Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tử vi Tân Mão phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Trong tử vi Tân Mão là con mèo ăn mầm đậu, là người vui vẻ, thích kết giao bạn bè, bẩm tính trung hậu, trọng chữ tín. Tùng bách Mộc cao vút tầng mây che phủ mặt đất, gió lay động như tấu lên một khúc nhạc, hiên ngang trong gió mưa. Mộc này tàng ẩn dư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi Tân Mão là con mèo ăn mầm đậu, là người vui vẻ, thích kết giao bạn bè, bẩm tính trung hậu, trọng chữ tín.

Tùng bách Mộc cao vút tầng mây che phủ mặt đất, gió lay động như tấu lên một khúc nhạc, hiên ngang trong gió mưa. Mộc này tàng ẩn dưới Kim, vị trí ở Chính Đông,là cực vượng.

Thích núi làm gốc, Thủy đến tưới tắm, do đó ưa gặp Đinh Sửu Giản hạ Thủy, Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, không ưa Bính Tý Giản hạ Thủy, do Tý Mão phạm hình. Gặp Ất Mão Đại khê Thủy có thể phát đạt, không ưa Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, chủ đoản thọ.

Nạp âm ưa Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, lại thêm Bính Tuất, Đinh Hợi ôc thượng Thổ, tất thành lương đống.

mao

Nạp âm kỵ nhất có Hỏa.

Phàm Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa; Giáp Tuất, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa; Giáp Thìn, Ất Tỵ Phúc đăng Hỏa; Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa đều không được phạm.

Không ưa Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ, chủ bần cùng yểu mệnh. Nếu lại thêm Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy thì càng thêm hung.

Can khác có Đinh, mệnh chủ làm những việc tổn hại đến danh dự.

Người sinh năm này thường thuở nhỏ không ưa học hành thi cử.

Mỗi khi gặp năm mão, Dậu trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân tránh được hung họa thì người nhà cũng khó được bình yên.

Bạn đời chớ chọn người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm Giáp, Ât. Trụ khác có Mộc chủ cuối đời chán nản.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Tân Mão phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

10 món đồ nên giải phóng ra khỏi nhà ngay lập tức

Tích trữ quá nhiều đồ đạc dư thừa trong nhà là một trong những nguyên nhân sản sinh ra nhiều vi khuẩn, bụi bặm trong không gian sống của gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thùng các-tông

Những chiếc hộp các-tông chiếm nhiều diện tích trong nhà. Hơn nữa, chúng rất xấu xí và rất dễ bị mủn, bị mốc do thời tiết. Hãy vứt ngay những chiếc thùng các-tông trong nhà và thay thế bằng các loại bình thủy tinh hoặc hộp nhựa.

2. Dây phơi quần áo

Những chiếc dây phơi quần áo cứ vắt vẻo, lủng lẳng trông rất rối mắt. Bạn hãy trang bị trang bị cho ngôi nhà của mình những chiếc giá treo quần áo tiện vệ sinh bằng inox, nhựa hoặc gỗ.

3. Giẻ rửa bát

Giẻ rửa bát ẩm ướt tích tụ nhiều vi khuẩn còn hơn là bồn cầu. Nếu lần cuối cùng bạn quay giẻ rửa bát trong lò vì sóng là hơn một tháng trước thì tốt nhất nên thay một chiếc giẻ mới. Bạn sẽ không muốn mang hết vi khuẩn bôi lên bát đĩa ăn hàng ngày của gia đình chứ?

4. Giày dép cũ

Một đôi giày không thể sửa chữa, rách nát hoặc mất một chiếc thì không nên tiếp tục tiếc rẻ mà cất trong tủ. Hãy để không gian cho những đôi giày mới đẹp đẽ.

5. Quần áo cũ

Là phụ nữ , chị em thường chi khá nhiều tiền để mua đủ các loại quần áo. Thế nên có những bộ có khi hơn một năm không được đụng đến. Những món đồ đó nên kiếm dịp để dọn dẹp và cho quyên góp để tránh bừa bộn tủ.

Cũng tương tự như vậy với quần áo chật của các bé. Trừ khi bộ quần áo đó là đồ gia truyền hoặc bạn muốn để dành lại cho đứa sau, nếu không thì nên tặng hoặc bán bớt.

6. Tất thiếu một chiếc

Ai trong chúng ta đều từng có ít nhất một lần trong đời bị thất lạc một chiếc tất mà không hiểu tại sao. Nếu bạn đã tìm kĩ các ngóc ngách mà vẫn không tìm thấy thì đó là thời gian để quẳng chúng đi.

7. Mỹ phẩm hết hạn

Rất nhiều chị em ít khi để ý đến hạn sử dụng của mỹ phẩm. Mascara nên thay thế ba tháng một lần. Kem nền và kem che khuyết điểm chỉ dùng tốt nhất trong khoảng thời gian một năm; trong khi son môi, phấn mắt và phấn hồng nên được thay thế sau hai năm. Vậy đã bao lâu rồi những mỹ phẩm đó nằm trong bộ trang điểm của bạn?

8. Gia vị cũ

Hầu hết các loại gia vị nên được thay thế sau 12 tháng. Đừng chờ đến lúc gia vị bỉ ẩm mốc mới vứt đi mà chỉ cần là lúc ngửi không thấy mùi thơm. Gia vị không còn mùi thơm thì sẽ không có hương vị gì nữa.

9. Lịch cũ

Không thể hiểu nổi thói quen giữ lại những quyển lịch đã cũ trong nhiều gia đình. Điều này chỉ làm rác nhà và là nơi bám bụi. Hãy bán tái chế ngay những quyển lịch thừa đó, cả với lịch treo tường hay để bàn.

10. Bàn chải đánh răng

Hiệp hội Nha khoa Mỹ khuyến cáo nên thay thế bàn chải đánh răng của bạn ba tháng một lần để đạt được hiệu quả tối đa.

Theo Dân Việt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 món đồ nên giải phóng ra khỏi nhà ngay lập tức

Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Đương nhiên tốt hay xấu đến mức nào không phải là nói một cáchchung chung mà phải căn cứ vào quan hệ sinh khắc hình xung giữa các tổ hợp củachúng để đoán cho chính xác. Nếu nắm vững được mức độ sinh khắc hình xung đócàng cao thì sự dự đoán càng chính xác. Hỉ, kỵ của mười thần đại vận lại cóquan hệ đến vận khí tốt xấu của từng năm (tức lưu niên). Nắm vững được hỉ kỵcủa đại vận cũng tức là nắm được mạch chính của mệnh. Chỉ có như thế mới có thể gọi là biết được mệnhvà vận một cách chân chính. Chỉ trên cơ sở cảm nhận được một cách chắc chắn sựtồn tại của vận mệnh thì mới có thể đi đến hướng về cái tốt, tránh xa cái xấu.
Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây sẽ đưa ra các ví dụ về nữ sinh năm âm và nam sinh năm âm, cách sắp xếp Tứ trụ, thiên can Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng trong các địa chi, cách lấy số đại vận, sắp xếp đại vận, can của các đại vận thấu ra mười thần và cách sắp xếp chúng. Đến đó thì cc bước cơ bản để đoán Tứ trụ đ hồn thnh. Những dự đoán  cát hung về sau đều được tính toán trên cơ sở đó  (thần sát được chú thích ở một bên Tứ trụ hoặc cũng có thể chú thích riêng ).

Ví dụ . Nữ sinh năm âm.

                       

Năm 1995                               tháng 2 âl                    ngày 4 âl                      8 giờ

     Kiếp                                         ti                                   nhật                          ti

 At hợi                                      mậu dần                       gip ngọ                      mậu thìn

Mệnh : nhâm giáp                               giáp bính mậu                  đinh tị               mậu  ất   quý

            Kiêu tỉ                                     tỉ  thực   tài                    thương tài          ti  kiếp   ứng

 

            Ti         st         quan    kiu       ấn        tỉ          kiếp     thực

            Tị         canh     tn         nhm     quý      gip       ất         bính

Vận:    mo       thìn      tị          ngọ      mi        thn       dậu      tuất

            1          11        21        31        41        51        61        71

 

Ví dụ : nam sinh năm âm :  năm 1995 tháng 2 ngày 4 lúc 8 giờ sáng. Mười thần của Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng chứa trong chi cũng giống như trên. Can đại vận lấy trụ tháng Mậu làm chuẩn xếp ngược, lấy số vận và cách tính đại vận đếm ngược. Mỗi đại vận 10 năm, cụ thể như sau:

thương            thực        kiếp          tỉ           ấn             kiêu            quan              sát

đinh                 bính         ất              giáp      quý           nhâm tân              canh

Vận:    sửu                  tí              hợi            tuất         dậu         thân                mậu                ngọ

            10                    20            30            40            50            60                 70               80


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Cây Kim tiền mang lại may mắn –

Kim tiền thuộc cây cảnh họ thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất, trên mặt đất không có thân chính; mầm nảy nhiều và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim tiền thuộc cây cảnh họ thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất, trên mặt đất không có thân chính; mầm nảy nhiều và hình thành nhiều thân nhỏ.

cay-kim-tien

Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 – 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy Kim Tiền được coi là cây “phát” – Kim phát tài.

Trong môi trường tự nhiên, Kim tiền phát triển rất nhanh, có thể thành cây có bóng râm to cao. Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.

Được coi là loại cây “phú quý”, có tác dụng chiêu tài nên Kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương.

Bạn hãy chọn cây có thân xanh tươi, dày chắc, phiến lá hoàn chỉnh. Những cây đã nở hoa sẽ mang lại nhiều “lộc” nhất. Nên bày cây ở hướng Đông, Đông-nam trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cây Kim tiền mang lại may mắn –

Đặc tính của sao Kình Dương - Phá hoại và nóng nảy

Sao Kình Dương đắc địa thì tính khí cương cường, quả quyết, nóng nảy dũng mãnh, lắm cơ mưu và thích mạo hiểm nhưng cũng hay kiêu căng, tự đắc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Kình Dương - Phá hoại và nóng nảy

Đặc tính của sao Kình Dương - Phá hoại và nóng nảy

 Tìm hiểu về đặc tính của sao Kình Dương trong Tử Vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Biệt danh
Kình dương Bắc đẩu - sát tinh Dương kim, dương hỏa Hình Hình thương Dương nhận

Sao Kình Dương có thuộc tính âm dương ngũ hành là dương hỏa, lại thuộc dương kim, là sát tinh thứ nhất trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là hình, chủ về hình khắc thương tổn, tại trời chưởng quản việc bẩm tấu, tại số chủ về hung ách. Sao Kình Dương cùng các sao Hỏa Tinh, Linh Tinh, được gọi là chung là tứ sát hay tứ sát tinh. Sở dĩ chúng được gọi là, vì khuyết điểm nhiều hơn ưu điểm, có sức phá hoại vận mệnh, tấn công và sát thương các cát tinh. Nếu gặp cách cục không tốt hoặc chính tinh lạc hãm, chẳng khác gì lửa đổ thêm dầu, khiến vận mệnh càng gian nan trắc trở. Sát tinh thủ mệnh sẽ khiến cuộc đời đầy sóng gió và bất an nhưng không có nghĩa là không có thành tựu, mà chỉ là tăng thêm sóng gió và trắc trở.

Sao Kình Dương là sao mang tính phá hoại và lực sát thương nhiều nhất trong lục cát tinh, tính tình cương liệt, nóng nảy có uy quyền, có khí hung dữ có sức xâm phạm và phá hoại các cát tinh, đối với sát tinh thì có tác dụng kìm chế sức xung kích. Cho nên người có sao Kình Dương tọa mệnh, bất kể là nam hay nữ, lúc còn nhỏ đều bị thương và để lại sẹo, hoặc thương tật do té ngã.

Sao Kình Dương nhập miếu tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; nếu cung mệnh ở bốn cung này, là cách cục "Kình Dương giáp miếu", có thể phát huy đầy đủ ưu điểm cương nghị quả quyết của sao Kình Dương, có biểu hiện đột phá, giàu sang và tiếng tăm vang dội. Sao Kình Dương đồng cung với sao Hỏa Tinh, nếu cả hai đều miếu vượng, thì trái lại, có thể dùng ác khắc chế ác, có sức bộc phát, quyền uy xuất chúng. Sao Kình Dương lạc hãm thủ mệnh tại cung Ngọ, là cách "Mã đầu đới tiến" (đầu ngựa mang tên), không chết non thì cũng chủ về thương tật , phiêu bạt vô định, tại ách trùng trùng. Sao Kình Dương ưa đồng cung với các sao Thiên Đồng và Thái Âm tọa ở cung Ngọ, lúc đó có thể tăng thêm sức phấn đấu cho hai sao vốn mang tính nhu thuận ôn hòa này, và phát huy được xung lực của sao Kình Dương để đạt được thành tựu.

Sao Kình Dương là sự công kích công khai, nếu lạc hãm thì càng lộ rõ đặc điểm nãy. Các cung vị mà nó đóng hoặc hội chiếu phần nhiều đều có hình khắc tổn thương hoặc trắc trở rõ rệt. Các sao khác gặp phải sao Kình Dương đều tăng thêm vất vả, tai ương. Nếu gặp được cát tinh trợ giúp thì không quá đáng ngại. Nhưng nếu Kình Dương lại gặp các hung tinh như Liêm Trinh, Tham Lang, Cự Môn, sẽ khiến mệnh vận xấu đi hoặc thành phá cục.

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Kình Dương là dương hỏa, lại thuộc dương kim, mang khí hung sát, nhưng nếu biết vận dụng tính chất đó mà theo những ngành như bác sĩ ngoại khoa, quân đội hoặc những công việc liên quan đến kim loại, điện cơ, thì có thể biến nhược điểm thành ưu điểm, phát huy đầy đủ sở trường để đạt được thành tựu xuất sắc. Nếu gặp các hung sát xung phá như Hỏa Tinh, Hóa Kị, Địa Không, Địa Kiếp, Thất Sát, Phá Quân, thì trái lại, là hạ cục.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Kình Dương - Phá hoại và nóng nảy

Thai Thần là gì, Tại sao nên kiêng báo tin vui trong 3 tháng đầu

Theo dân gian, phụ nữ có thai nên kiêng báo tin vui trong vòng 3 tháng đầu để tránh kinh động đến Thai Thần. Vậy Thai Thần là gì? Tại sao lại có quan niệm đó?
Thai Thần là gì, Tại sao nên kiêng báo tin vui trong 3 tháng đầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu nhé. Chúng ta thường đọc được những tin tức giải trí như một nữ minh tinh nào đó đang nghi ngờ là có thai, nhưng đương sự lại một mực phủ nhận. Một thời gian sau, cũng chính ngôi sao ấy lại tổ chức họp báo công bố tin vui trước đây là “có thật".    Nhiều người không hiểu tại sao lại phải vòng vo như thế, có thì nói có, không thì bảo không, dù sao mang thai cũng là chuyện vui, đáng chúc mừng cơ mà. Đó có thể là do quan niệm truyền thống, thai phụ nên kiêng báo tin vui trong 3 tháng đầu mang thai để tránh kinh động tới Thai Thần, ảnh hưởng đến bào thai.   Nhưng Thai Thần là gì, đó có thể là khái niệm khá mới với rất nhiều người. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ giúp các bạn tìm hiểu kĩ hơn về khái niệm phong thủy này, biết được Thai Thần là gì và lý do tại sao có quan niệm kiêng báo tin vui những ngày đầu mang thai nhé, hy vọng những thông tin sau đây sẽ giúp ích cho các bạn độc giả.  

1. Thai Thần là gì?

  Người xưa cho rằng, trong khoảng thời gian bắt đầu mới mang thai cho đến khi sinh nở, Thai Thần luôn túc trực bên cạnh thai phụ. Vì thế mà quan niệm truyền thống có rất nhiều điều kiêng kị đối với thai phụ như không được chuyển nhà, không được trèo cao, không được cầm kim chỉ, dao kéo, không được để người khác vỗ lưng từ phía sau… Thai Thần có thể ở bên cạnh hoặc ở trong phòng thai phụ, trú ngụ ở các đồ đạc trong nhà nên phải đặc biệt chú ý để tránh mạo phạm đến Thai Thần, ảnh hưởng đến thai phụ và đứa trẻ trong bụng.


thai than la gi
 
  Trong dân gian, Thai Thần còn được gọi là Thai khí. Kì thực, đó là một khái niệm y học, do y học phương Đông sáng tạo ra để nói về sự chuyển đổi phức tạp về khí trong sinh lý của phụ nữ có thai. Mới đầu, do kiến thức hạn hẹp nên không mấy người biết và hiểu ý nghĩa thực sự của Thai khí nên mới thần thánh hóa và tạo ra Thai Thần, coi đó là vị thần chủ quản việc mang thai, sinh nở.  

2. Làm thế nào để xác định vị trí của Thai Thần?

  Vậy là chúng ta đã làm rõ câu hỏi “Thai Thần là gì”. Theo phong thủy, nếu nhà có thai phụ mà không chú ý, động chạm đến vị trí Thai Thần trú ngụ thì có thể sẽ gây ra những hậu quả khó lường, gây tai họa cho thai phụ và sinh mệnh của bào thai. Nhưng phải làm thế nào để xác định được vị trí của Thai Thần? Thông thường, có thể biết được vị trí cụ thể của Thai Thần theo ngày và theo tháng âm lịch.  

Vị trí của Thai Thần theo tháng

  Tháng Chạp, tháng Giêng: Thai Thần ngụ tại phòng ngủ của thai phụ. Tháng 2, tháng 3, tháng 9, tháng 10: Thai Thần ngụ tại cửa ra vào và cửa sổ. Tháng 4, tháng 6, tháng 11: Thai Thần ngụ tại phòng bếp, xem xét điều kiện sống của gia đình. Tháng 5: Thai Thần ngụ ngay bên mình thai phụ. Tháng 7: Thai Thần ngụ tại cối xay. Tháng 8: Thai Thần ngụ tại nhà vệ sinh.

Mời bạn đọc thêm: Những điều kiêng kị trong bài trí nội thất đối với phụ nữ có thai nhất định phải biết.
 

Vị trí của Thai Thần theo ngày

  Ngày ở đây tính bằng lịch âm, xét theo 10 thiên can và 12 địa chi. Ứng với mỗi thiên can, địa chi thì Thai Thần lại ngụ ở một nơi khác nhau, nên tránh sử dụng hoặc động chạm đến vị trí đó trong nhà.


thai than la gi 2
 

Vị trí Thai Thần theo thiên can

  Ngày Giáp, Kỷ: Thai Thần ngụ tại cửa ra vào, cửa sổ trong nhà. Ngày Ất, Canh: Thai Thần ngụ tại cối xay. Ngày Bính, Tân: Thai Thần ngụ tại phòng bếp, nơi bếp nấu. Ngày Đinh, Nhâm: Thai Thần ngụ tại nhà kho. Ngày Mậu, Quý: Thai Thần ngụ tại phòng ngủ, nơi giường nằm.  

Vị trí Thai Thần theo địa chi

  Ngày Tý, Ngọ: Thai Thần ngụ tại cối xay. Ngày Sửu, Mùi: Thai Thần ngụ tại nhà vệ sinh. Ngày Dần, Thân: Thai Thần ngụ tại nhà bếp, nơi bếp nấu. Ngày Mão, Dậu: Thai Thần ngụ tại cửa ra vào. Ngày Thìn, Tuất: Thai Thần ngụ tại nơi nuôi nhốt vật nuôi trong nhà. Ngày Tị, Hợi: Thai Thần ngụ tại phòng ngủ, nơi giường nằm.   Theo quan niệm dân gian, trong những ngày này tuyệt đối không được động đến vị trí mà Thai Thần đang trú ngụ, không được sửa chữa, làm kinh động đến Thai Thần thì mới giữ được bình an cho cả mẹ và con.   Còn theo quan điểm khoa học thì phụ nữ có thai rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài mà suy giảm sức khỏe. Nhà xây sửa thì không tránh khỏi phải lau dọn hoặc chịu bụi bặm, tiếng ồn hay tai nạn, khiến tinh thần bất ổn, sức khỏe suy yếu, tử cung co bóp mạnh, tác động xấu đến thai nhi.

Có thể bạn quan tâm: Những lưu ý phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu.
 

3. Có thật là nên kiêng báo tin vui trong 3 tháng đầu mang thai?

  Chuyện nên giữ kín tin vui trong 3 tháng đầu, có 2 cách giải thích như sau.   Thứ nhất, dân gian truyền rằng Thai Thần, vị thần bảo trợ cho sinh mệnh của thai nhi sẽ xuất hiện sau khi bào thai tượng hình. Thai Thần sẽ bảo vệ cho em bé trong bụng mẹ được khỏe mạnh bình an. Nếu đem chuyện mang thai thông báo quá sớm với mọi người thì có thể sẽ vô tình khiến cho Thai Thần phật ý, không vừa lòng mà rời đi.


thai than la gi 1
 
  Thứ hai, trước kia điều kiện y tế không được tốt, sức khỏe của thai phụ cũng không được như bây giờ, có người mới hôm trước báo tin vui thì hôm sau đã gặp chuyện bất trắc. Vì thế mà người ta muốn tránh để thai phụ có áp lực về tâm lý nên kiêng không báo tin vui sớm.   Nhưng giờ xã hội phát triển, y học hiện đại, các thai phụ được chăm sóc rất kĩ, giảm bớt nhiều nguy cơ sảy thai. Nếu bạn không muốn quá lớn chuyện, không nói với nhiều người cũng không sao, nhưng nhớ đừng tránh “báo tin vui” với bác sĩ nhé. Đi khám và kiểm tra sức khỏe đầy đủ sẽ bảo đảm cho sức khỏe của cả bản thân và em bé.   Với những bạn làm việc trong điều kiện không được tốt, mà khoảng thời gian 3 tháng đầu thai nhi rất mong manh, đừng ngại chia sẻ với mọi người để được cảm thông và giảm bớt khối lượng công việc nếu có thể nhé. Con cái là lộc trời cho, là món quà lớn nhất mà chúng ta nhận được, hãy đặt sức khỏe của mẹ và bé lên trên hết!   Thiên Thiên

Nắm vững 8 quy tắc phong thủy phòng bếp bảo vệ bà bầu 5 kiểu người cần tránh giao tiếp khi bạn đang bầu bí Khó có thai, xem ngay phong thủy trong nhà

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thai Thần là gì, Tại sao nên kiêng báo tin vui trong 3 tháng đầu

Tướng mặt đàn ông yêu vợ sau hôn nhân

Tướng mặt đàn ông yêu vợ: Kết hôn với chàng trai có tướng mặt dưới đây, chắc chắn “hôn nhân không phải là nấm mồ của tình yêu”. Ngược lại, chàng càng cưng
Tướng mặt đàn ông yêu vợ sau hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Kết hôn với chàng trai có tướng mặt dưới đây, chắc chắn “hôn nhân không phải là nấm mồ của tình yêu”. Ngược lại, chàng càng cưng chiều vợ, hết mực yêu thương con cái.



1. Tướng cằm đầy đặn


Cằm còn được gọi là Địa Các, cho biết điều kiện kinh tế, vận mệnh cuối đời của con người. Đồng thời nó thể hiện quan niệm, thái độ, tình cảm của một người đối với gia đình.

Tuong mat dan ong het muc cung chieu vo sau hon nhan hinh anh
 
Đàn ông có tướng mặt mà cằm đầy đằn thường có cuộc sống giàu sang, không phú thì quý. Họ còn rất coi trọng tình nghĩa, cuộc sống hôn nhân, gia đình và luôn là chỗ dựa tinh thần vững vàng cho mọi thành viên trong gia đình.

Ngoài ra, chàng trai này rất dễ gần, tính tình ôn hòa, điềm đạm. Trong tình yêu, họ luôn là người đứng ra che chở cho đối phương. Cuộc sống sau hôn nhân càng yên ấm, hạnh phúc.

2. Hai bên gò má đầy đặn

Chủ nhân của tướng mặt này thường có tinh thần trách nhiệm cao với mọi việc và mọi người xung quanh. Sau khi kết hôn, trách nhiệm của họ lại càng lớn, luôn đứng ra bảo vệ, che chở cho đối phương, hết mực cưng chiều vợ con.

Tuong mat dan ong het muc cung chieu vo sau hon nhan hinh anh 2
 
Hơn thế, anh chàng này còn rất tôn trọng và nghe lời vợ. Được “nâng khăn sửa túi” suốt đời cho chàng là điều mà bất cứ quý cô nào cũng mong muốn.

3. Khuôn mặt vuông vức

Đàn ông có khuôn mặt vuông vức không những nhìn rất nam tính, phúc đức mà tính cách cũng mạnh mẽ, tốt đẹp. Phong cách làm việc của họ phóng khoáng và thường lập nên đại nghiệp.

Tuong mat dan ong het muc cung chieu vo sau hon nhan hinh anh 3
 
Anh chàng này tính cách ôn hòa, điềm đạm, tình cảm thủy chung nên cuộc sống sau hôn nhân khá thuận lợi. Dù nửa kia không thuộc hàng “quốc sắc thiên hương”, nhưng khi đã chọn làm vợ, chàng sẽ yêu bằng cả tấm lòng và hết mực cưng chiều. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận biết về tướng mặt đàn ông yêu vợ.

3 giây để nhận ra tướng mặt người được phúc đức bao bọc suốt đời
– Người có tướng mắt to, ánh mắt có thần thường được hưởng phúc thọ song toàn, sức khỏe dồi dào, cuộc sống bình yên, vui vẻ.
4. Sống mũi cao và thẳng


Chiếc mũi là đại diện cho tài vận, công danh sự nghiệp của cánh mày râu. Sở hữu tướng mũi này, bạn rất coi trọng tình cảm, gia đình và có tinh thần trách nhiệm cao. Bên cạnh đó, lòng tự tôn mãnh liệt, tác phong làm việc nhanh nhẹn, thực sự cầu thị.

Trong tình yêu, bạn quyết đoán. Khi yêu là hết mình, ra sức bảo vệ, chở che cho đối phương. Hơn thế, bàn còn không ngừng phấn đấu để có thể đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của nửa kia.

Ngân Hà

Xem thêm video: Nghe lời thuyết giáo về ở hiền gặp lành chẳng sai


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt đàn ông yêu vợ sau hôn nhân

Các lễ hội ngày 28 tháng 12 Âm Lịch - Hội Bạch Lưu

Hội Bạch Lưu được tổ chức vào ngày 28 tháng 12 âm lịch tạixã Bạch Lưu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 28 tháng 12 Âm Lịch - Hội Bạch Lưu

Các lễ hội ngày 28 tháng 12 Âm Lịch - Hội Bạch Lưu

Hội Bạch Lưu

Thời gian: tổ chức vào ngày 28 tháng 12 âm lịch.

Địa điểm: xã Bạch Lưu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Lã Công Lô – danh tướng có công đánh quân Triệu Văn Vương.

Nội dung: Hội có lễ tế và dâng hương cúng Thành hoàng ghi nhớ công đức. Phần hội có cuộ thi chọi trâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 28 tháng 12 Âm Lịch - Hội Bạch Lưu

Bói vui: Đoán trúng phóc tính cách qua độ dài các ngón tay

Xòe tay TRÁI ra và chọn hình ảnh có độ dài các ngón tay giống nhất với trường hợp của bạn nhé! Bấm vào hình để xem đáp án!
Bói vui: Đoán trúng phóc tính cách qua độ dài các ngón tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

title title-1
title-2 title-3
title-4 title-5

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói vui: Đoán trúng phóc tính cách qua độ dài các ngón tay

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Dương

Hành: Kim

Loại: Quyền Tinh, Dũng Tinh

Đặc Tính: Uy quyền, sát phạt

Tên gọi tắt thường gặp: Sát

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 7 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí sao Thất Sát ở các cung trên lá số tử vi:

Miếu địa ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.

Vượng địa ở các cung Tỵ, Hợi.

Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.

Hãm địa ở các cung Mão, Dậu, Thìn, Tuất.

Ý Nghĩa Thất Sát Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo:

Sao Thất Sát dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình nở nang, hơi cao nhưng thô xấu, da xám hay đen, mặt thường có vết, mắt to và lồi.

Tính Tình:

Sao Thất Sát ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa, vì là sao võ nên người can đảm, uy dũng, có oai phong, tánh nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, nên dễ cô độc, thích quyền lực, ưa được người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát, biết quyền biến.

Sao Thất Sát ở cung hãm địa cũng là người can đảm có oai phong, tánh nóng nhưng rất thâm, đôi khi độc ác, tàn nhẫn, mưu sâu, có óc độc tài, nhiều thủ đoạn, cô độc.

Tài Lộc Phúc Thọ:

Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý. Các tuổi khác thường gặp nhiều khó khăn, thăng trầm.

Người nữ thì tài giỏi, can trường đảm lược, được phú quý. Nhưng sao Thất Sát không mấy tương hợp với phụ nữ, cho nên dù đắc địa thì cũng gặp nhiều bất hạnh trong gia đạo như: muộn đường hôn phối, hay hình khắc, chia ly...

Sao Thất Sát nếu gặp sao xấu và nhất là sát tinh, dù đắc địa cũng đưa đến nhiều nghịch cảnh như:

Có nhiều bệnh tật.

Thường bị tai nạn khủng khiếp vì súng đạn.

Thường bị bắt bớ, hình tù.

Giàu sang cũng không bền.

Có giàu sang cũng giảm thọ.

Tóm lại, sao Thất Sát dù đắc địa cũng không đảm bảo công danh, tài lộc hay phúc thọ dồi dào hoặc lâu dài hoặc vẹn toàn nếu gặp phải hung sát tinh khác. Đặc tính của sao này là uy dũng, nhưng cũng hàm chứa nhiều bất lợi, hiểm nguy ẩn tàng.

Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thất Sát hãm địa, hoặc Thất Sát gặp sao xấu và nhất là sát tinh. Thường gây bất lợi về công danh, tài lộc, phúc thọ như:

- Cô độc, khốn khó, phiêu bạt nơi xa quê hương, bệnh nan y, bị ngục tù, bị tai nạn khủng khiếp, yểu tử.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng với sao Thất Sát:

Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Phú quý, uy quyền. (Thất Sát ở đây được ví như gươm báu của nhà vua).

Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung ở Sửu Mùi, Mệnh Ất, Kỷ, Âm: về nam là anh hùng quán thế, can đảm, thao lược.

Sao Thất Sát, Thiên Hình đồng cung hay hội chiếu: Liêm chính, ngay thẳng, chính trực, vô tư, hiển đạt về nghiệp võ, rất uy nghi lẫm liệt, nhưng tính nóng nảy khiến thiên hạ phải khiếp sợ.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng với sao Thất Sát:

Sao Thất Sát, LiêmTrinh ở Sửu, Mùi: Chết ở ngoài đường vì tai nạn xe cộ hay vì dao súng.

Sao Thất Sát hãm địa (hay Phá Quân hãm địa): Tha phương lập nghiệp, làm nghề nhưng không tinh thục.

Sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, nữ ở cung Mệnh tuổi Tân, Đinh gặp Văn Xương: Góa bụa, nghịch cảnh vì gia đạo, làm lẽ, sát phu, muộn chồng.

Sao Thất Sát gặp Tứ Sát (Kình, Đà, Linh, Hỏa): Bị tật, chết trận.

Sao Thất Sát, Kình ở Ngọ: Chết vì đao súng, không toàn thây nhất là đối với tuổi Bính, Mậu. Ngoại lệ đối với hai tuổi Giáp, Kỷ.

Sao Thất Sát ở cung Thân: Yểu.

Sao Thất Sát hãm gặp Hỏa Kình: Nghèo, làm nghề sát sinh.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phụ Mẫu:

Có sao Thất Sát ở Cung Phụ Mẫu thì bao giờ cha mẹ cũng bất hòa. Nếu không cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau.

Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Cha mẹ quý hiển, sống lâu.

Sao Thất Sát tại Tỵ, Ngọ: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm xa cách một hai thân.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Cha mẹ túng thiếu, vất vả. Gia đình ly tán.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh tại Sửu, Mùi: Cha mẹ nghèo khổ, xung khắc, khó sống chung với con cái.

Sao Thất Sát, Tử Vi tại Tỵ, Hợi: Cha mẹ phú quý nhưng bất hòa. Con thường không hợp tính với cha mẹ. Gia đình ly tán.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc tại Mão, Dậu: Cha mẹ vất vả hay mắc tai ương. Nếu không cũng phải mang tật bệnh, hay đau yếu.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phúc Đức:

Ở Triều đẩu và Ngưỡng đẩu: Đắc phúc nhưng phải ly hương lập nghiệp. Họ hàng khá giả về võ nghiệp, nhưng ly tán nếu ở Tý, Ngọ.

Sao Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải ly hương lập nghiệp mới thọ. Họ hàng danh giá, hiển đạt về võ nhưng tha phương.

Thất Sát, Liêm Trinh hay Thất Sát, Vũ Khúc hay Thất Sát ở Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt, xa gia đình, xa họ hàng, lao tâm khổ trí, họ hàng ly tán, nghèo.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Điền Trạch:

Sao Thất Sát đóng trong cung Điền Trạch thường gây bất lợi về điền sản, hoặc chậm có của, hoặc không có di sản, không hưởng di sản, hoặc phải bán điền sản, hoặc phải bị mất điền sản (truất hữu), hoặc phải tự lập mới khá.

Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Ít di sản. Nếu tự lập mới dồi dào.

Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Mua vô bán ra thất thường, phá di sản; tự lập thì mới bền vững, tạo lập nhiều nơi.

Sao Thất Sát, Tử Vi: Di sản nhiều nhưng phá sản.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh: Chậm điền sản, vất vả buổi đầu. Sau về già mới có nhà cửa.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc, hay Thất Sát ở Thìn Tuất: Không điền sản, rất ít điền sản, nhà nhỏ lúc về già.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Quan Lộc:

Sao Thất Sát tại tại Dần, Thân: Có uy quyền, thành công trong những việc khó khăn, khắc phục được nhiều trở ngại, tuổi trẻ tuy có trở ngại chút ít, hoặc phải thay đổi, nhưng lớn tuổi thì lại thành công, có sự nghiệp, được người nể trọng, có tay nghề khéo, hoặc có thú vui, thưởng thức đặc biệt.

SaoThất Sát tại Tý, Ngọ: Có nhiều tài năng, nhiều ngành nghề, nhưng thường hay gặp trở ngại, may rủi đi liền nhau.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Công danh dễ gặp rủi ro không lâu dài, hay gặp tai ương, nay đây mai đó.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Làm ngành nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh, nhưng không bền.

Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Thành công trong công danh sự nghiệp, nhưng phải đi xa mới tốt. Đường công danh thời tuổi trẻ lên xuống thất thường, hạp ngành nghề quân sự, kỹ thuật, công kỹ nghệ, thầu khoán, xây dựng, địa ốc.

Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Càng lớn tuổi thì công danh càng lớn, có uy quyền.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Thiên Di:

Sao Thất Sát tại Dần, Thân hoặc Tử Vi đồng cung: Hay gặp quý nhân giúp đỡ, được nhiều người tôn phục, kính nể, ở gần các nhân vật quyền thế.

Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Được nhiều người người nể sợ và tin phục. Thường gần nơi quyền quý nhưng may rủi đi liền nhau, dễ bị tai nạn, chết xa nhà.

Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Được người tin phục, nhưng hay bị nạn, bị nạn chết ở xa nhà.

Liêm Trinh đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp tai nạn giữa đường.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Ra ngoài bất lợi, chết xa nhà.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tật Ách:

Thất Sát vốn là một hung tinh dù đắc địa mà đóng ở Tật Ách thường gây bất lợi. Có Thất Sát ở Cung Tật Ách, thì lúc nhỏ hay đau yếu, ăn uống kém.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Bộ máy tiêu hóa xấu, thường bị trĩ, nếu không thì chân tay bị thương tích.

Sao Thất Sát, Không Kiếp: Bị ho lao, phổi yếu, sưng phổi có mủ.

Sao Thất Sát, Hóa Kỵ, Đà La: Bệnh tật ở tay chân.

Sao Thất Sát đi vơí Hao, Mộc, Kỵ: Bệnh ung thư.

Tùy theo Thất Sát đi với bộ phận cơ thể nào thì nơi đó bị bệnh tật. Mức độ nặng nhẹ còn tùy sự hội tụ với sát hung tinh khác.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tài Bạch:

Sao Thất Sát ở Dần, Thân: Kiếm tiền dễ dàng nhất từ trung niên trở đi.

Thất Sát ở Tý, Ngọ: Tiền bạc thất thường, hoạch tài.

Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Dễ kiếm tiền, dễ làm giàu.

Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Tiền bạc thất thường, khi có khi hết nhưng không thiếu, chậm giàu.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên lập nghiệp được, nhưng tự lực, vất vả buổi đầu.

Thất Sát ở Thìn, Tuất: Tiền bạc tụ tán thất thường nhưng hết rồi lại có.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tử Tức:

Sao Thất Sát ở Cung Tử Tức luôn là sự bất lợi về đường con cái, vì hiếm con, hoặc vì con chết, con khó nuôi, có ám tật, muộn con, con bệnh tật, xa con. Nếu không như vậy thì có con hai dòng, con nuôi, con lai. Trừ phi ở Dần, Thân: thì được ba con, khá giả, quý tử.

Thất Sát tại Tý, Ngọ: May mắn lắm mới có hai con.

Thất Sát tại Thìn, Tuất: sinh nhiều nuôi ít. May mắn lắm mới có một con.

Tử Vi đồng cung: nhiều nhất là ba con, rất khó nuôi. Về sau thường xa cha mẹ.

Liêm Trinh đồng cung: sinh nhiều nuôi ít, rất hiếm con.

Vũ Khúc đồng cung: cô đơn, hiếm con.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phu Thê:

Có bốn vị trí rất hay cho Thất Sát. Đó là bốn cung Dần, Thân, Tý, Ngọ. Ở Dần, Thân, gọi là Thất Sát triều đẩu, ở Tý Ngọ gọi là Thất Sát ngưỡng đầu. Bốn vị trí này bảo đảm phú quý tột bậc.

Sao Thất Sát ở Cung Phu Thê thì người hôn phối thường là con trưởng, đoạt trưởng, lấy người khác chủng tộc, hoặc có sự chắp nối. Hạnh phúc gia đình ít khi được trọn vẹn, hay bất hòa, xung đột, hoặc phải có sự xa cách một thời gian mới sống chung, tái hợp. Nếu không như vậy thì số cô độc, góa bụa, người hôn phối hay gặp tai nạn, có ám tật.

Sao Thất Sát ở Dần, Thân: nên muộn đường hôn phối. Vợ hay chồng đều có tài năng, đảm đang, danh giá, vợ hay ghen, chồng nóng nảy.

Sao Thất Sát ở Tý, Ngọ: Vợ hay chồng tuy có danh giá nhưng hay khắc khẩu, dễ chia tay. Nên muộn lập gia đình mới tránh được.

Sao Thất Sát ở Thìn, Tuất: Hôn nhân hay gặp trắc trở, khó khăn, hoặc dễ chia tay, nhiều lần lập gia đình.

Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải trắc trở buổi đầu, về sau mới tốt, phải muộn lập gia đình mới phú quý. Bằng không phu thê gián đoạn, hình khắc.

Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên hai vợ chồng đều có khả năng lập nghiệp được, nhưng phải tự lực, vất vả buổi đầu.

Thất Sát, Liêm Trinh: Thường không được tốt cho lắm như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách.

Thất Sát, Hóa Quyền: Người hôn phối có bản lĩnh, uy quyền, hoặc có danh giá mà mình phải nể, đôi khi có óc độc tài, chuyên quyền, nóng tánh, khó tánh.

Sao Thất Sát Khi Vào Các Hạn:

Nhập hạn ở vị trí Triều đẩu (Dần, Thân), Thất Sát rất hưng vượng về nhiều mặt tài, quan, gia đạo.

Gặp sát hay hung tinh hoặc khi hãm địa thì hay bị tai nạn, hình tù, súng đạn.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh, HỏaTinh: Cháy nhà (nếu Hạn ở Điền càng chắc chắn).

Thất Sát Kình Hình ở Ngọ: Ở tù, chết.

Sao Thất Sát Hình Phù Hổ: Ở tù, âu sầu.

Thất Sát Phá Liêm Tham, Không Kiếp Tuế Đà: Bị kiện tù, chết (nếu đại hạn xấu).

Sao Thất Sát, Hao: Đau nặng.

Thất Sát, Hóa Kỵ: Bị bệnh, hay mang tiếng xấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Có nên bố trí nhiều cửa và cửa sổ trong nhà không? –

Nhiều người cho rằng, muôn nhà sáng sủa và thoáng mát thì cần phải trổ nhiều cửa và cửa sổ để ánh sáng tự nhiên và gió có thể lọt vào nhà. Điều này không hoàn toàn đúng như vậy vì nếu quá nhiều cửa, lượng khí tràn vào nhà sẽ trở thành khí tạp, nếu bấ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

t cẩn có thể tạo cơ hội cho kẻ gian lọt vào nhà.

1260498356-282170

 

Ngoài ra, bố trí quá nhiều cửa với tỷ lệ cửa sổ nhiều hơn cửa chính hoặc ngược lại sẽ gây mất mỹ quan, lãng phí tiền của, công sức, thậm chí còn gây phản tác dụng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên bố trí nhiều cửa và cửa sổ trong nhà không? –

Ý nghĩa sao Liêm Trinh - Tính tình nóng nảy

Sao Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Cha mẹ nghèo nhưng có đức. Sớm xa cách hai thân. Làm con nuôi họ khác mới tránh được hình khắc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Liêm Trinh - Tính tình nóng nảy

Ý nghĩa sao Liêm Trinh - Tính tình nóng nảy

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh

Tính: Âm

Hành: Hỏa

Loại: Quyền Tinh, Đào Hoa Tinh, Tù Tinh

Đặc Tính: Uy quyền, quyền lực, hình ngục

Tên gọi tắt thường gặp: Liêm

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 6 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

- Thuộc Bộ (Cách) Sát Phá Liêm Tham.

- Có thêm sao chính tinh trong cùng một cung, nên gọi là 2 sao đồng cung.

- Trường hợp lá số mẫu này là sao Liêm Trinh đồng cung với sao Thất Sát (gọi tắt là Liêm Sát đồng cung) tại Cung Huynh Đệ.

- Đây là 2 sao quan trọng nhất đối với tất cả các sao khác đóng trong cùng một cung.

- Sao Liêm Trinh khi tọa thủ trong các Cung Tý, Cung Dần, Cung Thìn, Cung Ngọ, Cung Thân, Cung Tuất là các Cung Dương thì thuộc bộ hay cách Tử Phủ Vũ Tướng.

Vị Trí Ở Các Cung của sao Liêm Trinh:

Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất.

Vượng địa ở các cung Tý, Ngọ, Dần, Thân.

Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.

Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi, Mão, Dậu.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo

Cung Mệnh có Liêm Trinh miếu, vượng, đắc hay hãm địa thì thân hình cao lớn, xương to và lộ, mặt hơi dài, sớm có nếp nhăn, vẻ mặt không được tươi nhuận, mắt lồi, sáng, lông mày rậm, lộ hầu.

Tính Tình

Sao Liêm Trinh nếu ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa thì có tính liêm khiết, thẳng thắng, đôi khi nóng nảy, cứng cỏi, đứng đắn và sáng sủa, đẹp đẽ, minh mẫn, tài giỏi, quả quyết, thanh cao, can đảm, cương quyết, được hưởng phú quý và có tuổi thọ.

Ngoài ra sao Liêm Trinh còn có thêm đặc tính như sao Đào Hoa, đẹp người, đẹp nết, có tinh thần nghệ sĩ, phong lưu khoái lạc mà vẫn giữ được sự nghiêm túc, nhưng vẫn có sức thu hút đối với người khác. Còn đối với người nữ có sao Liêm Trinh ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người nghiêm nghị, đoan chính, thanh cao, đảm đang, thông minh, tài giỏi.

Sao Liêm Trinh ở cung hãm địa thì có óc kinh doanh, khéo tay, giỏi về tài gia công chế biến, tính nóng nảy, ngoan cố, ương ngạnh, thích đua chen, tính toán, thủ đoạn. Có vị giác đặc biệt, thích ăn ngon mặc đẹp, nên còn có năng khiếu về thủ công.

Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ

Sao Liêm Trinh đắc địa thì hưởng ương sự được phú quý và thọ. Đặc biệt có tài kiêm nhiếp cả văn võ, rất thao lược và quyền biến. Nếu được thêm Xương Khúc đồng cung thì là bậc anh hùng.

Những Bộ Sao Tốt khi đi với sao Liêm Trinh:

Liêm Trinh, Thiên Tướng: Dũng mãnh, oai quyền, danh giá, thường là quân nhân. Thiên Tướng đi với Liêm Trinh rất lợi vì có tác dụng khắc chế nóng tính của sao Liêm Trinh.

Liêm Trinh, Hồng Loan, Thiên Khôi, Văn Xương, Văn Khúc: Mưu sĩ giỏi, đắc dụng.

Liêm Trinh, Văn Xương, Văn Khúc: Có tài thao lược, quyền biến.

Liêm Trinh, Thiên Hình đắc địa: Quan võ giỏi, thẩm phán sắc. Nhưng cách này rất dễ bị hình tù vì cả hai sao đều cũ về tù tội.

Những Bộ Sao Xấu khi đi với sao Liêm Trinh:

Liêm Trinh, Phá Quân, Hỏa Tinh hãm địa: Tự tử, trong đời chắc chắn có lần tự tử.

Liêm Trinh, Phá Quân, Hóa Kỵ, Tham Lang: Chết cháy.

Liêm Trinh, Địa Kiếp, Kình Dương ở Mão, Dậu: Bị hình tù, bị ám sát (cũng như Liêm, Kình, Đá, Hỏa, Linh).

Liêm Trinh, Địa Kiếp ở Tỵ, Hợi: Tự ải trong tù.

Những bộ sao nói trên có ý nghĩa tương tự nhau. Tất cả đều báo hiệu sự tự tử, tai nạn đau thương, và ngục tù; không bị nạn này tất phải bị nạn kia. Cho nên Liêm Trinh là một sao tối nguy hiểm nếu đi với sát tinh mà thiếu sao giải.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Phụ Mẫu:

Sao Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Cha mẹ nghèo nhưng có đức. Sớm xa cách hai thân. Làm con nuôi họ khác mới tránh được hình khắc.

Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Cha mẹ giàu có, nhưng bất hòa. Con cái thường không hợp tánh với cha mẹ.

Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Cha mẹ khá giả.

Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: cha mẹ vất vả, hay gặp tai nạn, con cái thường sống xa cách, hoặc lúc nhỏ đã ở nhờ nhà người khác.

Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: sớm khắc một trong hai thân. Nếu không, cha mẹ và con cũng không thể chung sống được với nhau.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Điền Trạch

Sao Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Gặp nhiều trở ngại trong việc tạo dựng cơ nghiệp, hay phá tán. Ông cha để lại nhà đất cũng không được hưởng.

Liêm Phủ đồng cung: Được hưởng nhà đất, giữ được cơ nghiệp của ông cha.

Liêm Tướng: Cơ nghiệp ngày càng phát đạt.

Liêm Phá: Hay phá tán, sau mới khá giả.

Liêm Sát: Nhà cửa tự lập, vất vả ban đầu, sau mới khá giả.

Liêm Tham: Có sản nghiệp của tiền nhân để lại nhưng cũng bị phá tán hoặc không được hưởng, rất bực mình vì điền sản, về già cũng không có nhà ở cố định. Dù có nơi ăn chốn ở cố định cũng không thường ở, hay đi, hoặc cho thuê, hoặc nhà đất mỗi nơi mỗi có, xa cách.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Quan Lộc

Sao Liêm Trinh ở cung Quan Lộc rất tốt vì Liêm Trinh hợp với Quan Lộc tại Dần Thân, hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Tướng Quân: Võ nghiệp vinh danh, kiêm nhiếp cả chính trị, có uy quyền, được người kính nể.

Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung, làm ngành nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh nhưng không bền.

Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung, công danh lận đận, làm về công kỹ nghệ hay buôn bán thì tốt.

Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung, làm chỗ đông người làm ăn danh giá nhưng chức vụ thường nhỏ, hợp nghề địa ốc, thanh tra, thuế, nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh, nhưng cũng hay lận đận, không bền.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Nô Bộc

Liêm Trinh ở cung Nô thông thường người giúp việc, bè bạn thường hay nói xấu mình, làm ơn nên oán.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Thiên Di

Liêm Trinh đơn thủ ở Dần, Thân: Luôn luôn gặp được quý nhân. Được nhiều người kính trọng, tài lộc dễ kiếm, có danh giá, trấn áp được tiểu nhân.

Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Ra ngoài lợi ích hơn ở nhà, tài lộc dễ kiếm, có quý nhân phù trợ.

Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Hay lui tới chỗ sang trọng, được nhiều người kính nể.

Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Ra ngoài may rủi đi liền nhau.

Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp tai nạn giữa đường.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tật Ách

Sao Cung Tật Ách có sao Liêm Trinh thì thường có tì tật ở chân tay hay ở lưng.

Sao Liêm Trinh ở cung hãm địa thì suốt đời lận đận, bị nhiều bệnh tật, sức khỏe suy kém, hay bị tai nạn, phải ly tổ lập nghiệp, giảm thọ.

Liêm Trinh đơn thủ Dần, Thân có sao Hóa Kỵ đồng cung, dễ gặp tai nạn bất ngờ, ngộ độc.

Liêm Trinh, Tham Lang: Mắt kém, dễ bị vướng vào pháp luật.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tài Bạch

Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Phải cạnh tranh ráo riết mới kiếm được tiền. Làm giàu chậm nhưng chắc chắn.

Liêm Phủ đồng cung: Làm ăn thẳng thắn, liêm khiết, giàu có lớn, giữ được của.

Liêm Tướng đồng cung: Làm ăn lương thiện, giàu có lớn, giữ được của bền vững.

Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Dễ kiếm tiền trong lúc náo loạn. Nhưng tai ương thường đi liền với tiền bạc.

Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Tiền bạc thất thường hay hoang phí, hao tán nhưng hết rồi lại có.

Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: Túng thiếu. Suốt đời khổ sở vì tiền hay mắc tai họa vì tiền.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tử Tức

Cung Tử Tức có sao Liêm Trinh có những đặc tính chung là ít con, muộn con trừ khi đồng cung với Thiên Phủ. Khó nuôi con nếu gặp Thiên Tướng, Sát Phá Tham.

Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Phu Thê

Sao Liêm Trinh ở Cung Phu Thê hầu hết các vị trí đều bất lợi cho gia đạo như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách.

Sao Liêm Trinh ở Dần, Thân: Vợ chồng nghèo, làm ăn khó khăn.

Sao Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Gia đình thịnh vượng, giàu sang, nhưng cũng phải muộn gia đạo mới tốt, vợ chồng không hạp tính nhau nhưng bách niên giai lão.

Sao Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Vợ chồng giàu sang, hòa thuận nhưng hình khắc nhau (tại Ngọ thì đỡ khắc).

Sao Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Vợ hay chồng là người có tài nhưng hay gặp rủi ro, khó chung sống.

Sao Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Vợ chồng làm ăn khó khăn, hay bất hòa, xung khắc.

Sao Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: Vợ chồng nghèo khổ, bất hòa, hay gặp tai nạn, xa cách.

Liêm Trinh Khi Vào Các Hạn

Liêm Trinh, Tham Lang, Tỵ, Hợi: Bị tù hình. Nếu gặp Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt thì giải được.

Liêm Trinh, Tham, Sát, Phá: Bị đau, bị oán trách.

Liêm Trinh, Phá đồng cung bị Kiếp, Kình: Kiện, tù, ám sát.

Liêm Trinh, Kình hay Đà: Rủi ro nhiều, ưu tư lắm.

Liêm Trinh, Hình, Kỵ, Kình hay Đà: Bị ám sát, lưu huyết thanh toán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Liêm Trinh - Tính tình nóng nảy

Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Sau Tết Đoan Ngọ này, có 3 con giáp được quý nhân phò trợ, chẳng những hoạn lộ thênh thang mà tài vận còn rất mực hanh thông, làm đâu trúng đó, phúc lộc đầy nhà
Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp, có những người rất hay gặp may mắn. .   Tết Đoan Ngọ được cho là một trong những ngày Cửu độc, không tốt cho sức khỏe con người, thậm chí có thể gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng có những con giáp lại rất may mắn, bởi sau dịp Tết Đoan Ngọ này, họ có nhiều cơ hội đến với mình, may mắn đủ đường, quý nhân tương trợ, chẳng những sự nghiệp thăng tiến mà tiền bạc cũng rủng rỉnh trong tay.   Bạn có biết trong 12 con giáp, ai là người có vận số tốt đẹp đó không? Xem bói tử vi thì con giáp nào là người có vận trình tăng tiến, phúc lộc đầy nhà ngay sau Tết Đoan Ngọ này? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn bí mật này, cùng theo dõi nhé.
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh
 

Tuổi Hợi

 

Người tuổi Hợi đầu óc tư duy logic, là người lý trí và trầm tĩnh. Đây cũng là người trời sinh có duyên với Thần Tài. Sau Tết Đoan Ngọ, con giáp cũng là người may mắn vô cùng khi phúc khí thịnh vượng, tài lộc dồi dào, chuyện vui đến không dứt.   Bạn làm gì cũng suôn sẻ hanh thông, thuận buồm xuôi gió. Được quý nhân giúp đỡ, công việc của người tuổi Hợi nhẹ bước lên mây, dường như mọi thứ đều được sắp xếp sẵn, chỉ chờ con giáp này đến là tiến hành như nước chảy mây trôi. Chuyện đã định là tất thành, mọi kế hoạch đều diễn ra đúng như dự kiến, tài lộc đầy nhà, tiền bạc đầy kho.   Trong nhà cũng có nhiều niềm vui hân hoan hạnh phúc, “gia hòa vạn sự hưng”. Gia đình êm ấm nên càng khiến bạn có tinh thần làm việc, chuyện kinh doanh thuận buồm xuôi gió, lợi nhuận thu về không tồi. Con giáp này quả là gặp đủ chuyện may sau dịp Tết Đoan Ngọ.

Bạn đã biết cách Cúng Tết Đoan Ngọ 2017 thế nào để sự nghiệp, tài lộc, tình duyên thịnh vượng chưa?
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh 2
 

Tuổi Sửu

  Người tuổi Sửu bản tính hồn hậu chất phác, là người thật thà lương thiện, lại chăm chỉ đảm đang. Họ là người trầm ổn và phóng khoáng. Đừng nhìn bình thường họ không mấy khi phát biểu ý kiến, kì thực trong chuyện đối nhân xử thế hay giải quyết công việc, họ đều có tầm nhìn xa trông rộng, khéo léo thông minh.   Trong công việc, họ thể hiện năng lực khá tốt, làm việc nghiêm túc chỉn chu, luôn có trách nhiệm với những việc mình làm. Dù khó khăn vất vả tới đâu, khi đã xác định đó là việc mình cần làm, phải làm thì người tuổi Sửu sẽ cố gắng hết mức, một mình chịu đựng không một lời oán thán. Tinh thần và ý chí của con giáp này được đánh giá rất cao nơi công sở cũng như ngoài xã hội, trời định sẽ đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.   Sau Tết Đoan Ngọ, vận trình của con giáp này ngày càng tăng tiến, sự nghiệp từng bước lên cao, chuyện tăng lương thăng chức cũng không còn quá xa vời. Được quý nhân nâng đỡ, tài vận của người tuổi Sửu khá hanh thông, thu nhập đều đều, ngày càng tăng tiến. Có quyền lực, có địa vị, có tiền tài, người tuổi Sửu khiến bao người ngưỡng mộ và coi đó là tấm gương để học tập, phấn đấu cho tương lai sau này.

Bạn đã biết Người tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào chưa?
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh 3
 

Tuổi Thân

  Người tuổi Thân tính cách hướng ngoại, là người sôi nổi, hoạt bát, có duyên ăn nói và có tài xã giao. Về tài lộc, họ thường gặp nhiều điều may mắn bất ngờ, thi thoảng lại nhận được cục tiền từ trên trời rơi xuống, dễ dàng nắm bắt cơ hội kiếm tiền ngay trong tầm tay.
Mời bạn đọc thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Thân.
 
Sau dịp Tết Đoan Ngọ, người tuổi Thân có điềm báo tài lộc khắp nơi, sự nghiệp cũng được quý nhân nâng đỡ nên nhẹ bước lên mây, thăng tiến vù vù. Hoạn lộ thênh thang, con giáp này có cơ hội trở thành người lãnh đạo, thăng quan phát tài, tiền bạc quyền chức đều nắm trong tay. Người làm kinh doanh có cơ hội hợp tác làm ăn lớn, khả năng thành công cực kì cao.   Tiền bạc đổ về như suối, người tuổi Thân có số giàu sang. Sau Tết Đoan Ngọ là thời điểm thích hợp để con giáp này tính tới chuyện đầu tư sinh lời, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng thêm các lĩnh vực khác để có thêm nhiều nguồn lợi nhuận hơn nữa. Thời cơ không có nhiều, hãy nhanh nhạy nắm bắt và phát huy khả năng của mình hết sức có thể, gây dựng sự nghiệp, tạo dựng tương lai tươi sáng.   Hy Vũ

Trước và sau Tết Đoan Ngọ, con giáp nào mừng đón hỷ sự lâm môn Cúng Tết Đoan Ngọ vào giờ nào, buổi nào là đúng và tốt nhất? Cách sắm lễ và bài văn khấn cúng Tết Đoan Ngọ đúng chuẩn nhất

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Kết cấu nhà ở và tên gọi phong thủy –

Căn cứ theo hình dạng, nhà được phân chia theo ngũ hành gồm kim, mộc, thủy, hoả, thổ. 1. Hình kim, hình dạng vuông vắn, nhìn vào thấy nhà sáng sủa, tường nhà bằng phẳng, 4 mái hiên cân đối. 2. Hình mộc, hình dạng chỉnh chu, dài, nóc nhà cao lớn, tườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn cứ theo hình dạng, nhà được phân chia theo ngũ hành gồm kim, mộc, thủy, hoả, thổ.

thuc_kien_truc_co_vn_210

1. Hình kim, hình dạng vuông vắn, nhìn vào thấy nhà sáng sủa, tường nhà bằng phẳng, 4 mái hiên cân đối.

2. Hình mộc, hình dạng chỉnh chu, dài, nóc nhà cao lớn, tường nhà lồi lõm, 4 mái hiên hình vòm uốn lượn.

3. Hình thuỷ, hình dạng tròn hoặc lượn sóng, nhìn vào nhà thây toát lên sự ngay ngắn, sạch sẽ.

4. Hình hoả, hình dạng nhọn hoặc nhấp nhô lồi lõm không ngay ngắn, nhà có lợi thể tăng phong, nóc nhà không nhọn và không cao.

5. Hình thổ, nhà có hình dạng vuông và đầy, chắc chắn, 4 mái hiên thẳng và phẳng, tường không có chỗ lồi lõm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kết cấu nhà ở và tên gọi phong thủy –

Làm thế nào để quy hoạch phòng họp (phòng hội nghị)? –

Phòng họp là một nơi nhân khí vượng nhất ở công ty, phòng họp cũng có quan hệ đến toàn thể công ty. Phòng họp ở nhiều công ty còn bao gồm cả không gian triển lãm sản phẩm mẫu của công ty, tức vừa là phòng họp củng là gian phòng triển lãm. Cho nên đứn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

g từ góc độ bố cục lớn mà xem xét, nên đặt phòng hội nghị ở phía trước của công ty, đi vào đi ra đều có những lối đi cơ bản.

hoinghihoithapkscd2

Ví dụ, những người đến từ ngoài để tham dự họp ở công ty, không cần phải đi qua các phòng nội bộ của công ty mà có thể đến thẳng phòng hội nghị, như vậy thì vấn đề có mặt của công ty cũng sẽ không phải quan tâm đến việc mất đi. Một phòng hội nghị được bố trí tốt còn có thể thúc đẩy hơn việc cử hành thành công hội nghị. Những nhà kinh doanh bên ngoài đến để đàm phán với công ty, cũng có thể có không gian đàm phán tốt.

Lựa chọn bàn hội nghị

Lựa chọn bàn hội nghị cũng cần phải công phu một chút. Bàn hội nghị hình tròn hoặc hình bầu dục tiện cho việc đạt được tiếng nói chung, khơi dậy sức sáng tạo và phát huy tinh thần đoàn kết, bởi vì bàn tròn khiến cho thành viên trong đoàn không gặp trở ngại gì về mặt giao tiếp.

634091116080996250

Nếu mà tiến hành xử lý đánh ráp những góc nhọn của bàn, những bàn vuông hoặc hình chữ nhật thì cũng có hiệu qua công việc tương đối cao.

Bàn hội nghị hình chữ U rất dễ nhìn thấy người khác, đồng thời đối với người trần thuật hội nghị ở đỉnh hình chữ U có thể cung cấp tác dụng tụ tập rất tốt.

Vật cát tường: Tràng hạt Thật (Thật châu)

Giải thích: Phật châu là tượng trưng của lực lượng thần bí, đeo tràng hạt này vào sẽ có tác dụng bảo vệ bình an. Tràng hạt Phật châu dùng gỗ từ đàn và gỗ lục đàn gia công thì mới có hiệu quả tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào để quy hoạch phòng họp (phòng hội nghị)? –

Xem bói ngày tháng sinh tiết lộ con người bạn

Những người sinh tháng Giêng thuộc kiểu người cứng đầu và có một trái tim sắt đá, vì thế họ là con người của tham vọng và luôn nghiêm túc trong mọi việc. Họ thích được chỉ bảo người khác cũng như là được người khác chỉ bảo.
Xem bói ngày tháng sinh tiết lộ con người bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khoa học tử vi phương Tây nghiên cứu về tháng sinh ảnh hưởng đặc biệt đến tính cách của bạn. Hãy cũng khám phá tính cách của bản thân qua tháng sinh của mình nhé. ( Lưu ý, sử dụng tháng sinh dương lịch để xem, sử dụng công cụ hỗ trợ đổi lịch âm dương )

Tháng Giêng

Những người sinh tháng Giêng thuộc kiểu người cứng đầu và có một trái tim sắt đá, vì thế họ là con người của tham vọng và luôn nghiêm túc trong mọi việc. Họ thích được chỉ bảo người khác cũng như là được người khác chỉ bảo. Tuy nhiên, những người sinh tháng này lại hay suy xét những sai sót hay điểm yếu của người khác, vì vậy họ cũng rất thích chỉ trích người khác.
 
Trong công việc, những người sinh tháng Giêng thường làm việc chăm chỉ vàhiệu quả. Họ thật sự là người biết cách làm người khác vui lòng nhưng họ lại là một người trầm tính, ít nói trừ khi họ thực sự cảm thấy vui vẻ hoặc tức giận. Người của tháng Giêng cũng khá bảo thủ nữa. Họ luôn biết cách chăm sóc bản thân, ít khi bị bệnh gì nặng nhưng lại hay cảm vặt.
 
Ai sinh vào tháng đầu năm đều thuộc tuýp người lãng mạn, nhưng tiếc rằng họ không biết cách biểu lộ tình yêu cho lắm. Họ yêu thích trẻ con, đề cao lòng trung thành, là con người rất biết giao tiếp nhưng lại hay ghen. Còn đối với chuyện tiền bạc thì những người này vô cùng cẩn trọng.


Tháng 2
 
Sinh vào tháng 2, bạn có nhiều ý niệm trừu tượng và rất sắc sảo, tuy vậy bạn vẫn thích những điều thực tế. Bạn là con người thông minh và nhanh trí, có điều tính cách của bạn lại hay thay đổi. Bạn gợi cảm, quyến rũ, tính tình ôn hòa, trầm tính, hay mắc cỡ và rất khiêm nhường. Những người sinh tháng 2 cũng rất chân thật và trung thành. Hơn nữa, bạn cũng rất cả quyết, một khi đã quyết việc gì thì sẽ làm đến cùng.
 
Sinh ra vào tháng 2, bạn cũng rất yêu thích sự tự do, nên khi bị cấm đoán, bạn sẵn sàng trở thành một kẻ nổi loạn. Bạn cũng thích công kích người khác nữa nhưng lại quá nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Bạn hay giận dữ nhưng lại không bao giờ biểu lộ ra ngoài, không thích những thứ không cần thiết, rất muốn kết giao bạn bè nhưng lại không để cho người khác biết là bạn muốn điều đó.
 
Bạn ưa thách thức và rất tham vọng nên trong bạn luôn đầy ắp ước mơ và hi vọng. Bạn thích giải trí và những hoạt động sôi sục. Tâm hồn bạn lãng mạn nhưng chẳng bao giờ bạn bộc lộ.

Tháng 3
 
Bạn sở hữu tính cách thu hút người khác và cũng vô cùng quyến rũ. Bạn là con người của yêu thương nhưng hay mắc cỡ và bảo thủ. Bạn bí ẩn, bản tính tự nhiên của bạn là chân thành tử tế và giàu lòng trắc ẩn. Bạn thích hạnh phúc và bình yên. Đối với mọi người, bạn rất nhạy cảm. Bạn cũng thích phục vụ người khác nhưng lại thường để mình rơi vào những cơn giận dữ. Tuy nhiên, bạn là một người đáng tin cậy.
 
Bạn đánh giá cao lòng tốt và sự biết ơn. Bạn hay quan sát và đánh giá mọi người. Tuy là người tốt, nhưng một khi ai đó đã gây thù chuốc oán với bạn thì bạn sẵn sàng ôm giữ lòng báo thù mạnh mẽ. Ngoài ra, bạn là con người mơ mộng, nhiều ảo tưởng, thích du lịch và thích được chú ý, thích trang trí nhà cửa, thích những điều đặc biệt. Trong tình yêu, bạn hay vội vàng trong việc chọn lựa người yêu. Bạn còn là người hay u uất nữa.

XEM BÓI NGÀY SINH CỦA BẠN cùng LỊCH VẠN NIÊN 365


Tháng 4
 
Sinh ra vào tháng 4, bạn là người năng động và hoạt bát. Bạn thường quyết định mọi việc nhanh chóng nhưng sau đó lại hay hối tiếc vì cái mình đã quyết định.Bạn chỉ yêu và quyến rũ trong mắt người bạn yêu mà thôi. Bạn sở hữu cái đầu với những dây thần kinh làm bằng thép và rất thích được người khác chú ý. Bạn rất biết cách cư xử, thân thiện và rất biết cách an ủi, giúp người khác giải quyết rắc rối. Bạn ưa thích phiêu lưu vì bạn là người vô cùng dũng cảm và hầu như chẳng sợ gì cả.
 
Bạn quan tâm đến mọi người, khéo léo và rất tử tế, tuy nhiên bạn lại để mình hơi mang nặng cảm xúc và hay giận dữ, đồng thời khá hấp tấp. Bù lại, bạn có trí nhớ tốt và thích sự di chuyển. Bạn cũng hay khích lệ người khác cũng như tự cổ vũ chính bản thân bạn trong mọi chuyện. Về sức khỏe, những người sinh tháng 4 không sở hữu cơ bắp của người khổng lồ đâu. Những cơn đau đầu và lồng ngực thường xuyên tìm đến bạn. Một điều khiến bạn thường xuyên bị ám ảnh và hãy coi đó là điểm yếu để lưu ý và khắc phục.


Tháng 5
 
Người sinh tháng 5 là một người cứng đầu và có trái tim sắt đá. Bạn sở hữu ý chí vô cùng mạnh mẽ và ý chí cầu tiến đáng khâm phục. Bạn có những suy nghĩ sắc bén và thường suy nghĩ theo hệ thống chứ không hề bộc phát. Tuy vậy, bạn lại là một người khó kiểm soát cơn giận dữ. Bạn cuốn hút người khác và thích người khác chú ý đến bạn nhờ vào tâm hồn sâu sắc và cách nói chuyện duyên dáng.

xem bói ngày tháng sinh tiết lộ con người bạn


 
Nữ giới sinh tháng 5 xinh đẹp không chỉ vẻ bề ngoài mà còn đẹp cả trong tâm hồn nữa. Bạn luôn giữ vững lập trường của mình trong mọi tình huống. Khi bạn gặp chuyện khó khăn, mọi người không cần tốn nhiều công sức cũng dễ dàng an ủi bạn vì cơ bản bạn là một con người hiểu chuyện. Bạn cũng có tính mơ mộng, nhưng bù lại trong nhiều quyết định quan trọng, bạn lại vô cùng sáng suốt.
 
Về sức khỏe, những người sinh tháng 5 thường hay bị đau ở tai và cổ, nhưng xét về cơ bản, thể chất của bạn khá tốt. Với trí tưởng tượng phong phú, cung hoàng đạo thuộc tháng này thường có xu hướng thích văn học và hội họa.

Tháng 6
 
Những người sinh tháng 6 hay suy nghĩ xa xôi, dễ để trái tim bị lung lay ảnh hưởng bởi lòng tốt (đôi khi giả vờ) của người khác. Bạn sở hữu trái tim nhạy cảm, phong cách lịch sự và thói quen nói năng từ tốn; bạn có tinh thần năng động nhưng lại hay ngập ngừng không chịu quyết đoán, thường có xu hướng trì hoãn cho đến khi sự việc không vui xảy đến.
 
Những người sinh tháng này cũng rất kén chọn, luôn muốn thứ tốt nhất trong khả năng có thể kiểm soát. Là người nóng nảy, tuy nhiên người sinh tháng 6 thường vui tính, hài hước và rất thân thiện. Bạn cũng là người giỏi tranh luận và nói nhiều. Tuy nhiên, về cơ bản, bạn là người hay mơ mộng viển vông, thích được giao du kết bạn và thường thì không giấu diếm điều ấy với người khác, kể cả người mới quen.
 
Về sức khỏe, cung hoàng đạo tháng 6 hay bị dính những cơn cảm lạnh. Rất dễ tổn thương, và một khi đã bị như vậy, người sinh tháng 6 thường phải mất nhiều thời gian để chữa lành vết thương lòng. Điểm không tốt ở bạn là "cả thèm chóng chán.
 
Tháng 7
 
Sinh ra vào tháng 7, bạn luôn đem không khí vui vẻ cho mọi người xung quanh. Nhưng khi có cảm giác căng thẳng bạn lại là người im lặng đến khó đoán. Vì thế, bạn được xếp vào tuýp người sống nội tâm, bạn thường thích ở một mình với sự yên tĩnh, ít khi bạn thích đi đâu, cũng như không thích kết bạn mới. Bạn có lòng tự tôn rất lớn và bạn được nhiều người biết đến. Bạn là người chân thật và rất dễ để an ủi.
 
Bạn cũng biết quan tâm đến cảm xúc của mọi người, luôn cư xử tế nhị, thân thiện, hóm hỉnh và vui tính nên mọi người xung quanh cảm thấy bạn rất dễ gần. Bạn thường không mang hận thù dù ai đó có làm điều gì sai trái với bạn, nhưng tha thứ không có nghĩa là bạn đã quên. Mặc dù có lòng vị tha cao cả, nhưng bạn cũng rất cảnh giác và sắc sảo.
 
Bạn đối xử rất công bằng với mọi người và không bao giờ đánh giá người khác vội vã, mà luôn quan sát trước khi đưa ra kết luận cuối cùng. Với bạn bè, những người sinh tháng 7 là người bạn trung thực và chân thành.


Tháng 8
 
Những người sinh vào tháng 8 là những người hay thích đùa. Họ khéo léo trong cách cư xử và biết quan tâm tới người khác, rất nhiều người quý mến họ bởi tính cách đáng quý này. Ngoài ra, họ còn nổi tiếng với tài năng nghệ thuật, âm nhạc. Sinh ra vào những ngày thu, nên tính cách của họ cũng rất lãng mạn, nhạy cảm và nhiều mơ ước. Những người sinh ra vào thời điểm này còn có khả năng suy nghĩ rất phi thường, họ dũng cảm, cứng rắn, có tư tưởng độc lập, có khí chất lãnh đạo và không dễ bị chùn bước trước khó khăn nào.
 
Bên cạnh đó, họ cũng là người biết cách an ủi người khác. Họ có lòng tự tôn cao và thèm khát những lời tán thưởng. Khi đang ghen hay khi bị ai đó chọc tức, những người này sẽ trở nên đáng sợ lắm đấy. Họ thích quan sát mọi thứ, cẩn thận và hay cân nhắc nhưng hay quyết định vội vàng đến khó hiểu. Về sức khỏe, thể chất của những người sinh vào giữa mùa thu không được tốt lắm, phải học cách thư giãn mới có thể sống khỏe được.
 

Xem thêm

Nhận diện tính cách của các nàng thông qua đặc điểm "vòng 1"
Kích cỡ, hình dáng, đặc điểm bộ ngực của cô gái cũng giống như ngôi sao chiếu mệnh, thông qua ngực, người ta có thể nhận ra tính cách.

Tháng 9
 
Sinh ra vào giữa mùa thu, bạn tế nhị và biết cách thỏa hiệp. Bạn cẩn thận và có đầu óc tổ chức. Thích chỉ ra khiếm khuyết của người khác cũng như là chỉ trích mọi người, tuy vậy bạn nên biết kiềm chế trước những lời chỉ trích của mình. Bạn điềm tĩnh, tốt bụng và giàu lòng vị tha. Bạn trung thành nhưng không phải lúc nào bạn cũng là người chân thật. Bạn cũng thích quan tâm tiểu tiết bởi bạn muốn tìm ra sự thú vị của mọi thứ, chính vì vậy mà bạn cũng rất kén chọn trong việc tìm ra một nửa của mình.
 
Bạn nói ít nhưng lại là người biết nói chuyện và rất dễ thu hút người khác. Sinh ra vào tháng 9, bạn cũng dễ nảy sinh tham vọng trong mọi việc, thích tìm tòi và khám phá, tỉ mỉ trong công việc. Tính cách của bạn dễ hiểu và khá là vui tính. Bạn thích du lịch và tham gia vào các hoat động. Đôi khi năng nổ là vậy, nhưng bạn lại có xu hướng giấu đi mọi cảm xúc.
 
Tháng 10
 
Những người sinh vào tháng 10 thích tán gẫu, thích là trung tâm của sự chú ý. Cũng vì thế mà họ có bề ngoài thu hút và tính cách của họ cũng thu hút như chính vẻ ngoài của mình vậy. Đôi khi, họ thích nói dối nhưng lại không biết che dấu điều đó. Với họ, bạn bè rất quan trọng, vì thế họ thích giao du kết bạn. Tình cảm của họ là yêu, ghét rõ ràng, họ chỉ yêu quý những người yêu quý mình và không quan tâm đến người khác nghĩ gì.
 
Những người sinh ra vào thời điểm giao mùa này cũng dễ bị tổn thương, nhưng họ không cần nhiều thời gian để chữa lành mọi thứ. Họ là người hay mơ mộng và kén chọn. Họ khá nồng nhiệt nhưng vẫn là một người dứt khoát, công bằng và sáng suốt. Họ có niềm đam mê với du lịch, nghệ thuật và văn học. Họ hay động lòng và cũng hay ghen và dễ tực giận. Với tính cách năng động, họ luôn thích ở ngoài hơn là ở nhà. Điểm yếu của những người sinh vào tháng này là hay bị ảnh hưởng bởi người khác và hay mất tự tin.

Tháng 11
 
Những ai sinh ra vào tháng 11 là con người của những ý tưởng và khó đoán. Bạn lúc nào cũng có suy nghĩ hướng về phía trước. Bạn độc đáo và thông minh, sáng suốt trong mọi việc, có nhiều ý tưởng phức tạp nhưng suy nghĩ của bạn rất sắc sảo. Bạn có thể trở thành một bác sĩ giỏi, tính tình năng động nhưng bạn là con người của sự bí ẩn. Sinh ra trong tháng này, bạn khá tò mò và giỏi đào bới bí mật của người khác lắm, đầu óc bạn lúc nào cũng tràn đầy những ý tưởng.
 
Bạn rất dũng cảm và tử tế, cương quyết, kiên nhẫn, và cả chăm chỉ nữa. Có lẽ vì thế mà bạn không bao giờ chịu bỏ cuộc dù trong hoàn cảnh nào. Bạn luôn tin rằng “có chí thì nên”. Không chỉ có vậy, bạn cũng là con người bướng bỉnh và sắc đá. Bạn thích ở một mình, luôn có những suy nghĩ khác người, khó ai mà xoay chuyển được bạn một khi bạn đã quyết định. Người sinh vào tháng 11 có một tính tình sắc sảo và nhiều hoài bão và bạn đặc biệt lại không thích những lời khen ngợi. Bạn giàu cảm xúc vì thế mà tình yêu của bạn rất sâu nặng.
 
Tháng 12
 
Sinh vào vào tháng cuối năm, bạn là người trung thành và tử tế. Nếu là con gái thì bạn là người rất quyến rũ. Bạn cũng có tham vọng nhưng lại hay bị ảnh hưởng bởi số đông. Bạn suy nghĩ logic, thích hòa mình vào cộng đồng, thích được ngợi khen, được chú ý và được yêu.
 
Trong các mối quan hệ, bạn rất chân thành, thật lòng và không giả dối, bạn không đặt nặng cái tôi của mình nhưng tính tình của bạn lại sớm nắng chiều mưa. Với tính cách vui vẻ, trẻ trung, bạn ghét bị quản thúc, bạn có năng khiếu hài hước nên hay thích làm trò đùa, mang lại niềm vui cho người khác. Điểm nổi bật trong tính cách của những người này là thiếu kiên nhẫn và hay vội vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói ngày tháng sinh tiết lộ con người bạn

Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc
Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ trong ngày này thì cả năm sẽ được thuận lợi, tốt lành…

Xông đất mang an lành

Ngay sau thời khắc Giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.

Gia chủ sẽ căn cứ vào sự thành đạt, tài cán, đức độ, sức khỏe... của người xông đất để đoán vận hạn cho mình. Tục xông đất thể hiện khát vọng về sự thịnh vượng, an khang và người xông đất như một dấu hiệu để người ta giải đoán trước hậu vận của năm đó.

Quan niệm người xông đất đầu năm sẽ mang lại may mắn cho gia chủ trong suốt một năm vẫn được giữ gìn.

Với người Việt, tục xông đất ở các vùng gần như giống nhau. Khách đến xông đất phải đến vào sáng sớm ngày mùng 1 mang theo quà biếu như hoa quả, bánh mứt và tiền lì xì cho người già, trẻ con trong nhà.

Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết khoảng 5-10 phút chứ không ai ở lâu, như vậy thì mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy, thông suốt. Cứ đến dịp cuối năm, hầu như ai cũng có ý tìm chọn trong họ hàng hay láng giềng những người tốt tính và làm ăn phát tài, có cuộc sống suôn sẻ để “xông đất” nhà mình. Tục xông đất đầu năm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện mong muốn hướng tới những điều tốt lành của người dân Việt.

Có một số gia đình lại chọn cách xông đất sau giờ Giao thừa, thường để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một người dễ vía ra khỏi nhà trước thời khắc đón Giao thừa rồi đi lễ tại đình chùa, sau đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự “xông nhà”, mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của ông bà xưa. Với kiểu xông nhà, xông đất như vậy tránh được việc phải nhờ người khác.

Ngày nay, đối với những người làm kinh doanh, việc chọn “ngày lành tháng tốt” để bắt đầu công việc, chọn người hợp tuổi để khai trương, xông đất đầu năm không còn là chuyện quá hiếm. Giới doanh nhân tâm niệm ngày đầu “xuất quân” suôn sẻ sẽ đem lại một năm làm ăn may mắn.

Chọn tuổi xông đất

Bất cứ ai cũng muốn được người tử tế, tốt tính đến xông đất nhà mình. Vì thế, người ta thường để ý tìm người hợp tuổi với mình để dặn trước nhờ xông đất.

Thông thường nên chọn người xông nhà hợp với tuổi chủ nhà, có thể là tam hợp hoặc nhị hợp.

Chẳng hạn như: Chủ nhà tuổi Tý thì nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu để xông nhà. Chủ nhà tuổi Sửu nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý. Chủ nhà tuổi Dần nên chọn người tuổi Ngọ, Tuất, Hợi. Chủ nhà tuổi Mão nên chọn người tuổi Mùi, Hợi, Tuất. Chủ nhà tuổi Thìn nên chọn người tuổi Tý, Thân, Dậu. Chủ nhà tuổi Tỵ nên chọn người tuổi Sửu, Dậu, Thân. Chủ nhà tuổi Ngọ nên chọn người tuổi Dần, Tuất, Mùi. Chủ nhà tuổi Mùi - nên chọn người tuổi Mão, Hợi, Ngọ. Chủ nhà tuổi Thân nên chọn người tuổi Tý, Thìn, Tỵ. Chủ nhà tuổi Dậu nên chọn người tuổi Sửu, Tỵ, Thìn. Chủ nhà tuổi Tuất nên chọn người tuổi Dần, Ngọ, Mão. Chủ nhà tuổi Hợi nên chọn người tuổi Mão, Mùi, Dần để xông nhà.

Mặc dù đã chọn tuổi nhưng người được nhờ xông đất, xông nhà người khác cũng e ngại. Vì cái vía của mình có may mắn, có đem lại tốt lành cho gia chủ hay không, việc đó phải chờ đến hết cả năm mới biết được. Thế nên việc nhờ người xông đất cũng không phải chuyện dễ dàng.

Thế mới hay, xông đất vẫn là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt hay uống một ly rượu vang, rồi cùng cầu chúc những điều tốt đẹp cho nhau trong năm mới… Thật là một khung cảnh ấm cúng trong những ngày đầu năm mới này!

(Theo Laodong.com.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Tham khảo một số điều cần tránh khi đặt tên cho con

Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Có một số điều nên tránh khi đặt tên cho con bố mẹ có thể tham khảo thêm ở bài viết này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Có một số điều nên tránh khi đặt tên cho con bố mẹ có thể tham khảo dưới đây.

dat-ten-can-tranh

1. Không nên đặt tên cho con theo trào lưu. Cái gì là mốt cũng sẽ rất nhanh lỗi mốt.

2. Không nên đặt tên con khó gọi, chỉ cùng một loại thanh âm, tạo cảm giác nặng nề, trúc trắc. Chẳng hạn: Đỗ Vũ Mỹ, Tạ Thị Hiện,...

3. Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt. Ngoài ra, đặt tên khó đoán giới tính còn dễ gây nhầm lẫn khi làm giấy tờ hay tham dự các cuộc thi.

4. Không nên đặt các tên mà nếu nói lái sẽ ra nghĩa xấu. Chẳng hạn như Tiến Tùng là Túng Tiền.
5. Không nên đặt tên mà nếu viết tắt các chữ cái đầu sẽ ra nghĩa xấu.

6. Không nên đặt tên quá cực đoan, tuyệt đối như Vô Địch, Mỹ Nữ,..., dễ gây áp lực cho con nếu đứa trẻ lớn lên không được như cái tên của mình, dễ khiến trẻ bị trêu chọc hoặc gây ấn tượng tiêu cực với người khác.

7. Không nên đặt tên con theo thời cuộc chính trị, mang màu sắc chính trị.

8. Tránh đặt tên con mang ý nghĩa thô tục, xấu xí, tù túng. Đã qua rồi thời kì ông bà ta thích đặt tên con thật “xấu” cho “dễ nuôi”. Ngày nay, một cái tên đẹp cũng góp phần lớn vào thành công trong ấn tượng giao tiếp, xưng hô và quan hệ hàng ngày.

9. Không nên dùng những từ ngữ ít dùng, quá xa lạ, khó hiểu.

10. Không nên đặt tên con khi viết không dấu sẽ thành nghĩa xấu.

11. Tránh tên Tây hóa. Nếu bé không mang quốc tịch nước ngoài hay có liên quan đến việc sinh sống ở nước ngoài thì cha mẹ nên theo đúng truyền thống Việt Nam, chọn cho con một cái tên thuần Việt.

12. Tránh những cái tên vô nghĩa.

13. Tránh những cái tên có có từ đồng âm hoặc ngữ âm nghe không hay, đa âm, đa nghĩa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tham khảo một số điều cần tránh khi đặt tên cho con

Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

Họ tên của chúng ta không chỉ là dấu hiệu đại diện cho một cá nhân mà còn liên quan đến tiền đồ một đời người, vì thế ai cũng hy vọng mình có được một cái tên hay.
Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khổng Tử nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Tô Đông Pha nói: “Trên thế gian chỉ có tên là có thực không thể dối trá”. Nghiêm Hạ thì nói: “Một tên đã lập thì đi cùng năm tháng”. Các tiên hiền đều đã nêu ra được tầm quan trọng của họ tên đối với con người. Cổ ngữ lại có câu: “Cho con ngàn vàng không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng cho con một cái tên hay”, đủ thấy cái tên có tầm quan trọng như thế nào.

Mỗi cái tên đều gửi gắm một niềm hy vọng thành công trong sự nghiệp, tiền đồ rộng lớn, cuộc sống sung túc, mưu cầu thông minh, xinh đẹp, mạnh khỏe cát tường, ý chí kiên cường, lòng ôm chí lớn, tri thức uyên thâm, nội hàm văn hóa…của mỗi con người. Do đó, cái tên không đơn giản chỉ là dấu hiệu hay mã số của mỗi con người.

Họ tên là kết quả tổng hợp tinh túy của các ngành khoa học như tâm lý học, xã hội học, triết học, lịch sử, dân tục học, là dấu mốc biểu thị hình tượng, tố chất, phẩm vị của mỗi cá nhân. Một cái tên đẹp phù hợp với mình có thể đưa ra những ám thị, dẫn dụ về mặt tâm lý, giúp con người tự tin, hỗ trợ thành công trong công việc và sự nghiệp. Họ tên đi theo mỗi con người cả đời, ảnh hưởng suốt đời. Mệnh tốt, vận hay lại thêm một cái tên đẹp thì có thể giúp bạn luôn công thành danh toại, mọi việc như ý.

Chữ tượng hình Trung Quốc bắt nguồn từ “Vật” trong tự nhiên, bản thân nó đã có linh khí sinh mệnh. Khi chữ viết trở thành tên của người và tên công ty, nó thường được gửi gắm hy vọng của con người, lại có thể tàng ẩn những thông tin dẫn dụ của thiên địa vũ trụ đối với con người, công ty. Tên tựa hư mà thực, đã thực lại truyền thần. Hàng ngàn năm nay, Tính danh học lưu truyền không suy, được đông đảo quần chúng tin dùng, tự đã có cái lý của nó. Họ tên có thể ảnh hưởng đến vận mệnh, là uy lực của “Số” và “Âm”. Chữ viết tạo nên họ tên được cấu thành từ các chấm và nét vạch, là cái căn bản của “Số”. Nói cách khác, chữ viết có chứa số, chữ viết chính là số. Số là biểu hiện của Hồn. Cổ nhân có câu “số trời”, “số trời khó thoát”…, có thể thấy sự ảnh hưởng của “Số” đối với vận mệnh đời người.

Ngày trước, nhà cách mạng giai cấp vô sản Tôn Bính Văn, người Nghi Tân, Tứ Xuyên là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản thời kỳ đại cách mạng. Xét về số lý của họ tên, Địa cách số 13 là số thủ lĩnh, nhưng Nhân cách số 19 lại đại diện cho “gió mây che lấp mặt trời, vất vả liên miên, tuy có trí mưu nhưng vạn sự đứt gánh”, lại là “số gây tổn thọ”. Số lý tam tài ngầm chỉ “tuy có thể phát triển nhất thời, nhưng nền móng không vững, dễ sinh cấp biến cấp họa”. Sau này, ông bị bắt và sát hại, vừa hay ứng với số này. Qua đó có thể thấy, sự tốt xấu của họ tên mỗi cá nhân không đơn giản ảnh hưởng đến hình tượng, ở tầng sâu nó còn có thể phản ánh vận mệnh và sự nghiệp của mỗi con người.

Cho nên, một cái tên tuy đơn giản nhưng thực tế lại hàm chứa rất nhiều kiến thức. Ngày nay, các bậc phụ huynh đều bắt đầu quan tâm dần đến việc đặt tên cho con cái. Hy vọng các bậc cha mẹ trước hết có một cách nhìn toàn diện và rõ ràng đối với họ tên để từ đó chọn cho con mình một cái tên hay.

Theo dattenhay


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

Khi thiết kế cửa hàng cần chú ý như thế nào? –

Tục lệ của con người đối với màu sắc được thể hiện ra, không phải chỉ là một loại thưởng thức màu sắc giản đơn mà là một loại vật chứa đựng, gửi gắm trong đó tình cảm của nhân loại, phản ánh được quan niệm, tín ngưỡng của dân tộc.     Vậy l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tục lệ của con người đối với màu sắc được thể hiện ra, không phải chỉ là một loại thưởng thức màu sắc giản đơn mà là một loại vật chứa đựng, gửi gắm trong đó tình cảm của nhân loại, phản ánh được quan niệm, tín ngưỡng của dân tộc.

 

171012 thuc an nhanh 2

 

Vậy là, trong khi thiết kế màu sắc cho dáng vẻ bên ngoài cửa hàng, thì phải chú ý xem sự hài hoà của nó với quan niệm nhận thức truyền thống của con người với màu sắc, phải khiến cho con người tiếp nhận màu sắc bên ngoài kiến trúc cửa hàng. Đương nhiên, theo sự phát triển của văn hoá hiện đại, yêu cầu của con người đối với màu sắc cũng sẻ có những thay đổi.

Như vậy, một người kinh doanh cửa hàng phải chủ động đáp ứng những nhu cầu mới của con người đối với màu sắc, lấy sự tươi mới, sức sống, mỹ cảm từ màu sắc để thu hút khách hàng, đạt được mục đích kinh doanh tiêu thụ hàng hoá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi thiết kế cửa hàng cần chú ý như thế nào? –

Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Tóm Tắt:

Ở quyển 1, tôi đã chứng minh rằng Chu Dịch là quyển sách trình bày 64 định luật, và chúng được viết lại từ những hình vẽ.
Ở quyển 2, tôi đã chứng minh rằng 64 định luật mang cấu trúc định sẵn, và cấu trúc ấy hình thành từ 6 học thuyết.
Trong quyển 3, tôi sẽ viết :
Bởi cho rằng đây là quyển sách trình bày 64 định luật, nên tôi sẽ diễn giải các thoán từ, hào từ theo đúng nghĩa đen của chúng.
Bởi cho rằng các thoán từ, hào từ mang cấu trúc định sẵn, nên tôi sẽ diễn giải chúng từ cấu trúc định sẵn ấy. Nói cách khác, có một qui tắc và từ qui tắc ấy thoán từ, hào từ được viết nên.
Bởi cho rằng Chu Dịch được viết lại từ các hình vẽ, cho nên khi căn cứ vào qui tắc tôi sẽ chỉ ra những thiếu sót ở một số hào từ.
Bởi cho rằng Chu Dịch là bản chép lại, cho nên tôi sẽ trình bày bộ Chu Dịch bằng ngôn từ hiện đại sau khi đã bổ sung những thiếu sót.
Và ví dụ minh hoạ ở mỗi hình thái sẽ giúp bạn đọc có được hình dung ban đầu tính ứng dụng dự đoán của Chu Dịch.

MỤC LỤC


QUYỂN 3: CHU DỊCH DIỄN GIẢI
Cấu Trúc Chu Dịch
Cấu Trúc Thoán Từ
Cấu Trúc Hào Từ
Cấu Tạo Của Từ
Qui Tắc Tạo Nên Thoán Từ
Qui Tắc Tạo Nên Hào Từ
64 Quẻ Dịch


1- THUẦN CÀN
2- THUẦN KHÔN
3- Thuỷ Lôi TRUÂN
4- Sơn Thuỷ MÔNG
5- Thuỷ Thiên NHU
6- Thiên Thuỷ TỤNG
7-Địa Thuỷ
8- Thuỷ Địa TỈ
9- Phong Thiên TIỂU SÚC
10- Thiên Trạch
11- Địa Thiên THÁI
12- Thiên Điạ BỈ
13- Thiên Hoả ĐỒNG NHÂN
14- Hoả Thiên ĐẠI HỮU
15- Địa Sơn KHIÊM
16- Lôi Địa DỰ
17- Trạch Lôi TUỲ
18- Sơn Phong CỔ
19- Địa Trạch LÂM
20- Phong Địa QUÁN
21- Hoả Lôi PHỆ HẠP
22- Sơn Hoả
23- Sơn Địa BÓC
24- Địa Lôi PHỤC
25- Thiên Lôi VÔ VỌNG
26- Sơn Thiên Đại Súc
27- Sơn Lôi DI
28- Trạch Phong ĐẠI QUÁ
29- THUẦN KHẢM
30- THUẦN LY
31- Trạch Sơn HÀM
32- Lôi Phong HẰNG
33- Thiên Sơn ĐỘN
34- Lôi Thiên ĐẠI TRÁNG
35- Hoả Địa TẤN
36- Địa Hoả MINH DI
37- Phong Hoả GIA NHÂN
38- Hoả Trạch KHUÊ
39- Thuỷ Sơn KIỂN
40- Lôi Thuỷ GIẢI
41- Sơn Trạch TỔN
42- Phong Lôi ÍCH
43- Trạch Thiên QUẢI
44- Thiên Phong CẤU
45- Trạch Địa TUỴ
46- Địa Phong THĂNG
47- Trạch Thuỷ KHỐN
48- Thuỷ Phong TĨNH
49- Trạch Hoả CÁCH
50- Hoả Phong ĐỈNH
51- THUẦN CHẤN
52- THUẦN CẤN
53- Phong Sơn TIỆM
54- Lôi Trạch QUI MUỘI
55- Lôi Hoả PHONG
56- Hoả Sơn LỮ
57- THUẦN TỐN
58- THUẦN ĐOÀI
59- Phong Thuỷ HOÁN
60- Thuỷ Trạch TIẾT
61- Phong Trạch TRUNG PHU
62- Lôi Sơn TIỂU QUÁ
63- Thuỷ Hoả KÝ TẾ
64- Hoả Thuỷ VỊ TẾ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Diễn giải giải mã và các ví dụ minh họa - Quyển 3

Giải mã giấc mơ thấy môi: Đôi môi ngọt ngào mang tới niềm vui

Người phụ nữ nào cũng muốn mình có một khuôn miệng đẹp, một đôi môi nhỏ nhắn, vì thế mới là đẹp. Trong giấc mơ cũng vậy, một đôi môi ngọt ngào sẽ dự báo có
Giải mã giấc mơ thấy môi: Đôi môi ngọt ngào mang tới niềm vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhiều chuyện vui hơn là một cái miệng đang há to.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Doi moi ngot ngao mang toi niem vui hinh anh
Ảnh minh họa

 

Nếu bạn mơ thấy một cái miệng đang há to, thì bạn nên thận trọng với phát ngôn của mình, nhất là khi ở trước đám đông nhé, ba hoa là thói quen xấu, bạn nên loại bỏ điều này. Để có được hình ảnh đẹp trong mắt người đối diện thì bạn nên học cách lắng nghe và chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với người khác nhé.
 

Nếu mơ thấy miệng há to để lộ cả hàm răng, thì đây không phải là điềm lành, điều này dự báo đang có người đang tìm cách hãm hại bạn, bạn nên đề phòng.
 

Trong giấc mơ thấy mình hôn người yêu nhưng miệng lại có mùi hôi khó chịu thì bạn nên cảnh giác, có thể bạn đang bị lừa gạt. Hãy tự kiểm tra xem có ai đó đang nói dối mình không? Nên suy nghĩ kỹ trước khi đưa ra hành động gì nhé.
 

Tuy nhiên, nếu trong giấc mơ, bạn thấy một khóe miệng nhỏ cùng đôi môi đầy đặn, gợi cảm, ấm nóng thì dự báo bạn sắp phát tài phát lộc đấy, một khỏan tiền lớn sắp rơi vào tay bạn. Hãy nhanh chóng kỹ cách tiêu tiền cho xứng đáng đi nhé.
 

Khi thấy một cái miệng rộng nhưng xinh xắn, dễ thương trong giấc ngủ, điều này có nghĩa là bạn sắp có thêm vài người bạn mới. Hãy tự tin thể hiện bản thân mình trước người khác nhé, đặc biệt là người khác giới, vận may sẽ mỉm cười với bạn đấy.


Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy môi: Đôi môi ngọt ngào mang tới niềm vui

Kiêng kỵ trần nhà quá cao hoặc quá thấp –

Hiện tượng: Trần nhà quá cao hoặc quá thấp đều có thể đều gây ảnh hưởng bất lợi cho người sống trong nhà.Trần nhà quá cao sẽ làm cho không khí trong nhà lưu thông kém, âm khí quá nặng, âm dương mất cân bằng, bất lợi cho sức khỏe con người. Trần nhà q

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Trần nhà quá cao hoặc quá thấp đều có thể đều gây ảnh hưởng bất lợi cho người sống trong nhà.Trần nhà quá cao sẽ làm cho không khí trong nhà lưu thông kém, âm khí quá nặng, âm dương mất cân bằng, bất lợi cho sức khỏe con người.

trang-tri-tran-nha-bang-hinh-anh-tren-cao-2

Trần nhà quá thấp trong phong thủy gọi là “hống thiên ốc”. Kiểu nhà này sẽ làm hao tổn quá nhiều tinh khí của con người, dễ làm con người này sinh tâm lý cô độc, sợ hãi… Đối với xã hội hiện đại mà nói, ngôi nhà như vậy còn bất lợi cho môi trường và việc tiết kiệm năng lượng.Trong các đô thị hiện đại, chiều cao tốt nhất của trần nhà nên khống chế ở khoảng 2.8m – 3.2m. Như vậy mới có lợi cho sự cân bằng âm dương trong nhà.

Phương pháp hóa giải: Nếu trần nhà quá thấp thì không nên lắp thêm trần thạch cao nữa, có thể lắp nhiều đèn một chút để hóa giải, ngoài ra còn cần chú ý cố gắng mở cửa sổ để thông gió, để duy trì sự cân bằng âm dương khí trường trong nhà và trao đổi không khí trong lành, tốt nhất trong nhà nên đặt một Đồng Long (con rồng bằng đồng), hiệu quả sẽ càng tốt hơn. Nếu trần nhà quá cao thì rất dễ hóa giải, đó là lắp tấm trần thạch cao thấp xuống một chút là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ trần nhà quá cao hoặc quá thấp –

Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Ai cũng muốn đường tình yêu của mình thuận buồm xuôi gió, nhưng 3 chòm sao lận đận tình duyên dưới đây lúc nào cũng gặp phải những trở ngại không đáng có.
Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng muốn đường tình yêu của mình thuận buồm xuôi gió, hanh thông thuận lợi nhưng mỗi người một cuộc đời riêng, 3 chòm sao lận đận tình duyên dưới đây lúc nào cũng gặp phải những trở ngại không đáng có trên con đường tìm kiếm hạnh phúc.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Chom sao lan dan tinh duyen, kho tim thay hanh phuc dich thuc hinh anh
 

Song Ngư

  Là chòm sao yêu đương thắm thiết nhưng cũng là chòm sao lận đận tình duyên, Song Ngư đơn thuần nhưng đa tình, đối với chuyện tình cảm lúc nào cũng cẩn thận chờ mong. Song Ngư hi vọng có tình yêu bước ra từ cổ tích, như ảo mộng xinh đẹp, dễ đắm chìm trong tình yêu mà quên hết thảy mọi điều xung quanh.    Vì quá mức cảm tính, quá mức màu hồng, quá mức lãng mạn tạo ra những suy nghĩ không thiết thực, không cần quan tâm xem đôi bên có phù hợp hay không, các điều kiện có đầy đủ hay không, chỉ lao đầu vào yêu. Đến lúc vỡ mộng thì lại nhanh chóng thoát ra. Vòng tròn lặp lại, thiếu chín chắn, thiếu thực tế mà cứ hết yêu lại chia tay.  

Bảo Bình

  Chòm sao lận đạn tình duyên Bảo Bình đối với tình ái không chấp nhận thỏa hiệp, đưa ra rất nhiều yêu cầu với đối phương. Nếu không đáp ứng hết thì dù tốt đến mấy Bảo Bình cũng sẽ từ chối. Bình thường nói chuyện rõ ràng, mạch lạc là thế nhưng đối diện với người mình yêu sẽ trở nên hết sức vụng về, chất phác, ngây ngô.   Kết hợp hai yếu tố này, một mặt Bảo Bình từ chối người ta vì yêu cầu cao, mặt khác Bảo Bình bị từ chối vì ăn nói không khéo léo, dễ nảy sinh hiểu lầm. Vì thế, đường tình duyên của chòm sao này cứ mờ mờ mịt mịt, lúc tưởng thành rồi lại thất bại.
Chom sao lan dan tinh duyen, kho tim thay hanh phuc dich thuc hinh anh
 

Xử Nữ

  Tính cách của Xử Nữ khiến cho họ trở thành chòm sao lận đận tình duyên. Gặp người đủ điều kiện Xử Nữ sẽ nhanh chóng đồng ý lời yêu nhưng tính ưa hoàn mĩ, tỉ mỉ, xoi mói của họ sẽ giết chết mối tình này bằng những yêu cầu thái quá, khắt khe. Không chỉ nhắc nhở, càu nhàu mà Xử Nử còn giáo dục và ép buộc đối phương thay đổi toàn diện.   Bị o ép đến ngạt thở, chắc chắn là không ai chịu được. Chủ nghĩa hoàn hảo, không cho phép trong mắt có một hạt bụi nên Xử Nữ gặp ai cũng chê, cứ ở bên lâu ngày là chắc chắn sinh chuyện, không thể yên bình được.
Chòm sao nào khó buông bỏ quá khứ nhất? Tự do tự tại, 3 chòm sao độc lập yêu thích cuộc sống một mình Những thói quen xấu khiến 12 sao nữ ế dài dài
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Đặc trưng của núi Tham Lang

Núi Tham Lang thuộc cát tinh. Gia chủ ngụ tại đây sẽ hưởng nhiều phúc lộc.
Đặc trưng của núi Tham Lang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Núi Tham Lang là một trong cửu tinh kết huyệt. Hình dáng núi giống cây măng mới mọc, đỉnh núi bằng, bốn mặt núi tròn.

Dac trung cua nui Tham Lang hinh anh
Núi Tham Lang

Núi Tham Lang có 12 dạng khác nhau. Loại cát (tốt) có đặc điểm: nhọn như măng mới mọc; trên nhỏ dưới to; xung quanh tròn trịa; đỉnh bằng phẳng mà tròn, thanh tú. Loại hung (xấu) chỉ hình núi đổ nát, nứt nẻ, mặt nhọn, thân vẹo, núi có nhiều đá kỳ quái.

Núi Tham Lang ngũ hành thuộc Mộc. Mộc - Hỏa tương sinh, nên lấy núi Liêm Trinh thuộc Hỏa làm Thái Tổ sơn là tốt. Nếu núi Tham Lang cách xa núi Thái Tổ Liêm Trinh khoảng chục, trăm dặm thì kết huyệt đại quý.

Núi Tham Lang thuộc cát tinh. Gia chủ ngụ tại đây sẽ hưởng nhiều phúc lộc. Nếu được núi Tham Lang tú lệ, có quần sơn bao bọc, gia chủ và con cháu tất là quan văn hoặc đời đời được phúc ấm.

Trong dương trạch, nóc nhà cao, tường nhấp nhô, hiên nhà ôm bao bọ là nhà Tham Lang Mộc hình. Chủ nhân sẽ nổi tiếng về văn chương.

Trạch Mộc Tham Lang kỵ trước cổng có hung sa (gò hung). Điều này không tốt cho con cháu của gia chủ, đặc biệt là con trai.

Theo Bí ẩn thời vận

 
 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng của núi Tham Lang

Đền Phù Xá - Hải Phòng

Đền Phú Xá tọa lạc trên mảnh đất mang tên Phú Xá và nằm cạnh tuyến đường quốc lộ 5 nối liền cảng biển Hải Phòng. Đền Phù Xá hấp dẫn nhiều du khách.
Đền Phù Xá - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người Việt Nam có câu “Tháng Tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” vì vậy dù có đi đâu, làm gì thì những con người Việt Nam cũng luôn dành thời gian quay trở về với tấm lòng thành kính đến dâng hương lên bàn thờ để thể hiện lòng thành tâm đối với các vị anh hùng của đất nước. Đền Phú Xá sẽ là một điểm tâm linh có một không hai cho mọi du khách.

Địa Điểm: Đền Phù Xá tọa lạc bên quốc lộ 5, làng Phú Xá, huyện Hải An, thành phố Hải Phòng.

Ngày Lễ Chính: Vào 2 ngày 20-8 âm lịch hàng năm và ngày 5-3 âm lịch hàng năm.

Đền Phú Xá tọa lạc trên mảnh đất mang tên Phú Xá và nằm cạnh tuyến đường quốc lộ 5 nối liền cảng biển Hải Phòng với thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Đền Phú Xá là nơi nhân dân tưởng nhớ công lao của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288.

Lịch Sử: Tương truyền để chuẩn bị cho trận thủy chiến, Trần Hưng Đạo đã lấy nơi đây làm nơi chứa lương thảo của quân đội, đồng thời sau chiến thắng diễn ra cuộc khao thưởng quân sĩ có công trước khi kéo quân về căn cứ Vạn Kiếp. Với ý nghĩa lịch sử đó, đền Phú Xá được nhân dân trong và ngoài thành phố biết đến là nơi tưởng nhớ công đức của Trần Hưng Đạo và là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng thiêng liêng của nhân dân.

Bên cạnh đó, đền còn thờ nữ tướng Bùi Thị Từ Nhiên người địa phương có công đóng góp và vận động dân làng góp nhiều lương thảo cho nhà Trần đánh giặc. Bà được Trần Hưng Đạo trọng dụng và giao cho giữ trọng trách chăm lo quân lương và cung cấp hậu cần cho quân đội. Với công lao đó Bà được nhân dân phối thờ tại đền Phú Xá.

Kiến Trúc: Đền Phù Xá được kết cấu theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm 05 gian tiền đường, nhà thiêu hương, giải vũ và hậu cung. Các đường nét trang trí kiến trúc chạm khắc, đắp vẽ mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

Đền được xây dựng theo thế phong thuỷ, trước cửa đền là một hồ bán nguyệt, đền quay về hướng Đông Nam phía cửa biển Bạch Đằng – nơi đã từng chứng kiến những trận đánh chống giặc ngoại xâm đã đi vào sử sách, vào huyền thoại của dân tộc: trận chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chiến thắng quân Tống năm 981, chiến thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng năm 1288.

Hồ bán nguyệt trước cửa Đền Phú Xá
Hồ bán nguyệt trước cửa Đền Phú Xá

Đền được trùng tạo vào thời Tự Đức (1848 – 1883), lúc đầu là một ngôi đền nhỏ bằng tranh tre, trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, đền Phú Xá ngày nay đã trở thành một công trình kiến trúc bề thế.

Lễ hội tưởng nhớ Trần Hưng Đạo diễn ra vào 20/8 âm lịch hàng năm và ngày 5/3 âm lịch ngày mất của bà Bùi Thị Từ Nhiên. Trong lễ hội có các nghi thức tế lễ, dâng hương và ngoài những lễ vật thông thường như hương hoa, cây trái, lễ hội đền Phú Xá còn có một lễ phẩm độc đáo dâng lên bàn thờ thánh đó là những chiếc bánh đa nướng bắt nguồn từ việc làm lương khô cho quân sĩ thời Trần.

Với những giá trị to lớn về lịch sử văn hóa, về nghệ thuật kiến trúc hàm chứa tại di tích, đền Phú Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1988 và trở thành một điểm đến tham quan bổ ích, hấp dẫn du khách trong và ngoài thành phố.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Phù Xá - Hải Phòng

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd