Tuổi Sửu và tuổi Thìn có hợp nhau không? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Lưu Bị là vị Hoàng đế khai quốc của nhà Thục Hán trong thời Tam Quốc, ông còn có một biệt danh khác là "tai to" và thường được quân địch gọi là "đại nhĩ tặc" (giặc tai to). Tương truyền Lưu Bị "tai to rủ xuống tận vai", tuy có phần hơi cường điệu nhưng chí ít cũng đủ để thể hiện rằng, đôi tai của Lưu Bị lớn, to hơn hẳn so với người thưòng. Tai to cũng là một trong những kiểu tướng phú qúy.
Xem tướng đôi tai phú quý có đặc điểm: Tai dài, rộng, đầy đặn, không khuyết; luân quách phải phân tách rõ ràng, màu sắc sáng, có màu ửng hồng hoặc trắng ngà, phần trên của tai cao quá lông mày,... Nếu không hội tụ đồng thời các đặc điểm trên, sự phú quý của chủ nhân bị giảm thiểu.
Xem tướng Tai đòi hỏi xem cả Hình lẫn Sắc.
Dưới đây là chi tiết một số nét tướng của đôi tai phú quý:
- Tai không khuyết, sắc tai trắng hơn da mặt, phần trên tai cao hơn lông mày là dấu hiệu của sự nổi tiếng, dễ vang danh trong thiên hạ.
- Tai lớn, dày và chắc, hình dáng thanh tú, màu sắc tươi sáng và phải cao ít nhất ngang mắt là đặc trưng của người có vị thế cao trong xã hội, được mọi người biết đến và ngưỡng mộ.
- Tai dày, thùy châu (dái tai) rõ và to, rủ xuống phía dưới là tướng phú quý, nếu hướng về miệng lại càng phú quý hơn.
- Tai lật ngửa (từ phía trước nhìn thẳng vào mặt thì không thấy tai) cho thấy chủ nhân là người có địa vị cao trong xã hội, sự nghiệp thông suốt, thuận lợi.
- Tai ép sát vào da đầu, luân quách (vành ngoài và vành trong của tai) rõ ràng, tai cao hơn lông mày thì chủ nhân là người thông minh, sáng suốt, có khả năng trở thành người lãnh đạo, cuộc đời có nhiều vinh hoa phú quý.
- Tai lớn và dày, lỗ tai rộng và màu sắc tươi nhuận, khi về già cuộc sống sung túc, dư dả tiền bạc.
- Tai có màu sắc ửng hồng pha lẫn màu trắng ngà hoặc tai có đường nét cong tròn đều là tướng người được hưởng thụ cuộc sống an nhàn.
- Hình tai dài và lớn, bên trên cao hơn lông mày, bên dưới ngang với góc miệng là tướng thọ. Cả đời ít khi ốm đau dù gặp nghịch cảnh cũng chẳng bao giờ buồn phiền.
- Tai màu ửng hồng minh nhuận biểu hiện tâm thần cường tráng. Sắc tai hồng hào là tướng có địa vị trong xã hội và được nhiều người yêu mến.Nhĩ thông thường đi đôi với mục minh.
- Tai đầy áp sát vào đầu, đứng trước mặt không trông thấy tai, đại phú.
- Trong lỗ tai mọc lông là đại thọ, vô bịnh. Có mục ruồi là thông minh quí hiển.
- Tai rủ gần vai, tai nhô cao tới óc đều là phú quí cung cách.
- Tai trâu là đần, nhưng hiền và thọ.
- Tai dày, cứng, vểnh mà dài là người trường thọ, có quan lộc. Vành tai rõ, không mỏng là người thông minh.
- Trong tai có nốt ruồi là người có trí tuệ và con cháu cũng rất thông minh. Lỗ tai rộng, đút vừa ngón tay là người thông minh, nhanh nhẹn, khoáng đạt.
- Tai có sắc trắng là người có địa vị cao trong xã hội. Tai dày mà tròn là người có phúc lộc.
- Tai trắng hơn mặt là người thông minh, có danh vọng. Phần trên tai cao vểnh là người có trí tuệ, có địa vị xã hội và thường được hưởng an nhàn, sung sướng.
- Dái tai dài, tròn, dày là người có quyền lực lớn hoặc có khả năng cảm thụ nghệ thuật cao độ.
Tuy nhiên, tất cả các đặc điểm trên phải đi đôi với sự cân xứng của cả 2 tai thì mới được coi là đôi tai phú quý.
Một số đặc điểm tướng tai xấu lịch vạn niên 365 tổng kết
- Tai thô, to, đen là người ngu si, bần tiện.
- Tai mỏng, mềm, vành tai lộn ra ngoài và hướng về phía trước là người bần hàn.
- Vành tai không tựa vào nhau, lệch và nghiêng ra sau là người thiếu ý chí, bần hàn, vô tình, vô nghĩa.
- Tai đen, vành tai lồi lõm là người phải sống xa nhà, nghèo khó. Tai trắng và mỏng như giấy là người đoản thọ.
- Tai nhỏ, thấp hơn mắt là người nghèo khó, chết sớm. Tai mỏng, to, gốc tai nhỏ là tướng đoản thọ.
- Tai không có vành, lật ra sau là người yếu sinh lý, xuất thân bần hàn, cuộc đời không có được sự giúp đỡ.
- Lỗ tai nhỏ là người kém thông minh, không nhanh nhạy, cuộc sống gia đình không hòa thuận, đoản thọ.
- Phần trên tai rất nhọn, là người không có trí tuệ, thường có dã tâm.
- Tai có sắc đen hoặc đỏ là nghèo khó.
- Tai trông tối thui, triệu chứng của tinh thần suy nhược, tất nhiên học bất thành, không thể đỗ đạt. Nếu tai vàng héo khô khốc, tính mạng sắp nguy.
- Tai mỏng lại vảnh ra đàng trước gọi là tai dơi, tai chuột là phá sạch sản nghiệp tổ tông, cờ bạc đến bán vợ đợ con cũng không hối hận.
- Tai lật nghiêng là người không có nhà. Lỗ tai lớn rộng là thông minh tài trí, dư ăn dư để, lỗ tai hẹp nhỏ, là bần cùng ngu độn yểu mạng. Tai chuột là trộm cắp nghèo khó suốt đời, có khi chết trong lao tù.
- Tai nhỏ ngắn mà lật ngược ra sau là ẩu thơ côi cút, tài tán gia vong phiêu bạt. Tai như tai cọp là giàu sang uy nghi, mà lòng dạ hung ác, thương ghét bất thường, hại người rất dễ.
- Tai nở banh ra như bông bụp nở thì phá sạch của tổ tiên rồi nghèo khó đến chết. Tai lừa tai ngựa là khốn đốn suy bại, mà lại dâm đãng.
- Tai khỉ là bạch thô thành gia. Tai heo là lúc giàu lúc nghèo không chừng nhưng đa sắc dục, lại sanh bệnh yểu. Tai mỏng mà nghệch ra trước gọi là tai quạt gió là phá sạch của tổ tông, hay đam mê, tới già cô độc.
- Hai tai mỏng vểnh về đằng trước, sách tướng gọi là Chiêu phong nhĩ (tai đón gió) chủ phá bại. Nếu nó lại mỏng lệch thì bán sạch nhà cửa ruộng vườn. Tướng bạt nhĩ lộn ra phía sau (đảo hậu), suốt đời không mua nổi cái nhà. Dù con nhà gia thế, nếu có hai loại tai đó rồi cũng thất cơ lỡ vận.
Trong lịch pháp, cứ mỗi 60 năm gọi là một nguyên, thượng nguyên quản giữ 60 năm, trung nguyên quản giữ 60 năm, hạ nguyên quản giữ 60 năm, tam nguyên có tổng cộng 180 năm.
Chín ngôi sao của cửu cung nhập vào 180 năm này, mỗi ngôi sao quản giữ 20 năm. Cho nên gọi là Tam nguyên cửu vận.
? Đọc ngay để đừng mắc phải những điều cấm kị đó nhé. Lại một kì thi nữa sắp tới, các sĩ tử đang cố gắng chạy đua với thời gian để hoàn thiện thêm kiến thức cho mình. Chắc hẳn không chỉ các sĩ tử mà các bậc phụ huynh cũng vô cùng lo lắng, căng thẳng trước kì thi. Cha mẹ đặt rất nhiều kì vọng vào con cái, thấy con vất vả nhưng cũng chỉ biết động viên, bởi học hành thi cử đỗ đạt sẽ mang lại cho con tương lai tươi sáng hơn. Nhiều bậc cha mẹ có thời gian tìm hiểu thêm kiến thức về phong thủy có chung một câu hỏi rằng, trước khi đi thi không nên làm gì? Nên tránh những điều cấm kị nào để không ảnh hưởng đến kết quả thi, phí hoài công sức dùi mài kinh sử bấy lâu của con mình. Học hành là chuyện cả đời, không phải một sớm một chiều là có thể thành tài. Nhưng thi cử thì “học tài thi phận”, ngoài thực lực thì còn cần cả yếu tố may mắn nữa. Hôm nay, hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm xem trước khi đi thi không nên làm gì, theo phong thủy có những điều gì cần kiêng kị trước kì thi nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chắc ai trong số chúng ta cũng từng ít nhất một lần rơi vào cảnh vừa nhận được một đống tiền lương tiền thưởng hay sinh hoạt phí, nhưng chẳng bao lâu sau đã thấy tiền đi đâu hết, lại nghèo túng rồi. Cứ tới cuối tháng rơi vào cảnh cháy túi là lại ngồi vò đầu bứt tai, tự trách mình đem tiền đi đâu hết. Rõ ràng là chẳng tiêu gì mà tiền vẫn cứ đội nón ra đi. Hôm nay, các bạn hãy cùng Lịch ngày tốt xem tử vi để tìm hiểu rốt cuộc thì 12 con giáp tiêu tiền vào những chỗ nào nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Vầng trán tròn - Tâm địa ôn hòa
Những người sở hữu vầng trán này có tính tình đôn hậu, hòa nhã, trung thực, khiêm tốn, không bao giờ áp đặt tư tưởng của bản thân lên người khác. Nhưng những người này thường hành động theo cảm tính, dễ rơi vào rắc rối tình cảm. Ngoài ra, những người có trán tròn ít có khả năng sáng tạo, không có tính kiên trì hay nhẫn nại, thường xuyên thay đổi công việc.
2. Trán góc cạnh - Tính cách thực tế
Những người có trán góc cạnh không bao giờ theo đuổi những tư tưởng không thực tế. Trong tình yêu hay hôn nhân, họ chú trọng tới vấn đề tài chính kinh tế của đối phương. Họ làm việc chăm chỉ, cần cù nhưng không biết cách làm việc khoa học, theo kế hoạch. Vì thế họ chỉ phù hợp với những công việc đơn điệu, đòi hỏi phải luôn luôn chăm chỉ và cố gắng nỗ lực. Phụ nữ sở hữu vầng trán này, có thể kề vai sát cánh cùng những người đàn ông, phát huy tốt toàn bộ năng lực của bản thân.
3. Trán chữ M - Giàu sức sáng tạo
Suy nghĩ phản xạ nhanh, ý thức chủ quan tương đối mạnh là đặc điểm cơ bản của những người có trán hình chữ M. Họ có thể dự đoán được một phần tương lai, đề xuất được những ý tưởng mới mẻ. Vì thế, họ cũng phù hợp với những công việc yêu cầu sự sáng tạo dồi dào và không ngừng đổi mới. Trong tình yêu, họ luôn là người chủ động, rất lãng mạn và có thể nắm bắt được tâm tư tình cảm của đối phương.
4. Trán hình ngọn núi Phú Sỹ - Có ý thức bản thân
Những người có đường tiếp xúc tóc trán tạo thành một đường cong hơi nhọn giống như hình một ngọn núi thường giàu tình cảm, hòa đồng với mọi người xung quanh và có một cuộc sống may mắn, hạnh phúc. Tuy nhiên những người này làm việc thường không có kế hoạch, hay dựa theo những gì người khác làm, đôi khi còn bỏ ngang giữa chừng. Vì thế mà thường gặp không ít thất bại. Nhưng tới khi họ đã tìm được công việc mà bản thân yêu thích, họ lại gặt hái được không ít thành công.
5. Trán hói - Quá nhiều lo lắng
Những con người ngay khi còn trẻ đã sở hữu tướng trán này, hành động vô cùng tích cực nhưng lại luôn nặng trĩu những lo âu, trăn trở, không lắng nghe ý kiến đóng góp của người khác. Vì thế mà họ cũng gặp không ít những thất bại. Những người sở hữu khuôn trán này làm việc cứng nhắc, thường làm theo suy nghĩ của bản thân, ít khi nghĩ đến cảm nhận của người khác. Họ không thích hợp với những công việc xã giao, những vị trí đòi hỏi đối ngoại tốt. Nếu như bạn có tính cách này, hãy học cách lắng nghe và tiếp thu ý kiến của mọi người.
6. Trán hẹp - Làm thuê cho người khác
Những người có trán hẹp hết lòng đối với người khác, vì thế mà họ thường bị lừa đảo hay lợi dụng. Tuy nhiên họ lại không hề khéo léo trong việc đối nhân xử thế với mọi người. Họ thường không đứng ở vai trò người lãnh đạo, nhưng nếu không ngừng cố gắng, tới tuổi trung niên, họ có thể có một cuộc sống an nhàn, ổn định.
Trán gồ ở phần trên: Con người của trường phái lý luận, giàu tình cảm, hòa đồng, thân thiết với những người khác
Trán gồ ở giữa: Những người này có tầm nhìn xa, lý tính, họ sẽ không bỏ lỡ những thời cơ tốt và trong tình yêu hay công việc họ đều nắm bắt được những cơ hội tuyệt vời.
Trán gồ phía dưới: Là những con người luôn luôn chăm chỉ, không ngừng nỗ lực để đạt được những thành tựu tốt. Họ cũng sở hữu năng lực quan sát tốt, đầu óc phán đoán, phân tích nhạy bén.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Năm mới 2017 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2017 mới nhất nhé!
Một số phong tục kiêng kỵ từ ngày xưa vẫn còn được lưu truyền đến hôm nay cũng tạo nên những nét riêng cho ngày Tết. Trong 3 ngày Tết và đặc biệt là ngày mùng 1 Tết âm lịch. Thì phong tục về những điềm lành và kiêng kỵ trong ngày Tết đã được ông bà ta từ ngàn xưa đã chiêm nghiệm và đúc kết được, và truyền lại cho con cháu cho đến ngày nay. Tuy nhiên, những tập tục mê tín, những quan niệm không có tính khoa học cũng nên được loại bỏ.
Những kiêng kỵ trong những ngày Tết
1./ Kiêng quét nhà trong 3 ngày Tết: Vì người Việt cho rằng nếu quét nhà trong 3 ngày đầu năm mới thì Thần Tài sẽ…”đi mất,” tiền bạc sẽ ra khỏi nhà, mang lại điềm xấu, không may mắn cho gia đình. Do đó, ngày 30 tết, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp nhà cửa, vườn tược, bàn thờ sạch sẽ trước lúc giao thừa và những ngày Tết thì mọi người phải hết sức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.
Ở Nam bộ sau khi quét dọn phải cất hết chổi, nếu trong ngày Tết bị mất chổi có nghĩa là năm đó nhà sẽ bị trộm vào vét sạch của cải. Ở nông thôn ngày Tết, hiện nay còn có một số nhà vẫn giữ tục lệ rắc vôi bột ở bốn góc vườn, rồi vẽ mũi tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ.
2./ Kiêng việc vay mượn hay trả nợ, cho vay: Chỉ trong hoàn cảnh túng thiếu hoặc cấp bách, người ta mới nghĩ đến chuyện vay mượn tiền bạc hoặc đồ dùng của người khác. Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc mượn đồ đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm.
3./ Kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ xúi quẩy.
4./ Kiêng làm vỡ các đồ vật: Ông bà ta quan niệm, từ “vỡ”, “bể” là những từ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa, đó có thể là vật dụng trong nhà hoặc thậm chí là các mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Do đó, người già thường khuyên con cháu trong những ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén. Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
5./ Kiêng ra đường vào ngày xấu: Theo quan niệm của ông cha ta thì ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ “Mùng năm, mười bốn, hăm ba/ Đi chơi còn thiệt nữa là đi buôn”, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành hay các cuộc du xuân.
6./ Kiêng mặc quần áo màu trắng, đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh… để tạo nên sự hưng phấn và vui vẻ.
7./ Kiêng nói to cãi vã, nối xấu, mắng người khác: Đây là những việc tạo ra sự ồn ào hỗn loạn và đem lại nỗi buồn cho người khác. Đặc biệt ngày Tết mọi người cần quan tâm đến cách cư xử với hàng xóm láng giềng, bạn bè và người thân trong gia đình. Ai cũng ngại và sợ to tiếng hoặc xô xát thì quanh năm bị xui xẻo.
8./ Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà nào có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
9./ Kỵ người khác đến xin lửa nhà mình ngày mồng 1 Tết: Vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn nên cho người khác cái đỏ trong ngày mồng 1 Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may.
10./ Kiêng cho nước đầu năm: Cũng như lửa, nước được ví như “nguồn tài lộc” trong câu chúc “tiền vô như nước,” nếu cho nước thì coi như … mất lộc. Thường thì trước khi bước sang năm mới ở nông thôn nhà nào cũng lo đổ đầy nước vào bể, vào chum hoặc vại. Từ trong tâm thức người ta tin rằng năm mới đến sẽ đem theo của cải nhiều như nước.
Một số tục kiêng kỵ từ ngày xưa vẫn còn được lưu truyền đến hôm nay cũng tạo nên những nét riêng cho ngày Tết. Tuy nhiên, những tập tục mê tín, những quan niệm không có tính khoa học cũng nên được loại bỏ.
>>> Năm mới 2017 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2017 mới nhất>>>
Những biểu tượng mang lại điềm lành:
1./ Cây quất: Cây cối đâm chồi nảy lộc vào mùa xuân là lẽ tự nhiên, nên nếu nhà bạn có thứ cây xanh nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều “lộc.” Đặc biệt, đối với cây quất, nếu có đủ “tứ quý”: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn cả năm.
2./ Hoa đào: Nếu như ở miền Nam, người dân đón Tết với cái nắng xuân ấm áp và những cành mai tươi tắn sắc vàng thì ở miền Bắc vẫn có những bông hoa đào khoe sắc thắm để xua tan cái không khí lạnh lẽo xứ Bắc. Hoa mai và đào là hai loài hoa được các gia đình người Việt Nam ưa chuộng nhất trong ngày Tết.
3./ Hoa mai: Nhân dân ta quan niệm rằng, sau Giao thừa nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh. Quan niệm đối với hoa mai như thế nào thì hoa đào cũng như thế: nếu hoa trổ bông có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.
4./ Tục mua muối đầu năm: “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” vẫn là câu nói truyền miệng từ bao nhiêu đời nay. Cuối năm để chuẩn bị cho các bà các mẹ cơi trầu đầy đủ, con cháu vẫn thường sắm chút ít vôi cho miếng trầu thêm đậm đà, rồi mỗi sáng mồng 1 Tết, khi thấy cô hàng muối rao qua nhà, các bà các mẹ sẽ gọi lại để mua thêm ít mặn mà cho gia đình, vợ chồng con cái một năm thêm mặn mà bền chặt.
5./ Tục lệ đi chùa cầu may: Đi chùa lễ đầu năm trở thành một thói quen của các tăng ni phật tử và phần lớn người dân. Vào chùa, mọi người đều kính cẩn cúi đầu trước tượng phật uy nghiêm mà hành lễ, xin đức phật từ bi hỉ xả phù hộ cho gia đình, cho bạn bè, cho toàn bộ người thân yêu bên mình một năm đủ đầy hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.
>> Đã có VẬN HẠN 2017 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2017 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Tài gặp đào hoa, mộc dục thì vợ dễ bị người khác lôi cuốn.
Trong Tứ trụ có kiếp tài, kình dương là khắc cha, làm tổn thương vợ, hoa tán của cải.
Thân vượng nhưng không có chỗ dựa là tổn thương vợ.
Nếu gặp thìn, tuất, sửu mùi nhiều là khắc vợ.
Tài, quan đều rơi vào tuần không, vong là tuổi trung niên mất con, khắc vợ, phải đi nơi khác kiếm ăn.
Thê gặp thê là có 2 lần hôn nhân.
Sao thê mất lệnh là ly hôn giữa chừng.
Tứ trụ không có tài là người đi theo tăng đạo, khó có vợ, có con.
Trụ ngày không có tài là xa lìa vợ.
Hoả mạnh, thổ khô thì thân cô đơn, vợ khỏe thì mình ốm.
Thân đóng ở ngang vai ( anh em) để thành cục là mấy lần làm chủ rể.
Cung thê hợp thành cục để khắc mình là vợ nhưng khó giữ được vợ.
Cung thê bị hỉ thần xung thì tuy vợ đẹp nhưng khó bách niên giai lão.
Lệnh tháng, tài đóng ở tuyệt địa thì vợ nội trợ kém.
Gặp cả kình dương và kiếp tài thì phải lấy vợ lần nữa.
Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thìn tuất tương xung là vừa có vợ lẽ, vừa nằm không.
Kình dương đóng ở trụ ngày thì vợkhông hiền và hao tài.
Tài yếu mà gặp kiếp là ba vợ mà vẫn vất vả.
Trụ ngày đóng ở thực thần lại còn gặp kiêu vợ là vợ thấp, người gầy ốm.
Trụ ngày phạm hoa cái là khắc vợ.
Vong thần, thất sát là con, hình phạt là vợ.
Trong Tứ trụ giáp ất bính đinh liền nhau là không có lợi cho vợ.
Tài yếu, thân vượng, tỉ kiếp nhiều là khắc vợ liên miên.
Tài phục dưới chi là vợ lẽ hoặc tì thiếp.
Thiên tài trên trụ giờ gặp tỉ kiếp là vừa phá tổ nghiệp vừa làm tổn thương vợ.
Tài tinh đã bị tỉ kiếp, tuế vận lại còn gặp tỉ kiếp thì năm đó nếu không bị tổn thương tài, phá tài cũng sẽ bị kiện tụng.
Thất sát, kình dương trên trụ ngày, trụ giờ gặp kiêu thần là giữa đường gặp tổn thất.
Tài ở tử tuyệt mộ địa thì suốt đời phiêu bạt.
Trạch mã đóng ở trụ ngày là vợ nhiều bệnh hoặc lười biếng.
Trụ năm, trụ ngày cùng ngôi thì lấy vợ cùng tuổi mới đỡ bị khắc.
Trụ ngày rơi vào hình địa là vợ nhiều bệnh.
Trụ ngày đóng ở mộc dục thì vợ đẹp nhưng khó tránh khỏi cãi vã.
Tài, ấn đều bị thương tổn là người khắc vợ, hại mẹ.
Trong Tứ trụ tài đóng ở cung khác là lấy nghĩa nữ làm vợ.
Trong Tứ trụ thương, kiêu đều có là con yếu, vợ ngu.
Tài tuyệt ở cung tù là muộn vợ, muộn con.
Tài thịnh lại gặp nhiều tỉ kiếp thì đề phòng cướp vợ em.
Trụ ngày gặp thất sát là chủ về vợ hung bạo, sát chồng.
Can ngày vượng, chi ngày là kình dương thì khắc vợ hoặc vì vợ mà phá sản.
Can ngày yếu, tài tinh nhiều là vợ không tuân phục chồng.
Ngang vai hợp với chính tài là vợ đoan trang nghiêm túc.
Tài tinh gặp tỉ kiếp lại không được cứu trợ thì đề phòng vợ gặp tai ương mà chết.
Chi ngày là thất sát, thiên ấn là vợ cả, vợ lẽ bất hòa.
Tỉ kiếp, nguyệt kiến vượng là tuổi trẻ đã chết vợ.
Tỉ kiếp, kình dương gặp hình, thương là chết trong chốn trần ai.
Tứ trụ gặp cả suy và tử là đến già vẫn sống cô đơn.
2. XEM NAM NỮ HỢP NHAU
Can chi của ngày giống nhau là hao tổn tài, không lợi cho vợ chồng.
Chi ngày gặp hình hoặc bị xung khắc là nam không lợi cho vợ, nữ không lợi cho chồng.
Trụ ngày bị thương quan là vợ chồng không hòa thuận nhau, mình hay bị đối phương chửi.
Nam gặp thương quan là có kết hôn hai lần, nữ gặp thương quan là có tái giá.
Ngày lệch âm, dương là không có lợi cho hôn nhân, nam nữ gặp phải như thế tất sẽ phải tái hôn. Ví dụ : bính tí, kỉ sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi.
Nam gặp tỉ kiếp tất sẽ tranh vợ, nữ gặp tỉ kiếp sẽ tranh chồng.
Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ nội trợ tốt nhưng không hòa thuận.
Trong người thuần dương thì nam mất vợ, thuần âm thì nữ mất chồng.
Ngày giờ đối xung nhau thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con.
Nam gặp kình dương thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con. Nam gặp kình dương là lấy vợ hai lần, nữ gặp kình dương tất sẽ tái giá.
Cung thê bị khắc là không lấy chồng sớm, cung phu có khắc thì lấy vợ muộn.
Nếu mã phục ở dưới ngang vai ( anh em) thì vợ chồng lấy nhau không giá thú.
Thất sát đóng ở trụ ngày thì vợ chồng bất hòa, không chia tay nhau sẽ gặp điều xấu.
Trụ năm của vợ hoặc chồng gặp thiên khắc, địa xung thì dễ có nỗi buồn sinh tử biệt ly.
Nhật phá, nguyệt xung thì không lợi cho ly hôn.
Nam hoặc nữ gặp ngang vai nhiều thì hôn nhân muộn, nhưng nếu thân ở vượng địa thì lại là tảo hôn.
Quan sát hỗn tạp, thương quan nhiều, nếu nam gặp phải là người ham mê tửu sắc, nữ gặp phải là người theo trai.
Chính tài, thiên tài nhiều là người háo sắc, chơi bời, vợ chồng bất hoà.
Nam ấn nhiều thì khắc vợ, nữ ấn nhiều thì dâm loạn.
Trong Tứ trụ có phu tinh, thê tinh hợp nhau là cuối cùng có sự ly biệt.
Giáp thìn, giáp tuất, nam gặp phải hai ngày đó là khắc vợ, nữ gặp hai ngày đó là khắc chồng.
Nam hợp là chủ về tốt, nữ hợp là chủ về dâm.
Gặp phải vận thương quan là nam khắc vợ, nữ khắc chồng gặp phải tuế quân bị khắc phải đề phòng vợ chồng đều bị tổn thương.
Cô loan nhập mệnh là chồng khóc vợ, hoặc vợ khắc chồng.
Nếu tháng sinh gặp hàm trì thì vợ chồng đều có ngoại tình.
3. XEM LY HÔN
Ví dụ 1 . Càn tạo
Tháng 12 năm 1985 có một diễn viên nổi tiếng ở Trung Quốc nghe nơi tôi có nghiên cứu về dự đoán học đã đến xem thử.
Tháng 12 năm 1985 có một diễn viên nổi tiếng ở Trung Quốc nghe nơi tôi có nghiên cứu về dự đoán học đã đến xem thử.
Vừa gặp tôi ông ta nói : "Thầy Thiệu, xin thầy đừng tức, tôi vốn xưa nay không tin tướng số, nay đến thử hỏi thày xem có thể đoán được chính xác không?" Tôi biết ông ta không có ác ý, nên cảm thấy rất thông cảm. Sau khi sắp xếp Tứ trụ của ông ta, tôi khẳng định rằng: hôn nhân của ông không thuận, năm 1982 nếu vợ ông không thuận, năm 1982 nếu vợ ông ta không chết thì cũng đã ly hôn. Nghe xong ông ta rất phục vụ và nói với mọi người có mặt ở đó rằng : thầy Thiệu dự đoán đúng quá. Năm 1982 chúng tôi đã ly hôn.
Vì sao ông ta lại ly hôn? Vì trong Tứ trụ có can chi của trụ ngày giống nhau nên khắc vợ. Tân dậu là ngày âm dương lệch nhau, nam gặp phải sẽ lấy vợi hai lần . Hơn nữa dậu tuất của ngày giờ tương hại lẫn nhau nên không lợi cho hôn nhân. Năm 1982 ông ta 46 tuổi đại vận Canh tý là vận kiếp tài, lưu niên nhâm tuất là năm thương quan, lại còn nhật nguyên và thái tuế tương hại, nên là năm bại vận khắc vợ.
Ví dụ 2. Càn tạo
Tháng 3 năm 1986, ông Hoa nói với tôi: ông có một người bạn thông minh tháo vát, nhưng hôn nhân trắc trở, trong vòng 10 năm từ 24 đến 33 tuổi ly hôn hai lần, có phải mệnh của ông ta khắc vợ không? Tôi nói : ông ta không những khắc vợ mà e rằng trong 10 năm đó là hành vận khắc vợ. Nếu thông tin ông cứ nói giờ sinh tháng đẻ cho tôi biết thì tôi sẽ nói rõ.
Mấy ngày sau ông ta cho tôi biết ngày giờ sinh của bạn. Quả nhiên trong Tứ trụ có: " Nam gặp thương quan tất sẽ lấy vợ lần thứ hai". " Tứ trụ gặp tỉ kiếp" và "ngày giáp thìn" chính là tiêu chí khắc vợ. Từ 22 tuổi đến 33 tuổi chính là hành vận nhâm dần, được giáp gặp dần mão tất sẽ khắc vợ. Lại còn nhâm sinh giáp nên ngang vai càng vượng, kiếp thê càng hung. Lưu niên tân sửu và giáp thìn của ông ta lại là năm khắc vợ nên đã ly hôn hai lần.
Ví dụ 3. Càn tạoÔng ngo người mà thường được gọi là công tử đào hoa đã theo 5 cô, ly hôn 3 lần, lần thứ tư tại ly hôn. Ðể rút kinh nghiệm năm 1986 tôi đã lấy ngày sinh tháng đẻ của ông ta. Sau khi xem qua Tứ trụ thấy có "kình dương khắc vợ", cung thê và thê tinh hóa thành hỏa cục khắc thân, như thế gọi là "cung thê hợp cục để khắc thân, khó giữ được vợ".
Ví dụ 4. Càn tạo
Người này ly hôn năm 1986, nguyên nhân là trong Tứ trụ có "nhật đóng ở kình dương", "thương quan", thê gặp mộ địa" đều là những tiêu chí thông tin khắc vợ.
Ví dụ 5. Càn tạo
Trong Tứ trụ này có thương quan, ngang vai, kình dương, tháng ngày xung lẫn nhau đều là dấu hiệu khắc vợ. Cho nên tôi đoán anh ta ly hôn năm 1974. Quả đúng như thế ! năm 1974 là năm giáp dần, trong Tứ trụ mộc hỏa tương sinh , mộc giáp của giáp dần lại trợ sức cho thế của hỏa, thê tinh bị khắc, nếu không ly hôn thì dễ bị chết.
Ví dụ 6. Càn tạo
Tháng 3 năm 1987 có một người ở xã Tây an nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại trụ nhật, âm dương bị sai lệch, trụ tháng trụ ngày hình xung nhau nên khắc vợ rất nặng. Do đó tôi đoán : năm mậu ngọ (1978) phải ly hôn, năm mậu thìn (1988) lại phải ly hôn lần nữa. Quả nhiên sự việc đã phát sinh như dự đoán, không những là lần ly hôn thứ nhất đúng vào năm 1978 mà lần thứ 2 cũng rất ứng nghiệm.
Ví dụ 7. Càn tạo
Tháng 6 năm 1988 có người bạn đồng nghiệp đến thăm tôi, đưa cho Tứ trụ này nhờ tôi đoán.
Sau khi sắp xếp xong Tứ trụ, tôi nói : Tứ trụ này thương quan trùng lặp mà lại vượng, nên không những năm Ðinh mão (1987) có hoạ ly hôn mà bản thân người này suốt đời vất vả, trước mắt đang ở trong hoàn cảnh rất khó khăn. Nghe xong anh ta nắm tay tôi vừa lắc vừa nói: Thầy Thiệu nói đúng quá. Không dám dấu thầy, đây là Tứ trụ của tôi, trước mắt tôi đang rất khó khăn. Tôi chỉ quen xem tướng, còn về Tứ trụ hiểu biết không nhiều. Trong Tứ trụ mão hợp đáng lẽ là tốt, năm đinh mão ( 1987 ) tuất hợp Thái tuế, tại sao lại ly hôn? Tôi đáp : 2 mão trong Tứ trụ hợp với 1 tuất, lại còn gặp năm mão nên trở thành 3 mão hợp với 1 tuất, đó là tượng tranh hợp. Vì thế, vợ anh bị người khác quyến rũ đưa đi. Mão là mộc, tuất là thổ nên trong hợp có khắc. Ba mộc khắc 1 thổ nên ứng nghiệm việc ly hôn.
4. VỢ MẤT
Ví dụ 1. Càn tạo
Tháng 1 năm 1986 thầy Chu đưa Tứ trụ này đến nhờ tôi đoán. Xem xong tôi nói: người này đã 63 tuổi, là mệnh của một hòa thượng, trong mệnh không có vợ, nếu đã kết hôn thì từ năm 17 tuổi đến năm 26 tuổi chắc chắn đã chết vợ. Thầy Chu nói : đúng, vợ đã mất từ năm 24 tuổi.
Tứ trụ này, thương quan, tỉ kiếp vượng, chắc chắn là khắc vợ. Trong Tứ trụ lại không có tài nên là mệnh của người đi tu, khó có vợ con.
Ví dụ 2. Càn tạo
Tháng 7 năm 1986, tôi đến cơ quan trong thành phố giải quyết công việc có một người bạn chỉ vào một cán bộ nói với tôi: người này không tin vào dự đoán. Anh ta nói : chỉ cần anh đoán chuẩn một việc thì anh ta mới phục.
Lúc đó tôi rất bận, nhưng không có cách gì từ chối được, đành đoán vội đoán vàng để thỏa mãn yêu cầu của anh ta. Tôi nói với anh cán bộ đó rằng : mệnh của anh khắc vợ, khoảng năm 1963 có tang vợ. Anh ta liền nói : phục quá, phục quá ? Ðúng là vợ tôi đã mất năm 1962.
Tứ trụ này tỉ kiếp trùng trùng, can chi của nhật nguyên lại khắc nhau. Năm Nhâm quý là năm ngang vai kiếp tài. Năm nhâm dần (1962) đúng là tỉ kiếp gặp đất trường sinh nên chắc chắn vợ chết.
Ví dụ 3. Càn tạo
Tứ trụ này vợ mất năm 1984 là vợ mất năm giáp tí. Chính ứng với câu: "nam gặp kình dương thì khắc vợi" và "vận hành kình dương thì tài vận hao tán và khắc vợ". Năm 67 tuổi đúng là năm đại vận kình dương , lại gặp kình dương xung khắc Tuế quan nên chắc chắn là mất vợ.
Ví dụ 4. Càn tạo
Tháng 9 năm 1989 có một vị lãnh đạo đưa giờ sinh cho tôi đoán. Tôi xem xong Tứ trụ thấy chính thê nhâm thuỷ lâm mộ kho lại gặp tuyệt địa. Năm Mậu thìn (1988) đúng là nhâm thủy gặp tỷ kiếp vượng địa và mộ địa, nên nói với ông ta : " Nhất đinh sẽ có tang vợ". Ông ta thừa nhận vừa mất vợ năm ngoái. Ông ta còn hỏi : việc hôn nhân về sau ra sao? Tôi nói: trong vòng 3 năm tới chưa nên kết hôn, năm nay cũng là năm kết hôn có hại. Ông ta nói : đúng là năm nay kết hôn lại cũng ly hôn rồi.
Năm 1989 là năm Kỷ tị, thê tinh ở vào tuyệt địa, lại còn gặp tỉ kiếp vượng, nếu không kỷ ly hôn thì vợ cũng khó mà sống được.
Ví dụ 5. Càn tạo
- Khôn tạo đinh hợi
Năm 1991, lúc tôi dạy học ở Quế Lâm có một cán bộ đến nhờ đoán. Tôi thấy Tứ trụ người có tân tị, năm mệnh của vợ là Ðinh hợi, vì đại mệnh tương sinh đáng lẽ vợ chồng đằm thắm sâu sắc, nhưng vì trụ năm của hai người phạm thiên khắc, địa xung nên vợ mất năm 1986.
Có những người nội tâm không ai nhìn thấu, tuy rằng bề ngoài kiên cường nhưng trong lòng lại rất yếu đuối, bị tổn thương cũng chỉ có thể tự mình chịu đựng, chỉ cần người khác mở lời xin lỗi là lập tức đồng cảm, tha thứ. Trong 12 cung hoàng đạo, thì 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.
![]() |
![]() |
Đà Lạt chiều lất phất mưa, không khí thật mát mẻ, êm dịu. Cầm chiếc ô trên tay, Mi chậm rãi đi từng bước dạo giữa phố chợ sầm uất. Nhìn quanh, Mi thấy hai cô chú đang loay hoay dùng bạt che hàng trứng cho khỏi ướt, chị bán bánh tráng nướng đang hì hục thổi than giữa tiết trời ẩm ướt, phía xa kia các bạn trẻ và gia đình đang ngồi trên bậc thang dùng bữa vui vẻ cùng nhau… Nhịp sống của người dân Đà Lạt có vẻ thảnh thơi hơn nhịp sống ở phố thị Sài Gòn. Mi chưa bao giờ thấy cảnh kẹt xe hay dòng người chen lấn ở bất kỳ con đường nào nơi đây.
Cuộc sống ngày càng hiện đại, người làm marketing luôn phá cách tìm hướng đi mới cho thương hiệu để thu hút sự chú ý của công chúng. Đâu đó, Mi nghe được câu khẩu hiệu của một hãng dầu gội nổi tiếng: “Sống là không chờ đợi”. Đây là một câu khẩu hiệu có ý nghĩa rất tốt khi đưa ra hình tượng những người phụ nữ thành công trên thế giới như Madonna, Marilyn Monroe và Hồ Ngọc Hà nhằm khuyến khích giới trẻ hãy cố gắng sống và làm việc hết mình để đạt được thành công. Tuy nhiên cũng có người không đồng ý vì cho rằng câu khẩu hiệu này đang cổ vũ lối sống vội vàng. Riêng Mi thì không có ý kiến khen hay chê về câu nói trên. Điều mà Mi học được từ câu nói này chính là ý nghĩa sống trọn vẹn trong từng giây phút, không để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa.
Đôi khi vì đi quá nhanh nên Mi không nghe, thấy được tiếng hát nụ cười của những em bé, chú chim dễ thương xung quanh, không cảm nhận được mẹ đang ngồi may áo và ba đang ngồi uống trà mỗi buổi sáng tinh sương trước hiên nhà, và đặc biệt là Mi không cảm nhận được sự sống của mình đang diễn ra, hạnh phúc khi còn được hơi thở, được thân thể lành lặn, được sáu căn trọn vẹn. Nhìn lại mình và dòng người, Mi tự hỏi không biết mình đã chạy theo danh lợi, theo tiền tài, theo tình yêu, theo sự hưởng thụ bao nhiêu kiếp rồi? Mình sẽ tiếp tục chạy theo những dục lạc ấy bao nhiêu kiếp nữa? Và khi nào mình mới thoát được vòng quay của bánh xe luân hồi?
Mi luôn tự nhủ hãy sống thật chậm, trân quý từng giây phút được làm người, được thọ trì giáo pháp, được tu tập, được yêu thương. Mai đây, khi thân này về với tứ đại, Mi sẽ không hối tiếc. Theo thời gian, vật chất, thân giả hợp sẽ tan rã, chỉ có tình thương để lại đời.
Sau bốn năm dùi mài kinh sử ở trường đại học và năm năm có được việc làm như mong muốn, đôi lúc Mi tự hào với vị trí của mình, với số tiền, với chiếc xe, với ngôi nhà, với ba mẹ, với người thương… mà mình đang có. Mi cảm thấy hân hoan với lời khen và khó chịu với lời chê. Tự hào của Mi không phải là sự biết đủ và bằng lòng với hạnh phúc hiện tại mà là cái tự hào thể hiện sự tự mãn, sự khao khát muốn có thêm, muốn đạt được nhiều thành công, kiếm được nhiều tiền hơn và đi du lịch những nơi sang trọng hơn. Mi phải chạy thật nhanh để đạt được mục tiêu, không màng đến việc gieo hạt bất thiện vương vãi xung quanh. Đến khi quả khổ trổ sinh, Mi bị vấp và rơi vào hố do mình tự đào mà không hay. Tài sản tiêu tan, công việc thất bát, người thương xa lìa, nằm trên giường bệnh, Mi mới nhận ra rằng, mọi thứ đến nhanh thì cũng ra đi nhanh.
Không còn nhân viên tên Mi nào đang công tác ở cơ quan, tiền cũng không, chức vị cũng không, đất đai cũng không, người thương cũng không và thân xác này cũng không còn linh hoạt như xưa. Chỉ có nghiệp báo là thực sự. Những đau khổ mà Mi gieo cho người khác để được lợi cho mình, những vật chất mà Mi toan tính để có được nhanh, thời gian mà Mi bỏ rơi không chăm sóc cơ thể, gia đình… tất cả đang quay lại đòi nợ.
Một khi thân này nằm xuống, tâm thức ra đi thì son phấn, đầm áo, ba mẹ, con cái, nhà cao cửa rộng… có còn gì nữa đâu. Quán chiếu được những điều ấy, Mi quyết tâm dứt trừ những nguyên nhân sanh ra khổ ải, tầm cầu con đường giải thoát bằng thiền tuệ và trì giới.
Tu là sửa, là hoàn thiện những gì mình còn thiếu sót. Mi bắt đầu học thiền đi, thiền ngồi, thiền nằm, thiền ăn cơm, thiền lạy Phật, thiền công việc, học nói lời ái ngữ, học giáo Pháp… bằng sự tỉnh thức và có chánh niệm trong từng động tác. Đi chậm để biết mình đang đi, đang còn sức khỏe, còn sự sống để sải bước, để tiếp xúc và phát khởi tình thương với đất mẹ, với muôn loài. Lạy chậm để biết mình đang lạy, đang hướng về nguồn cội tâm linh của Tam Bảo và tổ tiên. Ăn chậm để biết mình đang ăn, biết ơn công phu lao tác, biết sự hiện diện của ba mẹ đang ngồi ăn cùng. Ngồi thiền, thở chậm và sâu để biết mình đang thở, biết an định tâm vào thân, biết hít vào là cung cấp oxy nuôi sống cơ thể, biết thở ra là thải độc tố trong người. Nói chậm để biết mình đang nghĩ gì, đang nói gì để không bao giờ hối tiếc…
Mi nhớ câu chuyện của một vị vua khi được binh lính bẩm báo là có bốn hòn đá lớn bao vây, đang lăn xuống kinh thành, không đường nào trốn thoát, ông chỉ nói một câu rằng: “Hãy sống thật sâu sắc trong hiện tại”. Bốn hòn đá ấy như bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử của đời người. Đã sinh thì phải tử. Đã sống thì phải bệnh. Không ai thoát được. Do đó, Mi trân quý từng giây phút có được sức khỏe, có được thân người, có được người thương xung quanh vì không biết khi nào những hòn đá ấy sẽ lăn đến và cướp đi mạng sống của mình hay người thân.
Hãy sống thật chậm, thật sâu sắc, thật dễ thương với con tim. Tâm thế nào thì thân thế ấy. Tâm chan hòa, tràn đầy tình thương thì thân sẽ vô cùng ấm áp, dễ chịu. Nghe tiếng chim hay nhìn giọt sương cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu muôn loài, yêu cuộc sống trong đó. Trái tim mà lạnh thì tội nghiệp cho lồng ngực quá. Bắc cực giá rét nên ít sự sống. Miền nhiệt đới nóng ẩm nên nhiều sinh vật sinh sôi. Muốn trồng rừng tình thương thì phải gieo nhiều hạt tình thương. Nuôi dưỡng bản thân bằng những chất liệu hướng thượng, trong sạch như tham thiền, tụng kinh, giữ gìn giới luật, thực tập chánh niệm, nghe pháp, làm từ thiện, cúng dường, giúp đỡ nhiều người…
Thực tập nếp sống khiêm cung, đơn giản và thanh bạch là thực tập buông xả, gỡ bỏ những dính mắc vào mong cầu của thế gian. Khi không còn cái gì thì Mi không cần phải lo cho cái đó nữa, không cần chạy nhanh, không cần làm việc nhanh, không cần ăn nhanh, ngủ nhanh, yêu nhanh… nữa; thay vào đó là sự thanh thản, thong dong đi giữa dòng đời, có nhiều thời gian tập trung tu tập, hun đúc tình thương và khai mở trí tuệ của tự thân. Hạnh phúc cao quý ấy còn gì bằng.
Sống chậm không có nghĩa là sống buông xuôi, không màng thời gian, không màng thế sự, thả trôi bản thân, mà sống chậm ở đây có nghĩa là sống trọn vẹn, sống tỉnh thức trong từng giây phút. Thực tập chánh niệm, nhận diện tất cả ý niệm phát sinh, Mi biết thân tâm mình sẽ được bảo vệ, không còn nảy sinh tác ý tạo nghiệp nữa, thay vào đó là những suy nghĩ, hành động thiện lành giúp tăng trưởng phước báu.
Cuộc đời ta đã bao lần hối hả
Để tuổi xuân trôi xa mãi nơi nao
Hãy yên lòng lắng lại những lao xao
Cho trái tim được bình yên ca hát.
Kia là bầu trời xanh gió mát
Kia là cánh đồng lúa bát ngát
Kia là dòng sông rộng mênh mông
Sống chậm nhé, bỏ quên đời long đong
Để tình thương đong đầy mãi trong lòng.
Tường Lam
Theo Phật Pháp Ứng Dụng
![]() |
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
Tuổi Mậu Thìn (1988)
- Ngày, giờ nên tránh: Mậu Thìn, Mậu Tuất, Giáp Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Giáp Tuất
Tuổi Canh Thìn (1940, 2000)
- Ngày, giờ nên tránh: Canh Thìn, Canh Tuất, Bính Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Bính Tuất
Tuổi Nhâm Thìn (1952)
- Ngày, giờ nên tránh: Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Mậu Tuất
Tuổi Giáp Thìn (1964)
- Ngày, giờ nên tránh: Giáp Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Canh Tuất
Tuổi Bính Thìn (1976)
- Ngày, giờ nên tránh: Bính Thìn, Bính Tuất, Nhâm Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Nhâm Tuất.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
Cách tắm của bạn dù đơn giản hay phức tạp thì phòng tắm vẫn là thiên đường để bạn giải toả những áp lực căng thẳng trong sinh hoạt.
Thông thường, không gian phòng tắm không thể quá rộng, vì vậy khi trang trí nên chọn loại vật liệu cao cấp và cũng không cần thiết phải trù liệu tính toán quá nhiều.
Nhưng thường thì chúng ta không có quyền lựa chọn vị trí của phòng tắm và bệ đi vệ sinh. Tuy nói vậy nhưng vẫn có thể tìm ra được chỗ đúng về phong thuỷ, ví dụ: lợi dụng việc trang trí tăng cường góc tốt trong phòng tắm cải thiện góc xấu. Tiền đề là: thông gió tốt tránh không khí ẩm ướt, khí lưu đình trệ.
Vị trí phòng tắm lý tưởng là ở phía bên cửa nhà, tối kị giữa nhà. Điểm đặt bệ vệ sinh cách cửa chính của nhà càng xa càng tốt. Đối với bệ vệ sinh có vị trí không tốt, phương pháp cải thiện đơn giản nhất là thường xuyên đậy nắp bệ lại; mặt khác,
Có thể lợi dụng bình phong và rèm cửa để ngăn cách các khu khác nhau trong nhà, cần nhớ thường xuyên đóng cửa phòng vệ sinh.
So với trước đây, phòng tắm trong nhà hiện nay thường không chỉ có một. về phong thuỷ học, thuỷ chủ tài phú, vì vậy số lượng phòng tắm, bệ vệ sinh và ống nước đều ảnh hưởng đến tài vận của gia chủ. Phòng tắm có vị trí phong thuỷ không tốt, ví dụ như phòng tắm nằm ở hướng Đông Nam thì có thể làm mất vượng khí trong nhà, có thể gây tổn hại tài vận.
Để khắc phục tinh hình này, có thể trồng cây xanh nơi năng lượng thủy quá nhiều để hổ trợ duy trì cân bằng, vì cây xanh là mộc, mà mộc thì “hút” thuỷ.
Nếu phòng tắm không có cửa số thông ra ngoài thì có thể treo một chiếc gương trên tường hình thành một không gian tưởng tượng. Hơn nữa gương có thể thúc đẩy nhanh sự lưu động năng lượng, đối với phòng tắm sẽ có hiệu quả rõ rệt, vì phòng tắm tối kị chuyện không khí ngưng trệ.
Màu trong phòng tắm tốt nhất là dùng màu phân, ví dụ: màu phấn hồng, màu xanh lá cây nhạt, màu xanh da trời nhạt và màu hồng đào, tiếp nữa đến màu sữa hoặc một số màu trung tính như màu đen và màu trắng. Vật trang trí và khăn mặt nên chọn gam màu tương phản mạnh.
Phương thức xử lý bề mặt tường, cố gắng phát huy trí tưởng tượng, không được quá đơn giản. Trên nền tường xi măng quét một lớp sơn dầu sẽ làm tăng thêm cảm giác ấm áp. Dùng gạch pha lê, gạch men hoa thậm chí là các đường chỉ lồi lõm sẽ làm cho tường phòng tắm sinh động, thú vị hơn.
Lộn xộn, ô tạp là điều đại kị của phong thuỷ phòng tắm, bởi vì nếu như vậy không khí lưu thông trong phòng khó khăn, phòng tắm lý tưởng nhất là được bài trí gọn sạch, thiết kế đơn giản, thông gió tốt.
Mặt nền cần chọn dùng vật liệu có khả năng chống nước và dễ làm sạch. Thông thường, các loại vật liệu được sử dụng có gỗ cứng, đá đại lý, gạch men và vật liệu tống hợp từ vinyl. Sự lưu động khí và năng lượng chịu ảnh hưởng của vật liệu sử dụng, vật liệu khác nhau thì hiệu quả khác nhau. Ví dụ như đá đại lí, đá hoa cương và các loại vật liệu cứng khác sẽ làm tăng lưu động năng lượng, đặc biệt là trong điều kiện có nhiều ánh sáng thì hiệu quá thu được càng cao. Chúng ta sẽ cảm thấy phân chấn trước một không gian như vậy.
Hiện tượng: Chúng ta đều biết phòng khách là nơi tiếp nhận sinh khí, cũng là nội minh đường của dương trạch. Nếu phòng khách tối tăm không ánh sáng, ngoài việc đi ngược lại với quy tắc chuẩn cơ bản của dương trạch là “phòng khách sáng – phòng ngủ tối”, phòng khách tối tăm như vậy còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thị lực, con người sẽ trở nên bi quan, bảo thủ, mất hết ý chí, tự ti, không có chí tiến thủ.
Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất là sửa đổi bố cục. Nếu trong trường hợp không thể sửa đổi được bố cục thì hệ thống chiếu sáng của phòng khách phải dùng bóng đèn halogen để làm công cụ thắp sáng, bổ sung đầy đủ khí trường cho phòng khách. Cũng có thể trong phòng khách đặt một con Kỳ lân hoặc tăng dương khí cho căn phòng của nhà bạn đẻ hóa giải. Nói tóm lại, mục đích chính là điều chỉnh âm dương trong phòng được cân bằng, đảm bảo sức khỏe của cơ thể và tâm lý cho những người sống trong ngôi nhà.
Từ xưa nhiều người coi: xem tướng, coi số, khảo sát địa lý phong thủy là một nghề trong xã hội. Những người này được gọi là thày sau thày giáo, thày thuốc, thày tu, thày chùa... Trong số ấy có những vị học rộng tài cao, rất uyên bác, "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý". Các vị sống đạm bạc, ẩn sâu trong xóm làng, cuốc đất trồng rau, tỉa đậu, dạy học... Nếu có ai cần họ tư vấn trên các mặt về Đông phương học, họ sẵn sàng hướng dẫn tìm cát tránh hung. Hoàn toàn miễn phí. Không sống bằng nghề thầy bói.
Tuy nhiên đã là nghề ắt có cạnh tranh. Những thầy bà này nói xấu nhau, cãi vã nhau, chẳng khác hàng tôm hàng cá ngoài chợ!. Để không kém người khác, họ đã tự phong “Phong Thủy đại sư” . Đi bói dạo kiếm tiền khắp hang cùng ngõ hẻm. Thực tài thì ít, giả tài lại nhiều. Làm mất đi tính khoa học tinh hoa của Đông Phương học.
Trong bối cảnh đó, có ba ông thày, mỗi ông chuyên sâu một môn: thầy xem Tướng, thày tính Số, thày xem về Địa lý phong thủy. Ba thày hợp lại đi chu du khắp nơi. Với họ không phải chỉ là kiếm tiền mà chủ tâm vào nghiên cứu học hỏi. Ba thày cũng được thiên hạ tạ khá nhiều tiền.
Buổi chiều nọ các thày đến một trang trại, cả ba muốn tá túc nơi đây qua đêm. Thày Tướng đi tiên phong, ánh hoàng hôn làm thày Tướng phấn kích.
- Thày bước tới cổng thấy người đàn ông oai vệ, thày cất tiếng: Xin chào ông chủ, ba chúng tôi lỡ đường xin được nghỉ tại điền trang đêm nay.
- Người đàn ông chắp tay nói: Dạ thưa, ông chủ ở trong kia, tôi chỉ là người gác cổng. Mời ba ngài vào tệ xá.
Trên đường đi thày Tướng phân vân. Khi vào phòng khách, chủ nhà chào đón rất chân tình. Chủ nhà sai người dâng trà, sau đó là bữa cơm thịnh soạn. Trong khi ăn, thày Số hỏi chủ nhà về gia cảnh và xin cho biết Bát Tự (can và chi của giờ, ngày, tháng, năm, sinh, là 8 chữ) của ông. Chủ nhà hoan hỷ phúc đáp từng ý của thày. Ba thày được nghỉ đêm trong một phòng khách bài trí hài hòa, đồ đạc giản dị, gọn và tiện lợi.
- Trước khi ngủ thày Tướng cho biết: Thiên hiệp hề tiện yểu túc ác. Nghĩa là trán hẹp, lệch, tướng yểu, nghèo khổ. Ngũ quan phá tướng chẳng tốt.
- Thày Số cho hay: Ông này Mệnh Triệt, thân Tuần. Ba cung tam hợp Mệnh, Tài, Quan không tốt, có song Hao cư tại Phúc Tài là không giữ được tiền của. Chỉ được cung Phúc tại Tuất có sao Thái âm, cung xung chiếu tại Thìn có sao Thái dương là hai sao cư Đắc cách. Như thế Tướng không tốt, số chẳng lành. Tại sao giàu có làm ông chủ? Người có tướng làm ông chủ lại là gia đinh canh cổng??? Phải chăng nhờ mồ mả ông bà được táng nơi âm trạch tốt Đại phát? Sáng mai xin chủ nhà dẫn đi xem Âm trạch (ra sao).
Ba thày nằm thao thức mong trời mau sáng.
Sáng hôm sau, ba thày dùng trà, ăn sáng. Sau đó đích thân chủ nhà dẫn ba thày đi đến nơi an táng ông bà, cha mẹ. Đường đi vòng vèo khá xa tới khu mộ được táng nơi lòng chảo có suối chảy qua.
- Thày Địa lắc đầu: Đây là nơi thủy xuất, chẳng tụ, có thể nói là không đẹp. Long Hổ dữ thủy thuận, gia trung tài dụng tận.
(Sau đó mọi người ra về), khi về thì đường rất gần, chẳng vòng vèo (như lúc đi).
- Ba thày hỏi: Sao khi đi ông không đi đường này mà đi vòng chi cho xa?.
- Ông chủ nhà từ tốn đáp: Khi dẫn ba thày ra ngoài cổng tôi thấy mẹ con người nông phu đang cắt trộm lúa của tôi. Nếu tôi đi qua đó họ sẽ bỏ lúa mà chạy. Tôi cũng chẳng xuống ruộng lấy lại lúa, chuột sẽ ăn. Họ bị đói nên mới làm vậy!!!
- Cả ba thày đều đồng thanh: Ồ, vậy Ngài được chữ ĐỨC, chính ĐỨC đã thay đổi vận mệnh của ngài. Đức minh minh chi chung.
(Trích lược blog Lưu Xuân Thanh)
Hành: Thủy
Loại: Thiện Tinh
Đặc Tính: Vui vẻ, may mắn về công danh, hôn nhân, giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ
Tên gọi tắt thường gặp: Long
Là một Phụ tinh. Là sao thứ 3 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Tướng Mạo: Sao Thanh Long ở Mệnh thì gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng.
Tính Tình: Vui vẻ, hòa nhã.
Lợi ích cho việc cầu danh, thi cử.
May mắn về hôn nhân.
May mắn về sinh nở.
Giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ.
Long, Kỵ ở Tứ Mộ: Thanh Long được ví như rồng xanh ẩn trong mây ngũ sắc, nghĩa là như rồng gặp mây, người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử.
Thanh Long, Lưu Hà: Người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử (được ví như rồng xanh vùng vẫy trên sông lớn).
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái: Cách này gọi là Long Hổ Cái, cũng rực rỡ về tài quan.
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các: Cách này gọi là Tứ Linh, cũng rực rỡ về công danh, tài lộc.
Thanh Long, Quan Đới: Người gặp thời, đắc dụng.
Thanh Long, Sát tinh: Mất hết uy lực, trở thành yểu và hèn nhát.
Sao Thanh Long rất đẹp nếu ở hai cung Thủy là Hợi, Tý, hoặc ở cung Thìn (Long cư Long vị) cũng rực rỡ như trường hợp Long Kỵ, Long Hà.
Ngoài ra, các cách tốt kể trên, nếu có tại cung Mệnh, Thân, Quan, Di, Tài hay Hạn đều đắc dụng, đắc lợi cho đương số.
Mặt khác, nếu Mệnh hay Quan giáp Long, giáp Mã thì cùng hiển đạt về công danh, chức vị.
Tóm lại, tuy là sao nhỏ nhưng sao Thanh Long vốn là bản chất rồng xanh nên rất uy dũng, cao thượng, đem lại sự may mắn về nhiều phương diện thi cử, công danh, hôn nhân, sinh nở. Kết hợp phong phú với nhiều cát tinh và ở một số cung thuận vị, Thanh Long càng phát đạt rực rỡ cho phái nam cũng như phái nữ miễn là đừng gặp sát tinh.
Bài viết ghi lại từ phần giới thiệu cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên
Xem qua phần trên này, thì ai cũng dễ có 1 nhận xét về những ngày gần đây là những khám phá trên địa hạt Sinh Vật Học, Hóa Lý Học, về các chủng tử, thuộc di truyền tính, nhiễm sắc thể quang đại hợp tử (helredite, genes, chromosomes, macromolecules) đều đem lại 1 kết quả bất ngờ. Người ta đem Khoa Học để hạ bệ lý số, khoa học đã phản pháo mà trình bày: Quả thực có số kiếp, 1 thứ số kiếp nó hết mực độc tài, hơn cả các nền chuyên chế, nó trói buộc thuộc dân của nó 1 cách chặt chẽ, nó theo đuổi người ta ròng rã suốt 1 đời người, từng giờ, từng ngày, từ cái lúc hung tinh gặp noãn châu, rinh thần liên minh với thê chất lúc mà noãn châu mới thành trứng, chưa có tên là Thai
Quay về phía tín ngưỡng về một Tôn giáo mà có một vị Giáo Chủ được tôn xưng là Đại Giác, Đại Trí Tuệ, thì Giáo Lý thuộc bộ môn duy thức lại ăn ý với bộ môn Khoa học về môn chùng tử di truyền, về những sợi dây truyền kiếp nhiễm sắc thể. Những chủng tử vô kiến, vô đối nơi ALaiDa thức cùng với những chùng tử hữu kiến hữu đối nơi các sợi nhiễm sắc thể chiomosomes lại chi như hai bóng 1 hình, hai mặt ẩn hiện của một chân lý. Cái chân lý của dòng đời sinh tử mang các chủng tử xuyên qua Thời, Không, khiến cho có người, có vật, có cây có, và rau lại sinh rau, đậu lại nở đậu, và.... bò lại đẻ ra bò
Thì ra quan niệm về nghiệp, kiếp, tín ngưỡng và nhân quả, ý tường và lý số nó vẫn bao trùm nhân loại, bàng bạc trong Thời, Không. Duy chỉ có điều là làm thế nào đọc được sô mệnh. Ta hãy gác qua một bên các môn hà Lạc, Tử Bình mà chi muốn khiêm tốn đụng chạm riêng có một mình môn Từ Vi Đẩu số
Tìm ra nguồn gốc Đẩu số thì được biết là phần đông chủ trương là do một vị Tiên Trần Đoàn, chẳng rõ có phải là khai sơn Tổ Sư của bộ môn lý học này hay không? Chi nghe nói Trần Đoàn tên tự là Hi Di, một ẩn giả ở núi Hoa Sơn hồi đại loạn ở TQ chia thành 4,5 mảnh đất đai thuộc các lãnh chúa cai quản, dân chúng loạn lạc nháo nhào chạy từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc lại từ Bắc xuống Nam, loanh quanh như kiến bò miệng chén, thì ông bỗng nhìn thấy bà cụ gánh đôi quang thúng, mỗi bên một cậu bé ngồi, bà cụ hớt hãi chạy loạn như ai. Tiên Sinh tủm tìm cười, về đạo quán uổng một chén rượu và ngủ một giấc dài. Khi tỉnh dậy thì thiên hạ đã thái bình. Sau này, cái thiên hạ thái bình ấy mới hiểu nổi cái nụ cười của Tiên Sinh, vì ông đã biết trước hai chú nhỏ kia sẽ là hai vị Thái Bình Thiên Tử, một người là vua Thái Tổ nhà Đại Tống Triệu Khuông Dẫn, còn một người là vua Thái Tôn Triệu Khuông Nghĩa
Thì ra cải Nhân thái bỉnh nó đã chực sẵn trong cái Duyên tao loạn. Xung quanh có thái bình, có ai biết, ai hay? Ngay cái người sinh ra nó, gồng gánh nó, cũng chẳng rõ nốt. Bà cụ đã đeo cái thái bình trên cổ mà vẫn còn chạy rối lên đi tìm cái thái bình. Vì thế Tiên Sinh đã lưu lại cho hậu thế một phương pháp giản dị để đọc trước được số mệnh từng người
Chắc chắn về phần Tiên Sinh thì tiên sinh đã nắm vững những lý tắc về số mệnh, nếu lại đem diễn tả ra bằng Dịch Lý, huyền học thì thành ra môn Tử Vi Đẩu số sẽ thành ra của riêng lý số gia, không phổ biến, không phổ cập quần chúng. Cho nên Trần Đoàn tiên sinh đã dùng phương tiện cụ thể hóa những quan niệm trừu tượng đưa lý vào sự, đưa các định tắc u huyền vào các công thức để áp dụng
Đại để ta thấy; Hi Di tiên sinh đã:
1. Đặt ra một số tổng tụ ý niệm, rồi mượn danh các đẩu tinh làm ký hiệu để đưa vào bàn toán
2. Chiếu quy ước dịch lý đế phân vi và bổ liệt các ký hiệu ấy
Ta đã rõ, một khi cụ thể hóa một ký hiệu khiến chữ nó sinh ra nghĩa, thành sự, thành vật là sự ấy, vật ấy lọt vào suy tư của thế gian. Lọt vào suy tư của thế gian là có hình bóng trong tâm tư của cá nhân, trong công tâm của cộng đồng nhân loại và đương nhiên phải chịu làm thuộc dân của các quy luật chi phối thế gian sự vật
a. Luật tiến hóa: đó là ký hiệu liên quan đến các sao Vòng Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan (tức là Lộc Thần, là lớn lên, làm ra tiền của), rồi Suy, Bệnh, Tử Mộ, Tuyệt (tức là ốm đau, già, chết, tan biến)
b. Luật Cung Cầu: tức là các sao vòng Quý Nhân, mình thiếu môn gì thì đối với mình mong cầu là của quý, người giúp đỡ mình là quý nhân
c. Luật Hỗ Tương Ảnh Hưởng: theo phương vị nhìn nhau thì có Hình, Xung, Phá, hợp, và Hại. Đứng ở Tí thì xung với Ngọ Nhưng Tí lại hợp với Sửu. Sửu lại xung với Mùi. Tí xung Ngọ thì phải phá lại Mùi, vì Mùi nó là đồng minh của Ngọ, là kẻ thù của mình. Cứ chiếu bộ vị đứng ngồi mà hiểu việc đời. Ngang với nhau thì tìm cách liên kết gọi là hợp lực, như Mão hợp Tuất, Thìn hợp Dậu. Chéo cẳng nhìn xéo nhau thì xung đột Dần, Thân, đứng che mặt nhau thì tìm cách phá nhau, phải hạ bệ cái món kỳ đà cản mũi ấy đi, tức Dần phá Tỵ, Hợi phá Thân....
d. Luật Ngũ hành xung khác, theo tình thế mà luận như anh Kim thì khắc anh Mộc. Theo thời tiết mà luận thì anh Kim từ về mùa Hạ, khỏe về mùa Thu, ứng dụng về mùa Đông và khó chịu với anh mùa Xuân vì nó thuộc hành Mộc
e. Luật Ngũ hành Vượng, Tướng: theo Sinh, Vượng, Bại địa....
f. Luật thăng hoa, phản tỉnh: như Địa Không, Địa Kiếp là hai sao khốc hại, nhưng đến chỗ tuyệt địa của nó là nó tắt hết lửa thì nó bật nên tốt đặc biệt, vì lẽ tuyệt xứ phùng sinh nên các cụ ta dẫn câu: Không Kiếp ư hiềm Tị hợi
g. Luật biển tướng, hóa nghĩa: sao Hồng Loan là cỗ kiệu, là xe. Đào hoa là các loài hoa. Nhưng về già gặp chúng nó hóa ra thành đòn đảm ma và nhà tang Đại khái như thế, mỗi vì sao là một ký hiệu, một tổng tụ ý nghĩa, để nói lên một sự, một vật, một bộ phận trên cơ thể con người, tùy vật mà lệ thuộc những hình ảnh, những luận điệu tin tưởng, những công năng hiệu lực hoặc các úy, kỵ, khắc tính của sự vật ấy
Đó là đơn độc từng sao, rồi lại đến bộ sao tập hợp với nhau, như Thiên mã ngộ Đà La là ngựa vướng dây, tức là phải vấp ngã. Đào Hồng ngộ Thái Dương ờ Mão là mùa xuân, Đào Hồng hướng dương, trai sớm nhân duyên, gái đắt chồng bằng các quy lệ trên đây, một khi người ta tìm thấy phương pháp để đạt những dữ kiện vào trong tọa độ đích danh của chúng để biết rõ mặt mũi, tâm sự, thực lực, hiệu năng của mọi sự vật thì việc áp dụng các định luật Dịch lý để rút tỉa ra từng mớ suy tư về các hiện tượng tương lai, căn cứ vào các tông tụ ý nghĩa mà con toán hô danh không còn là chuyện không thể làm được.
Trong cái pháp giới trùng trùng chuyên khởi mà cả Khoa học lẫn Tôn Giáo đã ý niệm được, thì cả vũ trụ mênh mông chỗ nào cũng chi là một góc bàn cờ, mỗi phép, mỗi sự, tức như mỗi người, mỗi vật đều thành từng con cờ có vị trí, có thực lực, có hoàn cảnh, chịu quy tắc sinh hoạt có luật lệ để đi đứng, nằm ngồi, hò hét nhảy múa....
Vậy cho nên, một khi biết được con cờ thuộc loại nào ở chỗ nào, trên bao la phương vị của bàn cờ, là chúng ta có tọa độ để lược giải cá nhân chúng nó
Nhưng hiền thánh khai thị ra lý số là những siêu nhân có sự hiểu biết phi phàm, đã nắm vững công thức ngõ hâu đặt ra mọi loại tọa độ, đê khám phá số mạng của người, của sự vật
Biết Thái Ất thì tỏ việc 500 năm về trước, 500 năm về sau
Biết Lục Nhâm thì chiếu theo giây phút mình động tâm mà rõ sự gì đến sẽ đến
Biết Tử Vi thì có thể theo dõi việc nhãn tiền xảy ra cho 1 kiếp nhân sinh
Trong thâm tâm chúng ta, đều luôn luôn giao động theo dịch lý. Ngoại cánh luôn biến chuyển. Vũ trụ của Sát na trước không phải là vũ trụ của sát na sau. Thâm tâm chúng ta luôn chịu sự chi phối của nghiệp lực mà biến chuyển theo dịch lý, kể từ giây phút mà quả trứng mới thành hình cho đến lúc có mày râu hiện tại.... để luôn luôn trong ngoài hòa hợp
Trong cái vũ trụ của Hoa Nghiêm Pháp Giới, như trên đây đã được trình bày:
Nhất pháp biển ư nhất thiết pháp Nhất thiết pháp nhập ư nhất pháp
Thì lúc nào thánh nhân cũng có thể biết rõ rang tất cả mọi sự, mọi việc từ trước đến sau, từ quá khứ đến tương lai
Nhưng chúng ta chi là người có nghiệp báo. Các cảm giác của chúng ta bị ngũ quan vật chất nó hạn chế, suy tư ta lọt vào vòng hạn lượng của tỷ số và bị giam giữ trong một mô thức Thời Không
Cho nên từ chính đáng hay không chính đáng, dù ước muốn hay không ước muốn, chúng ta không có cách gì TẬN CÙNG HIỂU BIẾT VỀ TA, và chúng ta phải rõ, không phải số không đúng, mà chính yếu là ở chỗ: CHUNG TA KHÔNG CÓ QUYỀN ĐUỢC BIỂT HẾT
Đó là một công lệ
Tài giỏi như bao nhiêu bác học đã lĩnh giải Nobel cũng thấm thía về cái môn tạo hóa đành hanh. Họ nghiên cứu, tìm tòi về sắc trần (particules) trên môi trường cực vi của chúng, mà tất cả đều phải khóc, vì không có cách gì biết đầy đủ về thân thế của một sắc trần. Khi ông thấy Tướng của nó, thì ông không thấy được Tính của nó. Khi ông tìm ra Tính, thì nó đã lại mất hết Tướng Khi thấy đất nó đứng, thì không biết nó làm gì, khi nhận được lý lịch của nó, thì không biết chỗ nó trú ngụ. Định tác về phạm vi hiểu biết này mang tên là Principe d’incertitude d’Heisenberg":
DP x DQ > H
(DP là tính; DQ là Tướng)
Theo công thức này thì biết môn nọ, phải bỏ môn kia, muốn được cả hai thì không bao giờ toàn bộ. Bao giờ cũng còn sót lại một phần lơ mơ ước lượng bằng một thái nhất H, gọi là hằng số Plank
Định tắc này là 1 trong những cột trụ của Kiến trúc khoa học nguyên tử hiện tại. Như vậy, cái khoa học tiến triển hiện tại nó cũng không hơn gì khoa huyền học của Đông Phương, nếu có chịu thua trời đất, cũng chi đến mức ấy mà thôi. Vì chủng ta chỉ là con người, mà đã là con người thì bị cái nghiệp người nó hạn chế, nó che đậy và nó đánh lừa...
Vậy làm thế nào để tranh đạt với nó?
Thành ra giá trị của Lý số chính danh lại chuyển bộ sang đất Chân Giá Trị của người đoán số. Chân giá trị của người đoán số là đem áp dụng các quy luật đã nói trên đây (mới có một phần nhò được trình bày) cho các tổng tụ ý nghĩa để tia rút ra những biệt nghĩa cho mọi trường hợp
Ví dụ thứ nhất: Xét về sao Bạch Hổ, vốn là sao Kim có hai nơi vượng địa là Thân, Dậu (Kim cung) là thể tinh vượng, và Dần Mão là núi non, là đất dụng võ. Từ Hợi đến Thân là ban đêm đi kiếm ăn được là hay, nhập Ngọ bị tiêu đốt là bất lực. Hổ mà gặp Hóa Kỵ ở Vượng cung là hét ra khói. Hổ ở cung Tuất là con chó, ngộ Riêu Y là chó dại (???); hổ gặp Thai là hổ cắn cơ quan sinh dục, đàn bà gặp nguy lúc có thai, mãn nguyệt.... Lại cần xét nếu nó khỏe thì lợi cho ai, nó yếu thì có ích cho mình hơn là nó khỏe không?
Ví dụ thứ 2: Sách Ma Thị dạy rằng "mệnh VCD đắc tam không nhi phủ quý khả kỳ". Như thế một câu mà có 2 nghĩa. Khả kỳ là giàu sang được cũng là lạ? hoặc giàu sang đến mức kỳ lạ?
Phần đông mới học tử vi thì chỉ hiểu được là: giàu có đến mức kỳ lạ, nên sai tuốt luốt. Thực ra, món gì không bị đè nén thì bốc: Lửa. Món gì không bị che đậy thì sang chói: Kim Khí. Thế cho nên cách này chỉ đẹp với người tuổi Hỏa, hỏa cục và người mệnh Kim, Kim cục
Ngoài ra, nước mà không đáy thì nước tung tóe, và ướt hết sạch. Thổ (Đất) không được hứng đỡ thì rơi mất tăm. Mệnh Thủy mệnh Thổ mà đắc tam Không là cách chết non, nghèo khổ, có lẽ nào mà phú quý được? Thì chữ Khả Kỳ có nghĩa là đâu có chuyện ấy?
Thói thường, các cụ đầu sách viết một câu, cuối sách viết một câu, rồi lại dấu một ít nghĩa vào giữa sách hoặc cắt đầu xén đuôi chữ nghĩa.
Tại sao các cụ lại làm như thế?
Chữ nghĩa chỉ đãi người có thiện chí, không thể khinh suất trao tay cho cả nhà để họ bàn suông làm giảm giá trị của bộ môn học thuật. Sau nữa để cho giảm thiểu cái loạn vọng của người đời, làm cho xã hội bị tai bay vạ gió vê sau
Phú giải rằng một Phá quân Tí Ngọ. Lại ghi Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh. Tức là văn chương mà được Xương Khúc cư cung Sửu hay Mùi là hay tuyệt, mà võ tướng được cách Phá Quân cư Tí, cư Ngọ thì lừng lẫy anh hung
Khốn nồi biết bao anh Phá Quân Tí Ngọ mà chi lừng lẫy ở chồ giết heo, mổ bò, còn biết bao bậc Xương Khúc Sửu Mùi mà đọc không nổi mấy chữ trong gia phả. Thì ra các cụ bắt con cháu kéo cái Phá Quân ấy đến giữa sách, mà đòi hỏi lá sổ ấy phải là người "Trương chiêu lưu thủy", theo câu "Phá Quân Tí Ngọ, Trường chiêu lưu thủy", nghĩa là phải hợp với mệnh Thủy thì mới thành công. Cũng như người Xương Khúc Sửu Mùi thì phải là mệnh Kim hay cục Kim mới được hưởng lộc. Nên câu phú giải giữa quyển: "Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh", lại cần được đối chiểu với câu phú, Kim hợp cục Sửu, Mùi Khúc Xương nó ở trang sách gần bìa
Nếu khách không phải cục Kim, mệnh Kim thì chớ mang cái Sửu Mùi Khủc Xương của khách ra mà phân bua với làng, lá số sai nhiều quá
Qua vài ví dụ trên, chúng ta cũng tạm ý niệm, được tầm quan trọng của phép đoán số. Số chỉ hay ở chỗ có người biết đoán. Muốn đoán đúng, phải biết đọc sách, mà sách cổ thì khó xem như thế đó.
Sách cổ khó xem, người đoán phải lạc. Cái lạc ấy nó sẽ đi xa, làm cho tàn lụi cái tinh hoa cổ của Đông phương. Thế thì tương lai khoa Tử Vi sẽ đi về đâu?
Căn cứ vào tài liệu biên khảo, tôi nhận thấy rằng ông bạn Thái Đình ghét chuyện bùn lầy nước đọng, có ý kiến canh tân. Gộp hai nền văn hóa Đông Tây, ông muốn phá vỡ cái màn huyền bí về khoa Tử Vi, qua sự chiêm nghiệm lâu năm của chính bản thân mình để cho khoa này được bồi bổ và biến ra thành thực dụng, hữu ích cho sự tu dưỡng tâm linh và sự hòa đồng xã hội, đưa từ vị kỷ lên thành vị tha tốt đẹp
Những suy tư của ông thật mới lạ, nhưng rất hợp lý bởi đường hướng văn minh của con người phải là sự thăng hoa năm trong Duy Thức mà khoa tử vi là một khoa học của Duy Thức và Thực Dụng.
Ông nghĩ đến chuyện giúp độc giả tự mình lập được lá số cho mình, chong than và đoán được nữa. Đi xa hơn, ông muốn cải bổ số mệnh, uốn nắn số mệnh để gạt bỏ bớt cái xấu, chiêu thêm cái tốt... Vừa bàng sự tu dưỡng nội tâm, tạo cái nghiệp tốt đẹp cho số mệnh, vừa bằng hình thức cụ thể, đem ngũ hành sinh khắc chể hóa cho nhau, lấy màu sắc, phương hướng, thời tiết để tăng cựờng cho mệnh, như kiểu tạo cái thắng để hãm, cái mộc để che, chẳng phải là đê đánh lừa sô mệnh, mà chính là để sửa chữa lại số mệnh theo đúng độ ăn nhập của nó, đúng cân, đúng lạng và kích thước để làm cho chệch đi, dù chi là một ly ông cụ, bé nhỏ li ti....
Cái tin tưởng mãnh liệt của ông đã thể hiện qua suốt hơn 50 trang về ý niệm mới mở về Tử Vi, làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Ít nhất cũng cho thấy sự nắm vừng Tử Vi của ông về mặt Khoa học Thực Dụng, nên cuốn Tử Vi Đại Toàn trong phần nguyên tắc đã được trình bày khúc chiết có hệ thống, làm cho dễ tra cứu, dễ hiểu và dề đoán. Đó là một chuyện đáng mừng ở chỗ bên thiện chí là người có đủ tư cách, sách là một tài liệu đứng đắn, không phụ bút hiệu TRÚC SỸ của ông.
Còn lại vấn đề lãnh hội và thực hành thì tất nhiên là phải trông đợi ở quý.
Biết đâu may mắn, sau khi đọc sách của Thái Đình, lại có nhiều vị tránh được tai nạn nhờ phương pháp kê bằng nghiệp lực, thăng hoa linh hồn, tìm được những điều lợi ích hữu lý của sách để hành động, cũng như biết đâu có vài độc giả sáng suốt có thêm ý niệm cần thiết để bổ túc cho sách Thái Đình, làm khoa Tử Vi được rạng rỡ như tác giả mong muốn
Đó là điều tâm niệm của tôi, và chắc cũng là điều tâm niệm của bạn Thái Đình vậy
PORTLAND, ngày 15 tháng 9 năm 1979
NGUYÊN VĂN THƯ
Văn phòng làm việc cũng giống như một bộ não của công ty, việc tài vận tốt xấu thế nào có liên quan đến tiền đồ phát triển sau này của công ty, vậy thì làm thế nào mới có thể khiến cho công ty và con người mới có thể có tài vận tuôn trào đầy?
Muốn biết được sự thoái vượng của công ty, đầu tiên cần phải xem sơn hướng thoái vượng và môi trường xung quanh của toà nhà nơi công ty đang đạt văn phòng đó, vị trí mở cửa của toà nhà đó thoái vượng nguyên vận không thể tách rời vận khí của toàn bộ văn phòng công ty.
Tiếp đó là phải xem xét xem bố cục sắp đặt trong nội bộ văn phòng đã hợp lý khí chưa, khi xắp đặt bố trí trong văn phòng có thể thôi tài thôi đinh (đình chỉ nhân viên trong công ty). Tài lộc là gốc của con người, con người cội rễ của tài lộc, hai điều đó cũng bổ trợ cho nhau. Văn phòng ở những phương hướng khác nhau thì có vận khí xếp đặt, bố trí cũng không giống nhau. Khi bố trí bên trong văn phòng, ở phía chính trước mặt (vị trí Tây Nam), có nuôi một bể có (dùng để tuần hoàn nước) hoặc có quả cầu khai vạn tuần hoàn, tuần hoàn vận chuyển 24 giờ để thôi tài (tăng tài lộc), vậy thì công ty của bạn nhất định tài vận được mở rộng, tài nguồn kéo vào.
Phía sau của văn phòng (phía Đông Bắc), ở đây là nơi quản lý nhân viên trong công ty, đặt những vật phẩm nặng mà cao to để thôi đinh, công ty của bạn nhất định sẽ thêm nhiều nhân tài đến, ở phía Tây và Tây Bắc là nơi chủ tiết tài, ở nơi này vận dụng không thích hợp sẽ xuất hiện sự cấu kết trong ngoài hoặc có những việc nhìn tiền mờ mắt, không nên đặt những đồ vật động, nên đặt ghế salon, bàn trà hoặc bàn hội nghị…
Còn phía Đông Nam hoặc Đông là nơi lưu động nhân viên chính (tránh nhân đinh) vận dụng không tốt thì nhân viên công ty đến rồi đi, không giữ chân được nhân tài, nên đặt các vật động ở vị trí này như quạt điện, điều hoà, ti vi… Các văn phòng hoặc tòa nhà văn phòng vượng; cần kết hợp sự bày trí, bố cục hợp lý bên trong và bên ngoài, để mỗi đồ vặt phẩm đều phát huy được hết tác dụng tốt nhất, sự phát triển của công ty mới thuận lợi, tài vận sẽ thăng tiến lên.
Ngược lại, nếu công ty di dời hoặc mở văn phòng ở phía Tây hướng phía Đông (Dậu Sơn Mão hướng), mở cửa hướng Bắc hoặc Đông Nam, bên trong bố cục sắp xếp lại không hợp lý khí, thì cho dù công ty có thực lực mấy cũng càng ngày càng nhỏ lại, còn xuất hiện hiện tượng rò rỉ dần trong nội bộ. (Những văn phòng chuyển đến hoặc các căn phòng có hiện tượng vận khí biến tốt hoặc biến xấu đi là rất thường gặp).
![]() |
Ảnh minh họa |
Ánh mắt thể hiện ý nghĩa, tình cảm một cách thầm kín. Ta thấy có một số ánh mắt khi nhìn vào.
1. Ánh mắt sáng long lanh: Thông minh, tâm hồn vui vẻ, hiền từ.
2. Ánh mắt đục trầm: Người nhiều suy tư, trí tuệ phong phú.
3. Ánh mắt mơ màng: Người mơ mộng, tình cảm nhạt.
4. Ánh mắt lơ đãng: Người không chủ đích gặp chăng hay vậy.
5. Ánh mắt đỏ ngầu: Người nhiệt tình, nóng nảy.
6. Ánh mắt lờ đờ (không có thần): Người đần, không thọ.
7. Ánh mắt sắc lạnh: Người nguy hiểm, dã man.
Ngôi nhà bạn đang ở nếu gần các tòa nhà cao tầng, cầu vượt, khách sạn… sẽ dễ mang đến áp lực và ảnh hưởng đến khí lưu thông trong nhà.
Về lâu dài, theo phong thủy nếu cứ sống trong ngôi nhà này, sức khỏe gia chủ sẽ kém dần, làm ăn gặp nhiều trở ngại.
Cách hóa giải trước mắt, bạn nên làm một hòn non bộ nhỏ trong sân nhà hay trang trí một hòn đá cẩm thạch nhỏ ngay trong phòng khách.
Rất nhiều ngôi nhà hiện nay đều thiết kế thêm vài phòng dưới tầng hầm, sâu trong lòng đất để tận dụng diện tích, nhưng ít ai ngờ điều này rất kị với phong thủy, dễ khiến kinh tế trong nhà đi xuống mà tình cảm vợ chồng cũng trục trặc.
Cách hóa giải trước mắt, khi thiết kế những căn phòng dưới lòng đất như thế này, bằng mọi cách bạn tạo điều kiện cho ánh nắng mặt trời được rọi vào.
Có rất nhiều khu chung cư mới hiện nay thiết kế cửa các nhà đối diện nhau, điều này cũng rất cấm kị, ảnh hưởng đến các mối quan hệ chung và mang cả sự may mắn của bạn ra đi.
Việc cần làm là bạn nên treo một cái rèm hay mành nơi cửa phòng của mình để ngăn chặn tạm thời tình trạng đối diện với nhau.
Có nhiều nhà gặp phải trường hợp này, mở cửa chính ra là đã nhìn thấy các cánh cửa sổ hay cửa phòng khác, điều này gây nhiều bất lợi cho gia chủ: Ảnh hưởng cả sức khỏe, hôn nhân, sự nghiệp…
Cách thiết kế này cũng khiến tài lộc trong nhà bị hao tổn nặng. Hãy mua một cái rèm có hình hoa đào để ngăn điều này.
Nguyên lý Ngũ hành sinh khắc và khả năng ứng dụng
Nguyên lý Ngũ Hành Sinh Khắc xác định vạn vật trong vũ trụ được cấu tạo – phân tích – tổng hợp từ 5 yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thực ra, bản chất của Hành là sự vận động, tương tác và biến chuyển. Do vậy, những vật chất cụ thể như nước, lửa, đất, cây cối… chỉ là ký hiệu bề nổi để người sử dụng dễ nhận diện, dễ nhớ mà thôi.
Quan hệ Sinh-Khắc của Ngũ hành có tính tương đối. Ví dụ Thủy sinh Mộc tức là nước giúp cho cây tươi tốt. Cây hút chất màu của đất nên Mộc khắc Thổ. Quặng kim loại khai thác từ lòng đất (Thổ sinh Kim)… Các hành trong Ngũ hành là những khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng và được tổng hợp từ mối các quan hệ vật chất trong thiên nhiên. Ngũ hành được ứng dụng khá nhiều trong Phong Thủy khi chọn hình thế nhà đất, phương hướng, sử dụng vật liệu, màu sắc sao cho Ttương sinh hòa hợp.
Theo Ngũ hành, thế đất được phân thành các hình như sau: ngoằn ngoèo (Thủy), hình dài (Mộc), hình nhọn (Hỏa), hình tròn (Kim) và hình vuông (Thổ). Mỗi thế đất tương ứng với mỗi hành đều tương sinh và tương khắc với các hành khác. Từ đó, có thể phối hợp – chỉnh sửa sao cho phù hợp. Ví dụ: khi ta gặp một khu đất vuông vức bằng phẳng có nhiều nhà mái bằng chung quanh, tức là địa điểm mang tính chất Hành Thổ, thì nên xây cất thế nào cho phù hợp Ngũ hành? Các khả năng sau đây sẽ xảy ra:
- Nếu kiến trúc làm có dạng Mộc (cao ốc vươn lên), thì do Mộc khắc Thổ, cao ốc này sẽ ảnh hường xấu đến chung quanh như lún nền , che khuất nắng gió, ồn ào… Do đó, cao ốc thường được quy hoạch thành khu riêng, không nên xen cấy giữa các nhà thấp.
- Làm theo dạng Hỏa, hình chóp nhọn, do Hỏa sinh Thổ nên khu lân cận được lợi. Khu đất này phù hợp để xây trường học, công trình công ích, biệt thự có mái ngói đỏ.
- Làm theo dạng Thổ, hình nhà vuông vức, tức là Song Thổ Đồng Cung, ngôi nhà này hòa nhập với môi trường Thổ chung quanh.
- Làm theo hành Kim, nhà sẽ có hồ nước tròn, bồn cây tròn, hoặc mái vòm, cửa tròn… Do hành Kim tượng trưng cho tiền bạc, nên các trung tâm tài chính, ngân hàng hay xây theo dạng có mái hoặc cổng có dạng vòm (thuộc Kim).
- Làm dạng Hành Thủy, hình ngoằn ngoèo, uốn khúc với đất hành Thổ là bất lợi, vì Thổ khắc Thủy, các góc cong khó sử dụng, ít khi dùng cho nhà ở. Thường hành Thủy phù hợp với dạng khu vui chơi giải trí như nhà hát Opera Sidney là một công trình đặc trưng hành Thủy.
Nguồn: Tuvi
![]() |
Treo trong nhà là cách dùng gương bát quái rất sai lầm. Bởi đây là vật có tác dụng phản sát, khuếch tán năng lượng xấu chứ không phải đồ nội thất hay tăng cường phong thủy. Những trường hợp treo gương trong nhà đều phải có ý kiến của thầy phong thủy.
Sai lầm trong cách dùng gương bát quái tiếp theo là treo quá nhiều gương trong nhà, khiến phản tác dụng. Nhà chỉ nên treo hai chiếc gương, một ở mặt trước, một ở mặt sau là đủ. Không phải càng treo nhiều càng tốt.
Gương bát quái có khắc hình thần tướng cưỡi hổ với tay cầm binh khí hay hổ phù ngậm binh khí tạo ra sát khí mạnh. Nếu treo gương này thì hung khí ở khắp nơi cũng kéo đến nhà với sức mạnh áp đảo khiến gương không chống chọi được. Có thể khẳng định, đây là một trong những cách dùng gương bát quái sai lầm nhất, nhiều người mắc phải bởi cho rằng gương bát quái có thần hổ phụ trợ thì càng thêm mạnh.
Bên cạnh đó, có những cách dùng gương bát quái sai tuy không ảnh hưởng tới gia đình mình nhưng có hại cho nhà đối diện như treo gương bát quái khi không cần thiết, treo gương bát quái lồi, treo gương bát quái có hình mũi tên bắn thẳng, hình nòng pháo ở trước cửa,... Như vậy thì bao nhiêu sát khí mà gương phản lại đều chạy thẳng vào nhà đối diện, rất không nên.
Gương bát quái là vật phẩm phong thủy mạnh, không phải cứ mua về treo lên là được, cần có lễ đàng hoàng để phát huy khả năng của nó. Gương mua về nên được bọc kín trong vải đỏ, đặt lên ban thờ, người có chuyên môn sẽ đọc trì chú để khai quang rồi mới tiến hành treo.
ST
Sinh khí là vô cùng quan trọng trong một căn nhà. Không có sinh khí tức là không có sức sống. Để giúp độc giả nắm rõ hơn về vấn đề này, thầy phong thuỷ Bùi Cao Thế sẽ bàn tới những con đường dẫn sinh khí bao gồm lối vào và cửa chính của ngôi nhà - nơi đón tiếp sinh khí, vị thần may mắn của phong thủy Dương trạch.
1. Lối vào nhà Lối vào căn nhà có thể là một con đường nhỏ, cũng có khi chỉ là những cấp bậc từ đường, cổng, hoặc từ sân vào nhà…Cho dù thế nào chúng ta cũng phải ghi nhớ những nguyên tắc cơ bản sau:
- Lối vào nhà không nên là một đường thẳng để tránh dù là tà khí, hay sinh khí dồn vào nhà quá mạnh đều gây sự bất ổn cho gia chủ. Tốt nhất tạo thế uốn cong nhẹ nhàng. Đối với nhà phố, đa phần lối vào nhà là một đường thẳng thì gia chủ có thể đặt một vài hòn đá hai bên theo hình zích zắc…cũng có thể bố trí chậu hoa cây cảnh…
- Lối vào nên rộng rãi, sáng sủa để hấp dẫn sinh khí, nên bằng phẳng. Nếu là bậc cấp không nên quá dốc. Nếu lối vào quá hẹp không nên trồng hoa, cây cảnh hai bên.
-Cây cối hai bên nên cắt tỉa gọn gang, tránh quá um tùm cản trở sinh khí vào nhà. Không bố trí những tảng đá quá dày…
-Lối vào nhà phải có bề ngang bằng nhau, nếu rộng trước cửa chính mà hẹp phía cổng thì sẽ ảnh hưởng đến sụ phát triển nghề nghiệp và giới hạn về tài chính.
-Lối vào nhà là những bậc cấp thì tốt hơn là trong cao, ngoài thấp. trong trường hợp nhà thấp hơn mặt đường người chủ sẽ vất vả, khó vươn lên như ý muốn…cần phải đặt ngọn đèn phía sau nhà để “nâng” ngôi nhà lên cao. Ngược lại nhà quá cao so với đường, lối lên quá dốc, thì phải trồng những chậu hoa hai bên để giữ sinh khí lại, hoặc đặt vài ngọn đèn phía ngoài đường để phản hồi sinh khí.
Như vậy lối vào của căn nhà là nơi dẫn khí ..như người đón khách. Người đón khách mà đẹp đẽ, tươi tắn… thì khách thấy vui vẻ, niềm nở, thoải mái. Khách sẽ thích hợp tác với gia chủ hơn.
Cửa chính là nơi đón nhận sinh khí, còn gọi là khí khẩu của căn nhà. Cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Cửa chính hướng phải phù hợp với cung mệnh của gia chủ.
- Cửa chính phải tạo được cảm giác hấp dẫn sinh khí vào nhà. Do đó từ hình dáng cánh cửa, màu sơn, tay vặn, màu sơn, ổ khoá… cũng phải tạo cảm giác thân thiện mời mọc.
- Cửa chính phải ở vị trí sáng sủa, có ánh sáng mặt trời là tốt nhất…nếu là hành lang thì nên thắp sáng bằng đèn điện
-Cửa chính phải tạo cảm giác an toàn cho sinh khí, tránh không bị “những mũi tên độc”…
- Kích thước cửa chính phải phù hợp với kích thước của căn nhà. Cửa nhỏ quá sẽ giới hạn sinh khí vào nhà, hạn chế may mắn, hạnh phúc, tài lộc đến với gia chủ, ngược lại …sinh khí vào quá nhiều sẽ gây mất quân bình, bất ổn cho gia chủ.
-Cửa chính không nên đối diện với cửa sau, nếu đối diện tiền tài khó giữ.
-Cửa chính không nên để nhiều nhửng vật cản như gạch, đá, đồ vật…cản sinh khí vào nhà. Cũng không nên đối diện với cửa nhà vệ sinh, cửa bếp, gầm cầu thang, bức tường chắn…
Như vây cửa chính ngôi nhà vô cùng quan trọng…được ví như gương mặt một con người phải luôn được sáng sủa, sạch sẽ, cởi mở…tạo cảm giác bình an, thân thiện hấp dẫn sinh khí.
Việc thường xuyên quan tâm và bảo vệ cửa chính là điều cần thiết, song với điều kiện kiến trúc đô thị hiện nay thì chúng ta không thể tránh khỏi những “mũi tên độc” do vậy chúng ta phải có những biện pháp hoá giải phù hơp.
- Gương bát quái treo phía ngoài cửa chính có tác dụng phản hồi những mũi tên độc.
- Súng đại bác để hoá giải những vật thể lớn như: cây cầu, cây thập tự giá, ăng ten khổng lồ, nhà cao tầng lớn…đặt đại bác trước cổng, cửa hướng về vật mà ta cần hoá giải.
- Mũi tên, cung, nỏ…có thể cheo cung nỏ hướng về phía vật cần hoá giải, hoặc gắn mũi tên lên mái nhà hướng về phía đó.
- Thú bảo vệ có thể dùng những biểu tượng thú dữ bằng đá như sư tử, kỳ lân, cọp, diều hâu…đặt ngoài cửa. Nhưng tốt nhất nên dùng biểu tượng chó đá vừa có ý nghĩa trấn tà, vừa bảo vệ tài sản cho gia chủ.
- Dùng cây để ngăn cản tốt nhất dùng cây xương rồng. Đặt hai chậu xương rồng, hoặc hai cây xương rồng đặt trên lưng hai con voi bằng sành sứ hai bên cửa chính.
- Nếu “mũi tên độc” từ bên trong thì chúng ta dùng những vật như chậu hoa, cây cảnh, phong linh, mành rèm, cầu thuỷ tinh, bóng đèn…để hoá giải.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc bố trí, sắp xếp, khắc phục... để đón tiếp sinh khí cho ngôi nhà của bạn mà thầy phong thuỷ đã sưu tầm qua kinh nghiệm của những người đi trước. Rất mong quí bạn độc giả nghiên cứu và vận dụng cho phù hợp với ngôi nhà của mình, để ngôi nhà bạn luôn tràn đầy sinh khí!
Từ thủa xa xưa, các cụ ta thường dùng 12 con giáp ngày, tháng, năm và cả giờ. 12 con giáp tức là 12 con vật quen thuộc tượng trưng cho các năm theo thứ tự sau đây: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết. Hãy cùng Phong thủy số tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây nhé.
Xem thêm
+ Giờ tốc hỷ là giờ gì?
+ Ngày bất tương là ngày gì?
+ Ngày chu tước hắc đạo là ngày gi?
Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ, cụ thể là vào khoảng thời gian nào trong ngày thì có lẽ không phải ai cũng biết, đặc biệt là các bạn trẻ. Để hiểu rõ hơn về cách tính giờ theo 12 con giáp, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu:
+ Một ngày gồm có 24 tiếng, 24 tiếng này quy định là 5 canh và 6 khắc
Tính theo 12 con giáp, thứ tự các giờ sẽ tính như sau:
· Giờ tý tức là giờ chuột, bắt đầu từ khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Những bạn sinh ra vào giờ này tức là sinh giờ tý.
· Giờ ngọ hay còn gọi là ngựa, bắt đầu từ 11 giờ trưa đến 13 giờ trưa
· Giờ sửu hay còn gọi là trâu, bắt đầu từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng
· Giờ mùi hay còn gọi là dê, bắt đầu từ 13 giờ trưa đến 15 giờ chiều
· Giờ dần là giờ hổ, bắt đầu từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng
· Giờ thân tức là khỉ, bắt đầu từ 15 giờ đến 17 giờ chiều
· Giờ mão hay còn gọi là giờ mẹo, con mèo, bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng
· Giờ dậu là gà từ tính từ 17 giờ đến 19 giờ tối
· Giờ thìn là rồng tính từ 19 giờ đén 11 giờ sáng
· Giờ tị là giờ rắn tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng
· Giờ hợi là heo, tính từ 21 giờ đến 23 giờ khuya
· Giờ tuất là con chó, tính từ 19 giờ đến 21 giờ tối
Vậy với câu hỏi, giờ tị là mấy giờ, nhìn cách tính ở trên chúng ta sẽ trả lời chính xác được rằng, giờ tị tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng.
Ngoài tính xem giờ tị là mấy giờ, giờ hợi là mấy giờ... chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm về cách chia canh của người xưa.
· Canh 1 tính từ 19 giờ đến 21 giờ tức là giờ tuất
· Canh 2 tính từ 21 giờ đến 23 giờ - giờ hợi
· Canh 3 tính từ 23 giờ đến 1 giờ sáng – giờ tý
· Canh 4 tính từ 1 giờ đến 3 giờ sáng – giờ sửu
· Canh 5 tính từ 3 giờ - 5 giờ - giờ dần
Bên trên là một vài hướng dẫn về cách tính giờ, tính canh theo 12 con giáp của người xưa mà chúng ta có thể tham khảo nhé
![]() |
![]() |
![]() |