Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Sao Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư về tiền bạc. Ý nghĩa công danh chỉ là thứ yếu. Sự giàu có thường do hai nguyên nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Tìm hiểu đặc tính của sao Lộc Tồn

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Công năng Tứ hóa
Lộc tồn Bắc đẩu (thứ 4) Âm thổ Phú quý Lộc, Thọ Giải ách Không

Sao Lộc Tồn có thuộc tính âm dương ngũ hành là âm thổ, là sao thứ tư trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là quý, chủ về lộc, thọ, có khả năng giải trừ tai ách, khống chế và hóa giải sát tinh. Tất cả các sao trong 12 cung mệnh đều thích đồng cung hoặc gặp lộc tồn. Gặp thêm cát tinh sẽ thêm cát, gặp hung tinh sẽ giải hung. Rất thích hợp với các cung mệnh, thân, tài bạch, điền trạch, thiên di, sẽ phát huy tác dụng một cách đặc biệt.

Trong mệnh bàn, sao Lộc Tồn không vào bốn cung Mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, và thường nằm ở giữa hai sát tinh Kình Dương và Đà La, cho nên chủ về cô độc, vất vả dễ gặp rắc rối, thường bị bài xích, hành sự thận trọng. Do đó ít cơ hội đồng cung hoặc hội chiếu với Kình Dương, Đà La nên cũng tránh được hai kẻ địch phiền phức đó; hơn nữa không bao giờ bị Thiên La (cung thìn), Địa Võng (cung Tuất) khống chế, nên cuộc đời ít sóng gió, khá suôn sẻ. Đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên mà gặp sao Lộc Tồn, thường sẽ khiến hoàn cảnh đang bất lợi chuyển thành tốt, đem lại năng lực phục hồi hoặc đổi mới.

Sao Lộc Tồn độc tọa tại cung mệnh, chủ về tính cách cực kì bảo thủ, không thích giao tiếp quá chú trọng bảo vệ bản thân, nên khó tránh khỏi cô độc. Hơn nữa vì bị hai sát tinh Kình Dương, Đà la kèm hai bên, nên nhưng có chủ về giàu có nhưng cũng khó tránh khỏi nạn vất vả, sau khi giàu có lại dễ chuốc điều thị phi. Sao Lộc tồn thích đồng cung hoặc hội chiếu với cát tinh. Nếu đồng cung với Tử Vi hoặc Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương, Vũ Khúc, Thái Dương, Thái Âm có thể tăng thêm độ sáng, nên chủ về phú quý. Nếu tại cung vị tam hợp lại có sao Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, là người giàu có, sang trọng, có học thức.

Sao Lộc Tồn rất ghét vào cung không vong, Gặp Địa Không, triệt là tối kị kế đến là Tuần Không. Sao Lộc Tồn không ưa đồng cung với Hóa Kị thủ mệnh, vì sao Lộc Tồn thủ mệnh, ở hai cung bên cạnh chắc chắn sẽ có các hai sao Kình Dương, Đà La kèm, tạo thành cách cục "Dương Đà giáp mệnh", là cục phá bại, chủ về cô độc bần hàn, muôn sự cát lợi; vận hạn gặp phải cũng nhiều hung hại. Sao Lộc Tồn thủ cung mệnh, cung thân, không chỉ trường hợp Hóa Kị đồng cung là hung, nếu tại cung vị tam phương tứ chính có tứ sát tinh Hỏa Tinh, Linh Tinh, Không, Kiếp hoặc hóa kị xung phá, cũng chủ về trong cát có hung, nên đừng quá xem trọng vẻ tốt đẹp bề ngoài, mà cần lưu ý những nguy cơ tiềm ẩn phía sau nó, phần nhiều sống nhờ có tay nghề. Sao Lộc Tồn, Hóa Lộc thủ mệnh, nếu gặp Địa Không, Địa Kiếp, là cách cục "Lưỡng trùng hoa cái" (hai tầng lọng hoa), chủ về ngạo, cô độc, bần hàn, dễ có duyên với tăng đạo.

Ca quyết

Bắc Đẩu Lộc Tồn tinh; Số trung vi thượng cục

Thủ trị thân mệnh nội; Bất quý đa kim ngọc

Thử vi địch cát tinh; Diệc khả đăng sĩ lộ

Văn nhân hữu thanh danh; Vũ nhân hữu hậu lộc

Thường thứ phát hoạnh tài; Tăng đạo diệc chủ phúc

Quan lại nhược phùng chi; Định nhiên thực thiên lộc

Nghĩa là:

Lộc Tồn thuộc Bắc Đẩu; tại số là thượng cục; Ở cung thân, mệnh; không quý cũng nhiều vàng ngọc; đây là lộc cát tinh; cũng có thể làm quan chức; nghiệp văn có thanh danh; nghiệp võ được lộc hậu; làm dân chóng phát tài; tăng, đạo cũng có phúc; quan lại gặp Lộc Tồn; đương nhiên hưởng lộc trời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Lộc Tồn - Tài lộc và phúc thọ

Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Một bài viết trích lại phần giới thiệu cuốn sách Tử Vi Đại Toàn của Thái Đình Nguyên. Mời các bạn cùng đọc.
Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi lại từ phần giới thiệu cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Xem qua phần trên này, thì ai cũng dễ có 1 nhận xét về những ngày gần đây là những khám phá trên địa hạt Sinh Vật Học, Hóa Lý Học, về các chủng tử, thuộc di truyền tính, nhiễm sắc thể quang đại hợp tử (helredite, genes, chromosomes, macromolecules) đều đem lại 1 kết quả bất ngờ. Người ta đem Khoa Học để hạ bệ lý số, khoa học đã phản pháo mà trình bày: Quả thực có số kiếp, 1 thứ số kiếp nó hết mực độc tài, hơn cả các nền chuyên chế, nó trói buộc thuộc dân của nó 1 cách chặt chẽ, nó theo đuổi người ta ròng rã suốt 1 đời người, từng giờ, từng ngày, từ cái lúc hung tinh gặp noãn châu, rinh thần liên minh với thê chất lúc mà noãn châu mới thành trứng, chưa có tên là Thai

Quay về phía tín ngưỡng về một Tôn giáo mà có một vị Giáo Chủ được tôn xưng là Đại Giác, Đại Trí Tuệ, thì Giáo Lý thuộc bộ môn duy thức lại ăn ý với bộ môn Khoa học về môn chùng tử di truyền, về những sợi dây truyền kiếp nhiễm sắc thể. Những chủng tử vô kiến, vô đối nơi ALaiDa thức cùng với những chùng tử hữu kiến hữu đối nơi các sợi nhiễm sắc thể chiomosomes lại chi như hai bóng 1 hình, hai mặt ẩn hiện của một chân lý. Cái chân lý của dòng đời sinh tử mang các chủng tử xuyên qua Thời, Không, khiến cho có người, có vật, có cây có, và rau lại sinh rau, đậu lại nở đậu, và.... bò lại đẻ ra bò

Thì ra quan niệm về nghiệp, kiếp, tín ngưỡng và nhân quả, ý tường và lý số nó vẫn bao trùm nhân loại, bàng bạc trong Thời, Không. Duy chỉ có điều là làm thế nào đọc được sô mệnh. Ta hãy gác qua một bên các môn hà Lạc, Tử Bình mà chi muốn khiêm tốn đụng chạm riêng có một mình môn Từ Vi Đẩu số

Tìm ra nguồn gốc Đẩu số thì được biết là phần đông chủ trương là do một vị Tiên Trần Đoàn, chẳng rõ có phải là khai sơn Tổ Sư của bộ môn lý học này hay không? Chi nghe nói Trần Đoàn tên tự là Hi Di, một ẩn giả ở núi Hoa Sơn hồi đại loạn ở TQ chia thành 4,5 mảnh đất đai thuộc các lãnh chúa cai quản, dân chúng loạn lạc nháo nhào chạy từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc lại từ Bắc xuống Nam, loanh quanh như kiến bò miệng chén, thì ông bỗng nhìn thấy bà cụ gánh đôi quang thúng, mỗi bên một cậu bé ngồi, bà cụ hớt hãi chạy loạn như ai. Tiên Sinh tủm tìm cười, về đạo quán uổng một chén rượu và ngủ một giấc dài. Khi tỉnh dậy thì thiên hạ đã thái bình. Sau này, cái thiên hạ thái bình ấy mới hiểu nổi cái nụ cười của Tiên Sinh, vì ông đã biết trước hai chú nhỏ kia sẽ là hai vị Thái Bình Thiên Tử, một người là vua Thái Tổ nhà Đại Tống Triệu Khuông Dẫn, còn một người là vua Thái Tôn Triệu Khuông Nghĩa

Thì ra cải Nhân thái bỉnh nó đã chực sẵn trong cái Duyên tao loạn. Xung quanh có thái bình, có ai biết, ai hay? Ngay cái người sinh ra nó, gồng gánh nó, cũng chẳng rõ nốt. Bà cụ đã đeo cái thái bình trên cổ mà vẫn còn chạy rối lên đi tìm cái thái bình. Vì thế Tiên Sinh đã lưu lại cho hậu thế một phương pháp giản dị để đọc trước được số mệnh từng người

Chắc chắn về phần Tiên Sinh thì tiên sinh đã nắm vững những lý tắc về số mệnh, nếu lại đem diễn tả ra bằng Dịch Lý, huyền học thì thành ra môn Tử Vi Đẩu số sẽ thành ra của riêng lý số gia, không phổ biến, không phổ cập quần chúng. Cho nên Trần Đoàn tiên sinh đã dùng phương tiện cụ thể hóa những quan niệm trừu tượng đưa lý vào sự, đưa các định tắc u huyền vào các công thức để áp dụng

Đại để ta thấy; Hi Di tiên sinh đã:

1. Đặt ra một số tổng tụ ý niệm, rồi mượn danh các đẩu tinh làm ký hiệu để đưa vào bàn toán

2. Chiếu quy ước dịch lý đế phân vi và bổ liệt các ký hiệu ấy

Ta đã rõ, một khi cụ thể hóa một ký hiệu khiến chữ nó sinh ra nghĩa, thành sự, thành vật là sự ấy, vật ấy lọt vào suy tư của thế gian. Lọt vào suy tư của thế gian là có hình bóng trong tâm tư của cá nhân, trong công tâm của cộng đồng nhân loại và đương nhiên phải chịu làm thuộc dân của các quy luật chi phối thế gian sự vật

a.    Luật tiến hóa: đó là ký hiệu liên quan đến các sao Vòng Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan (tức là Lộc Thần, là lớn lên, làm ra tiền của), rồi Suy, Bệnh, Tử Mộ, Tuyệt (tức là ốm đau, già, chết, tan biến)

b.    Luật Cung Cầu: tức là các sao vòng Quý Nhân, mình thiếu môn gì thì đối với mình mong cầu là của quý, người giúp đỡ mình là quý nhân

c.    Luật Hỗ Tương Ảnh Hưởng: theo phương vị nhìn nhau thì có Hình, Xung, Phá, hợp, và Hại. Đứng ở Tí thì xung với Ngọ Nhưng Tí lại hợp với Sửu. Sửu lại xung với Mùi. Tí xung Ngọ thì phải phá lại Mùi, vì Mùi nó là đồng minh của Ngọ, là kẻ thù của mình. Cứ chiếu bộ vị đứng ngồi mà hiểu việc đời. Ngang với nhau thì tìm cách liên kết gọi là hợp lực, như Mão hợp Tuất, Thìn hợp Dậu. Chéo cẳng nhìn xéo nhau thì xung đột Dần, Thân, đứng che mặt nhau thì tìm cách phá nhau, phải hạ bệ cái món kỳ đà cản mũi ấy đi, tức Dần phá Tỵ, Hợi phá Thân....

d.    Luật Ngũ hành xung khác, theo tình thế mà luận như anh Kim thì khắc anh Mộc. Theo thời tiết mà luận thì anh Kim từ về mùa Hạ, khỏe về mùa Thu, ứng dụng về mùa Đông và khó chịu với anh mùa Xuân vì nó thuộc hành Mộc

e.    Luật Ngũ hành Vượng, Tướng: theo Sinh, Vượng, Bại địa....

f.    Luật thăng hoa, phản tỉnh: như Địa Không, Địa Kiếp là hai sao khốc hại, nhưng đến chỗ tuyệt địa của nó là nó tắt hết lửa thì nó bật nên tốt đặc biệt, vì lẽ tuyệt xứ phùng sinh nên các cụ ta dẫn câu: Không Kiếp ư hiềm Tị hợi

g.    Luật biển tướng, hóa nghĩa: sao Hồng Loan là cỗ kiệu, là xe. Đào hoa là các loài hoa. Nhưng về già gặp chúng nó hóa ra thành đòn đảm ma và nhà tang Đại khái như thế, mỗi vì sao là một ký hiệu, một tổng tụ ý nghĩa, để nói lên một sự, một vật, một bộ phận trên cơ thể con người, tùy vật mà lệ thuộc những hình ảnh, những luận điệu tin tưởng, những công năng hiệu lực hoặc các úy, kỵ, khắc tính của sự vật ấy

Đó là đơn độc từng sao, rồi lại đến bộ sao tập hợp với nhau, như Thiên mã ngộ Đà La là ngựa vướng dây, tức là phải vấp ngã. Đào Hồng ngộ Thái Dương ờ Mão là mùa xuân, Đào Hồng hướng dương, trai sớm nhân duyên, gái đắt chồng bằng các quy lệ trên đây, một khi người ta tìm thấy phương pháp để đạt những dữ kiện vào trong tọa độ đích danh của chúng để biết rõ mặt mũi, tâm sự, thực lực, hiệu năng của mọi sự vật thì việc áp dụng các định luật Dịch lý để rút tỉa ra từng mớ suy tư về các hiện tượng tương lai, căn cứ vào các tông tụ ý nghĩa mà con toán hô danh không còn là chuyện không thể làm được.

Trong cái pháp giới trùng trùng chuyên khởi mà cả Khoa học lẫn Tôn Giáo đã ý niệm được, thì cả vũ trụ mênh mông chỗ nào cũng chi là một góc bàn cờ, mỗi phép, mỗi sự, tức như mỗi người, mỗi vật đều thành từng con cờ có vị trí, có thực lực, có hoàn cảnh, chịu quy tắc sinh hoạt có luật lệ để đi đứng, nằm ngồi, hò hét nhảy múa....

Vậy cho nên, một khi biết được con cờ thuộc loại nào ở chỗ nào, trên bao la phương vị của bàn cờ, là chúng ta có tọa độ để lược giải cá nhân chúng nó

Nhưng hiền thánh khai thị ra lý số là những siêu nhân có sự hiểu biết phi phàm, đã nắm vững công thức ngõ hâu đặt ra mọi loại tọa độ, đê khám phá số mạng của người, của sự vật

Biết Thái Ất thì tỏ việc 500 năm về trước, 500 năm về sau

Biết Lục Nhâm thì chiếu theo giây phút mình động tâm mà rõ sự gì đến sẽ đến

Biết Tử Vi thì có thể theo dõi việc nhãn tiền xảy ra cho 1 kiếp nhân sinh

Trong thâm tâm chúng ta, đều luôn luôn giao động theo dịch lý. Ngoại cánh luôn biến chuyển. Vũ trụ của Sát na trước không phải là vũ trụ của sát na sau. Thâm tâm chúng ta luôn chịu sự chi phối của nghiệp lực mà biến chuyển theo dịch lý, kể từ giây phút mà quả trứng mới thành hình cho đến lúc có mày râu hiện tại.... để luôn luôn trong ngoài hòa hợp

Trong cái vũ trụ của Hoa Nghiêm Pháp Giới, như trên đây đã được trình bày:

Nhất pháp biển ư nhất thiết pháp Nhất thiết pháp nhập ư nhất pháp

Thì lúc nào thánh nhân cũng có thể biết rõ rang tất cả mọi sự, mọi việc từ trước đến sau, từ quá khứ đến tương lai

Nhưng chúng ta chi là người có nghiệp báo. Các cảm giác của chúng ta bị ngũ quan vật chất nó hạn chế, suy tư ta lọt vào vòng hạn lượng của tỷ số và bị giam giữ trong một mô thức Thời Không

Cho nên từ chính đáng hay không chính đáng, dù ước muốn hay không ước muốn, chúng ta không có cách gì TẬN CÙNG HIỂU BIẾT VỀ TA, và chúng ta phải rõ, không phải số không đúng, mà chính yếu là ở chỗ: CHUNG TA KHÔNG CÓ QUYỀN ĐUỢC BIỂT HẾT

Đó là một công lệ

Tài giỏi như bao nhiêu bác học đã lĩnh giải Nobel cũng thấm thía về cái môn tạo hóa đành hanh. Họ nghiên cứu, tìm tòi về sắc trần (particules) trên môi trường cực vi của chúng, mà tất cả đều phải khóc, vì không có cách gì biết đầy đủ về thân thế của một sắc trần. Khi ông thấy Tướng của nó, thì ông không thấy được Tính của nó. Khi ông tìm ra Tính, thì nó đã lại mất hết Tướng Khi thấy đất nó đứng, thì không biết nó làm gì, khi nhận được lý lịch của nó, thì không biết chỗ nó trú ngụ. Định tác về phạm vi hiểu biết này mang tên là Principe d’incertitude d’Heisenberg":

DP x DQ > H

(DP là tính; DQ là Tướng)

Theo công thức này thì biết môn nọ, phải bỏ môn kia, muốn được cả hai thì không bao giờ toàn bộ. Bao giờ cũng còn sót lại một phần lơ mơ ước lượng bằng một thái nhất H, gọi là hằng số Plank

Định tắc này là 1 trong những cột trụ của Kiến trúc khoa học nguyên tử hiện tại. Như vậy, cái khoa học tiến triển hiện tại nó cũng không hơn gì khoa huyền học của Đông Phương, nếu có chịu thua trời đất, cũng chi đến mức ấy mà thôi. Vì chủng ta chỉ là con người, mà đã là con người thì bị cái nghiệp người nó hạn chế, nó che đậy và nó đánh lừa...

Vậy làm thế nào để tranh đạt với nó?

Thành ra giá trị của Lý số chính danh lại chuyển bộ sang đất Chân Giá Trị của người đoán số. Chân giá trị của người đoán số là đem áp dụng các quy luật đã nói trên đây (mới có một phần nhò được trình bày) cho các tổng tụ ý nghĩa để tia rút ra những biệt nghĩa cho mọi trường hợp

Ví dụ thứ nhất: Xét về sao Bạch Hổ, vốn là sao Kim có hai nơi vượng địa là Thân, Dậu (Kim cung) là thể tinh vượng, và Dần Mão là núi non, là đất dụng võ. Từ Hợi đến Thân là ban đêm đi kiếm ăn được là hay, nhập Ngọ bị tiêu đốt là bất lực. Hổ mà gặp Hóa Kỵ ở Vượng cung là hét ra khói. Hổ ở cung Tuất là con chó, ngộ Riêu Y là chó dại (???); hổ gặp Thai là hổ cắn cơ quan sinh dục, đàn bà gặp nguy lúc có thai, mãn nguyệt.... Lại cần xét nếu nó khỏe thì lợi cho ai, nó yếu thì có ích cho mình hơn là nó khỏe không?

Ví dụ thứ 2: Sách Ma Thị dạy rằng "mệnh VCD đắc tam không nhi phủ quý khả kỳ". Như thế một câu mà có 2 nghĩa. Khả kỳ là giàu sang được cũng là lạ? hoặc giàu sang đến mức kỳ lạ?

Phần đông mới học tử vi thì chỉ hiểu được là: giàu có đến mức kỳ lạ, nên sai tuốt luốt. Thực ra, món gì không bị đè nén thì bốc: Lửa. Món gì không bị che đậy thì sang chói: Kim Khí. Thế cho nên cách này chỉ đẹp với người tuổi Hỏa, hỏa cục và người mệnh Kim, Kim cục

Ngoài ra, nước mà không đáy thì nước tung tóe, và ướt hết sạch. Thổ (Đất) không được hứng đỡ thì rơi mất tăm. Mệnh Thủy mệnh Thổ mà đắc tam Không là cách chết non, nghèo khổ, có lẽ nào mà phú quý được? Thì chữ Khả Kỳ có nghĩa là đâu có chuyện ấy?

Thói thường, các cụ đầu sách viết một câu, cuối sách viết một câu, rồi lại dấu một ít nghĩa vào giữa sách hoặc cắt đầu xén đuôi chữ nghĩa.

Tại sao các cụ lại làm như thế?

Chữ nghĩa chỉ đãi người có thiện chí, không thể khinh suất trao tay cho cả nhà để họ bàn suông làm giảm giá trị của bộ môn học thuật. Sau nữa để cho giảm thiểu cái loạn vọng của người đời, làm cho xã hội bị tai bay vạ gió vê sau

Phú giải rằng một Phá quân Tí Ngọ. Lại ghi Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh. Tức là văn chương mà được Xương Khúc cư cung Sửu hay Mùi là hay tuyệt, mà võ tướng được cách Phá Quân cư Tí, cư Ngọ thì lừng lẫy anh hung

Khốn nồi biết bao anh Phá Quân Tí Ngọ mà chi lừng lẫy ở chồ giết heo, mổ bò, còn biết bao bậc Xương Khúc Sửu Mùi mà đọc không nổi mấy chữ trong gia phả. Thì ra các cụ bắt con cháu kéo cái Phá Quân ấy đến giữa sách, mà đòi hỏi lá sổ ấy phải là người "Trương chiêu lưu thủy", theo câu "Phá Quân Tí Ngọ, Trường chiêu lưu thủy", nghĩa là phải hợp với mệnh Thủy thì mới thành công. Cũng như người Xương Khúc Sửu Mùi thì phải là mệnh Kim hay cục Kim mới được hưởng lộc. Nên câu phú giải giữa quyển: "Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh", lại cần được đối chiểu với câu phú, Kim hợp cục Sửu, Mùi Khúc Xương nó ở trang sách gần bìa

Nếu khách không phải cục Kim, mệnh Kim thì chớ mang cái Sửu Mùi Khủc Xương của khách ra mà phân bua với làng, lá số sai nhiều quá

Qua vài ví dụ trên, chúng ta cũng tạm ý niệm, được tầm quan trọng của phép đoán số. Số chỉ hay ở chỗ có người biết đoán. Muốn đoán đúng, phải biết đọc sách, mà sách cổ thì khó xem như thế đó.

Sách cổ khó xem, người đoán phải lạc. Cái lạc ấy nó sẽ đi xa, làm cho tàn lụi cái tinh hoa cổ của Đông phương. Thế thì tương lai khoa Tử Vi sẽ đi về đâu?

Căn cứ vào tài liệu biên khảo, tôi nhận thấy rằng ông bạn Thái Đình ghét chuyện bùn lầy nước đọng, có ý kiến canh tân. Gộp hai nền văn hóa Đông Tây, ông muốn phá vỡ cái màn huyền bí về khoa Tử Vi, qua sự chiêm nghiệm lâu năm của chính bản thân mình để cho khoa này được bồi bổ và biến ra thành thực dụng, hữu ích cho sự tu dưỡng tâm linh và sự hòa đồng xã hội, đưa từ vị kỷ lên thành vị tha tốt đẹp

Những suy tư của ông thật mới lạ, nhưng rất hợp lý bởi đường hướng văn minh của con người phải là sự thăng hoa năm trong Duy Thức mà khoa tử vi là một khoa học của Duy Thức và Thực Dụng.

Ông nghĩ đến chuyện giúp độc giả tự mình lập được lá số cho mình, chong than và đoán được nữa. Đi xa hơn, ông muốn cải bổ số mệnh, uốn nắn số mệnh để gạt bỏ bớt cái xấu, chiêu thêm cái tốt... Vừa bàng sự tu dưỡng nội tâm, tạo cái nghiệp tốt đẹp cho số mệnh, vừa bằng hình thức cụ thể, đem ngũ hành sinh khắc chể hóa cho nhau, lấy màu sắc, phương hướng, thời tiết để tăng cựờng cho mệnh, như kiểu tạo cái thắng để hãm, cái mộc để che, chẳng phải là đê đánh lừa sô mệnh, mà chính là để sửa chữa lại số mệnh theo đúng độ ăn nhập của nó, đúng cân, đúng lạng và kích thước để làm cho chệch đi, dù chi là một ly ông cụ, bé nhỏ li ti....

Cái tin tưởng mãnh liệt của ông đã thể hiện qua suốt hơn 50 trang về ý niệm mới mở về Tử Vi, làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Ít nhất cũng cho thấy sự nắm vừng Tử Vi của ông về mặt Khoa học Thực Dụng, nên cuốn Tử Vi Đại Toàn trong phần nguyên tắc đã được trình bày khúc chiết có hệ thống, làm cho dễ tra cứu, dễ hiểu và dề đoán. Đó là một chuyện đáng mừng ở chỗ bên thiện chí là người có đủ tư cách, sách là một tài liệu đứng đắn, không phụ bút hiệu TRÚC SỸ của ông.

Còn lại vấn đề lãnh hội và thực hành thì tất nhiên là phải trông đợi ở quý.

Biết đâu may mắn, sau khi đọc sách của Thái Đình, lại có nhiều vị tránh được tai nạn nhờ phương pháp kê bằng nghiệp lực, thăng hoa linh hồn, tìm được những điều lợi ích hữu lý của sách để hành động, cũng như biết đâu có vài độc giả sáng suốt có thêm ý niệm cần thiết để bổ túc cho sách Thái Đình, làm khoa Tử Vi được rạng rỡ như tác giả mong muốn

Đó là điều tâm niệm của tôi, và chắc cũng là điều tâm niệm của bạn Thái Đình vậy

PORTLAND, ngày 15 tháng 9 năm 1979

NGUYÊN VĂN THƯ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Vị trí treo gương đại kị: Sử dụng gương trong nhà đúng phong thủy sẽ kích thích tiền bạc, sức khỏe nhân đôi nhưng nếu treo chúng lung tung gia chủ vô tình rước
Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử dụng gương trong nhà đúng phong thủy sẽ kích thích tiền bạc, sức khỏe nhân đôi nhưng nếu treo chúng lung tung gia chủ vô tình rước điều xui xẻo vào nhà.


1. Đại kị treo gương ở tài vị hoặc đối diện thần linh


Tài vị chính là vị trí tài lộc trong ngôi nhà. Thông thường nó là góc đối diện với cửa ra vào. Ví dụ, cửa ra vào ở phía tay trái ngôi nhà, tài vị chính là phía góc phải của ngôi nhà. Nơi đây chỉ nên đặt những linh vật may mắn, không thích hợp treo gương.

Ngoài ra, không ít người nhầm tưởng rằng treo gương đối diện thần linh sẽ nhân đôi sự ảnh hưởng của vị thần đó. Nhưng theo quan điểm phong thủy, điều này sẽ gây phản tác dụng vì đó được coi là hành động không tôn trọng thần linh.

2. Đại kị treo gương đối diện giường ngủ và bàn học

Nhung vi tri treo guong dai ki cho tai loc va suc khoe hinh anh 2
 
Chiếc gương treo đối diện giường ngủ sẽ khiến bạn dễ gặp ác mộng hoặc hoảng sợ. Ngoài ra, nó cũng được coi như người thứ ba xen ngang phá hoại tình cảm vợ chồng. Tốt nhất không nên treo gương trong phòng ngủ.

Việc treo gương trước bàn học cũng không nên vì nó sẽ khiến con cái bạn phân tâm, khó tập trung trí lực cho chuyện học hành khiến kết quả học tập giảm sút.

3. Đại kị treo gương đối diện cửa ra vào

Cửa ra vào trong ngôi nhà có thể là cửa chính, cửa phòng ngủ, cửa nhà vệ sinh. Tất cả những vị trí này đều không thích hợp để treo gương.

Nếu treo ở cửa chính sẽ ngăn cản tài lộc, tiền bạc chỉ có đi ra mà không đi vào, đồng thời sự nghiệp của mọi thành viên trong gia đình gặp nhiều sóng gió hay chịu tổn thất.

Phòng ngủ là một trong những nơi trọng yếu của ngôi nhà. Treo gương đối diện phòng ngủ sẽ khiến người trong đó cảm thấy bất an, từ đó ảnh hưởng tới sức khỏe.

Còn nếu treo gương đối diện nhà vệ sinh sẽ khiến người khác nhìn thấy mọi hành động mang tính chất riêng tư của bạn trong đó. Về phong thủy, cách bố trí này cũng không hợp lí.

4. Đại kị treo gương ở nhà bếp

Nhung vi tri treo guong dai ki cho tai loc va suc khoe hinh anh 2
 
Chiếc gương sẽ phản chiếu nhiều lửa, khiến trong nhà bếp hỏa quá vượng, dễ xảy ra hỏa hoạn hay những sự cố ngoài ý muốn.

5. Đại kị treo gương trên trần nhà

Không ít người muốn mở rộng không gian ngôi nhà bằng cách treo gương trên trần nhà mà không biết rằng mình đã phạm vào lỗi đại kị trong phong thủy nhà ở. Bởi cách làm này ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cũng như gây ra sự hao tài hao lực cho những người sinh sống trong ngôi nhà này.

► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự tại Lichngaytot.com

Theo Khám phá






Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Tam, trí lực lấy tài

Trí lực lấy tài, một bực như nhau là dựa vàongười đích tư tưởng, kỹ thuật, tri thức đến thu hoạch tài phú, nghềnghiệp kể cả: Cố vấn nghiệp, luật sư, nghệ thuật gia, tác giả chờ.Nói chung, dựa vào trí lực lấy tài, viện tố công chi thần vốn làthương quan, thực thần tinh, mà thương thực tinh vốn là chiếm được rồichủ vị, hoặc theo chủ vị đích tinh tố công; còn có một loại loạihình vốn là mộc hỏa thành khí thế, mộc hỏa vi văn hóa tư tưởng, dễdàng thành danh, cũng là tiến hành trí lực chức nghiệp giả.
Tam, trí lực lấy tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Càn: Quý giáp bính mậu

Mão dần tuất tuất

Này tạo chủ vị thực thần, mà thực thần tinh nhiều, thực thần vốn là kỹ năng, ý nghĩ, thực thần hợp ấn, ấn vốn là công việc, nói rõ là dựa vào kỹ thuật tại đơn vị công việc, ăn chính là kỹ thuật cơm. Thêm nguyên nhân quý mão một trụ ấn mang quan tượng, mậu quý hợp, quan thêm hợp đến chủ vị, cho nên vốn là một quan viên. Thực tế hắn là một nhà kiến trúc xếp đặt sân viện trưởng.

Khôn: Nhâm đinh nhâm ất

Dần mùi thân tị

Này tạo( Thân vốn là có thể bị hợp đích, chế về phía sau thân thể không có ảnh hưởng) niên thượng thực thần dần mộc, thực thần tinh mang tỉ kiên, nói rõ vốn là chính mình đích thực thần. Dần nhập mùi mộ, vốn là thực thần nhập quan mộ, ý tứ vốn là chính mình đích trí lực bị quan phương sở dụng đích ý tứ. Đinh nhâm tướng hợp, thân nhược hợp tài, tài có công, cho nên phú. Mùi cũng hợp đến, quan làm tài, tránh tiền lương đích. Làm quan tinh hợp đến nhật chủ chính mình, cho thấy nàng có thể được đến đơn vị trọng dụng, có nhất định chức vị. Thực tế bản thân vốn là một nhà bệnh viện đích chủ trì y sư. Nhưng nguyên nhân chủ vị thân kim thiên ấn xung thực thần, nói rõ nàng đối với chính mình đích nghề nghiệp không quá thích, tị thân hợp, thích bên ngoài vừa làm cho tiền. Quả vu mão vận giáp thân năm cách chức hạ biển, tự mình kiếm tiền rồi, hàng năm100 vạn. Ứng mão vận người, nguyên nhân thương quan vận có thể sinh ngoài tài. Khẩu tài tốt lắm.

Càn: Canh canh canh mậu(闫 Kế vượng)

Tử thìn thìn dần

Này tạo niên thượng thương quan tử thủy, thương quan tinh mang tỉ kiên, nói rõ vốn là chính mình đích tài trí, tử cùng nhật chủ tương liên rồi, cố tử thủy thương quan cần. Tử thìn tướng củng, hội vượng thủy cục, có điểm công nhưng không lớn. Thương quan còn có thể sinh thời thượng tài tinh,( Dần vốn là tài, tài cần, dần khắc thìn, nhưng công cũng không lớn, chủ yếu là dụng tử thủy, tử thương quan chủ ý nghĩ, dần khắc thìn, trồng trọt rồi, thìn phục ngâm, mẫu nhị giá) cho nên hắn xác nhận [một người/cái] dựa vào trí lực lấy tài đích mệnh. Hành nhâm ngọ, quý mùi vận, thương quan bị quản chế, không thể lấy tài trí mưu sinh, mùi vận chi mùi năm, mặc tử, thiếu chút nữa muốn chết. Đến giáp thân vận hội vượng thương quan chi cục, tiến hành dự trắc cố vấn, hàng năm lấy được tài mấy vạn. Bính tử năm bắt đầu thầy tướng số, thừa số thủy tới rồi.

Liên quan tư liệu:闫 Có một đồng mẫu khác phụ đích ca ca, có một nhân một nữ, người thứ hai chảy sản rồi.( Còn có một người cùng闫 vốn là bốn đồng đích bát tự, cũng là một nhân một nữ, người thứ ba không phải chảy sản, mà là tặng người rồi.闫 Cùng hắn bất đồng chỗ vốn là hai người vóc dáng không giống với, tên còn lại vi tố mua bán đích. Kỷ mão năm hai người tính qua mệnh sau lúc, hai người đích vận mệnh sẽ không giống nhau rồi. Thừa số mão phá, giáp thân vận tên còn lại vi việc buôn bán phá tài,闫 thì không làm mua bán rồi, chuyên chức làm cho rồi thầy tướng số. Nguyên nhân thân xung dần, thêm đại vận hư thấu, tài cũng chạy, không phát tài. Như thế đơn thuần đích thân dần xung, ngược lại vốn là lộc xung tài, chủ được tài.闫 Nơi sinh có thủy, tên còn lại còn lại là đất bằng phẳng không có thủy, cố闫 có thể sử dụng tử, có ý nghĩ, tên còn lại thì nguyên nhân không có thủy sẽ không thầy tướng số, theo phong thủy có liên quan. Giáp thân vận闫 nguyên nhân thân sinh rồi thủy, cho nên thầy tướng số hội làm tốt lắm.

Càn: Canh canh canh ất

Tử thìn ngọ dậu

tân nhâm quý giáp ất bính

tị ngọ mùi thân dậu thú

Này tạo cùng thượng tạo tương tự, chỉ là niên thượng thương quan tinh xung chế ngồi chi chi quan tinh tố công, như vậy công khá lớn. Quan sát chế bất hảo làm tài xem, nguyên nhân cách vọt, dụng tử thủy thương quan, vi ý nghĩ lấy tài. [hai người/cái] công, ất canh hợp, tử ngọ xung, bản thân yêu thích thư pháp, viết một tay hảo chữ, tử vi mực. Hành nhâm ngọ, quý mùi vận, vận mệnh không đông đảo, rất nghèo, dựa vào đầu đường bán chữ duy sinh; giáp thân vận hội khởi thương quan cục, trở thành địa phương nổi danh đích thư pháp nhà, cầu chữ người đông đảo, chính mình cũng bởi vậy giàu có đứng lên. Hắn hoàn lại tố mặt tiền, bán trang phục, vài một mặt tiền, hiện vi ất vận, dậu vận nhân tiện xong hết rồi, chính là thân vận hảo, ất dậu vận sinh không dậy nổi thủy đến, trước mắt hắn làm đích thư pháp bồi huấn ban đã không được, chiêu không đến người.( Chú: Vấn đề: Ngọ vận vi nguyên cục đích ngọ tới rồi, ứng vi chế ngọ đích ứng kì, vì sao không cát?)

Càn: Nhâm quý quý tân(Thái Dịch Sinh)

Dần sửu sửu dậu

Này tạo cũng là niên thượng thương quan, dần sửu ám hợp, hợp đến chủ vị, thương quan tinh có công, cần dần, chính ấn làm cho xếp đặt, thiên ấn làm cho huyền học, lệch môn. Ngồi chi sửu thổ, có huyền học đích hàm nghĩa, gia tăng chi vừa là thiên ấn khố, thiên ấn chủ lệch môn, hắn là một làm cho huyền học đích, nổi danh đích phong thủy sư. Nguyên nhân sửu dậu đều là âm gì đó. Dần sửu ám hợp sửu vi phu thê cung, cha mẹ cung, huynh đệ cung, điển hình đích nhị hôn tổ hợp, [hai người/cái] cung, [một người/cái] tinh, dần làm vợ, hai lần hợp, lần thứ hai hôn nhân, không có đang lúc nghề nghiệp, lần đầu tiên ly hôn sau khi, tài sản đều bị thê lấy đi, dần hợp không tới nhật chi rồi. Bây giờ đến phía nam hỗn đi. Sau khi ngộ một giống nhau sinh nhật, canh giờ Thân đích nữ mệnh, vốn là một vị xếp đặt sư, nguyên nhân chính ấn ngoại thấu, đó là chính thống hành trình nghiệp. Có đang lúc nghề nghiệp, nữ đích không nhất định nhị hôn. Nhưng chúng ta chứng kiến, bọn họ đều là dựa vào trí lực lấy tài đích.

Càn: Đinh nhâm canh đinh 

Mùi tử tuất hợi  

tân canh kỷ mậu đinh bính

 hợi thú dậu thân mùi ngọ

Này tạo đinh nhâm hợp, đinh hợi tự hợp, dụng thực thần chế quan, tử mùi hại, đinh vốn là tuất trung lộ ra tới, thượng vừa chế rồi nhưng phía dưới chế không sạch sẽ, nhưng quan cũng vượng, chế không sạch sẽ, nơi này quan tinh làm tài phú xem( Quan sát chế không tịnh làm tài xem). Thực thần chủ ý nghĩ, ứng vi trí lực lấy tài mệnh. Tử mùi hại quan rồi, không lo quan, thực chế quan, tại môn hộ thượng, cố vấn nghiệp, nguyên nhân vốn là quan, cố vốn là pháp luật cố vấn, thực tế bản thân vốn là luật sư, hành phương tây kim vận, sinh thực thần mà chế quan sát, tài vận tốt lắm( Kim cả đời thủy, thủy một vượng nhân tiện phát tài).

Càn: Canh tân canh nhâm

Tử tị thân ngọ

nhâm quý giáp ất bính đinh

ngọ mùi thân dậu thú hợi

Này tạo niên thượng thương quan, ngồi chi lộc thần sinh hợp thương quan cục( Củng). Nguyệt lệnh sát tinh hợp lộc, mặc dù có thể bị tử thủy chế chi, nhưng chế phục bất hảo; thời thượng quan tinh hợp nhâm, quan tinh có chế vi cát, thương quan thực thần tố công, này đây trí lực lấy tài mệnh. Quan sát tinh chế bất hảo, làm tài phú xem. Tiến hành hội kế sư sự vụ, phát tài mấy trăm vạn. Hiện vi bính tuất vận, bính vận hảo, sát hợp rồi dương nhận, chủ nổi danh, chính mình mở [một người/cái] hội kế sư sự vụ viện, phỏng chừng một năm tránh200 vạn không thành vấn đề. Bát tự không có tài, lấy thương thực làm tài. Tuất vận hỏa nhập mộ, một bực như nhau. Hạ vận đinh hợi vận thì tốt rồi. Dậu vận khẳng định hảo.

Khôn: Tân tân kỷ bính

Dậu mão sửu tử

[một người/cái] nữ sĩ cầm nữ nhi đích mệnh tới hỏi ta, muốn nhìn một chút nàng lấy sau khi vốn là làm gì công việc đích? Ta nói cái này cô gái vốn là can luật sư này một chuyến đích, nhưng lại làm luật sư sự vụ viện đích. Nàng nói đúng đích có thể tính chất thật lớn, vì vậy hài tử bây giờ đang ở đọc pháp luật hệ đích thạc sĩ. Như vậy tòng bát tự trung vốn là như thế nào biết nàng vốn là can luật sư này hành đích? Đầu tiên xem tân kim vốn là thực thần, thực thần có cái gì hàm nghĩa? Thực thần có thể tố sư phụ, cũng có thể tố thầy thuốc, nhưng mão dậu một xung, thực thần đích mục đích nhân tiện phi thường minh xác-- muốn đi chế quan, cũng nên tỏ vẻ xuất nó đích hàm nghĩa rồi. Có người sẽ nói, thực thần chế quan có thể làm quan, tại sao nàng sẽ phải luật sư đây? Cũng nên muốn xem thực thần là từ đâu tới. Nhật chủ phía dưới ngồi sửu, sửu vốn là thực thần khố, thực thần tự nhiên là tòng sửu trung tới. Dưới thân ngồi một khố tỏ vẻ nàng có rất nhiều rất nhiều vật như vậy, cũng nên có thể bắt nó loại tượng vi pháp luật văn thư, pháp luật văn kiện ... đồ vật, cái này đồ vật vốn là đang làm gì đây? Đương nhiên vốn là chế quan đích, tỏ vẻ biện hộ, chính là lợi dụng này đó điều văn khứ thuyết phục quan. Nọ vậy tại sao chính cô ta không lo quan? Bởi vì nàng cái này thực thần quá nặng rồi, thực thần chủ tự do, thực thần quá nặng đích người vốn là một thích tự do đích người, không có khả năng khứ chịu ước thúc, hơn nữa tử sửu hợp lại, thực thần khố hợp rồi [một người/cái] tài, tỏ vẻ nàng nên thông qua thực thần đích thủ đoạn khứ lấy tiền, chỉ cần cấp tiền, có thể làm một một phạm tội phần tử biện hộ, ngoài cuối cùng mục đích vốn là lấy tài, mà sẽ không đi làm quan. Nhật chủ ngồi chính là một khố, hay là một khai luật sư sự vụ viện đích, không phải đơn thuần đích luật sư, sửu khố có thể loại tượng vi xí nghiệp, vào chủ vị, vốn là chính mình đích xí nghiệp. Làm cho pháp luật đích tư nhân xí nghiệp, chỉ có thể vốn là luật sư sự vụ viện. Thông qua này đó quan hệ trên cơ bản có thể định của nàng nghề nghiệp.

( Vốn dậu nhập sửu mộ rồi, mão một xung, dậu nhân tiện khả dụng rồi, tương đương với sửu mở khố rồi, dậu cũng hãy nhìn làm vốn là sửu trung dẫn ra tới. Dậu xung mão, nhưng có tử thủy vốn là mão chi nguyên thần, cố chế không sạch sẽ quan, không lo quan, lấy sau khi muốn làm đại luật sư, năm ngoái ất dậu năm khảo thượng pháp luật hệ, thực quá nặng, chủ tự do, không bị ước thúc. Cái này không sợ tử sửu hợp, nhưng nên lược chịu điểm ảnh hưởng. Dậu sửu tổ hợp vốn là cùng pháp luật có liên quan đích, như pháp luật, phạm tội chờ.)

Thổ nhật chính chi toàn thể hỉ hình xung, chủ yếu là kỷ sửu, kỷ mùi, mậu thìn, mậu tuất không giống kỷ nhật chủ, hắn còn có khác đích thuyết pháp.

Tái như:

Bính tân kỷ tân

Ngọ sửu mùi mùi

Tượng kỷ nhật chủ ngồi sửu, mùi, có tái nhiều gì đó nhập tiến vào cũng không phải ta đích, đinh sửu nhưng lại có thể đi vào đến trở thành ta đích.

Thêm như:

Khôn: Mậu giáp kỷ tân

Thân dần mùi mùi

Dần vốn là mùi trung dẫn ra tới, dần thân xung, vi khai mùi khố, luận cát, cự phú. Giáp kỷ hợp, nhưng thân dần xung, cố mậu vốn là lão công giáp đích người thứ nhất lão bà, nói rõ nàng phải gả [một người/cái] nhị hôn đích.

Càn: Đinh quý kỷ kỷ

Dậu sửu sửu sửu

Hiện vi rất nguyên trung cấp pháp sân đích phó viện trưởng, quý vốn là sửu trung dẫn ra đích, đinh quý xung, khai khố rồi, đinh đại biểu mùi, huynh đệ [ba người/cái] đều là pháp sân đích viện trưởng. Khi còn bé manh sư đoạn đại sau khi muốn làm công kiểm pháp đích quan. Dậu sửu tổ hợp, thấy đinh quý một xung, hàng ngày chuyển chính rồi. Niên thượng đinh vi tổ phần, nói rõ tổ phần hảo, quý mùi năm lên chức đích quan, ca ca cho hắn ra50 vạn nguyên tư trợ giúp hắn làm quan. Hắn nguyên tại ti pháp cục, hắn đích hôn nhân không có vấn đề.

Nhàn chú: Thiên can cái chìa khóa mở địa chi đích khóa rồi!

Càn: Giáp bính kỷ mậu

Thìn tử mùi thìn

Tử mùi hại, không có hôn nhân, giáp kỷ hợp, thiên can tố công.

( Hại không phải khai mộ, xung, hình thì có thể lái được mộ, hại vốn là hại mộ thân mình, vốn là đạp đổ, mà xung hình vốn là mở ra cái này mộ.)

Càn: Mậu kỷ kỷ tân

Tuất mùi hợi mùi

canh tân nhâm quý giáp ất bính

thân dậu thú hợi tử sửu dần

Này tạo tỉ kiếp đông đảo, một điểm thực thần phù vu thời can, vi cả bát tự chi tinh thần. Nhưng nguyên nhân sinh vu quý hạ, cục rất sốt ruột táo, cố hỉ dụng thủy đến nhuận cục, hợi thủy có công. Thực thần tiết tú, tài hoa hơn người. Bát tự lấy tân kim vi bút, hợi thủy vi mực, cố hắn là [một người/cái] tác giả. Hành nhâm tuất vận, thủy không thông căn, tuất khắc hợi thủy, sự nghiệp chịu tỏa, hôn nhân vỡ tan, trôi giạt khấp nơi; vận chuyển quý hợi, cục chuyển cùng nhuận, thực thần được tư dưỡng, cuống quít phát biểu thi văn cũng nhiều lần lấy được thưởng, danh lợi đều toại.( Kỷ sinh rồi tân, hảo, hợi thủy nhuận táo, tân thực xứng hợi thủy vi tác giả. Thực chủ văn chương, tân vi bút the thé, hợi vi mực thủy. Nhâm tuất mười năm rất kém cỏi, quý hợi sau khi hai mươi năm thủy vận hảo, tuất vận phá tài, ly hôn, chính tài chính tinh được chính vị không thể chế, lệch đích có thể chế.) nhàn chú: Tân vi bút tại môn hộ, ngộ hợi thủy vi viết làm! Thú vận ngồi xuống chính tài bị khắc, không rời thì tử!

Càn: Canh đinh kỷ canh

Tuất hợi mùi ngọ

Này tạo hỏi hôn nhân như thế nào. Đáp hôn nhân không có vấn đề, nhưng thường ầm ĩ cái. Nhàn chú: Thú hình mở mùi khố, vi có hôn!

Càn: Đinh bính bính quý

Mùi ngọ dần tị

Này tạo mộc hỏa thế, khứ thời thượng quý thủy quan tinh. Quan tinh hư thấu chủ danh tiếng, mộc hỏa thành xu thế thêm chủ văn hóa, cho nên xác nhận [một người/cái] danh lưu. Thực tế bản thân vốn là [một người/cái] danh luật sư, thời thượng chi lộc làm tài xem, hành quý mão vận, phát tài mấy trăm vạn. Nhàn chú: Lấy lộc làm tài

Càn: Giáp Đinh Đinh nhâm

Ngọ mão mão dần

Này tạo cũng là một danh luật sư, tỉ thượng tạo danh khí lớn hơn nữa, chúng ta xem hai người đích loại hình vốn là giống nhau đích. Này một tạo lộc tại niên thượng, cho nên chủ yếu là hải ngoại lấy tài. Giúp quốc nội xí nghiệp tại hải ngoại thành công Thượng Hải, buôn bán lấy tiền thuê, phú qua ngàn vạn lần. Nhàn chú: Lấy lộc làm tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam, trí lực lấy tài

Loại hoa, cây cảnh giúp hóa giải phong thủy ban công –

Khi thiết kế ban công, không phải ai cũng có thể tìm cho nhà mình nơi đặt vị trí ban công vừa hướng ra cảnh quan đẹp vừa hợp lý với cách bố trí trong nhà. Có thể ban công nhà bạn đã được thiết kế sẵn trước khi bạn đến ở. Và bạn có thể tự mình quan sá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

t, nếu từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy, ví dụ như trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện… thì bạn có thể bài trí những cây cảnh có tác dụng hóa giải.

Nếu trong trường họp từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy (trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện…) thì gia đình có thể bài trí cây cảnh để hóa giải.

ban-cong

Theo phong thủy, một số loại cây cảnh có tác dụng hóa giải, bảo vệ ngôi nhà có thể kể đến đó là:

– Cây tiên nhân cầu: Tiên nhân cầu là loại cây dễ sống, không cần tưới nước liên tục. Thân cây nhân cầu to và dài, xung quanh đầy gai, bài  trí những cây này có thể hóa giải hình sát của bên ngoài.

– Hoa hồng: Hoa hồng là hoa có hương sắc để trang trí cho ban công. Khi trồng ở ban công nên chọn loại hoa hồng thân gai có tác dựng hóa giải, thích họp với nhũng nhà có nhiều phụ nữ.

– Cây xương rồng: Ý nghĩa của cây xương rồng là mang đến sức mạnh, thân cây phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài.

– Cây ngọc kỳ lân: Ngọc kỳ lân phát triển theo hưóng ngang, vững vàng, khỏe mạnh, có tác dụng trấn giữ ngôi nhà.

– Cây đỗ quyên: Không chỉ hóa giải những hình khí xấu nơi ban công mà cây đỗ quyên còn có tác dụng mang lại nhiều vận may cho gia chủ. Loại cây này cũng dễ sống, hoa lá nhiều và có gai.

– Cây huyết long: Loại cây có lá bé, dài màu xanh thẫm, ở giữa lá có đốm vàng. Huyết long cũng là loại cây dễ chăm sóc và có sức sống mạnh mẽ. Đây cũng là loại cây có thể ngăn chặn những khí xấu xâm nhập vào nhà.

– Vạn niên thanh: có phiến lá to như những bàn tay xòe ra ngoài nạp khí tiếp phúc. Có tác dụng tăng cường vượng khí đối với phong thủy nhà ở. Cần chăm sóc cho cây luôn xanh tốt, duy trì màu xanh tươi trẻ tạo điều kiện hấp dẫn sinh khí tốt nhất.

– Cây kim tiền: phiến lá tròn dày, đầy đặn có sức sống vô cùng mãnh liệt, hấp dẫn kim khí từ thế giới bên ngoài rất có lợi cho tài vận gia đình.

– Cây cọ trúc, trúc quân tử: trồng ở ban công có thể bảo vệ giữ gìn sự bình yên cho gia đình.

– Cây phát tài: có đặc điểm to khỏe, phiến lá nhọn dài, xanh biếc dễ trồng, có sức sống mãnh liệt, có tác dụng bảo vệ và tăng cường tài vận cho gia đình.

Các kiến trúc sư cũng khuyên rằng, ban công nhỏ hay lớn đều nên thiết kế gần gũi với thiên nhiên bằng nhiều cây cảnh tuy nhiên cần được thiết kế gọn gàng và sạch sẽ, không mảnh vụn chồng chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại hoa, cây cảnh giúp hóa giải phong thủy ban công –

Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Thiết kế đặt gara hợp phong thủy và hài hòa với toàn bộ căn nhà như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp tháo gỡ khúc mắc ấy.
Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay nhiều hộ gia đình đi lại bằng ôtô riêng nên việc xây gara trong nhà không còn xa lạ. Thiết kế đặt gara hợp phong thủy và hài hòa với toàn bộ căn nhà như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp tháo gỡ khúc mắc ấy.

Mach ban huong tot nen dat dat gara hinh anh
 
Làm gara nên cân nhắc đến diện tích sao cho tương xứng với quy mô nhà ở. Nếu nhà có nhiều tầng và cần khu vực để xe rộng, thì làm gara sẽ đắc lợi. Trường hợp không quá cần thiết hoặc không thể đào xuống sâu, thì nên làm hầm theo dạng như một tầng trệt có chiều cao thấp, từ ngoài vào gặp cầu thang dẫn thẳng lên tầng lửng để vừa giảm chi phí làm móng bè cho gara, vừa dễ giải quyết các yếu tố thông thoáng chiếu sáng.
 
Nếu nhà làm theo kiểu lệch tầng, có thể đặt bếp ở phía sau cao hơn gara mà thấp hơn phòng khách, phía trước dùng để đỗ xe và làm lối vào, phía sau làm hồ nước ngầm hoặc máy phát điện. Cách làm này tạo thế trước thấp sau cao, phù hợp với nguyên tắc phong thủy truyền thống là nhà có điểm tựa vững vàng phía sau.
 
Nhà xây tại vùng đất yếu, gara đồng thời là một mảng móng bè, giúp chống thấm ngược, tránh được tình trạng lún không đều nếu làm móng theo kiểu độc lập.
 
Xe hơi trong hình tượng Bát Quái thuộc về quẻ Càn. Bát Sát Cung Vị thì Càn sợ nhất gặp Ngọ (chính Nam) bởi thế không nên đặt nhà xe ở chính Nam, cửa cũng không nên hướng về chính Nam. Nên dùng Tây Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc thì tốt.
 
Vị trí đặt gara hợp phong thủy nhất là Đông Bắc vì Đông Bắc từ năm 2004 là bắt đầu vào Vận 8 Bạch Cát Tinh, 8 Bạch lại nguyên gốc ở quẻ Cấn Đông Bắc nên tốt. Hơn nữa Càn (xe hơi) phối với Cấn là Thiên Y Cát Tinh rất tốt.
 
Theo Phi Tinh Huyền Không Cát Hung thì nên chọn phương vị đặt gara có Sơn Tinh là Nhị Hắc, Nhất Bạch, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch là được, còn tránh nhất là Ngũ Hoàng, Cửu Tử. Nếu xét theo Tổ Hợp Sơn Hướng Phi Tinh thì các Tổ Hợp 15, 25, 23, 35, 99, 79, 57, 45 là dễ xảy ra họa Huyết Quang, nên tránh xa.
 
Không nên đặt nhà cũng như nhà xe nằm trên tuyến Đại Không Vong (Hợi Nhâm, Quý Sửu, Dần Giáp, Ất Thìn, Đinh Mùi, Thân Canh, Tân Tuất) dễ bị sự cố giao thông.
 
Không nên đặt nhà xe ngay cạnh hoặc phía trước chỗ ở của chủ nhà hoặc giám đốc (đối với văn phòng công ty) sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe chủ nhân.
 
Tránh đặt chỗ phương vị xung với tuổi chủ xe (như chủ tuổi Tý không đặt nhà xe ở Ngọ (Nam), tuổi Sửu không đặt tại Mùi (Tây Nam)…..Tránh xung mệnh Cách (như hỷ dụng Thần là Ất Mộc thì tránh dùng Tân Sơn).
 
Xe máy phân khối lớn thuộc quẻ Chấn, kỵ mở cửa hướng Thân (Tây Nam ghé Nam).
► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Xem tuổi mua nhà –

Phong thuỷ học cho rằng, khi mua nhà ở chung cư, ngoài việc chọn hình thế ngôi nhà có dấu hiệu cát, còn nên chọn tầng lầu hợp với tuổi (theo Địa chi) của gia chủ.   Nguyên tắc mà phong thuỷ đưa ra là: nếu số tầng lầu Ngũ hành sinh với Ngũ hành c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thuỷ học cho rằng, khi mua nhà ở chung cư, ngoài việc chọn hình thế ngôi nhà có dấu hiệu cát, còn nên chọn tầng lầu hợp với tuổi (theo Địa chi) của gia chủ.

can-ho-chung-cu_3

 

Nguyên tắc mà phong thuỷ đưa ra là: nếu số tầng lầu Ngũ hành sinh với Ngũ hành của tuổi người chủ là tốt nhất, nếu khắc ngũ hành của tuổi chủ là không tốt.

Nếu số tầng lầu Ngũ hành bị Ngũ hành của tuổi người chủ khắc cũng chỉ tốt vào loại trung bình; Ngũ hành của tuổi người chủ với Ngũ hành tầng lầu như nhau thì giúp tuổi người chủ nên cát, gặp may mắn hơn.

Ví dụ: Người sinh năm Hợi (tính theo Địa chi), hành Thuỷ (Hợi thuộc hành Thủy theo Địa chi) , nên ở tầng 1 hoặc 6 (đều thuộc Thuỷ); tầng 4 và 9 thuộc Kim, Kim sinh Thuỷ là cát, ở cũng tốt; cũng có thể ở tầng 2 và tầng 7 (đều thuộc Hoả), vì Thuỷ khắc Hoả; không nên ở tầng 5 hoặc 10 (đều thuộc thổ), vì thổ khắc thuỷ.

Về mối quan hệ tầng lầu với ngũ hành, được người xưa nêu như sau:

Tầng 1 và 6 thuộc Thuỷ; tầng 3 và 8 thuộc Mộc; tầng 4 và 9 thuộc Kim; tầng 5 và 10 thuộc Thổ. Tầng 10 thuộc Thổ, tầng 11 thuộc Thuỷ, tầng 12 thuộc Hoả, tầng 13 thuộc Mộc, tầng 14 thuộc Kim, tầng 15 thuộc Thổ, tầng 16 thuộc Thuỷ, tầng 17 thuộc Hoả, tầng 18 thuộc Mộc, tầng 19 thuộc Kim, tầng 20 thuộc Thổ…

Về tuổi (Địa chi) theo Ngũ hành như dịch học nêu ra như sau:

Tuổi Tý hành Thuỷ, Sửu hành Thổ, Dần hành Mộc, Mão hành Mộc, Thìn hành Thổ, Tỵ hành Hoả, Ngọ hành Hoả, Mùi hành Thổ, Thân hành Kim, Dậu hành Kim, Tuất hành Thổ, Hợi hành Thuỷ.

Về mối quan hệ tương sinh, tương khắc như sau:

Tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Mối quan hệ tương khắc như sau: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi mua nhà –

Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Thần chú Đại Bi có những công năng oai lực mà không phải người nào cũng biết được những lợi ích khi tụng chú Đại Bi qua các hình tượng chú đại bi
Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác.

Ngài còn nhấn mạnh: Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành.

Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt.

Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:

– Ngài A Nan bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?

– Đức Phật bảo : Thần chú này có những tên gọi như sau :

  1. Quảng Đại Viên Mãn Đà-Ra-Ni
  2. Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni
  3. Cứu Khổ Đà-Ra-Ni
  4. Diên-Thọ Đà-Ra-Ni
  5. Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni
  6. Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni
  7. Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni
  8. Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni
  9. Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni.

Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú:

Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa.

Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc.

Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,… là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên.

Hình tượng đại bi chú
Hình tượng đại bi chú

Thần chú này còn có tên gọi là Diệt Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng Thần chú Đại Bi vì phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm, beo, rắn rết… luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người.

Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.

Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát địa.

Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát, giác ngộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Bùa chú là gì? Có những loại bùa chú nào?

Hầu hết, các bùa chú ban đầu được tạo ra với mục đích tốt đẹp là cầu an, giúp an tâm, gia đình yên ổn, ngoài ra nhiều người còn sử dụng bùa chú để trừ tà, chữa bệnh phá bùa yếm đổi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ ngàn xưa, khái niệm bùa chú đã xuất hiện trong những sách kinh sách của nhiều tôn giáo khác nhau. Hầu hết, các bùa chú ban đầu được tạo ra với mục đích tốt đẹp là cầu an, giúp an tâm, gia đình yên ổn, ngoài ra nhiều người còn sử dụng bùa chú để trừ tà, chữa bệnh phá bùa yếm đổi.

Dưới đây, Phongthuyso giới thiệu tới bạn những khái niệm về bùa chú và các loại bùa chú?

Bùa chú là gì? Có những loại bùa chú nào?

Theo đó thì thư và yểm là hai khái niệm tâm linh siêu nhiên, đó là nghi thức điều động một năng lực siêu nhiêu vào việc hãm hại người bằng bùa chú.

Thư có tác dụng gây bệnh tật, hành xác nếu trầm trọng có thể gây mất mạng.

Yểm thì có tác dụng hủy hoại đường công danh sự nghiệp của đối thủ khiến cho họ làm ăn thua lỗ, gia đình ly tán. Thư và yểm được thực hiện trên căn bản là sử dụng những quyền lực vô hình của bùa và chú, chúng chỉ khác nhau ở nghi thức.

Một là bùa yểm có 3 bộ phận quan trọng là: Phù đầu, phù đảm, phù khước cùng phối hợp với chú ngữ và chỉ pháp để sử dụng. Trong đó “Phù đầu” là chỉ đầu lá bùa, “Phù đảm” là chỉ gan lá bùa, “Phù khước” là chỉ chân lá bùa.

Bùa chú là gì? Có những loại bùa chú nào?

Nếu muốn thư người nào thì thầy phù thủy sẽ dùng những đồ vật cá nhân của người đso để là phép cso thể là quần áo hay các vật dùng hàng ngày nhưng phổ biến nhất là tóc hoặc móng tay của đối tượng. Thầy phù thủy sẽ thực hiện đọc thần chú hàng ngày để trù yểm vào những món đồ khiến nạn nhân đau đớn khổ sở. Cũng có những nơi dùng hình ảnh hay những hình nộm viết tên và tuổi của đối tượng, sau khi tiêm phép và chú nguyện thì thầy phù thủy dùng vật nhọn như mũi kim đâm vào bức ảnh hay hình nộm để hành hạ người đó. Hễ dùng vật nhọn đâm vào nơi nào thì đối tượng sẽ đau đớn nơi đó dù khoảng cách giữa họ cách xa cả ngàn dặm.

Trong khi “thư” thì không cần phải gặp trực tiếp đối tượng thì “yểm” lại cần thưc hiện một cách trực tiếp hơn. Đây có thể là khuyết điểm lớn nhất của phương pháp này. Sau khi thầy đã têm phép thì phải đến tận nơi để yểm và an vị lá bùa. Nếu lá bùa càng gần với nạn nhân thì tác dụng lên nạn nhân càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Thật ra, thư yểm là một bộ môn siêu hình đã xuất hiện từ lâu trong dân gian ở khắc nơi trên thế giới, mỗi nơi lại có một biến thể khác nhau. Với những tông phái huyền bí thì môn này không có gì xa lạ, mà việc giải trừ thư yểm được xem như một phương tiện làm đạo, giúp đỡ người khác. Theo nguồn gốc của thư yểm thì bộ môn này thường được truyền bá trong những bộ lạc hay sắc tộc thiểu số, sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh.

Xem thêm: Những kiêng kị trong tâm linh cần biết


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bùa chú là gì? Có những loại bùa chú nào?

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Cha mẹ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ. Bổn phận của con cái là không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn.

Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh Nguyên thủy và Đại thừa, “Đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sinh và thế hệ được sinh ra.

  • Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp..vv. thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách.
  • Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chính (chính mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, xin trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Thiện Sinh – Trung A Hàm. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Bắc phương.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình.

 cha mẹ
Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sinh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau

Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Kinh Thiện Sinh đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Thương yêu con cái:

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sinh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và lòng yêu thương chân chính. Đó chính là thể hiện tinh thần từ bi của Phật tử. Các bậc cha mẹ phải luôn luôn quan tâm, yêu thương con cái hết mực.

Bởi vì con cái mình mà không thể yêu thương được, thì làm sao có thể yêu thương những người khác. Lòng yêu thương con cái của các bậc làm cha mẹ được thể hiện rất rõ ở văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mẹ già trăm tuổi thương con tám mươi”, chính là thể hiện sự yêu thương con cái hết mực vậy.

Ngoài ra, yêu thương con cái là phải luôn dạy con cái không làm các điều ác, phải tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chiều con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi.

Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội. Đồng thời thể hiện sự yêu thương mù quáng, không đúng tinh thần của đạo Phật.

Cung cấp cho con cái không thiếu thốn:

Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn. Không thiếu thốn ở đây phải thể hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng, điều kinh tế của mình để lo cho con cái đầy đủ từ miếng cơm, manh áo..vv, các phương tiện để học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải luôn quan tâm chăm sóc, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn để động viên con cái có động lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tâm lý. Do đó con cái cảm thấy xa lạ với chính cha mẹ của mình..vv. dẫn đến khủng hoảng tâm lý mà sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy các bậc cha mẹ không chỉ lo cho con cái về mặt vật chất, mà phải luôn quan tâm về mặt tâm lý tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái:

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó.

Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lổng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ.

Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái:

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương.

Đạo Phật không khuyến khích một tập tục “bắt đâu ngồi đó” như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống “phụ vi tử cương” của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chính và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm “xứng đáng” không có nghĩa là “môn đăng hộ đối” như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình.

Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tính tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh “đồng sàng dị mộng” vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v…

Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần “môn đăng hộ đối” về vật chất nhưng lại không thích hợp về tính tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái:

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

  • Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình.
  • Gia tài đó hẳn không phải là “một nước Việt buồn” mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã.
  • Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao.
  • Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Tuệ Năng. Đức Phật Thích Ca đã không trao chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho ngài A Nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca Diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ “con ông cháu cha” sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Bổn phận của con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục.

cha mẹ
Người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với cha mẹ, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội.

Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ:

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sinh thành ra mình theo Đức Phật là phải biết làm tăng thêm của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt những năm vị thành niên.

Cần lưu ý ở đây rằng: Tăng thêm của cải là để biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa suông. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con ” Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ” mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được. Bởi nếu không có của cải thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch “báo đời” cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác cáng đáng việc nhà để trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau.

Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, cáng đáng việc nhà để cho cha mẹ có thời gian thư nhàn lúc tuổi xế chiều, không để cha mẹ phải vất vả vì công việc gia đình. Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó bằng hành động cụ thể, đúng chính pháp và phù hợp với đạo lý và luật pháp của xã hội hiện hành.

Dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn:

Các bậc làm cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả của con cái. Khi còn trẻ cha mẹ đã hết mình lo cho con cái, nhưng khi về già, không còn sức lao động, không làm ra của cải vật chất nhưng cũng không ai muốn ngửa tay xin con cái.

Cho nên phận làm con cái luôn phải biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi. Đây cũng là thể hiện tính tự giác, luôn biết quan tâm đến tâm tư tình cảm của cha mẹ. Tiếc rằng xã hội ngày nay, nhiều người làm con cái sống trong cảnh dư thừa vật chất, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, đói rét. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: “Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn của xã hội, lời dạy trên của Đức Phật thật vô cùng ý nghĩa đối với những người làm con cái mà chưa tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ:

Đây chính là bổn phận của người làm con khi tiến hành bất cứ một công việc gì cũng phải hỏi cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn danh dự và không đi ngược với truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập “cha truyền con nối” một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi.

  1. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập.
  2. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu “con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa” cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.
  3. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó.

Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

Tất cả những vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ:

Phận làm con phải luôn tự giác dâng nhưng tài sản, vật chất của mình cho cha mẹ, mà không giấu diếm giữ làm của riêng. Đây chính là thể hiện tinh thần tập thể của một gia đình, nhằm bảo vệ và làm tăng tiến tài sản thừa tự.

Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam Bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật Pháp Tăng. Trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Tóm lại, qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sinh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Đồng thời bổn phận của con cái không chỉ là chăm lo cho cha mẹ về mặt vật chất, mà phải luôn săn sóc cha mẹ về mặt tinh thần, không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Top con giáp đảm đang nhất khi quán xuyến việc nhà

Cùng xem nữ chủ nhân nào đảm đang, lo liệu việc nhà chu tất và đáng để các anh chàng lấy làm vợ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại đa số chúng ta chỉ sau khi mọi việc xảy ra rồi ta mới hiểu, mới biết sống sao cho đúng. Hiểu cuộc sống rất khó, biết cách sống lại càng khó. Không ít người cảm thấy ngày tháng trôi qua vô cùng mệt mỏi. Bất kể là mọi người xung quanh làm gì cũng đều khiến họ cảm thấy lao tâm, lao lực. Thực tế thì cuộc đời này đâu có nhiều bất công đến thế đâu, chỉ là do suy nghĩ của bản thân ta mà thôi. Hãy biết trân trọng những người bên cạnh mình trước khi quá muộn. 

Nữ giới cầm tinh con Mèo:

 top con giap dam dang nhat khi quan xuyen viec nha - 1

Biết lo toan cuộc sống không phải là họ ăn tiêu tiết kiệm mà là một trạng thái tự do tự tại với tuổi Mão. Chính xác là họ biết cách biến những ngày tháng nghèo khó trôi qua trong sự sung túc, biến những ngày tháng đủ đầy trôi qua một cách “hoành tráng”.

Nữ giới tuổi Mão khi lo liệu công việc gia đình thì đủ đầy về vật chất, phong phú về tinh thần. Nhà cửa vào tay họ thì luôn sạch sẽ, ngăn nắp, xử lý thỏa đáng mọi mối quan hệ trong gia đình, hàng xóm. Họ cũng luôn sắp xếp thời gian hợp lý để mọi người trong nhà có nhiều thời gian quây quần bên nhau nhiều hơn. 

