Xem tướng cho người có đường chỉ tay chằng chịt –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Hãy theo dõi cùng Lịch ngày tốt nhé. Tính cách người tuổi Thìn nhóm máu O: Thông minh, vui vẻ
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Lịch trong xã hội xưa:
Lịch giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm của người á đông thời xưa, ở Trung Hoa lịch được xem là lệnh trời bày cho dân để theo đó mà làm nông vụ cũng như tế lễ, còn vua là thiên tử, thay trời trị vì thiên hạ và hàng năm ban lịch cho thần dân và các nước phiên bang. ở Việt Nam mỗi năm lễ ban lịch gọi là Ban Sóc cũng được tổ chức rất long trọng có nhà vua và hàng trăm văn võ bá quan tham dự. Các cơ quan làm lịch ở nước ta trước đây rất quy củ, Thời Lý có Lầu chính Dương, Thời Trần có Thái sử Cục, thời Lê có Thái Sử Viện, thời Lê Trung Hưng có Tư Thiên Giám, thời Nguyễn có Khâm Thiên Giám…Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn "Coi các việc": suy lượng độ số của trời, làm lịch, báo thời tiết, như thấy việc tai dị hay điềm lành, được suy luận làm khải trình lên’
Trích từ Nguyên sử và Đại việt sử ký toàn thư” thì vào thời trần (1301), Đặng Nhữ Lâm khi đi sứ sang Nguyên đã bí mật vẽ đại đồ Cung Uyển, thành Bắc Kinh, mang sách cấm về, sự việc lộ ra và bị vua Nguyên trách cứ. Có thể trong các sách cấm đó có thư tịch về lịch pháp nên sau này con cháu ông là đặng Lộ ra làm quan Thái sử cục lệnh Nghi hậu lang đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát hiên tượng tỏ ra rất đúng và vào năm 1339 đặng Lộ trình vua Trần Hiến Tông xin đổi lịch thụ thời sang lịch Hiệp kỷ đã được vua chấp thuận.
Như vậy các cơ quan làm lịch bao gồm cả chức năng dự báo thời tiết, thiên văn và chiêm tinh học. Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về lịch Việt Nam còn lại rất ít nguyên nhân một phần do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chiến tranh liên miên tàn phá, một phần do lịch pháp gần như là một thứ bí thuật không phổ biến, cộng với việc khoa học nhất là khoa học tự nhiên không được chú trọng phát triển trong thời phong kiến. Điều này gây trở ngại cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ và đó cũng là lý do khiến các nghiên cứu về lịch ở nước ta rất hiếm hoi.
Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp thời xưa có Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán vào cuối thời Trần (1325-1390) và Trần Hữu Thận (1754-1831), Nguyễn Hữu Hồ (1783-1844) ở thời Nguyễn … Trần Nguyên Đán là người thông hiểu thiên văn , lịch pháp và đã viết sách Bách thế Thông kỷ tiếc rằng đến nay không còn, ông chính là cháu tằng tôn Trần Quang Khải là ngoại tổ Nguyễn Trãi.
Liên quan đến nguồn sử liệu còn có các cuốn lịch cổ đáng chú ý sau: Khâm định vạn niên thư (lưu trữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) in lịch từ năm 1544 đến năm 1903, trong đó các năm từ 1850 trở đi là lịch dự soạn cho thời gian tới, Bách Trúng kinh ( lưu giữ tại Viện hán nôm) in lịch thời Lê Trung HƯng ( Lê - Trịnh) từ năm 1624 đến năm 1785, Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (lưu giữ tại Viện hán nôm ) in lịch từ năm 1740 đến năm 1883, ngoài ra còn cuốn Bách trúng kinh khác thấy ở Hà nội năm 1944, sách này chép lịch từ năm 1624 đến năm 1799 nhưng nay không còn.
Lịch Việt cổ và nguồn gốc Lịch Âm Dương Á Đông:
Lịch âm Dương Á Đông mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng hiện nay được xem là lịch nhà Hạ (2140 trước c.n -1711 trước c.n , tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Lịch Âm Dương là kết quả của sự giao thoa văn hoá giữa hai vùng Hoa Bắc và Hoa NAm của Bách Việt hay Việt cổ. Vùng Hoa Bắc trồng kê mạch và chăn nuôi còn vùng hoa Nam tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước. Lịch với chức năng chính là phục vụ nông nghiệp (tục gọi là lịch nhà nông) nên phải phù hợp với thời tiết khí hậu của vùng hoa Nam là vựa thóc chính của trung Hoa. Mặt khác sử sách cũng ghi lại một số tư liệu về sự tồn tại lịch của người Việt cổ như truyền thuyết về lịch rùa mà Việt Thường thị khi sang chầu đã dâng lên vua Nghiêu đời Đào đường ( Sách Việt sử thông giám cương mục) hoặc theo thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi vua nhà Hán (Thế kỷ 2 trước c.n) thì “ từ thời Tam đại thịnh trị đất Hồ đất Việt không tuân theo lịch của Trung Quốc” (Đại việt sử ký toàn thư).Ngoài ra cũng có những bằng cớ chứng tỏ là từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc cư dân nước Văn Lang đã sử dụng một thứ lịch riêng, chẳng hạn các tư liệu về lịch của dân tộc Mường và nhứng điều được miêu tả trong Đại Nam thống nhất chí: “ Thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương, hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm, hàng tháng lấy ngày 2 làm đầu tháng, gọi là ngày lui tháng tiến, lại gọi là ngày nội, dùng trong dân gian, còn ngày quan lịch, thì gọi là ngày ngoại, chỉ dùng khi có việc quan”.
Lịch Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau
Các sự kiện lịch sử ở nước ta vốn được ghi chép theo theo Lịch âm Dương Á Đông và để có một niên biểu lịch sử chính xác cần biết rõ loại lịch nào đã được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. tuỳ thuộc vào quan hệ bang giao giữa hai nước trong từng thời kỳ mà lịch Việt Nam có lúc trùng có lúc lại lại khác với lịch Trung Quốc. Mặt khác bản thân lịch Trung Quốc đã trải qua nhiều lần thay đổi, cải cách (tính từ Thế kỷ 14 trước c.n là năm bắt đầu xuất hiện đến nay riêng lịch Trung Quốc đã trải qua hơn 50 cải cách khác nhau), điều này làm cho việc so sánh đối chiếu niên đại lịch sử giữa hai nước thêm phức tạp. Các kết quả khảo cứu của Gs. Hoàng Xuân hãn và pgs. Lê Thành Lân cho biết:
Trong 1000 năm Bắc thuộc (từ khi Triệu Đà đánh bại nhà Thục và xâm chiếm nước ta đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lập nên Đại Cồ Việt) lịch dùng chính thức ở nước ta là lịch Trung Quốc hoặc thuộc phần phía nam Trung Quốc bị phân chia (Việt sử ở thời kỳ này được ghi chép rất sơ sài gây khó khăn cho việc khảo cứu).Trong thời kỳ đầu của nền độc lập từ đời Đinh (969) đến hết thời Lý Thái Tông (1054) nước ta vẫn tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống ( như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên).
Từ đời Lý Thánh tông lên ngôi cuối năm 1054 Việt Nam có lẽ bắt đầu tự soạn lịch riêng, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt, chấn hưng việc nhà nông, việc học. Lý Nhân Tông nối ngôi năm 1072 và 3 năm sau chiến tranh bùng nổ giữa Đại Việt và Tống ( Lý Thường Kiệt xuất quân đánh Tống đẻ ngăn chặn), bang giao gián đoạn giữa hai nước cho đến năm 1078,trong thời gian này chắc chắn nước ta đã dùng lịch riêng.
Các đời Lý và Trần từ 1080 đến năm 1399; lúc đầu nước ta dùng lịch được soạn theo phép lịch đời tống , sau chuyển sang sử dụng lịch Thụ Thời ( có từ năm 1281 đời Nguyên) và năm 1339 vua Trần Hiến Tông đổi tên lịch Thụ Thpì thành lịch Hiệp kỷ.
Năm 1401 nhà Hồ ( thay nhà Trần tè năm 1399 đổi lịch Hiệp kỷ sang lịch Thuận thiên, không rõ chỉ đổi tên hay phép làm lịch cũng thay đổi.
Năm 1407 nhà Hồ bị mất, nhà Minh đô hộ nước ta và dùng lịch Đại Thống ( nhà Minh lên thay nhà Nguyên năm 1368 và dến năm 1384 thì đổi tên lịch Thụ thời thành lịch Đại Thống, nhưng phép lịch vẫn như cũ. Năm 1428 nước ta được giải phóng nhưng triều Lê tiếp tục sử dụng phép lịch Đại thống cho đến năm 1644 và theo Gs. Hoàng Xuân hãn thì phép lịch này còn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1812 (Gia Long thứ 11 đời Nguyễn) mặc dù từ năm 1644 nhà Thanh đã thay thế nhà Minh và khoảng 3 năm sau thì chuyển sang dùng lịch Thời Hiến.
Gs. Hoàng Xuân hãn rút ra kết luận trên dựa vào sự phục tính lịch Đại Thống từ đời nhà Hồ đến năm 1812 và đem so sánh với quyển Bách trúng kinh do ông sưu tầm được, quyển này in lịch từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Theo một số tư liệu thì vào thời Lê Trịnh( từ năm 1593 đến năm 1788) lịch nước ta có tên là lịch Khâm thụ và Gs. Hoàng Xuân Hãn đồ rằng tên này có từ đầu triều Lê, tên khác nhưng phép lịch có thể vẫn là phép lịch Đại thống nếu như kết quả phục tính của Gs. Hoàng Xuân Hãn ở trên là đúng. Nhà Mạc từ năm 1527-1592 nằm trong khoảng thời gian giữa đầu triều Lê và thời Lê- Trịnh có lễ đã dùng lịch Đại thống do nhà MInh phát hành ít nhất cũng là từ năm 1540.
Về giai đọan từ thời Lê - Trịnh đến năm 1802 có một số ý kiến khác:
Qua khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (hiện lưu giữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) Pgs. Lê Thành Lân cho biết trong vòng 100 năm từ năm Giáp thìn 1544 đến năm 1643 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau 12 lần, trong đó có 11 ngày Sóc , 1 ngày nhuận và tết. Điều này khác với nhận định của Gs. Hoàng Xuân hãn cho rằng trước năm 1644 vào thời Lê Trinh lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc cùng dùng theo phép lịch Đại thống nên Giống nhau. Cũng theo Pgs. Lê Thành Lân từ năm Tân Mùi (1631)đến năm Tân Dậu (1801)lịch ở đàng trong trong cuốn Khâm Định vạn niên thư khác với lịch Trung Quốc 92 lần. lịch ở đàng trong tồn tại song hành với lịch Lê- Trịnh (hai lịch khác nhau 45 lần) và lịch Tây Sơn ( hai lịch khác nha 5 lần), mặt khác lịch thời Tây Sơn từ năm Kỷ dậu (1789) đến năm Tân Dậu (1801) khác với lịch nhà Thanh nhưng chưa có sử liệu chứng minh điều này. Lịch đàng trong lúc này có tên là lịch Vạn Toàn (hay Vạn Tuyền, phải đổi tên kị huý).
Từ năm 1813 đến năm 1945: Nhà Nguyễn dùng phép lịch thời Hiến ( giống như nhà Thanh)và gọi là lịch Hiệp Kỷ. Sau khi Pháp cai trị nước ta họ cũng lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhã Nguyễn vẫn soạn và ban lịch của mình ở Trung Kỳ.
Việc chuyển sang dùng phép lịch thời Hiến là do công của Nguyễn Hữu Thuận, khi đi sứ sang Trung Quốc ông đã mang về bộ sách có tên là lịch tượng khảo thành và dâng lên vua Gia Long, sau đó vua sai Khâm Thiên Giám dựa vào đấy để soạn lịch mới. Bộ sách về thiên văn và lịch pháp này do vua Khang Hy sai các lịch quan Trung Hoa cùng với các giáo sỹ Tây phương kết hợp biên soạn và vua Ung Chính sai đem khắc vào năm 1723. Vào tháng chạp năm 1812 lịch Vạn Toàn được đổi tên thành Hiệp Kỷ.
Từ năm 1946 đến năm 1967: Trong giai đọan này Việt Nam không biên soạn Lịch âm Dương mà các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ năm 1968 đến năm 2010: vào năm 1967 Nha khí tượng công bố Lịch âm Dương Việt Nam soạn theo múi giờ 7 cho các năm từ 1968 đến năm 2000 (Sách lịch Thế kỷ XX). Trước đó vào năm 1959 Trung Quốc cũng công bố Lịch âm Dương mới soạn theo múi giờ 8. Sau đó BAn lịch do K.s Nguyễn Mậu Tùng phụ trách tiếp tục biên soạn l Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010 in trong cuốn lịch n 1901-2010 (xuất bản năm 1992).
(Tổ biên soạn Nha khí tượng được chuẩn bị Thành lập từ năm 1959 dưới sự chỉ đạo cuẩ Gs. Nguyễn Xiển là giám đốc Nha khí tượng. Tổ làm nhiệm vụ quản lý lịch nhà nước và biên soạn, dịch thuật lịch Thiên văn Hàng hải cung cấp cho Hải quân. Đến năm 1967 tổ soạn được 33 năm Âm lịch, thi hành ở miền Bắc từ 1968. Lịch Thiên văn Hàng hải xuất bản đến năm 1989,1990 thì kết thúc. Năm 1979 theo quyết định của Chính Phủ, phòng Vật lý khí quyển và Thiên văn cùng bộ phận tính lịch chuyển từ tổng cục Khí tượng thuỷ văn sang viện khoa học Việt Nam. Bộ phận quản lý lịch nhà nước được đặt trụ sở thuộc Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam. Trong các năm từ 1968-1992 Ban lịch đã soạn thêm được một số năm Âm lịch và kết quả thành bảng lịch Việt Nam (1901-2010). từ năm 1993-1997 do thay đổi về tổ chức hành chính (Uỷ ban vũ trụ giải tán ) nên Ban lịch (thực tế chỉ còn một vài người) chuyển về văn phòng thuộc trung tâm KHTN&CNQG. Ngày 16/4/1998 Giám đốc Trung tâm KHTN&CNQG (gọi tắt là ban lịch nhà nước) trực thuộc Trung tâm thông tin Tư liệu.)
Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự trong xã hội, ngày 8-8-1967 chính phủ đã ra quyết định số 121/CP do cố thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (ngày 14-10-2002 Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số 134/2002/QĐ-TTg sửa một vài câu chữ trong Điều 1 của QĐ 121/Cp cho chính xác hơn nhưng về cơ bản tinh thần của QĐ 121/CP không có gì thay đổi). Theo QĐ 121/Cp giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7 bên cạnh Dương lịch (lịch Gregorius) được dùng trong các cơ quan với nhân dân thì Âm lịch vẫn dùng để tính năm tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ tết cổ truyền. QĐ 121/Cp cũng nêu rõ Âm lịch dùng ở Việt Nam là Âm lịch được tính theo giờ chính thức của nước ta chư Chỉ thị số 354/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư liên bộ số 88-TT/LB ngày 23-11-1970 của Bộ Văn Hoá và Nha Khí tượng, Quyết định 129-CP ngày 26-3-1979 của Hội đồng Chính phủ…
Những thay đổi về giờ pháp định trong Thế kỷ 20 ở Việt Nam:
Mặc dù hầu hết đát liền nước ta nằm dọc theo múi giờ 7 (kinh tuyến 105 độ đông đi qua gần Hà Nội) nhưng trong Thế kỷ 20 này giờ pháp định của nước ta đã bị nhiều lần thay đổi) theo ý định của chính quyền thực dân và hà đương cục. sự biến động chính trị trong Thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hay từng miền bị thay đổi tới 10lần. Sau đây là các mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở nước ta kể từ khi hình thành khái niệm này:
Ngày 1/7/1906
Khi xây dựng xong Đài thiên văn Phủ Liễn, Chính quyền Đông dương ra Nghị định ngày 9/6/1906 (Công báo Đông Dương ngày 18/6/1906)ấn định giờ pháp định cho tất cả các nước Đông Dương theo kinh tuyến đi qua Phủ Liễn (104°17’17” đông Paris) kể từ 0 giờ ngày 1/7/1906
Ngày 1/5/1911
Sau khi nước Pháp ký Hiệp ước quốc tế về múi giờ, theo nghị định ngày 6/4/1911 (Công báo Đông Dương ngày 13/4/1911-trang 803) quy định giờ mới lấy theo múi giờ 7 (tính từ kinh tuyến đi qua Greenwich) cho tất cả các nước Đông Dương bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/5/1911.
Ngày 1/1/1943
Chính phủ Pháp ra nghị định ngày 23/12/1942 (Công báo Đông Dương ngày 30/12/1942)liên kết Đông Dương vào múi giờ 8 và do vậy đồng hồ được vặn nahnh lên 60 phút vào lúc 23 giờ ngày 31/12/1942.
Ngày 14/3/1945
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và buộc các nước Đông Dương theo múi giờ của Tokyo (Nhật Bản) tức là múi giờ 9 nên giờ chính thức lại được vặn nhanh lên 1 giờ vào 23 giờ ngày 14/3/1945.
Ngày 2/9/1945
Sau cách mạng tháng Tám Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (Sắc lệnh số năm/SL Của Bộ nội vụ).
Ngày 1/4/1947
Theo nghị định ngày 28/3/1947 của chính quyền thực dân (Công báo Đông Dương ngày 14/10/1947) thì trong các vùng bị tạm chiếm ở Việt Nam, ở Lào và Campuchia giờ chính thức là múi giờ 8 kể từ ngày 1/4/1947. Tuy nhiên trong các vùng giải phóng vẫn giữ múi giờ 7 và sau Hiệp định giơnevơ các vùng giải phóng ở miền bắc cũng theo múi giờ 7 (Hà nội từ 10/1954 và Hải phòng cuối tháng 5/1955); riêng Lào trở lại múi giờ 7 vào ngày 15/4/1955.
Ngày 1/7/1955
Miền Nam Việt Nam trở lại múi giờ 7 từ 0 giờ ngày 1/7/1955.
Ngày 1/1/1960
Chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 362-TtP ngày 30/12/1959 quy định giờ chính thức của Nam Việt Nam là múi giờ 8, đồng hồ phải vặn nhanh lên 1 giờ kể từ 23 giờ đêm ngày 31/12/1959 (tức 0 giờ ngày 1/1/1960)
Ngày 31/12/1967
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Quyết đinh 121/CP ngày 8/8/1967 khẳng định giờ chính thức của nước ta là múi giờ 7 kể từ 0 giờ ngày 1/1/1968.
Ngày 13/6/1975
Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, chính phủ cách mạng Lâm thời đã ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7 và giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.
=> Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc |
![]() |
Hoàng kim thạch |
![]() |
Ngải cứu |
![]() |
Cây gừng |
Hiện tượng: Một bên vách tường của cửa phòng ngủ này cắt ngang giữa cửa phòng ngủ đối diện, không tốt.
Phương pháp hóa giải: Trên hai cửa phòng này treo rèm vải dài và chỗ bị cắt treo chuỗi đồng tiền Lục Đế để hóa giải. Cũng có thể trên ngưởng cửa hai phòng này đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải sát khí lẫn nhau. Chiếu dài của rèm vải phải vượt, quá 2/3 chiều cao cửa là thích hợp. chất liệu rèm phải là chất liệu không nhìn xuyên qua được, không được là vải rèn hay rèm chuồi hạt.
Dưới góc độ nhân diện học, rất có thể chủ nhân có nốt ruồi ở má với tên gọi "hoành đao đoạt ái", tựa như nhát đao cắt đứt ái tình, khiến mối lương duyên tan vỡ.
Vị trí của nốt ruồi này nằm ngay giữa má, thẳng phía dưới mắt, có thể ở má bên trái hoặc bên phải.
Nốt ruồi này biểu hiện cho người bạn trai (bạn gái) hoặc vị hôn phu (hôn thê) bị người thứ 3 đoạt lấy ngay dưới mắt mình. Trong trường hợp có mối tình tay 3, thì người có nốt ruồi này sẽ chịu thiệt thòi.
Má tượng trưng cho quyền lực. Nốt ruồi nằm ngay trên má biểu hiện quyền lực và sức mạnh bị suy giảm và hủy hoại trong một mối quan hệ nào đó. Theo đó, cũng mất đi sự tôn trọng và quan tâm của đối phương.
Nốt ruồi dạng này càng đặc biệt hơn khi đi kèm với một đường chỉ ngang mỏng xuyên qua cung phu thê, vốn biểu hiện cho việc ngoại tình. Nếu nam giới có thêm lông mày rậm rất có khả năng một người bạn thân sẽ trở thành kẻ thứ 3 phá vỡ và chia rẽ mối quan hệ tình cảm của họ với bạn gái.
Ngoài ra, chủ nhân của nốt ruồi này có khả năng bị mất quyền kiểm soát hoặc mất uy tín và sự tín nhiệm của người khác.
Bính Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CẤN.
Trực THÀNH
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Khắc THIÊN THƯỢNG HỎA Con nhà HẮC ĐẾ (cô quạnh) Xương CON CHUỘT.
Tướng tinh CON RẮN Cậu Tài
Cậu Quý độ mạng
Luận xem số mạng tuổi này,
Bính Tý mạng Thủy nước đầy tràn sông.
Trai mà sanh đặng Thu Đông,Như cây gặp nước, như rồng gặp mây.
Bính Tý tánh ở hiền lành,Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên, Đổi thời không khả nghịch liền tự nhiên.
Một thân thất ý đủ điều,Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành.
Tới hồi vận giữa hiển vinh,Căn nguyên tất phát môn đình đổi thay.
Tuổi già vận đến càng hay, Vinh hoa phú quý vàng son cửa nha.
Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy. Số tuổi được nhiều thành công trong cuộc sống, hay thay đổi ý định, không bao giờ có được một cuộc sống yên lặng, mà tự tạo ra nhiều sóng gió. Cuộc đời có lắm thương đau. Về mặt xã hội giữ được tiếng tăm và địa vị khiêm nhượng, ham thích những cái gì xảy ra thực tại hơn là những chuyện viễn vông, sự nghiệp và cuộc đời vẫn đi đôi với nhau, tạo được những điểm đặc biệt trong cuộc sống, cấu tạo được một hoàn cảnh khả dĩ làm cho cuộc sống có phần chắc chắn. Nhưng cuộc đời chưa chắc vào ở mức độ đó mãi. Sẽ còn thay đổi và luân chuyển mãi cho đến hết cuộc đời, mà không bao giờ có sự trầm lặng trong sự sống. Tuổi Bính Tý có nhiều phúc đức trong lớp tuổi trung bình, nhưng sau cùng qua thời gian từ 50 đến 52 thì lại có nhiều việc làm cho có nhân quả. Tuổi Bính Tý chỉ hưởng thọ trung bình từ 55 đến 60 tuổi. Nhưng vào tuổi 52 thì mắc bệnh thần kinh có thể không hưởng thọ lâu hơn tuổi dự định, nhưng làm phúc đức ăn ở hiền lành thì may ra hưởng thọ đầy đủ theo số Tử Vi.
Trong cuộc sống tuổi Bính Tý về vấn đề tình duyên cũng có nhiều sôi động, có nhiều thay đổi sầu thương, ít khi tìm được sự êm ấm vào tuổi nhỏ. Tình duyên vào lúc nhỏ thường ở trong sự tạm thời, không có một quyết định dứt khoát, cho đến khi qua tuổi 30, mới tạo được nguồn hạnh phúc chân chính. Số về vấn đề tình duyên rất khe khắt, không tạo được một cuộc sống ý hiệp tâm đầu, nếu có cũng chỉ là bề ngoài; nhưng bên trong vẫn có sự nghi kỵ hay thường có những bất đồng ý kiến. Đó là số của cá nhân. Nhưng nếu gặp được lương duyên có sự trùng hợp về tuổi tác và sự hòa hợp về tinh thần thì tình duyên mới có được sự ấm êm và hạnh phúc. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc lương duyên thường hay thay đổi bất thành, đó là những tháng 1 và tháng 7 trong cuộc đời. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy trong cuộc đời thì bạn là người có nhiều vợ hay cũng quá đau khổ vì đ àn bà nhiều hơn, đó là những tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9.
Về việc công danh cũng có nhiều thay đổi quan trọng, tuy nhiên số có nhiều phúc đức, nên chuyện công danh thường được lên cao mà ít khi có xuống thấp. Tuổi nhỏ thường có sự thay đổi công danh. Nhưng lớn thì tạo được nhiều tên tuổi. Cuộc đời hay đẹp về bước đường công danh, có thể tạo nên danh phận một cách rất dễ dàng, ít khi gặp sự khó khăn. Về gia đạo thì cũng hay có sự buồn phiền, số không mồ côi sớm, không nhờ thân tộc họ hàng trong việc tạo nên danh phận, mà nhờ bè bạn giúp đỡ nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng có thể nhờ sự trùng hợp của tuổi vợ chồng mà cuộc đời gặp nhiều may mắn hơn nữa. Tuổi Bính Tý trong tương lai có một sự nghiệp vĩ đại, đi song song với công danh, nhờ ở sự sáng suốt và lòng nhẫn nại, mà sự nghiệp thêm phần vững chắc, tiền bạc khá dư dả, tuy cũng có một thời gian long đong nhưng cuộc sống hoàn toàn ít khi bị khổ cực về tâm trí cũng như về xác thịt. Công danh và sự nghiệp có trở ngại vào khoảng tuổi 31 và 32, nhưng vào tuổi 33 thì hoàn toàn làm nên sự nghiệp bởi sự tiến triển của công danh, có phần chắc chắn và đồng đều, tiền bạc dồi dào, hạnh phúc ấm êm, cuộc sống thêm phần sáng sủa hơn.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
Trước khi muốn làm ăn hay phát triển công việc, muốn cho công việc được chắc chắn mà không sợ thất bại, bạn cần lựa tuổi để hợp tác, hùn hạp, hay cùng lo toan công việc; trong sự lựa chọn tuổi tác cũng phải tùy theo hoàn cảnh và trường hợp xảy ra, cũng như trong việc hôn nhân, cần lựa người hiền đức; vậy bạn cần lựa cho đúng những tuổi này mà hợp tác thì chắc chắn sẽ thành công, đó là những tuổi: Bính Tý, tuổi Tân Tỵ, tuổi Nhâm Ngọ và tuổi Ất Dậu, những tuổi này có thể giúp bạn làm ăn được phát đạt thêm nhiều kết quả và tài lộc vượng phát, không sợ thất bại.
Bạn kết hôn với tuổi Bính Tý, có những trường hợp sau đây: Tuổi Bính Tý giúp bạn thành công về mặt tiền tài, vợ chồng hòa thuận. Kết hôn với tuổi Tân Tỵ: Lúc đầu hao tốn nhiều, làm ăn tuy có tiền nhưng sau mới khá được, nhưng hào tài thường hay luân chuyển, con cũng hiếm muộn, vợ hay đi nhưng thường giúp chồng trên bước công danh. Kết hôn với tuổi Nhâm Ngọ: Thời gian đầu nghèo thiếu, nhưng sau được hiển vinh, tánh chồng vợ thường có sự xung khắc, nên kiên nhẫn thì thành công to, con rất hiếm muộn. Kết hôn với tuổi Ất Dậu: Tuổi nầy hoàn toàn tốt đẹp trong mọi lãnh vực, hào tài nhiều, danh vọng cao, con cái tốt, giúp cho cuộc đời đầy đủ êm ấm, hạnh phúc. Nhưng nếu đã lỡ thương yêu nhau nhằm những tuổi nầy thì bạn chỉ có một cuộc sống trung bình, không dư dả và cũng không thiếu kém, đó là những tuổi: Giáp Thìn và Mậu Dần. Những tuổi này cũng có sự trùng hợp, nhưng không làm cho cuộc sống được phát đạt trên mọi mặt. Khi gặp những tuổi nầy, thì cuộc đời bạn sẽ có nhiều buồn khổ hơn, sống trong cuộc thiếu thốn triền miên, vì tuổi hai người không có phúc đức, nên ít hưởng lộc. Đó là các tuổi: Mậu Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn. Những năm mà bạn có nhiều đại kỵ, không nên lựa chọn hôn nhơn, vì sự lựa chọn hôn nhơn sẽ đem lại nhiều lo âu, đau buồn mà còn làm cho cuộc sống thiếu cả sự sống, đó là những năm mà tuổi bạn ở vào 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi. Nếu bạn phạm vào những tuổi trên, bạn đã có hôn nhân, bạn phải lâm vào tình trạng xa vắng, hay gặp nhiều buồn phiền. Bạn sanh vào những tháng này có phần đa thê và hay có sự đau khổ về đ àn bà, đó là những bạn sanh vào tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9. Nếu bạn lỡ sanh vào những tháng kể trên sẽ có nhiều vợ và hay khổ tâm vì đàn bà.
Sự sống lứa đôi là một điều quan trọng, nó liên quan mật thiết đến cuộc sống hằng ngày và cho cả một cuộc đời. Những tuổi mà không bao giờ có thể kết hợp lương duyên và có thể xảy ra nhiều đau buồn nhất, đó là những tuổi được kể ra sau đây: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Tân Mùi, Quý Mùi. Tuổi Đinh Sửu, tuổi này ở với nhau sanh cảnh biệt ly; Kỷ Mão, sự chết chóc trong vòng một năm (tuyệt mạng); Tân Mùi (biệt ly); Quý Mùi (biệt ly). Những tuổi trên đây không làm cho cuộc sống đầy hạnh phúc mà trái lại có nhiều đau buồn hơn, nên tránh được là một điều tốt. Tuổi Bính Tý có nhiều tuổi đại kỵ, nếu gặp trong sự hợp tác làm ăn hay trong việc lương duyên, nên xem sao hạn cho cả hai người mà cúng vái Phật Trời hay cầu nguyện cho được phúc đức. Không nên bỏ qua sẽ có ảnh hưởng lớn. Thí dụ như năm Bính Ngọ, tuổi Bính Tý gặp sao Thái Bạch hay Thiên Tinh thì cúng ngày 15 dùng 7 ngọn đ èn, 7 chén nước lã lạy về hướng Tây. Cách cúng vái: Đốt nhang ba cây, quỳ trước bàn cúng, vái tên họ, tuổi, sao gì? Niệm ba lần: Nam Mô A Di Đà Phật – Nam Mô Cửu Diện Quân Cập Đại Tiểu hạn tôn thần quang giảng đạo trần chứng minh. Cách cúng sao: Bình bông tươi, nước dừa hay nước trà, cháo trắng, nhang đ èn. Và tùy theo năm mà cúng, vì mỗi năm sao hạn đều thay đổi.
Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy, tánh tình hiền hòa và rộng rãi. Tuy nhiên trong cuộc đời có nhiều sự khổ tâm không ít về cuộc sống, những năm khó khăn nhất trong cuộc đời hao tiền tốn của, đau bịnh liên miên hay thất bại công việc đến nỗi buồn chán nhất, đó là những năm bạn ở vào những tuổi: 24, 27, 33, 38, 45. Những năm này bạn nên cẩn thận, dè dặt kẻo gặp nhiều rắc rối cho cuộc đời bản thân hay cả cuộc sống.
Mạng Thủy xuất hành vào những ngày chẵn, nhưng lựa giờ lẻ tháng chẵn và có thể xuất hành như trên trong suốt cuộc đời luôn luôn được nhiều may mắn. Ngoài những sự trùng hợp trên thì ít khi có được những thành công vĩ đại.
Từ 31 đến 33 tuổi: Những năm này bạn gặp sao hạn, có thể làm cho bạn có nhiều thiệt hại, có thể bị đau bịnh hao tài tốn của, hay gặp tai nạn bất ngờ, nhưng song song bạn có nhiều thành công về tài lộc, tình cảm có phần vượng phát mạnh mẽ, công việc làm ăn được trôi chảy hoàn toàn, nhưng tiền vô ra bất thường, ít khi gặp cảnh túng quẫn. Cố gắng vượt qua ba năm nầy.
Từ 34 đến 37 tuổi: Vượt được qua tuổi 33 thì công danh có phần lên cao tột độ, tiền bạc ở những năm nầy rất dễ chịu, làm đâu được đó, số phú quý nhưng lại gặp nhiều tai nạn hay những trở lực trong cuộc đời. Ảnh hưởng của cuộc sống liên quan đến công danh. Thời gian ba năm nầy hoàn toàn tốt đẹp.
Từ 38 đến 41 tuổi: Bạn vẫn hưởng một cuộc sống hay đẹp hoàn toàn cho đến tuổi 41 thì lại có sụp đổ đôi chút, năm nầy cũng nên đề phòng rủi ro, hay tù tội, bạn nên cẩn thận vào tuổi 41 hơn những năm khác. Ngoài sự hao tài tốn của, còn có sự sụp đổ đôi chút về công danh. Ngoài tuổi 41, những năm khác trung bình.
Từ 42 đến 47 tuổi: Vượt được tuổi 41 bước qua 42 và cho đến 47, gia đạo êm ấm, việc làm ăn phấn chấn, mọi công việc đều có thể tiến triển khả quan, chỉ có những chuyện xảy ra nhỏ nhặt về con cái, gia tộc mà thôi. Ngoài ra vào tuổi 45 có tang khó trong gia tộc.
Từ 48 đến 52 tuổi: Bốn năm sau cùng của cuộc đời lại xảy ra nhiều hoàn cảnh phân ly. Sự đau buồn lặng đi trong tâm não, mang nhiều chứng bệnh nan y, khó thoát được qua tai nạn, cảnh biệt ly như gần kề trong cuộc sống. Đến những khi nầy, nên vái Trời Phật, nếu có đạo thì nên cúng kiến cầu nguyện cho được phúc đức hy vọng sống thêm.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
![]() |
Người tuổi Thìn mệnh Thổ là những người sinh năm Bính Thìn 1916, 1976...
Với vẻ ngoài thanh lịch, họ dễ tạo được thiện cảm với người xung quanh, đặc biệt là người khác giới. Nụ cười luôn rạng ngời trên môi và ánh mắt thân thiện cũng là ưu thế của họ trong giao tiếp. Người tuổi Thìn sống bao dung, chân thành và vì vậy bạn bè, người thân luôn tìm đến họ để sẻ chia nỗi niềm tâm sự.
Người tuổi Thìn mệnh Thổ biết tiếp thu ý kiến của người khác nhưng khi cần thiết, họ rất kiên quyết bảo vệ lập trường của mình. Cũng giống những người tuổi Thìn thuộc các mệnh khác, người tuổi Thìn mệnh Thổ có ý chí mạnh mẽ và tinh thần không ngại khó khăn, thử thách. Họ còn là người khá nhanh nhạy trong việc nhìn nhận và giải quyết vấn đề.
Nếu không được sao tốt tương trợ, người tuổi Thìn mệnh Thổ sẽ phải vượt qua nhiều khó khăn để xây dựng sự nghiệp.
Tuy nhiên, nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, con đường công danh của họ sẽ rất thuận lợi, cuộc sống gia đình hạnh phúc.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
sinh, từ thuở trung niên mới có thể khá giả.
Đàn bà có tướng mặt hình chữ Do thì hay gặp cảnh khốn khổ. Nếu ngũ quan tương xứng tốt và cân xứng thì con cháu làm nên. Nếu chỉ có vẻ kiều mỹ bề ngoài mà không có vẻ oai nghiêm thì phúc lộc chỉ ở mức bình thường.
Khuôn mặt hình chữ Giáp là phần trán nở rộng và cao, cằm hẹp và dài, hình thể ẻo lả tạo thành tướng cách hữu thiên vô địa. Người có tướng này phần lớn không đủ tài lộc. Nếu thanh nhiều trọc ít thì từ nhỏ đến 25 tuổi thường được hưởng kiếp sống thanh nhành nhưng không tránh khỏi cảnh tiền phú hậu bần. Nếu ngũ quan khuyết hãm thì vãn cận lại càng thê thảm.
Khuôn mặt hình chữ Thân có phần trán trên nhỏ gọn, dưới nở, hai gò má và mi nở cả chiều ngang và chiều dọc, phần cằm hẹp mà dài. Người có khuôn mặt chữ Thân tuổi trẻ gặp nhiều vất vả. Nếu ngũ quan toàn hảo, thần thái thanh nhã thì có phần phú quý, đa thọ nhưng về già cô độc.
Khuôn mặt chữ Điền là khuôn mặt có phần trán vuông, nảy nở, phía cằm đầy đặn, vuông vắn. Người có khuôn mặt chữ Điền có vận mệnh khả quan từ trẻ đến già. Nếu có ngũ quan toàn hảo, khí chất siêu phàm thì quý hiển vô cùng.
Người có khuôn mặt chữ Điền nhưng có bộ vị ngắn, nhỏ, thân hình lùn và mập, sắc da trắng bệch thường tổn thọ. Nếu ngũ quan tuy không khuyết hãm nhưng không toàn mỹ thì chỉ có chút ít của cải.
Khuôn mặt hình chữ Đồng có tam đình trên khuôn mặt đều cân xứng, nảy nở, không có bộ vị nào hỏng về hình thức và thực chất. Đây được coi là khuôn mặt thượng cách. Đàn ông có khuôn mặt chữ Đồng thì ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già đều hanh thông về mọi phương diện.
Đàn bà mà có tướng mặt chữ Đồng thường suốt đời được hưởng hạnh phúc, không biết đau khổ là gì.
Khuôn mặt chữ Vượng có thiên đình nảy nở cân xứng, trung đình vuông vức nhưng trơ xương, hạ đình nảy nở nhưng thịt ít, xương nhiều. Người có gương mặt chữ Vượng thường tài lộc bất toàn. Nếu ngũ quan ngắn thì có danh không có lộc, hoặc có lộc lại vô danh khó có danh lợi song toàn.
Người có khuôn mặt tròn, mắt tròn, tay tròn và miệng gần như tròn được gọi là khuôn mặt chữ Viên. Người có khuôn mặt chữ Viên mà da trắng, khí sắc trì trệ thì thường chết yểu. Nếu ngũ quan phá, liệt cách thì đời sống bệnh tật, vất vả.
Thiên đình cao mà hẹp, phần trung đình ngắn và thiếu nảy nở, phần hạ đình dài mà hẹp gọi là khuôn mặt chữ Mộc. Đây là tướng hạ cách. Nếu ngũ quan không lệch lạc, phá hãm thì thuở nhỏ có thể an nhàn nhưng về sau dần lụi bại. Đàn bà có tướng mặt như trên thì hình phu khắc tử nhưng lại rất thọ. Sự khắc chồng con và cô độc nặng nhẹ tùy theo thần khí và ngũ quan tốt xấu.
Khuôn mặt không cân xứng, thiếu ngay thẳng, ngũ quan lệch lạc thì gọi là khuôn mặt chữ Dung. Người có khuôn mặt này hình thê khắc tử, cơ khổ lênh đênh đến già.
Nếu khuôn mặt phần bên trái vuông vắn, đều đặn và nảy nở, phần cằm đầy và rộng nhưng phần lưỡng quyền thấp và hẹp gọi là khuôn mặt hình chữ Phong. Nếu thân thể hư nhược, ngũ quan bình thường thì người có khuôn mặt chữ Phong tạm đủ ăn đủ mặc, trung niên trắc trở, dần suy sụp. Thân thể hư nhược nhưng ngũ quan toàn hảo thì có thể tạm gọi là phú quý nếu thân cận với quý nhân.
>> Xem TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Những trường hợp mộng du kì lạ nhất thế giới.
Sự thật 1/3 dân số sẽ gặp mộng du ít nhất 1 lần trong đời.
Mộng du là hiện tượng khá kì bí và khi mộng du con người có thể làm những việc mà bình thường không làm được.
Trong trạng thái không có ý thức, người bị mộng du vẫn có thể nói chuyện, điều khiển tay chân của mình để thực hiện một số hành động kỳ quặc hoặc thậm chí phức tạp mà trong lúc tỉnh táo chưa chắc họ có thể làm được. Một cô gái không biết trèo tường có thể vắt vẻo trên bức tường mà không ngã, hay anh chàng có thể lái xe trong lúc nửa tình nửa mê mà không hề hấn gì…
Phá án giết người và phát hiện ra mình là hung thủ.
Một thám tử người pháp thế kỉ XIX Robert Ledru được mời điều tra vụ giết người ở bãi biển vì cảnh sát đã bó tay. Bằng chứng còn sót lại chỉ là dấu chân hung thủ và vỏ đạn. Hung thủ dùng loại vỏ đạn y như vị thám tử và thiếu con chân cái ở bàn chân phải y như Ledru.
Ông cũng nhớ lại chuyện hôm trước ngủ dậy và đôi tất bị ướt. Khám phá ra mình chính là hung thủ, Ledru đến trình bày giả thuyết với cảnh sát, cảnh sát đã bắt giam ông vào ngục để theo dõi và Ledru đã bắn viên cai ngục khi mộng du.
Ông được xử vô tội nhưng do thấy quá nguy hiểm nên cảnh sát đã đẩy ông đến một hoàng đảo hoang vu để ông sống nốt quãng đời còn lại.
Suýt bị cá sấu ăn thịt vì mộng du.
James Currens (Florida, Mỹ) “sống chung” với chứng mộng du trong một thời gian dài. Cuộc phiêu lưu kinh dị nhất của ông xảy ra ở tuổi 77.
Năm 1998, Currens ra khỏi nhà trong cơn mộng du. Vẫn cầm theo chiếc ba toong, ông bước thẳng xuống cái hồ ở gần đó. Ông tỉnh dậy thì bùn đã ngập tới ngực. Song đó chưa phải là điều đáng sợ nhất. Currens thấy một bầy cá sấu đang vây quanh. Ông dùng cây gậy để xua chúng ra xa, đồng thời gào lên cầu cứu.
Một người hàng xóm nghe thấy và gọi cảnh sát ngay lập tức. Cảnh sát phải sử dụng đèn chiếu để đuổi bầy cá sấu, giải cứu Currens. May mắn thay, ông chỉ hứng chịu vài vết trầy nhỏ khi rơi xuống hồ.
Thoát tội cưỡng hiếp vì mộng du.
Janluedecke tham dự bữa tiệc vào năm 2005 và ngủ quên sau khi tiệc tàn. Anh ta tỉnh dậy khi có 1 phụ nữ la hét và xô anh ta ra. Jan bị buộc tội cưỡng hiếp cô gái, anh khẳng định mình làm chuyện đó khi đang mộng du.
Các bác sĩ từng chữa bệnh cho anh đã xác nhận anh mắc chứng sexsomnia. Thẩm phán nghi ngờ điều này dù các bác sĩ ủng hộ Jan. Đến khi 4 người bạn gái cũ của Jan đến xác nhận anh từng làm chuyện tương tự như vậy anh mới được xử vô tội.
Jan mắc hộ chứng sexsomnia có thể có ở cả nam lẫn nữ, người mắc hộ chứng này có thói quen quan hệ tình dục trong khi ngủ mà không hề hay biết.
Giết bạn gái khi mộng du
Stephen Reitz bị buộc tội giết cô bạn gái anh yêu 10 tháng, Eva Marie Weinfurtner trong kỳ nghỉ ở Catalina. Người ta thấy xác của Eva với tình trạng sọ nứt, khuỷu tay vỡ, cổ tay và vai, quai hàm vỡ ba chỗ, cùng với một vết đâm ở cổ.
Reitz khai với cảnh sát rằng, anh nằm mơ anh đang đánh nhau với kẻ trộm khi giết bạn gái. Nghi phạm cũng thú nhận anh ta uống rượu, sử dụng cocaine vào đêm đó. Reitz nhận mức án chung thân và có cơ hội tại ngoại sau 25 năm.
>> Xem thêm TUỔI XÔNG ĐẤT 2016!
>> Xem thêm NGÀY TỐT XẤU 2016!
Theo chuyện lạ thế giới.
![]() |
► Cùng bói cung hoàng đạo để tìm những điều thú vị về bạn |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
Trong tử vi thì Sao Thiên đồng chủ về phúc thọ, hóa khí là phúc, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa; lại chủ về mệnh giỏi văn chương, âm nhạc nhưng khả năng truyền đạt không tốt.
Khi thiếu niên hoặc về già chủ về muôn sự cát lợi, được cha mẹ yêu quý, che chở từ nhỏ, an hưởng tuổi già, con cái hiếu thuận, cuộc sông thoải mái.
Trong Lá số Tử vi, Thiên đồng ưa nhất gặp Thái âm ở chỗ Tý, là cách cục Thủy trừng quế ngạc, chủ về làm quan thanh liêm, có bất động, có cha mẹ mẫu mực, mệnh nữ nên làm vợ lẽ. Nếu Thiên đồng, Thái âm ở Ngọ thì mệnh nam đào hoa, mệnh nữ có cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.
Thiên đồng ưa tọa cung Điền trạch, có tiền tài.
Thiên đồng, Thiên lương tại Thân, Dần, mệnh nữ nên làm vợ lẽ.
Mệnh nữ có Thiên đồng tọa Mệnh rất đáng yêu, được chồng yêu chiều.
Thiên đồng và Đà la đồng cung dễ phát phì.
Thiên đồng và Dương nhẫn đồng cung dễ bị thương bên ngoài.
Thiên đồng tọa cung Mệnh, cung Thân trong lá số tử vi , dù nam hay nữ đều có khuyết điểm là quá tùy tiện, không biết phân biệt chính tà phải trái.
Ngưòi có Thiên đồng tọa thủ cung Mệnh nên mập không nên gầy, mập sẽ có phúc, gầy thì mệnh khổ; cũng không thể quá mập. Mệnh nữ có tư tưởng cam chịu, phó mặc cho sô” phận.
Thiên đồng ưa tọa cung Phúc đức, chủ về hưởng phúc.
Thiên đồng tọa cung Phu thê hoặc tổ hợp sao Thiên đồng như Thiên đồng, Thiên lương; Thiên đồng, Thái âm; Thiên đồng, Cự môn tọa cung Phu thê nên kết hôn muộn.
Trong tử vi Thiên đồng không ưa đồng cung vối Cự môn, dù tọa cung nào đều không cát lợi, chủ về nội tâm đau khổ, tinh thần dày vò, u uất.
Tinh tế cỗ Bắc
Mâm cỗ vùng đồng bằng Bắc bộ thường tuân thủ đúng bài bản. Mâm cỗ thường gồm bốn dĩa và bốn bát không kể những dĩa xôi và các bát nước chấm. Bốn dĩa gồm hai dĩa thịt có thể là gà và heo, một dĩa nem thính, một dĩa giò lụa. Có thể thêm một dĩa giò mỡ (giò thủ hoặc thịt đông). Bốn bát gồm bát ninh, bát măng hầm giò heo, bát miến, bát mộc. Đây là những yêu cầu căn bản của mâm cổ. Tuỳ gia đình có thể thêm những món như nộm, xào, ngày tết còn có món đặc trưng như bánh chưng, dưa hành. Tráng miệng có mứt sen, quất, gừng, chè kho.
Chăm chút cỗ Trung
Những món trên mâm cỗ miền Trung thường chú trọng đến sự chăm chút và tính bảo quản do khí hậu khắc nghiệt. Những món nguội như chả phụng, nem, tré. Gỏi có gà bóp rau răm; gỏi trái vả; măng, mít trộn. Món nóng có nem lụi, bò nướng sả ớt. Những món nguội lưu trữ được dài ngày thường được cuốn với bánh tráng, dưa kiệu.
Món chính để ăn với cơm có món quay, rán từ heo, gà. Món nấu có bò nấu thưng, củ cải kho nạc heo, thịt nạc rim, hon… Và thường không thiếu món canh giò heo hầm, gà tiềm, bánh tét, dưa món. Và nhiều món tráng miệng từ mứt; bánh có bánh tổ, bánh in, bánh thuẩn, bánh bột sắn, bánh ít, bánh đậu xanh sấy, bánh bảy lửa, cốm…
Phong phú cỗ Nam
Mâm cỗ tết miền Nam thường có thịt kho nước dừa và canh khổ qua.
Với món nguội có nem, bì, lòng heo khìa, giò heo nhồi, lạp xưởng tươi, gỏi ngó sen… Riêng gỏi gà luộc xé phay trộn củ hành, kiệu là món thường có trên mâm cỗ. Các món ngâm chua như lỗ tai heo ngâm giấm, tôm khô củ kiệu cũng được ưa chuộng. Món chính để ăn cơm như bò nấu đun, gà rim nước dừa tươi. Đặc biệt, hầu như khắp nơi ở Nam bộ nhà nào cũng có nồi thịt kho nước dừa ăn với dưa giá và canh khổ qua. Hai món này luôn có trong mâm cơm cúng ông bà ngày 30 tết. Theo dân gian thì “khổ qua” là món ăn để mong ước sự cơ cực qua đi cho năm mới tốt đẹp hơn. Xét thực tế đây là món ăn mát, giải mỡ, lưu trữ lâu ở thời tiết nóng miền Nam. Và thường phải có món bánh tét nhân mỡ ăn với củ cải ngâm nước mắm.
Tráng miệng có những loại mứt trái cây như mứt dừa, me, mãng cầu, gừng dẻo, củ năn, thèo lèo, kẹo chuối, xôi vị, bánh bò, bánh ít, bánh tét ngọt…
Cân bằng âm dương, thể hiện ngũ hành
Nhìn chung mâm cỗ ngày tết ba miền có những nét riêng thay đổi theo thổ nhưỡng, tập quán. Nhưng riêng bánh chưng, bánh tét thì không có sự khác biệt về nguyên liệu.
Cỗ tết, luôn có thịt mỡ, tinh bột, bánh mứt nhiều nên vị ngọt béo hơn hẳn ngày thường. Đồng thời mùa tết không khí cũng hanh khô. Do đó cách ăn ở ba miền đều thể hiện sự cân bằng âm dương, kèm những món nhiều đạm mỡ là dưa hành, cải chua, củ kiệu, dưa giá… nhằm làm bớt sự ngán ngậy.
Đặc biệt còn có thức ăn uống mang tính tiêu thực tốt như rượu nếp cẩm của miền Bắc, cơm rượu của miền Trung và Nam. Sự phối hợp nguyên liệu nóng và nguyên liệu mát cũng là nghệ thuật cân bằng âm dương trong món ăn ngày tết. Chẳng hạn, cá lóc kho kèm thịt heo (cá nước – âm hơn, heo trên cạn – dương hơn). Thịt, cá (dương hơn) được xào với rau củ (âm hơn).
Nhìn mâm cỗ tết Việt, màu sắc hài hoà. Rau quả xanh tươi của hành mộc thể hiện sự tươi mới mùa Xuân. Màu đỏ – hành hoả, màu của thịt thà, nem chả mang đầy năng lượng cho cuộc sống. Màu vàng – hành thổ từ sắc vàng như bánh mứt thể hiện sự an lành. Màu trắng – hành kim của các món bún, cơm, xôi, bánh tráng tượng cho sự vững chắc, bền bỉ. Và màu nâu sẫm, màu đen – hành thuỷ của các loại nấm, tóc tiên… tượng trưng cho sự may mắn, hanh thông. Màu sắc ngũ hành có đủ trong mâm cỗ tết thể hiện sự ước mong điều tốt lành trong năm mới.
Trich tu: SGTT.VN
Các cô gái là chúa hay mơ, thích thả “thính” nhiều chàng, chàng nào quan tâm cũng không từ chối, một lúc cùng quan tâm tới mấy chàng cũng không thấy có lỗi. Nhưng thực ra, với những chòm sao nữ đào hoa dưới đây, họ cũng có lý do rất chính đáng để phải làm như vậy đấy. Cùng lắng nghe tâm sự để thấu hiểu nỗi lòng các nàng ấy nhé.
![]() |
![]() |
Phòng ngủ thường được thiết kế ở chính giữa ngôi nhà bởi nó là điểm ngưng kết khí, là chỗ cốt lõi của vượng khí cả ngôi nhà.
Bao quanh cơ thể chúng ta là một trường năng lượng. Độ mạnh yếu của trường năng lượng này ảnh hưởng trực tiếp tới tác dụng mà nó bảo vệ cơ thể lớn hay nhỏ. Bởi vậy bạn cần phải duy trì cơ thể mình có trường năng lượng mạnh nhất.
Nếu trổ cửa sổ phòng ngủ quá lớn, sẽ khiến vượng khí thoát ra ngoài, khi nghỉ ngơi trong phòng bạn sẽ bị mất vượng khí, hụt hơi, uể oảiẻ
Mặt khác, vì cửa sổ quá rộng ánh nắng chiếu vào nhà quá nhiều, gây chói mắt và nóng nực, khiến bạn khó chịu, mất bình tĩnh, dễ bực bội cáu gắt.
Văn Khấn Lễ Đức Thánh Trần thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.
Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.
Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…
Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.
– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.
– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.
Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con kính lạy Tứ phủ Công Đồng Trần Triều
– Con kính lạy Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công.
– Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính, Thái sư Hương phụ Thượng quốc công tiết chế, Lịch triều tấn tặng khai quốc an chính hồng đồ tá trị hiện linh trác vĩ, Minh đức trĩ nhân, Phong huân hiên liệt, Chí trung đại nghĩa, Dực bảo trung hưng, Thượng đẳng tôn thần, Ngọc bệ tiền.
– Con kính lạy tứ vị Thánh tử đại vương, Nhị vụ vương cô Hoàng Thánh.
– Con kính lạy Đức ông phạm điệu suý tôn thần, tả quan Nam Tào, Hữu quan Bắc Đẩu, Lục bộ thượng từ, chư vị bách quan.
Hương tử con là:…………………..Ngụ tại:……………….
Hôm nay ngày…. tháng….. năm…….. Hương tử chúng con chấp kỳ lễ bái xin các vị phù hộ độ trì cho hương tử con cùng toàn gia quyến được luôn mạnh khỏe. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được tai quan nạn khỏi, điều lành mang đến, điều giữ giải đi, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an. Xin cho con được có người có cửa, được nhân an vật thịnh đi đến nơi về đến chốn, làm ăn được thuận buồn xuôi gió, vạn sự như ý.Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Thiệu Vĩ Hoa, Dịch Sư số 1 của Trung Quốc hiện nay có giới thiệu hai phương pháp dự đoán: Dự đoán theo Tượng- Hào & Dự đoán Sáu Hào. So với các phương pháp dự đoán theo Chu Dịch hiện có tại Việt Nam, hai phương pháp này tỏ ra vượt trội về mặt lý luận.
Xem xét 2 phương pháp của Ông, tôi đưa ra vài nhận xét sau :
1. Ngoài dự đoán về con người và sự việc, ông đã cố gắng đưa khả năng ứng dụng của 2 phương pháp này vào các lãnh vực khác: Thời tiết, Thể thao, Y Học, Thiên Văn, Địa Chất.
2. Tác giả áp dụng các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành vào 2 phương pháp này khá thành thục và hợp lý.
3. Tuy nhiên, tác giả đã hiểu các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành theo lối cổ xưa, vì vậy, khi đưa ra các kết quả dự đoán, tác giả thường phải sử dụng đến kinh nghiệm dự đoán của bản thân. Rõ nhất là ở phương pháp dự đoán theo Tượng- Hào. Tác giả dùng nhiều đến các biểu tượng của Bát Quái. Khi dự đoán các trận đấu thể thao phức tạp như đá banh trên sân trung lập, tác giả phải đặt ra các qui tắc ngoại lệ.
4. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào được tác giả giới thiệu rất công phu, chi tiết và tỉ mỉ. Tuy vậy, nó vẫn tỏ ra phức tạp quá ! Quá nhiều các khái niệm và nguyên lý ! Các nguyên lý và khái niệm này thường chồng chéo và phủ định lẫn nhau khi lập luận dự đoán, khiến cho nhà dự đoán phải có kinh nghiệm để biết chọn nguyên lý nào cho từng trường hợp dự đoán cụ thể. Cách thức lập quẻ căn cứ vào Chu Dịch, nhưng cách dự đoán thì dựa hoàn toàn vào ngũ hành & hệ thống Can Chi. Điều này cho thấy phương pháp dự đoán sáu hào của Thiệu Vĩ Hoa đã biến hình và xích lại gần với môn dự đoán Tứ Trụ. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào cũng đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm.
Có phương pháp nào không buộc người học phải có kinh nghiệm dự đoán ?
Bằng việc sử dụng Hệ Thống Lý Luận Đông Y hiện đại, tôi thiết lập một phương pháp dự đoán mới. Phương pháp này được phát triển từ phương pháp dự đoán theo Tượng-Hào.
Phương pháp mới có 3 lợi điểm sau :
1. Nó không đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm dự đoán.
2. Nó không đòi hỏi người học phải biết rõ về Chu Dịch.
3. Về mặt ứng dụng, nó dễ sử dụng như khi ta giải phương trình bậc 2 có 1 ẩn số. Nghĩa là, đã có sẵn công thức, chỉ cần áp dữ liệu vào là có ngay kết quả.
Để có thể áp dụng phương pháp này vào thực tế, bộ Chu Dịch phải được mã hoá thành 2 ký hiệu (+) & (-). Về lý thuyết, công việc này thực hiện được.
Vòng chung kết bóng đá tháng 6-2002 tại Hàn Quốc, tôi đem phương pháp ra thử nghiệm. Kết quả dự đoán như sau: Đúng 63 trận, sai 1 trận ( Hàn Quốc >< Hoa Kỳ)
Tôi chưa lý giải được vì sao phương pháp cho kết quả dự đoán sai trận Hàn Quốc >< Hoa Kỳ, nên cần phải có thêm thời gian để xem xét lại.
Nhận xét:
1. Để kiểm nghiệm khả năng dự đoán của phương pháp mới, tôi chọn 64 trận bóng đá vòng chung kết vì nó mang tính hệ thống, thể thức thi đấu chặt chẽ.
2. Số lượng thử nghiệm nhỏ, 64 trận, nên con số 99,4% dự đoán đúng không mang giá trị thống kê.
3. Không mang giá trị thống kê, nhưng đã gợi mở rằng: Phương pháp được xây dựng đúng & kết quả dự đoán xác định được giá trị của từng nhóm đối tượng tham gia sự kiện.
4. Giá trị của từng nhóm đối tượng được xác định theo giá trị cặp Yes-No: Đúng-Sai, Phải-Trái, Có-Không.... Vì thế, phương pháp mới còn có thể áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực khác.
5. Khi ứng dụng vào các lãnh vực khác, người dự đoán cần phải có trình độ với những hiểu biết nhất định trên lãnh vực ấy nhằm chọn các thông số phù hợp cho việc lập bài toán dự đoán.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.).
Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn.
Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà tôi đã gặp trong các lá số. Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.
Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):
Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương), nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ). Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.
Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì Lộc Mã tiền tài đầy kho”)
Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam, Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.
Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ
Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt, nhất là Song Lộc. Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không có ai cộng tác.
Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc)
Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két bạc mà thôi. Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh)
Cự Nhật dần thân
Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú “Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp “trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư. Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên: Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương (hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng trọn.
Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài, nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.
Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão
Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire” lặt vặt thì chắc ăn hơn.
Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt
Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.
Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc
Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng cách.
Cơ Cự mão dậu
Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường. Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái lại phải đồng cung với Cự Cơ. Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc” chứ !
Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ
Mệnh vô chính diệu thuộc cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy người có cách này.
Không chỉ là loài hoa xinh đẹp, sức sống mạnh mẽ mà ý nghĩa phong thủy của hoa cúc còn rất tốt lành và phong phú.
![]() |
Hoa cúc không phải là loài cây chiêu tài mà là cây nạp phúc |
Khôn: Mậu nhâm giáp bính
Thân tuất tử dần
Này tạo lấy tử vi phu cung, thân vi phu tinh, thân tử hợp cục, vốn là phu đến phu cung ý. Kết hôn thời gian ứng tại nhâm thân năm, này năm vốn là phu tinh thân xuất hiện, củng nhập phu cung đích ứng kì. Làm đại vận đến kỷ mùi vận đích mùi vận thời, mùi mặc tử, thân sinh tử, phu cung bị hại, trượng phu nhân tiện không cách nào sinh. Hôn nhân làm xuất hiện vấn đề, ứng kì làm tại bính tử năm, tử năm thời phu cung tử thủy tại lưu niên xuất hiện thấy hại.
Nhàn chú: Thiên can giáp ất bính mậu đinh kỷ canh tân
Dần mão tị ngọ thân dậu
thìn thú sửu mùi bốn khố không nguyên thân
Khôn: Canh tân tân quý
Dần tị dậu tị
Này tạo lộc thần bị lưỡng tị hỏa khắc phá hư, thực thần quý thủy tại cục trung rất trọng yếu, hành bính tử vận chi tử vận, tương đương với quý rơi vào địa chi, nguyên lai quý chịu thiên can canh tân chi sinh, đến địa chi sẽ không pháp chịu sinh rồi( Dậu kim tự thân chịu khắc, không cách nào sinh tử thủy), bị tị tuyệt, dần tiết, đến nhâm ngọ năm, một xung tử thủy, thực thần bị phá hư, mệnh chủ bị kẻ bắt cóc sát hại.( Chú: Hại ngã thực thần, tử không có ở đây gối đầu thượng, xung hại đồng luận)
Khôn: Tân ất quý mậu
Hợi mùi hợi ngọ
Hành kỷ hợi vận, kỷ vi ngọ chi nguyên thân, ngọ trung chi kỷ hợp phu cung hợi trung giáp, làm phu xem, bây giờ đại vận trung hư thấu, liền bất lợi hôn nhân, phu hữu danh vô thật rồi, phu không để ý nhà nháo ly hôn.
Càn: Đinh giáp mậu giáp
Dậu thìn thìn dần
Đại vận: Quý mão nhâm dần tân sửu canh tử kỷ hợi
Này tạo mậu thổ trường sinh tại dần, sát làm tài xem. Bởi vì không có ấn, có ấn đương quyền xem. Phía trước tam trụ cũng phế đi.(. Người này vốn là Tân Gia Pha người, hành tử vận dẫn ra thìn trung chi thủy sinh trợ giúp dần mộc, phát tài, đinh sửu năm phát đích lớn nhất, một năm giàu to rồi1000 vạn, thừa số sửu kết hợp hợp động tử thủy,( Nếu là thiên địa hợp, thì vi hợp bán), này năm chính trực kim tan ra gió lốc, hắn đem USD đổi thành mã đến tây á tệ, mua rồi đại lượng đích thổ địa, kim tan ra gió lốc một qua, tức phát; đến kỷ vận hợp bán giáp mộc bất lợi, kiếp hợp tài, phá tài chi tượng, hợp rồi [hai người/cái] giáp, giảm bớt một nửa. Này vận phá một nửa đích gia sản. Này vận trung nhất hung chi năm phần vốn là giáp thân năm, này năm giáp hư thấu, chẳng khác dần mộc hư rồi, bị kỷ hợp bán, là chỉ người khác đoạt rồi hắn đích tài, mà dần thân xung phá mộc cây, đem bát tự sở dụng gì đó toàn bộ phá hủy. Nguyên nhân đầu tư sai lầm, tổn hại tài nghiêm trọng, vẫn bồi đến bính tuất năm, tổn thất700 vạn. Hợi vận luận cát, phỏng chừng đến lúc đó khẳng định phát tài, nguyên nhân hợi vận kỷ thổ không vận động rồi, vi thể rồi, tỏ vẻ cùng người hợp tác rồi, không có nghĩa là phá tài. Thìn dậu hợp không làm công, tỏ vẻ hôn nhân phá hủy, phu thê cung song hiện, hợp rồi thương quan, hợp nhất hạ nhiều một lần, cố có4 lần hôn nhân, đồng thời, thổ nhật chính cùng chi đồng, tổn hại tài thương thê. Cũng cũng làm dậu làm tổ sản( Thương làm tài, mang ấn), hợp rồi tỉ kiên, tỏ vẻ huynh đem tổ sản đích một hơn phân nửa toàn bộ cầm đi, chính mình chỉ lấy một ít bộ phận. Loại này tổ hợp vốn là một cỗ một cỗ đến tài, cố bất thiện vu kinh doanh xí nghiệp, không có đảng, trông nom không được người. Môn hộ tố công, một bực như nhau là làm mậu dịch, người không thể hơn nhiều. Cũng có thể tố sao làm.( Chú: Mậu nhật chủ kiến giáp dần thời đích tổ hợp luận cát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần, cho nên lúc này giáp không thể mậu, khác tổ hợp thì không phải, như mậu nhật chủ kiến ất giờ Mẹo, luận hung. Mậu nhật chủ xứng giáp dần thời, chỉ cần hành thủy vận trợ giúp khởi dần mộc nhân tiện phát tài, trái lại, nếu phá hủy dần mộc thì phá tài.)
Nhàn chú: Mậu sợ chính quan không sợ thất sát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần. Bính tử năm phát tài, đinh sửu năm lấy200 vạn USD mua mà, tiện nghi, kim tan ra gió lốc sau khi lên chức giá trị mấy lần, phát đại tài.
Càn: Ất ất mậu giáp giáp quý nhâm tân canh
Tị dậu tử dần thân mùi ngọ tị thìn
Vốn là một ức vạn phú ông, có [hai người/cái] triệu tư sản, tài thống quan rồi. Tẩu ngọ vận phát. Tân tị vận đích tân vận còn có thể, nhưng tị vận mặc dần, khẳng định bất hảo. Ngọ vận xung tử, hợp dần, tố công lớn rồi. Dần sinh rồi ngọ, sao làm, thêm xung tử, phát tài, tòng tố công thượng giải thích. Tố luồng phiếu lập nghiệp đích, [một người/cái] đại hộ, theo trang kiếm tiền. Dậu nguyên thần bị chế cũng không được chế, ngọ vận vốn là tỉ kiếp cùng quan sát tới lấy tài.( Chú: Tư liệu thượng không có)
Nhàn chú: Ngọ vận cho mượn khứ 4000 vạn, hỏi có thể trở về không? Ngọ tăng mạnh rồi kỷ đích lực lượng chế dậu, tử, thêm ngọ là dần trung vật. Dụng ngọ( Kỷ thổ) tỉ kiếp tố công, sao luồng!
Càn: Ất kỷ giáp canh mậu đinh bính ất giáp
Tị mão tuất ngọ dần sửu tử hợi thú
Này tạo nguyên cục thành hỏa cùng táo thổ xu thế, thời thượng canh kim vi tối kỵ, nguyên cục không có chế. Hành tử vận, hỏa thổ có công, phát tài mấy ngàn vạn. Ất hợi vận ất canh hợp, vi tỉ kiếp hợp quan đoạt tài ý, tất có người muốn xâm chiếm ngoài tài sản. Quả nhiên này bước vận đích giáp thân năm, ất dậu năm khởi tài sản quan tòa. Thân năm canh kim đến vị, ất năm ất canh hợp đến vị, vốn là vi ứng kì.( Chú: Nhập mộ vốn là năng lượng đích tập trung cùng thăng hoa, nhưng giáp tuất nhật chủ khẳng định khống chế không được tuất thổ. May mắn mão tuất hợp, giáp kỷ hợp, rất rõ ràng vốn là cùng người hợp tác, kinh doanh phòng địa sản. Canh không có chế vốn là tối kỵ thần, nên khắc nhật chủ à. Ất canh xa hợp, canh nhân tiện động rồi, động rồi sẽ khắc giáp, hình thành rồi ất canh liên hợp khắc nhật chủ chi tượng, này hợp lại là xấu rồi. Trên thực tế cũng là cùng hắn hợp hỏa đích người cùng công nhà liên thủ đối phó hắn, nguyên nhân hắn hẹp hòi, giáp kỷ hợp rồi tài mà. Canh tử vận, xung ngọ, ngọ hỏa tố công rồi, quá. Ất hợi vận, ất mộc một thấu, sẽ không tốt lắm. [ba người/cái] quan tòa ứng kì: Canh thìn năm, ất canh hợp, vốn là nguyên nhân gây ra năm, giáp thân năm, chính mình ngồi canh đến vị, tố tụng, ất dậu năm, canh lâm đế vượng, xung hợp, hai năm quan tòa. Bính tuất năm trân khắc canh thân kim, ứng có thể thắng tố. Lão bà nhiều, tị ngọ tuất kỷ đều là. Đại lão bà năm ngoái( Ất dậu năm) đã chết, tuất vi đại lão bà, nguyên nhân ngồi thê cung được chính vị rồi, tị không phải đại lão bà, điểm này phải chú ý. Dậu tuất hại, bệnh tim tái phát mà chết. Bản thân thì vi cao huyết áp, giáp vi đầu, hỏa vượng nên hướng trên đầu tẩu, cố vi cao huyết áp, cao huyết chi ... bệnh.)
Nhàn chú: Hỏa nhập thú khố, mão thú hợp tố công, tố phòng địa sản đích. Giáp thú vi xi măng đồng, dựa vào mão thú hợp, kiếp tài hợp tài, làm cho phòng sản, ức vạn phú ông! Hợp hỏa, mão vi người khác! Tị ngọ nhập mộ không nhiều lắm dụng, mão thú hợp vốn là khắc. Tẩu tử vận hảo, thú vi lão tử, ngọ vi nhân, ngọ chế rồi tử thủy, thực thương có công, vốn đồ vô dụng, bây giờ hữu dụng rồi. Con mình giúp lão tử đem sự tình cấp làm! Đến ất vận, ất đến( Kiếp tài vi ấn, hợp bọn người) ất canh hợp, canh làm quan phương, canh thìn năm khởi quan tòa, giáp thân năm đánh, ất dậu năm cũng đánh, bính thú xem có thể thắng hay không.( Hợp bọn người đem luồng chuyển cho người khác, đến chỉnh hắn) canh vi lớn nhất đích bệnh! Ất dậu năm tang thê, thú vi đại lão bà, tị vi tiểu lão bà! Hỏa thổ rất vượng rồi, mão thú hợp chính là khống chế thú.
Chùa Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đặt chân đến Huyền Không Sơn Thượng du khách sẽ bắt gặp một không gian thật yên tĩnh, cảnh quan kỳ ảo đẹp như trong chuyện cổ tích.
Chùa Huyền Không Sơn Thượng hay còn gọi là chùa Huyền Không 2 để phân biệt với chùa Huyền Không (vẫn thường gọi là Huyền Không 1). Từ trung tâm thành phố Huế, đi ngược lên vùng ngoại ô Kim Long, ngang chùa Thiên Mụ rồi vòng qua một ngôi làng nhỏ có những hàng thông rậm rạp, qua những con đường đất gập ghềnh và những vườn rau xanh thắm, những cánh đồng lúa rập rờn…, bạn sẽ đến núi Chằm. Theo một con đường đất đỏ dẫn lên núi, bạn sẽ tới được chùa Huyền Không Sơn Thượng, nằm yên tịnh giữa những hàng thông rậm rạp cao vút và ríu rít tiếng chim.
Chùa được các sư Viên Minh, Tịnh Pháp, Trí Thâm, Tấn Căn dựng bằng tre nứa vào năm 1973 ở phía Bắc đèo Hải Vân, thuộc xã Lộc Hải, huyện Phú Lộc. Năm 1978, chùa được sư Giới Đức cho chuyển về vị trí hiện nay, cách chùa Thiên Mụ gần 3 km về phía Tây. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông.
Cổng chùa Huyền Không Sơn Thượng có sự khác biệt so với các ngôi chùa khác. Ở đây không có cổng Tam quan to lớn, cổng chùa chỉ như cổng của một ngôi nhà theo kiểu kiến trúc sân vườn Huế. Bước vào phía trong là một khu vườn xanh ngắt với những cảnh quan kỳ ảo, đẹp như trong chuyện cổ tích. Một cây cầu gỗ bắc qua dòng suối nhỏ nở đầy bông súng tím ngát là Phong trúc am.
Khác hẳn với chính điện của những ngôi chùa khác, chính điện ở đây là ngôi nhà nhỏ nhưng thoáng đãng, giản dị mái thấp và đơn sơ vách gió lùa. Chính giữa thờ duy nhất Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni như bất cứ ngôi chùa nào khác thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông.
Bên phải Phật điện là Yên Hà Các, với những đường nét kiến trúc uyển chuyển, được dùng làm nơi đón khách. Đó đây, dưới bóng những cây tre ngà lao xao hay trong khu rừng trúc um tùm là những bộ bàn ghế giả gỗ để khách ngồi nghỉ, tận hưởng sự yên ả thanh bình nơi cửa Phật. Nếu muốn bạn cũng có thể xốc ba lô lên vai, men theo những con đường mòn nhỏ leo lên những sườn núi xung quanh để từ đó thỏa thích ngắm nhìn toàn bộ thung lũng dưới tầm mắt của mình.
Băng qua khu vườn trúc là am Mây Tía. Đây là nơi những người yêu thích văn chương thi phú tìm đến để đàm đạo, bình thơ, ngắm gió trăng mây núi, là nơi các nhà thư pháp tập họp để luyện bút, khoe chữ…Vì lẽ đó, thư pháp hiện diện khắp nơi, khắc trên đá trong vườn, chạm trên gỗ, trang trọng treo trên tường, ghi trên cột cổng tam quan… Đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người, những cảm xúc bất chợt của các cây bút, những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng…
Con đường nhỏ phía sau tăng xá dẫn đến một khu rừng thông cổ thụ rậm rạp trên ốc đảo giữa Hàm Nguyệt trì. Đây là nơi diễn ra những cuộc triển lãm thư pháp trong thời gian có Festival Huế. Trên mỗi cây thông có gắn một cái giá bằng gốc tre. Đêm đêm, những chiếc đèn dầu đặt trên đó tỏa ánh sáng mờ ảo, hư hư thực thực, đầy quyến rũ. Bên kia hồ, ngôi nhà thư pháp lợp tranh nằm dưới chân núi, trầm tư soi bóng xuống mặt hồ quanh năm thơm ngát hương sen…
Bên trái ốc đảo là hồ Lãm Thượng tím ngát hoa bèo tây. Khách thường đi trên Lãm Thượng kiều (cầu Lãm Thượng) để ra ốc đảo giữa hồ, nơi có cái chòi tranh nho nhỏ, vừa ngắm những bông sen e ấp nở, vừa trải tầm mắt nhìn những cái am nhỏ nơi lưng chừng núi. Ngắm chữ Phật khắc trên phiến đá phía bờ đối diện, bay bổng và trang nghiêm, chợt thấy tâm hồn bình an kỳ lạ…
Trụ trì chùa Thượng tọa Giới Đức – Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng là một nhà thơ, một nhà thư pháp tài hoa thì bạn sẽ không ngạc nhiên khi nhìn thấy thư pháp hiện diện khắp nơi, khắc trên đá trong vườn, chạm trên gỗ, trang trọng treo trên tường, ghi trên cột cổng …Đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người, là những cảm xúc bất chợt của các cây bút, là những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng.
Về Huyền Không Sơn Thượng, giữa đất trời bao la, được trải lòng mình ra với thiên nhiên, để một phút sống thật với chính mình… là những cảm xúc không dễ gì bạn bắt gặp nơi ồn ào, náo nhiệt của chốn thị thành…
Cây cảnh đóng vai trò rất quan trọng trong phong thủy vì nếu bày cây cảnh thích hợp trong nhà sẽ mang lại luồng sinh khí cực mình. Nhiều người khi mới bắt đầu xem phong thủy sẽ cần phải nắm vững những điều cần biết khi trồng cây cối trong nhà để có tác dụng tốt nhất.
Cây ngọc bích
Cây ngọc bích rất mọng nước, thuộc loại cây xương rồng cỡ nhỏ. Những phiến lá tròn với nhiều nước tích trữ (Thủy) sẽ giúp thu hút nguồn năng lượng liên quan đến tiền tài cho văn phòng và gia đình. Bạn có thể đặt nó ở gần cửa ra vào trong văn phòng, trong nhà hoặc căn phòng của bạn.
Cây kim ngân
Cây kim ngân, hay còn gọi là cây tiền, là một trong những loại cây phong thủy hút tiền tài được ưa chuông nhất. Chúng đại diện cho sự giàu có, sung túc và may mắn. Bạn có thể trồng trong văn phòng hoặc gia đình để mang lại tài lộc cho bạn và gia đình.
Cây hoa đào (mùa đông)
Cây hoa đào có sức sống rất mãnh liệt. Nó có ý nghĩa cao đẹp trong nền văn hóa Á đông và là đại diện sức sống của mùa xuân. Mỗi bông hoa tượng trưng cho hạnh phúc, sự nghiệp, tuổi thọ, sức khỏe và tiền bạc. Vào ngày Tết, nên để cành đào ở phía Bắc hay Đông Bắc - góc tốt lành nhất, của ngôi nhà. Nếu một người không quá kĩ tính về mặt phong thủy, họ cũng có thể đặt ở bất cứ đầu trong vườn.
Cây hoa mẫu đơn
Hoa mẫu đơn, được coi là quốc hoa ở Trung Quốc, đại diện cho sự giàu sang. Hoa mẫu đơn đỏ rất tốt lành. Bạn có thể trồng một số cây mẫu đơn trong sân để làm đẹp thêm cho vườn nhà.
Cây hoa ly
Ly là một loài hoa đẹp, tượng trưng cho sự cao sang và thường được sử dụng trong các đám cưới ở Trung Quốc. Chúng là lời cầu chúc hôn nhân đến bách niên giao lão. Gia đình có thể bày hoa ly trong phòng khách để vợ chồng hòa hợp, hạnh phúc.
Ngoài ra, các loài cây thuộc họ xương rồng, dương xỉ, quả bầu,...có thể bảo vệ bạn khỏi những luồng tà khí. Những loại cây này nên được đặt gần gần hoặc đối diện với khu vực tiêu cực trong nhà. Ví dụ, nếu góc tủ chiếu thẳng vào giường thì có thể đặt một chậu cây nhỏ trên nóc hoặc cạnh tủ.
ng kham nổi. Người học Phật, đối với tất cả chúng sanh bất luận họ đến đòi nợ hoặc trả nợ đều khuyên họ niệm Phật, như vậy có thể chuyển tất cả thiện ác, oán thành pháp duyên, nhân tình thế gian cũng có thể chuyển thành pháp quyến thuộc tu hành mới được thành tựu.
Mọi người đều có nghiệp chướng, nếu không có nghiệp chướng sẽ không phải sanh đến thế gian này. Làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng? Cổ đức khai thị rằng phương pháp tốt nhất là niệm A Di Đà Phật.
Để giúp các vị cư sĩ trong quá trình tu hành không bị chướng ngại, như lý như pháp, tiêu trừ nghiệp lực, cùng hội một thuyền, thuận qua bờ giác, dưới đây, tôi xin giới thiệu phương pháp tiêu trừ nghiệp lực của Trịnh Hạ Tường sư phụ như sau:
1. Đầu Tiên Khuyên Dạy Cách Giải Trừ Oán Thù.
Tôi tên (xxxxx), Những oan gia trái chủ trên mình tôi (tức nghiệp lực, của một bộ phận nào trên thân thể) xin quý vị hãy nghe rõ, từ vô thủy kiếp đến nay, vì tôi bị mê hoặc trong thế giới Ta Bà, trong nhiều kiếp luân hồi, trong lúc vô ý đã làm tổn hại đến quý vị, khiến cho quý vị phải thọ vô lượng tội nghiệp trong lục đạo luân hồi, hứng chịu biết bao đau khổ, tăng thêm biết bao phiền não, tôi thường cảm thấy tội chướng sâu nặng hối hận vô cùng. Tất cả đều do tôi mê hoặc vô tri tạo nên, đời này nhờ nguyện lực từ bi gia hộ của Phật tôi được kết pháp duyên với Phật, tôi không quên quý vị, thành khẩn hy vọng quý vị cùng nhau học phật, niệm Phật tu hành, tranh thủ sớm ngày tu hành chánh quả. Đồng thời hy vọng quý vị tha thứ cho tôi, đừng trả thù tôi, nếu quý vị nhất định muốn báo thù tôi, tôi cũng không có cách nào lẩn tránh, vì nhân đó là do tôi tạo ra, nên cũng phải chấp nhận quả báo, nhưng nếu như vậy đối với quý vị cũng không có lợi ích gì, chỉ khiến quý vị cảm thấy khoái lạc nhất thời, nhưng đến cùng quý vị không giải quyết được vấn đề căn bản, vì quý vị không những không tránh được sanh tử, cùng thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Tôi nhận thấy cách này vừa tổn người lại không lợi ích gì cho chính mình, đối với hai bên chúng ta đều không tốt lành, vì vậy tôi thành khẩn hy vọng quý vị cùng tôi học Phật, niệm Phật hiệu A Di Đà Phật, xin ghi nhớ chỉ cần quý vị thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng hoành siêu tam giới, siêu thoát tam giới tức được đắc đạo, chỉ cần tinh tấn tu hành sẽ được thành Phật. Chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng phước thọ tăng trưởng, tiêu tai diệt chướng, chỉ cần thâu lại thân tâm niệm Thánh Hiệu A Di Đà Phật, một niệm tương ứng, tu gì được nấy. Nhưng chúng tôi hy vọng quý vị đừng tu nhân thiên quả báo, cố gắng tu tập, phát tâm Bồ Đề, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật thánh hiệu, chỉ cần tu hành đúng pháp, tất nhiên đắc đạo tu hành chánh quả.
2. Quy Y Tam Bảo Cho Oan Gia Trái Chủ
Tôi tên (xxxxx), oan gia trái chủ trên thân tôi (tức nghiệp lực) quý vị hãy nghe rõ, quý vị không nghe Tam Bảo không hiểu Quy Y, cho nên thọ khổ luân hồi. Nay tôi truyền thọ Quy Y Tam Bảo, quý vị phải lắng nghe, tôi niệm một lần, quý vị hãy theo tôi niệm một lần (phải niệm ba lần)
Quy Y Phật
Quy Y Pháp
Quy Y Tăng.
Quy Y Phật, Lưỡng Túc Tôn,
Quy Y Pháp, Ly Dục Tôn
Quy Y Tăng, Chúng Trung Tôn.
Quy Y Phật, Không Đọa Địa Ngục,
Quy Y Pháp, Không Đọa Ngạ Quỷ,
Quy Y Tăng, Không Đọa Súc Sanh
(niệm 3 lần)
Lễ Quy Y viên mãn, bây giờ tôi vì quý vị niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng. Xin mời quý vị thâu lại thân tâm cùng tôi chuyên tâm trì niệm thánh hiệu A Di Đà Phật.
(niệm Phật 4 chữ hoặc 6 chữ tùy ý)
3. Niệm Xong Thánh Hiệu, Vì Oan Gia Trái Chủ, Tụng Tâm Kinh Một Lần.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha (3 lần)
4. Tụng Xong Tâm Kinh, vì oan gia trái chủ, tụng Chú Vãng Sanh 21 lần.
Chú Vãng Sanh
Nam mô a di đa bà dạ
Đa tha dà đa dạ
Đa địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ
A di rị đa, tất đam bà tỳ
A di rị đa tì ca lan đế
A di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Kệ Hồi Hướng
Nguyện đêm công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ,
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề,
Hết một báo thân này,
Đồng sanh cõi Cực Lạc
5. Lời Kết Thúc:
Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A Di Đà Phật hai ngàn tiếng, tụng Tâm Kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
Chú Giải:
Thứ nhất, bạn cần phải chọn được ngày lành, tháng tốt, giờ hoàng đạo hớp với mình. Nên chọn ngày giờ vào nhà mới theo nguyên tắc Trạch Cát, nhưng không tính năm và các tiết khí ( vì đây không phải liên quan đến động thổ, xây mới).Những ngày có trực Khai, trực Thành và trực Mãn hợp với việc dọn vào nhà mới.
Sau khi xem được ngày bạn chọn giờ hoàng đạo trong ngày để dọn nhà. Một ngày thông thường có 24 phân thành 6 giờ hoàng đạo: Giờ Dần ( từ 3 đến 5 h), Tỵ ( 9h-11h), Dậu ( từ 17 đến 19h), Thìn ( 7h-9h), Thân ( 15h-17h), Hợi(21h-23h). Trong những giờ này bạn nên chọn một giờ mà không khắc với tuồi của gia chủ. Cụ thể theo bảng từ hành xung, thì Dần-Thân-Tỵ-Hợi, Tý-Ngọ-Mão-Dậu, Thìn-Tuất-sửu-Mùi, là xung nhau.
Ví dụ: Gia chủ tuổi thân, Thân kị Dần nên không được dọn nhà vào thời gian từ 3 đến 5 h.
Thứ hai, nên chú ý một số nghi lễ khi chuyển nhà như:
+ Người trong nhà khi dọn đồ vào trang mới cần chuyển bài vị cúng tổ tiên đến đầu tiên.Những người khác đi sau đều phải cầm trong tay tiền tài của cải.
+ Đối với vật dụng thông thường: vật đầu tiên mang vào là cái chiếu (hoặc đệm) đang sử dụng, sau đó là bếp lửa, (bếp ga, bếp dầu), không nên mang bếp điện thì bếp điện có tinh mà không có tướng (tức chỉ có nhiệt mà không có ngọn lửa), chổi quét nhà, gạo, nước … lễ vật để cúng Thần Linh trước để xin nhập trạch và xin phép Thần Linh rước vong linh gia tiên về nơi ở mới để thờ phụng.
+ Lễ vật được để lên bàn hoặc mâm kê vào chỗ nào đó mà có hướng đẹp với gia chủ, tự tay gia chủ thắp nhang vào một bát nhang làm tạm thời. Thắp nhang và khấn lễ, tiếp ngay sau đấy gia chủ châm bếp và đun nước. Nước đun trên bếp lần đầu tiên ở nhà mới phải để cho sôi 5 – 10 phút, lâu hơn càng tốt, mới tắt lửa. Đun nước mục đích là để khai bếp, pha trà dâng Thần Linh và Gia Tiên. Nếu có khách có thể lấy nước đó để pha nước mời khách.
+ Nếu chỉ nhập trạch lấy ngày tốt chưa có nhu cầu ở ngay thì gia chủ phải ngủ một đêm tại nhà mới.
+ Nếu nhà có người chửa, mang thai thì tốt nhất không nên dọn nhà. Trong trường hợp cấp bách không thể không dời nhà, nên mua một cái chổi mới tinh, để đích thân người chửa quét qua các đồ đạc một lượt rồi mới chuyển như vậy mới không phạm tội “Thần thai”.
Những người giúp dọn nhà không được là người cầm tinh con Hổ, còn lại không phải lo bàn gì nữa.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |