Đức Phật nói với các Tỳ Kheo, người làm việc thiện nhưng mang tâm không sạch, mưu cầu cá nhân thì không thể coi là bố thí. Dưới đây là 18 loại bố thí không
Đức Phật nói với các Tỳ Kheo, người làm việc thiện nhưng mang tâm không sạch, mưu cầu cá nhân thì không thể coi là bố thí. Dưới đây là18 loại bố thí không sạch sẽ làm vẩn đục công đức chúng Phật tử.
=> Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
Phuong Xuyen Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Cận cảnh vẻ đẹp "thật sự" của người phụ nữ dưới thời Võ Tắc Thiên
Cùng hiểu hơn về trang phục và cách làm đẹp của những phụ nữ thời nhà Đường. Thời Đường (618-907) là một trong những triều đại tốn nhiều giấy mực nhất của các nhà sử học. Trong đó phải kể đến sự lên ngôi của nữ vương duy nhất trong lịch sử Trung Quốc - hoàng đế Võ Tắc Thiên.
Hình tượng tuyệt sắc thiên hương của bà được xây dựng thông qua nhiều bộ phim cổ trang và gần đây nhất là “Võ Tắc Thiên truyền kỳ”. Hẳn khi xem phim, nhiều người không khỏi thắc mắc về hình ảnh thực sự của người phụ nữ dưới thời nhà Đường. Không ít người cho rằng, phụ nữ thời nhà Đường mang dáng vẻ thanh mảnh, nét mặt thanh tú nhưng sự thật lại hoàn toàn trái ngược. Vào thời Đường, phụ nữ được cho là đẹp, hấp dẫn thì phải tròn trịa, mập mạp. Ta nhận thấy điều này phần nào thông qua những bức tranh miêu tả lại hình ảnh của Dương Quý Phi - với khuôn mặt tròn trịa và nước da trắng.
Hình tượng Võ Tắc Thiên qua tranh vẽ. Hay như cả Võ Tắc Thiên, theo sử sách ghi lại thì Võ Chiếu (tên thật của Võ Mị Nương) từ nhỏ “mặt vuông trán rộng, béo phục phịch, đôi mắt phụng dài, có tướng đế vương”. Miêu tả này khác hẳn với hình tượng thiếu nữ mặt trái xoan với đôi mắt bồ câu thường thấy trên phim ảnh. Cách trang điểm thời nhà Đường. Bên cạnh đó, triều đại nhà Đường được sử sách ghi lại là thời kì hoàng kim với nền văn hóa và kinh tế phát triển mạnh. Đặc biệt, phần trang phục và phong cách trang điểm của nữ giới đã có một sự thay đổi lớn. Phong cách trang điểm thời Đường nổi bật với sự bùng nổ của màu sắc. Có thể nói, đây là thời đại duy nhất mà người phụ nữ lại trang điểm với màu sắc sống động như vậy. Phụ nữ thời Đường thịnh kiểu trang điểm “trán vàng” và “lông mày xanh”. Cụ thể, họ phủ một loại phấn vàng lên vùng trán và đặc biệt chú ý đến việc vẽ lông mày
Bên cạnh đó, các cô nương còn vẽ một biểu tượng hình hoa giữa trán. Biểu tượng này thường được vẽ bằng hạt cây hoa trà dầu hoặc lá vàng cùng một số nguyên liệu khác. Hình vẽ cũng có nhiều loại: loại đơn giản nhất chỉ là một chấm tròn. Phức tạp hơn có hình đôi cánh hoặc hoa đơn giản. Hình bông hoa phức tạp thì sẽ được làm sẵn và sau đó dính vào giữa lông mày để tôn lên vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ quý tộc.
Quá trình trang điểm của phụ nữ lúc bấy giờ cũng khá phức tạp. Bên cạnh những bước cơ bản như phấn nền, son và bột vàng, lông mày được tô xanh theo các kiểu đa dạng và họ đặc biệt vẽ cả “má lúm đồng tiền”. Má lúm này thường được vẽ hai bên khóe miệng và về phần dưới của má thì sẽ được đánh má hồng.
Tóc của nữ nhân thời Đường được bới lên cao dạng mũ đội đầu. Búi tóc thường là búi lớn với nhiều kiểu như búi mây, búi đôi, búi hình hoa... Để phần búi tóc thêm quý phái, phụ nữ thời Đường sử dụng thêm những chiếc trâm cài được chế khắc tinh xảo hoặc các cụm hoa. Tóc hai bên có thể có phần rủ xuống che tai, còn phần trên búi gọn gàng. Trang phục truyền thống các thời đại trước thường kín đáo. Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta quên nhắc đến phần trang phục của những phụ nữ thời Đường. Mặc dù vẫn tiếp nối lối ăn mặc của các triều đại trước như đời nhà Hán (206TCN - 220) và đời nhà Tùy (581-618) có phần kín đáo nhưng thời trang đời nhà Đường có sự thay đổi rõ nét hơn. Hình ảnh trang phục thời nhà Đường. Nếu như trước thời Đường, phụ nữ Trung Quốc bị hạn chế bởi các quy tắc trong đạo Nho - họ không có thứ hạng cao trong xã hội và quần áo mặc trên người phải kín đáo, giữ nét đoan trang thì đến thời nhà Đường, những bộ trang phục dần trở nên rộng rãi và thướt tha hơn.
Trang phục cổ truyền của Trung Quốc - Hanfu được phát triển từ thời nhà Thương với phần áo liền, tay áo hẹp và đai lưng qua các thời đại dù thay đổi nhưng vẫn luôn giữ nét kín đáo của nhiều lớp áo, váy chùm dài, bó chặt. Trong khi phụ nữ thời nhà Đường đã chọn cho mình chiếc áo có cổ áo rộng hơn, váy dài nhưng được làm nhẹ nhàng và thướt tha hơn, mang lại vẻ đẹp thoáng hơn so với các triều đại trước. Đai lưng cũng được biến đổi nâng lên phía trên ngực, biến thành váy không có đai, nhằm nhấn mạnh hình thể tròn trịa của người con gái - xu hướng được ưa thích thời bấy giờ.
Chất liệu của trang phục cũng đặc biệt tốt và tinh tế. Dựa trên những tiến bộ của công nghệ dệt lụa và kĩ thuật nhuộm, vật liệu dệt may của thời kì này đạt đến sự đa dạng chưa từng có với số lượng và chất lượng tuyệt vời. Những người thuộc tầng lớp cao trong xã hội bấy giờ thường sử dụng lụa hoặc thậm chí lông chim để may trang phục. Trang phục thời Đường cũng có nhiều kiểu dáng khác nhau, thay đổi liên tục và được ví như đỉnh cao của phục trang Trung Hoa.
Trang phục thời kì này của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến trang phục của các nước láng giềng. Nhật Bản đã áp dụng những tinh hoa về màu sắc của bộ váy thời Đường vào bộ Kimono của mình. Tương tự, trang phục truyền thống của Hàn Quốc - bộ Hanbok cũng “vay mượn” những nét đẹp của các bộ váy nhà Đường về cho mình như áo khoác ngắn phía ngoài hay đai lưng tiêu giản.
Có thể nói, phong cách ăn mặc và trang điểm của phụ nữ thời Đường đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử Trung Quốc với sự đa dạng về màu sắc và phong phú về kiểu dáng. Điều này phần nào thể hiện sự phát triển của thời đại này trên các mặt khác như kinh tế, văn hóa, xã hội. Có thể nói, hình tượng Võ Tắc Thiên được xây dựng trong phim ảnh không hề là hư cấu hay được “tâng bốc” quá tay bởi các đạo diễn mà đã phản ánh được một cách khá chính xác vẻ đẹp của phụ nữ thời kì vàng son này. Nguồn: TrationalCutural, Chia.org Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Cách xem tướng. Nốt ruồi trên bầu ngực phụ nữ là nốt ruồi “phú quý”, giàu có, sang trọng, công danh, sự nghiệp cho tới gia đình, con cái,… thành đạt. Theo quan điểm nhân tướng học, nốt ruồi ở trước ngực của phụ nữ có thể chia làm 4 trường hợp. Tướng
Theo tích xưa, thần Tài vì uống rượu say mà rơi xuống trần, sau tỉnh lại, bay về trời vào đúng ngày 10 tháng Giêng âm lịch. Để tưởng nhớ, người ta chọn ngày này là ngày vía Thần Tài. Hầu như hiện nay nhà nào cũng thờ thần Tài, có ban thần Tài rất khang trang. Nhưng muốn được lộc của thần thì vào ngày vía thần Tài phải tuân thủ đúng quy tắc phong thủy. Vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch, mua 1 bình hoa, 1 con tôm, 1 con cá quả nướng, 1 con cua, 1 miếng thịt lợn quay, 1 bộ giấy tiền vàng mã, 1 đĩa hoa quả, chum rượu, để cúng lấy vía thần Tài, cầu xin cho năm mới làm ăn phát đạt. Khi sắp lễ phải sắp gọn gàng, bày biện theo lớp trước sau và đồ cùng món nào cũng phải ăn trước một miếng. Dân gian truyền miệng thần Tài rất thích món Cua biển và heo quay, chuối chín vàng. Cúng thần ngoài việc cầu xin cho tiền tài thuận lợi, nhiều lộc thì còn là một hình thức để trả lễ sau một năm được thần phù hộ cho công việc làm ăn buôn bán. Trả lễ cho những những điều đã xin thần từ năm trước. Ngoài ngày vía chính của Thần Tài, mọi người vẫn chọn ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng để cúng, cầu xin cho may mắn về tài lộc trong tháng đó, nên trở thành thông lệ. Thậm chí, khi công việc thuận lợi, gặp vận may bất ngờ về tiền bạc người ta cũng biện lễ cúng thần Tài vì đã ban lộc. Thường ngày nên thắp hương mỗi sáng từ 6 – 7 giờ và chiều tối từ 6 - 7 giờ, mỗi lần thắp 5 nén. Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và để thờ nải chuối chín vàng. Hàng tháng phải lau bàn thờ, tắm cho thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác. ST
Đền Lý Bát Đếnằm tại xóm Thượng, làng Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây hàng năm sẽ tổ chức một lễ hội hoành tráng kéo dài 3 ngày bắt đầu từ ngày 14-16 tháng 3 âm lịch. Tuy ngôi đền này không có phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ nhưng lại lưu lại nhiều nét văn hóa cổ kính, độc đáo.
Đền Lý Bát Đế hay còn có tên gọi khác là Đền Đô hay Cổ Pháp điện là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý:
Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009 – 1028).
Lý Thái Tông (1028 – 1054).
Lý Thánh Tông (1054-1072).
Lý Nhân Tông (1072-1128).
Lý Thần Tông (1128-1138).
Lý Anh Tông (1138-1175).
Lý Cao Tông (1175-1210).
Lý Huệ Tông (1210-1224).
Đền nằm cách thủ đô Hà Nội gần 20 km về phía Bắc, thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nên còn gọi là đền Cổ Pháp (Cổ Pháp Điện). Năm 1991, Đền Lý Bát Đế công nhận là di tích lịch sử – văn hóa.
Thủy đình – Đền Lý Bát Đế
Lịch sử đền Lý Bát Đế
Từ xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng “tam cổ”: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp”. Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng Cổ Pháp được cho là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm.
Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng Ba năm Canh Ngọ 1030 bởi Lý Thái Tông khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm thứ hai niên hiệu Hoàng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm 1602), khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, quân Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền. Đến năm 1989, đền đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ.
Kiến trúc đền Lý Bát Đế
Đền Đô rộng 31.250 m², với hơn 20 hạng mục công trình, chia thành: nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện. Chính điện gồm trước tiên là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Sau cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.
Trong nội thành còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có nhà bia, nơi đặt “Cổ Pháp Điện Tạo Bi” (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Khu ngoại thất đền Đô gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền Lý Bát Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc “năm đồng vàng” và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay.
Nhà văn chỉ ba gian chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có công lớn giúp nhà Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng), v.v…
Chiếu Dời Đô tại Đền Lý Bát Đế
Lễ hội Đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009), ban “Chiếu dời đô”. Đây là ngày hội lớn mang tính quốc gia, thu hút hàng vạn khách hành hương thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó còn là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Thế giới tâm linh có sức mạnh lớn không tưởng tới bất cứ một con người nào, nó xoa dịu và hàn gắn nhiều nỗi đau nhưng cũng có thể trở thành sự kìm kẹp, gây bất
Thế giới tâm linh có sức mạnh lớn không tưởng tới bất cứ một con người nào, nó xoa dịu và hàn gắn nhiều nỗi đau nhưng cũng có thể trở thành sự kìm kẹp, gây bất hạnh. Kết hôn với thần linh là một trong những tục lệ viện cớ tôn giáo rất khắc nghiệt ở Ấn Độ.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác
Hình thức hôn nhân kỳ lạ này xuất hiện tại khu vực phía Nam Ấn Độ, theo đó một cô gái trẻ sẽ kết hôn với thần linh trong truyền thuyết hoặc một ngôi đền. Tục lệ devadasi dịch ra có nghĩa là "người phục vụ thần linh". Theo đó, một số bé gái sau khi xem ngày sinh kỹ lưỡng sẽ được cho kết hôn với thần linh trước khi cô bé chào đời. Sau đó những bé gái này phải trở nên thật hấp dẫn, chăm chỉ, thông minh và múa giỏi. Nhiệm vụ của các bé gái này là múa hát vào mỗi sáng và tối cho các vị thần, đổi lại họ sẽ nhận được công quả từ các tín đồ quyên góp trong đền. Ngoài ra các cô gái còn được chào đón tại các đám cưới với hy vọng sẽ mang lại những điều tốt lành cho các cặp đôi mới cưới. Những "devadas" được tôn trọng và có địa vị cao trong xã hội so với những người phụ nữ thông thường. Điều khắc nghiệt của tục lệ kết hôn với thần linh là những cô gái này bị cấm kết hôn, bởi theo quan niệm, tình yêu của họ đã dành hết cho các thần linh hoặc nữ thần. Họ không được phép có quan hệ trai gái và phải sống một mình cho đến khi chết. Những người làm trái quy định, cố tình kết hôn hoặc có quan hệ với nam giới sẽ phải trả giá bằng những hình phạt tàn độc. Các cô gái được chọn từ khi chưa sinh ra và không có quyền từ chối “đặc ân” này. Họ bắt đầu những bài tập luyện nghiêm khắc ngay từ khi còn rất nhỏ và gánh trên vai trách nhiệm phải trở nên hoãn mỹ. Bất cứ một cô gái nào không đủ "tiêu chuẩn" đều bị loại bỏ bằng cách hiến tế cho thần linh như một sự chuộc tội. Đáng buồn hơn nữa là hiện nay, devadasi đã bị vấy bẩn và trở thành một hình thức mại dâm cho những thầy tu và những kẻ lắm tiền nhằm kiếm chác cho các ngôi đền vùng nông thôn. Những cô gái con nhà nghèo hoặc có địa vị thấp sẽ bị bán vào các ngôi đền và giao dịch mại dâm một cách kín đáo. Họ thậm chí còn không dám lên tiếng hay nhờ pháp luật can thiệp bởi rào cản tôn giáo và sự kìm kẹp của tâm linh từ chính phía cộng đồng, gia đình và bản thân.
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)
Trong cuộc sống luôn tồn tại người mạnh mẽ và người yếu đuối trong sự nghiệp và tình cảm. Vậy liệu bạn có phải là con giáp khổ vì tình?
Tuổi Mão
Những người tuổi Mão có trái tim mong manh, sống nội tâm, đồng thời thường có cái nhìn bi quan về sự việc xung quanh, lo sợ bị phản bội. Là con giáp khổ vì tình nên họ không thể chịu bất cứ tổn thương hay sự tác động nào từ bên ngoài, có xu hướng khép kín nội tâm, cố gắng không để người khác có thể tiến vào thế giới của mình. Đường vân và nếp nhăn “tố” tình trạng sức khỏe của bạn – Bỗng nhiên một ngày bạn phát hiện thấy gò má của mình có xuất hiện đốm nâu, chứng tỏ hệ tiêu hóa của bạn đang có vấn đề. Ngoài ra, nó còn Tuổi Sửu
Người mệnh trụ năm Sửu có tính cách trung thực, kiên định, trung thành. Về phương diện tình cảm, con giáp hiền lành này sợ bị phản bội bởi vì trong quan niệm của họ tình cảm không phải là thứ có thể chơi đùa, tình cảm phải luôn thuần khiết không vụ lợi. Bởi vì lẽ đó, người tuổi Sửu thường lựa chọn sự cô đơn thay vì thử yêu người nào đó. Tuổi Tỵ
Bát tự trụ năm Tỵ sở hữu vẻ ngoài mạnh mẽ cứng rắn, tuy nhiên lại là con giáp khổ vì tình khi rơi vào lưới tình, họ có xu hướng phong bế chính mình thay vì giao lưu nhiều với người khác. Để không bị người khác phát hiện và thương hại, họ sẽ giấu kín nội tâm . Điều này được cho là do người tuổi Tỵ có ảo tưởng lãng mạn về tình yêu, khi tình cảm xảy ra vấn đề sẽ là đòn đả kích lớn với họ.
► Bói tình yêu để biết đường nhân duyên của bạn
Bí kíp giúp 12 con giáp tránh xa tiểu nhân quấy pháTop 5 con giáp vương giả trong năm 20173 cô nàng ngoan ngoãn đáng yêu nhất trong 12 con giáp Chi Nguyễn Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Bí ẩn của những điều chiêm bao, bí ẩn của những giấc chiêm bao, bí ẩn của những giấc mơ, giải mã giấc mơ của bạn, đoán điềm giải mộng chiêm bao trong giấc ngủ của bạn mang ý nghĩa gì? Là tốt hay xấu là hung hay cát,....
Các nhà khoa học về thần kinh cho rằng trạng thái ngủ mơ hay còn gọi là chiêm bao của con người trong giấc ngủ có liên quan tới hệ thần kinh và các hành vi trong hoạt động hàng ngày. Theo số liệu thống kê thì có tới 64% các giấc mơ đều có liên quan đến trạng thái lo lắng, tức giận, buồn rầu, chỉ có 18% là vui vẻ, hưng phấn và khoảng 1% liên quan đến bản năng giới tính tự nhiên của con người.
Có rất nhiều nhà tâm lí học nghiên cứu về sự hoạt động của hệ thần kinh con người trong giấc ngủ, để lí giải bí ẩn của những điềm chiêm bao, của những giấc mơ theo khía cạnh khoa học. Dưới đây là những tìm hiểu của chúng tôi về các hiện tượng chiêm bao và giải mã những điềm chiêm bao, những điềm báo khi bạn mơ thấy rắn, mơ thấy người chết hay mơ thấy người thân,…
Điềm báo của giấc mơ thấy bạn đang đứng trên ban công:
Lý giải: Điều này có nghĩa rằng bạn mơ ước được cả thế giới thấy bạn, và phải chú ý tới bạn. Giấc mơ này còn có ý nghĩa là bạn sẽ có được những khoản thu về tài chính lớn trong tương lai.
Điềm báo của giấc mơ bạn đang bị đuổi bắt bởi những kẻ xấu:
Trong giấc mơ, ban luôn cố gắng chạy trốn, đánh lạc hướng những kẻ muốn hại bạn. Điều này thường xảy ra khi bạn phải đối mặt với những lo lắng trong cuộc sống hàng ngày. Bạn gặp nhiều chuyện lo lắng và khiến bạn stress, bạn thường cố gắng tránh mặt hơn là đối diện với nó.
Điềm báo của giấc mơ khi bạn mơ thấy người đã mất từ lâu hoặc mơ thấy người mình yêu mến bị chết
Nếu trong giấc mơ của bạn thấy người chết thì dấu hiệu mang đến là người bạn đang thân thì sẽ gây ảnh hưởng đến bạn và người này không phù hợp với bạn. Nếu bạn mơ về một người đã mất từ lâu có nghĩa là điều này mang tới cho bạn một điềm báo rằng bạn nên chấm dứt một quan hệ hiện tại, nếu không sau này bạn sẽ gặp điều không may. Nếu bạn mơ thấy một người yêu quý chết trong giấc mơ của bạn thì có thể giải mã giấc mơ này là bạn đang thiếu những tính cách mà người này có.
Điềm báo về giấc mơ về cái chết của bạn:
Nếu bạn mơ thấy cái chết của mình thì đây lại là giấc mơ tương đối tốt, đây là dấu hiệu cuộc sống của bạn chuẩn bị rẽ sang một hướng tốt đẹp hơn. Phía trước bạn sẽ có những bước ngoặt quan trọng. Nhưng đó cũng có thể ngầm ý rằng bạn đang có lối sống không tốt hoặc mối quan hệ của bạn với ai đó không tốt.
Điềm báo về mơ thấy người chết đuối:
Bạn mơ thấy mình đang bơi và bỗng nhiên một thế lực nào đó kéo bạn xuống nước, bạn không thể thở và cảm thấy mình như dần dần chết đuối. Lý giải cho điều này có ý nghĩa rằng bạn sẽ bị thất bại, bạn bị chìm trong trang thái đau khổ, hụt hẫng. Nếu bạn mơ thấy mình sống sót qua lần đuối nước đó thì bạn sẽ vượt qua được khó khăn mà bạn đang gặp phải.
Xem bói giấc mơ về bạn gái hay bạn trai cũ:
Kể cả khi bạn đã có người mới những vẫn mơ về người cũ có nghĩa rằng, điềm báo giấc mơ này mang đến rằng người cũ mới là người bạn đời lí tưởng hoặc cũng có thể là bạn đang lặp lại vết xe cũ trong mối quan hệ mới này.
Xem bói giấc mơ thấy minh bị té ngã:
Giấc mơ này mang lại cho bạn điềm báo răng bạn đang chuẩn bị đối mặt với một khó khăn nào đó. Nếu bạn sơ bị vấp ngã thì tức là bạn đang bị mất kiểm soát, bạn sợ bị thất bại.
Nếu bạn mơ thấy đang đánh nhau với ai đó:
Giải mã giấc mơ này: Bạn đang trải qua tình trạng hỗn độn về tinh thần và bạn luôn đấu tranh để đạt được sự công nhận của mọi người.
Giải mã giấc mơ bạn đang bay:
Ý nghĩa của giấc mơ này là bạn đang cảm thấy được tự do bay nhảy, nhưng trong thực tế thì bạn đang bị kiểm soát hoàn toàn.
Giải mã giấc mơ thấy mình đang đánh bạc:
Bạn đang tham gia vào một hoạt động rủi ro nào đó, có thể bạn không chịu trách nhiềm cho hành động của mình. Nếu bạn là người không thích cờ bạc, số đỏ đen thì giấc mơ này có thể hiểu là bạn nên chấp nhận cơ hội mà bạn đang có.
Giải mã giấc mơ bạn đang hôn một người:
Với ý nghĩa nếu bạn đang hôn người mình yêu thì chứng tỏ bạn dành rất nhiều tình cảm và sự quan tâm của mình cho người này. Nếu hôn kẻ thù thì sắp tới bạn có thể bị phản bội và bị thù địch. Còn nếu mơ thấy bạn đang hôn một người lạ mặt thì có nghĩa rằng bạn cần phải hiểu hơn bản thân mình.
Nếu bạn mơ thấy tiền trong giấc mơ của mình:
Điều này có nghĩa mang tới cho bạn một điềm báo về tiền bạc, giấc chiêm bao của bạn có ý nghĩa rằng sự thịnh vượng nằm trong tầm tay của bạn. Tuy nhiên đây cũng có thể là sự tổn thương, bất hạnh tạm thời trong đời bạn.
Xem bói giấc mơ bị bại liệt
Nếu bạn mơ thấy mình bị liệt, bạn đã cố gắng lết đi được không thể được.
Giấc mơ này phản ánh trực tiếp trạng thái ngủ bất động của bạn. Nhưng nó cũng là dấu hiện bạn đang bị tê liệt về tình cảm.
Xem thêm: Điềm báo về hiện tượng hắt xì hơi, nhảy mũi
Các lễ hội ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch - Hội Thôn Thổ Hoàng
Hội Thôn Thổ Hoàng
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: thôn Thổ Hoàng, thị trấn An Thi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Đối tượng suy tôn: Thành hoàng thôn là Bùi Đạo vương Phúc thần đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh bại quân Lương.
Nội dung: Vào ngày này người dân địa phương mở lễ hội với phần lễ vật dùng hương hoa, cỗ chay bánh dầy và phần hội là ca hát và các trò vui, các trò chơi dân gian nhằm tỏ lòng biết ơn đối với Thành hoàng Thôn là Bùi Đạo Vương Phúc Thần đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh bại quân Lương. Lễ hội diễn ra rất long trọng không chỉ thu hút du khách địa phương mà còn thu hút được khá nhiều du khách ở nơi khác đến tham dự.
Hướng về nhà chồng tốt nhất cho cô dâu (xét theo mệnh) –
Mệnh Mộc: nhà nữ hướng Đông, về nhà chồng ở hướng Tây. Mệnh Hỏa: nhà nữ hướng Nam, về nhà chồng ở hướng Tây. Mệnh Thổ: nhà nữ hướng Bắc, về nhà chồng ở hướng Bắc. Mệnh Kim: nhà nữ hướng Đông, về nhà chồng ở hướng Tây. Mệnh Thủy: nhà nữ hướng Nam, về
Quẻ Quan Âm thứ 64 Mã Tiền thúc thủy là quẻ hạ thuộc cung Mão, mọi việc mong cầu không được như ý mà còn phải đề phòng tai họa có thể tới, cần đề phòng
Đây là quẻ Quan Âm thứ 64 được xây dựng trên điển cố: Mã tiền phúc thủy – hay Đổ nước trước ngựa.
Đây là quẻ hạ, thuộc cung Mão. Quẻ này là tượng cá mắc lưới, dù hết sức cố gắng cũng không cách nào thoát thân. Dù ở yên trong nhà cũng vẫn có chuyện xảy đến. Chi bằng tỉnh táo mà phát hiện ra vấn đề, nhanh nhẹn tránh được tai họa khi nó chưa ập tới.
Thử quái ngư tao la võng chi tượng. Phàm sự diệc nghi đề phòng dã.
Điển cố quẻ Quan Âm: Mã tiền phúc thủy
Đời nhà Hán, có một người tên là Chu Mãi Thần (không rõ năm sinh -111 tr. CN), gia đình rất nghèo, phải kiếm củi bán để sinh sống, nhưng anh lại rất thích đọc sách. Thường ngày, sau khi chặt củi xong, trên đường gánh củi về nhà, anh vừa đi đường vừa đọc sách.
Thời gian dần trôi, Chu Mãi Thần và Thôi thị kết thành vợ chồng. Sau khi kết hôn, Thôi thị cũng cùng với Chu Mãi Thần lên núi đốn củi, thấy anh vẫn mải mê đọc sách như ngày trước, nên thường ngăn cản. Nhưng Chu Mãi Thần chỉ coi lời của Thôi thị như gió thoảng qua tai. Người vợ cảm thấy chung sống với Chu Mãi Thần thật đáng xấu hổ, nên xin Chu Mãi Thần cho mình ly hôn. Chu Mãi Thần cười mà nói: “Đến năm mươi tuổi nhất định ta sẽ trở nên giàu có, nay đã hơn bốn mươi tuổi rồi. Những ngày khổ cực sắp qua, nàng cùng ta khố cực đã lâu, hãy chờ thêm chút nữa, đợi ta được phú quý rồi thì nàng sẽ được sống những tháng ngày vui vẻ!” Thôi thị nghe vậy, rất tức giận, cười giễu cợt rằng: “Người như anh thì sớm muộn gì cũng chết ở nơi cống rãnh, làm sao mà có được phú quý vinh hoa gì?”
Một hôm, trời rất lạnh, lại xuất hiện một trận tuyết lớn, Thôi thị vẫn bắt Chu Mãi Thần lên núi đốn củi. Tuy bụng đói, nhưng Chu Mãi Thần cũng không nói gì. Chu Mãi Thần bước chân ra cửa trước, thì Thôi thị cũng đi ra cửa sau. Thì ra Thôi thị đã nhờ bà mối tìm cho mình một người chồng mới là gã thợ mộc họ Trương giàu có, nên thừa lúc Chu Mãi Thần lên núi đốn củi, đã đi ra ngoài cùng bà mối và gã thợ mộc họ Trương bàn bạc làm thế nào để bỏ được Chu Mãi Thần, tái giá với họ Trương.
Chu Mãi Thần hái củi trở về, vừa bước vào nhà, Thôi thị đã thúc giục viết đơn ly hôn. Chu Mãi Thần chỉ biết cầu xin vợ hãy cho mình chút thời gian, đợi khi thi cử đỗ đạt, sẽ có được cuộc sống tốt hơn. Nhưng Thôi thị vẫn khăng khăng rằng, cho dù sau này Chu Mãi Thần có làm quan lớn giàu sang, mình dù có đi ăn xin cũng không thèm đi tìm Chu Mã Thần. Chu Mãi Thần thấy cô ta vô tình đến vậy, chỉ còn cách nuốt lệ viết giấy ly hôn.
Những tháng ngày sau đó, cuộc sống của Chu Mãi Thần càng thêm khổ sờ. Đến khoảng tháng ba, Chu Mãi Thần đang gánh củi qua nghĩa địa, vừa đi vừa hát, tình cờ gặp Thôi thị cùng với chồng đi tảo mộ. Thôi thị thấy Chu Mãi Thần vừa đói vừa rét trông rất thảm hại, liền gọi Chu Mãi Thần đến nhà, nấu cơm cho ăn.
Lại mấy năm nữa trôi qua, Chu Mãi Thần đi theo quan Thượng kế lại, hộ tống xe hành lý đến Trường An. Chu Mãi Thần gặp người đồng hương là Nghiêm Trợ. Nghiêm Trợ vốn rất tán thưởng tài năng của Chu Mãi Thần, bèn tiến cử Chu Mãi Thần với hoàng đế. Sau đó, Chu Mãi Thần được nhậm chức Thái thú ở Cối Kê.
Trên đường đi nhậm chức, ngang qua đất Ngô, Chu Mãi Thần bất ngờ gặp lại người vợ khi trước là Thôi thị đang cùng chồng sửa đường, liền dừng xe, lại lệnh cho xe ngựa phía sau chở họ về phủ, sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho hai vợ chồng họ. Thôi thị ở trong phủ Thái thú, trong lòng ngày càng thấy không cam tâm, vì gã thợ mộc làm sao có thể sánh được với Thái thú? Cô ta không thích người chồng hiện tại nữa, mà muốn quay lại với Chu Mãi Thần.
Một hôm, Chu Mãi Thần lên ngựa đang định đi tuần, thì thấy Thôi thị đầu bù tóc rối, hai chân để trần, lao đến trước mặt Chu Mãi Thần, khẩn khoản cầu xin Chu Mãi Thần cho mình được trở về nhà họ Chu. Chu Mãi Thần ngồi trên ngựa, không chút động lòng, chỉ sai người bưng đến một chậu nước sạch, đổ xuống phía trước con ngựa (mã tiền thúc thủy). Rồi nói với Thôi thị rằng, nếu cô ta có thể gom được nước trở về trong chậu, mình sẽ đồng ý cho cô trở về.
Thôi thị nghe vậy, vô cùng hổ thẹn, không biết nói gì, bèn quay người bỏ đi.
Đại học sân khấu Việt Nam đã dàn dựng vở chèo Chu Mãi Thần, bạn có thể xem tại đây.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Ở những bài trước chúng tôi có cập cho các bạn cách xem tướng nốt ruồi, xem tướng khuôn mặt ... Còn hôm nay cũng hướng dẫn các bạn xem tướng nốt ruồi nhưng khác với các bài trước đó chính là xem tướng nốt rồi không tốt cho sức khỏe. Những nốt ruồi nà
Ở những bài trước chúng tôi có cập cho các bạn cách xem tướng nốt ruồi, xem tướng khuôn mặt … Còn hôm nay cũng hướng dẫn các bạn xem tướng nốt ruồi nhưng khác với các bài trước đó chính là xem tướng nốt rồi không tốt cho sức khỏe. Những nốt ruồi này ẩn trong lông mày có nghĩa bạn dễ bị tổn thương ở tay; nốt ruồi ở đầu mũi có nghĩa bạn hay gặp vấn đề về tiêu hóa. Còn nhiều nốt ruồi xấu ở chỗ khác nữa ma chúng ta cần lưu tâm để chú ý tới sức khỏe của mình hơn.
Nội dung
1 Tướng nốt ruồi không tốt cho sức khỏe
1.1 Giữa trán
1.2 Mắt
1.2.1 Ở trong mắt
1.2.2 Lông mi
1.2.3 Đuôi mắt
1.3 Mũi
1.3.1 Sơn căn: (gốc mũi nằm giữa hai mắt)
1.3.2 Sống mũi
1.3.3 Đầu mũi
1.3.4 Cánh mũi
1.4 Môi
1.5 Cằm
Tướng nốt ruồi không tốt cho sức khỏe
Giữa trán
Nốt ruồi ở trên trán tuy rất tốt với sự nghiệp, vận mệnh, nhưng lại gây hại cho sức khỏe. Ngoài ra nếu ấn đường (phần nằm giữa hai đầu lông mày) có nốt ruồi thì dễ mắc bệnh đường hô hấp; nốt ruồi ẩn trong lông mày thì dễ bị tổn thương ở tay.
Mắt
Ở trong mắt
Ai có nốt ruồi ở trong mắt thì thận dễ có vấn đề, chuyện chăn gối cũng không hòa hợp. Người như vậy rất xui xẻo, vận khí không tốt, dễ gặp hỏa hoạn, thiên tai, cần phải cẩn thận.
Lông mi
Nếu có nốt ruồi ở ngay sát hoặc giữa hàng lông mi thì rất có hại cho sức khỏe, đặc biệt đối với các bạn nữ, dễ mắc bệnh phụ khoa, gặp nhiều phiền não; là nam thì dễ gặp các vấn đề về thận, đặc biệt là ở tuổi trung niên.
Đuôi mắt
Khu vực ở đuôi mắt còn được gọi là cung Phu Thê. Nếu khu vực này có nốt ruồi, đặc biệt là nốt ruồi thịt, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình cảm vợ chồng, chuyện chăn gối hạn chế; là nữ thì dễ lãnh cảm. Ngoài ra, nếu đuôi lông mày có nốt ruồi thì khi đi chơi xa, đi du lịch phải hết sức cẩn thận, vì nốt ruồi ở vị trí này có nghĩa bạn dễ bị tai nạn khi đi du lịch.
Mũi
Sơn căn: (gốc mũi nằm giữa hai mắt)
Nếu xuất hiện nốt ruồi ở đây, là nữ thì mệnh chồng không tốt, dễ tái hôn, phổi dễ gặp vấn đề, chức năng tiêu hóa kém; chồng của họ cũng dễ mắc bệnh gan.
Sống mũi
Sống mũi đại diện cho sự nghiệp, nếu vị trí này có nốt ruồi thì trong sự nghiệp có thể gặp trở ngại, khó phát triển. Về sức khỏe thì gan mật không tốt, dễ ảnh hưởng đến thanh quản, cổ họng. Nếu là XX, họ có thể cản trợ cho sự nghiệp của chồng.
Đầu mũi
Có nốt ruồi ở đầu mũi thì sẽ gặp vấn đề về đường tiêu hóa.
Cánh mũi
Nếu là nam thì phải để ý đến vùng thắt lưng, gan dễ gặp bệnh.
Môi
Là nam có nốt ruồi ở trên môi, bất kể là môi dưới hay môi trên nhưng nếu không phải ở viền môi thì là người háo sắc, dễ gặp các bệnh liên quan tim mạch.
Dưới môi dưới có nốt ruồi, thì dễ gặp bệnh liên quan đến ăn uống như ngộ độc. Nếu nốt ruồi đậm và đen thì càng phải để ý đường tiêu hóa, chế độ ăn uống.
Cằm
Những người có nốt ruồi mọc ở ngay giữa cằm, thì hay phải thay đổi nơi làm việc, thường phải di chuyển nhiều nơi, hay phải chuyển nhà, cần phải nhanh chóng thích ứng với môi trường. Họ cũng thường gặp bệnh về tim mạch.
Muốn thi cử đỗ đạt cao, ngoài việc dựa vào lực học của mỗi người, các yếu tố phong thủy cũng có tác động không nhỏ tới sự thành bại đó. Trong khi các em đang tập trung phấn đấu cho kì thi đại học – bước ngoặt lớn của cuộc đời, ngoài việc chăm sóc sức khỏe, các bậc phụ huynh nên chủ động tìm hiểu những bí quyết phong thủy để giúp con cái học hành tiến bộ và thi cử đỗ đạt. Trước tiên, cần chú ý đến vị trí Văn Xương tinh, đây là sao đại diện cho việc học hành khoa cử của con cái trong gia đình. Đối với những sĩ tử sắp thi đại học, nên thiết kế hoặc cải tạo phòng ngủ hoặc kê giường vào vị trí ngôi sao này chiếu rọi để tăng vận học hành, trẻ vừa học hành chăm chỉ lại có sức khỏe và tâm lí tốt. Vị trí Văn Xương tinh không thay đổi và liên quan chặt chẽ đến ngày tháng năm sinh của mỗi người. Tuy nhiên, nó sẽ biến đổi theo từng năm dựa vào sự biến hóa và luân chuyển của phong thủy Cửu cung phi tinh. Nếu kê bàn học vào đúng vị trí áng ngữ của Văn Xương tinh sẽ giúp con cái tăng cường trí lực, tập trung tinh thần để học tập và tạo bước đột phá quan trọng.
Đặt tháp Văn Xương trên bàn học để thúc đẩy thi cử đỗ đạt
Tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương ở vị trí Thanh Long (bên trái) để giúp con học hành tiến bộ, thi cử đạt điểm cao. Đây là ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía Nam của Hồng Kông và là biểu tượng cho đường khoa cử đỗ đạt, thăng quan tiến chức trong sự nghiệp. Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma, đồng thời cũng rất hữu dụng cho những ai sắp phải trải qua thì ki quan trọng hoặc người muốn cầu danh lợi.Bên cạnh đó, nên kê bàn học ở vị trí trái có Thanh Long, phải có Bạch Hổ. Phía bên trái bày các dụng cụ học tập, bên phải là vị trí cần sự tĩnh lặng thì có thể đặt những chậu cây phong thủy như xương rồng, vạn niên thanh…với kích cỡ vừa phải để hóa giải những điều xui xẻo. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Tính cách người tuổi Tị nhóm máu O: khéo léo, chín chắn
Người tuổi Tị nhóm máu O khéo léo, không mất lòng ai nhưng lại không có nhiều tri kỉ. Tại sao vậy, theo dõi để biết rõ hơn về tính cách người tuổi Tị nhóm này
Người tuổi Tị nhóm máu O sống khéo léo, hiếm khi làm mất lòng ai nhưng lại không có nhiều bạn bè tri kỉ. Tại sao lại như vậy, cùng theo dõi để biết rõ hơn về tính cách người tuổi Tị nhóm này nhé.
Tính cách đặc trưng của người tuổi Tị nhóm máu O
Người tuổi Tị nhóm máu O khá chín chắn, trưởng thành, họ khéo léo và biết cách đối nhân xử thế, vừa lịch sự mà vừa chu đáo, tuy nhiên không phải là người dễ gần. Họ thông minh cơ trí, song hay nghi kị, không tin bất cứ ai, không tin bất cứ việc gì. Họ hiếm khi để lộ bản thân, không bộc lộ cảm xúc thực sự của mình, ngay cả năng lực thực sự của họ cũng không có nhiều người biết, tạo cảm giác bí ẩn khó lường.Đây là người có cá tính, mạnh mẽ, có thể nhẫn nhịn để đạt đến thành công, nếm mật nằm gai để gây dựng cơ đồ. Họ luôn muốn trở thành người có địa vị trong xã hội, nhưng ngoài mặt không bao giờ thể hiện ra điều đó. Người này có lòng tự trọng rất cao, lòng đố kị cũng không vừa, họ hiếm khi thấy phục khi bị thua, luôn muốn phục thù, giành cho mình vị trí đầu tiên.
Họ cũng là người ham hư vinh, họ luôn muốn mình là người dẫn đầu, dù đối thủ là bạn bè hay đồng nghiệp thì cũng vậy, họ không chịu được khi thấy người khác vượt lên trên mình. Thấy người khác giỏi hơn mình, họ hậm hực trong lòng, tìm đủ mọi cách, dù là hạ tiện để vượt lên, song thông minh nên biết cách xóa dấu vết. Tuy nhiên, tính cách như vậy nên họ chẳng có mấy người tri kỉ, dễ phải chịu cảnh cô đơn. Người tuổi Tị nhóm máu O có tính chiếm hữu rất cao, đặc biệt là trong tình yêu. Nếu đã đem lòng yêu người, họ sẽ nghĩ trăm phương nghìn kế để theo đuổi bằng được. Sau khi kết hôn, họ cũng tuyệt đối không để người kia lọt khỏi mắt mình mà phải luôn trong tầm kiểm soát. Nếu có kẻ thứ ba chen chân vào giữa cuộc tình, họ sẽ hận thù ngút trời, quyết không đội trời chung.
Bạn có biết Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân không?Tính cách người tuổi Tị nhóm này rất quyết đoán và mạnh mẽ, cũng rất chung thủy. Họ hay nghi ngờ, có lúc hoàn toàn không tin tưởng vào đối phương mà dùng đến những cách hạ tiện như theo dõi hay nghe lén để kiểm soát đối phương, khiến cho người kia bị tổn thương khá nặng nề về tâm lý, mà bản thân họ cũng không vui vẻ thoải mái gì.
Ưu điểm người tuổi Tị nhóm máu O
Người này khá khéo léo trong chuyện cư xử, giao tiếp. Tính cách chín chắn trưởng thành, họ có tiếng là người lịch sự, lại rất mực chu đáo. Song không phải họ không có cá tính mà ngược lại đây là người rất mạnh mẽ kiên cường, không dễ dàng khuất phục trước khó khắn, dám chịu mọi gian khổ để có thể thành công.
Tuy ngoài mặt không thể hiện khao khát hay tham vọng gì, song trong thâm tâm bạn sớm đã xác định được mục tiêu cho mình, quyết tâm san bằng tất cả để có thể có được điều mình muốn. Bạn không dễ dàng chịu thua, không chịu bỏ cuộc, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn cố gắng thể hiện bản thân hết sức có thể, giành chiến thắng dù chỉ còn một tia hy vọng cuối cùng.Khi không cần đua tranh với đời, với người, bạn khá hiền lành, lương thiện, không bao giờ có ý định làm hại ai mà còn hết lòng giúp đỡ những người xung quanh.
Nhược điểm người tuổi Tị nhóm máu O
Tuy lịch sự nói chuyện với người nhưng người tuổi Tị nhóm máu O không phải là mẫu người thân thiện. Ở bạn vẫn có điều gì đó xa cách, khó gần. Bạn thông minh nhưng hay nghi kị, không dễ dàng tin tưởng mọi người, lại luôn giấu đi suy nghĩ thật của mình, đem bản thân ngụy trang quá kĩ.Trong tình yêu, bạn cũng thể hiện ham muốn chiếm hữu quá lớn, để đạt được người mình yêu, bạn không ngại dùng mọi thủ đoạn, đôi khi nó khiến cho người kia phải chịu khá nhiều tổn thương. Sau khi kết hôn, bạn cũng yêu cầu đối phương phải tuyệt đối chung thành với mình.Với kẻ thứ ba chen chân vào giữa cuộc tình, người tuổi Tị nhóm máu O sẽ không bao giờ tha thứ, đuổi cùng giết tận, không chịu được cảnh sống chung dưới một bầu trời. Bạn kiểm soát chặt chẽ nửa kia của mình, thậm chí dùng cả cách theo dõi, nghe lén để giữ người ấy bên mình, khiến cho người ấy thấy bí bách trong chính tình yêu của bạn. Nếu không sửa tính này, để cho nhau không gian riêng tư thì sớm muộn cuộc hôn nhân của bạn sẽ bị rạn nứt thảm thương.
Tài lộc người tuổi Tị nhóm máu O
Tính cách người tuổi Tị nhóm này rất mạnh mẽ, không chịu khuất phục, luôn cố gắng hết sức theo đuổi mục tiêu đã định. Họ cũng luôn lên kế hoạch chu đáo cho những việc trong tương lai nên xem tử vi thì tài lộc cả đời tương đối tốt đẹp, vận trình bình ổn, tiền bạc dồi dào.
Trong mắt người khác, họ là những kẻ giàu xổi, “phát tài chỉ sau một đêm”, dựa vào may mắn mà có được tiền tài nhưng kì thực đó điều là những gì họ xứng đáng nhận được. Dù trong kinh doanh hay sự nghiệp, họ thành công đều nhờ tâm lý sống hết mình, không chịu thua, luôn tiến về phía trước, luôn tạo ra động lực để thành công.Tất nhiên, người này cũng được thần May Mắn ở bên, lại có máu dám thách thức cuộc đời, nên họ có được nhiều cơ hội phát tài hơn những người khác. Tuy nhiên, họ không dễ tin tưởng người khác nên thường hành sự một mình, nếu có thể tìm cho mình đối tác đáng tin cậy thì khả năng thành công sẽ cao hơn rất nhiều. VậyNgười tuổi Tị không nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Tình yêu, hôn nhân người tuổi Tị nhóm máu O
Tình yêu
Người tuổi Tị nhóm máu O có ham muốn chiếm hữu cao, điều này thể hiện rất rõ ràng trong tình yêu của họ. Khi đã xác định mục tiêu, biết đâu là người mình trao gửi trái tim thì họ sẽ dùng mọi cách để có được tình cảm của người đó, không từ thủ đoạn nào để có được người trong mộng.Họ khao khát có được tình yêu cháy bỏng, luôn mong muốn đối phương cũng yêu và muốn sở hữu mình như vậy. Họ không chịu được sự phản bội về tình cảm. Người này tính cách cố chấp, đa nghi, ngay cả người mình yêu họ cũng có những khi không hoàn toàn tin tưởng. Họ tìm mọi cách để kiểm soát, không chế đối phương, khiến cho đối phương thấy gò bó và áp lực trong tình yêu với người này.Sự bí ẩn, khó gần tạo cho họ sức hút riêng với người khác giới. Họ là thỏi nam châm quyến rũ những người đã từng tiếp xúc với mình, biết cách đưa đẩy, biết cách tạo cho người kia cảm giác hiếu kì và muốn tìm hiểu thêm. Có thể nói, trong tình yêu, họ là người điều khiển cuộc tình và nắm quyền lực trong tay.
Hôn nhân
Cuộc sống hôn nhân của người tuổi Tị nhóm này khá bình lặng, họ hài lòng với hạnh phúc có được sau bao gian khó. Họ khá kĩ tính trong việc lựa chọn bạn đời nên khi đã kết hôn thì đó là người mà họ nguyện sẽ chung sống suốt cuộc đời này, dù chuyện gì xảy ra cũng không thay đổi.Nhưng có một ngoại lệ có thể khiến cho người tuổi Tị từ bỏ cuộc hôn nhân của mình, đó là sự phản bội. Họ yêu cầu bản thân và đối phương phải tuyệt đối trung thành trong tình cảm, không chấp nhận thay lòng đổi dạ. Nếu phát hiện ra đối phương ngoại tình, họ sẽ có đòn thù để đáp trả cho sự bất trung đó, ly hôn cũng là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên. Với kẻ thứ ba kia, họ thề không đội trời chung, chỉ bỏ qua khi kẻ đó đã phải chịu quả báo thích đáng.Nam giới tuổi Tị nhóm máu O nên chọn một nửa là cô gái tính cách dịu dàng, hiền thục, lạc quan yêu đời và quan tâm đến gia đình, chớ nên theo đuổi người đam mê tự do, tính cách phóng khoáng. Chỉ có người hiền dịu mới có thể dùng sự ấm áp của mình để sưởi ấm tâm hồn lạnh lẽo của người này, khiến cho họ cảm nhận được sự hạnh phúc của gia đình, cũng giúp đỡ chồng thăng tiến trên con đường sự nghiệp.Nữ giới nên chọn chồng là người chín chắn, tính tình trầm ổn, sống lương thiện, chung thủy trong chuyện tình cảm, người như vậy có thể khắc chế những phút điên cuồng của vợ, cùng cuốn hút nữ giới tuổi Tị nhóm máu O bằng sự trưởng thành và trầm tĩnh của mình. Cuộc sống gia đình sẽ êm ấm, hạnh phúc lâu bền.
Lời khuyên dành cho người tuổi Tị nhóm máu O
Hãy nghĩ thoáng ra, đừng quá tạo áp lực cho bản thân, gồng gánh mọi thứ lên đôi vai của mình. Đặt mục tiêu và quyết tâm đạt được mục tiêu là điều rất tốt, nhưng nó không có nghĩa là bạn sẽ làm mọi cách, kể cả đạp lên người khác để tiến lên phía trước. Sống thật với lòng mình, tìm cho mình những người bạn tri kỉ để chia sẻ nỗi lòng, cùng chung lý tưởng để có thêm động lực.Tình yêu là thứ không thể cưỡng ép, bạn giữ được con người nhưng không giữ được trái tim người không thuộc về mình. Hãy cho nhau cơ hội được yêu thương, cũng cho nhau cơ hội được tự do sống cuộc sống của mình, có những khoảng không gian riêng, thời gian riêng cho bản thân. Hy Vũ
Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi TịYêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tỵ
Bạch Dương Bạch Dương thích hưởng thụ ánh nắng mặt trời, đặc biệt là nắng chiều hoàng hôn. Mỗi khi được thảnh thơi tận hưởng ánh hoàng hôn, Bạch Dương lại mong ước điều này sẽ không bao giờ tan biến đi. Kim Ngưu Kim Ngưu thích được ăn ngon, nhất là những món sơn hào hải vị. Việc ăn cơm đối với Kim Ngưu chỉ là hoàn thành cho xong nhiệm vụ, còn khi có cơ hội được đi dự yến tiệc thì đối với Kim Ngưu đúng là “lộc trời ban”, Kim Ngưu sẽ phải từ từ nhấm nháp, thưởng thức từng chút một và mong ước bữa tiệc sẽ chẳng bao giờ tàn. Song Tử Song Tử thường là lưu luyến quá khứ, đặc biệt là bây giờ, khi đã ra trường và đi làm thì Song Tử mong muốn được bé lại, được quay lại trường học, được mặc lên mình bộ đồng phục áo trắng và được vui đùa cùng bạn bè. Song tử mong rằng những ký ức này sẽ không bao giờ mất đi. Cự Giải Cũng giống như Song Tử, Cự Giải cũng lưu luyến quá khứ, nhưng là lưu luyến tình yêu với người cũ, điều này thực sự là khó quên. Cho dù hiện giờ đã có tình mới, nhưng Cự Giải vẫn có cảm giác không an toàn, vẫn sợ mất đi một điều gì đó, thực sự vẫn còn luyến tiếc những kỷ niệm với người cũ kia. Sư Tử Sư Tử thật tình không thích chuyện tình cảm của mình gặp áp lực, Sư Tử luôn mong muốn 2 người phải thẳng thắn với nhau, có thể là chuyện vui, có cả những chuyện buồn. Chính vì vậy, có những chuyện mà khi nói ra lại khiến cho 2 người đau khổ, nên Sư Tử mong muốn quay ngược lại thời gian để mọi chuyện như chưa từng xảy ra. Xử Nữ Chỉ cần được trả tiền thì Xử Nữ sẽ cố gắng làm tốt nhất mọi chuyện có thể, thế nhưng trong chuyện tình cảm Xử Nữ lại không muốn “hết mình”, Xử Nữ sợ rằng tình cảm của mình sẽ nhiều hơn người ta, nếu lỡ chia tay thì mình sẽ là người chịu thiệt.
Thiên Bình Thiên Bình khá thoải mái trong việc mua sắm, và thật chẳng gì thích thú bằng việc các cửa hàng đồng loạt treo biển hạ giá. Thế nhưng, trong năm chỉ có một vài lần như vậy, và khi thời gian này qua đi, Thiên Bình cảm thấy thực sự luyến tiếc. Hổ Cáp Hổ Cáp thường mong rằng các khóa học sẽ không bao giờ kết thúc và Hổ Cáp sẽ không phải rời xa những người bạn của mình, thực chất là tời xa cái người mà Hổ Cáp thầm thương trộm nhớ. Khi chia tay mà chưa nói được lòng mình với người ấy quả thực là một điều vô cùng đáng tiếc. Nhân Mã Nhân Mã thích “đi phượt”, mặc kệ những khó khăn, cho dù chưa cần biết điểm đến nhưng cứ được đi là tâm tình của Nhân Mã sẽ trở nên rất tốt. Nhân Mã thực sự bị cuốn hút bởi phong cảnh bên đường, những chuyến đi giúp Nhân Mã buông bỏ cuộc sống phiền não, xua tan mọi áp lực công việc, và khi phải kết thúc chuyến đi thì Nhân Mã cảm thấy vô cùng tiếc nuối. Ma Kết Ma Kết thích ánh nắng mặt trời ấm áp vì khi trời nắng Ma Kết có thể đi du lịch, thời tiết tốt thì tâm trạng con người cũng tốt lên rất nhiều. Tuy nhiên, thời tiết không phải lúc nào cũng chiều lòng người, sẽ có những ngày mưa khiến cho lòng người u sầu, Ma Kết sẽ phải nói lời tạm biệt ánh nắng một cách miễn cưỡng.
3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bên nhau bền lâu Giữa bộn bề những cuộc tình lãng mạn, say đắm nhưng chẳng mấy chốc lại đường ai nấy đi, 3 cặp đôi hoàng đạo dưới đây bên nhau rất bình lặng, Bảo Bình Bảo Bình thích các cuộc họp, các cuộc thảo luận với bạn bè và hi vọng nó có thể tiếp diễn thường xuyên. Trong các cuộc họp thì Bảo Bình cũng là người thao thao bất tuyệt, chính vì vậy là còn gì buồn hơn khi thời gian họp đã kết thúc.Song Ngư Chẳng bao giờ Song Ngư muốn rời khỏi khôi nhà của mình. Làm việc gì thì Song Ngư cũng muốn làm gần nhà mình, không muốn phải đi xa. Nếu chẳng may phải đi đâu đó một vài ngày thì họ sẽ rất nhớ cha mẹ và quay về ngay khi có thể.
=> Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất
Phương Thùy Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Coi chừng rước xui vào nhà chỉ vì không biết cách sắp xếp tủ giày hợp lý
Đa phần chúng ta đều coi tủ giày như một vật dụng thông thường hay mang tính trưng bày mà không biết rằng nó cũng có ảnh hưởng rất lớn trong phong thủy.
Bất cứ người phụ nữ nào cũng phải có ít nhất là 3 đôi giày và những lúc này, kệ giày hay tủ giày trở thành vật dụng thiết yếu. Tuy nhiên đa phần chúng ta đều coi tủ giày như một vật dụng thông thường hay mang tính trưng bày mà không biết rằng nó cũng có ảnh hưởng rất lớn trong phong thủy.
Đây là những điều cấm kị đối với tủ giày mà đa phần mọi người nên biết để tránh gặp xui xẻo.
1. Không nên chọn tủ giày quá cao
Theo góc độ phong thủy mà nói, tủ giày nên thấp hơn 1/3 chiều cao của căn phòng và không nên cao hơn gia chủ. Số lượng tầng để giày cũng nên từ 5 tầng trở xuống. Số 5 tượng trưng cho Ngũ Hành, lại sự bền vững, an ổn. Nếu nhiều quá sẽ tạo nên sự bấp bênh. Những ai dùng tủ giày quá cao đi đường thường dễ gặp rắc rối như vấp té, trặc chân.
Những ai dùng tủ giày quá cao đi đường thường dễ gặp rắc rối như vấp té, trặc chân. (Ảnh: Internet)
Giày hành Thổ, đại biểu cho "nền tảng". Nền tảng có vững thì sự nghiệp mới phát triển ổn định được. Bởi vậy khi mua kệ giày hay tủ giày, tốt nhất nên lựa chọn loại 5 tầng để đạt được hiệu quả Ngũ Hành cân bằng.
2. Để tủ giày đúng hướng với nghề, không nên di chuyển thường xuyên
Nếu nhà cửa rộng rãi bạn nên chú ý nhiều hơn đến phương hướng để tủ giày. Cần căn cứ vào nghề nghiệp của gia chủ để chọn phương hướng thích hợp hơn.
Nếu gia chủ theo nghiệp văn phòng, viết lách thì nên để tủ giày ở hướng Đông Nam là thích hợp nhất.
Nếu gia chủ làm các công việc phải dựa vào sức lực nhiều như các nghề quân đội, vũ trang hoặc công nhân nên thì đặt ở phương dành cho võ là Tây Bắc. Đặt đúng hướng phù hợp sẽ có lợi hơn cho sự nghiệp rất nhiều.
Ngoài ra cũng nên lưu ý tủ giày nên để yên một chỗ, không nên thay đổi hay di chuyển hàng năm. Di chuyển nhiều sẽ tạo nên sự bấp bênh, bất ổn trong cuộc sống, sự nghiệp và sức khỏe.
3. Mũi giày hướng ra ngoài
Thời nay, có rất nhiều mẫu giày thời trang có mũi rất nhọn. Vì vậy chị em phụ nữ nên lưu ý khi để giày lên kệ, nên hướng mũi giày vào phía trong, không nên để hướng ra ngoài. Nếu không mỗi lần mở cửa tủ, mũi nhọn của giày hướng vào bản thân hình thành thế Hỏa sát, lâu ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, hay ốm đau bệnh tật.
Khi để giày lên kệ, nên hướng mũi giày vào phía trong, không nên để hướng ra ngoài. (Ảnh: Internet)
Lưu ý thêm là khi sắp xếp giày nên để giày mới lên trên, những đôi giày bẩn hay cũ kỹ thì đặt ở dưới cùng.
4. Không nên chọn tủ giày có màu sắc sặc sỡ
Tủ giày hay kệ giày cần phải được che chắn cẩn thận và không nên để lộ quá rõ ràng. Nên chọn tủ giày có màu sắc trang nhã, nhẹ nhàng. Tuyệt đối đừng chọn những chiếc tủ có màu sắc hút mắt mọi người. Nếu ở cạnh tủ giày đặt thêm chậu cây thì không chỉ có tác dụng che giấu tủ giày mà còn giúp gia chủ chiêu thêm nhiều tài lộc.
5. Không nên hướng tủ giày về phía cửa lớn
(Ảnh: Internet)
Tủ giày, kệ giày không nên đặt đối diện với cửa lớn, nếu đặt được ở 2 bên cửa là may mắn nhất. Theo phong thủy "trái có Thanh Long, phải có Bạch Hổ". Thanh Long là vị trí cát tường, thích hợp để những thứ sạch sẽ, xinh đẹp. Còn bên phải là Bạch Hổ, để kệ giày ở đây sẽ giúp ngăn cản sát khí vào nhà, giúp chúng ta đổi xui thành hên.
6. Không nên để những vật phong thủy lên tủ giày
Nếu gia đình thỉnh những vật may mắn hóa giải sát khí trong phong thủy tượng tì hưu hay kỳ lân... về nhà thì nên chọn chỗ thích hợp để đặt. Tuyệt đối không được để lên kệ giày. Điều này sẽ gây phản tác dụng, khiến phong thủy gia đình ngày càng xấu hơn, không chỉ không hóa giải được sát khí mà còn rước họa vào thân.
7. Không nên để tủ giày ở phòng ngủ
Để giày trong phòng ngủ tác động xấu lên cuộc sống hôn nhân của gia chủ.
Nhiều người vì chạy đua theo phong cách Tây hay vì lý do thuận tiện nên để tủ giày trong phong ngủ, đây là điều cấm kị. Giày được dùng để đi ngoài đường nên bản thân nó bị lây dính rất nhiều thứ bẩn, để trong phòng ngủ sẽ ảnh hưởng đến phong thủy. Nghiêm trọng còn gây tác động xấu lên cuộc sống hôn nhân của gia chủ.
Phán đoán hung cát của phương vị theo Phi Tinh mỗi tháng như thế nào? –
Giở lịch vạn niên ra nhìn vào cột tháng âm lịch, đấy chính là cửu tinh. Nếu bạn thấy cửu tinh của tháng Tám Âm lịch viết là Ngũ Hoàng thì đại diện Ngũ Hoàng tinh tháng Tám Âm bay đến Cung Trung. Bạn lấy Ngũ Hoàng tinh nhập Cung Trung sẽ tìm ra vị tr
í cửu tinh phi phục và biết được tháng Tám trong gia đình sẽ xảy ra chuyện gì.
Giả thiết cửa chính của căn nhà ở hướng Nam, đại diện cho tháng Tám Âm lịch, Cửu Tử tinh sẽ bay đến cửa chính của căn nhà. Thế là chúng ta đã căn cứ vào thứ tự của Cửu tinh phi phục định ra được Bàn trạch của Thế vận tinh. Hiện tại đang là Bát vận, cho nên chúng ta lấy bát tự trong Bát vận nhập vào cung Trung. Sau đó , căn cứ vào phương hướng của Bàn trạch Thế vận để tìm ra con số Phi Tinh tọạ sơn hướng thủ, nhập vào cung Trung bay lần nữa. Cuối cùng thêm bàn tinh Phi Tinh lưu niên thì có thể định ra được toàn bộ vị trí Phi Tinh của căn nhà. Sau khi định được vị trí Phi Tinh, chúng ta dễ dàng đoán được tổ hợp Phi Tinh nào sẽ ảnh hưởng đến thành viên nào trong gia đình.
Người sở hữu đôi mắt to, sáng thường có quý nhân phù trợ trong công việc; còn người mắt một mí thường không được trọn vẹn về mặt tình cảm. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thông qua đôi mắt, chúng ta có thể nhìn ra được sự lương thiện hay tàn ác, phẩm cách
Ý nghĩa ngày vãng vong và những điều bạn chưa biết
Ngày vãng vong hay còn được gọi nôm na là ngày “đi mà không về”. Ý nghĩa ngày vãng vong và những điều bạn chưa biết, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây.
Ngày vãng vong hay còn được gọi nôm na là ngày “đi mà không về”. Theo quan niệm của người dân Việt Nam, vào ngày vãng vong mọi người tuyệt đối không nên làm các công việc quan trọng, việc lớn trong cuộc đời và đặc biệt là kỵ xuất hành trong ngày vãng vong. Ý nghĩa ngày vãng vong và những điều bạn chưa biết về phong thủy trong ngày vãng vong, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây.
Xem thêm: Giải mã hiện tượng nháy mắt phải, giật mắt trái
Ý nghĩa ngày vãng vong
Trong lịch vạn niên, khi để ý bạn sẽ thấy trong đó được ghi chú rất đầy đủ về ngày xấu hay ngày tốt, giờ nào xấu giờ nào tốt hay còn được gọi chung là ngày hắc đạo, ngày hoàng đạo. Khi làm bất cứ một việc gì đó, đặc biệt là các công việc quan trọng mọi người đều sẽ xem xem ngày nào tốt, giờ nào tốt để thực hiện nhằm cầu mong mọi sự thuận lợi. Theo quan niệm từ xa xưa, khi làm những công việc quan trọng như cưới xin, ký kết hợp đồng, khai trương động thổ hay xuất hành, tuyệt đối cần tránh xa các ngày vãn vong. Vãng vong hay còn được gọi là Lục Sát, 1 trong 4 hung tinh. Vào ngày này, mọi sự đều gặp trắc trở, trở ngại, khó khăn gây hao tán tiền của, mất mát không thành, khó thành chuyện lớn, thất bại, chết chóc... Theo ý nghĩa ngày vãng vong tức là trăm sự đều cấm kỵ, chúng ta sẽ cùng xác định xem các ngày vãng vong trong các tháng trong năm 2017 sau đây. Hãy tìm hiểu để từ đó tránh không làm việc quan trọng vào ngày này.
Các ngày vãng vong trong năm
+ Vào tháng 1, ngày vãng vong sẽ rơi vào các ngày Dần, ngày dần là ngày nào bạn hãy xem trên tờ lịch vạn niên treo tường + Vào tháng 2, vãng vong rơi vào các ngày Tỵ + Tháng 3, ngày vãng vong là các ngày Thân + Tháng 4, ngày vãng vong là các ngày Hợi + Tháng 5, ngày vãng vong là các ngày Mẹo + Tháng 6, ngày vãng vong là các ngày Ngọ + Tháng 7, ngày vãng vong là các ngày Dậu + Tháng 8, ngày vãng vong là các ngày Tý + Tháng 9, ngày vãng vong là các ngày Thìn + Tháng 10, ngày vãng vong là các ngày Mùi + Tháng 11, ngày vãng vong là các ngày Tuất + Tháng 12, ngày vãng vong là các ngày Sửu
Bên trên là ý nghĩa ngày vãng vong cũng như các ngày vãng vong trong năm, trong tháng mà tất cả mọi người cần phải biết đặc biệt những người muốn làm chuyện đại sự trong năm tới. Nếu bạn đi xin việc, làm nhà, mua nhà, ký kết hợp đồng, cưới xin và ngay cả ma chay người ta cũng cần phải tránh xa ngày vãng vong, cái ngày cực kỳ xấu, cực kỳ không tốt này.
Hãy tham khảo thêm tại Phong thủy số để có thể tránh làm việc quan trọng vào ngày này nhé.
Tử vi người sinh ngày Nhâm Thìn cho thấy tài năng, quyết đoán, không sợ hãi trước quan quyền, tuy nhiên thành đạt muộn. Trụ ngày Nhâm Thìn nên cẩn thận với sắc dục.
Sinh ngày Nhâm Thìn tọa mệnh năng tàng Thương, Sát, Kiếp, là tổ hợp của mệnh chất Thủy Thổ Mộc, hóa giải Nạp âm của Dương Thủy, mệnh tạo Nhân - Trí - Tín, mệnh tư Hoa Cái. Mệnh chủ nên hợp tác với trụ ngày Đinh Dậu, đường đời tất gặp Hợi Thủy. Trụ ngày Nhâm Thìn có sức chịu đựng, chí thú lớn. Nhâm Thủy sinh trên Thìn Thổ, mặc dù vận khí không đi đầu, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến Thìn Thổ. Hơn nữa, trong Thần Thổ tàng cung Mộc Thương, khắc chế năng lượng của Mậu Thổ, vậy nên mệnh chủ luôn không lo lắng, không sợ hãi trước quan quyền, cũng không thuộc dạng dễ sinh sự. Không nên lơ là phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ Cha mẹ nào cũng thương con, vì vậy việc quan tâm đến phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ là điều rất cần thiết, không thể bỏ qua. Mệnh chủ ngày Nhâm Thìn rộng lượng, lương thiện, không ngừng tích đức cho bản thân. Ngoài ra, họ sở hữu nhiều tài năng, trí thông minh hơn người, khả năng quyết đoán, không dễ dàng nhận thua. Đặc điểm tính cách nổi bật của người trụ ngày Nhâm Thìn là thích nghe lời ngon ngoạt, không thích lời lẽ cứng rắn. Người sinh ngày Nhâm Thìn có tài nhưng thành đạt muộn. Họ không nên kinh doanh do có hiện tượng tài đến tài đi, đặc biệt thích hợp làm việc trong các lĩnh vực như: công quyền, giáo viên, luật sư, tài chính. Tuy nhiên, trong công việc dễ gặp tiểu nhân quấy rối nên cần cẩn thận đề phòng.
Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Thìn thấy sự khác biệt trong đường tình duyên của nam nữ. Nam mệnh có hôn nhân ổn định, tuy nhiên cần đề phòng sự tổn hại do sắc dục. Nữ mệnh có vận đào hoa, cẩn thận cám dỗ bên ngoài, đặc biệt là mối quan hệ bạn bè nam nữ, nếu không sẽ dễ dẫn đến việc ngoài ý muốn, không giữ được nữ đức, hôn nhân bị quấy nhiễu.Bát tự trụ ngày Nhâm Thìn thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Thìn, Giáp Dần, Giáp Ngọ, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Tuất, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Canh Tý, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Dậu, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi.
► Xem tử vi hôm nay của bạn được cập nhật liên tục và chính xác nhất
Chi Nguyễn Xem Clip để tìm hiểu về ý nghĩa của câu "Ở hiền gặp lành" Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Khi con người mơ thấy ăn cơm liệu có ý nghĩa gì? Ăn thịt nấu chín là điềm tốt, ăn thịt sống là điềm xấu, ăn thịt những con vật chết sình là điềm chia ly trong gia đình. Nằm mơ thấy được ăn là điềm báo trước của nhiều việc. Ví dụ như mơ thấy ăn cơm ở
Tham Lang là sao dương mộc đới thủy, thuộc hệ bắc đẩu. Chủ về họa phúc và hóa khí là Đào Hoa. Đẩu Số Toàn Thư gọi Tham Lang là:”Bắc Đẩu giải ách chi thần” Khi đến phần bình giải thì Tham Lang lại thành khuôn mặt của con người tửu sắc phiêu đãng. Con người như thế làm sao có thể là giải ách chi thần được? Đời sau tìm tòi mới hay rằng giải ách chi thần ở đây có nghĩa là khả năng đa diện tài hoa khả dĩ làm êm thấm mọi chuyện, nói khác đi là có tài thu xếp, điều giải, ngoại giao. Ngoài ra Tham Lang nếu gặp được những cát tinh khác là số trường thọ, lại ưa học tu luyện thần tiên thì đây cũng kể là mặt khác của giải ách chi thần. Nếu Tham Lang hội với Hỏa Linh Tinh đóng ở Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc đứng cùng Kình Dương ở Ngọ thì lại chủ về quyền thế, tựa vào quyền thế mà phú quí, khi đã quyền thế tất giải quyết được nhiều sự việc đáng kể như một giải ách chi thần vậy. Tham Lang đắc địa nơi mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Ở vượng địa Tí Ngọ Mão Dậu không hay bằng mộ địa. Có giả thuyết khác cho rằng Tham Lang vốn hóa khí Đào Hoa, mà Tí Ngọ Mão Dậu lại là đất của Đào Hoa thì quá mức mà thành không hay. Tham Đào như vậy dễ dâm loạn. Giả thuyết trên hơi quá hóa. Tính chất của Tham Lang có thiên hướng về vật dục, nếu vào vượng địa khuynh hướng ấy nặng hơn, luôn cả về mặt tình dục. Nhưng lời đoán bảo rằng Tử Tham gặp Đào Hoa trai thì trộm đạo, gái làm kỹ nữ không đúng, hãy chỉ coi như con người nặng về tình dục, vật dục thôi. Cổ ca viết:”Tử Tham đồng cung tu Tả Hữu Xương Khúc hiệp chế” (Tử Tham đóng cùng cần có Tả Hữu và Xương Khúc hiệp để chế bớt đi). Hiệp là tam hợp chứ không phải giáp. Tham Lang mộc nhưng căn thủy, dương mộc trôi trên sông nước là hình ảnh phiêu đãng, xông xáo hiếu động nhưng thiếu nhẫn nại. Lúc trẻ cân còn non chưa đủ sức, lớn lên cây già mới thành giường cột, cho nên tuổi thiếu niên thường lãng đãng hào hoa hăm hở vui sống. Lúc đứng tuổi nhiều kinh lịch tâm ý biến đổi hẳn sức phấn đấu cũng bền bỉ mạnh mẽ. Do vậy, Tham Lang ít tham công trong tuổi niên thiếu. Hình thái của người Tham Lang thủ mệnh đắc địa vì là dương mộc nên cao lớn đẫy đà. Tuy nhiên hành động lanh lẹ không chậm rãi như Thiên Đồng hay Tử Phủ. Tham Lang độc tọa ở Tí Ngọ Dần Thân và Tuất Thìn. Tham Lang đứng ở Vũ Khúc ở Sửu Mùi, đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi, đứng với Tử Vi ở Mão Dậu. Trước hết nói về cách Tham Lang đứng với Vũ Khúc ở Sửu và Mùi. Tham Vũ Sửu Mùi là một cách tốt nói nhiều trong Tử Vi khoa. Mệnh Tham Vũ thì tam hợp hội tụ Tử Vi Thất Sát và Liêm Trinh Phá Quân, một tinh hệ với tính chất biến hóa phức tạp, vì có đa số hung tinh nên sức biến hóa càng mãnh liệt. Tham Vũ thủ Mệnh còn có Nhật Nguyệt giáp Mệnh, nếu được cả Tả Hữu Xương Khúc nữa thì cách Tham Vũ đồng hành kể như toàn bích để mà công danh phú quí. Tham Vũ đi với Linh Hỏa cũng hay, nhưng là con người thiếu đức hạnh so với đứng cùng Tà Hữu Xương Khúc. Tham Vũ Linh Hỏa ích kỷ gian tham. Với Hỏa Tinh còn bôn ba bươn chải trong tuổi niên thiếu nhiều hơn, qua cái nghĩa cổ nhân bảo:”Tham Vũ đồng hành bất phát thiếu niên nhân” Tham Lang là Đào Hoa, tính chất đào hoa ấy có thể phát triển thành sảo nghệ như câu phú ghi:”Tham Vũ tứ sinh, tứ mộ cung, Phá Quân Kị Sát bách công thông” (Tham Vũ đóng ở các cung tứ sinh hay tứ mộ mà gặp Phá Quân Kị Sát thì tay làm đủ thứ nghề) Tỉ dụ Tham Vũ Sửu Mùi gặp Kình Dương Đà La không Tả Hữu Xương Khúc hoặc Tham Lang độc thủ ở Thìn Tuất mà không được Tả Hữu Xương Khúc mà gặp Sát Kị thì rất tháo vát trong chuyện mưu sinh. Đóng Dần Thân hay Tỵ Hợi không hội cát tinh mà Thất Sát Kị thì cũng dùng sảo nghệ kiếm tiền. Nói tóm lại, Tham Vũ hay Tham Liêm đồng cung hoặc gặp nhau đều thuộc loại sảo nghệ. Vấn đề nghệ nào còn tùy thuộc kết cấu với các sao khác. Với Xương Khúc là người thiết kế giỏi. Với Đà La tinh thông máy móc. Ngoài ra khả dĩ qua quy xét mà tìm thấy những biến hóa phức tạp khác Ở Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có cả quyết viết những câu:”Tham Nguyệt đồng Sát hội Cơ Lương, tham tái vô yểm tác kinh thương” (Tham Lang cùng Thái Âm hội sát tinh gặp Thiên Cơ Thiên Lương thì tham tiền luôn luôn tính chuyện bán buôn). Cơ Lương Tham Nguyệt đồng sát hội, đa bán kinh thương vô miên thụy (Những sao Cơ Lương Tham Nguyệt gặp sát tinh, suốt ngày đêm tần tảo không muốn nghỉ ngơi)Những câu trên có thể vì tam sao thất bản ra chăng? Trên nguyên tắc các sao ấy chẳng bằng cách gì gặp nhau. Đệ tử của Trần Đoàn là Ngô Cảnh Loan có chú giải những câu tương tự trong bộ sách “Đẩu Số Tử Vi tinh quyết”, tiếc rằng tôi chưa đọc được nó để tìm hiểu. Một cách cuộc đáng suy ngẫm: Tham Lang Mệnh rất kị Thân đóng nơi Thất Sát hay Phá Quân. Như vậy là con người sốc nổi phiêu bạt thăng trầm khó dừng lại mà an định. Cổ nhân viết:Mệnh Tham Lang Thân Thất Sát con trai cử chỉ điếm đàng, con gái phong thái lẳng lơ dù có cát tinh cũng khó lòng giáng phúc, gặp hung tăng càng tăng vẻ gian không chân thực, sống hư hoa, giao thiệp người đáng tốt lại chơi xấu, người xấu lại đối tử tế, bởi vậy mới nói Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập mệnh tất vi sương (Trai mà Thân Thất Sát không thọ, gái mà mệnh Tham Lang tất đĩ thõa) Nếu Thân là Phá Quân thì trai thích bài bạc du đãng, gái bỏ theo trai. Chỉ gặp Tuần hay Triệt thì Tham Lang mới đoan chính mà thôi. Câu trên đây của cổ nhân xét ra có phần quá đáng, không chính xác khi đoán về người Tham Lang Mệnh, mà Thất Sát hay Phá Quân thủ Thân. Những cách cục ấy chỉ có thể bảo rằng con người quá ham muốn vật dục, tình dục lại ưa thay đổi và không có nghị lực để chịu đựng gian khổ mà làm nên việc không nhất thiết là kẻ lừa gạt hay đĩ điếm. Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý: Tham Lang hội sát tinh không nên gặp Văn Khúc, nếu Tham Lang thủ Thân mà Thất Sát thủ Mệnh lại cả Văn Khúc thì cuộc đời thường gặp tai họa bất ngờ. Chẳng chỉ Văn Khúc ngay cả Văn Xương cũng thế. Tham Lang Xương Khúc thường là đa hư thiểu thực nói nhiều làm ít. Tham Lang cũng không hợp với Kình Dương Đà La. Gặp Kình Đà ở Tí hoặc Hợi cung thì thường ra con người phóng đãng lưu lạc trong tình trường. Gặp Kình ở Ngọ cung, cổ nhân gọi bằng:”Mã đầu đới tiễn”, gặp Đà La ở Dần cung cổ nhân gọi bằng:”phong lưu thái trượng”. Ở Tí cung và Hợi cung gọi bằng “Phiếm thủy đào hoa”. Những cách kể trên dễ rơi vào họa sắc tình. Họa sắc tình gồm có: a) tù tội, đổ máu, mất cơ mất nghiệp vì tình hay bệnh tật b)lấy phải vợ quá dữ như kẻ bị cầm tù mà vợ là giám ngục. Cùng các cách trên đây nếu được thêm các cát tinh phù trợ thì chỉ là con người phong hoa tuyết nguyệt, thi tửu cầm kỳ, chứ không đến nỗi tang thân, bại sản vì tình.Tham Lang đứng cùng Hóa Quyền hoặc Hỏa Linh là tốt nhất, chủ quyền qúy. Tham Lang Hóa Lộc được thêm Hỏa Linh thì dễ làm nên giàu có hoạnh phát. Nói tóm lại, sao Tham Lang sự biến hóa giữa tốt và xấu rất rõ ràng và mãnh liệt. Tham Lang đi cùng Không Kiếp hay đam mê bài bạc. Tham Lang đi cùng Đào Hồng đàn bà đam mê vui thú xác thịt. Tham Lang không sợ Tuần Triệt, Tuần Triệt khả dĩ chế giảm bớt vật dục vượng thịnh của Tham Lang. Cần đọc thêm những câu phú về Tham Lang sau đây: - Tham Lang độc cư đa hư thiểu thực(Tham Lang đứng một mình ưa nói viễn vông thiếu thực tế, cũng hay khoác lác nữa. Đứng một mình mà không gặp cát tinh như Hỏa Linh, Khoa Quyền Lộc thì mới kể) - Nữ Mệnh Tham Lang đa tật đố(người nữ có sao Tham Lang thủ Mệnh rất hay ghen, ghen đầu năm trọn tháng chày, bởi sao Tham Lang đóng ở tầy Mệnh cung) - Tham Lang cư Mão Dậu ngộ Hỏa tắc công khanh.(Tham Lang đứng với Tử Vi ở hai cung Mão Dậu, gặp Hỏa Tinh khả dĩ làm lớn, có quyền thế. Khi có Hỏa Tinh thì Tham Lang biến thành chủ tinh lấn át hẳn Tử Vi) - Tham Lang gia cát tọa Tràng Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ(Tham Lang đóng Dần Thân Tỵ Hợi hội với các tinh sống rất thọ) - Tham Lang Thân cung vi hạ cách(chỉ hạ cách nếu bị Hóa Kị đi kèm) - Tham Lang Tỵ Hợi gia sát bất vi đồ hộ diệc tao hình(Tham Lang gặp Sát mà đóng Tỵ Hợi nếu không làm đồ tể thì cũng dễ vương tội tù) - Tham Lang kị ngộ sát tinh, ưu xâm Không Kiếp, vãn niên phúc thọ nan lương toàn(Tham Lang gặp Sát tinh hay Không Kiếp thì luống tuổi nếu khá giả tất không thọ, nghèo khổ mới sống lâu) - Tham Lang Hợi Tí hạnh phùng Quyền vượng biến hư thành thực ư Giáp Kỷ tuế phú danh viên mãn (Tham Lang đóng ở Hợi hay Tí mà được Quyền Lộc biến hư thành thực với người tuổi Giáp Kỷ khả dĩ nên danh phận cơ nghiệp) - Tham cư Đoài Chấn thoát tục vi tăng Kiếp Kị lai xâm trần hoàn đa trái(Mệnh Tử Tham Mão Dậu gặp Hồng Loan, Thiên Không thì đi tu, nhưng hễ đã thấy Hóa Kị, Địa Kiếp xuất hiện thì tu không trọn nghiệp mà phá giới) - Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần thi tâm tình thư thái(Tham Lang đóng nhàn cung (như Hợi Tí hoặc Thân) thường là người đàn bà tâm tính độc, hay tư tình, nhưng nếu đã có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hẳn) - Tham Sát Ngọ Dần kiêm ngộ Hổ, Tang lôi thú nan đề(Tham Lang Thất Sát ở Dần hay Ngọ thủ Mệnh gặp Bạch Hổ Tang Môn phải đề phòng tai nạn sét đánh, hoặc thú vật cắn) - Tham tọa thủy cung, giáp biến tứ sát bần khổ(Tham Lang ở Tí Hợi lại giáp Kình Đà Không Kiếp thì nghèo khổ) - Tham Kị trùng Riêu thủy tai nạn miễn(Tham hãm địa gặp Hóa Kị Thiên Riêu thì dễ bị tai nạn về sông nước) - Tham Lang Vũ Khúc thủ Thân vô cát mệnh phản bất tường(Cung Thân có Tham Vũ mà cung Mệnh xấu thì danh phận ngắn ngủi, dễ gặp hiểm nguy) - Tí Ngọ Tham Đào Ất Kỷ âm nam lập nghiệp do thê, kiêm năng sát diệu hành sự do thê(Mệnh ở Tí Ngọ có Tham Lang Đào Hoa, người tuổi Ất Kỷ nhờ vợ mà nên cơ nghiệp nếu lại thấy cả sát tinh nữa thì quyền hành đều ở trong tay vợ) - Dần Thân nhi hội Tham Liêm ngộ Văn Xương nhập lao Quản Trọng(Tham Lang ở Dần hay Thân thì cung đối chiếu là Liêm Trinh lại thấy cả Văn Xương dễ bị dính vào vòng lao lý) - Tham Đào giải ách nhi ngộ Linh Riêu lãnh hoàn chi bệnh(Đàn ông Tham Đào đóng giải ách gặp Linh Tinh, Thiên Riêu bị lãnh tinh, hiếm con) - Tham Lang Bạch Hổ trùng sinhTuất Thìn số ấy lánh mình sơn lâm(Mệnh có Tham Lang đi cùng Bạch Hổ, người tuổi Thìn Tuất đừng nên ham thú săn bắn, sẽ bị thú vật cắn) - Quan cung Tham Vũ cùng xâmĐừơng mây thủa ấy hải lâm bôn trì(Cung Quan Lộc Tham Vũ cùng đóng, ra làm quan lận đận lao đao) - Tham Riêu hãm địa cùng xâmGia trung thất vận gian lâm trạch tài(Tham Lang Thiên Riêu hãm địa đóng cung Tài Bạch, Điền Trạch thường bị mất trộm hoặc hốt nhiên sụp đổ cơ nghiệp) - Tham Lang miếu vượng chi cungThân hình to lớn là giòng lược thao(Tham Lang đắc địa khổ người to lớn, tháo vát lanh lẹn) - Dần Thân Tham gặp Tràng SinhKhông sao ác sát thọ tinh ấy mà(Tham Lang ở Dần hay Thân là cung của Tràng Sinh tuổi thọ thường cao nếu không bị ác sát tinh) - Tham Đào số nữ thường dâm loạnỞ hãm cung hãy đoán cho tườngTí Ngọ Mão Dậu mấy phươngNếu gặp Tuần Triệt lại phường đoan trinh - Tham Vũ đóng đất Võng La (Thìn Tuất)Gặp loài Tang Điếu một nhà lại hung - Mệnh chính diệu cung Phu Tham đóng "Ấy là người phúc trọng chính thêMệnh vô chính diệu đáng chêCung Phu Tham đóng giữ bề tiểu tinh " Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Đến nay, người ta vẫn chưa xác định được ma quỷ có thật hay chỉ là sản phẩm của nỗi sợ hãi vô hình. Nhưng dân gian vẫn truyền tai nhau những vật trừ tà nên mang theo người để xua đuổi ma quỷ nếu chúng thực sự tồn tại.
► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật
1. Tỏi Trong dân gian, người ta tin rằng tỏi có thể làm giảm tinh khí của linh hồn. Đây là vật trừ tà nên mang theo người rất phổ biến. 2. Máu chó Dân gian truyền tai nhau cách xua đuổi ma quỷ là vẩy máu chó quanh nhà, mùi máu tanh sẽ khiến chúng khiếp sợ không dám xâm phạm. mang máu chó theo người làm vật trừ tà cũng có tác dụng tương tự. 3.Tro PhậtTrong tâm thức người Việt, Phật là thần linh bảo vệ bình an nên vào chùa xin một ít tro bỏ vào túi mang bên mình làm vật trừ tà thì không ma quỷ nào dám tới gần. 4. Đậu xanhĐậu xanh là thứ để các thần tiên trên trời ăn, thấy nó, ma quỷ liên tưởng đến Phật sẽ tự bỏ đi. Hã bỏ vài hạt đỗ xanh vào trong túi khi đi xa, đi đêm hoặc tới đám tang. 5. Bùa ngũ sắcĐây là loại bùa tự làm, thường đeo cho trẻ con để tránh ma quý quở quấy, ngoài ra còn khiến các loại rắn, rết, nhện độc tránh xa. Bùa là một túi vải hình vuông được may bằng chỉ ngũ sắc, trong bỏ hạt mùi, hồng hoàng và các loại quả khô (hồng, na, ớt, khế). 6. Cành dâuCành dâu có tác dụng trừ tà nên các thầy pháp thường dùng nó để làm phép. Xưa, đi đường xa hoặc đi ban đêm thường ngắt một cành dâu gài vào bên người để tránh ma bắt. Ngày nay, để thay thế cho cành dâu, người ta thường đeo vòng dâu tằm cho trẻ nhỏ.ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Tục Khai bút, xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. Chỉ một chữ treo trưốc mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời rao.
Trong văn hóa và thói quen của người Việt, mọi người quan niệm rằng, ngày đầu tiên của năm là ngày quan trọng cho một khởi đầu mới. Những ngày đầu tiêu của năm, nếu mọi việc suôn sẻ, ai nấy vui vẻ thì cả năm sẽ luôn được may mắn.Trong khoảng thời gian đó, mọi người thường tranh thủ làm nhiều việc lấy may cho năm, trong đó, tục chắp bút (hay khai bút) đầu năm luôn luôn được nhân dân ta để ý, nhắc nhở nhau thực hiện, mong cho một năm mới phát tài.
Tục khai bút thường chỉ có giới học giả trong xã hội mới thực hiện. Tục này xưa có ông đồ, thầy đồ, học sĩ, ngày nay có học sinh, giới văn sĩ, thi sĩ, người làm nghề viết. Thường thì sau giao thừa, mọi người sẽ chọn một giờ tốt để làm lễ khai bút. Đây cũng chỉ là một lễ tương trưng, gọi là để bắt đầu sự nghiệp, sự học, sự viết cho một năm mới. Có người chỉ viết lên ngày, tháng đánh dấu việc khai bút, nhưng cũng có người sáng tác cả một tác phẩm đầu năm cho lúc khởi đầu này. Cũng có người viết lên những mong muốn cho một năm mới nhiều thuận lợi, học hành được tiến bộ và tương lai nghề nghiệp rộng mở. Những ông đồ hay Nho sĩ khai bút thường viết câu đối hoặc một chữ đẹp để treo trong nhà.
Tục khai bút không phải là một nghi lễ bắt buộc trong ngày Tết, nhưng từ bao lâu nay, nó vẫn được mọi người đề cập đến nhiều trong cuộc sống, nhất là những ngày đầu năm. Và, không nhất thiết phải khai bút vào ngay sau giao thừa, mà có thể chọn một ngày hay một giờ thích hợp nào đó để Ịàm việc này, từ ngày mồng một Tết cho đến những ngày sau đó. Khai bút đại cát – người xưa thường viết như thế khi đưa những nét chữ đầu tiên của năm, với ý nghĩa là khai bút để gặp những điều tốt lành, đồng thời thể hiện sự tôn trọng chữ nghĩa, đề cao sự học. Đây là một tập tục đẹp, một nét văn hóa Tết đáng được nhân dân ta gìn giữ, phát huy cho đến tận mãi về sau.
Đa phần sau giao thừa xong, mọi người thưòng chọn giờ hoàng đạo bất kể mồng một là ngày tốt hay xấu để khai bút. Các quan chức, nho sĩ, học trò chuẩn bị án thư, nghiên mực, bút lông, và giấy hoặc lụa để làm lễ khai bút đầu năm. Bên án thư, người ta đặt một đỉnh trầm ngát hương bay tỏa hòa lẫn với hương xuân giao mùa ngoài cửa. Ngày xưa, nội dung bài khai bút thường là một câu đối, một bài thơ đường luật ứng tác, hoặc một câu danh ngôn. Đôi khi bài khai bút lại là một vài lời tâm nguyện dành cho năm mới. Sau này, nội dung bài khai bút được biến hóa phong phú hơn tùy theo hoàn cảnh, sở thích, và thông điệp mà mỗi cá nhân muốn truyền tải cho bạn bè, đồng nghiệp, hoặc hội đoàn của mình. Bài khai bút sau đó được đặt ở một nơi trang trọng. Có khi là mở đầu một cuốn sổ nhật ký hoặc một án thư. Khi bài khai bút là những câu đối thì sẽ được treo trang trọng trong thư phòng hoặc phòng khách. Nói chung, lễ khai bút là một phong tục đẹp của người Việt Nam với mong muốn hướng tới tinh thần trọng ngôn quý ngữ.
Ngoài phong tục Khai bút vào dịp Tết, ngưòi Việt ta còn có một phong tục khác cũng đề cao tinh thần quý chữ. Đó là phong tục Xin chữ đầu xuân. Vào giờ khắc giao thừa, người Việt ta tin rằng cầu xin khấn nguyện điều lành vào thời khắc này sẽ rất linh thiêng và ảnh hưỏng suốt trong năm. Ngày xưa, dân ta ở mọi tầng lớp có tục xin chữ đầu xuân và người cho chữ là các thầy đồ. Các thầy đồ Nho học, Hán học, và Quốc Ngữ học thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho người xin chữ cái tâm tế của mình đã được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Có người cho rằng việc trao đổi này tựa bán chữ. Nhưng không phải thế! Không có ai bán chữ, mà chỉ có người mua giấy để xin chữ. Đó là cách tặng lộc qua nét chữ một cách rất tinh tế và khéo léo của người Việt trong những ngày đầu xuân.
Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điều lành, việc lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất. Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy. Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nưóc. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn… ta thường bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho chữ. Gác thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho ngưòi xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ “theo ước nguyện của người xin. Việc tưởng như không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Văn Miếu Quôc Tử Giám, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo… Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
Tại Văn Miếu Quốc Tử Giám những ngày đầu xuân có đến nửa sân chen chúc những cô tú, cậu tú đương đại hoặc tương lai quanh các thầy đồ cho chữ. Bàn thầy đồ có ghi số, mỗi bàn một thầy, cạnh đấy là nơi bán giấy. Cả hai nơi này đều bị quây chặt bởi người mộ chữ. Để ý kỹ sẽ thấy các thầy đồ còn rất trẻ. Vui nhất là những cô cậu đang tuổi cắp sách. Có cô cậu còn phải theo bố mẹ vì sợ lạc. Họ chen nhau mua giấy rồi lại chen nhau xin chữ. Với khuôn mặt mướt mát mồ hôi, họ hả hê mang các tờ giấy có chữ ra sân. Thật đẹp là cảnh các cô bé, cậu bé trải giấy xuống nền sân gạch bát để phơi chữ cho khô. Có cô cậu vì sốt ruột quá đã phải lấy mũ và khăn ra quạt cho chữ chóng khô.
Trong số chữ ấy có chữ Đạt, chữ Đăng Khoa, chữ Tâm… Đây là những chữ để làm người me cha mong muốn. Chữ Tâm là bậc nhất, gần gũi và thiết thực. Điều này lứa tuổi nào cũng cần, cũng phải có. Nhẫn là chữ được nhiều người ở nhiều lứa tuổi kháo nhau xin. Xem ra không phải tất cả những người xin chữ này đều hợp, đều đúng. Có người bảo người thành đạt cần có chữ Nhẫn treo trước mặt để luôn tỉnh táo trong công việc. Có người lại bảo chữ Nhẫn là để dùng cho người mối bước vào đợi, mới có công ăn việc làm. Nhẫn đây là nhẫn nại, nhẫn chịu. Người xin chữ đều có cái lý, cái tình riêng của mình. Mấy năm nay khi phong trào xin chữ đầu năm thịnh hành thì chữ Nhẫn được tuổi trẻ xin nhiều.
Giao Thừa Khai Bút (Tác giả: Nguyên Hải)
Tiếp vòng thân nguyệt nối tròn xoay Thiên hạ bảo rằng tết tới đây Đông Chí cạn mùa thôi giá rét Lập Xuân đến tiết phải tươi cây Sơn hà yên lặng giao thừa đón Xã tắc vui mừng hội nhập xây Chúc tụng nhà nhà đầy lộc-phúc Muôn dân phú quý nước non nầy.
Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đốỉ với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời rao.
Hộp sọ pha lê - chìa khóa khám phá bí mật người ngoài hành tinh
Hộp sọ pha lê mang trong mình câu chuyện huyền bí về thế giới tâm linh mà chưa ai giải mã được. Bản thân cấu tạo kì lạ của chúng cùng năng lực phi thường mà
Hộp sọ pha lê mang trong mình câu chuyện huyền bí về tâm linh mà chưa ai giải mã được. Bản thân cấu tạo kì lạ của chúng cùng năng lực phi thường mà người đời gắn cho đã đủ tạo thành một truyền thuyết.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về giải mã giấc mơ và thế giới tâm linh huyền bí có thật?
Đây là những hộp sọ được cấu tạo trong suốt như pha lê, không phải là sản phẩm có từ tái tạo hay khuôn đúc hiện nay. Tất cả 13 hộp sọ pha lê nằm rải rác trên thế giới, được truyền lại ít nhất từ thời văn minh Maya. Người ta cho rằng một khi 13 hộp sọ pha lê này có cơ hội quy tụ lại với nhau, nhân loại sẽ xảy ra chuyện lớn, hoặc chúng chứa đựng bí mật to lớn nào đó, chờ đời thời cơ hoặc một người nào đó đến để mở tung cánh cửa này ra. Truyền thuyết kể rằng, trước đây rất lâu, có đến tận 12 chủng tộc người ngoài hành tinh sống trên địa cầu, nhưng vì biến cố nào đó đều không thể lưu lại đây. Mỗi chủng tộc đều lưu lại tri thức của mình vào một hộp sọ, và hộp sọ thứ 13 là chìa khóa để liên kết mở ra bí mật này. Những ai từng sở hữu một trong các hộp sọ pha lê đều cho biết, họ có những trải nghiệm lạ thường không thể diễn đạt bằng lời, các hộp sọ có thể trò chuyện thông qua truyền đạt tư duy, chữa lành bệnh và chứa đựng bí quyềt kéo dài tuổi thọ. Hiện tại, thế giới vẫn chưa có lời giải cho những hộp sọ pha lê huyền bí này, nhưng chắc một điều rằng, chúng không phải thuộc nền văn minh chúng ta, chúng thuộc về một nguồn gốc, một sinh vật hay một nền văn minh khác mà con người chưa từng biết tới. ST