Nữ giới cầm tinh con Hổ:

Phụ nữ tuổi Dần cũng không sống bằng việc quanh đi lo tiết kiệm tiền bởi với họ thì như thế là “lỗ” với gia đình. Phụ nữ tuổi Dần rất biết kiếm tiền và cũng biết tiêu tiền hợp lý. Họ phát huy tối đa tác dụng với mỗi đồng tiền kiếm được để biến 365 ngày thành những tháng ngày hạnh phúc nhất. Để mọi người trong gia đình giàu có về tinh thần, không băn khoăn về kinh tế đó mới là người phụ nữ biết cách sống.

Nữ giới cầm tinh con Gà:

 top con giap dam dang nhat khi quan xuyen viec nha - 2

Nữ giới tuổi Dậu rất nỗ lực trong mọi công việc và hiểu được giá trị cuộc sống. Họ biểu hiện cực kỳ xuất sắc trong công việc. Cả ngày đều khá bận rộn mà tiền lương kiếm được cũng không chịu thua kém đức lang quân. Ngoài công việc, trong cuộc sống hằng ngày họ luôn sắp xếp mọi việc hợp lý, thi thoảng lại tạo bất ngờ nho nhở cho chồng mình, và thêm chút gia vị hài hước cho cuộc sống khô cứng hiện tại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp đảm đang nhất khi quán xuyến việc nhà

Độ dài các ngón tay và tính cách con người

Ngón cái khá dàiTrí tuệ và thể lực đều tốt, có khả năng trở thành nhân vật có tiếng tăm. Người có ngón cái khá dài giàu lòng nhiệt tình,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngón cái khá dài

Trí tuệ và thể lực đều tốt, có khả năng trở thành nhân vật có tiếng tăm. Người có ngón cái khá dài giàu lòng nhiệt tình, có ý chí kiên cường không đạt được mục đích không buông tay, trên bất kỳ cương vị công việc nào họ cũng đều là nhà lãnh đạo xuất sắc.

Ngón cái khả ngắn: Xét trên nhiều phương diện, kiểu người này khá bị động. Họ cũng thích những lời lẽ ngọt ngào, là người thiên biến, muốn làm được việc tốt họ phải có khả năng tự kiềm chế. Nếu đảm đương vị trí lãnh đạo thì kiểu người này thích hợp với việc phục tùng người khác.
ngoncai 

Ngón cái vừa phải: Kiểu người này nghiêm chỉnh, chân thành, không có dã tâm hoang tưởng, cũng không có tính ỷ lại, thiếu tiến thủ, họ tự tạo dựng được cuộc sống cho mình, trong bất kỳ công việc nào cũng đều giữ chừng mực, không làm những việc khiến người khác phải kinh ngạc, là người luôn khiến người khác cảm thấy yên tâm. Ngoài ra, nhìn hình dạng bên ngoài của ngón cái cũng có thể thấy được tính cách và vận thế của một người.

Ngón cái mềm mại: Am hiểu thế sự, linh hoạt, nhạy bén, có thể tiến thoái kịp thời, tùy cơ ứng biến. Nhưng tính nhẫn nại của họ không đủ, làm việc thường đầu voi đuôi chuột. Đầu ngón tay thô to, giữa ngón tay rộng, dày, kiểu ngón tay này được gọi là ngón hình rắn, người có kiểu ngón tay này có quan niệm vể tình cảm gia đình rất lạnh nhạt, tuy tính cách bình thường nhưng lại có âm mưu hung bạo.

Ngón cái không thể gập xuống: Tính tình ngoan cố, tư tưởng và đường lối kiên định. Là người cứng rắn, về mặt tiền tài đặc biệt chặt chẽ, không muốn giúp người khiến mọi người không nể trọng.

Ngón cái tròn, dài mà có lông

Thích giao lưu, thân thiện với bạn bè, nói chung là có thể để lại ấn tượng tốt trong lòng mọi người, về mặt vật chất thì họ khá sung túc.

Ngón trỏ khá dài: Có ý thức về cái tôi rất cao, là người có lòng tự tin, nhiệt tình, tính mục đích khá cao. Họ không thích phục tùng người khác, luôn muốn đạt được vị trí cao hơn mọi người.

Ngón giữa khá dài: Là người chân thật, thâm trầm. Dù những chuyện nhỏ nhặt họ cũng phải suy nghĩ quá độ, thường thiếu cảm hứng nhưng họ lại vô cùng bình tĩnh, hiện thực. Có khả năng nghiên cứu sâu, có thể chịu được áp lực.

Ngón vô danh khá dài: Khiếu thẩm mỹ khá tốt, đâv là nhà nghệ thuật bẩm sinh. Kiểu người này rất cảm tính, là người theo chủ nghĩa khoái lạc, có chút tự kỷ. Họ dễ bị lôi kéo vào cuộc chơi. Họ không thực tế, thường kỳ vọng, ảo tưởng, không có cơ hội thực hiện ý tưởng.

Ngón trỏ, ngón giữa và ngón vô danh khá bằng nhau: Đi tìm cái tôi thực sự, lại có khả năng kiềm chế tốt, đồng thời họ thích hưởng thụ cuộc sống. Kiểu người này có thể cân bằng mối quan hệ rất tốt. Về mặt giao tiếp xã hội họ là kiểu người ôn hòa, nhu thuận, dễ thân thiện với người khác.

Quan sát độ dài ngón út

Ngón út khá dài: Cho dù là trong công việc hay tình yêu, kiểu người này đều có thể phát huy được sức cuốn hút của mình. Khả năng giao tiếp của họ rất tốt, đầu óc linh hoạt, họ biết nắm bắt cơ hội. Mặc dù làm việc cũng có chút không tốt cho lắm, nhưng trong lĩnh vực thương mại họ lại năng động vô cùng, quan hệ xã hội cũng thuận lợi.

Ngón út khá ngắn: Kém hiểu biết, kiểu người này khi giao tiếp thường rất dễ xảy ra hiểu lầm, quan hệ xã hội cũng đa biến. Mặc dù có không ít kinh nghiệm yêu đương nhưng dường như có chút khó khăn là họ cảm thấy cô đơn. Họ có chút buông thả, tính tình có phần trẻ con.

Ngón út bình thường: Kiểu người này không có điểm gì khiến người khác phải ngạc nhiên, nhưng bất kỳ ai họ cũng có thể thân thiện, quan hệ xã hội của họ khá thuận lợi. Hơn nữa tình cảm của họ với con cái cũng rất sâu đậm, họ cũng rất yêu trẻ nhỏ. Cuộc sống tình cảm của người này khá yên ổn, tính dục của họ khá mạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Độ dài các ngón tay và tính cách con người

Chùa Láng - Hà Nội

Chùa Láng hay còn có tên gọi khác là Chiêu Thiền tự, Chùa nằm ở Phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Láng nằm ở Phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội, do Sư cụ Thích Đàm Huyền trụ trì. Chùa Láng hay còn có tên gọi khác là Chiêu Thiền tự với ý nghĩa rằng: “Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu, là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền”.

Nơi đây không chỉ được biết đến là một trong những ngôi chùa cổ nhất Hà Nội, vẻ bề thế của kiến trúc, hài hòa của không gian khiến cho chùa Láng (quận Đống Đa) từng được coi là đệ nhất tùng lâm ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

Tương truyền chùa được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo truyền thuyết, nhà sư này đã đầu thai làm con trai một nhà quý tộc Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì vua không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông . Có tài liệu nói là Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông ( 1138 – 1175 ) đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa đã được trùng tu nhiều lần, những lần quan trọng nhất là vào các năm 1656, 1901 và 1989.

Chùa Láng được xây theo kiểu nội công ngoại quốc. Chùacó vẻ đẹp bề thế bởi có quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian. Các công trình kiến trúc trong chùa hòa hợp với các lối đi, sân vườn và những hàng cây cổ thụ rợp bóng tạo nên một không gian tĩnh mịch, cổ kính. Vì thế, chùa Láng đã từng được coi là đệ nhất tùng lâm (rừng thông đẹp nhất) ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không trùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, hơi giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa. Qua cổng là một sân gạch Bát Tràng, giữa sân chùa là một kiến trúc độc đáo – nhà Bát giác, phía trước có sập đá là nơi đặt kiệu thánh vào đêm trước ngày khai hội.

Cổng tam quan dẫn vào sân chùa có đôi câu đối viết theo lối Khải thư rất đẹp ghép bằng những mảnh sứ màu xanh làm tăng thêm vẻ trang nghiêm cổ kính và hoành tráng của ngôi chùa. Qua nhà Bát giác mới đến các công trình chính trong chùa: bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng… Động thập điện Diêm Vương ở hai dãy hành lang khá đẹp, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa ngục.

Trong chùa có 198 pho tượng lớn nhỏ, tiêu biểu là tượng Lý Thần Tông (1128 – 1138) ngồi trên ngai vàng và pho tượng Từ Đạo Hạnh đan bằng mây phủ sơn bên ngoài.

chùa láng
Lầu Bát Giác trong chùa

Chùa Láng còn có 39 hoành phi, 31 câu đối, 15 tấm bia đá, lưu giữ 12 đạo sắc phong của các vua triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Tấm bia tạo dựng năm 1656 cao 1,4 mét, rộng 0,8 mét có hoa văn rồng chầu mặt nguyệt, hai bên diềm có phượng chầu hoa sen và hai tiên nữ với đôi cánh dướn bay lên trời xanh. Trước đây, chùa còn có cuốn kinh bằng đồng lá (Bát diệp đồng thư) của vua Lý thường dùng để tụng niệm, nay đã bị thất lạc.

Hội chùa Láng cử hành vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội, kiệu của Từ Đạo Hạnh được rước đến chùa Hoa Lăng ở xã Dịch Vọng, nơi thờ cha mẹ ông.

Đến thăm chùa Láng, các phật tử và du khách sẽ rất thích thú trước quần thể kiến trúc rộng lớn, hài hòa và cân đối vừa uy nghiêm vừa gần gũi, thân thuộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Láng - Hà Nội

Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Trong khuôn mặt, mũi ở vị trí trung tâm bởi vậy nó có vai trò rất quan trọng với tài vận của chủ nhân.
Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lỗ mũi của đàn ông không thể quá to, nếu lỗ mũi quá to thì tài vận của họ cũng không tồi nhưng lại khó giữ tiền tài, không phải là họ thích tiêu hoang hay không biết tiết kiệm mà họ thường  gặp chuyện cần dùng đến tiền. Đặc biệt nếu cánh mũi quá mỏng thì tài vật thường mất nhiều hơn được, nếu không để ý cẩn thận thì rất khó bảo toàn tài sản.

1. Lỗ mũi to nhưng không hếch

Người có sống mũi cao, lỗ mũi to nhưng không hếch làm việc có trách nhiệm, biết cân nhắc việc nào nên làm việc nào không, tác phong thoải mái, không thích "nước đến chân mới nhảy". Họ nắm bắt thời cơ và hành sự quyết đoán, bởi vậy dễ thành công, làm nên nghiệp lớn, không thỏa hiệp với thất bại, có thể đứng dậy sau nỗi đau, đạt được vinh quang xứng đáng.

2-1653-1411181029.jpg

2. Lỗ mũi to, không hếch sống mũi thấp

Người sở hữu chiếc mũi không hếch, lỗ mũi to thường dũng cảm, bình thản đối mặt với biến cố, không dễ dàng bị hạ gục bởi khó khăn trở ngại. Tuy nhiên do sống mũi thấp nên họ dễ làm hỏng việc lớn, thất bại nhiều hơn thành công, khó bảo toàn sự nghiệp, thường hay bỏ lỡ thời cơ.

3. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt dài

Lỗ mũi lớn là người không cứng nhắc, không câu nệ tiểu tiết, nhưng khuôn mặt dài lại là người hay suy tư, chuyện gì cũng phải lên kế hoạch cẩn thận, không có sự chuẩn bị trước thì họ sẽ không làm. Nhìn chung, những người này thuộc tuýp thận trọng nhưng cũng rất to gan.

4. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt ngắn

Lỗ mũi lớn thường là người tiêu tiền hào phóng, cho nên họ đi đến nơi nào cũng được hoan nghênh, nhưng khuôn mặt ngắn thì khi làm việc ít suy nghĩ, dễ để tình cảm ảnh hưởng đến công việc.

Nam giới và nữ giới có khác biệt rất lớn, nếu là nam giới có lỗ mũi to thì sẽ không có ảnh hưởng quá lớn nhưng nếu là phụ nữ có lỗ mũi to sẽ ảnh hưởng đến dung mạo, nữ thì nên có mũi nhỏ một chút, vận số mới tốt. Từ góc độ của xem tướng mặt mà nói, nữ có lỗ mũi to vận số rất xấu, cần phối hợp quan sát với hình dáng môi, nếu là XX có đôi môi dày, đỏ và lỗ mũi hơi hếch lên thì lỗ mũi to cũng không mang lại nhiều trở ngại, nhưng tính cách sẽ có phần hơi "nam tính", ví dụ: hào sảng, không chi ly tính toán, rất trọng tình nghĩa.

XX có lỗ mũi to nhưng môi mỏng, khóe môi rũ xuống thường tiêu hoang không biết tính toán, coi thường người khác, họ thấy vui vẻ khi dùng tiền hạ thấp người khác. Những người này nếu không biết thay đổi thì khi về già họ có thể rơi vào hoàn cảnh cô đơn không nơi nương tựa.

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Sự tích Đức Quan Thế Âm Bồ Tát

Quán Âm Bồ Tát hay còn được gọi bằng những danh hiệu như: Quan Âm Phật, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán Thế Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện lẫn lộn ở cõi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Bồ Tát, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v...

 Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu.

 Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. 

Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài.

 Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v...

 Hiện nay đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).

Truyện 1: Quan Âm Thị Kính

Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì không thể nào đặng”. Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao.

 Vâng lệnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình.

 Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: "Cha mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi". Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.

 Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về.

 Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào.

 Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng.

 Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha.

 Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.

 Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm.

quan thế âm bồ tát

 Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.

 Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi.

 Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình.

 Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc.

 Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.

 Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn.

 Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa.

 Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.

 Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?”

 Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử  rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.”

 Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa.

 Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.

 Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình.

 Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục.

Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành.

 Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.

Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu.

Truyện 2: Quan Âm Nam Hải

 Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.

 Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.

 Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).

 Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.

Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.

 Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền. 

 Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.

 Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.

 Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.

quan âm bồ tát

 Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.

 Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.

 Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.

 Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.

 Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.

 Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.

 Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.

 Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.

 Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.

 Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.

 Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.

 Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.

 Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích Đức Quan Thế Âm Bồ Tát

Giải hạn cho nhà có hướng ngũ quỷ –

HÓA GIẢI NHÀ HƯỚNG XẤU PHẠM: NGŨ QUỶ - LỤC SÁT - HỌA HẠI - TUYỆT MỆNH 1. Chọn cung phi theo bảng dưới đây: (VD nam sinh năm 1970, cung phi Chấn) 2. Sau khi đã chọn xong cung phi, tìm hình có cung phi tương ứng (VD cung phi chấn chọn hình Bát quái có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

HÓA GIẢI NHÀ HƯỚNG XẤU PHẠM: NGŨ QUỶ – LỤC SÁT – HỌA HẠI – TUYỆT MỆNH

1. Chọn cung phi theo bảng dưới đây: (VD nam sinh năm 1970, cung phi Chấn)

cung phi

2. Sau khi đã chọn xong cung phi, tìm hình có cung phi tương ứng (VD cung phi chấn chọn hình Bát quái có chữ Chấn, theo hình vẽ sẽ thấy có 8 hướng Đông-Phục vị; Tây-Tuyệt mạng…

khon

3. Xem giải nghĩa các hướng để biết hướng tốt, xấu:

* Hướng Tốt

Sanh Khí: thuộc Tham lang tinh, Dương Mộc, Thượng kiết. Phàm cung mạng hiệp được phương Sanh Khí này lợi cho việc làm quan, làm ăn mau giàu, nhân khẩu tăng thêm, khách khứa tới đông, đến năm, tháng Hợi, Mẹo, Mùi thì được đại phát tài.

Thiên Y: thuộc Cự môn tinh, Dương Thổ, Thượng kiết. Nếu vợ chồng hiệp mạng được cung Thiên y và tạo tác nhà cửa, đường ra vào được Phương này thì giàu có ngàn vàng, không tật bịnh, nhơn khẩu, ruộng vườn, súc vật được đại vượng, khoảng một năm có của. Đến năm, tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì phát tài.

Diên Niên (Phước Đức): thuộc Võ khúc tinh, Dương Kim, Thứ kiết. Vợ chồng hiệp mạng được cung này, đường ra vào, phòng, nhà miệng lò bếp xoay vế phương Diên niên chủ về việc: trung phú, sống lâu, của cải, vợ chồng vui vẽ, nhơn khẩu, lục súc được đại vượng. Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.

Phục Vì (Qui Hồn): thuộc Bồ chúc tinh, Âm Thủy, Thứ kiết. Phàm vợ chồng hiệp được cung Phục vì được Tiểu phú, Trung thọ, sanh con gái nhiều, con trai ít. Cửa lò bếp, trạch chủ nhà được phương Phục vì gặp năm có Thiên Ất Quy Nhơn đến Phục vì ắt sanh con quý, dễ nuôi (Muốn cầu con nên đặt lò bếp day miệng về hướng này).

* Hướng Xấu: 

Tuyệt mạng: thuộc Phá quân tinh, Âm Kim, Đại hung. Bổn mạng phạm cung Tuyệt mạng có thể bị tuyệt tự, tổn hại con cái, không sống lâu, bịnh tật, thối tài, ruộng vườn súc vật bị hao mòn, bị người mưu hại (người hà bị mưu hại: thương nhơn khẩu). Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.

Ngũ Quỷ (Giao chiến):Liêm trinh tinh, Âm Hỏa, Đại hung. Bị hỏa hoạn, bịnh tật, khẩu thiệt, hao mòn ruộng vườn, gia súc, thôi tài, tổn nhơn khẩu. Lâm nạn vào năm, tháng: Dần, Ngọ, Tuất.

Lục Sát (Du Hồn): thuộc Văn khúc tinh, Dương Thủy, Thứ hung.Nếu phương hướng nhà cửa phạm nhằm thì bị: mất của, cãi vã, hao mòn gia súc vườn ruộng, thương tổn người nhà. Ứng vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Họa Hại (Tuyệt Thế): thuộc Lộc tồn tinh, Âm Thổ, Thứ hung.Phương hướng nhà cửa, cưới gả vân vân … phạm vào thì bị quan phi, khẩu thiệt, bịnh tật, của cải suy sụp, thương nhơn khẩu. Ứng hại vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

4. Khi xây nhà chọn các hướng tốt cho những vị trí: Bếp (hướng bếp là hướng lưng người nấu) , cửa chính, bàn thờ, đầu giường… Chọn các hướng xấu cho các vị trí nhà vệ sinh, hầm tự hoại, sàn giặt…

5. Nếu hướng nhà phạm vào hướng xấu, có thể dùng hướng bếp hóa giải:

Sanh khí giáng Ngũ quỷ

Thiên y chế Tuyệt mạng

Diên niên yểm Lục sát

Chế phục an bài đinh

Ví dụ nhà có phướng phạm vào ngũ quỷ, xoay hướng bếp sang hướng sanh khí sẽ trừ được tà khí…

 6. Hóa Giải nhà Hướng Xấu bằng trụ thạch anh

Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà hướng xấu không hợp tuổi gia chủ bạn nên dùng trụ thạch anh (trụ tối thiểu từ 0,5kg trở lên) loại lớn, để trấn các năng lượng xấu, tà khí xấu do hướng xấu như Lục sát, Ngũ quỷ, Mất mát, Họa hại gây ra. Năng lượng dương cực mạnh của thạch anh sẽ xua tan, đẩy năng lượng âm ra khỏi căn nhà của bạn. Bạn cần chú ý trụ thạch anh cần được ngâm nước muối tinh 7 ngày 7 đêm trước khi đặt, để mang lại hiệu quả trấn tốt hơn trụ thạch anh cần phải được trì chú và tính ngày giờ tốt hợp tuổi gia chủ để an vị. Nếu không có điều kiện dùng trụ thạch anh,  bạn có thể dùng 2 gương bát quái treo phía trước cửa nhà bạn đó là TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI

Bát quái treo bên ngoài dùng để trừ tà ma, chỉnh hướng cửa sai… Bát quái có nhiều loại, có loại có gắn gương (thường, lồi, lõm). Các loại gương này được dùng như liệt kê dưới đây. Có 2 loại Bát-quái là Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-Thiên Bát-quái. Tiên-Thiên Bát-quái treo theo vị trí Càn trên Khôn dưới. Hậu-Thiên Bát-quái thì treo theo vị trí Khảm trên, Ly dưới. Khi muốn sửa nhà nằm trong vị trí xấu thì treo Tiên-thiên Bát-quái trong vị trí bình thường. Hậu-Thiên Bát-quái phải xoay để thay vị trí hướng xấu bằng vị trí hướng tốt như sau đây:

Xem cửa chính nhà đã phạm hướng xấu nào dựa theo Mệnh-quái của Bát-trạch.

Ðịnh vị trí Bát-quái cần phải dùng để sửa:

Sinh-khí để hóa giải cửa chính quay về hướng Ngũ-quỹ.

Thiên-y để hóa giải cửa chính quay về hướng Tuyệt-mạng.

Phúc-đức để hóa giải cửa chính quay về hướng Lục-sát.

Phục-vị để hóa giải cửa chính quay về hướng Họa-hại.

Vị trí bình thường của Hậu-thiên Bát-quái là Ly ở phía trên, Khảm ở phía dưới tượng trưng cho vị trí Phục-vị. Dựa theo Mệnh-quái, xoay vị trí Phục-vị đến vị trí cần phải sửa. Hay nói khác đi là xoay vị trí tên của Mệnh-quái đến thay thế cho vị trí cần phải sửa.

Thí dụ 1: Theo Mệnh-quái Càn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông (Cấn). Phải dung Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái là Càn thì Phục-vị ở hướng Tây-bắc (Càn), Sinh-khí ở hướng Tây (Ðoài). Phải xoay Bát-quái cho Càn thế chổ của Ðoài tức là xoay Bát-quái 45 độ ngược theo chiều kim đồng hồ. Như vậy phải treo Khôn trên, Cấn dưới.

Thí dụ 2: Theo Mệnh-quái Khôn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông-nam (Tốn). Phải dùng Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái Khôn thì Phục-vị ở hướng Tây-nam (Khôn), Sinh-khí ở hướngÐông-bắc (Cấn). Phải xoay Bát-quái cho Khôn nằm vào vị trí Cấn tức là phải xoay 180 độ (nửa vòng). Như vậy phải treo Bát-quái trong vị trí Khảm trên, Ly dưới.

Tuy nhiên bát quái không phải lúc nào củng có tác dụng khi ta mua từ tiệm về để dùng.Mà ta phải đem đến CHÙA nhờ CHÚ NGUYỆN,có nghĩa là MỞ MẮT THẦN cho bát quái,thì sử dụng mới có hiệu quả.

(Tất nhiên việc đặt bất cứ dụng cụ nào để hóa sát trong phong thủy,đều phải xem ngày TRỰC TRỪ và giờ HOÀNG ĐẠO để đặt.)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải hạn cho nhà có hướng ngũ quỷ –

Xem tướng nốt ruồi ở mặt nữ giới –

I. Nốt ruồi ở nữ giới có giá trị khác nốt ruồi ở nam giới về ý nghĩa. 1. Lấy chồng sang 2. Nhiều chồng 3. Chú ý khắc cha, mẹ 4. Có bạn quý 5. Nguy hiểm 6. Phòng chồng phản bội 7. Thông minh 8. Có con quý 9. Bỏ chồng 10. Khóc chồng 11. Thông minh 12.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

I. Nốt ruồi ở nữ giới có giá trị khác nốt ruồi ở nam giới về ý nghĩa.

not_ruoi_nu

1. Lấy chồng sang

2. Nhiều chồng

3. Chú ý khắc cha, mẹ

4. Có bạn quý

5. Nguy hiểm

6. Phòng chồng phản bội

7. Thông minh

8. Có con quý

9. Bỏ chồng

10. Khóc chồng

11. Thông minh

12. Tai nạn

14. Thích ngao du

15. Sinh đôi

16. Chiều chồng

17. Thuỷ nạn

18. Bệnh tật

19. Ít xa quê

20. Sát chồng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi ở mặt nữ giới –

Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Có rất nhiều sở thích giúp phán đoán tính cách của một người. Hãy xem sở thích tắm của bạn nói lên điều gì! Thích tắm dưới vòi hoa sen Bạn là người sống cởi mở, khá thoải mái, tuy nhiên có lúc hơi cẩu thả, tùy tiện. Điều này cũng phản ánh thái độ của
Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tắm thể hiện tình cảm bạn thế nào? –

Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ

2. Cách tiến hành nghi lễ:

Chép sẵn linh vị mới phủ giấy (hoặc vải) đỏ, khi Đàm Tế ở bàn thờ tang xong, thì đốt linh vị cũ cùng với bảng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.

Trường hợp nhà không có bàn thờ chính thờ gia tiên bậc cao hơn thì không phải làm lễ này mà yết cáo gia thần và yết cáo Tổ ở nhà thờ tổ.

3. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ

Hôm nay là ngày… tháng…. năm... tại tỉnh… huyện… xã… thôn…

Tín chủ là…………(nếu lễ gia thần) hoặc Hậu duệ tôn là…………(nếu lễ gia tiên, tự xưng hô với vị được liệt thờ cao nhất).

Quỳ trước linh vị của………… (đọc linh vị của vị thờ cao nhất), liệt chư Tiên linh.

Kính nghĩ:
Gót tiêu dao, mịt mù mù mịt, đâu hạc nội, đâu mây ngàn?

Cõi trần thế, thay đổi đổi thay, nay sương dâu, mai bãi bể.

Lá rụng về cội, phách tuy giáng, hồn lại được siêu thăng.

Nước chảy về nguồn, thác là quy, sinh chẳng qua tạm ký.

Nhân sinh do tổ, gốc phải vững, phúc quả mới mong bền;

Hiểu tử sự thân, tế như tại, nhân tâm nào dám phế.

Bày nhân: Hiển khảo (hoặc tỷ)…………(đọc linh vị bố hoặc mẹ)

Thọ chung ngày…………..tính đến nay đã:


Quý húy Đại Tường;

Đến tuần Đàm Tế.

Quá hai năm trừ phục, cáo Tiên linh;

Đủ ba tháng dư ai, theo cổ lệ.

Cầu gia thần chứng giám, cho từ đường phảng phất linh hồn;

Nguyện Tiên Tổ phù trì, để bạch triệu quy hồi phách thể.

Đến ngày giỗ chạp, con cháu nhớ tháng ngày,

làm lễ dâng hương;

Nối gót Tổ Tiên, ông cha tiếp thế thứ, theo hàng phối tế.

Lễ bạc, kính dâng gọi chút, há dám quên cây cội, nước nguồn;

Suối vàng, như thấu cho chăng, họa may tỏ trời kinh, đất nghĩa.

Xin kính mời: Hiển…………………
Hiển…………………………………
Hiển…………………………………

Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về hâm hưởng.

Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo Quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ tư Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.

Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Những ưu khuyết điểm về Mệnh “Vô chính Diệu"

Trong nhiều sách Tử Vi đã có nhiều lần bàn về “ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”; nhưng vì đề tài này rất bao la nên tôi tưởng không phải là vô ích khi đưa ra những chi tiết và kinh nghiệm dưới đây để qúy bạn tìm hiểu dễ dàng và chính xác hơn về Mệnh Vô Chính Diệu.
Những ưu khuyết điểm về Mệnh “Vô chính Diệu"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thực vậy, từ trước đến nay, mỗi khi gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, chúng ta thường thường chỉ biết căn cứ vào những câu phú quen thuộc như:

- Mệnh Vô Chính Diệu phi yểu tắc bàn.
- Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam không nhi phú qúy khả kỳ.
-Tam không độc thủ phú qúy nan toàn.
-Xét xem phú qúy mấy người, Mệnh Vô Chính Diệu trong ngoài tam không …

Chứ làm gì có một hệ thống hoặc tài liệu chi tiết nào về trường hợp trên, đành rằng có những nhà tử-vi rất thông suốt về Mệnh Vô Chính Diệu nhưng rất tiếc các vị đó lại không chịu đem ra cống hiến. Vì vậy tôi mạo muội gom góp những chi tiết đã thâu lượm được và tạm chia làm hai phần:

- Những ưu khuyết điểm về Mệnh Vô Chính Diệu.
- Những điều phức tạp về Mệnh Vô Chính Diệu.

1-NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
A) Những khuyết điểm
Hầu hết các nhà tử-vi đều không khen những lá số có cách Vô Chính Diệu tại Mệnh vì cho rằng những cách này có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Những khuyết điểm chính như sau:

1- Căn bản không vững
Căn bản ở đây không có nghĩa là khả năng hoặc tài năng mà chỉ có nghĩa là môi trường của mình. Mệnh Vô Chính Diệu (tức là không có chính tinh thủ mạng) bao giờ cũng phải tuỳ thuộc vào chính tinh ở cung xung chiếu, và khi đã phải tuỳ thuộc tức là không có căn bản vững, hoặc nói nôm na là không có gốc. Nếu không được cung xung chiếu có sao tốt lại phải hướng sang hai cung hợp chiếu (Tài và Quan) mà ảnh hưởng sẽ yếu hơn nhiều và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nữa. Vì vậy, dù cho người Mệnh Vô Chính Diệu có tài năng, thông minh (do các yếu tố tử-vi khác cho hưởng) rất dễ bị thăng trầm về sự nghiệp khi gặp Đại tiểu hạn giao động mạnh, không khác gì căn nhà không có cửa bị cơn gió lốc thổi thốc vào làm tan tác cả căn nhà, trừ trường hợp có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hơn nhiều.

2- Khó đóng vai trò chính
Như trên đã nói, Mệnh Vô Chính Diệu không khác gì căn nhà không có cửa dễ bị ảnh hưởng của thời tiết cũng như ngoại cảnh. Do đó người Mệnh Vô Chính Diệu (dù Đắc Tam Không) không thể và không nên giữ vai trò chính trong bất cứ lĩnh vực, cảnh ngộ nào, từ xã hội, gia đình cho đến hôn nhân. Chính cụ Hoàng Hạc cũng đã nêu trên KHHB trước kia là gặp trường hợp này nên cam phận làm “phó” thì yên thân, nếu làm chính dễ bị mất chức. Riêng tôi, tôi còn nói thêm rằng ngay trong gia đình cũng vậy, người Mệnh Vô Chính Diệu cần phải là con thứ hoặc nếu chẳng may là con trưởng thì cần phải là con bà vợ sau của cha mình (tức là bà vợ chính không có con trai). Như thế mới có thể sống lâu hoặc mới có công danh khá được. Thậm chí đến vấn đề hôn nhân, người Mệnh Vô Chính Diệu nên chịu làm “kẻ đến sau” thì cuộc sống dễ thịnh vượng hơn, còn trường hợp vợ mình là chính chuyên thì đương nhiên bị thiệt thòi về sự nghiệp. Đó là một điểm “hận” lớn lao cho người Mệnh Vô Chính Diệu. Kể ra cũng chẳng có gì khó hiểu, vì khi căn nhà trống (vô chính diệu) thì ta cần có một cái vật gì đó che bớt cho khuất gió, tuy hơi trở ngại nhưng đỡ bị tan tác khi có gió mưa lớn. Về người cũng vậy, nếu có người khác “đứng mũi chịu sào” thì khi gặp trách nhiệm lớn lao mình làm phó đâu có chịu lỗi nhiều hoặc gánh vác nhiều, dù cho mình có nhiều khả năng chăng nữa. Còn về hôn nhân tuy không đặt vấn đề trách nhiệm nhưng phải có cái gì đó “án ngữ“ gián tiếp, ví như Tuần, Triệt vậy.

3-Khó phát sớm
Trừ một vài trường hợp đặc biệt, tôi nghiệm thấy các người mệnh vô chính diệu đều không phát khi còn trẻ, không khác gì một cái cây non khi mới nẩy mầm nơi đất xấu, phải trông cậy vào phân bón hoặc mưa nắng thuận hòa mới dần dần vươn cao, có hoa có lá. Vì vậy, nếu qúy bạn có Mệnh Vô Chính Diệu cũng đừng bao giờ qúa thất vọng khi thấy sự nghiệp, công danh của mình phát chậm, miễn là những đại vận từ trung vận trở đi không quá tệ. Nếu qúy bạn nào phát sớm trong trường hợp này tưởng cũng không nên qúa mừng và tự tin vì không khác gì “hoa sớm nở tối tàn” về công danh cũng như về tuổi thọ. Để cho dễ hiểu, tôi xin đơn cử một thí dụ: một đứa bé sơ sinh nếu ra đời non hoặc qúa yếu đuối ngay từ lúc lọt lòng mẹ, nếu cứ cho uống đủ các thứ thuốc bổ để mau mập mạp, khoẻ mạnh không thể đúng cách bằng nuôi nấng một cách điều độ cho khoẻ mạnh lần lần. So với Tử vi cũng vậy, nếu Mệnh Vô Chính Diệu mà gặp ngay Đại Hạn kế tiếp thật tốt rồi những đại hạn sau xấu thì không thể nào hay bằng đại hạn kế kém nhưng những đại hạn sau tốt đẹp, để cho mệnh đủ thời gian hấp thụ các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu, như thế mới đủ khả năng sử dụng các đại hạn tốt một cách vững bền.

4-Nghị lực kém:
Khuyết điểm sau chót của người Vô Chính Diệu tại Mệnh là khó lòng họ có can trường hoặc tinh thần dũng mãnh cương nghị, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng vậy. Điều này cũng rất dể hiểu vì khi mình nhờ vả ai (tức là Mệnh nhờ các cung chiếu) thì mình phải chịu ảnh hưởng của người đó, nếu không muốn nói là lệ thuộc và khi đã ở cảnh ngộ như thế thì làm sao giữ vững được lập trường. Tuy nhiên, nếu Mệnh chịu ảnh hưởng của cung Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ hơn nhiều, vì Tài Quan là các cung của cá nhân mình, thì chỉ ngại cung Thiên Di, nếu có các chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều thì sự lệ thuộc vào ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn vì cung Thiên di tiêu biểu cho giới giao thiệp, bạn bè trong xã hội (Tôi sẽ bàn về cung Thiên Di trong một bài riêng biệt). Vậy quý bạn cần chú ý đến điểm này khi cân nhắc về nghị lực của người Mệnh Vô Chính Diệu.

Những ưu điểm:
Chắc qúy bạn nào có Mệnh Vô Chính Diệu sau khi đọc những điểm trên đây đều thất vọng cho số phận của mình, nhưng thực ra con người Mệnh Vô Chình Diệu lại có những điểm độc đáo khác mà những người khác ít khi có.

1) Đa năng mẫn tiệp
Khi Mệnh đã “bỏ ngõ” tuy dể bị ảnh hưởng của các sao xấu bên ngoài nhưng cũng tiếp nhận dễ dàng những tinh hoa của các cách tốt chiếu về, nếu có. Do đó, người Mệnh Vô Chính Diệu (khi lớn tuổi) thành công dễ dàng nhưng tuần tự trong mọi lãnh vực do khả năng tìm hiểu, tò mò, kiên nhẫn của mình, mức độ thành công tùy theo các cách tốt trong tử vi. Vì thế, trong nhiều sách như cuốn Tử-Vi Đầu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang đều nói rằng người Mệnh Vô Chính Diệu khôn ngoan sắc sảo là thế. Nếu qúy bạn là Chủ nhân hay Giám đốc thì nên dùng người Mệnh Vô Chính Diệu vì họ rất chịu khó học hỏi, có lương tâm nhà nghề, có óc cầu tiến, nhưng đừng bao giờ dùng họ trong vai trò chủ chốt như đã nói trên để cho họ khỏi bị mất chức. Đến như Khổng Minh kia (cung Mệnh Vô Chính Diệu) tuy tài ba phi-thường như thế mà cũng đành phải chịu làm cố vấn, quân sư cho kẻ khác, chứ đâu có xưng vương đồ bá gì nổi …

2) Ít bị tai nạn
Tôi xin nói ngay là người Mệnh Vô Chính Diệu bớt được nhiều tai nạn chứ không phải là chẳng bao giờ bị tai nạn. Sở dĩ họ được điểm may như vậy là vì Mệnh Vô Chính Diệu khi gặp Đại tiểu hạn Sát Phá Liêm Tham và hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi Mệnh có chính tinh lại không hợp và có khi còn bị nguy hại. Như vậy là Mệnh VCD đã bớt đi một số yếu tố tai hại vì đã quen với hung tinh.
Vì theo nguyên tắc chỉ có hung tinh mới gây ra tai ương nhiều hơn các sao khác, vì các bại tinh chỉ gây thất bại hoặc bịnh hoạn chứ ít khi đem đến tai nạn như hung tinh. Như vậy kể ra cũng công bằng vì người Mệnh Vô Chính Diệu thường hay khổ về tinh thần thì ít ra cũng phải bớt được tai ương nhiều.

3) Dễ thích ứng với hoàn cảnh
Mệnh Vô Chính Diệu chẳng khác gì Mệnh trung lập, gặp đại vận nào cũng thích ứng được không bị cảnh “chéo cẳng ngỗng” như Mệnh có chính tinh, do đó đỡ bị gặp bước đường cùng (Đây tôi không nói về thọ yểu mà chỉ bàn đến công danh, sự nghiệp, vì lẽ tất nhiên gặp hạn xấu qúa thì phải chết). Thí dụ như hạn gặp Tuần, Triệt hoặc Thiên Không đối với Mệnh có chính tinh (nhất là sao Tử-Phủ) thì rất tai hại, bất lợi nhưng đối với Mệnh Vô Chính Diệu lại hay vì không khác gì nhà cửa đang trống trải bị gió thốc vào nay lại được lắp cửa ngõ đàng hoàng (tức là Tuần Triệt, Thiên Không) thì căn nhà yên ổn biết bao. Tôi đã được xem nhiều Lá số vô chính diệu, có người bị thăng trầm luôn luôn nhưng gặp hoàn cảnh nào cũng thích ứng được rồi dần dần ổn định.
II- NHỮNG ĐIỂM PHỨC TẠP VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
Tôi có thâu thập được khá nhiều điểm phức tạp về cách giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu, nhưng chỉ xin nêu ra những điểm chính và quan trọng (tôi không nhắc lại những điểm đã bàn tới trên KHHB) để qúy bạn đỡ bị lúng túng khi quyết đoán:

1) Đắc Tam Không
Thường thường các nhà tử vi đều chê rằng Mệnh Vô chính diệu chỉ tốt khi đắc tam Không (tức là có Tuần, Triệt, Địa không hoặc Thiên không tôi không bàn chứ “Không” ứng cho những sao nào kể trên vì có vị không công nhận Tuần là “Không”, có vị lại bảo rằng Thiên Không mới không phải là “Không” nhưng chưa có ai chứng minh được hợp lý), và cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử vi chỉ nam) có nêu ra thêm là mạng Hỏa và Kim mới hợp với cách này nhất. Điểm này chỉ đúng khi đương số là con một, mà tôi đã bàn trên KHHB rồi. Ngoài ra, quý bạn còn phải phân biệt như sau:
-Nếu mạng có nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ mà có một Không án ngữ và hai Không chiếu về thì đừng nên ham cách “Đắc tam không” nữa vì các trung tinh bị mất hiệu lực. Trong trường hợp này chỉ nên có Tam không ở 3 phương chiếu về là hơn, nếu không thì chẳng cần đủ 3 Không mới khỏi tai hại cho Mệnh.
-Khi nào Mệnh không chính tinh mà chỉ có toàn bại tinh hoặc bàng tinh không quan trọng mới cần có một “Không” án ngữ, nhưng lại có điểm thiệt thòi là các cách hay ở bên ngoài khó bổ túc cho Mệnh vì bị “Không” ngăn trở, thành ra chưa hẳn là hoàn toàn có lợi. Về trường hợp này nhiều vị cho rằng nên có Thiên không hoặc Địa không hơn là Tuần, Triệt vì hai sao Thiên Địa Không không ngăn trở sự xâm nhập hoặc ảnh hưởng của các sao bên ngoài.

2) Không đắc Tam Không
-Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu không đắc Tam Không, tức là chỉ có Nhất, Nhị Không (ít khi không đắc Không nào) chưa hẳn là kém Tam Không và cũng không ngại “phi yểu tắc bần”, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.Chỉ có điểm cần nhất là cung Phúc Đức không được xấu vì Mệnh yếu sẵn rồi phải nhờ vào cung “gốc” là cung Phúc Đức để tránh vấn đề kém thọ trước đã rồi mới tính đến công danh, sự nghiệp qua các cung hợp chiếu và đại hạn. Tôi đã được xem nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu chỉ có đắc Nhất Không mà vẫn phú quý và chẳng hề chết non, nhưng những lá số này không có cái nào có cung Phúc Đức xấu.

3) Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa
Cách này chắc nhiều bạn đã biết và nhiều nhà tử vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều :
– Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (như: Địa Kiếp, Hỏa Linh, Phục Binh…) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình, như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã.
– Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi.
– Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Hư để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiều sâu cho mặt trời, mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được.

4) Đại tiểu hạn
Đối với Mệnh Vô chính diệu, việc giải đoán Đại tiểu hạn khác hẳn đối với Mệnh có chính tinh thủ Mệnh. Vì Mệnh vô chính diệu có khả năng hấp thụ đủ mọi cách, từ cách Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng lương cho đến cách Sát Phá Liêm Tham cùng với hung tinh đắc địa, chẳng bao giờ không ”ăn khớp” với các cách này. Tuy nhiên, chỉ ngại đi đến Đại tiểu hạn cũng Vô chính diệu lại không có Không nào thì khác nào một cái nhà trống, không cửa ngõ lại ở trên một khu vực “đồng không mông quạnh”, làm sao chống lại được mưa gió hoặc bị ảnh hưởng của bên ngoài, như thế tức là làm ăn thất bại dễ dàng, sự nghiệp suy sụp mạnh mẽ.
Qua những điểm tôi trình bày trên đây, chắc hẳn qúy bạn đều nhận thấy rằng dù sao người có Mệnh Vô chính diệu vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi, nhất là đối với ai ham công danh, quyền chức lớn, mặc dù họ có nhiều tài năng đôi khi xuất chúng, nhưng tài để phục vụ cho kẻ khác (nhiều khi kém mình) thì tưởng cũng là điều không hấp dẫn.Chỉ đối với ai có đầu óc triết lý, ưa sống về tinh thần, ưa nghiên cứu về lý số, biết an phận thời may ra mới hợp cách Mệnh Vô chính diệu, dù đắc Tam Không hay Không.

KHHB số 74C2

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ưu khuyết điểm về Mệnh “Vô chính Diệu"

Giá như một lần con hiểu được tấm lòng của mẹ

Trong cuộc sống, có những thứ bạn được nhận, nhưng cao cả nhất vẫn là tấm lòng của người mẹ. Mẹ là người có thể chấp nhận hy sinh cả cuộc đời mình cho bạn
Giá như một lần con hiểu được tấm lòng của mẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tấm lòng của người mẹ không phải ai cũng hiểu thấu, nhất là người đó lại là mẹ kế của mình. Từ bao giờ, như một thói quen ăn sâu tận trong tâm thức, nó rất ghét, ghét cay ghét đắng bà mẹ kế, người đàn bà tật nguyền suốt đời phải ngồi trên chiếc xe lăn, đã thế bà ta lại bị bỏng nặng, khuôn mặt đỏ ửng hằn những vết sẹo loang lỗ hệt như 1 cương thi, chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ sợ mất hồn…

Thời thơ ấu

Từ lâu nó rất ghét bà mẹ kế. Vì ghét bà ấy, nó ghét lây sang ba nó, nó nghĩ hoài, nghĩ mãi. Không hiểu bà ta bỏ bùa mê thuốc lú gì mà ba nó lại rước gánh nặng ấy về. Thà nuôi 1 con vật giữ nhà còn có ích hơn. Đời này thiếu gì đàn bà để ba nó phải làm như vậy, khiến nó xấu hổ đến nỗi chưa bao giờ dám dẫn bạn về nhà.

Thế nhưng cuộc đời đúng là tréo nghoe, trêu ngươi con người, nó càng ghét bà ấy chừng nào thì bà ấy càng thương nó chừng ấy, bà ấy càng thương nó thì ba nó càng thương bà ta nhiều hơn. Hài không tả nỗi vì gia đình nhà nó.

Hồi còn nhỏ tính nó đã tinh nghịch, phá phách, lại háo thắng, 1 lần đánh nhau với thằng nhóc con nhà hàng xóm tơi bời, nguyên do chỉ vì thằng kia trêu nó có bà mẹ dễ thương, xinh đẹp. Nỗi uất ức bao ngày qua cố kìm nén nay được nhỏ kia khơi dậy. nó đánh thằng kia tăm tối mặt mày, sứt đầu mẻ trán đến nỗi cha mẹ nhận không ra, ông hàng xóm dẫn con sang tận nhà mắng vốn luôn cả ba nó, bảo rằng ông không biết dạy con. Kết quả là nó bị ba ”dạy dỗ” cho trận đòn thừa sống thiếu chết.

Lúc ấy mẹ kế còn đi được nhưng khó khăn lắm, phải lê lết, chống nạn. Thấy ông giận dữ ước chừng có thể vồ lấy nó ăn tươi nuốt sống, bà nhoài người đưa thân ôm nó đỡ trận đòn roi. Nào ngờ không những không chút  tấm lòng cảm kích biết ơn, nó dùng chút sức lực yếu ớt còn lại vùng vẫy, xô bà lăn nhoài xuống đất.

Bà khỏi giả nhân giả nghĩa trước mặt ba tôi đi, thấy tôi bị vậy bà vui lắm chứ gì, bà cướp ba khỏi tay mẹ tôi, khiến mẹ tôi chết, khiến gia đình tôi tan cửa nát nhà. Vậy chưa đủ sao. Bà còn muốn gì nữa, nhìn lại bà coi, người không ra người, ma chẳng ra ma, bà đi chết đi”. Nó nói không chớp mắt như lập trình sẵn, đôi mắt đỏ ngầu hằn sâu tia lửa hận. Suy nghĩ của 1 thằng nhóc con mấy lớn khiến ba nó và bà vô cùng ngạc nhiên. Bà hoàn toàn nín lặng.

Đồ trời đánh”… Ba nó thét lên

Anh đừng nói con như vậy mà, nó còn nhỏ chưa hiểu gì đâu” ….Bà đỡ lời, nước mắt rơi hối hả.

Ông càng đánh nó càng im lặng, mặt cứ nhơn nhơn như thể trêu ngươi, chọc tức 2 người.

Thời gian trôi nhanh, nó ngày càng lớn dần theo năm tháng, tiếp nối nỗi hận thù với bà cũng tăng dần đều theo tỉ lệ thuận.

Về phần bà, bị hoại tử đến nỗi liệt cả 2 chân, không thể đi được. Người người thấy bà ai cũng đau lòng, thương xót. nó thì cười, cho đó là điều tất nhiên, là quả báo. Rồi nó học đại học, họa hoằn lắm tết nhất mới miễn cưỡng mò về nhà, vì gặp bà, thấy mặt bà nó lại chướng tai gai mắt, khó ưa.

Giữa kỳ 1 năm 2.

Đang cắm bút ôn bài thi giữa học kỳ, gần 12h đêm nó nhận được điện thoại của ba nó.

“Con hả? Đến bệnh viện với ba gấp, Mẹ con bệnh nặng lắm, phải chuyển tuyến lên thành phố”… Ba nó nói trong gấp gáp.

“Dạ, ba thông cảm, giờ con bận học thi rồi ba ơi, không đi được đâu”.. Nó nói chống chế nhưng trong lòng mừng rơn, bà đâu phải mẹ tôi đâu, đáng lắm.

“Không đi được hả con?”

“Dạ….”

Cứu người hơn cứu hỏa, biết nó chẳng giúp được gì nên ba nó đành tặc lưỡi cúp máy.

3 ngày sau…

“Con nghe ba…?”

“Mẹ con mất rồi. ba đang làm thủ tục với bệnh viện đưa mẹ về quê an nghỉ. Con về nhà ngay nhé.”

Ngày mai con thi ba ơi, lý do quá chính đáng mà. Nó lại đưa ra lý do, có lẽ lương tâm nó bị quỷ cướp mất rồi, nếu còn là con người, nó có thể xin nghỉ rồi mai mốt thi lại cũng được, chí ít cũng một lời chua xót với người đã khuất chứ.

Cuối cùng cũng thi xong, lần này nó bỗng háo hức muốn về nhà kì lạ.

Bắt xe đò về nhà, nhìn lên bàn thờ nó thập phần ngạc nhiên, kế bên tấm ảnh mẹ ruột nó là bức chân dung một người phụ nữ, so với mẹ nó thì người kia nhìn trẻ, đẹp hơn gấp bội phần.

“Chứ ảnh mẹ kế đâu mà ba trưng tấm hình này?” nó hỏi

“Đó… Mẹ con đó”

Nó há hốc mồm, mắt trợn tròn.

Chuyện dài lắm, con thắp nhang cho mẹ rồi đi tắm rửa…”

“Để con tắm rửa rồi thắp sau cũng được mà ba”… Nó chống chế, vẫn còn hận bà ấy nhiều đến vậy, ngay cả 1 nén nhang với người đã khuất cũng nỡ lòng tính toán.

“Thôi được rồi, con ngồi xuống đây ba kể con nghe chuyện này”, ba chỉ nó ngồi xuống ghế đối diện với vẻ mặt nghiêm nghị.

“Con hận Mẹ lắm phải không?”

“Dạ không, sao ba nghĩ vậy?” Mẹ nào ở đây, nó thầm nghĩ.

“Từ đầu tới cuối đừng nghĩ con làm vậy là con đúng. Nhầm rồi, nhầm to rồi con ạ. Tất cả chỉ con có lỗi, con sai, sai hoàn toàn và người con suốt đời phải mang ơn chính là người đang ngồi trên bàn thờ kia đang nhìn con mà không phải mẹ ruột con.”

“Con không hiểu ý ba muốn nói gì?” Nó bắt đầu thấy hồi hộp lẫn tò mò về điều ba nó sắp nói ra. Ba nó từ từ, chậm rãi kể.

Sự thật nghẹn lòng

“Ngôi nhà mình đang sống thực ra là nhà của mẹ kế con, mạng sống của con là do bà ấy cứu…Ngày xưa ba với mẹ ruột con yêu nhau thắm thiết, cưới nhau tuy nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc. Khi con hơn 1 tuổi bỗng mẹ con thay lòng đổi dạ, không chịu nổi cuộc sống cơ cực nên bỏ mặc ba con mình theo người đàn ông khác, một lần mẹ con đi với người kia thì cả 2 cùng bị tai nạn rồi qua đời. Ba vẫn mang danh nghĩa là chồng của mẹ con nên phải làm tròn trách nhiệm của 1 người chồng, người cha lo phần hương hoả.

Ngày mẹ con mất ba sống tưởng như đã chết, dẫu rằng mẹ không còn thương nhưng ba vẫn yêu mẹ con nhiều lắm, đầu óc lúc nào cũng bần thần, vô định.

Quãng thời gian ấy, để tìm quên nỗi nhớ của người chồng mất vợ, nỗi đau vì bị vợ cắm sừng cùng những lời bàn tán, dị nghị của người đời, lúc mẹ bỏ ba con mình, con cứ khóc hoài khi đêm khuya khát sữa giật mình tỉnh giấc lần tìm hơi mẹ, ba chỉ biết ngập trong cơn say của rượu.

Một ngày nọ con lên cơn sốt phải nằm viện cả tháng trời, mẹ kế con lúc ấy là một y tá xinh đẹp, nhiều người thầm thương trộm nhớ muốn kết tóc xe duyên nhưng bà chưa chịu. Thấy con thông minh, dễ thương, lại nhìn ba cực khổ bỏ công bỏ việc chăm lo cho con nên bà đem lòng thương cảm. Ngày ngày bà ấy giúp ba săn sóc con, tới khi con về nhà điều trị, hôm nào bà cũng qua thăm hỏi, thuốc men.

Rồi ba và bà ấy có cảm tình với nhau, yêu nhau lúc nào không hay.

Khi gia đình bên ấy biết chuyện thì ra sức cấm cản, thứ nhất do gia đình mình nghèo, thứ 2 ba đã qua 1 đời vợ, thứ 3 nữa là vợ chết, họ sợ bà ấy quen ba rồi sẽ nhận lại kết cục của mẹ con.

Ba cũng suy nghĩ nhiều lắm. Sợ đi thêm bước nữa sau này con riêng con chung con chồng con vợ về sau con sẽ chịu khổ, ba đã nhiều lần buông tay, nhưng bà không chịu, vẫn 1 lòng với ba, nhìn cách bà ấy yêu thương con như con ruột ba tin tưởng, không thể kìm lòng.

Mẹ với ba cưới nhau mà không hoa không đèn, không mâm cao cỗ đầy, không bạn bè, bà con hai họ. Thiệt thòi lắm.”

Nói đến đây mắt ông chớm đỏ, giọng ông khuất nghẹn như khựng lại.

“Thế thì có liên quan gì tới con hả ba?”

“Mẹ chấp nhận từ bỏ công việc về ở với ba con mình trong ngôi nhà ván đơn sơ lụp xụp mà ngày trước ba với mẹ con từng sống. Từ một tiểu thư đài cát, danh gia vọng tộc, ngập trong nhung lụa gấm vàng, nay phải thay đổi bản thân sống cùng ba con mình trong cơ cực.

Hôm ấy ba có việc ra ngoài, con nghịch ngợm, mãi chơi làm đổ cây đèn dầu, gặp tiết trời mùa hè hanh khô, cộng thêm nhà ván dễ bắt lửa, lúc ba về tới nơi thì hoảng hồn nghe mọi người hô hoán, tìm cách dập lửa. Trong nhà lúc ấy chỉ có 2 mẹ con. Mẹ vừa thoát ra ngoài sân đã hỏi con đâu.

Khi nghe con còn ở trong bà đã chạy ngược vào.

Khi mẹ bế con ra khỏi nhà lúc ấy con đã bất tỉnh vì ngạt khói, nhờ mẹ dùng trọn thân mình che chở con mới thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, mặc cho người mẹ lúc ấy bị bắt lửa phừng phực như một ngọn đuốc sống.

Nhờ đưa vào bệnh viện cấp cứu kịp thời nên giữ được tính mạng nhưng khuôn mặt, hai chân mẹ kế con bị bỏng hoàn toàn. Trong cơn mê sảng bà ấy vẫn cứ gọi tên con thống thiết.

Ngày ra viện, gia đình bà ấy hận ba con mình lắm, nhưng vì thương mẹ kế con nên đã tạo điều kiện, cho nhà để ba, con, và mẹ con về sống. Hi vọng cha con mình chăm lo bà ấy như chuộc lại lỗi lầm. Nhưng con trước giờ thì…”

“Sao ba mẹ không nói cho con biết?” Từ mẹ lần đầu được phát âm rõ ràng mấp máy trên môi nó.

“Mẹ bắt ba hứa không nói cho con biết.”

“Sao mẹ lại làm thế với con hả ba…?“. Nước mắt nó đã rơi.

“Nhãn quan của người mẹ mách bảo cho bà ấy biết, con là đứa yêu rất đậm mà hận ai đó cũng rất sâu. Thà cứ để con hiểu lầm còn hơn để con biết sự thật, chắc chắn hình tượng mẹ ruột trong lòng con sẽ phôi phai, và trọn suốt đời con sẽ hối hận, cảm thấy có lỗi vì những gì con gây ra khiến bà phải hứng chịu. Lúc nào bà ấy cũng hi sinh bản thân mình vì con.

Ba hối hận vì từ đầu đã không đủ dũng cảm nói ra sự thật. Để đến khi bà ấy nằm viện, sắp sửa lìa đời cứ muốn gặp con 1 lần mà không được…”

Ông từ từ đi lại tủ quần áo lấy ra 1 chiếc áo len: “Cái áo này lúc gần mất mẹ đã tự tay đan cho con, còn dặn dò ba nhắn với con là trời chuẩn bị vào đông lạnh lắm, chỉ mang áo khoác ngoài sẽ không đủ ấm, con sức khoẻ yếu rất dễ cảm lạnh. Ra đường phải mặc vào.”

Ông đưa tận tay nó rồi đập vào ngực nó thì thầm: “Ba đã không muốn nói, sao con bắt ba phải vậy…”

Nó đứng yên bất động, từng giọt nước mắt lại tuôn trào hối hả. Trong cơn nghẹn đắng, lần đầu tiên sau nhiều năm nó gào to thật to.

“… Mẹ…. Con xin lỗi”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giá như một lần con hiểu được tấm lòng của mẹ

Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Thập nhị Địa chi: Tam hợp (Tốt) Thân-Tý-Thìn Dần-Ngọ-Tuất Tỵ-Sửu-Dậu Hợi-Mão-Mùi
Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thập nhị Địa chi: Lục hợp (Tốt)
Tý hợp Sửu
Dần hợp Hợi
Mão hợp Tuất
Thìn hợp Dậu
Tỵ hợp Thân
Ngọ hợp Mùi

Thập nhị Địa chi: Lục xung (Xấu)
Tý xung Ngọ
Sửu xung Mùi
Dần xung Thân
Mão xung Dậu
Thìn xung Tuất
Tỵ xung Hợi

Thập nhị Địa chi: Tứ hành xung (Xấu)
Thìn-Tuất-Sửu-Mùi
Tý-Ngọ-Mão-Dậu
Dần-Thân-Tỵ-Hợi

Tránh xung (Xấu) :
Tý xung Mão
Ngọ xung Dậu
Dần xung Tỵ
Thân xung Hợi
Thìn xung Mùi
Tuất xung Sửu

Tránh kỵ (Xấu):
Tý kỵ Ngọ
Mão kỵ Dậu
Dần kỵ Thân
Tỵ kỵ Hợi
Thìn kỵ Tuất
Sửu kỵ Mùi

Tránh tứ tuyệt (Xấu)
Tuổi TÝ tuyệt tuổi TỴ
Tuổi DẬU tuyệt tuổi DẦN
Tuổi NGỌ tuyệt tuổi HỢI
Tuổi MÃO tuyệt tuổi THÂN

Tránh lục hại (Xấu) :
TÝ hại MÙI
DẦN hại TỴ
THÂN hại HỢI
SỬU hại NGỌ
MÃO hại THÌN
DẬU hại TUẤT.

Thiên Can hợp khắc (Hợp: Tốt, Khắc: Xấu)
GIÁP hợp KỶ, khắc CANH
ẤT hợp CANH, khắc TÂN
BÍNH hợp TÂN, khắc NHÂM
ĐINH hợp NHÂM, khắc QUÝ
MẬU hợp QUÝ, khắc GIÁP
KỶ hợp GIÁP, khắc ẤT
CANH hợp ẤT, khắc BÍNH
TÂN hợp BÍNH, khắc ĐINH
NHÂM hợp ĐINH, khắc MẬU
QUÝ hợp MẬU, khắc KỶ

Ngũ hành nạp âm (Bản mệnh) tương sinh (Tốt)
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy

Ngũ hành nạp âm (Bản mệnh) tương khắc (Xấu)
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim
Kim khắc Mộc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Những bảo bối thu hút tiền tài của 12 con giáp

Theo phong thủy, mỗi một con giáp có những bảo bối của riêng mình nhằm gia tăng sự giàu có, thịnh vượng và may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tại Trung Quốc, phong thủy đã tồn tại hơn 3.000 năm. Khoa học này là sự kết hợp của nước và gió để tạo ra các trường năng lượng thay đổi của một người, thậm chí cả một nước dựa trên những thuyết Ngũ hành và Âm dương. Sau đây là những lời khuyên giúp các cá nhân gặp may mắn dựa theo 12 con giáp.

Những người tuổi Chuột sẽ được hỗ trợ rất nhiều từ nguyên tố Thủy. Nước có thể trợ giúp những người sinh trong vào năm Tý giàu có và gặp nhiều may mắn. Vì thế, phong thủy cho rằng, những người này nên đặt một bể cá vàng vào góc phía Bắc của phòng làm việc để hút tiền tài.

Sửu

Với sự trợ giúp đắc lực của Lửa, những người sinh vào năm Trâu sẽ làm ăn phát đạt. Vì thế, họ nên bài trí một số bình gốm trong phòng ngủ hoặc văn phòng của mình để đem đến may mắn. Bảo bối giúp phát tài chính là gốm đã được tôi luyện lâu trong lò lửa.

Dần

Những người tuổi Hổ sẽ được sự hỗ trợ bởi các yếu tố thuộc về Đất. Người tuổi Dần đặt một chậu cây xanh trong nhà sẽ rất tốt. Nhờ đó, họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận từ các nguồn khác nhau với công việc chính và kinh doanh tay trái.

phong thủy theo tuổi
Chậu cây xanh trong nhà sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Dần

Mão

Nhằm gia tăng tiền tài trong cuộc sống, người sinh năm Mèo cần bổ sung những bảo bối thuộc nguyên tố Đất. Đặc biệt, họ thể treo một miếng ngọc tại góc Đông Bắc của phòng ngủ để mang đến may mắn. Người ta cho rằng, ngọc bích đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng nghìn năm chính là tinh hoa của trời đất và sẽ đem đến may mắn cho những người tuổi Mão.

Thìn

Theo phong thủy, hướng Tây Bắc có thể giúp những người tuổi Rồng giàu có. Để mang đến may mắn, họ nên bố trí một chậu nước với một vài bông hoa sen và những hòn non bộ ở góc Tây Bắc.

phong thủy nhà ở
Người tuổi Thìn nên bố trí một hồ nước nhỏ trong nhà

Tỵ

Người sinh năm Rắn cần chú ý tới khu vực hướng Tây để thu hút tiền tài. Bên cạnh đó, người tuổi này rất hợp đeo trang sức bằng kim loại, nhất là bạc hoặc vàng. Theo quan niệm phong thủy, những món đồ trang sức bạc và vàng không chỉ đẹp mà còn mang đến may mắn. Người sinh năm Rắn sẽ luôn rủng rỉnh, dư dả tiền trong túi.

Ngọ

Người tuổi Ngựa cũng giống như những người sinh năm Rồng hợp hướng Tây Bắc. Ở phía Tây Bắc của phòng ngủ, họ nên đặt một con cóc bằng đồng, nó sẽ đem đến may mắn cả trong tài chính và sự nghiệp.

Mùi

Người sinh năm Mùi nên chăm chút đến hướng Bắc của mình. Họ nên đặt một hộp gỗ gụ vào vị trí phía Bắc của văn phòng rồi bày bên trong hộp là một vật gì đó liên quan tới công việc của mình. Ví dụ như đầu bếp có thể đặt một con dao hoặc chiếc nồi phía trong. Với cách này, tài sản của người sinh năm con Dê sẽ sinh sôi, nảy nở.

Thân

Đối với tiền tài, hướng Tây hợp với người tuổi Khỉ. Họ nên bố trí một chậu cây (tốt nhất là cây cao hơn gia chủ) ở phía Tây của căn nhà. Với cách này có thể những năng lượng tích cực có thể tập hợp quanh và bảo vệ cho những người này.

Dậu

Về tài chính, những người tuổi Kỷ Dậu nên để một số hạt giống cỏ vào một thùng chứa kim loại không, đặc biệt, nó phải là một men đen - đỏ. Những hạt giống cỏ ở container chứa khả năng vô hạn. Nó sẽ mang đến cho người sinh năm Kỷ Dậu gia tài khổng lồ.

Tuất

Những người sinh năm Tuất nên tránh những nguyên tố nước và đất trong cuộc sống. Họ nên đặt một số cành đào ở văn phòng để tăng may mắn.

Hợi

Để mang lại may mắn, những người tuổi Hợi cần những yếu tố thuộc tính lửa. Cũng giống người tuổi Trâu, họ nên đặt những lọ gốm ở phòng khách của mình.

vật phong thủy
Trong phòng khách, người tuổi Hợi nên đặt những lọ gốm để hút tiền tài

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bảo bối thu hút tiền tài của 12 con giáp

Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3 - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3, 12 con giáp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3, tu vi Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3, tu vi 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3

Sang tháng 3 vận đào hoa nở rộ, nếu không tiết chế cảm xúc bản thân, e rằng những con giáp dưới đây sẽ “vượt rào” hoặc vướng vào chuyện tình cảm tay ba siêu rắc rối.

1. Người tuổi Thìn

Là một trong những con giáp có chỉ số đào hoa mạnh nhất trong tháng 3, tỷ lệ người tuổi Thìn “vượt rào” hay vướng vào chuyện tình cảm rắc rối rất cao.

Dù tình yêu của hai bạn vừa mới “đơm hoa” nhưng lại dễ dàng “kết trái” bởi sự thúc giục từ phía hai trái tim đang dạt dào cảm xúc yêu đương. Vì thế, tỷ lệ “vượt rào” là rất cao nếu như cả hai không tiết chế tốt cảm xúc.

Với các cặp vợ chồng kết hôn đã lâu, vận đào hoa vượng có thể mang tới các mối quan hệ phức tạp. Đặc biệt là nam giới, chỉ cần một phút nông nổi là vướng ngay vào cuộc tình tay ba vụng trộm. Nếu có danh sách về con giáp ngoại tình trong tháng 3, không thể thiếu người tuổi Thìn.

Chi-dich-danh-nhung-con-giap-de-vuot-rao-trong-thang-3
2. Người tuổi Mùi

Vận đào hoa của người tuổi Mùi trong tháng 3 có thể chia thành hai giai đoạn chính. Đầu tháng, vận thế tình duyên khởi sắc như vũ bão, các mối nhân duyên đến dồn dập; cuối tháng vận đào hoa giảm dần, thậm chí còn phạm đào hoa sát.

Những cặp vợ chồng mới cưới cần dành nhiều thời gian quan tâm tới nửa kia của mình nhiều hơn. Sự bất đồng về quan điểm, lối sống khiến hai bên nảy sinh mâu thuẫn. Đối phương càng “có cớ” để tìm kiếm chỗ dựa tinh thần mới, thậm chí là ngoại tình. 

Nếu đang mang thai, nữ giới tuổi Mùi cũng cần “quản chặt” ông xã của mình. Không phải bằng cách kè kè, soi xét cả ngày mà hãy khéo léo, chăm sóc chu đáo và chia sẻ nhiều hơn với chồng, tránh tình trạng “vượt rào” bên ngoài để thỏa mãn nhu cầu về sinh lý.

3. Người tuổi Mão

Vận thế tổng quan trong tháng 3 của người tuổi Mão vô cùng hưng vượng, cả sự nghiệp và tình duyên đều thuận buồm xuôi gió, thế như “nắng hạn gặp mưa rào”. Nhưng đừng vì thế mà con giáp này có thể làm càn, nghĩ và hành động một cách cao ngạo, bất cần, bất chấp hậu quả.

Các cặp đôi mới chớm yêu nên dành nhiều thời gian để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn. Nóng vội khiến hai bạn dễ “vượt rào”, thậm chí để lại hậu quả đáng tiếc.

Người đã lập gia đình cần thận trọng trước những lời đề nghị, hành động khiêu khích hay ve vãn của đối tượng khác giới. Trong mọi trường hợp, hãy đặt hạnh phúc gia đình lên trên hết, bạn sẽ có động lực để vượt qua tất cả cám dỗ trong cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ đích danh những con giáp dễ “vượt rào” trong tháng 3 - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Thủy

Người tuổi Tỵ mệnh Thủy là người sinh năm Quý Tỵ 1953, 2013...
Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


phong thuy cuoc song
 
Đây là người có tính cách mạnh mẽ, có năng lực quản lý tài chính. Sự thông minh, lanh lợi cùng tính kiên trì giúp họ luôn giữ vững mục tiêu trong công việc và cuộc sống. Với tầm nhìn xa trông rộng, họ biết gạt bỏ lợi ích trước mắt để hướng tới lợi ích lâu dài.

Đa số Người tuổi Tỵ mệnh Thủy sống rất thực tế. Đôi khi, khát khao theo đuổi lợi ích vô cùng mãnh liệt ở họ khiến những người xung quanh có cảm giác sợ hãi. Bề ngoài, có khi họ tỏ ra thờ ơ với mọi việc nhưng thực tế thì ngược lại, họ luôn quan sát, nắm bắt mọi việc một cách tỉ mỉ.

Người tuổi Tỵ mệnh Thủy có cuộc sống khá sung túc nhờ cách chi tiêu hợp lý và biết tích lũy tiền bạc. Đến tuổi trung niên, một số người có thể gặp khó khăn, tuy nhiên không phải là họ không đạt được những thành công đáng kể trong sự nghiệp. Nữ giới tuổi Tỵ mệnh Thủy khi về già thường được an nhàn, hạnh phúc.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Tỵ mệnh Thủy

Một vài Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa

Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.
Một vài Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hương lộc: Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

Xông nhà: Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.

Toan Ánh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một vài Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa

Tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? –

Có rất nhiều người thắc mắc ngấn cổ nói lên điều gì? Bởi có rất nhiều người xem ngấn cổ tay, hay nét mặt... có thể biết vận mệnh, tương lai của một người. Vậy nên họ tò mò liệu ngấn cổ có ý nghĩa gì? Hay tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? Trong n
Tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd