Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất có đặc điểm gì nổi bật? Cùng khám phá ngay!
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất có đặc điểm gì nổi bật? Cùng khám phá ngay!


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Tuat hinh anh
 
Nhâm Tuất có trụ ngày đối xứng với Đinh Mão, vào giữa tuế vận Hỏa vượng gặp nhau, người xinh đẹp như Mặt Trăng, lại thêm nhân nghĩa hiền hòa, lấy lễ làm đầu, là Lô trung Hỏa rèn luyện trong lửa nóng.   Trong cuộc sống, sự việc hoàn mĩ vốn hiếm hoi nhưng người sinh ngày Nhâm Tuất thì vẻ ngoài đẹp đẽ, anh tuấn tiêu sái cùng với cao quý, khí chất hội họp, tạo thành một cặp xứng đôi vừa lứa.   Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất là quan mang, Tý Sửu Không Vong. Người sinh tính tình thiện lương, khoan dung độ lượng, độc lập tự chủ, khí phách tự cường, danh lợi đều từ sự nghiệp mà ra. Người này thông hiểu sự đời, biết đối đãi với người thân.   Dẫu vậy, người có trụ ngày Nhâm Tuất là làm việc không theo trật tự, nhiều khi thành bại khó phân, tốt biến thành không tốt, không tốt lại hóa thành tốt. Mọi việc thành công hay thất bại đều chỉ trong tích tắc. Đặc biệt chú ý, cả đời phòng rắc rối liên quan tới quan tòa, kiện tụng.
 
Xem tử vi trọn đời cho thấy, nam mệnh có tài vận rộng mở, đại bộ phận sau khi lấy vợ thì phát đạt. Nữ mệnh làm thay việc đàn ông, vì kiếm tiền mà lao tâm khổ tứ, năng lực vượt trội, là người vợ hiền, hỗ trợ chồng làm nên sự nghiệp thịnh vượng. Người này lấy chồng hiền lành, nhiều tiền tài nhưng tính tình phong lưu. Đặc biệt chú ý, đến tuổi trung niên đề phòng vấn đề ly hôn, đây là thời gian vận quả phụ rất mãnh liệt.

Sự nghiệp trắc trở với lá số tử vi Phá Quân lâm cung Tài Bạch
Phá Quân lâm cung Tài Bạch là lá số của người trắc trở về đường sự nghiệp, tiền bạc, phải nỗ lực nhiều mới có thành công

Người sinh ngày Nhâm Tuất
khiêm cung biết lễ, thận trọng đáng tin. Tuất Thổ là mệnh chủ với Nhâm Thủy bản khí thiên quan, Tuất Thổ là Hỏa khố, Mậu Thổ là căn nguyên. Mà Nhâm Thủy bề ngoài thì tưởng bị Tuất Thổ khắc chế nhưng thực chất muốn nằm im chờ thời, sức bật kinh người. 
  Vì thế mà người này có tham vọng lớn về sự nghiệp, cứng cỏi kiên định, có mục tiêu lý tưởng rõ ràng, không ngại gian lao khổ ải. Hơn nữa, Tuất Thổ giữa Tân Kim đại vận thuộc loại càng áp lực lớn thì ý chí nghị lực càng mạnh.    Ngày Nhâm Tuất có Đinh Hỏa Chính Tài giấu giữa Tuất Thổ nên dễ bị tình cam tác động hoặc làm việc có phần cảm tính. Nam mệnh đề phòng nữ sắc, nữ mệnh đối với chồng trung thành và tận tâm.   Người có bát tự trụ ngày Nhâm Tuất thích hợp kết hôn với người sinh các ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Ất Sửu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Dần, Bính Ngọ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Kỷ Hợi, Canh Tý, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Dậu, Nhâm Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Quý Hợi.  
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Trần Hồng (Theo Azg168)

Xem Clip Khỉ Phong thủy mừng năm Bính Thân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Cách giải đoán tổng hợp

Nếu là Mệnh hay nếu là thân, Mệnh ứng vào trọn cuộc đời, thânứng vào lúc tuổi 3 trở đi. Nếu là Cung Mệnh sinh nhập hay sinh xuất với Cungnhị hợp sự giải đoán theo Cung nhị hợp do đó ứng trọn vào cuộc đời. Nếu là thânsinh xuất hay sinh nhập với Cung nhị hợp ứng vào đương số lúc lớn tuổi.
Cách giải đoán tổng hợp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mệnh Thân và cung Bào : thế của Mệnh thân sinh cho Cung bào nhị hợp, đương số giúp cho anh em hay chăm sóc cho anh em hay ít ra biết lo lắng đến anh em. Thế của Cung Bào sinh cho Cung Mệnh hay Thân là anh em của đương số trợ giúp và săn sóc cho đương số, lo lắng cho đương số.

Mệnh thân và tử tức : thế của Mệnh thân sinh cho Cung tử tức nhị hợp, đương sự săn sóc nhiều cho con cái và lo âu cho con cái đủ mọi chuyện. Thế của Cung tử tức sinh cho Cung Mệnh thân tức là con cái của đương số chăm sóc lo toan nhiều cho đương số, nói cách khác là đương số được con cái chăm sóc lo toan đầy đủ vì có con hiếu tử.

Mệnh thân và giải ách : thế của Mệnh và thân sinh cho Cung giải ách nhị hợp thì có nghĩa là đương số mất nhiều sức lực vì bệnh tật, phải bận tâm nhiều đến vấn đề sức khỏe, vóc người gầy ốm vì bệnh tật. Ngược lại Cung giải ách nhị hợp sinh cho Cung Mệnh thân tức là đương số được tật ách nuôi, cũng phải bận tâm nhiều đến vấn đề bệnh tật nhưng lại được cái may là tai nạn được qua khỏi dễ dàng.

Mệnh thân và nô bộc : thế của Mệnh thân sinh cho Cung nô bộc nhị hợp nghĩa là đương số giúp đỡ nhiều cho bạn hữu và người làm công nghĩa là lo toan chăm sóc tận tâm cho những người đó. Cung nô bộc nhị hợp ở thế tam hợp sinh cho Mệnh thân : đương số được hưởng nhiều về bè bạn và người làm, những người này hết lòng lo toan chăm sóc cho đương số.

Mệnh thân và điền trạch : thế của Mệnh thân sinh cho điền trạch nhị hợp, đương số phải lo toan thắc mắc nhiều về điền trạch, phải đuổi theo các vấn đề về nhà cửa ruộng vườn đến mệt người, gặp nhiều chuyện bực mình tán tài hoặc kiện tụng vì nhà cửa ruộng vườn. Cung điền trạch nhị hợp sinh cho Mệnh thân đương số được yên ổn về vấn đề nhà cửa ruộng vườn, nhà cửa được yên vui.

Mệnh thân và phụ mẫu : thế của Mệnh thân sinh cho Cung phụ mẫu nhị hợp, đương số biết lo toan chăm sóc và để tâm vào việc phục vụ cha mẹ tức là đương số là người con có hiếu. Cung phụ mẫu nhị hợp sinh cho Cung Mệnh thân đương số được cha mẹ lo toan chăm sóc xây dựng cho đầy đủ.

Những trường hợp đặc biệt : trong bản giải đoán lá số ông Tạ Thu Thâu cụ Thiên Lương có viết : còn nội cảnh của Mệnh thân (ở nhị hợp ta thấy Mệnh ở mùi là cảnh trí sinh xuất cho bào, thân ở tỵ sinh xuất cho phụ mẫu) người này nặng óc gia đình dù ở hoàn cảnh nào cũng muốn trợ lực cha mẹ và nâng đỡ anh em chứ không phải vì vợ giỏi quán xuyến đảm đang (thiên tướng ở thê, thân cư thê).

Lá số Mệnh tại Cung thân, thân cư quan lộ tại tý. Mệnh tại thên thuộc tam hợp thân tý thìn (thủy). Tử tức nhị hợp tại tỵ thuộc tam hợp tỵ dậu sửu (kim), kim sinh thủy, đương số có những người con có hiếu chăm sóc cho mình. Thân cư quan lộc tại tý (thủy), nhị hợp là nô bộc tại sửu thuộc tam hợp tỵ dậu sửu là kim, kim sinh thủy, đương số được bạn bè hết lòng giúp đỡ và năng lui tới.

Lá số Mệnh tại sửu nhị hợp là Cung bào tại tý, thế tam hợp Mệnh là kim sinh cho thế tam hợp bào là thủy, kim sinh thủy, người năng chăm sóc từng ly từng tí cho anh em. Nhưng Cung Mệnh lại quá kém vì nghèo còn Cung bào lại tốt vì anh em giàu có. Như thế làm sao đương số giúp đỡ bảo bọc được cho anh em. Đây là một yếu tố để phối kiểm thêm và nếu không có khả năng giúp đỡ anh chị em về vấn đề tiền bạc nhưng vẫn nghĩ đến anh chị em và cố gắng giúp đỡ trong phạm vi có thể làm được trong những việc thông thường.

Lại một người có Mệnh tại sửu, thân cư thê tại hợi, tam hợp hợi mão mùi thuộc mộc, nhị hợp là phụ mẫu tại dần, tam hợp dần ngọ tuất thuộc hỏa, mộc sinh hỏa. Vậy đây là trường hợp con có hiếu với cha mẹ nhưng nếu cha mẹ người này đã chết làm sao phụng dưỡng. Tất phải luận là dù đương số mồ côi cha mẹ nhưng vẫn một lòng nhớ đến cha mẹ, cúng giỗ cẩn thận và chân thành tưởng niệm công ơn người đã khuất.

VÒNG THÁI TUẾ

Có lẽ đây là vòng sao quan trọng nhất đối với người nghiên cứu Tử Vi bởi vì vòng sao này diễn tả tính khí phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết chu kỳ thăng trầm của cuộc đời cho nên một lần nữa ta lại phải phân tích hành của tam hợp : dần ngọ tuất là hỏa, thân tí thìn là thủy, tỵ dậu sửu là kim, hợi mão mùi là mộc.

Vòng thái tuế có 12 sao là thái tuế, thiếu dương, tang môn, thiếu âm, quan phù, tử phù, tuế phá, long đức, bạch hổ, phúc đức, điếu khách và trực phù ; 12 sao đó chia thành 4 nhóm Mệnh danh như sau :

+ Nhóm chính phái : thái tuế, quan phù, bạch hổ.

+ Nhóm tả phái : tuế phá, điếu khách, tang môn.

+ Nhóm thiên hữu : thiếu âm, long đức, trực phù.

+ Nhóm thiên tả : thiếu dương, tử phù, phúc đức.

Những người tuổi dần ngọ tuất, các Cung Mệnh tài quan đóng ở 3 Cung dần ngọ tuất tức là có nhóm sao chính phải đóng ở 3 Cung dần ngọ tuất tức là có nhóm sao chính phải đóng thì là những người đảm lược, anh hùng quảng đại. Tiếp tục luận như tên thì những người thuộc tuổi tỵ dậu sửu, thân tý thìn hợi mão mùi mà 3 Cung Mệnh tài quan đóng ở 3 Cung trên đều là chính phải cả. Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 Cung thái tuế, quan phù, bạch hổ đến là thời vận tốt nhất cho đương số. Khi Cung Mệnh của đương số thuộc nhóm tả phái tức là có những sao tuế phá điếu khách tang môn ở Cung Mệnh tài quan thì đó là những người bất mãn và hay gặp chuyện trái ý phật lòng. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu tức là ở Cung Mệnh tài quan có sao thiếu âm long đức trực phù là những người bản chất hiền lành nhu nhược hay bị lợi dụng. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả tức là ở Mệnh tài quan có các sao thiếu dương tử phù phúc đức là những người khôn vặt lanh lợi hay toan tính chuyện lấn lướt người khác.

Ta cần ghi nhận rằng Tử Vi được hình thành trong cơ cấu của dịch lý qua 2 động lực căn bản âm dương và ngũ hành do đó cần tìm nguồn tương quan lý học để từ đó có thể dò dẫm ra bước đường sáng tạo của cổ nhân. Sau khi nguồn căn bản đã có việc cần nêu lên cho chúng ta là phải giản dị khi áp dụng một cách trực tiếp từ dịch học sang Tử Vi, vì vậy ta không thể quá câu nệ vào các câu phú để rồi nhiều khi mâu thuẫn nhau vào những lời giải đoán phức tạp.

Tương quan của vòng thái tuế qua Cung Mệnh, nhị hợp và xung chiếu, để đề cập vào phạm vi này cần lưu ý đến liên hệ trên biểu kiến (bề ngoài) và nội tại (bên trong) cũng như xét qua lại vòng thái tuế ứng dụng vào sự tiêu biểu mặt trái ở đó so với Cung nhị hợp, Cung chính (xung) chiếu, ngoài ra để do áp dụng xin trình bày vài ví dụ điển hình dưới đây :

+ Tính tình bề ngoài và nội tâm : hàng ngày chúng ta được tiếp xúc với nhiều hạng người, tính tình mà chúng ta thấy họ biểu lộ hàng ngày không hẳn là đích thực tình trạng bên trong nội tâm của họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản lời nói. Hai trạng thái ngoại biểu (hay biểu kiến) và nội tại sẽ được phơi trần ra trước ánh sáng của vòng thái tuế và mới là điều phúc lợi. Ví dụ : Mệnh ở tý có quan phù, hợp là sửu (phụ mẫu) ta thấy về phương diện nội tại đương số được cha mẹ bảo bộc nuông chiều giúp đỡ, do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan lời nói lễ phép dè dặt (đặc tính của quan phù) mà đương số được hưởng phúc này. Thế tam hợp Mệnh và thiên di cũng như thế, nhược điểm chính yếu chính là số ngoại biểu và nội tâm chưa được ai đề cập đến vì khái niệm vòng thái tuế chưa được triển khai rộng rãi theo khoa tâm lý học, vòng thái tuế cần phải phân tích ra hai trạng thái tĩnh và động, tĩnh trong động và động trong tĩnh. Phương diện tĩnh tượng trưng cho tư tưởng tính tình hoặc tinh thần qua vòng thái tuế ở Mệnh, động là phương diện cần an bài đúng vị thế. Do đó vòng thái tuế ở Mệnh chỉ nói riêng về tư tưởng còn là nói thái độ được sắp xếp theo 12 sao của vòng thái tuế theo tiêu chuẩn sau đây :

1. Thái tuế : Mệnh có thái tuế là người có tư tưởng tự tôi theo lý tưởng ngay chính nghiêm nghị, tự cho mình có thiên Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không có ai xứng với mình về những phương diện tư cách hòai bão. Ý nghĩa trên xuất phát từ người thái tuế tượng trưng cho ngôi vua là thiên, tử là con trời, vì ở xa dân ngay cả đến quần thần nên người có thái tuế thường cảm thấy cô độc ít tri kỷ.

2. Quan phù : tính chất quan phù ở Mệnh mang lại cho đương số một sự khôn khéo biết tiến thóai tùy lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của mình. Đó là một điểm khó khăn ít người dung hòa được. Người có quan phù thủ Mệnh rất giỏi lý luận, biết người biết ta nên rất tế nhị, chinh phục người khác bằng tư tưởng chính phái của mình.

3. Bạch hổ : tính tình có vẻ sắt đá gan dạ, nóng nảy với hậu thuẫn là mình thuộc chính phái. Người có bạch hổ thủ Mệnh dễ làm mất lòng người khác vì lời nói thật hay mất lòng. Nhưng nếu cứ ở miếu địa (đậu) là cách bạch hổ khiếu tây phương thì lời nói thẳng nhưng rất có oai làm người khác nể sợ.

4. Thiếu dương : là tùy tinh mang tính chất của sự biến dịch của tứ tượng bát quái, tuy sáng suốt nhưng là sự sáng suốt sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực siêu phàm mới sử dụng được nó. Trước tiên nếu có đồng Cung hay chính chiếu với hồng loan thì nó có đặc tính quên mình bỏ cái ta đi để gánh vác việc đời. Ngược lại nếu nó đi với đào hoa thì trở nên vị kỷ chỉ nghĩ đến mình, vì mình tất cả. Còn vị trí thiếu dương thiên không ở tứ mộ thì phần hay ít dở nhiều, tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ. Tóm lại người mang cá tính thiết dương dù vị kỷ hay vị tha cũng là một người sáng suốt hơn người, vượt lên trên mọi người.

5. Phúc đức : cũng nằm trong tam hợp thiếu dương nên âm hưởng của sao này đem lại cho đương số sự sáng suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ được chữ đức làm đầu. Người có sao phúc đức là người thích vươn lên với đời trong sự sòng phẳng tương quan đổi chác song phương hưởng lợi.

6. Tử phù : không như hai sao thiếu dương và phúc đức, thế của sao tử phù cũng là sáng suốt nhưng là thứ sáng suốt để lừa lọc người ta với tính tình ma mãnh dám làm điều xằng bậy nếu có dịp, vì từ lời nói tư tưởng đến hành động đối với những người này cách nhau không xa.

7. Trực phù : do tính chất của địa chi thì vòng trực phù long đức thiếu âm bị sinh xuất hoặc bị khắc xuất do đó nhóm này bị nhiều thua thiệt ở đời vì thế tương quan trong thế tam hợp thì chịu nhiều thiệt thòi nhưng riêng vị thế trực phù thì cá biệt mà nói mang sao này trong các công việc dù công hay tư không được đãi ngộ tương xứng với khả năng của mình.

8. Long đức : tuy cùng chi phối với trực phù nhưng cũng như phúc đức, vị thế long đức còn chịu sự chi phối của nhóm tứ đức. Vì vậy thua thiệt người long đức thường hiền hậu an phận không thích mạo hiểm bon chen, cuộc đời thụ động quá mức đến bi quan.

9. Thiếu âm : là vị thế của vòng trực phù nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của dịch lý và tương phản với thế thiếu dương nên người thiếu âm thường bị thua thiệt để quan niệm chủ quan lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, quá hào phóng hoặc quá tự tin người khác để trở nên khờ dại dễ mắc lừa.

10. Tang môn : có người cho rằng thế tang môn phải được ghép với thế bạch hổ hoặc ngược lại vì đó là một cặp trong lục bại tinh. Nếu luận theo lẽ biến dịch ngũ hành với 12 Cung so với ý nghĩa các Cung như tam hợp nhị hợp chính chiếu hoặc giáp xung thì sẽ không lạ gì có sự phân cách riêng biệt giữa từng cặp sao dù là một bộ như tang hổ, song hao, tướng binh. Vị thế của tam hợp tang môn điếu khách tuế phá là vị thế đối nghịch hoàn toàn của tam hợp tuổi ; chính đây là một điểm xung sát để tạo thành. Thời thế tạo anh hùng gây dựng nên thời cuộc là sự biến ảo của mấu chốt này. Cá biệt sao tang môn cho thấy người có sao này thường gánh nhiều mối ưu tư phiền tóai bận tâm ; nếu suy luận thì bất cứ làm việc lớn hay nhỏ người này cũng suy tư lo lắng. Người này không thích đùa với ai và cũng không thích ai đùa với mình, trong tâm trạng suy bụng ta ra bụng người làm người này trở nên dè dặt tế nhị.

11. Điếu khách : khóac lên mình một gánh nặnt chống đối việc ở đời, người có sao điếu khách thường thích đả kích người khác, thích tranh luận bàn cãi và thuyết phục người khác. Vì thế có người đã không ngần ngại gán cho những người có sao điếu khách là sẽ làm nghề thầy cãi (luật sư) vì mã khốc khách, cũng như đã không nề hà gì mà gán chức vị thẩm phán cho những người có quan phù thủ Mệnh thân. Đành rằng sự gán ghép này có căn bản riêng của nó nhưng về nghề nghiệp là có một sự phức tạp vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao thái tuế.

12. Tuế phá : cũng tương tự như đặc tính sao điếu khác nhưng ở đây sao tuế phá là một nét dị biệt, một trạng thái của sao đối lập (chống đối người khác) có thể làm được những việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở thân.

Vài ví dụ thực tế :

Người có bạch hổ thủ Mệnh ở dậu, nhị hợp là giải ách ở thìn thiên di ở mão, chỉ cần mấy yếu tố này chúng ta sẽ phác họa ra bề mặt và bề sau của tâm hồn một người. Như đã trình bày trên qua hai yếu tố biểu kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn một bề ngoài bề trong đã có sơ lược giải khái quát về tính tình đương số : Bề trong lúc nào cũng canh cánh trong lòng về những bất trắc ở đời, nhiều khi quá bận tâm về hậu quả của một mình làm dù việc này không có gì đáng bận tâm (Mệnh sinh xuất cho giải ách). Bề ngoài có vẻ sắt đá gan lì với hậu thuẫn chính nghĩa lẽ phải của mình. Tổng kết lại là dù bề trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt qua thì người này dám bất chấp làm bất cứ việc gì không cần nghĩ đến hậu quả với niềm tin là lẽ phải về phần mình mà coi thường đối phương.

Mệnh có tang môn ở tuất, nhị hợp là nô ở mão, thiên di ở thìn : Bên trong : đương số thích được bạn bè yêu mình, thích được người khác chiều chuộng nể vì mình. Bề ngoài : mang tâm trạng tế nhị, mang một mối lo âu, có nhiều sự bận tâm không thích những trò đùa dai. Do đó đương số dễ mang nét âu sầu trên gương mặt hay bi quan trước cuộc sống.

Tương quan của vòng thái tuế qua Cung thân nhị hợp xung chiếu :

Mới trông qua cũng giống như chương I nhưng nếu xét kỹ thì thấy có điểm khác biệt duy nhất mà ta đã xét khái lược ở trên, đó là vòng thái tuế chỉ về tư tưởng ngược lại thì ở thân vòng thái tuế lại chỉ về hành động vật chất. Nội dung của phần hai đã vạch sẵn như vậy ta có thể xét theo từng mục hành vi biểu kiến mặt trái ở đời. Những thí dụ điển hình :

+ Hành động biểu kiến về tiềm ẩn : ở đây phương cách lý luận cũng như phần 1 nhưng đổi vị trí lại, một đàng là Cung Mệnh và Cung nhị hợp của nó, một đàng là hành động tiềm ẩn, tức là cứu cánh khác với phạm vi nội tâm. Cứu cánh sau cùng của hành vi là do Cung nhị hợp thân sinh nhập hay sinh xuất với Cung an thân, phải được sinh nhập mới tốt. Thí dụ : thân có quan lộc ở sửu có điền trạch nhị hợp ở tý thì hành động cứu cánh của đương số chính thức là do về nhà cửa hay nói bao quát hơn là lo về việc nhà việc gia đình.

+ Bên ngoài có phối hợp Cung số mà thân cư với vị thế vòng thái tuế thì mới hiểu rõ hành động bên ngoài chịu ảnh hưởng gì và đặc điểm gì ? Trước tiên ta phải xét thân cư Cung số nào trong các Cung số : Mệnh (thân Mệnh đồng Cung phú quan di tài phối) để từ đó ta có thể biết hành động bên ngoài chịu ảnh hưởng gì trong 6 Cung số trên. Về điều này không có gì mới lạ, các sách đều có nêu ra. Sau khi đã được rõ Cung an thân ta mới so sánh với Cung số nhị hợp xem sinh nhập hạn sinh xuất cho Cung an thân. Cần phải biế rằng hành vi bên ngoài là phương tiện còn hành vi tiềm ẩn là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Ví dụ thân cư quan lộc ở sửu nhị hợp Cung điền trạch là Cung tý, có thái tuế chính chiếu ở mùi, ta có thể phối hợp các dữ kiện bên ngoài và bên trong để xét hành vi một cá nhân :

* Bên ngoài : thân có thái thuế chính chiếu thuộc thế mộc thuộc thế tam hợp của thân thuộc nhóm kim (tỵ dậu sửu) do đó bề ngoài đương số có vẻ tự cao tự đại. Nếu có nhiều nhóm sao quá khích như hỏa linh kình đà thì sẽ biến ra kiêu căn kênh kiệu bề ngoài, khi bắt tay vào việc đương số dễ dàng thắng hoàn cảnh vượt qua trở ngại để đạt mục tiêu.

* Bên trong : thế tam hợp là kim bị sinh xuất cho thế nhị hợp thế thủy của Cung điền trạch đương số là người biết lo cho gia đình nhà cửa. Tổng kết có thể phối hợp như sau : người năng hành động thường tỏ ra tự tôn, không có bạn tri kỷ tri bỉ, thường hành động một mình trong mọi vấn đề liên quan đến nghề nghiệp và những thắng lợi về khoa cử công danh. Và phương diện biểu kiến có vẻ háo danh, cố tìm phương tiện nhưng tất cả nhắm tới hành động sau cùng (cứu cánh) là cho nhà cửa ruộng đất cho gia đình mình.

Vòng thái tuế và hành động của mỗi cá nhân : 12 sao của vòng thái tuế được ghi nhận ở Cung an thân như là một thế động mà tĩnh ứng với nguyên lý âm dương của biến dịch. Trong phần trên đã viết về vòng thái tuế trong trạng thái tĩnh, do đó phần này chỉ viết trong phạm vi động.

Thí dụ : Mệnh có bạch hổ thì tính tình có vẻ sắt đá nóng nảy dễ làm mất lòng người khác. Thân có bạch hổ thì hành động dũng mãnh đôi lúc hành động làm thiệt hại hay làm người khác sợ hãi vì hành vi ngang tàng của mình.

Thí dụ thực tế : thân có tuế phá ở ngọ cư quan lộc, nô bộc cư Cung mùi, phối ở Cung tý, Mệnh ở dần có tang môn nhị hợp là tử tức ở hợi, thiên di đóng ở Cung thân. Ơ trường hợp này ta phải phối hợp hai phần 1 và 2 để tổng luận đương số là người hay lo lắng bất cứ điều gì nhưng trong thâm tâm rất yêu thương con cái. Ngoài ra đương số ở trong môi trường chống đối mới tạo lập được cuộc sống hợp với bản tính tế nhị, chăm sóc con cái cẩn thận, lúc nào cũng nghĩ đến đàn con dại nhưng bề ngoài đương số lại phải chống cự với hoàn cảnh, cần phải ghi rằng các thế nhị hợp chính chiếu vòng thái tuế có thể bị suy giảm ý nghĩa do sự hiện diện của tuần triệt hay hung tinh. Nhưng dù thế nào ý nghĩa chính cũng vẫn tập trung bao gồm những điểm bao quát trên. Thân đương số đóng ở Cung quan lộc có tuế phá lại được Cung nô bộc sinh nhập là một dịp gỡ gạc cho đương số, tuy rằng Cung phối cũng lấn lướt nhưng nhẹ nhàng. Mệnh và thân đương số cùng một phe lý thuyết đi đôi với việc làm thì còn gì tốt cho bằng. Đương số bắt tay vào việc do tính tình tế nhị của mình và hành động đả phá của mình, tuy không đạt đến tuyệt đỉnh, hơi muộn màng nhưng cũng đã thành công trên đường đời. Sự thành công này bắt nguồn từ bạn bè, người dưới giúp đỡ. Đây là một chứng minh quan niệm vòng thái tuế quan trọng nhất với cá tính, nhờ cá tính mà đi đến thành công.

Ví dụ : thân Mệnh đồng Cung tại ngọ có bạch hổ, nhị hợp là phụ mẫu ở mùi, thiên di ở tý (lá số Hàn Tín) đương số là người lời nói đi với việc làm, có nhiều hoài bão to lớn, tính tình lỳ lợm, hành vi cũng không kém phần lỳ lợm. Hành động dũng cảm chỉ có người trí dũng ôm ấp nhiều giấc mộng đạp đất và trời để từ đó tùy cơ hội mà dựng nên nghiệp lớn. Thái độ và hành động đầy chính nghĩa dù có đôi chút vị kỷ vì có sao hóa lộc thủ Mệnh hội cùng đẩu quân được bà phiếu mẫu hiểu thấy và bao bọc trong lúc hoàn cảnh cơ hàn (được phụ mẫu ở họ nhị hợp). Tiếc thay một tài hoa hiếm có như Hàn Tín mà bị trời đặt cho một Cung thiên di thua sút cho nên ra đời đã gặp nhiều hoàn cảnh thử thách, may mà thân và Mệnh đồng Cung mới đủ sức chống chọi để vươn lên với đời, nhưng rồi chung cuộc vùng vẫy cho lắm để rồi cũng thất bại với hoàn cảnh (chết vì tay mụ Lã Hậu).

Tam hợp Mệnh tài quan phối hợp qua vòng thái tuế : thế tam hợp luôn luôn đóng vai trò chủ chốt trong khoa Tử Vi, thế tam hợp kết hợp ra ngũ cục (kim mộc thủy hỏa thổ cục) cho đến các vị trí tiểu hạn an theo từng tam hợp tuổi. Rõ rệt hơn cả là thế tam hợp Mệnh tài quan là câu nói đầu tiên của người biết xem Tử Vi. Đó là một bình diện của yếu tố địa chi trong 4 yếu tố : can chi, tuổi, Mệnh, cục của 2 thành tố gia đình và xã hội. Trong lãnh vực tâm lý học với vòng thái tuế vai trò của tam hợp rất quan trọng, nó đã cho ta các vị thế để biết bề mặt trái của các vấn đề. Ơ Mệnh thân đồng Cung thái tuế tác động nhiều ở trong thế tam hợp Mệnh tài quan sự kiện này đặt cho ta một vài dữ kiện phải giải quyết như : thân Mệnh đồng Cung thân cư tài bạch hay quan lộc.

Thân Mệnh đồng Cung : tư tưởng và hành động cùng là một, lời nói đi đôi với việc làm. Người thân Mệnh đồng Cung dù ở vị thế nào của vòng thái tuế cũng vậy, luôn luôn cố phấn đấu với hoàn cảnh. Vì vậy trong trường hợp này vòng thái tuế có ý nghĩa : trời cho cha, cho hình hài để hồn nhập vào, mẹ cưu mang những đặc thái của một cá nhân, đặt để ra trong môi trường mà kể từ lúc mới sinh cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Hành động tức cái ta lúc nào cũng đối kháng môi trường (hoàn cảnh) sẵn có của ta. Là người quyết tâm chống lại hoàn cảnh dù thành hay bại.

Thân an tại tài bạch hay quan lộc ở đây cũng cùng một thế tam hợp với Mệnh cũng như về vòng thái tuế có vị thế đặc biệt cần ghi lại. Nếu vị thế đặc biệt tức Cung thiên di thì vị thế tam hợp Mệnh hay thân ở vị thế lấn lên hay chống đối thì mới đủ khả năng hành động vươn lên với đời. Về các điểm này xin xem các ví dụ dẫn giải ở trên và nên áp dụng một cách linh động trong tương quan bề ngoài hay nội tâm thì mới nắm được yếu quyết của vòng thái tuế. Thiệt ra mối quan hệ về vòng thái tuế qua các mối liên hệ giữa các Cung số nói trên được dẫn giải bằng đường lối dung hòa hai quan niệm dùng dịch lý trở về nguyên khoa Tử Vi và khoa học hóa cho dễ diễn đạt thích ứng vào đời sống hiện đại.

Sau hết vòng thái tuế tức là hạn, các cụ thầy bói cao niên từ xưa vẫn thường nói : hạn thái tuế. Có thể nói rằng theo lối nhận xét trên đây cho nên trong nhiều lá số ngày xưa để lại người ta thấy rằng khi an sao trên 12 Cung thì 3 vòng sau tràng sinh thái tuế và lộc tồn đều an ở phía bên dưới như tràng sinh ở giữa, thái tuế bên phải, lộc tồn bên trái.

Ý niệm về vòng thái tuế và vòng Mệnh thân : vòng thái tuế tượng trưng cho các chính thống của mình, vòng Mệnh tượng trưng cho tư tưởng của mình, vòng thân tượng trưng cho hành động của mình. Vòng thái tuế là tên của tam hợp ba Cung có tên giống địa chi năm sinh. Vòng Mệnh là tam hợp 3 Cung Mệnh tài quan. Vòng thân là tên tam hợp 3 Cung có liên quan đến Cung thân.

Sau đó ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng : thân tý thìn thủy, dần ngọ tuất hỏa, tỵ dậu sửu kim, hợi mão mùi mộc.

Vòng Mệnh cùng hành với vòng thái tuế, còn vòng thân ở thế ngũ hành xung khắc là người ngụy quân tử nói ngon lành mà hành động ác độc. Vòng Mệnh và vòng thân căn cứ trên luật tam hợp. Khi Cung Mệnh đóng ở vị trí nào so với vòng thái tuế là phải nhìn vào thế tam hợp của Cung an Mệnh như vòng tha nhân đối với vòng bản tính của đương số là vòng thái tuế. Tam hợp của Cung an thân là vòng hành động của đương số biện chứng quy luật ngũ hành ta vạch trần được tác phong đương số một cách rõ ràng. Thí dụ người tuổi tỵ (vòng thái tuế là tỵ dậu sửu), Cung an Mệnh đóng ở tuất vòng tha nhân là dần ngọ tuất là hỏa, Cung an thân đóng ở tý vòng hành động là thân tý thìn là thủy. Ta lý giải ngay số người này là mẫu người ra đời bị chèn ép ngược đãi (hỏa đốt kim), chịu nhiều thua thiệt vất vả (kim sinh thủy). Vòng Mệnh cùng hành với vòng thân nhưng được vòng thái tuế sinh xuất là người hiền lành nhu nhược an phận. Vòng Mệnh sinh nhập vòng thái tuế và vòng thái tuế lại sinh xuất vòng thân là người nói hay như làm dở, nói nhiều làm ít, nhiều lý thuyết ít thực hành, dốt hay nói chữ. Nếu trong vòng thái tuế không có địa không địa kiếp đà la là người chính nhân quân tử. Nếu trong vòng thái tuế có thêm kỵ đà không kiếp là người số phận hẩm hiu, có tài mà không có thời. Nếu hai sao tả hữu đứng ở thế đối lập vòng thái tuế hay ở thế sinh nhập vòng thái tuế là hạng hữu tài vô hạn làm điều khuấy đảo thiên hạ. Thí dụ tuổi ngọ vòng thái tuế là hỏa có hai sao tả hữu đồng Cung ở mùi thì dù có không kiếp địa kỵ hay không cũng là hạng lưu manh lừa đảo.

Chữ thời với vòng thái tuế : vòng thái tuế ngoài ý nghĩa cho biết thời may vận tốt 10 năm, nó còn Cung cấp một đức tính quí báu là tìm biết tính của con người, cũng như thử thách đương số trong sinh hoạt hàng ngày. Ta cần để ý về tuổi âm nam dương nữ như sau : trước khi tới thời kỳ 10 năm của thái tuế thì đã gặp 10 năm của vòng thiếu dương phúc đức tử phù. Tuổi dương nam và âm nữ lại gặp 10 năm của vòng thiếu dương sau khi đã được hưởng 10 năm của vòng thái tuế quan phù bạch hổ.

Cả hai cách cùng cho ta thấy : xét luật ngũ hành thì vòng thiếu dương phúc đức tử phù ở thế lấn so với vòng thái tuế quan phù bạch hổ. Thí dụ tuổi tuất dương nam thì vòng thái tuế là hỏa, còn vòng của thiếu dương là mộc, mộc sinh hỏa có nghĩa là mình đang gặp thuận lợi để lấn tới, lấy thời gian mộc để dưỡng cái ta, hỏa lợi thì có lợi thật nhưng luật thừa trừ đã xuất hiện để ổn định sự bất công. Cho nên ai bước vào thời kỳ này (vòng thiếu dương) sẽ gặp phải sao thiên không ở đồng Cung với thiếu dương, đó là một nét thâm thúy và đầy nhân văn tính nhất của khoa Tử Vi. Ở đời không nên tham vọng điều gì quá đáng vì sẽ gặp thiên không ở cuối đường hầm (hạn thiên không ai biết xem Tử Vi đều biết rõ tác dụng khủng khiếp của nó).

Cụ Thiên Lương đã triển khai vòng thái tuế về tầm quan trọng của nó giúp cho người xem cũng như người học Tử Vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương Cung nào chứa vòng tam hợp của thái tuế quan phù bạch hổ thì đại hạn 10 năm của Cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ như Mệnh tại dậu, tuổi mão âm nam kim cục thì theo chiều nghịch Cung dậu từ 4 – 13, Cung thân 14 – 23, Cung mùi 24-33 (vòng thái tuế), do đó 10 năm đại vận 24 – 33 là lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo tam hợp của vòng thái tuế, nếu gặp đầu Cung có thái tuế là đắc thời một cách chính đáng, quan phù là đắc thời trong sự tính toán và bạch hổ là đắc thời trong sự làm việc vất vả. Cho nên người có số Tử Vi thấy đến đại vận của vòng thái tuế kể như đến hồi thái lai thoải mái. Nhưng có một đặc điểm ly kỳ là nếu tiểu vận tới cung chứa vòng thái tuế lại phải đề phòng sự thiệt thòi đưa tới : tiểu vận đến Cung chứa sao quan phù đề phòng thị phi miệng tiếng ; tiểu vận đến Cung chứa sao bạch hổ đề phòng đau ốm tai nạn.

Nói tóm lại đại vận của vòng thái tuế là hên, tiểu vận là xui.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách giải đoán tổng hợp

Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Hồng môn là một trong những loài hoa nên trồng trong nhà, mang tới nhiều may mắn và tốt đẹp cho chủ nhân.
Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trồng hoa không chỉ tăng mỹ quan mà còn sinh vượng khí, cải thiện phong thủy cho ngôi nhà.


Nu nhan muon nam quyen, trong hong mon trong nha hinh anh
 
Hồng môn sống ở môi trường nhiệt đới ẩm, du nhập vào nước ta từ lâu và là loài hoa khá quen thuộc với người Việt. Màu sắc tươi tắn, vẻ ngoài xinh đẹp, sang trọng, hồng môn rất được ưa chuộng để trang trí hoặc làm quà tặng. Nhưng ít người biết tới tác dụng phong thủy của loài hoa nên trồng trong nhà này.
 
Hồng môn lá dài, rộng, dày, xanh mướt tượng trưng cho may mắn, phát triển; hoa nở to, màu sắc đỏ tươi rực rỡ, như lời nói nhiệt tình, tốt đẹp; chóp màu vàng óng dựng thẳng đại diện cho phú quý, tiền tài. Màu đỏ vốn là màu cát tường nên hoa hồng môn thích hợp để đem biếu, tặng nhân dịp có hỉ sự như khai trương, là lời chúc sự nghiệp thịnh vượng, náo nhiệt. 
Loài hoa may mắn này còn khiến người ta tràn ngập nhiệt tình cùng tin tưởng, đặt ở trong nhà như thắp thêm niềm vui và sức sống cho không gian. Nó giúp cho chủ nhân thoải mái tâm tình, giải phóng cảm xúc, hướng tới những điều tích cực. Bên cạnh đó, hồng môn là loài hoa thu hút quý nhân, gia tăng bạn tốt giúp đỡ người trong nhà.
 
Ở trung cung trong Bát cung phong thủy nhà ở, đặt một chậu hồng môn tươi tốt có tác dụng khởi sinh. Hồng môn thuộc tính Mộc, sinh Hỏa, Hỏa tái sinh Thổ, đặt ở trung cung là phương vị Thổ như tạo ra miền đất mới, vạn vật được tái sinh. Trung cung nhà ở Khôn vị hoặc Cấn vị thì nhân sự bất lợi, xuất hiện hung tai, đặt hồng môn có thể hóa giải rất hữu hiện.
 
Màu đỏ là quẻ Ly, tượng trưng cho vẻ đẹp, sự ngời sáng; màu vàng là quẻ Khôn, tượng trưng cho sự dịu dàng, chăm chỉ, đại diện cho nữ nhân. Trong nhà có nữ nhân thể trạng yếu hoặc vận thế không tốt, trồng loài hoa hợp phong thủy này rất có lợi. Hồng môn còn có nghĩa là nữ chủ nhân nắm quyền, nếu người phụ nữ muốn có tiếng nói trong gia đình thì cũng nên sắm một cây.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Những Vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc

Trần Hồng (Theo d1xz)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Top 3 chòm sao nam “ngoài lạnh, trong nóng” –

Có nhiều chàng trai ngoại hình lạnh lùng khó gần nhưng trái tim và tâm hồn lại vô cùng ấm áp, dạt dào cảm xúc. Hãy cùng điểm qua top 3 chòm sao nam “ngoài lạnh, trong nóng” nhất trong số 12 cung hoàng đạo nhé! Những cung hoàng đạo nam “ngoài lạnh, tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có nhiều chàng trai ngoại hình lạnh lùng khó gần nhưng trái tim và tâm hồn lại vô cùng ấm áp, dạt dào cảm xúc.

Hãy cùng điểm qua top 3 chòm sao nam “ngoài lạnh, trong nóng” nhất trong số 12 cung hoàng đạo nhé!

Nội dung

  • 1 Những cung hoàng đạo nam “ngoài lạnh, trong nóng”
    • 1.1 Quán quân: Bò Cạp
    • 1.2 Á quân: Ma Kết
    • 1.3 Quý quân: Xử Nữ

Những cung hoàng đạo nam “ngoài lạnh, trong nóng”

Quán quân: Bò Cạp

Những chàng trai sinh ra dưới chòm sao Bò Cạp nổi tiếng lạnh lùng khó gần, chẳng khác nào một tảng băng lạnh giá. Đặc điểm này ở họ khiến nhiều cô gái e ngại khi tiếp xúc, nhưng phần lớn mọi người đều không thể phủ nhận rằng ở họ luôn toát lên một sức hút khó giải thích. Những chàng trai này thích ở một mình, lặng lẽ quan sát và suy tư về mọi thứ trong cuộc sống.

0-7839-1398679118

Nếu bạn muốn lọt vào “mắt xanh” của họ bằng thái độ vồn vập, cử chỉ nhiệt tình và quan tâm tới họ mọi lúc mọi nơi thì đúng là một sai lầm nghiêm trọng! Điều đó chỉ làm họ cảm thấy ác cảm và không muốn gần bạn chút nào. Hãy tiết chế lời nói, hành vi, cử chỉ của bản thân một cách vừa phải để họ cảm nhận được những nét đẹp ở bạn một cách từ từ, và để họ cũng cảm thấy tò mò về bạn như bạn tò mò về họ vậy.

Dù mang vẻ ngoài lạnh lùng nhưng những chàng trai Bò Cạp yêu rất cuồng nhiệt, mãnh liệt và hết sức chiều chuộng người yêu. Họ thực sự rất chung thủy nên sẽ không thể nào chịu đựng nổi nếu như bị phản bội.

Á quân: Ma Kết

Những chàng trai cung Ma Kết thường khá trầm tính, ít nói và không mấy ấn tượng nếu bạn chỉ tiếp xúc “sơ qua” với con người họ. Họ luôn làm mọi thứ một cách lặng lẽ, tới mức người khác cảm thấy ngại ngùng, khó xử với sự im lặng nơi họ.

Nếu muốn được bầu bạn với họ, bạn nên quan tâm, giúp đỡ họ một cách kín đáo, không bao giờ được tỏ ra ồn ào, nếu không họ sẽ thấy khó chịu và “cạch mặt” bạn ngay. Khi Ma Kết cảm nhận được sự chân thành từ bạn, dần dần họ sẽ đáp lại bạn bằng những cử chỉ quan tâm tương tự chứ không bày tỏ nhiều bằng lời nói.

Quý quân: Xử Nữ

Những chàng trai Xử Nữ sống rất nội tâm và hiếm khi thể hiện cảm xúc thật của mình trước mặt người khác, kể cả những người họ tin cẩn và thương yêu. Họ rất kín đáo và cẩn trọng trong cách cư xử với mọi người, đặc biệt là với những người khác giới. Kể cả khi đã có người yêu, họ vẫn tỏ ra bình thản, lạnh lùng và hiếm khi thể hiện tình cảm một cách công khai.

Nếu muốn chiếm được trái tim của nam Xử Nữ, bạn hãy kiên nhẫn chờ đợi và dùng tình cảm chân thành của bản thân để “cảm hóa” sự lạnh lùng của họ. Thời gian sẽ giúp anh ấy thoát khỏi vẻ ngoài lạnh lẽo và thể hiện những tình cảm ấm áp đối với bạn, quan tâm tới bạn từ những điều nhỏ bé nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 chòm sao nam “ngoài lạnh, trong nóng” –

Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Một câu chuyện tử vi vui chia sẻ với mọi người
Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày tự kỷ chả đi chơi đâu, hắn ngồi một mình ở xó nhà, hắn nghĩ ngợi:

- Khỉ thật! Nếu cái phần mềm giải lá số "hâm dở" Tử vi Xem Tướng trả về một đống dữ liệu dài như rác thế này thì mình muốn dùng cũng khó. Đọc thì chả biết bao giờ xong một lá số hơn 100 trang giấy. Mà yêu cầu giải tức thì loay hoay kéo lên kéo xuống cái màn hình điện thoại thì cũng chả nhớ nổi. Vậy có cách nào giải quyết không?

Một câu hỏi đặt ra là: "có cách nào giải quyết không?".

Hắn cần một câu trả lời! Hắn thấy căng thẳng, hắn đi đi lại lại, hắn lầm lầm lì lì. Hắn gặp ai cũng than thở. Rồi hắn khó chịu quá, đành mang sách ra gõ lấy một đoạn "Thái âm, Thiên đồng" trong sách "Tam Hợp Phái" ra để hạ nhiệt tư duy. Cũng không ổn mấy. Hắn lăn quay ra ngủ. Ngủ được một lúc hắn bắt đầu tỉnh. Và hắn nghĩ:

- Nếu trước mặt hắn là một cô gái hắn gặp lần đầu, nói chuyện được vài câu mà phải mô tả chi tiết thì khá căng: chiều cao, cân nặng, số đo vòng, màu da, giọng nói, tính cách,... Kể mãi chả hết giống như cái phần mềm của mình "liên miên bất đoạn". Nhưng nếu mô tả nhanh mà chỉ dùng chừng vài từ là mô tả thì ai cũng hiểu, ví dụ như: "hiền dịu, thông minh, tiếng nói hay, xinh khéo". Có liên hệ gì với cái phần mềm Tử vi Xem Tướng của mình không?

Một câu hỏi đặt ra là: "Liệu phần mềm có tóm tắt lá số ngắn lại giống như mô tả một cô gái chỉ dùng vài từ không?".

Hắn ồ lên một tiếng:

- Chả khó! Nếu một đống dữ liệu lời giải tử vi được trả ra thì tụ quanh chừng hơn chục chủ đề cần trả lời thôi. Nhưng do lặp môn phái sinh ra rối loạn kết quả. Nếu mỗi chủ đề mình nhặt ra một câu trả lời đúng nhất, thì cũng chỉ có chừng hơn 10 câu trả lời thôi. Đó chính là "tóm tắt lá số".

Hắn lại nghĩ thêm:

- Mình sẽ tóm tắt thành các chủ đề:

1. Lá số này tốt hay xấu? Tốt thì tốt cái gì, xấu thì xấu cái gì?
2. Định hướng về tâm tính của mệnh tạo?
3. Tố chất của lá số là gì?
4. Tính cách, các cư xử thế nào?
5. Lời khuyên gì dành cho lá số này để sửa đổi, cải vận?
6. Một số nhận diện nhanh đặc thù lá số: vận hạn, quan hệ hôn nhân, sức khỏe,...

Hắn tạm nghĩ ra được "6 thức" tóm tắt lá số. Hắn thấy khá hài lòng. Hắn vơ vội quyển sổ trong ngăn bàn ra, cầm vội cái bút viết nhanh ý tưởng và phác họa giao diện. Rồi hắn lăn quay ra ngủ tiếp.

Sáng hắn dậy sớm, mở sổ ra đọc, mang máy tính ra code. Hắn làm một loắng là xong.

Đầu tiên hắn update trường "sticky" cho các lớp luật độ chính xác cao là 1. Hắn bổ xung thêm một số luật "bí mật" mà thầy hắn dạy riêng cho hắn vào hệ thống, ẩn riêng cho chức năng này. Và hắn đã code xong. Hắn chạy thử, hắn hài lòng. Một lá số dài nhằng hơn 100 trang giấy, tóm gọi lại chưa tới một trang, nói đủ thông tin hắn cần. Test thử với lá số hắn và một người khác, hắn khá ưng ý.

Hắn vội viết nhanh lên Facebook để khoe - hắn là người thích khoe khoang. Nhưng hắn không công khai tính năng này cho mọi người. Tính năng này dành riêng cho mình hắn, và có thể là thêm một người nữa thôi. Tại thời điểm này hắn chưa muốn public tính năng. Hắn cần suy nghĩ thêm việc công khai tính năng "nâng cao" này cho tất cả mọi người sử dụng. Việc đó nghĩ sau, giờ không phải lúc.

...

Hắn phải đi test tính năng "tóm tắt lá số này". Hắn tính ra một kịch bản hoàn hảo:

Ngày chủ nhật, hắn đi chơi Chùa Hà một chuyến. Hắn cầm một chiếc bút viết bảng, 2 tờ giấy A4 và một lọ hồ dán giấy. À quên cả Iphone 4 cũ có dùng gói VTTRE của Viettel nữa. Hắn dạo một vòng, thăm thăm, ngắm ngắm toàn bộ rồi sau đó chọn lấy một cái xó nào đó ngồi mà đông chị em qua lại.

Hắn "nối tiếp" hai tờ giấy A4 lại rồi viết nguệch ngoạc: "Xem Tử Vi miễn phí. Sai ăn tát, đúng cầm tay" dán lên tường trên đầu hắn rồi hắn ngồi ngáp ruồi, không quên ngón cái tay trái giữ cung Tí truyền thống của ông thầy xem bói.

Hắn nghĩ: xác suất đúng cho tử vi là 70%. Nếu xem cho 10 em thì hắn sẽ được cầm tay 7 em, và bị ăn tát 3 cái là nhiều. Nếu chọn lựa em nào đó hiền dịu để xem thì khả năng "sưng mặt do ăn tát" là giảm đi đáng kể. Hắn sẽ phải chuẩn bị câu từ chối cho trường hợp này đại loại như: "Em gái à? Lá số của em rất khó xem, nó cần phải mất nhiều thời gian hơn bình thường. Em cho anh suy nghĩ thêm. Email em là gì nhỉ? Em ghi lại cho anh: ngày tháng năm giờ sinh và địa chỉ email, tối về anh giải và gửi lại cho em". Nói vậy là ổn, tránh được một lớp khách hàng nữ có "đôi tay khỏe mạnh".

Hắn bắt đầu hành nghề. Đầu tiên là bật điện thoại lên, mở sẵn trang Tử vi Xem Tướng ra và vào sẵn tính năng "tóm tắt lá số". Sau đó đợi khách hàng.

Một em gái khá xinh hỏi hắn:

- Anh xem tử vi ạ? Anh xem cho em được không?

Hắn ngước mắt điêu luyện của ông thầy hạng ruồi. Hắn nói:

- Được! Em ngồi xuống đi!

Đợi em gái ngồi xuống, hắn hỏi tiếp:

- Em cho anh ngày tháng năm sinh, giờ sinh dương lịch.

Cô gái trả lời:

- Em sinh...

Hắn thao tác nhanh nhập thông tin vào phần mềm rồi đọc lướt kết quả tóm tắt. He he! Rõ như ban ngày, cô gái này mệnh có sao Phúc Đức, cục Mệnh là Tang Đố Mộc, Lai nhân cung ở Tật Ách, Thân cư phu,.. Tóm tắt lời giải ngắn này đọc loắng là xong.

Hắn ngẫm nghĩ:

- Xinh thế này không cầm tay không được. Ăn tát cũng phải cầm tay đã. Hắn nghĩ ra cách.

Hắn thao tác tay trái bấm bấm kiểu an lá số bằng tay, tay phải cũng bấm tiếp. Bấm một tí hắn nói:

- Em à? Anh an lá số Thiên Bàn ở tay trái, Địa Bàn ở tay phải. Giờ còn lá số Nhân Bàn thì phải an ở tay đương số mới đúng được em ạ. Em đưa tay cho anh xem.

Cô gái cũng vui vẻ đưa tay cho hắn. Hắn "nắm chặt" tay cô gái rồi mở lòng bàn tay cô gái ra chỉ vào các đốt ngón tay tương đương 12 cung để an lá số Nhân Bàn (an lại sao dựa vào cung Phúc Đức).

Thật là đã đời! Giờ thì hắn luyên thuyên nói theo chức năng "tóm tắt lá số" để rồi em gái gật đầu khen đúng.

...

Một buổi test phần mềm thành công. Chức năng "tóm tắt lá số tử vi" done!

(Phù Cừ Cổ Học)

----

Tập viết một đoạn văn ghi chép sự kiện "viết xong tính năng tóm tắt lá số ngày 25/12/2016". Viết vội chưa kịp soát chính tả, câu cú.

Xem lá số Tử Vi theo Trung Châu Phái có sử dụng Tam Bàn: Thiên Địa Nhân để giải lá số thêm phần chính xác.

Nguồn: tuvi.cohoc.net


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Định nghĩa về phong thủy và những yếu tố chi phối phong thủy

Mê tín là chỉ nhìn mọi việc khách quan mà không rõ nguyên căn, bản chất. Phong thủy không phải là mê tín, bản chất của phong thủy chính là sự
Định nghĩa về phong thủy và những yếu tố chi phối phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Mê tín là chỉ nhìn mọi việc khách quan mà không rõ nguyên căn, bản chất. Phong thủy không phải là mê tín, bản chất của phong thủy chính là sự kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên.

Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 2
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 3
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 4
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 5
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 6
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 7
 
Dinh nghia ve phong thuy va nhung yeu to chi phoi phong thuy hinh anh goc 8
 
=> Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ, phong thủy nhà ở để bình an, phú quý

Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Định nghĩa về phong thủy và những yếu tố chi phối phong thủy

Một phát giác mới về Tử Vi

Bài viết: một phát giác mới về Tử Vi của Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc chia sẻ kinh nghiệm mới về tử vi rất hay! Mời bạn đọc tham khảo!
Một phát giác mới về Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Vũ Tiến Phúc trích trong cuốn Câu Chuyện Tử Vi của tác giả.

Thời gian qua tôi đã có duyên may được gần gũi học với các bậc thầy uyên bác về các môn cổ học trên mà Câu Chuyện Tử Vi được kể ở đây hôm nay là để tưởng nhớ đến Cụ Cử Bùi, một trong những vị ân sư khả kính của tôi về Lý Số. Tôi còn nhớ có lần được tin Cụ đau phải vào nằm nhà thương. Tôi vội đến thăm cụ ngay. Dùng Dịch Số để thử chấn đoán bệnh lành hay dữ! Tôi đã hô: "Ba tuần lễ nữa thì chân cụ hết đau và đi lại bình thường". Điều đó đúng nên cụ lại càng mến tôi nhiều hơn.

Cụ Cử Bùi tinh thông Hán học, nổi tiếng về Bát Cẩm Trạch, Tử Vi và Địa Lý, nhưng không hành nghề nên ít người biết đến Cụ. Thấy tôi (Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc) là một người hiếu học lại ham tìm hiểu môn cổ học này nên ngay từ những buổi đầu tiếp kiến, Cụ đã nêu vấn đề:

"Tôi tuổi Giáp Dần, có việc về mồ mả của các cụ, sắp đến nhờ ông giáo xem hộ thế nào?"

Cụ hỏi là thực lòng, nhưng tôi nghĩ đây là trận thử lửa đầu tiên chăng? Nhưng:

Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng.

Sau ít phút tính tóan, vào quẻ. Tôi xin phép được hô lên một số điều sau:

Thế vi kỷ, ứng vi nhân. Thế số ở đây vượng tướng. Thế số vượng tướng tối vi cường. Tác sự hanh thông giai toại ý. Dụng thần sinh hợp diệu nan lường.

- Quan hào vượng, thiên mã trì thế. Tài năng thao lược, hẳn phải có một thời oanh liệt lắm, có chức vụ lớn.

Cụ nói họa theo ngay: "Đi làm có xe đưa đón và ở công thự nhà nước".

- Phụ mẫu động hào dương. Tý Thủy là phần mộ cha bị ngập nước suy hỏng. Ứng lâm Tuất, Tướng, nên chuyển về hướng Tây Bắc.

Cụ nói họa theo ngay là định hỏa thiêu đưa về chính quán.

- Huynh đệ Hào lâm không vong. Việc này chỉ mình Cụ lo được thôi, anh em có đầy cũng như không.

Cụ nói họa tiếp: "Bằng chân như vại".v.v.

Thế rồi Cụ gật gù như đắc ý mà rằng: "Thật là khoa học, đúng là khoa học vậy!".

Qua nhiều lần tiếp xúc với Cụ, tôi mới biết được thêm về những phát giác mới về Tử Vi và xin kể ra đây một chuyện để góp vui cùng quý bạn ham thích khoa Lý Số.

Trước nay những người lập lá số Tử Vi đều cảm thấy rằng có nhiều lá số không ăn khớp với cuộc đời của đương số, mặc dù giờ sinh của người ấy chính xác. Có những lá số rất đẹp vào hạng thượng cách, nhưng thực tế ngoài đời là số ăn mày, bần tiện là sao? Ngược lại, có những lá số xếp hạng hạ cách nhưng thực tế lại làm nên sự nghiệp lớn lao mới lạ. Do đó mà dẫn đến nhiều nghi vấn: Người tin Tử vi đến độ cuông tín, người bài bác Tử Vi đến kinh dị. Có người đang học Tử Vi phải nói lời từ biệt với môn này. Những người luôn trung thành với nó thì loay hoay thay đổi giờ sinh, giờ Thìn lấy xuống giờ Mão hoặc lấy lên giờ Tỵ cho nó khơm khớp một chút xem sao. Cũng vì thế từ lâu đã có một lời khuyên:

Tử Vi mà có sai lầm
Thời đem Tam Thế Diễn Cầm mà tra

Vốn mang sẵn thắc mắc trong lòng băn khoăn này, tôi đã nhạy bén bắt ngay vào câu chuyện của cụ, thật là lý thú được nghe Cụ kể cho một câu chuyện thế này:

Hồi còn trẻ, trước năm 1975, lúc đó ở Hà Nội Cụ đã say mê học Tử Vi rồi. Một kỷ niệm nhớ mãi của Cụ là: Cụ có một người bạn giỏi Tử Vi làm công chức ở tòa Đốc Lý. Do tin tưởng lá số tử vi của mình tiểu hạn năm đó có Thiên Tướng gặp Song Lộc, Tả Hữu, chắc có tài lộc tới. Dịp may tự nhiên đưa đến thật. Một số tiền lớn nhập két công mà không phải ghi sổ viết biên nhận do sơ xuất gì đó của người nộp! Ông bạn đem số tiền lớn đó về nhà giữ kín, nghe ngóng mãi đến cuối năm thấy yên ổn mới đem tiền ra tậu nhà đất làm giàu. Không may cũng là lúc cơ quan họ tiến hành thanh tra, tìm ra ông thụt két và bị ngồi vào tù! Cũng bị giam chung với ông là một người Tàu buôn thuốc phiện lậu. Hai người cùng biết ít nhiều tử vi tâm sự với nhau trong tù cho đỡ buồn. Sau khi nghe ông này kể chuyện, chú ba Tàu nói: "Nị bị tù là đúng lắm rồi, vì tiểu hạn có Liêm Tham Tỵ Hợi hội Kình Hình Kiếp Tỵ. Chứ không phải Thiên Tướng đắc ở Tỵ". Ông bạn này nghe ngạc nhiên, hỏi Nị lập lá số kiểu gì mà khác Việt Nam, thì Nị không chịu nói sao hết.

Câu chuyện này được người bạn ra tù kể lại rồi lâu cũng quên đi. Sau này di cư vào Nam năm 1954, mãi đến khi công du Đài Loan, Trung Hoa, quê hương gốc của Tử Vi, thì may mắn một học giả tại Đài Bắc tặng sách tử vi chữ Hán tìm thấy trong các gia đình đại gia quý tộc cũ. Lúc đó Cụ mới tìm ra được cái điều bí mật của chú Ba Tàu trước đây tiết lộ. Thế thì là có gì bí mật?

- Cách lập Cục của Tử Vi không theo phương pháp cũ mà theo cách mới, đổi theo hàng Can của tháng sinh.

Phải chăng chìa khóa để giải đoán cho nhiều lá số là ở đây?

Được cụ Cử Bùi nói cho nghe điều này, tôi vừa thích thú, vừa lại rất hoang mang; vì nó như phá đi mọi cái động bình cũ và cảm thấy nó như một cuộc cách mạng trong khoa Tử vi. Tất nhiên là phải có thời gian chiêm nghiệm, chứ chưa thể tin ngay được. Thực tế là thước đo kinh nghiệm chân lý. Tuy chưa có thời gian nghiệm chứng lâu, nhưng trong những năm gần đây tôi đã nhiều lần ứng dụng. Nhưng bỏ cái cũ hình thành lâu đời, dùng cái mới chưa được kiểm nghiệm đầy đủ đâu phải là chuyện dễ dàng.

Rồi sau 1975, tôi lại đụng đầu với một nhóm nghiên cứu tử vi miền Bắc. Trao đổi tài liệu, thấy nảy sinh nhiều điều mới lạ, lý thú hơn nữa. Đúng là có sự lẫn lộn giữa chân thư và giả thư rất phức tạp. Đó là chưa nói tới sự việc các sách tử vi Việt ngữ sao dịch còn nhiều thiếu sót.

Người xưa viết sách, dù là sách chính thống cũng thường dấu cái chìa khóa của vấn đề, biến hậu thế thành kẻ học trò tiếp thu bị động nhồi sọ. Thái độ của người học là tiếp tục nghiên cứu cả hai phương diện: tìm hiểu lại con đường mà người xưa đã đi qua và tìm độ chính xác của các khoa học cổ về phương diện thực nghiệm. Do đó với phát giác mới ở tôi, trong những năm vừa qua chỉ mới mạnh dạn áp dụng trong một số trường hợp mà khi dùng cách cũ thông thường thấy nghi vấn, không ăn khớp cho những lá số của người sinh tại các nước Âu Mỹ này!

Cụ Cử Bùi, một ân sư Tử Vi của tôi, thì tin tưởng hoàn toàn ở cách  mới này rồi.

(Theo cuốn Câu Chuyện Tử Vi của Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một phát giác mới về Tử Vi

Sửa ngực ảnh hưởng thế nào đến số mệnh –

Người ta có thể tin vào nhân tướng học để sửa mũi, cắt mắt, gọt cằm… cầu mong một cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng rất ít ai nghĩ phẫu thuật ngực để đổi… đời. Nhân tướng học cũng ít đánh giá vận hạn con người qua đôi gò bồng đảo bởi đó không phải là thứ d
Sửa ngực ảnh hưởng thế nào đến số mệnh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sửa ngực ảnh hưởng thế nào đến số mệnh –

Con đường sự nghiệp tuổi Mão

Người tuổi Mão thường có tính cách ôn hòa, không ưa bon chen và không thích sự thay đổi. Chính vì vậy họ thường có cuộc sống và công việc bình lặng, ổn định.
Con đường sự nghiệp tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tử vi, người tuổi Mão thường có tính cách ôn hòa, không ưa bon chen và không thích sự thay đổi. Chính vì vậy họ thường có cuộc sống và công việc bình lặng, ổn định.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Đó là những người ít có hoài bão lớn trong sự nghiệp. Do vậy, rất ít người tuổi Mão có thể làm nên sự nghiệp lớn hay đạt được thành tựu vượt trội.

Những người cầm tinh con mèo vốn rất thông minh, sống chân thành. Họ thường đưa ra những lời khuyên bổ ích cho người khác và và cũng biết lắng nghe ý kiến của người xung quanh. Do vậy mà họ thường được nhiều người yêu quý, giúp đỡ.

Tuy nhiên, một số người tuổi này lại khá coi trọng hình thức. Chính điều này đã tạo ra hình ảnh không tốt trong mắt người khác. Họ bị coi là người trau chuốt và không thể làm được những việc khó nhọc. Tuy nhiên, nếu thật sự cố gắng họ cũng có thể đảm đương được những nhiệm vụ lớn được giao.

Nhìn chung, họ luôn cẩn trọng trong mọi việc, sống giản dị, tiết kiệm và giao tiếp rộng. Tài vận của họ khá tốt đẹp. Tuy nhiên, lời khuyên dành cho những người này là cần có kế hoạch phát triển lâu dài cho sự nghiệp của mình, không nên quá an phận với cuộc sống hiện tại.

Xem thêm: Tử vi trọn đời của 12 con giáp để xem chi tiết hơn về vận hạn, công danh, sự nghiệp, tình duyên, sức khỏe của 12 con giáp. 

Tuổi Mão hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân? Người tuổi Mão nên kết giao làm ăn tới tuổi nào?

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp tuổi Mão

Vượng tài khai vận với cây lê phụng cơ

Trong phong thủy, cây lê phụng cơ là một loại cây có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai tài vượng vận cho gia chủ.
Vượng tài khai vận với cây lê phụng cơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lê phụng cơ còn có tên là lê tiểu phụng, thuộc họ dứa, có nguồn gốc từ vùng rừng nhiệt đới Nam Mỹ. Đây là loại cây ưa ẩm mát, có khả năng chịu bóng. Tuy nhiên, nếu ở trong môi trường ít ánh sáng lâu ngày, màu lá sẽ thay đổi.


Lê phụng cơ - loài cây tốt về mặt phong thủy


Cây có vẻ ngoài đẹp mắt nhờ dáng lá và hoa. Những chiếc lá nhỏ, dài với mép dạng lượn sóng đầy quyến rũ. Mặt lá có đường vân dài thanh thoát chạy theo chiều dọc. Hoa có màu trắng hoặc xanh lá cây nhạt.

Điều đáng quý ở loài cây này là sức sống bền lâu, thời gian nở hoa dài và cách chăm sóc rất đơn giản. Đất trồng không cần màu mỡ, thậm chí, chỉ cần trồng trên trấu hun. Tuy nhiên, đất cần thoáng, ẩm, thoát nước tốt. Hệ rễ của cây không phát triển lắm nên cách bổ sung dinh dưỡng hiệu quả nhất cho cây là bón phân qua lá.

Về mặt phong thủy, lê phụng cơ có công dụng khai vận rất tốt. Nó là món quà ý nghĩa trong dịp mừng lễ tết, mừng khai trương, thăng chức. Nếu trồng trong nhà, cây có tác dụng thúc đẩy không khí gia đình hòa thuận, tăng cường tình yêu đôi lứa... 

Cũng có thể trưng bày cây tại phòng họp, khách sạn, văn phòng, nhà hàng... để tăng cường tài lộc. Vị trí đẹp để đặt cây là hướng Đông và hướng Đông Bắc.

(Theo Hoa cảnh ứng dụng trong phong thủy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vượng tài khai vận với cây lê phụng cơ

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh: Sinh giờ Tý thì sự nghiệp thuận buồm xuôi gió; nếu kết hôn muộn chuyện con cái không được thuận lợi như ý.
Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuột là con vật đứng đầu trong 12 con giáp, nổi bật với tính cách thông minh, nhanh nhẹn và thân thiện, tuy nhiên vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh sẽ khác nhau. Hãy cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu nhé!


Sinh giờ Tý (23h-1h)

Người tuổi Tý sinh giờ Tý có sự nghiệp thuận buồm xuôi gió; nếu kết hôn muộn chuyện con cái không được thuận lợi như ý.
 

tinh cach tuoi dan cung nhan ma (2)
 

Sinh giờ Sửu (1-3h)


Thường là người tài cao, có số đi xa, đào hoa, ít bạn. Số hợp với nữ giới, không hợp nam giới. Trong cuộc sống hay gặp phải những điều không may mắn như bị kiện tụng, tranh chấp…

Sinh giờ Dậu (3-5h)


Sự nghiệp thành công, nhà cao cửa rộng, gặp hung thường được hóa giải. Số hợp với nam, không hợp nữ. Nếu là con trai thì phá của, hay mắc phải chuyện thị phi.

Sinh giờ Mão (5-7h)


Là người táo bạo, dũng cảm, gan dạ. Tuy sự nghiệp không phát triển cao nhưng vẫn được người khác nể trọng, khâm phục.

Sinh giờ Thìn (7-9h)


Theo luận giải tử vi trọn đời 12 con giáp, người tuổi Tý sinh giờ Thìn là người thiếu kiên định, sống xa quê hương. Tuy nhiên, cuộc sống khá thuận lợi, được hưởng phúc trọn vẹn.

Sinh giờ Tỵ (9-11h)


Họ ít may mắn trong cuộc sống, là người nghĩ một đằng làm một nẻo, số phải đi nhiều. Nên đề phòng thất bại trong cuộc sống và đường công danh.

Sinh giờ Ngọ (11-13h)


Số nhàn nhã, gia đình phong lưu, tài vận tốt. Tuy nhiên, hay gặp vạ miệng và tiếng oan.

Sinh giờ Mùi (13-15h)


Là người thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát. Cuộc sống gia đình bình thường, sự nghiệp lúc thành, lúc bại.

Sinh giờ Thân (15-17h)


Số thuận buồm xuôi gió, tuy có lúc bị tổn hại tài sản nhưng vẫn giữ được thanh danh đến cuối đời.

Sinh giờ Dậu (17-19h)


Số được hưởng phúc, con cái đông vui, cuộc sống ấm êm. Tuy nhiên, cần đề phòng tai nạn sông nước.

Sinh giờ Tuất (19-21h)


Là người ít gặp may mắn trong cuộc sống; nên nhẫn nhịn trong giao tiếp và biết chờ thời cơ tiến lên.

Sinh giờ Hợi (21-23h)


Là người có quyền chức nhưng lại gặp nhiều bất lợi trong quan hệ với mọi người. Nên giữ gìn thân thể, đề phòng tai nạn và ngộ độc.

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo ngày sinh Luận giải vận số của người tuổi Tý theo tháng sinh Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tý Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tý (P1) Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tý (P2)

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nam mang chi tiết

Bính Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bính Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CẤN.
Trực THÀNH
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Khắc THIÊN THƯỢNG HỎA Con nhà HẮC ĐẾ (cô quạnh) Xương CON CHUỘT.
Tướng tinh CON RẮN Cậu Tài

Cậu Quý độ mạng

Luận xem số mạng tuổi này,

Bính Tý mạng Thủy nước đầy tràn sông.

Trai mà sanh đặng Thu Đông,Như cây gặp nước, như rồng gặp mây.

Bính Tý tánh ở hiền lành,Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.

Ăn rồi phản phúc tự nhiên, Đổi thời không khả nghịch liền tự nhiên.

Một thân thất ý đủ điều,Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành.

Tới hồi vận giữa hiển vinh,Căn nguyên tất phát môn đình đổi thay.

Tuổi già vận đến càng hay, Vinh hoa phú quý vàng son cửa nha.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy. Số tuổi được nhiều thành công trong cuộc sống, hay thay đổi ý định, không bao giờ có được một cuộc sống yên lặng, mà tự tạo ra nhiều sóng gió. Cuộc đời có lắm thương đau. Về mặt xã hội giữ được tiếng tăm và địa vị khiêm nhượng, ham thích những cái gì xảy ra thực tại hơn là những chuyện viễn vông, sự nghiệp và cuộc đời vẫn đi đôi với nhau, tạo được những điểm đặc biệt trong cuộc sống, cấu tạo được một hoàn cảnh khả dĩ làm cho cuộc sống có phần chắc chắn. Nhưng cuộc đời chưa chắc vào ở mức độ đó mãi. Sẽ còn thay đổi và luân chuyển mãi cho đến hết cuộc đời, mà không bao giờ có sự trầm lặng trong sự sống. Tuổi Bính Tý có nhiều phúc đức trong lớp tuổi trung bình, nhưng sau cùng qua thời gian từ 50 đến 52 thì lại có nhiều việc làm cho có nhân quả. Tuổi Bính Tý chỉ hưởng thọ trung bình từ 55 đến 60 tuổi. Nhưng vào tuổi 52 thì mắc bệnh thần kinh có thể không hưởng thọ lâu hơn tuổi dự định, nhưng làm phúc đức ăn ở hiền lành thì may ra hưởng thọ đầy đủ theo số Tử Vi.

TÌNH DUYÊN

Trong cuộc sống tuổi Bính Tý về vấn đề tình duyên cũng có nhiều sôi động, có nhiều thay đổi sầu thương, ít khi tìm được sự êm ấm vào tuổi nhỏ. Tình duyên vào lúc nhỏ thường ở trong sự tạm thời, không có một quyết định dứt khoát, cho đến khi qua tuổi 30, mới tạo được nguồn hạnh phúc chân chính. Số về vấn đề tình duyên rất khe khắt, không tạo được một cuộc sống ý hiệp tâm đầu, nếu có cũng chỉ là bề ngoài; nhưng bên trong vẫn có sự nghi kỵ hay thường có những bất đồng ý kiến. Đó là số của cá nhân. Nhưng nếu gặp được lương duyên có sự trùng hợp về tuổi tác và sự hòa hợp về tinh thần thì tình duyên mới có được sự ấm êm và hạnh phúc. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc lương duyên thường hay thay đổi bất thành, đó là những tháng 1 và tháng 7 trong cuộc đời. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy trong cuộc đời thì bạn là người có nhiều vợ hay cũng quá đau khổ vì đ àn bà nhiều hơn, đó là những tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

 Về việc công danh cũng có nhiều thay đổi quan trọng, tuy nhiên số có nhiều phúc đức, nên chuyện công danh thường được lên cao mà ít khi có xuống thấp. Tuổi nhỏ thường có sự thay đổi công danh. Nhưng lớn thì tạo được nhiều tên tuổi. Cuộc đời hay đẹp về bước đường công danh, có thể tạo nên danh phận một cách rất dễ dàng, ít khi gặp sự khó khăn. Về gia đạo thì cũng hay có sự buồn phiền, số không mồ côi sớm, không nhờ thân tộc họ hàng trong việc tạo nên danh phận, mà nhờ bè bạn giúp đỡ nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng có thể nhờ sự trùng hợp của tuổi vợ chồng mà cuộc đời gặp nhiều may mắn hơn nữa. Tuổi Bính Tý trong tương lai có một sự nghiệp vĩ đại, đi song song với công danh, nhờ ở sự sáng suốt và lòng nhẫn nại, mà sự nghiệp thêm phần vững chắc, tiền bạc khá dư dả, tuy cũng có một thời gian long đong nhưng cuộc sống hoàn toàn ít khi bị khổ cực về tâm trí cũng như về xác thịt. Công danh và sự nghiệp có trở ngại vào khoảng tuổi 31 và 32, nhưng vào tuổi 33 thì hoàn toàn làm nên sự nghiệp bởi sự tiến triển của công danh, có phần chắc chắn và đồng đều, tiền bạc dồi dào, hạnh phúc ấm êm, cuộc sống thêm phần sáng sủa hơn.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trước khi muốn làm ăn hay phát triển công việc, muốn cho công việc được chắc chắn mà không sợ thất bại, bạn cần lựa tuổi để hợp tác, hùn hạp, hay cùng lo toan công việc; trong sự lựa chọn tuổi tác cũng phải tùy theo hoàn cảnh và trường hợp xảy ra, cũng như trong việc hôn nhân, cần lựa người hiền đức; vậy bạn cần lựa cho đúng những tuổi này mà hợp tác thì chắc chắn sẽ thành công, đó là những tuổi: Bính Tý, tuổi Tân Tỵ, tuổi Nhâm Ngọ và tuổi Ất Dậu, những tuổi này có thể giúp bạn làm ăn được phát đạt thêm nhiều kết quả và tài lộc vượng phát, không sợ thất bại.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

 Bạn kết hôn với tuổi Bính Tý, có những trường hợp sau đây: Tuổi Bính Tý giúp bạn thành công về mặt tiền tài, vợ chồng hòa thuận. Kết hôn với tuổi Tân Tỵ: Lúc đầu hao tốn nhiều, làm ăn tuy có tiền nhưng sau mới khá được, nhưng hào tài thường hay luân chuyển, con cũng hiếm muộn, vợ hay đi nhưng thường giúp chồng trên bước công danh. Kết hôn với tuổi Nhâm Ngọ: Thời gian đầu nghèo thiếu, nhưng sau được hiển vinh, tánh chồng vợ thường có sự xung khắc, nên kiên nhẫn thì thành công to, con rất hiếm muộn. Kết hôn với tuổi Ất Dậu: Tuổi nầy hoàn toàn tốt đẹp trong mọi lãnh vực, hào tài nhiều, danh vọng cao, con cái tốt, giúp cho cuộc đời đầy đủ êm ấm, hạnh phúc. Nhưng nếu đã lỡ thương yêu nhau nhằm những tuổi nầy thì bạn chỉ có một cuộc sống trung bình, không dư dả và cũng không thiếu kém, đó là những tuổi: Giáp Thìn và Mậu Dần. Những tuổi này cũng có sự trùng hợp, nhưng không làm cho cuộc sống được phát đạt trên mọi mặt. Khi gặp những tuổi nầy, thì cuộc đời bạn sẽ có nhiều buồn khổ hơn, sống trong cuộc thiếu thốn triền miên, vì tuổi hai người không có phúc đức, nên ít hưởng lộc. Đó là các tuổi: Mậu Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn. Những năm mà bạn có nhiều đại kỵ, không nên lựa chọn hôn nhơn, vì sự lựa chọn hôn nhơn sẽ đem lại nhiều lo âu, đau buồn mà còn làm cho cuộc sống thiếu cả sự sống, đó là những năm mà tuổi bạn ở vào 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi. Nếu bạn phạm vào những tuổi trên, bạn đã có hôn nhân, bạn phải lâm vào tình trạng xa vắng, hay gặp nhiều buồn phiền. Bạn sanh vào những tháng này có phần đa thê và hay có sự đau khổ về đ àn bà, đó là những bạn sanh vào tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9. Nếu bạn lỡ sanh vào những tháng kể trên sẽ có nhiều vợ và hay khổ tâm vì đàn bà.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Sự sống lứa đôi là một điều quan trọng, nó liên quan mật thiết đến cuộc sống hằng ngày và cho cả một cuộc đời. Những tuổi mà không bao giờ có thể kết hợp lương duyên và có thể xảy ra nhiều đau buồn nhất, đó là những tuổi được kể ra sau đây: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Tân Mùi, Quý Mùi. Tuổi Đinh Sửu, tuổi này ở với nhau sanh cảnh biệt ly; Kỷ Mão, sự chết chóc trong vòng một năm (tuyệt mạng); Tân Mùi (biệt ly); Quý Mùi (biệt ly). Những tuổi trên đây không làm cho cuộc sống đầy hạnh phúc mà trái lại có nhiều đau buồn hơn, nên tránh được là một điều tốt. Tuổi Bính Tý có nhiều tuổi đại kỵ, nếu gặp trong sự hợp tác làm ăn hay trong việc lương duyên, nên xem sao hạn cho cả hai người mà cúng vái Phật Trời hay cầu nguyện cho được phúc đức. Không nên bỏ qua sẽ có ảnh hưởng lớn. Thí dụ như năm Bính Ngọ, tuổi Bính Tý gặp sao Thái Bạch hay Thiên Tinh thì cúng ngày 15 dùng 7 ngọn đ èn, 7 chén nước lã lạy về hướng Tây. Cách cúng vái: Đốt nhang ba cây, quỳ trước bàn cúng, vái tên họ, tuổi, sao gì? Niệm ba lần: Nam Mô A Di Đà Phật – Nam Mô Cửu Diện Quân Cập Đại Tiểu hạn tôn thần quang giảng đạo trần chứng minh. Cách cúng sao: Bình bông tươi, nước dừa hay nước trà, cháo trắng, nhang đ èn. Và tùy theo năm mà cúng, vì mỗi năm sao hạn đều thay đổi.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy, tánh tình hiền hòa và rộng rãi. Tuy nhiên trong cuộc đời có nhiều sự khổ tâm không ít về cuộc sống, những năm khó khăn nhất trong cuộc đời hao tiền tốn của, đau bịnh liên miên hay thất bại công việc đến nỗi buồn chán nhất, đó là những năm bạn ở vào những tuổi: 24, 27, 33, 38, 45. Những năm này bạn nên cẩn thận, dè dặt kẻo gặp nhiều rắc rối cho cuộc đời bản thân hay cả cuộc sống.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Mạng Thủy xuất hành vào những ngày chẵn, nhưng lựa giờ lẻ tháng chẵn và có thể xuất hành như trên trong suốt cuộc đời luôn luôn được nhiều may mắn. Ngoài những sự trùng hợp trên thì ít khi có được những thành công vĩ đại.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 31 đến 33 tuổi: Những năm này bạn gặp sao hạn, có thể làm cho bạn có nhiều thiệt hại, có thể bị đau bịnh hao tài tốn của, hay gặp tai nạn bất ngờ, nhưng song song bạn có nhiều thành công về tài lộc, tình cảm có phần vượng phát mạnh mẽ, công việc làm ăn được trôi chảy hoàn toàn, nhưng tiền vô ra bất thường, ít khi gặp cảnh túng quẫn. Cố gắng vượt qua ba năm nầy.

Từ 34 đến 37 tuổi: Vượt được qua tuổi 33 thì công danh có phần lên cao tột độ, tiền bạc ở những năm nầy rất dễ chịu, làm đâu được đó, số phú quý nhưng lại gặp nhiều tai nạn hay những trở lực trong cuộc đời. Ảnh hưởng của cuộc sống liên quan đến công danh. Thời gian ba năm nầy hoàn toàn tốt đẹp.

Từ 38 đến 41 tuổi: Bạn vẫn hưởng một cuộc sống hay đẹp hoàn toàn cho đến tuổi 41 thì lại có sụp đổ đôi chút, năm nầy cũng nên đề phòng rủi ro, hay tù tội, bạn nên cẩn thận vào tuổi 41 hơn những năm khác. Ngoài sự hao tài tốn của, còn có sự sụp đổ đôi chút về công danh. Ngoài tuổi 41, những năm khác trung bình.

Từ 42 đến 47 tuổi: Vượt được tuổi 41 bước qua 42 và cho đến 47, gia đạo êm ấm, việc làm ăn phấn chấn, mọi công việc đều có thể tiến triển khả quan, chỉ có những chuyện xảy ra nhỏ nhặt về con cái, gia tộc mà thôi. Ngoài ra vào tuổi 45 có tang khó trong gia tộc.

Từ 48 đến 52 tuổi: Bốn năm sau cùng của cuộc đời lại xảy ra nhiều hoàn cảnh phân ly. Sự đau buồn lặng đi trong tâm não, mang nhiều chứng bệnh nan y, khó thoát được qua tai nạn, cảnh biệt ly như gần kề trong cuộc sống. Đến những khi nầy, nên vái Trời Phật, nếu có đạo thì nên cúng kiến cầu nguyện cho được phúc đức hy vọng sống thêm.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nam mang chi tiết

Sẽ là đại hoạ nếu treo một trong 6 bức tranh trong phòng khách gia chủ khắc mệnh

Treo tranh không hợp phong thủy cũng có thể khiến gia đình gặp nhiều bất trắc nên bạn cần lưu ý những điều sau. Theo các chuyên gia phong thuỷ, treo tranh hợp phong thủy không chỉ làm đẹp cho ngôi nhà mà còn mang lại nhiều may mắn cho gia chủ. Để bức tranh có hiệu quả phong thủy tốt nhất thì phải chú ý đến ý nghĩa riêng của nó. Nếu treo tranh không đúng cách, nó có thể sẽ khiến bạn và cả gia đình gặp đại họa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai nguyên tắc tối quan trọng khi treo tranh 12 con giáp trong gia đình

– Nguyên tắc thứ nhất, “tam hợp tương sinh”: Sự kết hợp của 3 con giáp trong 12 con giáp sẽ mang lại may mắn, có 4 cặp kết hợp, lần lượt là: Hợi – Mão – Mùi, Dần – Ngọ – Tuất, Tỵ – Dậu – Sửu, Thân – Tý – Thìn. Như vậy, nếu gia chủ cầm tinh con ngựa thì trong nhà có thể treo những bức tranh về chó hoặc hổ.

– Nguyên tắc thứ hai, “lục hợp tương hợp”: Đó là sáu nhóm “quý nhân”, trong mỗi nhóm có 2 tuổi hỗ trợ cho nhau, lần lượt như sau: Tý – Sửu, Dần – Hợi, Mão – Tuất, Thìn – Dậu, Tỵ – Thân, Ngọ – Mùi.

Theo phong tục của Việt Nam và Trung Hoa, trong 12 con giáp thì mỗi con ứng với một năm và nó sẽ tượng trưng cho tính cách hoặc công việc trong tương lai của người đó. Trong phong thủy, con giáp cũng mang những ý nghĩa riêng, tuy nhiên, bên cạnh đó là những kiêng kị rất nguy hiểm mà các gia chủ cần tuyệt đối nên tránh.

1. Tranh 9 con cá

Cá mang ý nghĩa “vạn sự như ý”, bức tranh có hình ảnh 9 con cá còn mang ý nghĩa vĩnh cửu, trường tồn. Tuy nhiên, cá thuộc thủy trong ngũ hành nên chỉ đặc biệt hợp với những người sinh vào mùa hè và mùa thu (đều thuộc thiếu thủy).

2. Tranh chiến mã

Treo tranh chiến mã ngụ ý thăng quan tiến chức rất nhanh, nhưng người tuổi tí và tuổi sửu là không hợp với tuổi con ngựa, vì vậy không nên treo tranh ngựa.

3. Tranh nhân vật và sơn thủy

Tranh sơn thủy thích hợp với người sinh vào mùa thu. Không nên treo bức tranh thác nước hay hoàng hôn (mặt trời lặn) bởi vì nó mang cảm giác uể oải và tài vật rò rỉ. Nếu là bức tranh nhân vật thì không có kiêng kị gì nhưng nếu là tranh vẽ chân nhân (những nhân vật có thật, người thật) thì không thích hợp với người tuổi ngọ, dậu, thìn và hợi.

4. Tranh 3 con dê

Bức tranh này sẽ mang may mắn đến cho gia đình, người xưa có câu “Tam Dương khải thái” cũng là vậy. Nhưng, những người cầm tinh sửu, tuất, tí đều không hợp với con dê, vì vậy không nên treo bức tranh này.

5. Tranh rồng bay

Rồng là một biểu tượng cho quyền lực, sức mạnh, nhiệt huyết và tinh thần. Treo tranh này trong nhà sẽ mang đến sự thịnh vượng cho chủ nhà. Khi lựa chọn treo tranh hình rồng thì nên lồng trong khung kính, viền có màu vàng kim và treo hướng Bắc hoặc đặt bên trái của phòng khách. Người thuộc tuổi tuất không nên treo tranh rồng.

6. Tranh phượng hoàng song phi

Bức tranh phượng hoàng cùng bay mang ý nghĩa vợ chồng hòa hợp. Phượng hoàng có thuộc tính “gà”. Người sinh vào mùa hè và mùa thu tương đối hợp. Người thuộc tuổi tuất không thích hợp treo tranh này.

Treo một bức tranh đẹp trong phòng khách sẽ thể hiện con mắt thẩm mĩ và cá tính của người chủ gia đình nhưng bạn hãy để ý những điều này để cả nhà gặp nhiều may mắn nhé!

Theo Bestie.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sẽ là đại hoạ nếu treo một trong 6 bức tranh trong phòng khách gia chủ khắc mệnh

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Ngũ hành trong Phong Thủy

Ngũ hành là chỉ 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cỗ nhân cho rằng, vũ trụ được hình thành là do 5 vật chất cơ bản tạo thành đó là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành trong Phong Thủy

Ngũ hành trong Phong Thủy

Ngũ hành là chỉ 5 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cỗ nhân cho rằng, vũ trụ được hình thành là do 5 vật chất cơ bản tạo thành đó là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sự phát triển biến hóa của các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều là kết quả dưới sự vận động không ngừng và tác dụng tương hỗ lẫn nhau của những thuộc tính khác nhau của 5 vật chất đó. Trong Phong Thủy cac phương định vị được phân chia là đại biểu cho sự khác nhau của ngũ hành. Bố cục trong phòng phải lựa chọn phương vị ngũ hành tương sinh với bản mệnh của mình.

Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để phát triển. Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ trên hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, ứng dụng vào y học còn gọi là mẫu và tử.

Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là áp chế lẫn nhau. Sự tương khắc có tác dụng duy trì sự cân bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hóa trở thành bất thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối quan hệ: Cái khắc nó và cái nó khắc. Từ quy luật tương khắc, bàn rộng thêm ta có tương thừa (nghĩa là khắc quá đỗi) và tương vũ (nghĩa là khắc không nổi mà bị phản phục lại).

Hiện tượng tương sinh, tương khắc không tồn tại độc lập với nhau. Trong tương khắc luôn có mầm mống của tương sinh, trong tương sinh luôn có mầm mống của tương khắc. Do đó vạn vật luôn luôn tồn tại và phát triển.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành trong Phong Thủy

Tướng cằm –

Tướng cằm đã nói ở phần khu vực dưới và khu 12 cung. Cằm thuộc khu vực dưới có cung điền trạch, ở đây chỉ nói thêm phần nhân tính. - Cằm vuông, bạnh: Người kiêu hùng, hãnh tiến, nhưng không hạnh phúc. - Cằm nhọn: Tướng mưu mẹo vặt. - Cằm tròn đẹp: Tư
Tướng cằm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng cằm –

Cầm tay biết ngay người số hưởng nếu kết hôn trễ

Nếu bạn có một trong những đặc điểm bàn tay sau mà vẫn đang lẻ bóng thì hãy mừng đi vì kết hôn càng trễ càng được hưởng lợi đấy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đường tình duyên chia làm hai nhánh song song

Bàn tay phụ nữ mà có đường tình duyên dạng này thường gặp trắc trở, đau thương mà nguyên nhân bắt nguồn từ sự yếu mềm, vị tha của họ. Họ thường yêu bằng hết tâm can, bỏ qua các điểm thiếu sót của đối phương một cách dễ dàng từ đó tạo cho người yêu thói quen xấu, ỷ lại coi thường tình cảm. 

Vì thế, những người này khi kết hôn muộn sẽ chín chắn hơn, thấu hiểu hơn sau nhiều lần va vấp, biết được tình yêu chân thành phải đến từ cả hai phía thì hôn nhân mới viên mãn, tròn đầy được. 

2. Ngón tay lộ rõ vân tiền tài

Vân tiền tài là một đoạn thẳng ngắn nằm giữa khóe giữa ngón út và ngón đeo nhẫn, thường kéo dài đến đường tình duyên rồi dừng lại. Người sỡ hữu vân tiền tài này có số lấy chồng danh gia, vọng tộc, không phải hao tổn trí lực lo chuyện cơm áo gạo tiền. 


ban-tay-1
Ảnh: Internet

Vì thế phụ nữ sở hữu vân tay này, dù có lấy chồng sớm hay muộn thì cũng không cần phải quá lo vì tỉ lệ được chồng giàu đón về dinh là khá cao. 

3. Có nốt ruồi trong lòng bàn tay

Không như câu truyền của ông bà ta để lại là “nốt ruồi trong tay ăn vay suốt đời”, thuật xem tướng lại cho thấy người sở hữu nốt ruồi trong lòng bàn tay là cực kì may mắn. Không những dễ dàng năm giữ tài lộc mà dù có lấy chồng muộn cũng được gia đình bên chồng yêu quý, chồng cưng như trứng mỏng. 

4. Ngón cái mềm, uốn cong dễ dàng

Những người này thường đòi hỏi được yêu chiều, chăm sóc như công chúa trong tình yêu, từ đó khiến đối phương dễ chán nản mà bỏ cuộc. Vì thế người có tướng tay này thường trắc trở, lần đận. Chỉ nên kết hôn khi tuổi đời chín chắn mới mong có hạnh phúc lâu dài.


ban-tay-2


Ảnh: Internet

5. Đầu ngón tay út mềm yếu

Phụ nữ có ngón tay út mềm thường sống chân thành, ruột để ngoài da chính vì thế hay bị người khác lợi dụng. Sau nhiều lần đổ vỡ thường mất niềm tin vào tình yêu, chính vì vậy hôn nhân cũng thường dang dở, không hạnh phúc. Phải về sau này, khi đã tỉnh ngộ, rút ra được nhiều chân lí sau các vấp ngã thương đau mới tìm được hạnh phúc 

(Tổng hợp) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cầm tay biết ngay người số hưởng nếu kết hôn trễ

Tướng phụ nữ khổ –

Tướng người khốn khổ Tướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây: - Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con - Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời khôn
Tướng phụ nữ khổ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ khổ –

Màu sắc phòng khách hợp phong thủy –

Phòng khách, vị trí tâm điểm của ngôi nhà, là nơi được chú ý nhiều nhất, bởi nơi đây là bộ mặt của gia đình. Vì vậy màu sắc chủ đạo trong phòng còn thể hiện tính cách của chủ nhà. Và theo quy luật phong thủy, màu của phòng khách có ảnh hưởng đến tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vận của chủ nhân. Tuy nhiên, để có được phòng khách có màu sắc hợp về phong thủy, đẹp về thẩm mỹ là cả một bài toán khó mà không phải gia đình nào cũng làm được.

Màu sắc phòng khách hợp với trạch mệnh

Màu sắc trong phòng khách thường được gia chủ chọn là màu tươi sáng. Khi thiết kế ngôi nhà chúng ta dựa vào hai yếu tố niên mệnh và bản mệnh. Niên mệnh là dựa vào sơ đồ Bát quái để thiết kế không gian, phương hướng, và vị trí. Tuy nhiên, để chọn màu sắc thì chúng ta lại căn cứ theo bản mệnh của từng người. Bạn nên chọn màu sắc theo bản mệnh của người giữ vai trò trụ cột trong gia đình.

av

Hỏa: màu đỏ. Thổ: màu vàng. Kim: màu trắng. Thủy: màu đen. Mộc: màu xanh. Theo nguyên lý Ngũ hành, trong mối quan hệ tương sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong mối quan hệ tương khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Dựa vào đó mà gia chủ có thể chọn những màu tương sinh cho ngôi nhà nói chung và phòng khách nói riêng.

Ví dụ, chủ nhà sinh năm 1939 là mệnh Thổ, màu chủ đạo là màu vàng đất. Và theo quy luật Ngũ hành, Hỏa sinh Thổ nên ta có thể chọn màu của Hỏa là màu đỏ. Người mệnh Kim có màu chủ đạo là màu trắng, đồng thời có thể chọn màu dưỡng cho nó là màu của Thổ là màu vàng tươi của cánh đồng lúa chín. Tương tự như vậy, gia chủ có thể chọn được màu sinh và màu dưỡng cho từng người với từng bản mệnh khác nhau. Tuy nhiên, gia chủ cần lưu ý tránh những màu khắc.

Trong quá trình thiết kế ngôi nhà, không phải ai cũng có điều kiện tham khảo ý kiến của các kiến trúc sư. Nếu lỡ chọn màu phòng khách chưa đúng theo quy luật Ngũ hành và bản mệnh thì gia chủ có thể dùng một số cách để dung hòa nó nhằm tạo ra sự hài hòa để đón vận may vào nhà. Để thay đổi tất cả màu sơn tường, nền nhà, đồ nội thất rất khó và tốn kém. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn có lựa chọn khác, bằng cách thay đổi những họa tiết trang trí nho nhỏ cho ngôi nhà. Có thể thêm những tấm thảm tại vị trí vào nhà, hay những đồ vật có màu sắc, chất liệu tương sinh cho bạn.

Ví dụ, bạn là mệnh Hỏa, màu chủ đạo là màu đỏ, màu dưỡng là màu xanh của Mộc. Nhưng nếu bạn đã lỡ không sơn màu đúng thì có thể dùng những tấm rèm hay những tấm thảm đỏ hoặc xanh. Nắm chắc nguyên lý của tự nhiên, phong thủy, Ngũ hành tương sinh và tương khắc ta sẽ đưa ra được sự phối hợp tốt nhất cho không gian, cũng để có sự áp dụng “trạch mệnh tương phối” hoàn chỉnh.

Màu sắc phòng khách hợp với hướng

Cách sử dụng và phối màu trong phòng khách mỗi nhà là khác nhau, tùy theo sở thích của chủ nhà. Khi phối màu trong phòng khách, ngoài việc phải chú ý đến mỹ quan, bạn cần lưu tâm tới bố cục căn nhà, xét về phương diện phong thủy.

Nhà nằm ở phía Tây Bắc, phòng khách có cửa hướng về phía Đông Nam. Không gian này cần sáng sủa, nghĩa là sử dụng càng nhiều màu sáng thì càng tốt. Có vậy mới đem lại lọi ích về mặt phong thủy. Nếu khoảng không gian màu tối vượt quá một nửa diện tích của gian phòng thì sẽ không có lợi cho gia chủ.

Nhà nằm ở hướng Tây, cửa phòng khách hướng về phía Đông. Độ sáng cho căn phòng chỉ nên vừa phải. Tức là khoảng không gian màu sáng không nên chiếm toàn bộ diện tích căn phòng, hoặc khi bố trí cửa sổ thì chỉ nên bố trí ở 3 mặt tường.

Nhà nằm ở hướng Đông Bắc, cửa phòng khách hướng về phía Tây Nam.

Không nên để không gian quá rộng, nghĩa là nên sử dụng nhiều màu trắng, màu nâu đất hoặc màu cà phê.

Nhà nằm ở hướng Nam, cửa phòng khách hướng về phía Bắc. Tránh để gian phòng quá trống trải; nên dùng nhiều đồ đạc để lấp các khoảng trống.

Nhà nằm ở hướng Bắc, cửa phòng khách hướng về phía Nam. Hạn chế sử dụng nhiều màu; nên thiên về gam màu lạnh.

Nhà nằm ở hướng Tây Nam, cửa phòng khách hướng về phía Đông Bắc. Trong phòng nên bài trí nhiều đồ đạc; đồ dùng trong nhà nên sử dụng chất liệu nặng; nên dùng nhiều màu vàng hay màu nâu gỗ nhưng phải tránh cho căn phòng có cảm giác chật chội.

Nhà nằm ở hướng Đông Nam, cửa phòng khách hướng về phía Tây Bắc. Thích hợp vói gam màu nhạt, tạo cảm giác không gian rộng rãi. Nên dùng nhiều màu xanh nhạt, nhiều đồ trang trí bằng hoa lá.

Nhà nằm ở hướng Đông, cửa phòng khách hướng về phía Tây. Có thể bài trí đồ đạc một cách tự do nhưng phải dùng màu vàng làm màu Sắc chủ đạo cho cả gian phòng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc phòng khách hợp phong thủy –

Phong thủy sim –

Sim phong thủy là một sim số đẹp được tính toán theo các nguyên tắc cổ học Phương Đông để tìm ra được một sim số đẹp nhất hợp tuổi của mỗi người. Phong thủy vốn là môn khoa học áp dụng những nguyên tắc kinh điển của cổ học Phương Đông trong việc điều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉnh các không gian, các luồng khí trong nhà. v.v… Theo Thuật số Phương Đông, vạn vật tồn tại và phát triển chi phối bởi quy luật Âm Dương và Ngũ Hành.

sim-phong-thuy-cac-loai

Một sim phong thủy được gọi là đẹp bắt buộc phải hội tụ đầy đủ 5 yếu tố sau đây:
+ Dãy số phải cân bằng số chẵn (0,2,4,6,8) và số lẻ (1,3,5,7,9)
+ Tổng điểm trong dãy 10 chữ số (số nút) cao
+ Ngũ hành trong dãy số tương sinh phải nhiều hơn tương khắc
+ Ngũ hành của dãy số phải hợp với mệnh của người dùng (Kim , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)
+ Dựa vào Cửu Tinh Đồ Pháp (Yếu tố mang tính trừu tượng)

Cũng vì yếu tố thứ 5 dựa vào Cửu Tinh Đồ Pháp mang tính trừu tượng mỗi người với mỗi quan điểm khác nhau mà Sim Phong Thủy gần như không có sim đạt điểm hoàn hảo 10đ. Với 5 yếu tố ngặt nghèo trên đây thì việc chọn được một số điện thoại hợp Phong Thủy là rất khó khăn. Một số điện thoại Phong Thủy vượt lên trên giá trị của sim số đẹp chưa biết sim phong thủy có mang ngay lại tài lộc tức thì không nhưng chắc hẳn nó tạo sự yên tâm, cầu an lành, lòng thanh thản vì mình đã chọn một số điện thoại hội tụ đầy đủ những yếu tố khắt khe mang cả tính tâm linh hay trừu tượng.

Có nhiều cách để chọn sim phong thủy hợp với từng người nhưng phần đa số mọi người hay các chuyên gia phong thủy quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề như Âm dương, Ngũ hành và Quái khí

Có thể hiểu và chọn sim số đẹp theo các phương cách sau:

Ngũ hành: Mỗi con số cũng đều có bản mệnh riêng, có số mệnh KIM và cũng có đủ số mệnh MỘC, THỦY, HỎA, THỔ.
Phải chọn sim làm sao cho tương sinh với ngũ hành của thân chủ, Tuyệt không chọn số tương khắc

Âm dương: Âm dương cũng không kém phần quan trọng trong phong thủy sim.
Giống như cha trời, mẹ đất phải cân bằng và hòa hợp thì vạn vật mới sinh sôi nảy nở
Trong dãy số…các con số mạng vận âm dương, chẵn lẻ phải tương đối cân bằng.

Thiên thời: Ai cũng biết Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa là những yếu tố may mắn và hỗ trợ rất lớn đến thành công.
Chúng ta đang sống trong giai đoạn nào? Sao nào quản sẽ tạo nên những số có Vượng khí.
Trong dãy số cần có số là vượng khí thì mới có được thiên thời

Quái khí: Mỗi dãy số đều ứng với 1 quẻ khác nhau, có quẻ mang điềm hung là xấu nhưng cũng có quẻ mang điềm cát.
Sẽ rất tốt nếu chọn được số điện thoại ứng với quẻ mang điềm cát. Bạn có thể chọn số ứng với quẻ bình thường (không xấu, không tốt) chứ tuyệt đối không nên chọn số mang điềm hung, ghở.

Quan niệm: Dùng số điện thoại cũng theo quan niệm xã hội mà tạo nên đẹp xấu.
Không thể chọn 1 sim phong thủy cao mà xấu, khó nhớ. Những số được xã hội đề cao như: Tứ quý (8888) – Lộc phát (68, 86) – Thần tài (39, 79) với quan niệm sẽ may mắn rất được ưa chuộng hiện nay.

Hướng dẫn : cách chọn sim số đẹp phong thủy hợp tuổi, hợp mệnh.
Đầu tiên, bạn nên biết mình thuộc mệnh nào trước khi chọn những con số để hợp với bản mệnh.

Những năm sinh thuộc mệnh kim
Nhâm Thân 1932 – Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 – Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 – Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 – Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 – Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 – Ất Sửu 1985; Nhâm Thân 1992 – Quý dậu 1993

Những năm sinh thuộc mệnh thủy
Bính Tý 1936 – Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 – Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 – Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 – Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 – Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 – Quý Hợi 1983; Bính Tý 1996 – Đinh Sửu 1997

Những năm sinh thuộc mệnh mộc
Nhâm Ngọ 1942 – Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 – Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 – Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý 1972 – Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 – Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 – Kỷ Tỵ 1989;

Những năm sinh thuộc mệnh hỏa
Giáp Tuất 1934 – Ất Hợi 1935; Mậu Tý 1948 – Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 – Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 – Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 – Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 – Đinh Mão 1987;  Giáp Tuất 1994 – Ất Hợi 1995

Những năm sinh thuộc mệnh thổ
Mậu Dần 1938 – Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 – Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 – Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 – Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 – Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 – Tân Mùi 1991; Mậu Dần 1998 – Kỷ Mão 1999.

Tiếp theo bạn nên hiểu về mệnh của những con số:
Số 1 – số 9 – số 2 : Mệnh Kim
Số 4 – số 5 : Mệnh Mộc
Số 6 : Mệnh Thủy
Số 7 –  số 8 : Mệnh Thổ
Số 3 : Mệnh Hỏa

Phong thủy chính là môn khoa học không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, chỉ có những người có sự hiểu biết về lĩnh vực phong thủy, mới đánh giá và hiểu biết hết giá trị của sim số đẹp theo phong thủy. Vì hàng trăm sim số đẹp mới chọn được một vài sim phong thủy. Có thể nói sim phong thủy vượt lên giá trị của sim số đẹp đóng vai trò như chiếc bùa linh nghiệm, cầu an phước lành,mang lại sự bình yên trong cuộc sống hàng ngày, cho người sử dụng.

Chính vì sim phong thủy phải tuân thủ theo những chuẩn mực riêng nên việc tìm được một sim phong thủy hợp tuổi, hợp mệnh với mỗi người là rất khó, chính vì thế các bạn có thể tìm những nơi biết về thuật phong thủy để được tư vấn riêng thì sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm một chiếc sim phong thủy để gặp những điều may mắn và thuận lợi trong công việc kinh doanh cũng như trong cuộc sống. Ngoài ra bạn cũng có thể xem điểm tìm sim hợp phong thủy bằng các công cụ auto để chấm điểm sim phong thủy trên các trang web nhưng cách này có độ chính xác không cao và dễ gây lầm tưởng mê tín cho người xem.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy sim –

Gặp gỡ 4 con giáp nam nấu ăn ngon nhất

Cùng gặp gỡ 4 con giáp nam nấu ăn ngon nhất, có thể dễ dàng chinh phục dạ dày và trái tim của các cô gái.
Gặp gỡ 4 con giáp nam nấu ăn ngon nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tận dụng triệt để thế mạnh của mình, con trai tuổi Thân biết cách lấy lòng các cô gái thông qua đường… dạ dày. Tuyệt chiêu này tuy đơn giản, nhưng lại vô cùng hiệu quả.
 

1. Chàng trai tuổi Thân   Biệt tài nấu nướng của các anh chàng tuổi Thân miễn chê vào đâu được. Hơn thế, đây lại là con giáp có tâm hồn ăn uống, biết thưởng thức cao lương mĩ vị trên đời. Vậy nên, họ chẳng ngại ngần xắn tay áo, đeo tạp dề vào bếp để chế biến những món ăn ngon, trước là phục vụ sở thích ăn uống của mình, sau là mang tới niềm vui cho người thân, nhất là “gấu”.   Tận dụng triệt để thế mạnh của mình, con trai tuổi Thân biết cách lấy lòng các cô gái thông qua đường… dạ dày. Tuyệt chiêu này tuy đơn giản, nhưng lại vô cùng hiệu quả.   
Gap go 4 chang trai khoa chat trai tim ban gai qua duong… da day hinh anh
 
2. Chàng trai tuổi Tỵ   Dù ít khi vào bếp vì bận rộn công việc, nhưng một khi chàng tuổi Tỵ đã ra tay, ắt có món ngon ngay cho “gấu”. Con giáp này luôn cho rằng, đường từ dạ dày tới trái tim các nàng là con đường tắt, vừa ngắn lại vừa nhanh, tại sao lại không tận dụng.   Chính vì thế, nhân lúc rảnh rỗi hay khi chỉ có “hai mình” với nhau, con trai tuổi Tỵ sẽ chủ động vào bếp để trổ tài nấu nướng.   
Gap go 4 chang trai khoa chat trai tim ban gai qua duong… da day hinh anh 2
 
3. Chàng trai tuổi Hợi   “Hay ăn thì lăn vào bếp”, câu nói này cũng khá đúng với chàng trai tuổi Hợi. Họ biết cách thưởng thức ẩm thực nên sẵn sàng tự tay mình đảm nhiệm vai trò đầu bếp cho cả nhà.    Hơn thế, tay nghề nấu ăn của con giáp này cũng thuộc hàng cao siêu, họ có thể chế biến thành các món ăn vừa ngon, vừa đẹp mắt chỉ bằng những nguyên liệu đơn giản. Thế mới nói đây là một trong những con giáp nam nấu ăn ngon nhất. Vậy nên, quanh người tuổi Hợi mới có nhiều vệ tinh theo đuổi đến thế.   4. Chàng trai tuổi Mùi   Ai cũng biết chàng trai tuổi Mùi điềm tĩnh, tốt bụng, lại biết cách cảm thông, rất coi trọng tình cảm gia đình. Với họ, bữa ăn chính là công cụ để gắn kết tình thân, tạo ra sợi dây liên kết vững mạnh, không thể tách rời giữa những thành viên trong một nhà.   Bởi thế cho nên, họ chẳng ngại ngần xắn tay áo, tay dao tay thớt, chế biến món ăn ngon cho cả nhà cùng thưởng thức. Nhìn ai nấy ăn uống ngon lành, họ cũng cảm thấy hạnh phúc ngập tràn.  
=> Theo dõi: Tử vi hàng ngày của 12 con giáp được cập nhật nhanh chóng, chính xác

Hoàng Lam     Những cặp đôi con giáp kết hôn nhất định sẽ hạnh phúc suốt đời
Dần và Hợi là cặp đôi con giáp cùng tương trợ và cổ vũ cho nhau, có thể hy sinh bản thân vì đối phương, coi nửa kia quan trọng hơn bản thân mình, cuộc sống hôn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gặp gỡ 4 con giáp nam nấu ăn ngon nhất

Đoán tướng và phúc tướng qua tướng ăn, nói, cười, đi….

Các nhà nghiên cứu nhân tướng học hiện đại cũng đã chú ý rất nhiều đến các tướng biểu lộ ra bên ngoài (ngoại biểu) để xét đoán về tâm lý, cᬠtính và có thể cả tương lai của một người…
Đoán tướng và phúc tướng qua tướng ăn, nói, cười, đi….

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Các nhà nghiên cứu nhân tướng học hiện đại cũng đã chú ý rất nhiều đến các tướng biểu lộ ra bên ngoài (ngoại biểu) để xét đoán về tâm lý, cá­ tính và có thể cả tương lai của một người…

Có câu: "Đức năng thắng số" Số mệnh là điều hoàn toàn có thể thay đổi: tùy thuộc vào đức của mỗi người, đức do ông bà cha mẹ truyền lại.   Nghệ thuật coi tướng được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn năm của Trung Quốc. Nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người chúng ta.  Ví dụ: Con người ai cũng thích người đẹp, không thích người xấu. Những người mặt mũi sáng sủa thì bao giờ cũng được trọng hơn những người mặt mày tối tăm. Hay những người cao lớn, dung mạo đẹp đẽ thì bất luận già trẻ lớn bé, giàu nghèo, sang hèn ai ai trông thấy cũng mến, cũng thích. Xét ở mặt đối lập, chưa hẳn xấu xí chưa hẳn đã là bất lợi. Như thầy bói Quỷ Cốc Tử thuộc loại quái tướng, mặt mũi cực kì xấu xí, lộ hầu, lộ răng nhưng tài năng thì đã trở thành bất tử, lưu truyền hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên, những gì thuộc về tướng mạo, số mệnh, vận mệnh chỉ nên xem như tham khảo, góp một phần nhỏ vào việc biết mình, biết người vậy.

Tướng đi

Trước hết là tướng “đi” mà trong văn học Việt Nam qua một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Nhược Pháp ta thấy cô gái đi chùa Hương không dám đi mau vì “ngại chàng chê hấp tấp – số gian nan không giàu”. Còn dưới mắt các nhà nghiên cứu nhân tướng học, cách đi vội vã, vội vàng là biểu lộ của người có tính tình khá “nóng”, dễ “nổi giận” và hay “gây sự”.

Nếu “đi như chạy” càng khổ nữa, vì dễ làm “đổ tiền, đổ gạo” rơi vãi trên đường. Tới đây lưu ý bạn đọc cũng đừng có cái nhìn quá “một chiều” về những điều không tốt của tướng đi đó. Vì nếu người đàn ông có tướng đi nhanh như vậy, thậm chí lúc nào cũng như muốn “vượt lên” phía trước – đành rằng cũng khó mà “giàu lên” nhưng lại là người biết “nhìn xuống”, có lòng thương kẻ nghèo hơn mình và biết ứng xử nhanh nhẹn, ứng cơ, hợp lý đấy!

Người có “dáng đi đỏng đảnh” như các chú vịt là người rất thích quyến rũ kẻ khác giới. Người có “dáng đi uốn éo” như rắn với cái đầu động đậy nhẹ theo từng bước chân, là người có “trái tim lạnh”, thường mưu lợi riêng cho mình dù phải gây thiệt thòi cho kẻ khác.

Đi như con hạc chân cất cao khỏi mặt đất là người thích giấu mình trong đời sống nội tâm, kín đáo và khó chinh phục.

Đang đi mà đầu thường cúi xuống, lại hơi nghiêng về phía trước là người trầm mặc, mộng mơ và hay thay đổi bạn tình.

Đi mà từ bụng tới mông đều nhích động nhẹ nhàng là người vui vẻ, nhẫn nhịn và biết chiều chuộng bạn đời.

Đi với bước chân kéo lê trên mặt đất một cách chậm rãi là người đa cảm, dễ hờn, dễ giận, nhưng cũng dễ dỗ dành và rất chóng nguôi ngoai.

Đi mà lưng thẳng với những bước chân đều đặn hướng tới trước, thân người tới sau, là người có biệt tài nào đó, có tính cương nghị, nhiều thành công và là chỗ dựa đáng tin cậy cho người bạn trăm năm của mình.

Tướng đứng

Đi là vậy, mà “đứng” cũng có tướng riêng. Nếu không đứng hiên ngang “quân tử” như dáng cây trúc thì cũng đừng cong lưng mềm quá như cây liễu. Còn ở khoảng “trung đạo” với dáng đứng như cây thông của Nguyễn Công Trứ cũng là khó lắm: “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”!.

Tướng ngồi

Tướng “ngồi” không yên với cái đầu chốc chốc lắc qua lắc lại là người làm ăn khó nên nổi, tiền bạc hao hụt, nên làm lành tu phước để hóa giải.

Người ngồi nghiêng qua một bên, khi bên trái, lúc nghiêng bên mặt (dầu không bị tật) đó là tướng của người không được may mắn, thường gặp đổ vỡ trong hôn nhân và bất lợi trong công việc kinh doanh mua bán.

Người ngồi vững như bức vách, như trái núi, đứng lên có dáng thẳng người, điềm tĩnh, đi nhẹ nhàng thoải mái, là người có phong thái sang cả, tướng quý.

Tướng “cười”

Cái cười của Hoạn Thư trong truyện Kiều là một “tướng dữ” mà Nguyễn Du ghi nhận: ngoài thì “thơn thớt nói cười” nhưng trong lòng “nham hiểm giết người không dao”. Cười chỉ “động nhẹ khóe môi” (không cất rõ tiếng) mà vai và lưng người ấy lại rung chuyển là tướng của người nhiều toan tính, ngầm “mưu sự” bên trong, dễ dẫn đến thành công cho mình, nhưng lạnh lùng trước những tổn thất xảy đến cho chính bạn đồng hành với họ.

Ngược lại, người có giọng cười sảng khoái, vang vang, thân mình rung động không ngớt – là người rộng lượng, tự tin, biết chia sớt lợi lộc của mình cho các bạn đồng hành hoặc cộng sự.

Người cười tuy thành tiếng nhưng tiếng cười không chịu thoát ra khỏi cổ một cách thông thoáng thoải mái mà như bị “nghẹn” lại bên trong (có thanh mà không có vận) là người mang mâu thuẫn nội tâm, muốn chinh phục người khác nhưng lại e ngại và không thích giao du, nên dễ rơi vào trầm cảm.

Tướng “nói”

Tướng “nói” – vốn cũng là đối tượng xem xét của nhân tướng học. Đang nói chuyện không chịu nhìn trực diện vào người đang đối thoại với mình, mà nhìn nghiêng nhìn xéo là tướng của người không được công minh, thiếu ngay thẳng.

Khi nói hai bàn tay có thói quen xoa vào nhau, hoặc hai tay khoa lên khoa xuống không đúng lúc là tướng của người không thật lòng, đa nghi và rất khó hợp tác. Khi nói thường ngó trước dòm sau, hoặc nhìn qua phải qua trái một cách vô cớ, là người có mưu mô đang giấu kín.

Tướng “ăn”

“Ăn” cũng thành… “tướng”! Thật vậy, người có phong cách ăn uống gọn gàng nhanh chóng nhưng không phải là ăn ngồm ngoàm hay ăn lấy ăn để kiểu nhử kịp thở thì là một trong những tướng quý.

Người ăn chậm nhưng không rề rà, mà ăn khoan thai một cách tự nhiên, không làm ra vẻ chậm quá mới là tốt. Nếu người ăn ngồi không ngay ngắn, thức ăn nhai trong miệng rồi, lại đưa ra đầu lưỡi, vừa ăn vừa nhìn quanh quất là tướng người bần tiện.

Tướng nằm ngủ

“Nằm” cũng có quý tướng và phúc tướng. Quý tướng là người nằm có dáng thanh thoát như rồng, mắt nhắm, môi ngập, nhưng lộ thần sắc tươi hồng trên gương mặt.

Phúc tướng là người nằm ngủ thường hay nằm nghiêng về bên phải, hai chân duỗi ra thư thả, tay trái đặt theo thân mình, tay phải đưa lên trong tư thế đỡ lấy khuôn mặt, hai môi vẫn hồng khi ngủ say – đó còn là tướng của người trường thọ, thông minh.

Trái lại người ngủ nhưng hai mắt vẫn mở to, nhìn thấy được con ngươi đen bất động trong tròng mắt là tướng chết bất đắc kỳ tử, có thể bị tử nạn bất ngờ trong lúc xa nhà.

Tướng người ngủ với miệng mở ra lộ cả hàm răng, thỉnh thoảng lại nghiến răng kèn kẹt trong đêm tối, là tướng sẽ chết vì gươm đao hoặc súng đạn.

Nằm ngủ mà không ngửa người ra theo lẽ bình thường, lại hay úp mặt xuống chiếu là tướng suy tàn, túng thiếu, có thể qua đời vì bạo bệnh hoặc thiếu đói. Nằm ngủ mà thỉnh thoảng mở miệng nói huyên thuyên đủ chuyện, nhưng là những chuyện không có đầu có đuôi tựa như người mê sảng là tướng làm tôi tớ, nếu có chút hư danh lợi lạc nào đó, đến cuối đời vẫn phải chịu hư hao mất mát…

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Xem tướng chọn sếp tốt?

Sự nghiệp của bạn có thể thành công hay không, ngoài tài năng và nhiệt huyết của bản thân, bạn cũng nên biết cách chọn cho mình một vị sếp.

Một số gợi ý về nét tướng của người sếp tốt dưới đây có thể sẽ rất hữu ích đối với bạn.

- Nhãn thần đoan chính, thần thái thanh thoát nhưng phải có vẻ uy nghiêm, tròng trắng và tròng đen rõ ràng, phân minh. Ông chủ có nét tướng này là người thông minh, sức khỏe tốt; có tấm lòng lương thiện, biết phân biệt phải – trái.

- Sống mũi không quá cao, chóp mũi không quá nhọn. Nếu người có mũi cao và đường sống mũi bị lộ thì sự nghiệp gặp nhiều trở ngại, khó có được sự ủng hộ của người cấp dưới. Người có chóp mũi nhọn và không đầy đặn thường kiêu ngạo, hay chỉ trích người khác sau lưng. Họ cũng rất chi li, tính toán về mặt lợi ích với cấp dưới.

Các bước xem tướng người chính xác nhất

Trong nhân tướng học, để xem tướng của một người tốt hay xấu, bạn có thể dựa theo trình tự 8 bước dưới đây.

1. vẻ uy nghi

Uy nghi ở đây toát lên từ đôi mắt, lưỡng quyền và thần sắc. Bề ngoài oai vệ, nghiêm trang, chỉnh tề, không có vẻ dữ tợn là tướng tốt.

2. Coi dáng đi, dáng đứng, dáng ngồi và cả dáng nằm ngủ

Dáng đi phải thẳng, linh hoạt, khi đi thân hình không lay động. Ngồi lâu không mê muội, càng ngồi lâu tinh thần càng sảng khoái. Ánh mắt trong sáng, có hồn, nhìn lâu không mờ.

3. Xem tướng đầu và tướng trán vì đầu là chủ toàn thân, nguồn gốc của tứ chi

Đầu vuông, đỉnh đầu nhô cao là người có địa vị cao trong xã hội. Đầu tròn là tướng giàu có và trường thọ. Trán rộng thì vừa sang vừa quý. Đầu lệch từ nhỏ thì cuộc đời vất vả, nhiều sóng gió. Trán thấp là người khá bướng bỉnh.

4. Coi ngũ nhạc, tam đình

Ngũ nhạc

Lưỡng quyền (hai gò má hay còn gọi là Đông nhạc và Tây nhạc) cần ngay ngắn, đầy đặn, không nhọn, không lệch, lẹm. Trán (Nam nhạc) cần ngay ngắn, không vát, không lõm, không thấp. Mũi (Trung nhạc) cũng cần ngay ngắn, sống mũi thẳng, không được vẹo, nhọn, gẫy khúc. Cằm (Bắc nhạc) cần cân đối, hài hòa với khuôn mặt.

Tam đình

Trán, đầu và cằm cần dài ngắn cân xứng, hài hòa.

5. Coi ngũ quan, lục phủ

Ngũ quan

Lông mày (bảo thọ quan) nên cong, dài, cách mắt hai phân là tốt. Đuôi mày nên chếch lên phía thái dương. Người nào có bộ lông mày thô đậm, áp xuống mắt thì thuộc tướng xấu.

Mắt (giám sát quan) phải sáng, tròng đen, tròng trắng rõ ràng.

Tai (thám thính quan) không căn cứ to nhỏ, chỉ cần luân quách (vành tai ngoài và vành tai trong) rõ ràng, phân minh. Tai trắng hơn da mặt thì cực tốt. Tai cao hơn lông mày, màu sắc tai hồng nhuận, lỗ tai nhỏ là loại tai tướng tốt.

Mũi (thẩm biện quan) nên đầy đặn, cao, sống mũi thẳng, không vẹo, không thô, không nhỏ quá.

Miệng (xuất nạp quan) có đôi môi hồng, răng trắng, nhân trung sâu dài là tướng tốt.

Lục phủ

Ngoài việc là khái niệm dùng để chỉ 6 bộ phận trong cơ thể người, lục phủ còn được dùng để chỉ ba cặp xương ở hai bên mặt. Trong phép quan sát lục phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu, xương thịt phải chắc, cân xứng, hài hòa với nhau, thịt không lấn át xương, xương không quá nhiều so với thịt, thần sắc tươi tỉnh là tướng tốt.

6. Coi lưng, bụng

Ngực bằng, đầy, eo tròn, lưng đầy và bụng dưới to hơn bụng trên, da dẻ mịn màng là tốt. Kỵ lưng thành hố sâu, lưng mỏng, vai lệch. Mông cần nở nang, đầy đặn, không nên lớn thô.

7. Coi chân, tay

Tay phải dài, bàn chân phải có bụng chân, chớ có nổi gân chằng chịt; màu sắc hồng nhuận, da thịt mềm mại.

8. Coi tiếng nói và tâm trạng

Muốn nhìn sự việc trong tâm thì coi đôi mắt. Mắt hiền, mắt ác cho biết tâm hiền hay ác. Vui buồn hay sướng khổ cũng đều biểu hiện qua đôi mắt.

Giọng nói nghe tròn, ấm, vang, rõ ràng, dứt khoát, nhanh chậm có trật tự, to thì vang như chuông mà nhẹ thì nghe thì nghe như tiếng ngọc va vào nhau.

Các gương mặt theo nhân tướng học

Hơn 6 tỷ người trên quả đất hiện nay chẳng có người nào có gương mặt giống người nào một cách tuyệt đối, song qua nhân tướng học từ xưa cũng rút ra được những “mẫu số chung” để đúc kết một số hình dạng của các gương mặt.

Bộ mặt chia làm 12 cung, mỗi cung chủ về một việc:

1. Ấn đường (ở giữa hai bên lông mày) gọi là mệnh cung, chủ về bản mệnh. Hễ sáng sủa nở nang thì chắc là người phúc hậu khoa hoạn, ngấn da rối rít thì tổn thọ.

2. Hai bên mũi gọi là cung tài bạch: chủ về của cải. Hễ phổng pháp sáng sủa, chắc giàu có; hình như huyền đảm thì giàu to. Nếu nhọn hớt mỏng méo, tất nghèo hèn.

3. Hai bên đầu lông mi gọi là huynh đệ, chủ về anh em. Lông mi dài tốt thì anh em đông đúc vui vẻ, thưa ngắn thì anh em ly biệt cô độc, có lông mọc ngược thì chắc anh em thù nhau. Thanh mà có vẻ, tất là người quý hiển thanh cao. Lông mi dài, chủ thọ.

4. Hai mắt gọi là điền trạch, chủ về cửa nhà ruộng nương. Nếu trong trẻo, đen trắng phân minh. Hễ minh nhuận chắc cửa nhà giàu có; nếu đê hãm hôn ám thì chắc điền trạch phá hại. Con mắt lại là tinh tú nhất cả trong người, nhiều sự quan hệ ở đó.

5. Ngọa tàm (hai ổ dưới mắt) gọi là cung nam nữ, chủ về con cái. Hồng hào đầy đặn, lắm con. Dưới mắt bên tả có cái ngấn ngọa đàm, chủ sinh quý tử.

6. Ngư vĩ (hai bên đuôi mắt) gọi là cung thê thiếp, chủ về đường vợ chồng. Sáng sủa không có ngấn sâu thì vợ chồng hay; đầy đặn lắm vợ nhiều con, lõm thấp là dâm loạn.

7. Địa các (dưới cằm) gọi là cung nô bộc, chủ về việc tôi tớ. Đầy đặn: nhiều tôi tớ, khuyết lõm, không đứa nào.

8. Sơn côn (sống mũi) gọi là cung tật ách, chủ về tật bệnh. Đầy đặn thì ít tật bệnh; sâu lõm thâm tím, hay đau yếu.

9. Hai bên gò má cạnh trái tai gọi là cung thiên di, chủ về đi ra ngoài. Sáng sủa ra ngoài hay, đen tối hoặc lõm thấp và có nốt ruồi, không nên đi xa.

10. Đỉnh trán gọi là cung quan lộc, chủ về việc công danh. Sáng sủa đầy đặn, công danh thanh thản.

11. Hai bên sát trái tai, ngoài cung thiên di, gọi là cung phúc đức, chủ thể về phúc ấm nhà mình. Đầy đặn sáng sủa thì chắc được hưởng phúc lộc vô cùng.

12. Gò trán đôi bên gọi là cung phụ mẫu, chỉ về việc cha mẹ. Cao và sáng sủa, cha mẹ sống lâu, hắn hãm, cha mẹ có bệnh. Lệch góc bên tả, cha mất trước, lệch góc bên hữu, mẹ mất trước.

Trên bộ mặt lại chia làm tam đình : Thượng đình từ chân tóc đến lông mày, chủ về tiền vận, nở nang sáng sủa thì tiền vận hay. Trung đình từ lông mày đến dưới mũi, chủ  trung vận, đầy đặn ngay ngắn thì trung vận sướng. Hạ đình từ dưới mũi đến cằm, chủ hậu vận, đầy đặn nở nang thì hậu vận thanh thản.

Đoán nhân cách qua đôi tai của bạn

Giống như mắt, môi… tai cũng là bộ phận quan trọng được các nhà nhân tướng học chú ý xem xét khi phân tích, nhận định một con người.

1. Tai nhỏ

Những người sở hữu đôi tai nhỏ thường có khả năng tập trung tốt, hay chú ý tới tiểu tiết trong mọi việc. Họ thường không gặp quá nhiều khó khăn để nhận thấy điều mình cần cũng như đường đi nước bước của bản thân trong cuộc sống. Hòa nhã mà mạnh mẽ, linh hoạt mà quyết đoán, những người này luôn nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu đã đề ra.

2. Tai lớn

Có một bí mật thú vị là hầu hết những người tai lớn đều không gặp phải bất cứ khúc mắc hoặc sự thiếu rõ ràng nào về giới tính của bản thân. Họ được trời phú cho một sức khỏe tốt, cơ thể và tinh thần luôn tràn đầy sức sống, nhờ thế khả năng miễn dịch của họ tương đối tốt, ít khi ốm vặt. Nhưng một khi đã ốm, họ thường ốm rất nặng, hoặc mắc phải một căn bệnh vô cùng nan giải. Nhìn chung, những người có đôi tai lớn thường rất công bằng, khách quan; ham học hỏi và khám phá. Những người phụ nữ có đôi tai lớn thường rất mạnh mẽ, ăn to nói lớn suy nghĩ vượt xa tầm ngọn cỏ, không thua kém gì cánh mày râu.

3. Tai ở vị trí cao hơn bình thường so với đầu

Những người có đôi tai như vậy thường rất lạc quan, luôn suy nghĩ tích cực, dễ bị kích thích bởi những điều lạ lùng, mới mẻ. Họ có tính cách khá bốc đồng, thất thường, cả thèm chóng chán. Điểm mạnh của họ là khả năng tư duy logic, suy nghĩ nhanh. Với trí tuệ như vậy, họ thích được giao du, kết bạn với những người lớn tuổi hơn mình, hơn là qua lại cùng bạn bè đồng trang lứa.

4. Tai ở vị trí thấp hơn bình thường so với đầu

Những người này có tính cách rất thực tế, chăm chỉ và tham công tiếc việc. Khả năng đồng cảm, sẻ chia của họ rất tốt, vì vậy họ phù hợp hơn cả với công việc liên quan tới sự chăm sóc người khác. Đặc biệt, sở trường của họ là làm việc theo nhóm. Khi ấy, họ điều hòa các thành viên còn lại rất tốt cũng như biết cách vận dụng khả năng của từng người để đạt được kết quả chung hoàn hảo cho tất cả.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tướng và phúc tướng qua tướng ăn, nói, cười, đi….

Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Chìa khóa đại diện cho quyền lực. Mơ thấy đánh mất chìa khóa có nghĩa là bạn mất đi quyền khống chế, hay không đủ điều kiện để có được quyền lực. Mất chìa khóa trong mơ còn tượng trưng cho cảm giác bất lực của bạn khi không tìm được phương pháp cần t
Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Chùa Non Nước - Ninh Bình

Chùa Non Nước tọa lạc tại Thanh Bình, Ninh Bình. Mỗi năm Chùa Non Nước đón hàng nghìn lượt khách du lịch trong nước và quốc tế về thăm quan, chiêm bái
Chùa Non Nước - Ninh Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Non Nước tọa lạc tại địa phận đường Lê Đại Hành, phường Thanh Bình, thành phố Ninh Bình.

Chùa Non Nước ở Ninh Bình là một ngôi chùa cổ tọa lạc dưới chân núi Non Nước, bên bờ sông Đáy và cửa sông Vân. Núi chùa Non Nước là một di tích lịch sử văn hóa quốc gia đồng thời cũng là một điểm du lịch quan trọng của thành phố Ninh Bình.

Núi Non Nước có tên cổ là Dục Thúy Sơn, nghĩa là “con chim trả” tắm bên dòng sông nước bạc”, cao trên 100m. Núi nằm ở vị trí ngã ba sông, giao giữa sông Vân với sông Đáy. Hàng trăm năm trước, chân núi bị sóng biển bào mòn, khoét thành một hõm sâu, từ xa nhìn lại, núi giống như một mái hiên hình vòm cuốn che rợp cả một khoảng sông xanh.

Dưới chân núi là chùa Non Nước – một ngôi chùa cổ kính đã có hàng trăm năm tuổi, chùa được xây dựng từ thời nhà Lý, dưới đời vua Lý Nhân Tông, quốc sư Nguyễn Minh Không xây dựng một ngôi chùa thờ Phật dưới chân núi Dục Thúy Sơn về phía Đông. Chùa được xây bằng đá, mái cong rồng lượn và đã xuất hiện tháp là nơi thờ Phật. Trong tháp đặt một tượng Phật chính và một số tượng phụ.

Sang thế kỷ XIII, tháp được tách ra, thành hai kiến trúc riêng: chùa và tháp. Tháp không còn là chùa mà trở thành mộ sư. Chính vì vậy, đến đời Trần, tháp Linh Tế đổ vỡ. Đến thời vua Trần Hiến Tông (1337), tháp Linh Tế được khởi công xây dựng lại. Người đứng lên chủ trì việc xây dựng tháp là nhà sư Trí Nhu (người phủ Tràng An, châu Đại Hoàng – tức là người Ninh Bình). Khi đang giữ chức Tả ty Lang trung, Tả giám Nghị đại phu, Trương Hán Siêu đã viết bài “Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký” (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), nhân việc tháp Linh Tế xây dựng lại xong. Trong bài ký đó, Trương Hán Siêu đã cho biết tháp Linh Tế xây dựng lại cao 4 tầng: “Tháp xây 4 tầng, đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ”.

Chùa Non Nước trên núi Thúy Ninh Bình
Chùa Non Nước trên núi Thúy Ninh Bình

Cuối thời Hậu Lê tháp Linh Tế bị đổ vỡ. Chùa có hai cổng, một cổng ra vào ở phía bắc, một cổng ở phía đông nam nhìn ra sông Đáy và đây cũng là cổng để nhiều người ra thả cá chép vào ngày ông táo chầu trời.

Từ sân chùa Non Nước bên sông Đáy bạn có dịp ngắm cây cầu Ninh Bình lịch sử, cầu Non Nước hiện đại và cuộc sống của cư dân trên sông Đáy. Năm 2006, chùa đã được trùng tu lại và khánh thành mới nhung vẫn giữ được vẻ thiêng liêng, trầm mặc.

Mỗi năm chùa Non Nước đón hàng nghìn lượt khách du lịch trong nước và quốc tế về thăm quan, chiêm bái. Từ chùa phóng tầm mắt ra xa, sẽ được chiêm ngưỡng cảnh sắc thanh bình, yên ả của làng quê Việt Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Non Nước - Ninh Bình

Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang... 1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 3. Dái tai phẳng là
Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Lông mày có nốt ruồi thường là điềm báo tốt lành. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày là người gặp được nhiều may mắn, giàu sang phú quý, vượng phu ích tử
Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi trên lông mày được ví là hạt ngọc nằm trên cỏ. Lông mày có nốt ruồi thường là điềm báo tốt lành. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày là người gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống, giàu sang phú quý, vượng phu ích tử.   Nốt ruồi có thể xuất hiện ở nhiều vị trí trên cơ thể, nốt ruồi cũng phân thành loại tốt và loại xấu. Những nốt ruồi tốt là điềm báo bạn có cuộc đời thuận lợi như ý, còn nốt ruồi xấu sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời. Với phụ nữ, qua nốt ruồi ở lông mày còn có thể đoán định được chuyện tình duyên và vận mệnh tương lai của người đó. Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày trái là tướng vượng phu, còn trên mày phải thì khỏe mạnh, sống thọ trăm tuổi. 


Phu nu co not ruoi o long may, la phuc hay hoa hinh anh goc

Xem tướng phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày 


Nốt ruồi ở xung quanh lông mày
 

Khu vực xung quanh lông mày bao gồm các cung Gian Môn, Thiên Thương, Phúc Đường. Nếu nốt ruồi xuất hiện ở khu vực này có nghĩa là vào tuổi trung niên hôn nhân sẽ có vấn đề. Khi người phụ nữ đến tầm 33 – 34 tuổi, gia đình dễ xảy ra lục đục, vợ chồng 1 trong 2 người có quan hệ ngoài luồng.

Đặc biệt, nếu cung Gian Môn (Phu thê cung) có nốt ruồi, là đàn ông thì vợ ngoại tình, là phụ nữ thì dâm loạn, không chung thủy. Nếu 2 bên cung Gian Môn lõm khuyết, khí sắc tối tăm, lông mày tán loạn, không ngay ngắn thì dễ gặp biến động lớn trong hôn nhân.
Nốt ruồi ở giữa lông mày
 
Người có nốt ruồi ở chính giữa lông mày thông minh, tài trí hơn người, tài lộc dồi dào, vinh hoa phú quý. Tuy nhiên, những người này trong đời chắc chắn ít nhất một lần gặp chuyện hung hiểm bất ngờ, khiến cho tiền tài thất thoát, danh vọng tiêu tan, người thân cũng chịu vạ lây. Nếu vượt qua được cửa ải khó khăn này thì cuộc sống sẽ sung sướng an nhàn cho đến cuối đời.
 
Lông mày thưa thớt mà có nốt ruồi ở chính giữa thì có thể sẽ gặp phải hỏa hoạn ít nhất 1 lần trong đời. Nốt ruồi thiên về gần giữa lông mày thể hiện việc trong tương lai xa dễ gặp cảnh túng thiếu, khó khăn về tiền bạc.
 

Nốt ruồi ở đầu lông mày
 

Phụ nữ có nốt ruồi ở đầu mày dễ vì vạ miệng mà gặp chuyện bất trắc, thậm chí có thể gặp họa ngồi tù. Người này thường hay nảy sinh tranh cãi, mâu thuẫn với đồng nghiệp, bạn bè, anh chị em. Cuộc sống gia đình cũng không được hài hòa, anh chị em tranh giành tài sản.
  

Nốt ruồi ở đuôi lông mày
 

Đây là điềm báo dễ xảy ra các vấn đề về tình cảm. Đặc biệt, phụ nữ có nốt ruồi ở đuôi lông mày dễ sinh ngoại tình, có thể diễn ra vào năm 19, 28 hoặc 37 tuổi.
 
Ngoài ra, người này hay phải lo nghĩ chuyện tiền bạc, thường lâm vào cảnh túng thiếu.
 
Khu vực nửa cuối lông mày trong nhân tướng học được gọi là “thải hà”, tượng trưng cho đám mây nhiều màu sắc, thể hiện trí tuệ và tài năng của con người. Người ở vị trí này có nốt ruồi tốt sẽ giỏi ăn nói, có tài xã giao, rất hợp làm kinh doanh. Còn có nốt ruồi xấu ở đây thì trong anh chị em ruột thịt hoặc họ hàng sẽ có 1 người gặp chuyện bất hạnh, nếu không thì bản thân người này rất dễ bị thương ở chân tay hoặc chịu cảnh bạn đời ngoại tình.


Phu nu co not ruoi o long may, la phuc hay hoa hinh anh goc

Nốt ruồi ở lông mày có thể tiết lộ vận mệnh con người 


Nốt ruồi ở giữa lông mày và mắt
 

Khu vực giữa lông mày và mắt được gọi là “cung Điền Trạch”. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này là người ngay thẳng, trong sạch, đa tài đa nghệ. Trong sự nghiệp được nhiều người giúp đỡ và trọng dụng, hôn nhân cũng hạnh phúc mỹ mãn. Đây là nốt ruồi vượng tài vượng vận trên mặt nữ giới.
 
Nếu nốt ruồi xấu thì làm việc khá vất vả, mất công mất sức mà không được báo đáp xứng đáng. Hay phải chuyển nhà, nơi sinh sống thường xảy ra những chuyện kì cục bất thường. Tốt nhất không nên làm những nghề liên quan đến đầu tư nhà đất kẻo gặp họa lớn.

Nốt ruồi ở giữa 2 lông mày 
 

Theo nhân tướng học, khu vực giữa 2 lông mày được gọi là “cung Sự nghiệp”, tượng trưng cho vận thế phát triển và thăng tiến trong sự nghiệp. Qua khí sắc ở cung này có thể đoán định vận mệnh hung cát họa phúc của một người. 
 
Nếu ở vị trí này có nốt ruồi tốt thì người đó sẽ có sự nghiệp thành công. Còn nếu nốt ruồi ở lông mày xấu, sậm đen thì rất có thể sau tuổi 28 sẽ gặp biến cố lớn về tình cảm hoặc hôn nhân.
Hy Vũ

Nốt ruồi tố cáo đàn ông có thói trăng hoa Có 4 nốt ruồi này, cả đời sẽ hưởng tiền tài, phú quý và trường thọ Giải đáp bí ẩn về nốt ruồi đằng sau gáy lành hay dữ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay họa?

Ngày đẹp để xuất hành, mở hàng, đi lễ đầu xuân năm Quý Tỵ

Tết năm nay (Quý Tỵ 2013) ngày tốt để khai trương, mở hàng, ký kết đầu năm là mùng 1 (10/2), mùng 4 (13/2), mùng 5 (14/2), mùng 6 (15/2), mùng 8 (17/2), mùng 9 (18/2), mùng 10 (19/2).
Ngày đẹp để xuất hành, mở hàng, đi lễ đầu xuân năm Quý Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu xuân mọi người thường có xu hướng chọn ngày tốt, giờ tốt để làm những việc trọng đại, với mong muốn "đầu xuôi đuôi lọt".

Có nhiều phương pháp chọn ngày khác nhau, từ đó mà cách lựa chọn ngày giờ cũng sẽ khác. Những ngày giới thiệu dưới đây được xây dựng trên nền tảng và phương pháp tính lịch của "Hiệp kỷ biện phương thư" - cuốn sách lịch được hoàng đế Càn Long công nhận, đã đối chiếu với ngày giờ và tiết khí của lịch Việt Nam.

Mùng 1 Tết (10/2, chủ nhật, Đinh Mùi): 

Có thể xuất hành, mở hàng, đi lễ. Xuất hành chọn hướng  Đông.

Mùng 2 Tết (11/2, thứ 2, Mậu Thân): 

Không lợi xuất hành, mở hàng. Có thể đi lễ. Nếu cần xuất hành chọn hướng Bắc (Tài thần).

Mùng 3 Tết (12/2, thứ 3, Kỷ Dậu): 

Không lợi xuất hành, mở hàng. Có thể đi lễ. Nếu cần xuất hành chọn hướng Nam (Tài thần).

Mùng 4 Tết (13/2, thứ tư, Canh Tuất): 

Không lợi xuất hành. Có thể mở hàng, đi lễ. Nếu cần xuất hành chọn hướng Tây Nam (Tài thần).

Mùng 5 Tết (14/2, thứ 5, Tân Hợi): 

Có thể xuất hành, mở hàng, đi lễ. Xuất hành chọn hướng Tây Nam (Tài thần).

Mùng 6 Tết (15/2, thứ 6, Nhâm Tý): 

Có thể xuất hành, mở hàng, đi lễ. Xuất hành chọn hướng Tây.

Mùng 7 Tết (16/2, thứ 7, Quý Sửu): 

Không lợi xuất hành, mở hàng. Có thể đi lễ. Nếu cần xuất hành chọn hướng Tây (Tài thần).

Mùng 8 Tết (17/2, chủ nhật, Giáp Dần):

Không lợi xuất hành, đi lễ. Có thể mở hàng. Nếu cần xuất hành chọn hướng Đông Nam (Tài thần).

Mùng 9 Tết (18/2, thứ 2, ất Mão): 

Có thể xuất hành, mở hàng, đi lễ. Xuất hành chọn hướng Đông Nam (Tài thần).

Mùng 10 Tết (19/2, thứ 3, Bính Thìn): 

Có thể xuất hành, mở hàng, đi lễ. Xuất hành chọn hướng Đông.

Qua liệt kê ở trên có thể thấy:

Ngày tốt cho xuất hành, gặp mặt đầu năm: mùng 1 (10/2), mùng 5 (14/2), mùng 6 (15/2), mùng 9 (18/2), mùng 10 (19/2).

Ngày tốt cho mở hàng, giao dịch ký kết đầu năm: Mùng 1 (10/2), mùng 4 (13/2), mùng 5 (14/2), mùng 6 (15/2), mùng 8 (17/2), mùng 9 (18/2), mùng 10 (19/2). Ngày tốt mở hàng nhiều, báo hiệu sự khởi sắc của nền kinh tế, tuy chưa rõ rệt.

Ngày tốt cho cúng tế, đi lễ đầu năm: Mùng 1 (10/2), mùng 2 (11/2), mùng 3 (12/2), mùng 4 (13/2), mùng 5 (14/2), mùng 6 (15/2), mùng 7 (16/2), mùng 9 (18/2), mùng 10 (19/2).

ThS Nguyễn Mạnh Linh
Ban Phong thủy - Viện Phong thủy Thế giới
Ban Phong thủy - Viện Tiềm năng con người

(Vnexpress.net)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày đẹp để xuất hành, mở hàng, đi lễ đầu xuân năm Quý Tỵ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd