào, hoặc cung nào (nhất là cung Tử tức nếu Lộc tồn đồng cung với Cự môn thì tối kỵ, vì không những Lộc tồn không còn đặc tính bình thường mà còn tạo ra nguy nan nữa, ngay cả khi nhập hạn cũng vậy, có nhiều người chỉ vì hai sao này thôi mà bị kiện cáo, đau ốm và có khi còn bị tù tội nữa (nếu thêm cách xấu khác). Còn về cung Tử tức nếu chẳng may bị hai sao trên thì thực đáng ngại, khó lòng có con hoặc nếu có cũng chẳng nuôi được. Chẳng thế mà có câu phú "Cự phùng Tồn tú các xứ toàn hung, ưu nhập Tử cung, tống lão vô nhi" (quí bạn nên lưu ý là nhiều sách chép "cát xứ tàng hung". Nhưng nhiều vị Tử vi cho biết là "các xứ toàn hung" nghĩa là ở các cung hay vị trí đều hung cả mới hợp lý).

Ngoài ra, Lộc tồn còn kỵ cả Thiên Cơ và Không Kiếp. Nếu gặp Không Kiếp mà xấu thì chúng ta chẳng lấy làm lạ vì Không Kiếp là hung tinh đương nhiên phải phá hại Lộc tồn, còn đối Thiên Cơ là sao tốt mà cũng kỵ thì có phải là kỳ lạ hay không? Nhưng nếu được biết rõ Thiên Cơ là cái máy, tức là có sự chuyển động, thì làm sao tiền tài có thể tụ lại được vì cứ luôn luôn bị cái máy hất tung ra. Nếu Thiên Cơ nhập hạn có Lộc tồn thì càng hao tán tiền bạc nữa vì Thiên Cơ chuyển trong hạn lại càng chạy mạnh mẽ và thường xuyên hơn, như thế tiền không có lối vô, tức là không thể tụ của được. Còn về Không Kiếp, chắc có bạn thắc mắc tại sao Lộc tồn lại không ngại Thiên không. Chắc quý bạn đều biết Không Kiếp tượng trưng cho hung đồ, chứ Thiên không chỉ tượng trưng cho hao tán chứ không bao hàm ý phá hoại. Do đó nếu Lộc gặp Thiên không có khi vẫn hay vì như thế chứng tỏ mình được ăn tiêu rộng rãi và được hưởng thụ nhiều chứ không bo bo giữ của, nhưng nếu gặp Kiếp Không thì không khác gì ông triệu phú, tỷ phú bị cướp bóc, tống tiền hoặc bị phá sản đau đớn. Trong trường hợp này nếu không có Lộc tồn lại tốt hơn vì đỡ bị mang họa vào thân mà còn hòa mình được với Không Kiếp để phát lên theo chiều hướng khác (như buồn lậu, xưng bá đố vương một vùng…)

Hóa Lộc

Có thể nói từ khi tôi học Tử vi đến giờ, tôi chỉ được nghe nói là Lộc tồn còn có điểm xấu chứ chưa thấy ai nói đến Hóa Lộc bị khía cạnh gì xấu, dù cho ở hãm địa cũng chỉ kém mà thôi. Nhưng nay có vị cho biết là Hóa Lộc không nên đồng cung với Hóa Khoa mà chỉ nên đồng cung với Hóa Quyền. Vì nếu gặp Hóa Khoa sẽ tán tài, trong khi gặp Hóa Quyền vừa mở miệng ra là người khác đưa tiền cho mình vì tín nhiệm hoặc chịu ơn…Nếu Hóa Khoa ở cung khác chiếu về thì vẫn hay như thường, chỉ ngại đồng cung mà thôi. Tại sao vậy? Vì Hóa Khoa chủ về hoạt động (cũng tựa như Thiên Cơ một phần), chỉ hay cho thi cử, học hành chứ không lợi cho tài lộc. Cho nên phú có câu "Khoa Lộc Tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng" tuy không nói về tài lộc nhưng gián tiếp nói về Hóa Lộc gặp Hóa Khoa, vì khi Khoa phá Lộc thì rất cần sao Tuần chụp giữ Khoa lại để cho ăn được Lộc mà thành sự nghiệp hiển hách. Nhiều sách chép là "Quyền Lộc" tưởng không được đúng cho lắm, và nhất là không viết "Tuần" bằng chữ hoa thành ra ai cũng tưởng là hạn gặp Quyền Lộc chứ đâu có nghĩ là gặp sao Tuần.

Ngoài ra, khi Hóa Lộc gặp Lộc tồn (đừng nên đồng cung, mặc dù nhiều vị vẫn cho là hay) thì không nên gặp Tả phù, Hữu bật mà chỉ nên gặp Nhật Nguyệt đắc địa, vì khi đã có Song Lộc tức là cách đại phú thì chỉ làm ăn lớn, tức là xứng với cách Nhật Nguyệt chứ lại gặp luôn cả Tả Hữu là cách cái gì cũng làm thì có phải là không hợp cách hay không, và như thế tức là giảm cách giàu sang đi nhiều.

Tang, Hổ

Trên đây là một vài sao tốt đã trở thành xấu, nhiều hoặc ít tùy theo trường hợp. Nay tôi xin đề cập tới một vài sao xấu trở thành tốt. Tỷ dụ như hai sao Tang, Hổ, ai chẳng biết là bại tinh, nhưng chúng vẫn có những điểm khá hay như sau:

Khi Tang môn gặp Thái Dương (ở Mệnh Thân cũng như nhập hạn) thì lại tốt vì mặt trời chiếu qua cửa (Môn), tức là có công dụng đúng lúc và đúng chỗ, và do đó công danh, sự nghiệp tiến triển. Còn gặp Thái âm thì không hợp cách, vì Tang không hợp với đêm tối.

Tang Hổ tuy chủ về sự phiền muộn, trở ngại nhưng cũng có nghĩa là làm cho người khác đau khổ, lo buồn khi hai sao đó đóng tại cung Quan lộc hoặc cung Mệnh. Và khi mình đã có khả năng làm cho kẻ khác lo buồn tức là mình phải có chức phận cao có uy quyền sinh sát (như về ngành Tư pháp, Cảnh sát, An ninh)…thì mới có thể gây "thất điên bát đảo" cho thiên hạ được. Lẽ tất nhiên cũng cần phải có thêm một số sao khác bổ túc mới đạt được quyền uy đó, nhất là các sao Khoa, Quyền, Lộc và …Khốc Hư. Hai sao Khốc Hư cũng vậy, tuy chủ về đau buồn, rơi nước mắt nhưng khi đóng đúng chỗ thì chính là người khác chịu như vậy chứ không phải chính mình. Tuy vậy hai sao Tang Hổ và cả Khốc Hư không nên tọa thủ tại Mệnh, Thân vì như thế chính mình cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các sao đó, tức là cũng hay bị đau buồn, khổ não trong lòng mặc dầu cũng gây ra được những điều đó cho người khác. Quý bạn hãy thử kiểm lại các lá số của những vị làm lớn, thường thường có Tang Hổ tại Mệnh hoặc Quan lộc.

Khi bạch hổ tọa thủ tại mệnh nếu có Thiên hình đồng cung hoặc xung chiếu thì đó là cách oai phong lẫm liệt, như ông tướng (Bạch Hổ) có kiếm báu (Thiên Hình) nhất là khi Bạch Hổ cư cung Dậu hoặc Thân, nhưng với điều kiện không có các sao "hiền" kèm theo, tỷ dụ như Quan phúc, bộ Tứ Đức, Thai, Tọa…vì các sao này làm giảm hẳn "nhuệ khí" của ông tướng, như thế khó thành công, khó có uy quyền thực thụ.

Long là cách rất hay (cụ Ba la hay khen cách này lắm, và hình như Cụ Quản Văn Chính cũng đã nhắc lại trên KHHB rồi), nhất là được người âm Nam và tuổi Đinh, Kỷ. Tôi nghiệm thấy nhiều khi không được cách gì khác mà chỉ có mỗi cách trên, thế mà đương số vẫn có địa vị và sự nghiệp cao trong xã hội.

Sinh khắc giữa bản Mệnh và cung an Mệnh

Đa số các sách Tử vi và các nhà Tử vi đều cho rằng cung Mệnh phải sinh bản mạng mới tốt, nhưng có vị cho rằng có trường hợp sinh là xấu mà khắc mới hay. Đó là trường hợp người âm Nam hoặc Dương Nữ, cần phải có cung Mệnh khắc bản mạng mới tốt, chỉ vì lẽ thuận nghịch mà ra. Chắc các bạn cũng để ý thấy rằng khi người nào thuộc âm nam hoặc Dương Nữ thì đương nhiên phải an đại hạn đi nghịch, và vòng Tràng Sinh, Lộc tồn cũng an nghịch. Do đó khi cho rằng cung Mệnh khắc với bản mạng trong trường hợp này, mới tốt tưởng cũng không có gì là kỳ lạ, mâu thuẫn mà thực ra như thế mới là thích hợp vì cùng theo lẽ "nghịch" cả.

Vận hạn

Về phương diện giải đoán đại tiểu hạn cũng vậy, tôi đã từng nhắc nhở quý bạn là cần nhận định tương xứng là biết ngay được tốt xấu, chứ đừng bao giờ căn cứ vào đặc tính tốt xấu của các sao mà giải đoán. Nhân dịp này, tôi lại xin nêu ra một vài thí dụ nữa cho đầy đủ: Tỷ dụ như hạn gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa Quyền Lộc Khôi việt sáng sủa ai mà không khen, thế mà vẫn có những người gặp cách này lại khốn đốn chứ không nói là bình thường chỉ vì mạng người đó có Không Kiếp hãm địa hoặc Sát Phá Liêm Tham hãm địa hội hợp. Chắc có bạn không đồng ý vì nghĩ rằng gặp cách tốt nếu không hợp thì tốt ít chứ có khi nào trở lại nên xấu. Nhưng nếu quý bạn thử so sánh nhóm sao tại Mệnh như những nhóm bất hảo, côn đồ và những sao nhập hạn như những nhân vật cao cấp, đứng đắn, uy quyền thì các bạn sẽ thấy ngay là nhóm trên đương nhiên bị nhóm sau áp đảo, không dung nạp nổi (như bắt bỏ tù hoặc dùng hình phạt nào đó). Cũng trong trường hợp này nếu nhóm sao tốt Tử Phủ Vũ Tướng bớt được Khoa Quyền Lộc và bị thêm Tuần, Triệt án ngữ thì lại lợi ích cho cách ở Mệnh vì khi đó các nhân vật ấy bị giảm uy quyền (tức là thiếu Khoa Quyền Lộc) lại còn bị gò bó (Tuần, Triệt) làm sao đè ép được nhóm bất hảo kia, đành để chúng mặc sức tung hoành. Nếu bình thường ta thấy cách Tử Phủ Vũ Tướng bị Tuần, Triệt (nhất là Tử vi tối kỵ Tuần, Triệt) thì khó lòng ta dám cho là hay, nhưng riêng trường hợp trên điểm xấu này đã dùng được, nếu không nói là tốt.

2) THỰC TẾ

Phần này hoàn toàn không dính dấp gì đến các nguyên tắc lý thuyết về Tử vi vì chỉ căn cứ vào sự nhận xét sự kiện trước mắt, rồi phối hợp với các yếu tố Tử vi đã tìm ra, xem có sự tương hợp hay không để đi đến kết luận tốt hay xấu. Để cho dễ hiểu xin quý bạn đọc vài thí dụ sau đây:

- Nếu tình cờ quý bạn xem Tử vi cho một bệnh nhân đau yếu liệt giường chỉ chờ ngày chết (nhất là người bịnh đã già) thì quý bạn cần để ý xem đại tiểu hạn của người đó thật tốt hay không, nếu còn xấu hoặc hơi xấu thì phải đoán là con bệnh chưa thể chết được cứ phải đau khổ chịu đựng nữa. Nếu may được đại tiểu hạn thật tốt, như có Quan Phúc Khôi Việt Song Hỷ Tả Hữu Đào Hồng Khoa Quyền Lộc thì có thể quyết đoán là mãn số vì lúc đó Trời, Phật (Quan Phúc Khôi Việt) mới giúp (Tả hữu) bệnh nhân dứt được mối khổ đau triền miên để ngậm cười (Song Hỷ) nơi chín suối. Phải chi bịnh nhân chỉ mới đau yếu đôi ngày hoặc đôi ba tuần thì việc giải đoán lại phải theo như thường lệ, nghĩa là thấy đại tiểu hạn xấu mới chết được.

- Tôi có được coi khá nhiều lá số của trẻ sơ sinh và có nghiệm được trường hợp mâu thuẫn sau đây: con của người lưu manh, du đãng, tứ chiếng cao bồi nếu có lá số Tử vi thật tốt (nghĩa là từ cung Mệnh, Thân, Phúc đức cho tới Ngũ hành sinh khắc đều tốt đẹp và cũng không phạm giờ xấu nào) thường thường không nuôi được mới lạ chứ! Phải chăng phúc đức của những người đó không dung nạp được nổi một quý tử như vậy cho nên phải ra đi vĩnh viễn để đầu thai qua nhà khác mới thích hợp. Vì vậy, mỗi khi xem số Tử vi cho trẻ sơ sinh quý bạn rất cần phải biết rõ gia thế, cha mẹ của đứa bé thì mới có thể quyết đoán được vấn đề nuôi dưỡng được hay không. Tôi xin nhấn mạnh là mình nên chú ý tới cái đức của gia đình đứa trẻ chứ không cần chú trọng tới sự giàu sang, vì thiếu gì các vị lãnh tụ hoặc nhân vật lỗi lạc đã xuất thân từ một gia đình bần hàn, nghèo khó hoặc từ một người nông dân lam lũ. Chỉ có điểm khó là làm sao chúng ta biết được chính xác âm đức của gia đình đứa trẻ được tới mức nào. Đó là do nhận xét tinh vi của người xem số hoặc nếu biết coi tướng mặt thì càng biết rõ hơn. Bởi vậy khi xem số cho trẻ sơ sinh chúng ta không nên quyết đoán hấp tấp khi thấy có nhiều yếu tố cực kỳ tốt, vì chính những điểm "cực kỳ" đó là con dao hai lưỡi đối với đứa trẻ, nếu gặp một gia đình có âm đức thật tốt thì đương nhiên nó sẽ nên người và có công danh, sự nghiệp huy hoàng, còn trường hợp sinh ra trong một gia đình thất đức, độc ác thì cần…hỏi lại.

- Có nhiều trường hợp giải đoán vận hạn, gặp đủ các yếu tố Tử vi tốt thực mà vẫn không đáp ứng đúng sở nguyện của người liên hệ, như thế vẫn chưa có thể gọi là hạn tốt. Tỷ dụ như một người tỷ phú tiền rừng bạc biển nhưng lại hiếm con, nhất là con trai, khi nhờ ta coi số mà thấy đại tiểu hạn có toàn sao tài lộc, sự nghiệp thăng tiến (như có Phủ, Vũ hội Song Lộc, Long Phượng Hổ Cái…) nhưng lại có sao ngăn cản sự sinh sản (như Cô Quả, Đẩu quân, Thiên hình, Thiên Hư, Tang Hổ…) thì ta đừng nên vội mừng cho đương số, nếu ta đã được biết rõ sự thực như trên về đương số. Cũng trường hợp này, nếu hội vừa đủ các sao khả dĩ báo hiệu sự sinh con (trai) thì dù có buôn thua bán lỗ chắc đương số vẫn sung sướng, thỏa mãn như thường. Tuy khía cạnh này chỉ là tâm lý và hoàn cảnh các nhân nhưng tôi thấy vẫn có thể áp dụng chung. Tôi xin nêu thêm một thí dụ khác cho dễ hiểu hơn: Nếu một người có Mệnh hội đủ các sao thanh nhàn, thụ hưởng như Thai Tọa, Quan Phúc, Đào Hồng, Song Hỷ, bộ Tứ đức mà lại gặp một đại tiểu hạn có đủ các sao hoạt động hăng say, thành công vượt bực, uy quyền hiển hách thì đương nhiên nếu ta không cân nhắc ta sẽ quyết đoán là đương số được hưởng một giai đoạn huy hoàng, sung sướng thực sự, nhưng đối với đương số rất có thể lại là chuyện "không ham" vì bị gò ép vào môi trường trái ngược với sở nguyện của mình, mặc dầu trước nhãn quang của thiên hạ đó là điều đáng ước mơ.

Qua những điều trình bầy trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy việc giải đoán Tử vi quá linh động, uyển chuyển, nhất là về phương diện lý thuyết vì phương diện này đòi hỏi một căn bản thực sự mà ít khi ta có vì các tài liệu giá trị không được ai phổ biến. Còn về phương diện thực tế có lẽ chỉ quan trọng khi ta đặt nặng vấn đề tâm lý hoặc khi ta muốn tìm hiểu lá số của chính mình cho thực khách quan, hoặc khi ta đang hành nghề Tử vi muốn chinh phục được hoàn toàn thân chủ của ta mà thôi. Tuy nhiên, quý bạn cũng đừng bao giờ nên quá đa nghi các cách tốt để đến nỗi lá số nào cũng chê là xấu, hoặc gặp lá số thật xấu lại khen là hay, như thế cũng không phải là linh động.

KHHB số 74G2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những yếu tố linh động trong việc giải đoán Tử Vi

Những câu nói hay về cà phê hay và nổi tiếng nhất

Những câu nói hay về cà phê. Có người nói: "Cà phê không phải là thú thanh thản như trà, càng không mạnh mẽ bạo liệt như rượu
Những câu nói hay về cà phê hay và nổi tiếng nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về cà phê. Có người nói: “Cà phê không phải là thú thanh thản như trà, càng không mạnh mẽ bạo liệt như rượu. Người thưởng thức nhẹ nhàng cho rằng cà phê là gạch nối giữa niềm vui và nỗi buồn. Với ai đang muộn phiền, cà phê càng day dứt như một bản nhạc có nhiều dấu lặng. Còn những kẻ môn đồ của giáo phái cà phê thì cho đó là người đàn bà mang bùa ngải trong mình….”

Với mục tiêu kết nối, phụng sự cộng đồng những người yêu và đam mê cà phê, xemboituong.com mong muốn cùng bạn chia sẻ những khoảnh khắc, những trải nghiệm mới mẻ nhưng rất gần gũi về cà phê và cuộc sống. Nơi đây bạn sẽ tìm thấy những cung bậc cảm xúc của chính mình qua những câu Châm ngôn, những chia sẻ của chính cộng đồng những người yêu và đam mê cà phê… “Ý nghĩa lớn sau những câu nói nhỏ”

Những câu nói hay về cà phê

#Danh ngôn 1: “Nhiều người, không chịu được vị đắng của cà phê nên thường bỏ đường hoặc sữa cho bớt đắng. Tôi không cho đường hay sữa vào cà phê bởi tôi biết: phải nếm trải qua cay đắng mới cảm nhận được ngọt ngào đến lịm người. Cho dù vẫn tiếp tục phải uống cà phê đắng nhưng tôi vẫn không nản lòng vì dư vị ngọt ngào của nó.” [Bunny]

#Danh ngôn 2: “Mỗi giọt cà phê rơi, thời gian như ngừng hẳn lại” [St]

#Danh ngôn 3: “Một tách cà phê uống vào buổi sáng mang lại sự hưng phấn tuyệt vời mà không một tách cà phê nào khác dù là buổi chiều hay buổi tối có thể tạo ra được” [Oliver Wendell Holmes, Sr. (1809 – 1894)]

#Danh ngôn 4: “Cà phê đã trở thành một món ngon dành cho tâm hồn mỗi người, người tìm đến cà phê khi có những tâm sự, trăn trở, người tìm đến cà phê như tìm một nguồn cảm hứng sáng tạo trong công việc, người tìm đến cà phê đơn giản như một cách thưởng thức cuộc sống!” [St]

#Danh ngôn 5: “Thêm chút đường cà phê có ngọt? Thêm chút tình mình có thuộc về nhau?”

danh ngôn cà phê

#Danh ngôn 6: “Đàn ông rất giống cà phê, bởi nếu là loại ngon sẽ làm bạn mất ngủ” [St]

#Danh ngôn 7: Trong màu đen của cà phê tinh ý sẽ thấy được nét sóng sánh của màu nâu đỏ, sau vị đắng ngắm lòng là dư vị ngòn ngọt lạ kì của vị hương. – Nhìn đời qua lăng kính phân kì sẽ thấy ngỡ ngàng sự hòa quyện của một tập hợp bao nhiêu là màu sắc, thoang thoảng trong kí ức bao trùm cả không gian những mùi vị của yêu thương. [st]

#Danh ngôn 8: Cà phê thì phải đen như địa ngục, đắng như tử thần và ngọt ngào tựa tình yêu… [st]

#Danh ngôn 9: Cuộc đời của chúng ta cũng như 1 tách cà phê. Nhưng đôi khi vì quá chạy theo những cái tách mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội thưởng thức cà phê [st]

#Danh ngôn 10: “Cà phê không sặc sỡ để gây sự chú ý, không ngọt ngào để “xu nịnh cảm xúc”, mà nó tồn tại để mang lại cho chúng ta một kho tàng cần khám phá, một người dẫn lối để đi đến sự thanh tịnh” [st]

#Danh ngôn 11: “Mỗi buổi sáng thức giấc, nếu không có tách cà phê tôi cảm thấy mình vô vị” [Napoleon – (1769 – 1821)]

#Danh ngôn 12:”Cà phê tốt cho tài năng con người, còn thiên tài chỉ cần lời cầu nguyện”

Ralph Waldo Emerson (1803–1882) nhà viết tiểu luận, nhà thơ, triết gia người Mỹ. Ông là nhà tiên phong trong phong trào Tự lực cánh sinh và triết lý Siêu việt.#Danh ngôn 13: Chúng tôi ngẫm thấy rằng, hương vị của tình yêu dưới lăng kính của cà phê sao mà gần gũi & quen thuộc quá, như chính hương vị tách cà phê mà chúng tôi vẫn thưởng thức hàng ngày. Nếu bạn cho rằng điều này đúng, hãy cùng chia sẻ để kết nối thêm nữa những người cùng yêu & đam mê Hương vị tình yêu – Hương vị cà phê nhé


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về cà phê hay và nổi tiếng nhất

Tên đem lại may mắn cho người tuổi Mùi

Mùi tam hội với Tỵ và Ngọ, tam hợp với Mão và Hợi. Do đó, tuổi Mùi nên có các chữ này.
Tên đem lại may mắn cho người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ví dụ như: Gia, Hào, Giá, Khanh, Ấn, Nguyệt, Bằng, Thanh, Đông, Mã, Tuấn, Nam, Hứa, Bính, Đinh, Tiến, Quá, Đạt, Tuần, Vận, Tuyển, Bang, Đô, Diên…

 

Ten dem lai may man cho nguoi tuoi Mui hinh anh
Tuổi Mùi
 

Dê là loài động vật ăn cỏ và thích ăn những loại ngũ cốc như Mễ, Mạch, Hòa, Đậu, Tắc, Thúc. Vì vậy, những chữ thuộc các bộ đó như: Túc, Tinh, Túy, Tú, Thu, Khoa, Đạo, Tích, Tô, Bỉnh, Chi, Phương, Hoa, Đài, Nhược, Thảo, Hà, Lan, Diệp, Nghệ, Liên… rất thích hợp với người cầm tinh con dê. Phần lớn người tuổi Mùi mang những tên đó là người tài hoa, nhanh trí, ôn hòa, hiền thục, biết giữ mình và giúp người.

Dê thích nghỉ ngơi dưới gốc cây hoặc trong hang động nên những tên thuộc bộ Mộc hoặc mang các chữ Khẩu, Miên, Môn có tác dụng trợ giúp cho người tuổi Mùi được an nhàn hưởng phúc, danh lợi song toàn. Những tên như: Bản, Tài, Thôn, Kiệt, Đông, Tùng, Vinh, Thụ, Quyền, Lâm, Liễu, Đồng, Chu, Hòa, Đường, Thương, Hồi, Viên, Dung, Tống, Gia, Phú, Khoan, An, Hoành, Nghi, Định, Khai, Quan, Mẫn… sẽ giúp bạn gửi gắm ước nguyện đó.

Dê thường chạy nhảy và có thói quen quỳ chân để bú sữa mẹ nên những tên thuộc bộ Túc, bộ Kỷ sẽ giúp người tuổi Mùi sống thuận theo tự nhiên và luân thường, được vinh hoa phú quý. Để gửi gắm ước nguyện đó, bạn có thể chọn một trong những tên như: Bạt, Khiêu, Dũng, Ất, Nguyên, Tiên, Khắc, Miễn, Lượng…

Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 
 
 
 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên đem lại may mắn cho người tuổi Mùi

Tướng bàn tay qua ngũ hành theo quan niệm phương Tây –

Các tướng gia phương Tây như Joselt Renald hay bác sỹ người Mỹ Ray Hymann khi nghiên cứu tướng pháp Á Đông trong phần tướng pháp và quan niệm Ngũ Hành Âm Dương tương sinh, tương khắc, các ông này đã đề xuất quan niệm rằng bàn tay được chia làm 4 phần
Tướng bàn tay qua ngũ hành theo quan niệm phương Tây –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bàn tay qua ngũ hành theo quan niệm phương Tây –

Đặt tên vần K có gì cần chú ý?

Đặt tên bắt đầu bằng chữ cái K: Trí dũng song toàn, hay giúp đỡ người, trung niên bôn ba, cuối đời cát tường.
Đặt tên vần K có gì cần chú ý?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Kế: Kiến thức uyên bác, đối xử công bằng, có số xuất ngoại.

Kết: Đa tài, cuộc đời thanh nhàn, trung niên yên ổn, cuối đời gặp chuyện buồn.

Khả: Thông minh, số đào hoa, cuối đời hưởng phúc lộc.

Dat ten van K co gi can chu y hinh anh
Tên bắt đầu bằng chữ cái K: trí dũng song toàn

 
Khắc: Có số làm quan nhưng khắc bạn đời và con cái.

Khách: Phúc lộc song toàn, trung niên vất vả, cuối đời thanh nhàn, cát tường.

Khải: Trí dũng song toàn, đi xa gặp may, trung niên hưng vượng, gia cảnh tốt.

Khản: Có tài năng song không gặp thời, trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời cát tường.

Khán: Đa tài, lanh lợi, trung niên thanh nhàn, cát tường, cuối đời vất vả.

Kháng: Thuở nhỏ vất vả, kỵ sông nước, cuối đời cát tường.

Khang: Trí dũng song toàn, hay giúp đỡ người, trung niên bôn ba, cuối đời cát tường.

Khánh: Anh minh, đa tài, danh lợi vẹn toàn, phú quý.

Khanh: Có số làm quan, xuất ngoại, trung niên thành đạt.

Khảo: Cả đời thanh bạch, bình dị, nếu xuất ngoại sẽ cát tường; trung niên vất vả nhưng cuối đời thành công.

Khao: Có số xuất ngoại, cả đời bình an, khắc cha mẹ.

Khẩu: Có tài ăn nói, trung niên vất vả nhưng cuối đời cát tường.

Khích: Đi xa gặp quý nhân phù trợ, có số làm quan, nên kết hôn muộn sẽ đại cát, cả đời hưng vượng.

Khiếm: Hay lo lắng, cuộc sống khốn khó, khắc bạn đời và con cái.

Khiêm: Thông minh, nhanh nhẹn, có tài giao tiếp, trung niên sống bình dị, cát tường.

Khiêu: Thanh tú, lanh lợi, trắc trở tình duyên, trung niên đề phòng có họa, cuối đời cát tường, phú quý.

Khoa: Anh tú, trung niên thành công, thịnh vượng, xuất ngoại sẽ cát tường.

Khóa: Thuở nhỏ gian khó, trung niên bình dị, cuối đời cát tường.

Khoái: Bản tính thông minh, đa tài, tình duyên trắc trở, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Khoan: Thanh nhàn, đa tài, phú quý, trung niên cát tường, gia cảnh tốt, nếu là con gái thì không nên đặt tên này.

Khoáng: Mẫn tuệ, gia cảnh tốt, cả đời cát tường.

Khôi: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, cẩn thận lời ăn tiếng nói, cuối đời cát tường.

Khởi: Khắc bạn đời hoặc con cái, xuất ngoại sẽ gặp phúc, số có 2 vợ, trung niên vất vả, cuối đời phát tài, phát lộc.

Khôn: Thanh tú, lanh lợi, con cái thông minh, trung niên có tai họa, kết hôn muộn sẽ hạnh phúc.

Khổng: Ưu tư, lo nghĩ nhiều, trung niên vất vả, cuối đời hưởng sung sướng.

Khuất: Thuở nhỏ gian nan, trung niên thành công rộng mở, có số đào hoa; một số người lo nghĩ nhiều.

Khuê: Cả đời phúc lộc, trí dũng song toàn, trung niên cát tường.

Khung: Có tài song không gặp thời hoặc vất vả cả đời, tính tình cương trực.

Khương: Đa tài, nhanh trí, tính tình ôn hòa, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Khuyên: Sống thanh nhàn, trọng tín nghĩa, trung niên cát tường, gia cảnh tốt.

Kiếm: Tính tình quyết đoán, cẩn thận gặp họa dao kiếm, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Kiến: Tính tình quyết đoán, có tài, xuất ngoại gặp phúc, xa quê lập nghiệp thành công, trung niên vất vả, nếu kết hôn và sinh con muộn thì sẽ đại cát, phúc lợi song toàn.

Kiện: Ưu tư, vất vả, khó được hạnh phúc, cuộc sống gặp nhiều trắc trở, tai ương.

Kiệt: Xuất ngoại đại cát, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.

Kiều: Đa tài, đức hạnh, trí dũng song toàn, có số làm quan hoặc xuất ngoại.

Kính: Đa tài, đức hạnh, gặp nhiều may mắn, có số làm quan, gia cảnh tốt.

Kỵ: Gia đình không hạnh phúc, lắm bệnh tật, cuối đời vui vẻ.

Kỳ: Học vấn uyên thâm, trí dũng song toàn, có số làm quan, có 2 con sẽ đại cát, cả đời vinh hoa phú quý.

Kỷ: Thời trai trẻ bôn ba, vất vả, lận đận chuyện tình cảm, cuối đời hưởng hạnh phúc.

Theo Tên hay thời vận tốt

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên vần K có gì cần chú ý?

Cách hoá giải phong thuỷ xấu cho phòng vệ sinh

Toilet là một hệ thống công trình phụ quan trọng trong mỗi ngôi nhà và phong thuỷ toilet cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp, tinh thần của gia chủ...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng biết cách “hoá giải” phong thuỷ xấu của toilet cũng như những kiêng kị khi thiết kế, sắp đặt và sử dụng nó. Cùng chuyên mục Nhà đẹp tham khảo những thông tin hữu ích dưới đây nhé!

Vài điều kiêng kị khi thiết kế, sắp đặt và sử dụng toilet

- Theo phong thủy, năng lượng và các cơ hội tốt của gia chủ sẽ vào nhà qua cửa chính. Do đó, cửa toilet không được đối diện với cửa lớn vào nhà. Nếu cửa toilet đối diện với cửa chính, thì sinh khí khi đi vào sẽ xộc thẳng vào nơi âm khí nặng nề. Bạn nên nhớ, hãy kiêng mở cửa phòng vệ sinh thẳng với cửa chính, ngoài ý nghĩa giữ gìn thẩm mỹ, che chắn tầm nhìn, điều này còn liên quan đến trục dẫn truyền khí. Thay vì mở cửa, bạn có thể đặt bình phong hoặc tạo vách ngăn che chắn nếu như không thể xoay chuyển cửa được.

Cửa toilet không được nằm đối diện cửa chính.

- Cửa bếp và toilet phải tránh đối diện nhau. Bởi vì bếp là nơi đun nấu, chế biến đồ ăn thức uống, còn phòng vệ sinh là nơi nuôi dưỡng vi khuẩn và không khí bẩn, nếu cửa đối diện nhau sẽ ảnh hưởng tới vệ sinh, tổn hại sức khỏe.

- Không nên thiết kế phòng vệ sinh ngay trung tâm của ngôi nhà, vì phần trung tâm là nơi trang trọng, đòi hỏi sự cao ráo, sáng sủa, thoáng đãng và trang nghiêm nhất. Nếu đặt phòng vệ sinh tại đây sẽ làm hỏng nội khí, vừa bất lợi cho khu vệ sinh vì rất khó thông thoáng, đồng thời khu vệ sinh cũng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ ngôi nhà.

- Hiện nay, đa số gia đình làm nhập chung cả ba tiện nghi tắm - lavabo - bàn cầu trong một phòng vì những hạn chế về diện tích và kinh phí. Tuy nhiên, tốt hơn cả là bạn nên tách riêng chúng ra nếu có thể, bằng những cách ngăn chia “cứng” như xây tường, làm vách kính, hoặc “mềm” như dùng rèm che, cửa lùa…

Nên sử dụng vách ngăn để phân chia trong toilet.

- Về lựa chọn màu sắc: Những màu sắc dịu nhẹ sẽ đem lại cảm giác thư giãn, những màu đậm và ấm có thể sử dụng cho phần nền và tường. Hạn chế dùng màu chói lọi hoặc quá tương phản trong khu vệ sinh, bởi vì vì tính thư giãn nhẹ nhàng luôn cần được để ý. Ánh sáng tự nhiên cũng rất quan trọng, bạn có thể thiết kế thêm những chân nến và đèn treo tường để thắp sáng những bức tường và các góc.

Sắc màu dịu nhẹ luôn được ưu tiên hàng đầu.

- Đừng bao giờ để toilet bẩn, ẩm thấp, bạn cần phải vệ sinh không gian này thường xuyên. Hãy dẹp bỏ những thứ gây bề bộn trong phòng tắm như: Giỏ rác đầy ứ, chai lọ hoặc ống kem đánh răng rỗng, đĩa đựng xà bông không cần thiết, mỹ phẩm, sữa tắm hết hạn sử dụng hoặc không bao giờ dùng đến… Tất cả những thứ này đều có thể tích tụ năng lượng xấu, gây hại cho gia chủ!

Luôn giữ toilet luôn sạch sẽ, gọn gàng để tránh tà khí.



- Hệ thống nước phòng tắm phải luôn luôn thông suốt, nếu gặp sự cố thì bạn phải sửa chữa ngay. Tránh tình trạng bồn cầu hay lavabo bị rò rỉ, thất thoát… Điều đó có thể khiến tiền bạc của bạn mất dần bởi nước sinh hoạt cũng chính là nguồn khí trong nhà đấy!

Cách "hoá giải" phong thuỷ xấu của toilet

Theo phong thủy, hướng của toilet trong nhà cũng ảnh hưởng tới vận may của bạn. Dưới đây là những cách chế ngự phong thuỷ xấu của toilet mà chúng tôi muốn bạn tham khảo:

Toilet đặt ở hướng Bắc

Toilet đặt ở khu vực hướng Bắc của ngôi nhà có thể gây ra những mâu thuẫn với sếp và đồng nghiệp tại chỗ làm. Nó còn cản trở con đường thăng tiến trong công việc của bạn. Giải pháp cho trường hợp này là đặt 1 hòn đá lớn trong toilet. Luôn đóng cửa toilet và không được trang trí bằng gạch màu xanh dương hoặc đen.

Toilet đặt ở hướng Nam

Sử dụng đèn mờ bên trong toilet.

Toilet ở khu vực phía Nam của ngôi nhà gây ra những chuyện thị phi. Người sống trong nhà sẽ là nạn nhân của các tin đồn vô căn cứ và của những lời nói xấu có ảnh hưởng đến thanh danh của gia đình. Giải pháp cho vấn đề này là đặt 1 chậu nước và thắp 1 ngọn đèn mờ ở bên trong toilet.

Toilet đặt ở hướng Đông

Toilet ở hướng này sẽ khiến cho những người con trai trong gia đình trở nên khó dạy bảo. Nếu chủ nhân sống trong căn nhà này chưa có con thì cơ hội có con trai sẽ bị triệt tiêu. Sức khỏe của các thành viên trong gia đình cũng bị ảnh hưởng. Giải pháp cho trường hợp này là để đèn sáng trong toilet.

Toilet đặt ở hướng Tây

Toilet ở khu vực phía Tây của ngôi nhà sẽ gây ra những vấn đề về con cái. Nếu bạn chưa có con thì theo phong thủy, vận may về đường con cái sẽ bị ảnh hưởng và cơ hội có con là khó. Giải pháp cho trường hợp này là treo trong toilet 1 bức tranh thuộc hành Thủy như tranh ảnh sông hồ hoặc thác nước.

Toilet đặt ở hướng Tây Nam

Đặt chậu cây hoặc hoa đối với toilet hướng Tây Nam.

Toilet ở khu vực này sẽ ảnh hưởng xấu đến những vấn đề về hôn nhân của con cái trong nhà. Nó cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng. Hãy đặt chậu cây hoặc hoa trong toilet. Không được đặt pha lê hoặc bình gốm sứ ở đây.

Toilet đặt ở hướng Đông Bắc

Toilet đặt ở này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung của con cái, gây khó khăn cho việc học của chúng. Nên đặt 1 chậu cây trong toilet để chế ngự năng lượng xấu phát sinh. Trang trí toilet bằng gạch có màu xanh lá cây.

Toilet đặt ở hướng Đông Nam

Toilet ở khu vực nói trên của ngôi nhà sẽ gây ra tình trạng thất thoát tài chính, làm ăn trì trệ và lợi nhuận kinh doanh giảm sút. Tài chính trong gia đình luôn luôn túng thiếu. Giải pháp là treo chuông gió hình ngôi chùa gồm 5 thanh hoặc 1 con dao cong bên trong toilet. Trang trí toilet bằng gạch màu trắng.

Toilet đặt ở hướng Tây Bắc

Sử dụng đèn chiếu sáng ít nhất 3 tiếng/ngày...

Toilet ở khu vực Tây Bắc của ngôi nhà sẽ làm tổn hại ảnh hưởng đến chuỗi vận may trong gia đình. Mọi người trong nhà sẽ thấy khó thăng tiến. Giải pháp là lắp những bóng đèn chiếu sáng và mở đèn ít nhất 3 tiếng mỗi ngày để hóa giải những ảnh hưởng xấu trong toilet.

(Theo PLXH)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hoá giải phong thuỷ xấu cho phòng vệ sinh

Ý nghĩa sao Mộc Dục - Tắm gội, trưng diện

Mộc dục chỉ sự Hay chưng diện, làm dáng, trang điểm, đặc tính của phái nữ làm đẹp. Người sinh ra trước hết cần tắm rửa cho sạch đi những huyết ô của bào thai.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Mộc Dục - Tắm gội, trưng diện

Ý nghĩa sao Mộc Dục - Tắm gội, trưng diện

Hành: Thủy

Loại: Dâm Tinh

Đặc Tính: Tắm gội, chưng diện, làm dáng, phong lưu, nhàn hạ

Phụ Tinh. Sao thứ 2 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Của Mộc Dục:

Hay thay đổi, bỏ dở việc nửa chừng.

Nông nổi, bất định.

Hay chưng diện, làm dáng, trang điểm, đặc tính của phái nữ làm đẹp.

Ý nghĩa thay đổi rất nổi bật đối với Mệnh vô chính diệu có Mộc thủ hay chiếu: Người hay bỏ dở công việc, học hành gián đoạn, dù có học cũng không đỗ, hay thay đổi ngành học, hoặc đổi nghề mà dở dở dang dang. 

Về mặt nghề nghiệp, Mộc Dục ở Mệnh hay ở Quan thường chuyên về công nghệ, đặc biệt là thợ vàng, thợ bạc, thợ rèn, nếu thiếu cát tinh hỗ trợ.

Ý Nghĩa Mộc Dục Ở Cung Tử Tức:

Ít con, muộn con.

Hao con, nếu thêm Hóa Kỵ thì ít con vì tử cung sa.

Ý Nghĩa Mộc Dục Ở Cung Tật, Hạn:

Khó sinh, thai nghén có bệnh tật.

Hư thai, đau tử cung nếu có thêm Kiếp, Kỵ.

Sao Mộc Dục là giai đoạn thứ hai của nhân sinh. 

Người sinh ra trước hết cần tắm rửa cho sạch đi những huyết ô của bào thai. Tính chất Mộc Dục tiếp tục là tích lũy, nhưng lại đoán định qua tác dụng đào hoa. Khi Mộc Dục đi theo chiều thuận của Tràng Sinh thì sẽ nằm ở Tí Ngọ Mão Dậu mà cặp với sao Đào Hoa ở độ làm thành cách Đào Hoa Mộc Dục. Nếu theo chiều ngược Mộc Dục sẽ nằm ở Thìn Tuất Sửu Mùi không gặp sao Đào hoa nữa. Đào Hoa đứng bên Mộc Dục tính dục vượng thịnh hẳn đến độ dâm đãng.

Như vậy thì Tràng Sinh phải có chiều nghịch chiều thuận chứ không thể chỉ một chiều thuận, cứ theo chiều thuận không thôi thì Đào Hoa luôn luôn gặp Mộc Dục đàn bà con gái thành mất nết hết còn gì. Mộc Dục vào Thìn Tuất Sửu Mùi chất đào hoa của nó bị triệt tiêu. 

Mộc Dục không phải là chính đào hoa chỉ coi như thiên đào hoa thôi, bởi vậy chất đào hoa của nó có phần bất lương, bất chính.

Mộc Dục gặp Lộc Tồn Hóa Lộc thì chất đào hoa biến thành tài lộc khả dĩ nhờ người khác phái mà phấn phát. Tỉ dụ nam mạng Mộc Dục gặp Lộc đi buôn bán quần áo phấn son hoặc làm ca kịch sĩ… rất hợp.

Mộc Dục gặp Đào Hoa, Thiên Riêu, Thiên Hình, Hồng Loan, Thiên Hỉ thì chỉ phát triển chất đào hoa mà thôi. Mộc Dục gặp Xương Khúc Hóa Kị vì tình mà hết nghiệp. Mộc Dục gặp Tham Lang Hóa Kị trăng hoa chim vợ cướp chồng. Mộc Dục đứng với Long Trì cẩn thận tai nạn sông nước. Mộc Dục đứng ở Mệnh cung vô chính diệu thì học hành dở dang. Mộc Dục gặp Đào Riêu Hoa Cái là người đam mê sắc dục.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Mộc Dục - Tắm gội, trưng diện

Tình duyên của người tuổi Ngọ nhóm máu B

Tính cách cởi mở và phóng khoáng của người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B luôn tạo được ấn tượng trong mắt bạn bè nhất là người khác giới. Tình yêu của họ cũng có
Tình duyên của người tuổi Ngọ nhóm máu B

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính cách cởi mở và phóng khoáng của người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B luôn tạo được ấn tượng trong mắt bạn bè nhất là người khác giới. Tình yêu của họ cũng có thể được hình thành từ những mối quan hệ này.

Với họ, tình yêu được thể hiện bằng những lời âu yếm, ngọt ngào. Tuy nhiên điều  này có thể sẽ khiến người yêu khó cảm nhận được sự chân thành và niềm tin ở một nửa của mình.

Một số người tuổi tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B thường thích kiếm tìm nhiều đối tượng ngay cả khi đã lập gia đình. Với họ  mái ấm gia đình không phải là tất cả. Họ có thể tìm thấy nhiều niềm vui trong các mối quan hệ với người khác giới. Cũng chính điều này khiến cho cuộc sống vợ chồng của họ càng khó hòa hợp, hạnh phúc.

Do chưa một lòng xây dựng hạnh phúc lứa đôi nên không ít người phải chia tay bạn đời và tiến đến một cuộc hôn nhân khác. Tuy nhiên, ngay cả khi bước tiếp trên con đường tình, hạnh phúc cũng chưa hẳn đã mỉm cười với họ. Quan niệm sống đúng đắn và coi trọng giá trị của đời sống gia đình có thể sẽ giúp họ dễ dàng tìm đến bến bờ hạnh phúc hơn.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Ngọ nhóm máu B

Giải mã lời nguyền chùa Keo Hành Thiện tại Nam Định

Chùa Keo Hành Thiện ở Nam Định là một ngôi chùa bề thế, thế nhưng trong vài thế kỷ qua, lại chẳng có vị sư nào có thể ở lại đây.
Giải mã lời nguyền chùa Keo Hành Thiện tại Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Keo Hành Thiện ở Nam Định là một ngôi chùa bề thế, có niên đại đến vài trăm năm, ở miền Bắc thì đây là một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất. Thế nhưng trong vài thế kỷ qua, lại chẳng có vị sư nào có thể ở lại đây.


Giai ma loi nguyen ngoi chua co khong co vi su nao o duoc tai Nam Dinh hinh anh 2
Chùa Keo Hành Thiện ở Nam Định có niên đại hàng trăm năm
Chuyện rằng, khi thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy mặn mà chuyện khói nhang nên Đức Thánh Tổ nổi giận. Trong một đêm mưa gió bão bùng, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre, cho tất cả tượng Phật vào đó, rồi ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình.   Đến giữa sông, ngài ngoảnh cổ lại và nói một lời nguyền rằng sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên. Câu nói ấy cứ tồn tại theo miệng nhân thế cho đến bây giờ, nó làm cho ngôi chùa càng tăng thêm tính dã sử.   Thế nhưng có một sự thật kèm theo là sau này, vị sư nào, chủ trì nào đến ở cũng sinh bệnh tật, có vị chết bất đắc kỳ tử, có người sợ “lời nguyền” nên sớm bỏ đi. Cho đến bây giờ cũng chẳng sư nào ở ngôi chùa này, làm cho tích chuyện thêm phần kỳ bí.
Giai ma loi nguyen ngoi chua co khong co vi su nao o duoc tai Nam Dinh hinh anh 2
Gác chuông trong chùa
Ngôi chùa bề thế đó, có độ tuổi đến vài trăm năm, rêu phong và cổ kính nhất nhì miền Bắc, thế nhưng lại không có bóng dáng của áo thâm. Chùa không có sư ở, có vẻ lạ ở trên đời ấy là chùa Keo Hành Thiện, thuộc huyện Xuân Trường, Nam Định. Bây giờ, rất nhiều người đến đây thăm quan, có cả các nhà khoa học trong và ngoài nước, họ đến đây mong được lễ thánh thì ít mà tìm hiểu thực hư lời nguyền huyền thoại thì nhiều hơn.   Trong ngôi chùa không sư ấy lại có một người làm thủ từ đã trải qua hơn 20 đời cha truyền con nối làm việc không công để trông nom chùa, bây giờ công việc của ông lại thêm khâu tiếp những vị khách du lịch hiếu kỳ.   Chúng tôi đến thăm chùa không sư vào tờ mờ sáng, khi chưa có khách hành hương. Nhìn ngắm ngôi chùa trong sương sớm, lại ngược thời gian nghe huyền thoại, chợt xao lòng. Ông Thủ từ từ trong xóm nhỏ đi ra, chậm rãi mở cánh cửa lim nặng nề. Một không gian chùa qua 400 năm đang được “cách ly” với bên ngoài bỗng vỡ òa trong chốc lát, tượng Phật, màu ngói rệu rã rêu phong như làm sửng sốt cho những người lạ đến đây.   Như đoán biết thắc mắc của chúng tôi, ông Thủ từ nói: “Kể từ khi ngôi chùa này có mặt trên doi đất hình con cá chép này thì tổ tiên nhà ông là những Thủ từ di truyền từ đời này qua đời khác, nhưng khi có việc làng, trùng tu hay lễ hội thì ông lại bàn giao cho làng sử dụng. Lúc hội làng sắp mở, làng bắt đầu cắt cử đội bảo vệ chùa, chọn ông chủ lễ phải là người “đức cao vọng trọng”, chưa có tì vết gì trong đời sống.   Thường người được chọn là bậc cao niên, hai ông bà còn song toàn, phải thượng thọ, được ăn yến lão. Khi hội làng vừa xong, lại bàn giao ngôi chùa này cho ông Thủ từ. Nên mọi lịch sử, biến đổi của chùa đều do Thủ từ ghi chép lại trong cuốn “Hành thiện xã chí”.   Ông Thủ từ cho biết thêm: “Từ ngày tôi lớn lên đã thế! Bố tôi kế nghiệp của ông tôi, ông tôi kế nghiệp của cố… đã qua 20 đời nhà tôi làm nghề Thủ từ. Ngay khi sinh ra, truyền thống gia đình phải được giao dự cặn kẽ về Phật giáo cũng như đạo đức, nên trong làng, ai ai cũng kính trọng họ nhà tôi. Và đến đời tôi, cũng như các bậc tiền bối đi trước, phải ghi chép đầy đủ mọi cái diễn ra. Nên cũng từ đó, ngôi chùa có bao nhiêu bí mật đều nằm trong cuốn “Hành thiện xã chí” cả, nhưng số người được tiếp cận tính đến nay thì rất hiếm”.
Giai ma loi nguyen ngoi chua co khong co vi su nao o duoc tai Nam Dinh hinh anh 2
Trong suốt mấy thế kỷ, không có vị sư nào ở lại được ngôi chùa này
  Trong cuốn “Hành thiện xã chí” còn ghi, cách đây mấy trăm năm, chùa đã từng có rất nhiều vị sư hành khất đến, ở được một thời gian, thấy trong người khó ở, lại khăn gói ra từ bởi nhiều điều không ngộ ra giáo lý, trong người có một cái gì đó rối rắm như tờ vò mà ra đi không giải thích được.   Còn qua ông Thủ từ cho biết: “Cách đây vài năm, có một vị sư khăn gói từ Thái Bình lên, quyết tâm xin ở lại tu đạo và cũng là nghiên cứu, hóa giải lời nguyền nhưng rồi cũng phải ra đi. Lúc đó, ông bảo tôi là bị nhức đầu, suy nhược thần kinh, không đủ khả năng để tịnh cái tam, phải đi mới yên ổn”(?).   Trong quá trính tìm hiểu về chùa không sư, chúng tôi đã tiếp xúc nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tư liệu, sách báo về ngôi chùa này. Trong cuốn “Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập” có ghi, chùa Hành Thiện do thánh Không Lộ Thiền sư (1016- 1094) xây cất mà nên.   Thiền sư Không Lộ xuất thân trong một gia đình họ Dương, làm ngề ngư phủ, lớn lên ông xuất gia theo thiền sư Lôi Hà Trạch. Truyền thuyết còn kể lại rằng, khi viên tịch, ông hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên khúc gỗ trầm hương biến thành tượng.   Thánh tượng này còn được lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, không cho ai được thấy dung nhan của ngài. Cứ phải qua 12 năm, một chủ lễ và 4 viên chấp sự được cử để làm lễ trang hoàng tượng thánh. Nên rất nhiều du khách đến chùa muốn xem “mặt ngài” cũng phải đợi 12 năm mới có dịp (?).   Nghiên cứu thêm về lịch sử của chùa: Chùa Hành Thiện mang dấu tích của chùa Keo ở làng Dũng Nhân, Giao Thủy, Nam Định. Vì năm 1061, Không Lộ Thiền sư dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng, theo thời gian, chùa bị nước làm cho sói mòn.   Đến 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi tất cả các dấu tích của ngôi chùa. Dân làng Keo phải rời bỏ quê cha đất tổ, một lần nữa vượt sông đến định cư ở phía Đông Bắc tả ngặn sông Hồng (Về sau, dựng nên chùa Keo Thái Bình). Còn một phần xuống Xuân Trường, Nam Định, dựng chùa Hành Thiện và tồn tại cho đến tận bây giờ.   Tuy nhiên còn có biết bao nhiêu điều kỳ bí mà du khách, người dân muốn biết về ngôi chùa không sư. Nhất là hiện tượng vì sao ngôi chùa có quy mô lớn, lịch sử lâu đời, quang cảnh rất rêu phong vậy mà lại không có sư sãi trú ngụ.   Chúng tôi cũng đã tìm hỏi khắp nơi, cố gắng vén một chút về bức màn bí ẩn này, thế nhưng đến nay cũng chỉ biết được về lịch sử ngôi chùa: Vì song hành cùng chùa Keo Thái Bình, chùa Hành Thiện ít được người ta khai thác về mặt tâm linh cũng như truyền giáo lý nhà phật, ấy vậy nên đến nay chỉ dùng vào hoạt động du lịch nhiều hơn là truyền đạo.   Chùa là một trong hai ngôi chùa gắn với tên tuổi của nhà sư Không Lộ. Ông có công truyền bá rộng rãi đạo Phật trong dân gian. Khởi nguồn về mô hình của Chùa Hành Thiện được tính từ hồi 1062, người ta di dân đến xây mô hình chùa ở làng Dũng Nhuệ – Giao Thủy. Sau đó về đất Hành Thiện vào năm 1588, sang  Thái Bình năm 1611.   Về mặt quy mô chùa Keo Thái Bình lớn hơn chùa Keo Hành Thiện, bề thế hơn nhưng cấu trúc lại sao chép nhau hầu như nguyên vẹn. Cả hai chùa đều dựng bằng gỗ lim, kết với nhau bằng mộng tre, mộng vược và mang cấu trức thời Tiền Lê, thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng nhất ở nước ta.   Còn về vấn đề sao các sư không sống được ở chùa, trong một số sách, trong đó có cuốn “Hành Thiện xã chí” của gia tộc Thủ từ cũng có đề cập đến: “Có thể, do không quen với thổ nhưỡng, chướng khí… Mà cụ thể là cơ địa con người, nhà sư đạo cao cũng là người, thì không hợp chất đất, nguồn nước… là phải, sinh ra ốm đau, bệnh tật, ở lâu có sư bị “viên tịch”. Như vậy, mới có chuyện sinh ra các sư đến lưu trú, hành đạo, tu đạo trong chùa sẽ bị ốm, bệnh, chết… rồi bỏ đi chăng? Về cơ sở lý thuyết này, đến nay vẫn chưa có nhà khoa học, tổ chức nào nghiên cứu cụ thể, sát với thực tế, vẫn đề “lời nguyền” trong truyền thuyết làm cho câu chuyện về “chùa không sư” thêm phần huyền bí.   Dẫu chùa không sư, không vãi, không tiếng mõ vang âm nhưng ngôi chùa vẫn tồn tại với thời gian. Du khách đến đây vẫn tìm thấy những giá trị lịch sử văn hóa của một công trình kiến trúc Phật giáo lâu đời.

ST.

Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh, tình duyên viên mãn Cách dâng hương khi lễ cúng ở nhà, ở chùa, ở đền Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An Thực hư chuyện 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình ở Phú Thọ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã lời nguyền chùa Keo Hành Thiện tại Nam Định

Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

+ Điều kiện về tính chất: – lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự s...
Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

+ Điều kiện về tính chất:       lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ...       phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình.       ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.
+ Điều kiện về sao:       nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ...       phải có sao đa phu, đa thê       phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang       phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo
+ Điều kiện về cung:       sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc.       sao tình dục phải có ở cung Phu Thê       sao tình dục phải có ở cung Nô, Di       nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó       cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ
+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh:       lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không       nếp sống đương số có sa đọa hay không;       cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.
+ Những dè dặt cần thiết:       sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng;       lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử;       gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt;       gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.
g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân. Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có:       cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung;       cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm;       cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc;       cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ;       cung Tử có những sao chỉ con dị bào;       lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau;       cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở);       cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số;       có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di;       thiếu sao giải mạnh và nhiều
Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:
- Những bộ sao của Tử Vi: Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu: Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ. Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
- Những bộ sao của Liêm Trinh: Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo. Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên. Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù. Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Đồng: Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly. Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ. Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
- Những bộ sao của Vũ Khúc: Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly. Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
- Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm: Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở. Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên. Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Cơ: Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng. Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
- Những bộ sao của Tham Lang: Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời. Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
- Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
- Những bộ sao của Thiên Tướng: Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át. Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
- Những bộ sao của Thất Sát: Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly. Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
- Những bộ sao của Phá Quân: Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình. Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình. Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.
- Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.
- Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.
- Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên  có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.
- Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.
- Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...
h. Trường hợp tử biệt:       cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh;       cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ;       số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên;       những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người;       có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên;       có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.
i. Tình trạng án mạng trong gia đạo:       một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng.       cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình;       xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ...       xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ...       xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó;       sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;
      cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

Cách mở cổng nhà theo phong thủy –

Cổng nhà là một phần không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc ngôi nhà, tạo nên sự bề thế, bảo vệ ngôi nhà và mang lại tính thẩm mỹ cao. Mặt khác cổng nhà cũng là một bộ phận có phần ý nghĩa rước tài lộc. Và 1 điều là khi các gia chủ làm nhà đều tìm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hiểu cách mở cổng nhà theo phong thủy để rước tài lộc về nhà. Các bạn cũng đàng tìm hiểu về thông tin này. Vậy hãy cùng chúng tôi đọc bài viết sau để trang bị thêm thông tin để các bạn mở cổng nhà hợp phong thủy cho ngôi nhà của mình.

Nội dung

  • 1 Cách mở cổng nhà theo phong thủy
    • 1.1 Kiểu dáng cổng hợp phong thủy
    • 1.2 Chiều mở của cổng hợp phong thủy
    • 1.3 Lối vào cổng hợp phong thủy
  • 2 Lưu ý khi xây cổng hợp phong thủy

Cách mở cổng nhà theo phong thủy

Kiểu dáng cổng hợp phong thủy

Hiện nay, có nhiều người thích cổng có lỗ để dễ nhận dạng khách đang đứng ngoài cổng. Tuy nhiên, theo phong thủy thì cổng liền một khối và vững chắc sẽ tốt hơn. Nếu lựa chọn cổng kiểu vòm cung, cần tránh loại cổng hình cung võng xuống ở giữa vì rất có thể sẽ khiến bạn không gặp may mắn trong sự nghiệp.

Chiều mở của cổng hợp phong thủy

Chiều mở của cửa cổng rất quan trọng. Cho nên những bạn nào đang thắc mắc liệu có nên mở cổng ra ngoài không? thì các bạn đã có câu trả lời rồi nhé. Khi chúng ta mở cổng nhà cũng giống như chiều mở của cửa sổ, nếu mở cửa cổng theo chiều nghịch thì sẽ hạn chế vận khí và tài lộc vào nhà. Trong trường hợp này, chúng ta có thể khắc phục bằng cách thay đổi cửa ra vào theo chiều thuận (mở ra ngoài) hoặc treo gương trên tường để tạo cảm giác không gian rộng thêm.

Lối vào cổng hợp phong thủy

Ngõ vào phải thoáng, dễ đi lại và lối ra phải sáng sủa. Cần dẹp bỏ những thứ gây cản trở lối ra vào như cây cối, cột, vách tường… Những thứ này có thể cản trở vận khí, tài lộc và sức khỏe của người sống trong nhà. Tuy nhiên, cây cối ở khoảng cách an toàn với ngõ lại thuận tiện cho việc bảo vệ cửa nhà.

Lối đi vào cổng cũng có ảnh hưởng tương tự. Nếu lối đi chật hẹp thì vận khí vào nhà ít hoặc bị mất cân bằng. Trong trường hợp này, có thể khắc phục bằng cách mở rộng lối đi hoặc không trồng những cây to, rậm rạp ở gần ngõ.

Nếu nhà nằm trên triền dốc thì ngõ vào phải có bậc tam cấp và không được thiết kế quá dốc bởi vì bậc tam cấp hẹp và dốc thì gia chủ khó giữ được tiền bạc. Để khắc phục điều này bạn có thể đặt đèn pha chiếu lên mái nhà từ phía sau

Lưu ý khi xây cổng hợp phong thủy

1. Các cổng không nên cùng một hướng để tránh thoát khí.

2. Phần lớn cổng được mỏ ra hướng Nam, Đông, Đông Nam, song việc xác định hướng cổng nên căn cứ vào Mệnh hướng của mỗi người qua năm sinh. Nếu nhà có một cổng lớn, thì sau cổng lớn cần xây bức bình phong, để từ ngoài không nhìn rõ được vào nhà.

3. Dưới góc nhìn phong thủy, cổng nhà có vai trò rất quan trọng, là nơi đón khí và dẫn khí từ ngoài đường vào trong nhà. Vì vậy, nguyên tắc đầu tiên khi thiết kế cổng là phải phù hợp với kích thước của nhà chính. Nếu cổng quá lớn, quá rộng sẽ khiến khí bị phân tán, không tụ được để dẫn vào các không gian bên trong. Ngược lại cổng quá nhỏ sẽ không tiếp đủ khí cho ngôi nhà, khí cũng không lưu thông, khó sinh vượng.

4. Rất không được làm núi giả, đặt tảng đố đối diện với cổng, vì sẽ gây sát khí không lợi.

5. Việc mở cổng căn cứ vào môi trường chung quanh mà mỏ cổng, như địa bàn trước nhà, bên cao bên thấp hay bằng phẳng (căn cứ vào dòng nước chảy khi trời mưa) thì:

a. Bên trái nhà (Thanh long) thấp, bên phải nhà (Bạch hổ) cao (đứng từ trong nhà nhìn ra xác định phải trái) thì cổng nên mỏ về phía trái, tức phía Thanh long.

Cổng nên mở vê phía bên trái nhà, vì bên này thấp hơn phía bên phải nhà.

Nên mở cổng phía phải nhà, vì bên này thấp hơn phía trái nhà.

b. Nếu bên phải nhà thấp hơn phía trái nhà (Thanh long), thì nên mỏ cổng phía bên phải (phía Bạch hổ).

c. Nếu địa thế hai bên nhà bằng phẳng, thì nên mở cổng ở giữa nhà hay sân.

6. Cửa và cổng rất kỵ cùng trục với nhà, nghĩa là cổng và cửa chính thẳng hàng nhau. Nếu cổng và cửa đã ở thế thẳng nhau, thì hóa giải bằng cách xây một tấm bình phong chắn giữa cổng và cửa.

7. Của cổng nên xây vuông vắn, ngay ngắn, kỵ xây cửa cổng hình vòm, vì sẽ gây bất lợi về tài vận cho chủ nhà.

8. Cửa cổng dai kỵ đối diện với cầu thang trong nhà, hoặc đối diện với cửa chính ngôi nhà, vì sẽ gây sát khí.

9. Trước cổng không nên đối diện với tháp nhọn, tòa nhà lục lăng. Nếu có thì nên hóa giải bằng các công cụ hóa sát, như gương cầu lồi treo trênvòm.

10. Trước cổng đại kỵ có cây khô, hay đèn đường, cầu thang máy nhà đối diện.

11. Sơn cổng nên căn cứ vào sự sinh hợp theo Ngũ hành, như:

CỔNG CỬA PHÍA NGŨ HÀNH SƠN MÀU THÍCH HỢP
Nam Hỏa Nâu, cà phê, tím
Bắc Thủy Màu lam, màu xám, ghi
Tây Kim Trắng, vàng sẫm, màu sữa
Đông Mộc Màu xanh, màu lục
Đông Nam Mộc Màu xanh, màu lục
Tây Nam Thổ Màu nâu, màu vàng
Đông Bắc Thổ Vàng sẫm
Tây Bắc Kim Màu trắng, sữa, vàng sẫm

12. Hai bên cổng nếu bị sát khí chiếu vào (như dường thẳng vào, đường vòng cung đỉnh lồi chiếu thẳng…) thì đặt vật hóa giải, như đôi sư tử đá, nhưng phải một đực một cái (hai tượng ngoảnh vào nhìn nhau).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách mở cổng nhà theo phong thủy –

Rùng mình chứng kiến sự phát triển của Kuman Thong ở Thái Lan

Ở Thái Lan, thế giới huyền thuật vô cùng phong phú, mức tiêu thụ Kuman Thong rất kinh khủng, không chỉ ở trong nước mà còn sang cả các nước lân cận.
Rùng mình chứng kiến sự phát triển của Kuman Thong ở Thái Lan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở Thái Lan, thế giới huyền thuật vô cùng phong phú, "mức tiêu thụ" các loại bùa chú, bùa ngải rất kinh khủng, không chỉ ở trong nước mà còn phát triển sang cả các nước lân cận, trong đó có Việt Nam.

 

Kinh dị công nghệ “luyện” bùa

  Thế giới các loại bùa ở Thái Lan thật vô cùng phong phú: bùa hộ mệnh, bùa chứng giám lời thề, bùa tài lộc… Tuy nhiên, loại được bán chạy nhất ở đây phải kể đến là bùa Thiên linh cái, Kuman Thong. Loại bùa này được phát triển dựa trên câu chuyện dân gian Thái.
Rung minh chung kien su phat trien cua Kuman Thong o Thai Lan hinh anh
Ảnh minh họa
Theo đó, một lần vị tướng trẻ Khun Phaen tức giận vì phát hiện vợ đầu độc mình nên đã lôi đứa con trong bụng vợ bọc vào một tấm vải thiêng rồi đưa lên bếp sấy khô và đọc thần chú để luyện bùa thiên linh cái. Đứa bé chết đi, hồn nhập vào bùa và trở thành thần hộ vệ cho cha mình.   Dù chỉ là một câu chuyện hoang đường như vậy nhưng người Thái Lan lại rất tin rằng các hồn ma trẻ nhỏ linh thiêng và có thể bảo vệ cho cả gia đình khỏi những hiểm nguy đe dọa. Tinh thần trong sáng của đứa bé kết hợp chú thuật và thần lực của các vị Tổ thông qua việc tế luyện công phu của pháp sư sẽ cho ra đời một tiểu quỷ có nhiều khả năng đặc biệt.   Từ hàng trăm năm trước, người ta đã tìm thấy những bản hướng dẫn chi tiết cách làm một Kuman Thong. Theo nguyên bản, để làm nên bùa này, người ta phải ra nghĩa địa tìm xác chết một người phụ nữ đang có mang và mới chết được 21 ngày.   Sau khi bày đồ lễ vật cúng, ông thầy xin người phụ nữ đứa con trong bụng rồi đào xác lên mổ bụng lấy đứa bé. Lấy được xác về, thầy phù thủy phải đem ngay đến một lò thiêu gần đó để thực hiện công đoạn thứ hai là sấy xác chết. Khi xác đứa bé đã khô quắt queo và nhỏ gần bằng nắm tay thì ông thầy dùng vải quấn lại, và phủ một lớp sơn mài, sau đó dát bằng vàng lá rồi để lên bàn thờ và thực hiện nghi thức ma giáo.  

Phá “đối thủ” hiệu quả?

  Kuman Thong được người Thái tin là có thể làm được rất nhiều việc từ giúp đỡ người “nuôi”, “thờ” mình làm ăn thành đạt, “hút tiền” đến cho chủ nhân, bảo vệ gia tài… Đáng kể nhất, loại bùa này có thể giúp phá phách các đối thủ trong làm ăn, buôn bán như gây bệnh, gặp nạn… Quyền năng thực sự của Kuman Thong vẫn chưa được kiểm định.   Luật pháp Thái Lan nghiêm cấm việc “chế tạo” và sử dụng Kuman Thong, song những đồn thổi truyền tai nhau về quyền năng siêu phàm khiến cho nó vẫn luôn là một thứ hàng chợ đen đắt giá. Và ở những bệnh viện Thái, thai nhi sinh non liên tục bị đánh cắp. Mộ các bà mẹ đang mang thai cũng thường xuyên bị ăn trộm.   Năm 2012, cảnh sát Thái bắt một người Đài Loan tên Chow vì mang theo trong va li 6 thai nhi chết non nhằm mục đích bán lại cho các thầy để làm bùa Kuman Thong. Các thi thể này đều được sấy khô và dát bằng vàng lá. Kẻ buôn lậu thừa nhận đã mua những “mặt hàng” này với giá hơn 4.000 bảng Anh.   Sau khi trở về Đài Loan, hắn có thể bán lại với giá gấp 6 lần cho những người giàu có. Wiwat Kumchumnan, một nhân viên cảnh sát thuộc ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em Thái Lan cho biết: “Những thi thể này khoảng từ 2 đến 7 tháng tuổi. Chow nói rằng anh ta đã lên kế hoạch bán chúng cho những người giàu mê tín, vốn tin rằng bào thai sẽ mang lại may mắn và thịnh vượng. Một số xác còn được dát bằng vàng lá”.   Vụ việc này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Tháng 6/2010, 14 cái xác của trẻ sơ sinh đã được phát hiện tại một ngôi nhà hoang ở nông thôn thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Và một cựu y tá bị buộc tội đã bán những cái xác này với giá 30 USD.   Nghiêm trọng hơn, vào tháng 10/2011, có đến 348 xác thai nhi bị phá đã được tìm thấy bọc trong các túi nhựa và đang thối rữa tại một tu viện Phật giáo tại Wat Phai Ngoen, ngay giữa trung tâm Bangkok. Những cái xác này được thu gom từ năm phòng phá thai bất hợp pháp khác nhau với mục đích là bán lại cho những tay thầy pháp để làm thành bùa hộ mệnh.   Mỗi bùa Kuman Thong được bán với giá từ vài nghìn đến vài chục nghìn Usd. Thậm chí có nơi nó được bán với giá tới gần 70 triệu đồng. Đắt là vậy nhưng niềm tin vào khả năng đặc biệt của loại bùa này khiến giới doanh nhân, người làm ăn buôn bán ở Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông vẫn ra sức săn lùng. Còn giới showbiz ở Thái Lan, dù không công khai nhưng thực sự luôn xem Kuman Thong là “bí quyết” để thăng tiến trong sự nghiệp và dành nhiều tài lộc.
Rung minh chung kien su phat trien cua Kuman Thong o Thai Lan hinh anh
Ảnh minh họa
Việc chăm sóc  cho Kuman Thong kỳ dị này cũng hết sức… kỳ dị. Người chủ phải đặt nó trên một kệ riêng ở nơi kín đáo và phải nuôi dưỡng nó hằng ngày bằng một ly sữa hay nước ngọt. Và “con ma” nhỏ bé sẽ có thể nhìn thấy hay nghe thấy những mối nguy hiểm với chủ từ khoảng cách 20.000km.   Tuy nhiên, đôi khi Kuman Thong cũng có thể nghịch ngợm, phá phách chủ nhà do bản tính vẫn còn trẻ con của nó. Vào những lúc Kuman Thong nghịch ngợm thì người chủ cũng phải trừng phạt bằng cách đánh nó nhẹ nhàng với một cây gậy gỗ và trách mắng bằng một giọng điệu nghiêm khắc, giống như cách mà họ dạy dỗ trẻ con vậy. Và khi một người nào đó không còn khả năng chăm sóc cho một Kuman Thong được nữa, họ phải đưa nó đến một ngôi chùa rồi lặng lẽ ra về.

 

Ca sỹ hàng đầu Thái Lan phất lên nhờ bùa ngải? 

  Theo một số nguồn tin từ Thái Lan, đôi ca sỹ song sinh Thái là Jakkaphan Kansompot và Jakkapong Kansompot có bộ sưu tập gần 2.000 Kuman Thong khá hoành tráng với đủ màu sắc, kích cỡ, hình dạng. Và theo lời đồn của dư luận nước này, sự thành công, nổi tiếng của đôi ca sỹ là nhờ vào bùa ngải này.   “Chúng là một phần gia đình của chúng tôi, chúng là anh em. Bạn có thể nói tôi mê tín này nọ nhưng đây thực sự là niềm tin của người Thái”, Jakkaphan đã trả lời tạp chí Spectrum như vậy.   Theo lời tự thú của cặp ca sỹ song sinh 41 tuổi này thì việc họ có được lượng quảng cáo quá nhiều cùng số lượng người hâm mộ lớn như vậy là nhờ vào sự bảo vệ của Kuman Thong. Những ngày họ mới bước vào nghề, dù vật lộn với nghề ca hát và nỗ lực rất lớn song kết quả họ nhận được chỉ là những đắng cay. Họ liên tục bị bể show, tên tuổi họ không ai biết đến, họ liên tục phải sống trong tình trạng chờ các ông bầu mời diễn…   Quá lận đận trong nghề, nên năm 1997, cặp song sinh này thậm chí đã định giải nghệ. Nhưng cũng chính lúc đó mẹ họ đã trao lại cho hai con một Kuman Thong mà ông nội họ từng nuôi trong nhiều năm. Và theo họ, kể từ đó sự nghiệp ca hát của họ lên như diều gặp gió.   Giờ đây, họ đã lọt vào danh sách những ca sỹ có thu nhập khủng ở đất nước chùa vàng này. Tuy nhiên, đây chỉ là lời tự thú của họ, còn quyền năng của Kuman Thong cho đến nay vẫn chưa được công nhận.   ST.

Thú chơi bùa ngải mới: Kuman Thong - Thực chất là Thần Tài hay nuôi ma trong nhà? Khu chợ bày bán tâm linh công khai ở Tây Phi Rùng rợn bùa ngải từ xác người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rùng mình chứng kiến sự phát triển của Kuman Thong ở Thái Lan

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd