Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham

Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham sẽ giúp bản thân mỗi chúng ta tự nhận thức về mình. Một câu chuyện nhỏ ngày cuối năm dành tặng tất cả
Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham sẽ giúp bản thân mỗi chúng ta tự nhận thức về mình. Một câu chuyện nhỏ dành tặng những ai còn đang băn khoăn về những giá trị vật chất đời thường.


► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Cau chuyen Phat giao canh tinh long tham hinh anh
 
Một vị sư xuống núi, nhìn thấy tượng Thích Ca Mâu Ni dùng đồng thau đúc thành, hình thế sống động, thần thái an yên, nhà sư rất vui vẻ và bày tỏ ý muốn mua. Tuy nhiên, chủ cửa hàng đưa ra giá 5 triệu đồng, không bớt một xu, hơn nữa thấy rõ nhà sư rất yêu thích bức tượng, liền giữ nguyên giá cũ không giảm.   Nhà sư trở về chùa và kể câu chuyện cho chúng tăng nghe, chúng tăng rất lo lắng, hỏi nhà sư có thể mua bức tượng với giá bao nhiêu. Nhà sư nói: "500 ngàn đồng là đủ rồi". Chúng tăng ngạc nhiên: "Làm sao có thể?".   Nhà sư liền cười: "Đạo lý vẫn còn, đương nhiên có cách, chúng sinh lòng tham không đáy, lợi bất cập hại, Phật pháp từ bi sẽ phổ độ chúng sinh, đương nhiên chỉ cần trả ông ta 500 ngàn đồng".   "Làm thế nào để phổ độ cho ông ta?" Chúng tăng không ngừng hỏi.   "Khiến cho ông ta sám hối", nhà sư đáp. Chúng tăng càng không hiểu, nhà sư liền nói: "Chỉ cần làm theo sự phân phó của ta là được".   Thảm án Bình Phước và lời cảnh tỉnh về lòng tham của con người
Vụ thảm án Bình Phước được xét xử tuần vừa qua lại một lần nữa khiến dư luận sôi sục. Giữa cuộc sống bộn bề, dường như nhiều người đã quên đi lời Phật dạy từ
Đệ tử thứ nhất xuống hỏi mua bức tượng với giá 4 triệu 500 ngàn đồng, không thành công và về núi.
  Ngày thứ hai, đệ tử thứ hai xuống núi bàn giá với ông chủ, định giá 4 triệu đồng không hơn, cũng không thành công và về núi.   Cứ như vậy, liên tục đến khi đệ tử cuối cùng xuống núi vào ngày thứ 9, giá đưa ra chỉ còn 200 ngàn đồng.   Thấy mỗi ngày có một người xuống, giá của người sau luôn thấp hơn giá của người trước, ông chủ rất sốt ruột. Mỗi ngày ông ta đều hối hận không bán cho người trước đó với giá họ đưa ra, ông ta tự trách bản thân quá tham lam. Đến ngày thứ 10, ông ta tự nói với bản thân nếu hôm nay có người đến, dù giá bao nhiêu ông ta cũng sẽ bán.   Ngày thứ 10, nhà sư tự mình xuống núi bày tỏ muốn mua bức tượng với giá 500 ngàn đồng, ông chủ rất vui vẻ bán ngay còn tặng cho nhà sư một bệ thờ. Nhà sư mua được bức tượng, cảm ơn và từ chối nhận bệ thờ, mỉm cười nói: "Dục vọng vô biên vạn sự đức độ, mọi thứ có mức độ! Thiện tai, thiện tai…"   Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham hẳn sẽ mang tới cho mỗi người một suy nghĩ khác nhau. Chỉ cần nhớ rằng, những giá trị vật chất trong cuộc sống là tương đối, tham lam vô độ sẽ khiến mình thiệt thòi. Dục vọng của con người là vô biên nhưng vạn sự đều có giới hạn cuối cùng. 
 
Chi Nguyễn (Theo Ebaifo)

Xem Clip Hồ lô phong thủy rước tài năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện Phật giáo cảnh tỉnh lòng tham

Thú vị với giấc mơ côn trùng trong tuổi thơ êm đềm

Ai cũng có tuổi thơ êm đềm để yêu, để nhớ. Một chú dế, chú ong nhỏ, một cánh bướm chập chờn thời thơ ấu sẽ đi vào tiềm thức của bạn đến suốt cuộc đời.
Thú vị với giấc mơ côn trùng trong tuổi thơ êm đềm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Ai cũng có tuổi thơ êm đềm để yêu, để nhớ. Một chú dế, chú ong nhỏ, một cánh bướm chập chờn thời thơ ấu sẽ đi vào tiềm thức của bạn đến suốt cuộc đời. Mơ thấy côn trùng có ý nghĩa gì?


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Thu vi voi giac mo con trung hinh anh
Ảnh minh họa
Nếu bạn chiêm bao thấy dế là điềm lành, dự báo gia đình sẽ được yên vui, hòa thuận.   Chiêm bao thấy dế đáp vào người mình, ngụ ý, cuộc sống của bạn luôn vui vẻ, hạnh phúc.    Nếu chiêm bao thấy dế chui xuống hang là điềm tốt lành. Bạn hãy chuẩn bị tinh thần để đón nhận tài lộc trong thời gian tới.   Chiêm bao thấy dế đá nhau, dự báo, bạn sẽ gặp nhiều may mắn. Ai đó muốn phá hoại bạn nhưng không thành. Quý nhân sẽ đến và giúp bạn đối phó với kẻ xấu.   Nếu bạn chiêm bao thấy ong là điềm tốt lành, ngụ ý, công việc của bạn rất thuận lợi và đang trên đà phát triển.   Chiêm bao thấy bị ong đốt, dự báo, bạn sẽ đạt được thành công sau thời gian vất vả.   Nếu thấy ong bay vào nhà trong chiêm bao là cát mộng. Sắp tới, bạn sẽ được minh oan.   Chiêm bao thấy ong bay gần bông hoa, điềm báo, tình duyên sắp đến với bạn.   Tuy nhiên, nếu bạn chiêm bao thấy phá tổ ong, ám chỉ, bạn sẽ bị lỡ mất cơ hội tốt.   Trong chiêm bao, thấy mình bắt bướm, dự báo bạn sắp có tình yêu say đắm.    Nhưng nếu bạn chiêm báo thấy bướm bay lượn, ám chỉ mọi việc sẽ khó thành công. 

Theo Khám phá bí ẩn những giấc mơ
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú vị với giấc mơ côn trùng trong tuổi thơ êm đềm

Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Lâu nay, nói đến mâm ngũ quả, người ta hay liên tưởng đến ý nghĩa đơn giản từ việc mượn tên các loại quả để nói lên khát vọng về “cầu vừa đủ xài sung…”. Thực ra, nó vẫn là hơi hám tàn dư của tín lý phồn thực.
Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là “mâm ngũ quả”. Ở Trung bộ gọi là mâm “quả tử” – nghe ra tuồng như lưu ý đến hạt/tử, hay nói rõ là “quả có hạt”, hơn là quả nói chung, tức có hơi hám của tàn dư tín lý phồn thực: cầu mong sự sinh sản, gieo một hạt được trăm hạt, nhất bản vạn lợi.


Một biến thể “mượn tên”

Hỏi kỹ ra gọi là ngũ quả nhưng không ai rõ quy định là những thứ quả gì mà dường như tuỳ địa phương, tuỳ sự được mùa quả từng năm mà người ta chọn mua hay hái để dâng cúng tổ tiên.
Tiêu chuẩn lý tưởng là quả tốt, có màu sắc đẹp và càng có giá trị là các loại quả quý hiếm. Điều kiêng kỵ là các loại quả có tên gọi đồng âm với từ có nghĩa xấu theo đó, cá biệt có nơi người ta kỵ cam (cam chụi), chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; tức vất vả)… Ngược lại, cũng theo tên gọi, các loại trái ở Nam bộ, người ta thích thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc); đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); quá mức đầy đủ một bậc mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung)… Nói chung, mâm “ngũ quả” như vậy là một biến thái có thể coi là mới mẻ mà xu hướng chủ đạo là “tá âm”.

Ngũ - biểu hiện sự sống

Truy nguyên cội nguồn của mâm ngũ quả buộc chúng ta phải xem xét đến hai thành tố của tên gọi: ngũ (số 5) và quả (trái cây), rồi sau đó mới nói đến ngũ quả.

Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Người ta tìm thấy nó ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ “ngũ” nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy, tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dương tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Trong Đại từ điển, “ngũ” có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm bốn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.

Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái cây nói chung) là thứ yếu. Do đó, theo Chiêm thư người ta thường quan sát sự tốt xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ cốc: 1) Mận chủ vào đậu; 2) Hạnh chủ về lúa mì; 3) Đào chủ vào tiểu mạch; 4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương; 5) Tảo (táo) chủ vào lúa. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.

Quả - biểu tượng của sung túc

Trái cây là thứ lễ vật xuất hiện khá sớm trong việc cúng kiếng bên cạnh các loài thú hiến tế (heo, bò, dê: tam sinh; hoặc bình dân hơn: gà, vịt, tôm, cua, cá). Theo khoa nghi nhà Phật, trong danh mục lễ vật lục cúng hay thập cúng có hương (nhang), đăng (đèn), hoa, trà, quả, thực… Tuy nhiên, ở đây, nghi lễ nhà Phật cũng không quy định rõ là quả gì.

Quả/trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử-hiểu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế…

Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng- hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên…

Lựu được biểu trưng cho sinh con (lựu khai bách tử), dưa hấu nhiều hạt cũng có ý nghĩa tương tự như lựu. Mơ, đào, bầu, phật thủ… đều có ý nghĩa biểu trưng riêng, song đều hội ý chúc tụng cát tường, như ý.

Tóm lại, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của chúng ta là một “sản phẩm văn hoá” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo” và bắt nguồn từ cái nhìn liên tưởng mang tính chất trải nghiệm từ thực tế sinh trụ dị diệt của thực vật.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Ý Nghĩa Tết Hàn Thực - Tết Bánh Trôi Bánh Chay ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch và Văn Khấn Tết Hàn Thực

Trong Tết Hàn Thực, nhà nhà làm bánh trôi, bánh chay để lễ Phật, cúng gia tiên, thậm chí nhiều nơi cúng thần hoàng. Thay vì tên gọi chính thức, 3/3 âm lịch thường được người Việt gọi dân giã là Tết bánh trôi – bánh chay.
Ý Nghĩa Tết Hàn Thực - Tết Bánh Trôi Bánh Chay ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch và Văn Khấn Tết Hàn Thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Hàn Thực năm nay rơi vào ngày mùng 30 tháng 3 năm 2017 Dương lịch ( mùng 3 tháng 3 âm lịch). Xem chi tiết tại Lịch Âm Dương.

1. Sự tích Tết Hàn Thực

Theo phong tục Việt Nam, Hàng năm vào ngày này, nhiều gia đình cho xay bột, đồ đỗ xanh, làm bánh trôi, bánh chay, nấu xôi chè lễ Phật và cúng gia tiên, có lẽ đó cũng là một cách tưởng niệm người thân trong những ngày tháng cuối xuân, chứ ít người biết đến hai chữ "Hàn Thực" gắn với một điển tích ở Trung Quốc, được biết tới nhiều qua tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc.

Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một người hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi, theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cám kích vô cùng. Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công trong khi tòng vong, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chớ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn. Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3 tháng 3 đến mồng 5 tháng 3 Âm lịch hàng năm).

Trong Tết Hàn Thực, nhà nhà làm bánh trôi, bánh chay để lễ Phật, cúng gia tiên, thậm chí nhiều nơi cúng thần hoàng. Thay vì tên gọi chính thức, 3/3 âm lịch thường được người Việt gọi dân giã là Tết bánh trôi – bánh chay. Ngày Tết này hiện vẫn duy trì phổ biến ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh xung quanh Hà Nội. 

Ngoài ra, chiếc bánh trôi làm từ bột gạo nếp thơm ngon còn được dâng cúng trong lễ Hai Bà Trưng ngày 6/3 tại làng Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Tây), ngày giỗ tổ Hùng Vương 10/3 và hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu. 

Do đó, Tết Hàn Thực của Việt Nam mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc và có những nét khác biệt cơ bản với ngày lễ này tại Trung Quốc. Nhiều sự tích cũng cho rằng, nguồn gốc của bánh trôi, bánh chay có từ thời Hùng Vương và tục làm hai thứ bánh này để nhắc nhớ về sự tích “bọc trăm trứng” của Âu Cơ. 

2. Chuẩn bị sắm lễ cúng tết Hàn Thực như thế nào

- Hương, hoa, trầu cau và 5 hoặc 3 bát bánh trôi cùng 5 hoặc 3 bát bánh chay dâng lên bàn thờ.

- Nói về con số bát bánh trôi và bánh chay phải là 5 hoặc 3 bởi vì cha ông ta quan niệm số lẻ là số tâm linh. Người ta thắp hương cũng thường thắp 1 nén hoặc 3 nén, 5 nén chứ ít khi thắp số chẵn.

- Ngoài bánh trôi và bánh chay, các gia đình cũng có thể mua thêm hoa quả và các thứ bánh trái khác tùy tâm. Sau khi bày lễ lên ban thờ, các gia đình thường thắp hương và khấn gia tiên theo Bài cúng Tết Hàn Thực dưới đây

3. Văn Khấn Tết Hàn Thực - Tết bánh Trôi Chay ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch

Na mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Kính lạy: - Hoàng thiên hậu Thổ chư vị Tôn thần. 

- Ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

- Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ khảo, Tổ tỷ).

Hôm nay là ngày…

Gặp tiết Hàn Thực, tín chủ con cảm nghĩ thâm ân trời đất, chư vị tôn thần, nhớ đức cù lao tiên tổ, mỗi niệm không quên. Do đó chúng con sắm sanh lễ vật, sửa sang hương đăng, trần thiết trà quả dâng lên trước án. 

Chúng con kính mời:

Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương. 

Ngài Bản xứ thần linh Thổ địa. 

Ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long mạch, Tài thần. 

Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật. 

Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại trong họ, cúi xin thương xót con cháu giáng về linh sàng, chứng giáng tâm thành thụ hưởng lễ vật. 

Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong nhà này, đất này, đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng. 

Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám. 

Cẩn cáo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý Nghĩa Tết Hàn Thực - Tết Bánh Trôi Bánh Chay ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch và Văn Khấn Tết Hàn Thực

Cuộc đời sự nghiệp tình duyên của nữ mệnh Bính Dần 1986

Tử vi trọn đời của nữ mệnh sinh năm Bính Dần 1986 cho bạn biết được nữ sinh năm Bính Dần 1986 thì cung mệnh gì, tuổi con gì, nên chọn màu sắc nào thì hợp phong thủy, hướng nào tốt, tình duyên và diễn biến cuộc đời của nữ mệnh Bính Dần 1986 diễn biến như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ mệnh tuổi Bính Dần sinh năm 1986 tuổi con Hổ.

Cung Khảm, mạng lư trung hỏa (lửa trong lò) thuộc Đông  tứ mệnh.

Màu sắc hợp với màu trắng, bạc, kem, thuộc hành Kim (giúp tương sinh tốt). Chọn màu đen, xám, màu xanh nước biển sẫm thuộc hành Thủy giúp mệnh tương vượng.

Hướng tốt hợp với nữ sinh năm 1986: Chọn hướng Bắc phục vị để được sự giúp đỡ, hướng Đông thiên y được thiên thời che chở, hướng Nam diên niên giúp mọi sự ổn định, hướng Đông Nam sinh khí để có phúc lộc vẹn toàn.

Cuộc đời sự nghiệp tình duyên của nữ mệnh Bính Dần 1986

Xem tử vi nữ mệnh Bính Dần trong năm 2016

CUỘC ĐỜI CỦA TUỔI BÍNH DẦN

Tuổi Bính Dần tiền vận rất khổ cực, âu sầu, tâm trí không được yên vui, lo nghĩ triền miên, cuộc sống lên xuống không chững đỗi. Vào trung vận cũng nhiều lao đao lắm, chưa bao giờ có được sự thảnh thơi, cho nên cuộc sống vào thời kỳ tiền vận thường bị hăm dọa, trung vận cũng có nhiều sầu khổ lo âu về cuộc sống, hậu vận mới an nhàn và thảnh thơi được.

Tóm lại: Cuộc đời của tuổi Bính Dần vào tiền vận thì khổ sở, trung vận lao đao, hậu vận, mới được an nhàn.

TÌNH DUYÊN CỦA NỮ MỆNH BÍNH DẦN

Về tình duyên tiền vận cung có nhiều khó khăn rồi mới thành. Theo tướng số và tử vi, tuổi Bính Dần về tình duyên chia ra làm 3 giai đoạn như sau:

Sinh vào những tháng 2, 6, 8 và 10 âm lịch thì cuộc đời của bạn có 3 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Còn nếu bạn sinh vào tháng 2, 4, 7, 9, và 11 âm lịch thì cuộc đời của bạn có hai lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 5 và 12 âm lịch thì cuộc đời bạn hoàn toàn được hạnh phúc và không có thay đổi về tình duyên.

Trong việc hôn nhân bạn cần phải lựa chọn những tuổi hợp với tuổi của mình thì mới có thể tạo được một cuộc sống đầy đủ và vui tươi. Nếu bạn cọn được những tuổi sau đây để kết hôn thì bạn sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn giàu sang hay ít ra cũng dư giả về tiền bạc, cuộc đời hoàn toàn sung sướng. Đó là khi bạn chọn kết hôn với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu, Ất Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi.

Vào những năm khi bạn ở độ tuổi 22 28, 34, 40, 46 và 52 tuổi là những năm xung kỵ tuổi, bạn không nên kết hôn vào độ tuổi này. Nếu việc kết hôn thành thì phải gặp cảnh xa vắng triền miên, sầu khổ, âu lo về việc gia đình, nhưng năm này mà có chồng rồi thì gặp phải cảnh xa vắng luôn luôn.

Còn nếu bạn sinh vào những tháng 2, 3 và 9 âm lịch thì tình duyên của bạn có nhiều thay đổi, cuộc đời bạn phải trải qua nhiều đời chồng, rất đa đoan về tình duyên.

CÔNG DANH SỰ NGHIỆP CỦA NỮ MỆNH BÍNH DẦN 1986

Công danh nếu có cũng chỉ ở mức độ tầm thường, nếu không có công danh thì việc làm ăn có nhiều tấn phát. Phần gia đạo từ 40 tuổi trở đi sẽ được êm ấm không có gì xảy ra có thể làm cho gia đạo ở trong sự bão tố cuộc đời.

Sự nghiệp được vững chắc từ lúc vừa vào 40 tuổi. Tiền bạc có cơ hội phát triển vào tuổi 42 trở đi, vào tuổi này thì mới dư giả, có cơ hội tạo được sự nghiệp và tiền bạc đầy đủ.

Trong việc làm ăn hay hợp tác làm ăn, nữ mệnh Bính Dần cần lựa chọn những tuổi hợp với mình mới làm ăn dễ thành công, nhanh thăng  tiến được.  Đó là những người ở tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu. Ba tuổi này rất hợp với tuổi Bính Dần trong mọi khía cạnh trong cuộc đời.

DIỄN BIẾN CUỘC ĐỜI NỮ MỆNH BÍNH DẦN 1986

Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi nên đề phòng vấn đề tình cảm, coi chừng bị lợi dụng. Năm 19 tuổi sẽ gặp một chuyện tình đẹp, nhưng rồi cũng vẫn bị tan vỡ. Năm 20 tuổi kỵ tháng 6, kỵ màu đen và kỵ đi xa. Từ năm 21 đến năm 23 tuổi, trong ba năm này nhất định bạn sẽ gặp được người tình lý tưởng của bạn. Năm 24 tuổi, năm này nếu bạn lập gia đình thì sẽ rất tốt. Năm 25 tuổi là năm đầy đủ hạnh phúc, cuộc đời bắt đầu phát triển từ đây.

Từ năm 26 đến năm 30 tuổi: Đây là khoảng thời gian đẹp nhất của đời bạn, gia đình thì êm ấm hạnh phúc, con cái đều được như ý, nếu bạn đã có gia đình thì tiền bạc và tài lộc vào như nước. Bạn nên lợi dụng những điều tốt nhất này để xây dựng sự nghiệp vì đây là những năm của bạn, không hề có sự thất bại hay buồn phiền.

Từ năm 31 đến năm 35 tuổi: Cuộc đời con người ta như nước thủy triều, vì vậy có khi lên thì sẽ có khi xuống, đây là những năm xuống của cuộc đời bạn, vì suốt khoảng thời gian này nhất định bạn sẽ bị lừa gạt, hao tài tốn của hoặc sẽ bị đau bệnh triền miên, làm ăn thất bại, việc gì cũng không thành. Tuy nhiên về bổn mạng  nhờ có quý nhân phù trợ nên vẫn được vững vàng.

Từ năm 36 đến năm 40 tuổi: Khoảng thời gian này là khoảng thời gian yên tĩnh của đời bạn, tài lộc trung bình, tuy nhiên sẽ có một vài sự sôi nổi về vấn đề tình cảm, hãy đề phòng, bạn có thể vì một phút yếu lòng nào đó mà có thể làm cho hạnh phúc gia đình của bạn bị sứt mẻ hoặc sụp đổ bất ngờ.

Từ năm 41 đến năm 45 tuổi: Năm 41 tuổi, năm này hơi xấu vào nhữn g tháng đầu năm, vào tháng 6 trở đi thì khá. Năm 42 tuổi năm này có nhiều triển vọng tốt đẹp nghề nghiệp, tài lộc có kết quả mỹ mãn. Năm 43 tuổi, năm này có kỵ vào tháng 3 và tháng 6, ngoài ra những tháng khác trung bình. Năm 44 tuổi năm này tài lộc tốt đẹp, toàn năm thu nhiều thắng lợi về nghề nghiệp và tình cảm. Năm 45 tuổi năm này có tốt đường tài lộc vào những tháng đầu năm, những tháng cuối năm có hơi xấu.

Từ năm 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, khá tốt và có thể làm được nhiều việc vĩ đại trong đời, năm này tài lộc vượng phát. Năm 47 và 48 tuổi hai năm này trung bình không lên cao cũng không xuống thấp. Năm 49 và 50 tuổi hai năm này vượng phát về vấn đề tài lộc và vấn đề tình cảm nhất là những tháng 4 và tháng 7 đại lợi.

Từ năm 51 đến năm 55 tuổi: Khoảng thời gian này việc àm ăn trung bình. Năm 51 tuổi, có hao tài đôi chút. Năm 52 tuổi có phần thu hoạch được nhiều tiền bạc. Năm 53 tuổi, khá hay về đường tình cảm, năm này có kỵ tháng 4. Năm 54 tuổi toàn năm đều xấu nên đề phòng tai nạn và bệnh tật. Năm 55 tuổi năm này bình thường, không có chuyện gì xảy ra quan trọng.

Từ năm 56 đến năm 60 tuổi: Khoảng thời gian này nên cẩn thẩn về bổn mạng và thân thể. Năm năm khó tránh được điều xấu làm cho thân phận có nhiều rầu buồn, hãy cố gắng sống một đời sống đạo đức, ăn ở hiền lành thì trời Phật độ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cuộc đời sự nghiệp tình duyên của nữ mệnh Bính Dần 1986

Quanh năm nghèo vì nhà có quá nhiều gương

Trong nhà treo gương quá lớn theo phong thủy sẽ dễ gây tà. Nếu vợ chồng bạn thường xuyên soi gương thì càng dễ hao tán tài sản.
Quanh năm nghèo vì nhà có quá nhiều gương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Một số thói quen xấu và cách bố trí nhà cửa không hợp lý có thể khiến quá trình tích lũy tiền và của cải gặp nhiều trở ngại hơn.

Lối vào nhà lộn xộn

Trong phong thủy, có một yếu tố rất quan trọng trong ngôi nhà mà chúng ta phải cực kì để ý đó là lối ra vào. Nó đóng một vai trò quan trọng quyết định sự may mắn gia đình. Nếu bạn bố trí phong thủy tốt tại ngay lối vào, bạn sẽ nhận được may mắn và ngược lại, bạn sẽ gặp nhiều xui rủi.

Lối ra vào của ngôi nhà bao gồm cửa chính và cửa phòng ngủ. Như chúng ta đã biết, cửa chính của ngôi nhà là nơi thu hút năng lượng khí từ bên ngoài vào nhiều nhất, nó trực tiếp ảnh hưởng đến tài lộc và vận khí của mọi thành viên trong gia đình. Vì vậy, nếu cửa ra vào mà chất đống những mớ lộn xộn, bẩn thỉu thì ắt sẽ khiến cho tài vận của bản thân sa sút, đi xuống.

Hãy để cửa ra vào được thông thoáng nhất có thể để những luồng khí trong lành, vận khí may mắn từ bên ngoài có thể đi vào trong nhà bạn một cách dễ dàng để các thành viên trong gia đình bạn được sống trong một môi trường thoải mái và trong lành. Có như vậy mọi người mới có thể sống khỏe, làm việc hiệu quả và tất nhiên tài lộc sẽ đến với bạn và gia đình.

Quá nhiều gương trong nhà dễ làm hao tán tài sản

Việc dùng gương trong phong thuỷ chủ yếu để tán khí, tức là dựa vào tính phản quang của gương để phân tán ánh sáng. Nhưng gương phân tán được khí xấu thì cũng có thể tiêu tán đi những khí tốt. Vốn khó phân định rạch ròi, nên dùng gương trong nhà cũng giống như dùng dao hai lưỡi.

Ngoài ra, trong nhà treo gương quá lớn theo phong thủy sẽ dễ gây tà. Nếu vợ chồng bạn thường xuyên soi gương thì càng dễ hao tán tài sản.

Nhà bếp luôn trống rỗng

Theo phong thủy, phòng bếp là một trong những khu vực quan trong nhất liên quan đến sự may mắn của gia đình. Từ nhiều thế kỷ qua, có đủ thức ăn là dấu hiệu của sự giàu có và thịnh vượng về tài chính. Điều này vẫn đúng tới tận ngày hôm nay.

Vì thế, bạn cũng nên tích trữ một ít đồ ăn trong tủ lạnh cũng như những nơi khác trong bếp để giữ gìn tài sản. Ngay cả khi bạn là người ít nấu ăn tại nhà, bạn vẫn cần dự trữ đồ ăn. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của bạn lúc khẩn cấp mà còn nâng cao sự dồi dào, thịnh vượng cho căn bếp.

Nếu phòng bếp của bạn đã có sự trì trệ quá lâu, bừa bộn thì cần làm nó “sống lại” bằng mọi cách. “Làm sống” lại phòng bếp sẽ tiếp thêm sinh lực cho các mối quan hệ, sức khỏe và tài lộc của bạn.

Để tiền lung tung trong nhà

Trong cuộc sống, đôi lúc, có những thói quen sử dụng tiền rất nhỏ nhưng lại khiến bạn đánh mất tài vận của mình mà không hay biết. Tiền là vật luôn hiện hữu trong đời sống của con người. Hầu như ngày nào chúng ta cũng phải dùng đến tiền để phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống. Đồng tiền kiếm ra đều phải bỏ mồ hôi, công sức và trí tuệ. Song không phải ai cũng biết tiêu và giữ tiền đúng cách.

Có một thói quen xấu rất nhiều người mắc phải đó là hay để tiền lung tung trong nhà. Mọi người thường nghĩ nhà không có người lạ nên tiện đâu để đấy. Vì thấy tiện nên rất nhiều người có thói quen vứt tiền trong phòng ngủ. Xét về phong thủy, điều này có ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Muốn tài vận tốt, tiền phải được để tập trung lại một chỗ mới tụ được tài khí. Để tiền lung tung chính là sai lầm làm phân tán tài khí của mình.

Lãng phí tài nguyên nước

Chắc hẳn rất nhiều người cho rằng lãng phí nước là vấn đề thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường không có chút liên quan đến phong thủy. Nhưng thực tế là chúng ta đã quên đi ý nghĩa của nước trong phong thủy. Theo phong thủy thì nước là tượng trưng cho của cải vật chất, vận may phát tài .

Do vậy khi chúng ta lãng phí nguồn nước đồng nghĩa với việc chúng ta vung tay quá chán ném tiền qua cửa sổ. Vì thế tốt nhất là bạn nên tiết kiệm nước ngay từ bây giờ đề vừa có thể bảo vệ môi trường, vừa có thể tiết kiệm một khoản cho bản thân trong chi tiêu hàng tháng.

Cửa sổ "đuổi" tài lộc đi nhanh chóng

Cửa sổ là một nơi quan trọng để giữ gió và khí. Vì thế, vị trí, hình dáng, kích thước cửa sổ sẽ xác định nguồn khí của ngôi nhà là tốt hay xấu, mạnh hay yếu. Nó cũng liên quan đến phong thủy của ngôi nhà và kiểm soát may mắn của gia đình. Các căn hộ chung cư thường có cửa sổ đối diện nhau không tốt đẹp.

Các cửa sổ đối diện nhau: Từ quan điểm phong thủy, kiểu cửa sổ này là mô hình điển hình của sự phá sản. Nếu cửa ra vào và cửa sổ nằm trên cùng một đường thẳng thì tiền bạc của gia đình đó sẽ dễ dàng “tiêu tan”. Dù chúng đem đến sự mát mẻ vào mùa hè và không khí thông thoáng vào mùa đông cho ngôi nhà nhưng lại rất xấu đối với sức khỏe và vận may tài lộc của gia chủ.


DiaOcOnline.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quanh năm nghèo vì nhà có quá nhiều gương

Thời khắc sự quyến rũ của 12 chòm sao nam lên tới đỉnh điểm

Mỗi chàng trai đều có một khoảnh khắc hấp dẫn phi thường, không cần quần là áo lượt, cùng xem sự quyến rũ của 12 chòm sao nam nằm ở thời khắc quan trọng nào
Thời khắc sự quyến rũ của 12 chòm sao nam lên tới đỉnh điểm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi chàng trai đều có một khoảnh khắc hấp dẫn phi thường, không cần quần là áo lượt, không cần siêu xe hay đồng hồ đắt tiền, chỉ với một động tác, một câu nói, một cử chỉ thôi cũng để để các nàng liêu xiêu. Cùng xem sự quyến rũ của 12 chòm sao nam nằm ở thời khắc quan trọng nào nhé.  

Bạch Dương: thời khắc anh hùng cứu mỹ nhân


Thoi khac su quyen ru cua 12 chom sao nam len toi dinh diem hinh anh
 
Nhiệt tình và phóng khoáng, có lúc Bạch Dương khiến người khác cảm thấy mình là chàng trai thô lỗ, thích dùng nắm đấm hơn là dùng đầu óc, thẳng thắn quá hóa ngông cuồng, dễ dàng khiến người khác tổn thương. Có lẽ mọi người đã quên mất rằng Dương Dương của chúng ta dũng cảm như thế nào, phóng khoáng như thế nào.   Thời khắc họ thể hiện bản lĩnh, anh hùng cứu mỹ nhân, phấn đấu quên mình, lên núi đao, xuống biển lửa vì người con gái mình yêu thì lập tức họ sẽ thành hình tượng tốt, chẳng khác gì siêu nhân. Lúc ấy, biết bao nhiêu soái ca, bao nhiêu anh chàng bảnh bao cũng chẳng hấp dẫn bằng vẻ phong trần của Bạch Dương.  

Kim Ngưu: thời khắc biểu đạt tình cảm

  Soi sự quyến rũ của 12 chòm sao nam có thể thấy Kim Ngưu bảo thủ, mặt lạnh lại cứng nhắc, nhiều khi chẳng thấy có chút hấp dẫn nào. Nhưng nếu có một ngày thấy dáng vẻ bẽn lẽn, rụt rè của chàng ấy khi thổ lộ tình cảm với người con gái mình yêu thì mới thấy chàng ta đáng yêu tới chừng nào.   Chàng trai vạn người mê không phải chỉ có những lời sáo rỗng cao xa mà đôi khi chỉ như Ngưu chan, thâm tình kiên định nói “Đừng sợ, đã có anh đây, dù có chuyện gì xảy ra thì anh đều ở bên em”. Trong nháy mắt, có ai mà không cảm động, có ai mà không thấy chàng quá đỗi đáng yêu.
Xem thêm bài viết Lộ tính gia trưởng của 12 chòm sao nam và cách trừng trị thích đáng
 

Song Tử: thời khắc nhai kẹo cao su

  Hướng ngoại, thích nói chuyện, thường dùng lời ngon tiếng ngọt nên Song Tử rất vui vẻ. Khi hắn nhai kẹo cao su có chút bất cần đời, có chút hững hờ đá chân xuống dưới đất có cảm giác như vừa lơ đãng vừa đáng yêu, cà lơ phất phơ mà hấp dẫn, như chàng bad boy trong mơ của mọi cô gái.  

Cự Giải : thời khắc xuống bếp


Thoi khac su quyen ru cua 12 chom sao nam len toi dinh diem hinh anh
 
Đặc tính nổi danh nhất của chàng trai Cự Giải là yêu gia đình, thích chăm lo cho ngôi nhà của mình. Khi họ thành thạo lại nghiêm túc xuống bếp, vì cô gái mình yêu mà nấu bữa cơm thật ngon lành thì dáng vẻ vô cùng hấp dẫn, có biết bao nhiêu mị lực, bao nhiêu tình cảm.   Đôi vai dày rộng, to lớn quay lại, cánh tay liên tục chuyển động, không những không mất đi vẻ nam tính là còn mang tới sự dịu dàng, đàn ông đáng kinh ngạc, khiến người ta có cảm giác yêu thương, ấm áp. Hẳn cô gái nào cũng sẽ thấy mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian.   

Sư Tử: thời khắc ôm cô gái vào ngực

  Hào phóng và kiêu ngạo nên chàng trai cung Sư Tử thường xuyên có những biểu hiện vương giả, bá đạo đến không ngờ. Ở thời khắc người yêu phản ứng lại, họ lập tức dùng cánh tay có lực mạnh mẽ ôm lấy cô gái vào ngực, tuy thô lỗ nhưng rất đàn ông, khiến cô ấy mất đi khả năng chống cự nhưng cũng không muốn phản kháng nữa.   Tận hưởng sự ngọt ngào trong vòng tay người mình yêu, thấy dáng vẻ mạnh dạn mà ấm áp của người ấy, thử hỏi có cô gái nào nỡ từ chối đây.
Xem thêm bài viết 5 chòm sao nam "dại gái" nhất vòng tròn hoàng đạo
 

Xử Nữ: thời khắc cạo râu

  Có lẽ khi xét tới sự quyến rũ của 12 chòm sao nam, sẽ không ai ngờ rằng chàng trai có dáng vẻ nghiêm túc, cẩn trọng như Xử Nữ lại có mặt khiêu gợi như thế. Đó là khi họ cạo râu, tỉ mỉ mà mạnh mẽ, gợi cảm nhưng trầm tĩnh, rất có phong vị của một người đàn ông.  

Thiên Bình: thời khắc trầm mặc

  Đàn ông Thiên Bình theo đuổi sự công bằng và cân bằng, không nhanh không chậm, thậm chí có chút lạnh lùng, nhưng kỳ thực nội tâm vẫn có chút cảm tính. Chỉ là cảm tính và lý tính hai đầu cùng giằng xé, tìm kiếm chỗ đứng cho mình nên có cảm giác không cương quyết, không rõ ràng.   Khi họ trầm mặc không nói gì, ánh mắt chuyên chú nhìn cô gái họ yêu sẽ phảng phất sự từng trải, hiểu thấu tâm sự của bạn, lý giải nội tâm của bạn, quả thực là tràn đầy sức hấp dẫn.  

Hổ Cáp: thời điểm đau lòng trách cứ


Thoi khac su quyen ru cua 12 chom sao nam len toi dinh diem hinh anh
 
Chàng trai này điển hình của tuýp người nói năng chua ngoa nhưng mềm yếu, thường bày ra dáng vẻ xấu xa phản bội, một ngày có thể vì cô gái mình yêu vấp ngã bị thương mà đau lòng, trách cứ với giọng điệu vừa hờn giận vừa đáng yêu, vừa quan tâm vừa bao dung.   Đó là biểu hiện của sự sốt ruột, thương yêu. Thời khắc này bất cứ cô gái nào cũng mềm lòng, muốn ôm chặt người đó và nũng nịu kêu đau.
Xem thêm bài viết Điểm mặt 5 anh chàng hoàng đạo sợ vợ một phép
 

Nhân Mã: thời khắc lái xe

  Có rất nhiều cô gái nhất trí cho rằng lúc chàng trai Nhân Mã lái xe, chăm chú, tỉ mỉ nhưng phóng khoáng, ngông cuồng là đẹp trai nhất, hấp dẫn nhất. Ham tự do nên phong cách lái xe của chàng ấy cũng khiến người ta cảm thấy thoải mái, dễ chịu và rất phong tình.   Không quá đùa giỡn, không quá đặc biệt nhưng sự lơ đãng này lại biết bao hấp dẫn. Như người ta nói, không biết mình đẹp mới là thời khắc đẹp nhất, thật chuẩn soái ca rồi.

Ma Kết: thời khắc hút thuốc

  Nam Ma kết thường cho người ta cảm giác quá cứng nhắc, quá cố chấp, không hiểu lãng mạn. Nhưng thực tế họ là chòm sao rất trọng tình cảm, nội tâm nhạy cảm và yếu đuối như bao người khác, hơn nữa lại còn si tình, gặp tổn thương sẽ lập tức phong tỏa bản thân, giữ lấy nỗi đau một mình.   Vì giải sầu cô quạnh cùng thất vọng nên sẽ lặng yên mà hút thuốc, tâm tư hỗn loạn lượn lờ theo khói thuốc chậm rãi tản đi. Lúc ấy phong vị đàn ông đậm nét, quyến rũ mà thần bí khiết chàng trai này trở nên đặc biệt có sức hút. Không ai nắm bắt được nhưng lại không nỡ rời mắt đi nơi khác.  

Bảo Bình: thời khắc chơi thể thao


Thoi khac su quyen ru cua 12 chom sao nam len toi dinh diem hinh anh
 
Ham muốn tự do và có một chút chủ nghĩa cá nhân nên sao nam Bảo Bình dù được xưng là ngôi sao xã giao cũng vẫn thường xuyên thể hiện bộ dạng cô độc, dáng vẻ lạnh nhạt. Tâm tình này bày ra trong lúc chơi thể thao là rõ ràng nhất, bất ngờ lại là lúc họ hấp dẫn nhất.   Theo sự quyến rũ của 12 chòm sao nam thì mỗi góc độ, mỗi động tác đều mang theo sức sống cùng sự gợi cảm đàn ông. Trong nháy mắt, ngay cả tiếng thở gấp gáp của họ cũng trở nên cực kì đẹp đẽ, khiến người ta không thể rời mắt, không thể không say mê. Đàn ông đẹp nhất khi có tham vọng và sức đấu tranh mạnh mẽ là vậy.
Xem thêm bài viết 4 chòm sao nam là cao thủ giường chiếu
 

Song Ngư: thời khắc nhún vai vô tội

  Có thể chàng trai Song Ngư không thiết thực, ảo tưởng nhưng họ sẽ thường xuyên khiến người khác quên đi khuyết điểm chỉ bằng một ánh mắt mê hoặc, một tư thế lười biếng, một nụ cười ngây thơ. Còn có một động tác khiến bất cứ ai cũng không cưỡng lại được là thời khắc ngư nhi vô tình nhún vai ra vẻ vô tội. Đáng yêu như thế, trìu mến như thế thì ai nỡ giận dỗi gì cơ chứ. 
Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Khắc tinh khiến 12 chòm sao nam ngoan ngoãn cúi đầu Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt
Trình Trình  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thời khắc sự quyến rũ của 12 chòm sao nam lên tới đỉnh điểm

Xem tướng qua tai –

Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan. Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp. Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan.

Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp. Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có bờ thành, luân quách, vành tai phải cho phân minh.

Xem tướng Tai đòi hỏi cả Hình lẫn Sắc.

Quan kỳ hình trạng nhan sắc
Kiến hồ hưu cữu vinh nhục

xem-tuong-tai

– Về hình trạng tai đầy đặn, áp vào đầu tượng trưng cho giàu có. Luân quách phân minh, ẩn cốt bên dưới, tai vuông lớn tượng trưng cho sang trọng. Nếu luân quách quăn, lộn, tai ngắn và nhọn, sứt lệch, thấp, tướng nghèo hèn.

Thuỳ châu triều hải
Tất diên toán nhi dư tài
.

– Thuỳ châu là dái tai, hướng hơi chếch về phía miệng là triều hải. Như trên đã nói, tai thuộc vận thiếu niên. Có tai đẹp chủ vận thiếu niên tốt. Tai dầy mập dễ giàu. Đa số nhà doanh thương cự phú đều có tướng thuỳ châu triều hải.

Uyển nguyệt quán luân
Chung triều vương nhi chấp ngọc 

-Vành tai vòng như vầng trăng, bẩm chất thông minh, học hành được. Người có vành tai uyển nguyệt thường gặp may mắn trong sự nghiệp quan quyền.

Kỳ bạc như chỉ hề bần bảo tử
Kỳ kiên như mộc hề lão bất khốc 

Nghĩa là: Tai mỏng như tờ giấy nghèo chết sớm
Tai cứng như gỗ ít gặp hoạ.
Tai mỏng bởi tại tiên thiên bất túc, báo hiệu hoàn cảnh về sau khốn cùng.
Tai cứng nhờ cái xương đằng sau tai tốt chứng tỏ khí lực tiên thiên khoẻ mạnh và để lúc già nua không mất sức, ốm đau bệnh tật.

Lão bất khốc là nghĩa đó.
Tai trắng hơn mặt danh vang thiên hạ. 

Nhà văn Âu Dương Tu thường kể, thuở nhỏ có nhà sư xem tướng cho ông nói: “Nhĩ bạch ư diện danh mãn thiên hạ”.
Tai sáng tinh khiết, con người chân thực trung kiên.
Danh thần Ngụy Trưng đời Đường Thái Tôn, tuy diện mạo tầm thường, duy chỉ có hai tai trắng tinh khiết. Ông được vua Đường Thái Tôn nể nhất chỉ vì ông dám chính trực can ngăn vua.

  • Tai không cứ to nhỏ. Điều quan hệ là dày dặn, cứng cáp, có vành tai trong, vành tai ngoài (luân quách) đẹp đẽ, có thuỳ châu (dái tai).
  • Tai to mà không luân quách, thuỳ châu, càng to càng vô giá trị.
  • Danh từ trư nhĩ không có nghĩa hình thù nó giống hệt tai heo đâu, trên đời chẳng ai mang cái tai như thế. Trư nhĩ là chỉ đôi tai to lớn nhưng vô luân quách, thuỳ châu.
  • Tướng trư nhĩ rất lười và ngu, lại tham tiền, tham sắc, thích rượu thịt.
  • Còn tai chuột (thử nhĩ) thì hình thù nhọn mỏng cũng vô luân quách là tướng chỉ biết thủ lợi cho riêng mình, ưa làm hại cho người khác. Tướng của bọn ăn cắp, ăn trộm.
  • Người nào tai khỉ hết sức gian trá, quỉ quyệt. Tai khỉ hình thù ra sao? Nếu tai bên phải có nốt ruồi như thế, người hiếu đễ, tốt bụng. Tai bên trái, nơi vành tai trong hoặc chỗ khoan tai (giữa vành ngoài và vành trong) có nốt ruồi, người tài giỏi khả dĩ kinh bang tế thế.

Bạch Vân Tử nói: “Hàm quắt, tai nhọn ưa dùng quỉ kế” (Tiêm nhĩ, súc tư thiên ban quỷ kế).
Chọn bạn, định cộng tác làm việc chớ có gần kẻ tai khỉ.
Tai khỉ còn quỷ quyệt hơn những người tướng:

  • Lấy lưỡi liếm môi như rắn
  • Mắt ba góc
  • Mắt to mắt nhỏ
  • Mũi mỏ chim
  • Mũi đỏ lấm tấm
Bạc như hướng tiền, mãi tận điền viên.
Phản nhi đoả hậu cư vô thất ốc. 

Hai tai mỏng vểnh về đằng trước, sách tướng gọi là Chiêu phong nhĩ (tai đón gió) chủ phá bại. Nếu nó lại mỏng lệch thì bán sạch nhà cửa ruộng vườn.

Tướng bạt nhĩ lộn ra phía sau (đảo hậu), suốt đời không mua nổi cái nhà. Dù con nhà gia thế, nếu có hai loại tai đó rồi cũng thất cơ lỡ vận.

Hôn ám nan nghị hồ đăng đệ
Tiêu khô lữ thán kỳ không trục. 

Tai trông tối thui, triệu chứng của tinh thần suy nhược, tất nhiên học bất thành, không thể đỗ đạt.
Nếu tai vàng héo khô khốc, tính mạng sắp nguy.
Sách “Ma Y Thần Tướng” nói:
Nhĩ luân tiêu hắc, tử tại nhãn tiền (Vành tai khô đen, chết ở trước mắt).

Thọ việt mi hề quý phún huyết.
Thông minh nhuận hề, phú điếm nhục. 

Hình tai dài và lớn, bên trên cao hơn lông mày, bên dưới ngang với góc miệng là tướng thọ. Cả đời ít khi ốm đau dù gặp nghịch cảnh cũng chẳng bao giờ buồn phiền.

Hai tai ửng hồng như phun son đại quý cách. Hồng phải đi đôi với nhuận mơn mởn như cánh hoa hồng buổi sớm. Nếu đỏ mà lại khô thì là tên hung ác, đồ tể, côn đồ.

Tai màu ửng hồng minh nhuận biểu hiện tâm thần cường tráng. Nhĩ thông thường đi đôi với mục minh. Sách “Linh Sơn Bí quyết” có câu: “Nhĩ môn khoan đại nhuận trạch minh huỳnh châu viên quách hậu, tài trí siêu quần”(cửa tai rộng rãi, to, sắc trạch nhuận sáng, dái tai tròn vành tai dầy, tài giỏi hơn người).

Tai đầy áp sát vào đầu, đứng trước mặt không trông thấy tai, đại phú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tai –

Đau ốm liên miên vì nhà ở phạm đại kỵ phong thủy

Vì thiếu hiểu biết về phong thủy, nhiều gia đình khi bố trí sắp xếp nhà ở đã phạm phải rất nhiều đại kỵ khiến cho các thành viên trong gia đình quanh năm đau ốm, bệnh tật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Bố trí nhà vệ sinh cạnh bếp

Ai cũng biết rằng khu vực bếp ăn là nơi nấu nướng, chế biến đồ ăn thức uống cần vệ sinh an toàn, trong khi nhà vệ sinh lại luôn tiềm ẩn sự ô nhiễm, nơi nuôi dưỡng vi khuẩn và không khí bẩn, vì vậy nếu nhà vệ sinh đặt ngay cạnh bếp ăn sẽ gây tổn hại sức khỏe cả gia đình. Nhất là không nên mở nhà vệ sinh hướng thẳng ra bếp nấu. Theo phong thuỷ, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến người phụ nữ trong gia đình, có thể gây bệnh tật. Hơn nữa, theo ngũ hành thì thuỷ khắc hoả, vì vậy bếp tránh đặt quá gần khu chứa nước, nhà vệ sinh hoặc bồn rửa.


Ngoài ra, nhà vệ sinh cũng không nên bố trí trong phòng ngủ hoặc đối diện với phòng ngủ. Ngày nay, rất nhiều gia đình đặt nhà vệ sinh trong các phòng ngủ để tiết kiệm diện tích và tiện cho sinh hoạt. Nhưng ít ai biết đây là một sai lầm nghiêm trọng. Phòng ngủ là chốn thư giãn, nghỉ ngơi, rất cần không khí trong lành, nếu nhà vệ sinh đặt trong phòng ngủ sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ đồng thời tác động không tốt đến tình cảm vợ chồng.

2. Cửa chính tránh đối diện với nơi để rác

Tránh việc mở cửa nhìn thấy rác hoặc đồ tạp nham, bẩn thỉu. Cửa chính của ngôi nhà là vị trí địa lý rất quan trọng, là nơi ra vào mỗi ngày, là đường ra vào của vận khí. Vì vậy, vị trí này cũng là yếu tố phong thủy quan trọng quyết định sức khỏe đối với gia chủ.


Nếu trước cửa chất đầy đồ lộn xộn, uế tạp hoặc xả rác sẽ tạo ra uế khí gây ảnh hưởng đến môi trường sống. Khi mở cửa, luồng uế khí sẽ theo vào nhà ảnh hưởng đến khí trường và tâm tính của gia chủ. Khi tâm tính không tốt thì khó có được vận khí tốt, lâu dần sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người già và trẻ con, thậm chí dễ rước vận xui vào nhà.

3. Tránh đặt bếp hướng Tây

Cổ nhân cho rằng, nên tránh đặt bếp ở hướng Tây vì hướng Tây thuộc hành Kim sẽ khắc với bếp thuộc hành Hỏa. Ngoài ra, khi chiều mặt trời lặn về hướng Tây với ánh nắng gay gắt sẽ chiếu xiên thẳng vào bếp (là điều cực độc về phong thủy) không những làm không khí trong gian bếp ngột ngạt, oi bức, mà còn gây khó khăn cho việc nấu nướng, dễ làm cho thức ăn dễ ôi thiu, hư hỏng.

Nếu đặt bếp ở hướng Tây, các thành viên trong nhà đều bị ảnh hưởng không tốt về sức khỏe, dễ sinh bệnh tật. Do đó, tốt nhất nên tránh đặt bếp ở hướng này.

4. Nhét đầy đồ vật dưới gầm giường

Vì không gian chật hẹp nên nhiều gia đình thường nhét các vật dụng dư thừa xuống gầm giường. Thực tế, trong một ngày thì có đến gần nửa thời gian chúng ta nghỉ ngơi trên giường. Nếu gầm giường chất nhiều đồ linh tinh sẽ tạo ra môi trường cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở, sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe và vận khí của bạn. Các đồ đạc tạp nham này rất dễ tạo nên sự hỗn loạn của từ trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ. Tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến thần kinh, nhất là ảnh hưởng không tốt cho thai phụ.

5. Để cây xanh vào phòng ngủ

Theo phong thủy, cây xanh cần được sử dụng một cách hợp lý. Không nên để cây xanh trong phòng ngủ vì ban đêm cây nhả khí CO2 sẽ gây hao tổn sức lực cho chủ nhân. Đặc biệt, đối với phòng ngủ của vợ chồng thì cây xanh còn làm giảm đi sự lãng mạn giữa 2 người.


6. Vứt giày dép bừa bãi trên sàn nhà

Giày dép đi từ ngoài về sẽ mang theo bụi bẩn, chưa kể đến có một số người chân đi giày còn nặng mùi, nếu không để gọn gàng vào tủ giầy mà vất bừa bãi ở ngay tiền phòng của phòng khách sẽ khiến cả nhà bạn phải hít thở bầu không khí ô nhiễm, sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đau ốm liên miên vì nhà ở phạm đại kỵ phong thủy

Ý nghĩa phong thủy các con số –

• Số Một (1) Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao - độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

• Số Một (1)

Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao – độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó có thể đơn độc và hiểm nghèo, bởi chúng ta không phải là thần thánh. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.

foam-numbers-set-10633-p

• Số hai (2)

Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.

• Số ba (3)

Được xem là con số vững chắc, như kiếng ba chân là một hình thức vững chắc nhất. Người Trung Quốc có câu “ba với ba là mãi mãi” (bất tận) và biểu tượng hy vọng trường thọ. Phong thủy dùng nhiều lĩnh vực số học trong việc bài trí các đồ vật và con số ba là con số đặc biệt hữu dụng cho việc tăng thêm vẻ vững chắc khi đập mắt vào và sự hài hòa của một môi trường.

• Số bốn (4)

Là sự hình thành của hai đôi. Hai cặp chắc hẳn phải tốt lành, thuận lợi nhưng trong cách phát âm tiếng Trung Quốc nó giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm. Thuật phong thủy tìm cách tránh bất cứ sự bài trí có liên quan đến con số bốn.

• Số năm (5)

Tượng trưng cho danh dự, uy quyền, quyền lực. Số năm còn có nghĩa là năm hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây và Trung tâm) là năm ngọn núi thiêng liêng của Trung Quốc. Số năm tượng trưng cho trường thọ và bất diệt. Con số năm cũng là sự kết hợp với căn nhà bằng vàng, nắm giữ sự thịnh vượng và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Số năm là một con số tuyệt vời dùng trong việc bài trí phong thủy.

• Số sáu (6)

Là gấp đôi của số ba và như thế là điềm lành, thuận lợi. Ba cộng thêm sáu là chín và cùng nhau tạo thành nhóm ba con số may mắn. Một sự bài trí dùng bất cứ đồ vật có 6, 9, 3 món đều tốt cho việc hòa giải những khu vực xấu hoặc những nơi hướng xấu.

• Số bảy (7)

Là con số có sức mạnh kỳ diệu với những nguồn gốc truyền thuyết sâu sắc. Đó là 7 sao và cây gươm 7 sao dùng trong nghi lễ đạo Lão, tượng trưng cho sức mạnh đẩy lùi ma quỷ trong phong thủy, một sự bài trí 7 món đồ vật được ban cho một sức mạnh kỳ bí và một cảm giác của sự bất khả xâm phạm.

• Số tám (8)

Cũng là con số có nhiều sự quan hệ tôn giáo, là tám điều bất tử trong đạo Lão và bát chánh trong Phật giáo. Một cửa sổ hình bát giác hoặc bình cắm hoa tám mặt và một bát quái (thường được treo trước ngưỡng cửa) cũng tốt, có thể ngăn chặn những ảnh hưởng xấu trước khi chúng muốn xâm nhập vào nhà.

• Số chín (9)

Và cuối cùng là con số chính, là con số hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Tiếng Trung Quốc, số chín đồng âm với từ “trường thọ và may mắn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy các con số –

Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Theo nhân tướng học, mỗi nốt ruồi trên cơ thể đều có một ý nghĩa nhất định. Dưới đây là một số cách nhận biết nốt ruồi giàu sang trên khuôn mặt đàn ông. Nốt ruồi trên mũi Mũi còn gọi là cung Tài Bạch, 1 trong 12 cung trên mặt. Theo nhân tướng học, nế
Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Tài lộc của người tuổi Thân theo từng tháng (Phần 2)

Tài lộc của người tuổi Thân trong tháng 7 (tháng Thân) xấu đi nhanh chóng. Do đó, cần nắm vững vị trí hiện tại, không hành động theo cảm tính.
Tài lộc của người tuổi Thân theo từng tháng (Phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tai loc cua nguoi tuoi Than theo tung thang
 

Tháng 7 (Âm lịch)

Ngoài ra, công việc có nhiều biến đổi, nếu không chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lý thì khó có được kết quả tốt. Vào tháng này, người tuổi Thân cần chú ý bình tĩnh, tỉnh táo trước mọi tính huống xấu.

Tháng 8 (Âm lịch)

So với tháng trước, tài lộc của người tuổi Thân trong tháng 8 (tháng Dậu) có phần tốt hơn. Những khó khăn trong công việc hay quản lý tài chính dần được tháo gỡ. Trong tháng này, người tuổi Thân nên thận trọng trong công việc và dùng người, tránh chuyện thị phi và tiểu nhân làm hại. Ngoài ra, họ cũng phải chú ý bảo vệ nhà cửa, đề phòng mất trộm.

Tháng 9 (Âm lịch)

Do có nhiều sao tốt chiếu mệnh trong tháng Tuất nên vận thế của người tuổi Thân rất tốt. Công việc tiến triển thuận lợi, đồng nghiệp trên dưới đều hòa thuận. Tháng này chính là cơ hội để họ phát triển sự nghiệp. Họ cần chú ý để tâm tư luôn lạc quan, yêu đời, hiểu và thông cảm với đồng nghiệp, làm như vậy sẽ có được nhiều sự trợ giúp hơn.
 

Tháng 10 (Âm lịch)

Mặc dù tài lộc của người tuổi Thân trong tháng 10 (tháng Hợi) kém hơn so với tháng trước, song vẫn được coi là ổn định, không có trở ngại lớn. Chỉ cần “biết mình biết ta”, người tuổi Thân sẽ vượt qua được những thử thách trong công việc mà cấp trên giao phó. Trong tháng này, họ nên tránh đối đầu với người khác kẻo cả hai cùng chịu thiệt. Hơn nữa, người này phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày để tránh “tai vách mạch rừng”.

Tháng 11 (Âm lịch)

Vận thế trong tháng tháng Tý của người tuổi Thân phát triển tốt hơn dự kiến. Họ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống và công việc. Kinh tế ổn định, tài lộc dồi dào, người này luôn ở trong tâm trạng lạc quan, yêu đời, sức khỏe được cải thiện. Thời gian này, người tuổi Thân nên mở rộng nhiều mối quan hệ hơn nữa để thu được nhiều tài lộc cuối năm.

Tháng 12 (Âm lịch)

Tháng cuối năm, vận thế và tài lộc của người tuổi Thân tương đối tốt. Nếu biết vận dụng thời cơ đến từ tháng trước, người này sẽ thu được món lợi “khổng lồ” từ các hợp đồng kinh doanh. Nói chung, tháng này là thời gian để người tuổi Thân kiểm định lại tất cả nguồn thu của mình. Họ nên suy xét kỹ để cân bằng lại tình hình tài chính của doanh nghiệp.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Thân theo từng tháng (Phần 2)

Bí quyết tuyệt vời gia tăng vận đào hoa ngày Rằm tháng Giêng

Bật mí những bí mật gia tăng vận đào hoa tuyệt diệu nhất trong ngày Rằm Tháng Giêng - Valentine phương Đông. Cách tăng vận đào hoa để tình yêu nảy nở
Bí quyết tuyệt vời gia tăng vận đào hoa ngày Rằm tháng Giêng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Rằm Tháng Giêng ở Việt Nam còn gọi là ngày vía Phật Tổ, nhưng ít ai biết rằng Rằm Tháng Giêng còn được coi là mùa Valentine phương Đông. Thơ Đường xưa đã viết: "Nguyên tiêu chi dạ hoa lộng nguyệt", mùa trăng tròn lung linh sắc màu hoa đăng rực rỡ cũng là dịp nam thanh nữ tú thả đèn trời hẹn hò se duyên.


Dưới đây, ## xin được giới thiệu cho bạn đọc những bí mật gia tăng vận đào hoa tuyệt diệu nhất trong ngày Rằm Tháng Giêng này.



Bi quyet tuyet voi gia tang van dao hoa ngay Ram thang Gieng hinh anh

► Mời các bạn: Đổi ngày dương sang âm nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lịch ngày tốt

Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết tuyệt vời gia tăng vận đào hoa ngày Rằm tháng Giêng

Cách gian phi trong tử vi

Cách gian phi, cũng như hầu hết các cách khác là một cách tổng hợp. Điều đó có nghĩa là không riêng biệt một cung nào nói về cách này, không riêng sao nào chỉ cách này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách gian phi trong tử vi

Cách gian phi trong tử vi

Cách gian phi, cũng như hầu hết các cách khác là một cách tổng hợp. Điều đó có nghĩa là không riêng biệt một cung nào nói về cách này, không riêng sao nào chỉ cách này. Muốn xác định cá tính và hành vi gian phi, phải xét toàn thể bảng số sao cung, kết hợp với rất nhiều sao, nhiều cách rồi mới kết luận được. Bởi gian phi có nhiều hình thái phức tạp (từ trộm cắp, cướp của, giết người cho đến tham nhũng, lường gạt, hiếp dâm, v.v…)

Bắt nguồn từ nhiều nét cá tính ẩn giấu (từ bất nhân, độc ác, vô hạnh, xảo trá cho đến thủ đoạn, tham lam, đố kỵ, ghen ghét, ích kỷ, hung bạo, v.v…) cho nên khó được giải đoán cho cụ thể. Hơn nữa, các sao chỉ nết gian hay hành vi gian giảo, độc ác lại trúng với các hãm tinh, sát tinh, hình tinh. Cụ thể, cách gian phi thì dễ lẫn lộn với họa cách, yểu cách, bần cách. Có khi người gặp một số sao nào đó bị yểu chứ không phải gian, có khi vừa gian vừa yểu, khiến cho việc kết luận khó lòng được xác quyết. Có thể nói áp dụng lối suy luận tương tự để tìm cách gian phi, chẳng hạn như nói “bần cùng sinh đạo tặc”, nhưng trên thực tế, không phải lúc nào lối suy luận này cũng đúng, vì có khi bần cùng mà thanh khiết. Trên bảng Số sao cung, các nét gian phi dễ thấy nhưng không phải là dễ nói. Vì vậy, người xem Số thường rất thận trọng!

1. Chính tinh hãm địa:

Tham Lang hãm địa: chỉ sự ham muốn quá độ, cuồng vọng thực hiện ý muốn của mình, không kể đến đạo đức, liêm sỉ. Đây là sao của người ích kỷ và bất nhẫn, hành động theo dục vọng và bản năng hơn là lý trí. 4 vị trí xấu của Tham Lang cho các tuổi như sau:

Tuổi:

Cung Mệnh có Tham Lang tại:

 

Tuổi  Cung mệnh có tham lang tại:
 thân, tý, thìn  tý
 dần, ngọ, tuất  ngọ
 hợi, mão, mùi  mão
 tỵ, sửu, dậu  dậu

 

Tại 4 vị trí này: Tham Lang có nghĩa là trộm cắp, gian xảo. Đi chung với sát tinh, ý nghĩa này càng gia tăng. Riêng phụ nữ, Mệnh có Tham Lang và Đào Hoa còn bị cho là độc ác, thâm hiểm và dâm đãng, trừ phi được Tuần, Triệt khắc chế.

Phá Quân hãm địa: hung tợn, nham hiểm và bất nhân, báo hiệu nhiều điềm dữ. Những vị trí hãm địa của sao này là ở Mão, Dậu, Tỵ, Hợi, Dần, Thân.

Vài biệt lệ cho Phá Quân hãm địa như sau:

Tuổi:

Cung Mệnh có Phá Quân tại:

Tuổi Cung mệnh có phá quân tại:
ất, tân, quý Mão, Dậu
giáp, canh, đinh Dần, thân
kỷ, mậu tỵ, hợi

Gặp các vị trí này, Phá Quân đỡ xấu về tai họa nhưng tính nết xấu kể trên vẫn không mất.

Gặp sát tinh hãm đại hay Đại Tiểu Hao, Hổ, Ky, Hình, Phá Quân hãm địa càng làm tăng tính nết gian phi, dù có được sao giàu, sao quý hỗ trợ cũng không mất nghĩa xấu. Đó là những kẻ bất lương làm giàu hay những người có quyền mà bất nhân, bất nghĩa. Tiền bạc và quyền hành thường thủ đắc bằng thủ đoạn hèn hạ, phi nghĩa, xét ra còn nguy hiểm hơn hạng người bất lương mà nghèo hèn.

Phá Quân, Liêm Trinh ở Mão, Dậu:

Bộ sao này có nghĩa độc ác, hay hại người, xuống tay không nể tình. Nam thì tàn bạo, phá hoại, nổi loạn; Nữ thì đa tật, hung dữ, chưa kể lăng loàn.

Đi chung với Hỏa, Linh hay Tả Hữu, nết dữ càng mạnh thêm, con người chẳng khác gì thú dữ. 

Phá Quân, Vũ Khúc ở Tỵ, Hợi: đây là bộ sao tham lận, bất lương, hay có thói lường gạt, ăn gian, biển lận chỉ vì ham tiền.

Tham Lang, Liêm Trinh ở Tỵ, Hợi: chỉ tính nết đàng điếm của nam số và tính giang hồ của nữ số. Những hành động gian phi thường bắt nguồn từ động lực tình dục. Về mặt họa, đây là bộ sao chỉ ngục hình.

Vũ Khúc, Thất Sát hãm địa (ở Mão, Dậu, Thìn và Tuất): ý nghĩa tương tự như Vũ, Phá đồng cung.

Các chính tinh khác đi chung với sát tinh, ý nghĩa gian phi cũng tiềm tàng. Đó là trường hợp sát tinh hãm địa đi với Nhật, Nguyệt hãm hoặc với Cơ dù miếu hay hãm địa hoặc cả với Tử, Phủ hãm địa. 

2. Những phụ tinh hãm địa: 

Địa Không, Địa Kiếp hãm địa (trừ ở Tỵ, Hợi, Dần và Thân): đại diện cho loại gian phi cực hung, có mưu lược xảo quyệt và cao thâm lại có hành động ác độc và bất ngờ. Đi chung với cac sao xấu khác hoặc với các chính tinh hãm đại, tính nết và hành vi gian phi của Không Kiếp càng mạnh thêm, thiên về bá đạo, cực đoan, cuồng tín. Trong bối cảnh bất hảo như thế, Không Kiếp bao giờ cũng là sao gây họa cho người khác và rước họa cho chính mình. Tai họa này thường khủng khiếp, tàn bạo và thảm khốc. Đi chung với sao tốt, việc làm gian ác cũng không giảm bao nhiêu, duy ở vị thế tiềm tàng, lúc bột phát thì không lường trước được, Không Kiếp lúc nào cũng mang họa hay bất lợi cho sao tốt. Trong cách võ của một quân nhân, Không Kiếp lại hữu dụng, nhờ ở mưu lược, sự can đảm liều mạng với địch.

 

Phục Binh hay Thiên Không: chỉ thủ đoạn, tráo trở, lật lọng, gài bẫy để mưu lợi riêng cho mình, bất chấp quyền lợi kẻ khác. Nếu lá số xấu, Phục Binh chỉ người ăn cắp, ăn gian, thủ đoạn hoặc là kẻ gièm pha, ám hại, a tòng với gian phi làm chuyện bất chính, bất nghĩa. Đi với sao tài, Phục Binh chỉ sự lường gạt tiền bạc, ăn chặn, đục khoét, làm tiền kẻ khác. Đi với sao tình thì đây là sự dụ dỗ, gạt tình làm cho người kia sa vào nghiệp chướng của ái tình, của sa đọa. Đi với sao quyền, Phục Binh chỉ sự sử dụng quyền hành để hiếp đáp, khống chế người khác. Hai sao này còn có nghĩa chính mình là nạn nhân của kẻ khác nếu lá số xấu: đó là những người bị lừa, bị cắp, bị gạt tình hay gạt tiền, bị chèn ép, phục kích, phỉ báng. Phục Binh hay Thiên Không đều có nghĩa là thông minh, cái thông minh của hạng gian xảo, quỷ quyệt, nhẹ hơn là sự liến thoắng, cắc cớ, trêu chọc, phá phách, đùa dai. Đi với Tả Hữu, hai sao này càng xấy thêm vì có sự kết bè họp đảng hành động bất chính. 

Hóa Kỵ, Thái Tuế: nếu đi với các gian tinh khác, chỉ hình thức hại người bằng lời nói như vu cáo, vu khống, xuyên tạc, thêm bớt với ác ý, dã tâm. Động lực hầu như vì đố kỵ, cạnh tranh, tự ái lớn hoặc vì bị chỉ trích, bị tố cáo. Bằng không, chỉ là gièm xiểm, chê bai, ngồi lê đôi mách thông thường.

Thiên Hình, Kiếp Sát: đứng riêng rẽ, Hình và Kiếp Sát không có nghĩa gian phi mà chỉ tai họa do kiện tụng và ẩu đả. Nếu đi chung với nhiều gian tinh khác, nết gian của hai sao này là đả thương, cố ý gây thương tích cho đối thủ, tạo tàn tật, bệnh hoạn, kiểu như tạt axít, rạch mặt, bắt giam (Thiên Hình) bắt cóc, đầy ải, tra tấn. Về dụng cụ, Hình và Kiếp Sát là vật nhọn thì dao găm, búa rìu, lựu đạn hay súng được dùng làm vũ khí.

Thiên Hình, Lực Sỹ: trong lá số xấu, Hình và Lực ở Mệnh có nghĩa là ăn trộm, đạo tặc. 

Kình Dương, Đà La hãm địa (ở Tý, Dần, Mão, Ngọ, Thân và Dậu): hung bạo, liều lĩnh, độc ác, hay giết chóc, phá hoại, gây tai họa. Vì Kình Đà đều chỉ chân tay cho nên có nghĩa đánh đập, gây thương tích ở tứ chi, dùng tay giết hại người khi hai sao này đi chung với Thất Sát hãm, Phá Quân hãm, Không, Kiếp hãm ...

Hỏa Tinh, Linh Tinh hãm địa (ở Tý, Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi): cũng gần đồng nghĩa với Kình Đà hãm địa nhưng mạnh hơn về hậu quả. Hỏa Linh hãm địa là đoản thọ sát tinh cho nên việc trả thù có thể nguy hiểm cho tính mạng đối thủ bằng các phương tiện như lửa, điện, lựu đạn, đốt nhà, chất nổ...

Lưu Hà: Đứng riêng, chỉ có nghĩa gian hiểm, độc ác sát phạt, gây tai họa. Đi chung với các gian tinh khác, hình thái hại người có thể liên quan đến nước. Đi với Kiếp Sát, Lưu Hà trở nên nguy hiểm, có thể giết người.

3. Những sao trợ gian:

Tả Phù, Hữu Bật: chỉ tòng phạm hay đồng phạm. Có Tả Hữu, gian phi sẽ có bè cánh, có chi nhánh, có hệ thống. Hai sao Phục Binh và Thiên Mã đồng nghĩa với Tả Hữu trong trường hợp này. 

Hóa Quyền: đi với sao hung, Quyền sẽ trợ hung. Quyền tượng trưng cho sự lạm quyền, việc dùng thế lực để yểm trợ gian phi, dùng quyền hành chi phối cộng sự để cưỡng chế họ hoạt động cho mình.

Đẩu Quân, Lưu Hà, Lực Sỹ, Thiên La, Địa Võng, Tướng Quân, Phục Binh, Quan Đới: có tác dụng làm tăng thêm hung tính cho các gian tinh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách gian phi trong tử vi

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch

Tháng 7 âm lịch (từ 8/8 đến 7/9 dương lịch), hứa hẹn nhiều may mắn đến với 12 con giáp.
Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Tuổi Tý

Đây là một tháng hứa hẹn cho người tuổi Tý, với sự xuất hiện kép của ngôi sao Nhất Bạch, mang theo vận may chiến thắng dưới mọi hình thức. Tháng này thuận lợi cho việc theo đuổi những ý tưởng lớn. Trong bất cứ cuộc cạnh tranh nào, bạn cũng có cơ hội chiến thắng. Tuy nhiên cũng vì thế mà không nên quá tự mãn.

Trong công việc, trực giác nhạy bén giúp bạn nhận ra những gì là quan trọng nhất và dễ dàng phân biệt tốt xấu. Cấp trên đánh giá cao cách làm việc của bạn. Hãy mạnh dạn bày tỏ khả năng cũng như các ý tưởng của mình, tận dụng thời cơ để theo đuổi những gì bạn muốn.

Vận may làm ăn tháng này rất tốt. Sự cạnh tranh rất lớn nhưng cơ hội thành công cũng cao, có cơ hội tốt để mở rộng thị trường. Khác với tháng trước, bạn không còn gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định nữa. Hãy lắng nghe những điều trái tim mách bảo và mạnh dạn làm thử những việc mới bạn cảm thấy yêu thích. Ý tưởng mới nảy sinh lúc này có nhiều cơ hội thành công.

Trong tình cảm, các mối quan hệ trở nên sâu sắc hơn, cả trong tình bạn và trong tình yêu. Bạn được mọi người yêu quý. Một số người tuổi Tý sẽ có bạn mới.

Tuổi Sửu

Mọi việc có vẻ tốt lên khi năng lượng tốt lành vây quanh bạn. Ngôi sao Bát Bạch của tháng kết hợp với Bát Bạch của năm mang tới những may mắn kép, dưới dạng của cải, thành công và hạnh phúc. Hơn thế nữa, thành công không kéo theo sự đố kỵ.

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Lịch làm việc vô cùng bận rộn có thể khiến bạn kiệt sức nhưng vẫn cảm thấy hứng thú. Công việc nhiều nhưng bạn luôn biết rõ cần phải làm gì và không hề cảm thấy căng thẳng. Khả năng hòa hợp của người tuổi Sửu tháng này rất cao, làm việc nhóm góp phần quan trọng vào thành công của bạn lúc này.

Tài vận tháng này lớn. Đây là thời điểm tốt để đưa ra những ý tưởng mới, có thể giúp gia tăng đáng kể doanh thu. Đây cũng là lúc thích hợp để mở rộng kinh doanh, kết hợp làm ăn với những người mà bạn tin tưởng.

Trong tình cảm, bạn sẵn sàng chia sẻ và chăm sóc người khác. Nếu đã có người yêu bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc. Cuộc sống tình cảm của người đã có gia đình cũng hứa hẹn nhiều điều tốt lành.

Tuổi Dần

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Tài vận của bạn được nhân đôi trong tháng này. Thành công và hạnh phúc cũng đầy hứa hẹn. Đồng nghiệp rất khó theo kịp bạn, nhưng họ sẽ hoan hỉ về sự tài giỏi của bạn và cùng bạn chia sẻ niềm vui thành công. Tuổi Dần không phải lo lắng về những kẻ ghen tị hay chống đối vào lúc này. Vận may trong tình bạn tháng này cũng rất tốt.

Điều kiện làm việc của bạn hết sức thuận lợi, với sự giúp đỡ từ những nhân vật quan trọng. Hãy tăng cường làm việc nhóm, bạn sẽ nhận được sự hỗ trợ của những người xung quanh. Tuy nhiên, cũng đừng tranh thủ vận may của mình để tìm cách vượt lên một cách không công bằng.

Tài vận tháng này tốt. Nếu kế hoạch hành động đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ tháng trước thì bạn có thể thấy mọi việc tiến triển nhanh hơn mong đợi. Mọi dự án đều kết thúc hết sức thuận lợi, chẳng cần bạn quá nhọc công.

Trong tình yêu, nếu bạn đã có ai đó để chia sẻ buồn vui thì hạnh phúc sẽ nhân đôi. Gia đình con cái lại chiếm vị trí số một trong thời gian biểu của người đã kết hôn. Tuy bận rộn với công việc, bạn vẫn luôn có đủ thời gian cho gia dình. Tuổi Dần độc thân muốn tìm bạn đời hãy quan sát thật kỹ, người đó đang ở đâu đây quanh bạn. 

Tuổi Mão

Một tháng với nhiều tranh chấp, cãi cọ đối với người tuổi Mão. Bạn trở nên cực kỳ bẳn tính và khó gần. Hãy ý thức về việc này và dừng lại khi phát hiện mình đang cãi cọ vì những chuyện nhỏ. Nếu bạn luôn cố gắng giữ mối quan hệ hòa hảo với mọi người, mọi chuyện sẽ trở nên dễ chịu hơn và mục tiêu bạn đề ra cũng sẽ dễ đạt được hơn.

Mâu thuẫn về quan điểm là khó tránh khỏi, nhất là giữa đồng nghiệp. Hãy tăng cường thời gian làm việc một mình, càng ít giao tiếp với đồng nghiệp thì nguy cơ bị hiểu nhầm càng thấp. Bạn sẽ cảm thấy mình đặc biệt hiệu quả khi làm việc độc lập trong tháng này. Rất ít người có khả năng khiến bạn hài lòng vào lúc này. Thêm người sẽ chỉ làm hỏng việc và khiến bạn mất tập trung.

Kinh doanh tháng này không mấy suôn sẻ, có rất nhiều bế tắc nếu bạn muốn hoàn thành một thỏa thuận phức tạp. Các bạn hàng trước đây làm ăn yên ổn nay đột nhiên có thể có hành vi khác lạ. Tốt nhất là hãy nằm yên để tránh nguy cơ dính vào kiện tụng. Trước khi ký kết bất cứ thứ giấy tờ gì, hãy nhờ chuyên gia xem xét kỹ để tránh tranh chấp về pháp lý sau này. Tốt nhất là tránh giải quyết các bất đồng trong tháng này, hãy đợi đến tháng sau, khi ngôi sao cãi cọ tạm rút khỏi cung tử vi của bạn. Nếu bạn đang vướng mắc trong tranh chấp thì hãy cố gắng tìm cách giải quyết sự việc bên ngoài tòa án vì vận may của bạn ở khu vực này cực kỳ thấp.

Quan hệ với những người xung quanh có thể trở nên căng thẳng, hãy giữ gìn lời ăn tiếng nói. Hiểu nhầm cũng rất dễ nảy sinh trong cuộc sống riêng. Nếu là người đã có gia đình, bạn có thể nổi nóng vì những chuyện không đâu. Đừng để chuyện nhỏ thành lớn và nếu có tranh cãi thì nên tránh nhắc lại những chuyện trong quá khứ. Hãy dành thời gian để chơi thể thao hay làm việc bạn yêu thích để đốt cháy hết năng lượng cãi cọ.  

Tuổi Thìn

Sự xuất hiện kép của ngôi sao Đào Hoa hứa hẹn mang lại nhiều hạnh phúc hoặc nhiều xáo trộn trong cuộc sống riêng. Người tuổi Thìn độc thân có thể cảm thấy bay bổng trong tình yêu, sao lãng công việc; người đã có gia đình phải cố gắng tránh xa các cám dỗ từ những cuộc tình vụng trộm, có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới hạnh phúc gia đình. Tháng này vận may học hành thi cử tốt cho học sinh, sinh viên và những người làm công tác nghiên cứu. Đây cũng là một tháng tốt lành cho tình bạn, cơ hội mở rộng mạng lưới bạn bè rất cao.

Trong công việc, quan hệ tốt đẹp với mọi người khiến bạn cảm thấy dễ chịu. Cả cấp trên và đồng nghiệp đều yêu mến bạn. Bạn cũng tỏ ra gắn kết với các đồng nghiệp. Tuy nhiên, những giờ làm việc dài bên nhau có thể đẩy quan hệ đồng nghiệp đi quá xa. Người có gia đình cần tránh những chuyện lãng mạn nơi công sở, nếu không muốn hạnh phúc gia đình đổ vỡ.

Vận may trong kinh doanh tháng này là trung bình. Ưu điểm nổi trội lúc này của bạn là khả năng tư duy sáng tạo và tự đổi mới. Nếu muốn tăng doanh số và lợi nhuận, hãy tìm cách thay đổi sản phẩm hay dịch vụ của bạn theo cách sáng tạo nhất.

Cuộc sống tình cảm của bạn sẽ "rực lửa" trong tháng này. Người tuổi Thìn độc thân đang tìm kiếm tình yêu sẽ không gặp phải khó khăn. Có thể nhiều người đang thu hút sụ quan tâm của bạn nhưng tốt nhất là tránh chơi trò bắt cá hai tay. Nếu bạn đã gặp được một người ‘đặc biệt’ thì hãy quan tâm nhiều hơn đến người đó.

Người có gia đình cũng cần tập trung củng cố quan hệ vợ chồng. Sẽ có những cám dỗ bên ngoài và điều này chỉ mang tới cho bạn rắc rối. và gây tổn thương cho những người bạn yêu quý nhất.

Tuổi Tỵ

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Sự xuất hiện đồng thời của hai ngôi sao Đào Hoa tháng và năm hứa hẹn nhiều điều tốt lành cho người tuổi Tỵ độc thân đang tìm kiếm tình yêu. Tuy nhiên, với một số người, các ngôi sao này lại có thể tạo nên nhiều xáo trộn trong cuộc sống gia đình. Những cung bậc tình cảm sôi nổi có thể khiến bạn sao nhãng công việc, một số người tuổi Tỵ thực sự trở nên bay bổng và mơ mộng, hoàn toàn không thích hợp cho công việc đòi hỏi sự nghiêm túc. Vì vậy, sự xuất hiện kép của sao Đào Hoa là tốt hay xấu tùy thuộc hoàn toàn vào công việc bạn đảm nhận. Học sinh sinh viên gặp nhiều may mắn trong học hành, thi cử tháng này.

Trong công việc, bạn cảm thấy vui vẻ và dễ gần gũi với mọi người. Cuộc sống xã hội sôi động có thể khiến người tuổi Tỵ sao nhãng công việc chính, nếu chuyện này kéo dài thì lãnh đạo sẽ khó mà bỏ qua. Trong giờ làm việc, hãy cố gắng tập trung suy nghĩ vào việc mình làm và đừng bớt xén quá nhiều thời gian cho công việc riêng. Hãy tận dụng tháng này để xây dựng các mối quan hệ có ích về lâu dài.

Trong kinh doanh, bạn cảm thấy rất sáng tạo và những ý tưởng mới chính là đóng góp tốt nhất của bạn trong tháng này. Khi các ý tưởng đã đủ độ chín, hãy biến chúng thành hành động. Hãy củng cố mạng lưới kinh doanh và các mối quan hệ xã hội của bạn. Biến người quen thành bạn bè và bạn bè thành người thân thiết. Rồi sẽ có lúc bạn cần tới sự giúp đỡ của họ.

Những cuộc gặp gỡ lãng mạn có rất nhiều cơ hội nảy nở, tuy nhiên rắc rối nằm ở chỗ có quá nhiều người rơi vào tầm ngắm của bạn. Đừng khiến mọi chuyện trở nên rắc rối bằng cách làm thân cùng lúc với nhiều người. Hãy cân nhắc thật kỹ trước khi hứa hẹn với ai đó. Và khi đã hứa hẹn thì nên tránh tỏ ra thân thiết với những người khác. Tuổi Tỵ thường là người chung thủy, không thích lừa dối bạn đời, nhưng trong tháng này ảnh hưởng của các ngôi sao Đào Hoa có thể đẩy bạn tới những quyết định điên rồ trong lĩnh vực tình cảm. 

Tuổi Ngọ

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Một tháng tràn trề năng lượng cho người tuổi Ngọ. Vận may có từ tháng trước vẫn còn tiếp tục. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi là trung tâm của sự chú ý. Hãy khiêm tốn nhận những lời khen ngợi nếu không muốn trở thành mục tiêu của sự đố kỵ. Tháng này, bạn sẽ nhận thấy ảnh hưởng mình gây ra lớn hơn bình thường, hãy sử dụng điều này một cách thông minh. Nếu biết đặt lợi ích của những người khác lên trên lợi ích của bản thân, bạn sẽ nhận được những phần thưởng xứng đáng.

Trong công việc, kỹ năng tổ chức và giao tiếp của bạn lúc này cực kỳ mạnh. Bạn đóng vai trò chủ chốt trong các cuộc thảo luận chiến lược và những người khác sẽ lắng nghe khi bạn nói. Hãy tận dụng cơ hội này để kiểm soát mọi việc và gây ấn tượng với người bạn cần. Thành công tới một cách dễ dàng và người tuổi Ngọ sẽ thấy công việc thường kỳ của mình thực sự dễ dàng. Hãy tranh thủ làm nhiều hơn những gì bạn vẫn làm, đây cũng là thời điểm tốt để nhận thêm trách nhiệm mới.

Đồng nghiệp tỏ ra tôn trọng bạn và nhận ra rằng kết hợp với bạn tốt hơn là đối đầu. Điều này sẽ giúp ích nhiều cho những người làm tại các tổ chức chính trị lớn, vì đây là lúc bạn có thể tạo lập đồng minh để tránh trở thành nạn nhân của các trò chính trị. Dành thời gian này để kết bạn và xây dựng đội ngũ những người ủng hộ.

Tháng này bạn dễ được mọi người chấp nhận và điều này rất thuận tiện cho việc gây dựng các mối quan hệ, mở rộng mạng lưới kinh doanh và nâng cao hình ảnh công ty. Cạnh tranh vẫn khốc liệt nhưng là cạnh tranh lành mạnh. Thậm chí làm việc với những công ty trong cùng lĩnh vực còn có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên.

Cuộc sống tình cảm tháng này hết sức sôi động, chẳng điều gì có thể kìm chân bạn. Hãy mạnh dạn đón nhận những gì đến với bạn.  

Tuổi Mùi

Ngôi sao Nhị Hắc xuất hiện kép trong cung tử vi của người tuổi Mùi, mang theo mối nguy hiểm lớn cho sức khỏe. Bên cạnh đó là nguy cơ chấn thương, vì vậy cần hết sức thận trọng. Tránh tới bệnh viện, nghĩa trang hay tham dự đám ma vì âm khí ở những nơi này có thể quá mạnh đối với bạn vào lúc này. Nếu có thể, hãy cố gắng trì hoãn việc phẫu thuật hay những thủ thuật điều trị nguy hiểm. Chú ý đến chế độ ăn và nghỉ ngơi để nâng cao sức đề kháng.

Mức năng lượng thấp khiến bạn cảm thấy khó hoàn thành công việc được giao, khả năng tập trung giảm sút. Lúc này, bạn rất cần sự giúp đỡ của đồng nghiệp.

Trong kinh doanh, người tuổi Mùi có thể chuẩn bị tham gia hợp tác dưới một hình thức nào đó. Hãy chú ý tới các lời đề nghị nhưng cũng đừng tỏ ra ôm đồm, nhận quá nhiều việc một lúc. Bạn có nguy cơ bị kiệt sức nếu muốn làm cùng lúc tất cả mọi việc. Tốt nhất là chỉ nên tập trung làm tốt một số việc.

Vận may trong tình yêu có vẻ sáng sủa hơn, năng lượng của tháng khiến bạn gần gũi hơn với vợ/chồng mình. Suy nghĩ của hai bạn có nhiều điểm chung, những cãi cọ hiểu nhầm của tháng trước đều tan biến hết, hai bạn cảm thấy gần nhau hơn. Bạn dễ dàng đồng ý với ý kiến của bạn đời và chẳng cảm thấy khó chịu khi bị chỉ huy. Trái lại, lúc này bạn lại muốn có một bờ vai để ngả vào.

Tuổi Thân

Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch
 

Ngôi sao bệnh tật và tai nạn xuất hiện kép trong cung tử vi của bạn, khiến tháng này thực sự nguy hiểm cho người cao tuổi. Nguy cơ cũng cao với người tuổi Thân nếu sức khỏe của bạn thời gian gần đây không được tốt hoặc phòng ngủ của bạn rơi vào cung Tây Nam của ngôi nhà. Vận rủi sẽ xuất hiện ở dạng bệnh tật hay tai nạn, khiến bạn phải nghỉ việc một thời gian.

Hãy cố gắng giảm cường độ làm việc trong tháng này. Tăng cường phối hợp với đồng nghiệp, bỏ qua các bất đồng và đừng ngại kêu gọi sự giúp đỡ khi cần. Làm việc nhóm sẽ giúp bạn đạt được thành quả lớn hơn.

Vận may tiền bạc tháng này kém, bạn sẽ cảm thấy khó đạt được thỏa thuận cho hợp đồng mới hay khó kiếm thêm tiền. Hàng hóa có thể kém chạy hơn bình thường. Đừng hy vọng sẽ có những ý tưởng sáng tạo độc đáo trong tháng này, thay vào đó hãy tập trung hoàn thành công việc thường kỳ của bạn. Cần thận trọng, kiểm tra tỉ mỉ từng chi tiết của công việc để tránh những lỗi lầm đắt giá. Bạn có thể thiếu tiền mặt trong tháng này vì vậy cần kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu, hạn chế tiêu tiền vào những việc không thật sự cần thiết.

Thận trọng khi bắt tay vào một dự án mới. Tránh theo đuổi những chiến lược dẫn tới thay đổi triệt để chưa được kiểm chứng. Kể cả nếu bạn nghĩ mình đang có cơ hội vàng, tốt nhất là nên đợi đến tháng sau.

Trong tình cảm, rất may là mọi chuyện lại không xấu. Người tuổi Thân đã có gia đình sẽ nhận được sự hỗ trợ vững chắc từ bạn đời. Hãy tỏ ra cởi mở, chia sẻ cùng vợ/chồng bạn những rắc rối trong công việc. Với người độc thân, đây không phải thời điểm tốt để bắt đầu những mối quan hệ mới. Phong độ của bạn lúc này không cao và ấn tượng mà bạn để lại lúc này có thể không có lợi. Hãy đợi cho tới tháng say nếu bạn muốn bước thêm một bước trong quan hệ tình cảm. 

Tuổi Dậu 

Ngôi sao Thất Xích của năm kết hợp với sao Thất Xích của tháng tạo nên sự nguy hiểm kép. Có nguy cơ bị mất trộm, bị lừa đảo. Sự tập trung của các ngôi sao bạo lực trong cung tử vi của bạn khiến bạn thực sự phải cẩn thận. Đặt an toàn lên trên hết trong tháng này. Đừng mạo hiểm và đừng tin người quá dễ dàng, nhất là nếu bạn không biết rõ về họ. Tránh mặc quá nhiều đồ màu trắng vì như vậy sẽ kích hoạt các sao xấu. Tốt nhất là mặc đồ màu đỏ hay xanh nước biển.

Bạn có cơ hội mới kiếm được tiền nhưng cần đạt thỏa thuận trước đã. Bạn có thể được đề nghị một công việc với, một công ty khác có thể muốn lôi kéo bạn. Lời đề nghị có thể hấp dẫn nhưng hãy cân nhắc trước khi đưa ra quyết định. Lời đề nghị có thể đi kèm những ràng buộc. Cũng cần tính xem bạn có đường lui hay không nếu rời bỏ công việc hiện tại. Nếu tìm kiếm lời khuyên, hãy hỏi những người bạn biết rõ. Người lạ, dù là có uy tín đến đâu, cũng không thể cho bạn lời khuyên hữu ích nhất vào lúc này.

Trong tình cảm, những gặp gỡ tình cờ có thể tiến triển tốt. Hãy cẩn thận đừng để tình cảm làm lu mờ phán đoán của bạn. Không để cuộc sống xã hội làm bạn sao lãng công việc. Sự mất mát cũng có thể đến trong tình yêu dưới dạng thiếu chung thủy. Ngườì độc thân đừng tỏ ra quá dễ dãi, chiến thắng khó khăn có thể khiến đối phương quan tâm hơn tới bạn.

Tuổi Tuất

Sự xuất hiện kép của ngôi sao Lục Bạch trong cung tử vi của bạn mang theo rất nhiều cơ hội. Trở ngại trên con đường dẫn tới thành công sẽ tự tan biến, các rắc rối tự tìm ra lối thoát trước khi bạn nhận ra chúng. Đây là thời gian tuyệt vời cho người tuổi Tuất, nhất là người chưa có gia đình, hay người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp.

Trong công việc, bạn có cơ hội gây ấn tượng với nhân vật quan trọng, đó có thể là người phụ trách trực tiếp hoặc ai đó trong ban lãnh đạo. Kết quả tốt đẹp có thể sẽ chỉ bộc lộ vào cuối năm, nhưng hạt mầm thì được gieo từ bây giờ. Một người lớn tuổi hơn có thể bảo trợ bạn và trở thành một phần rất quan trọng trong sự nghiệp của bạn sau này. Bạn có thể được mời tham gia một cuộc họp đặc biệt của dự án, hãy nắm bắt cơ hội để làm việc gần hơn với cấp trên và cố gắng học hỏi.

Trong kinh doanh, cơ hội xuất hiện khắp nơi. Bạn tỏ ra tự tin, điều này khiến mọi người vững tâm làm theo đề xuất của bạn. Bạn có cơ hội vượt lên trong các cuộc cạnh tranh và dành những hợp đồng tốt. Tuy nhiên, một khi thành công tới, đừng để sự tự mãn chiếm lĩnh bạn.  Hãy thử mình trong những công việc mới, theo đuổi những lĩnh vực mới mà bạn cảm thấy đam mê, bạn sẽ ngạc nhiên vì những gì mình đạt được. Đây là lúc những việc bạn dồn hết tâm huyết có cơ hội thành công lớn.

Đây là tháng để củng cố những quan hệ vốn có, hoặc nếu là người độc thân, hãy tìm kiếm sự khởi đầu cho một mối quan hệ tốt lành. Cuộc sống tình cảm của bạn lúc này thiên về các mối quan hệ lâu dài, không phải những cuộc hẹn hò chớp nhoáng. Nếu quan hệ của hai bạn đang rơi vào bế tắc, hãy can đảm dừng cuộc chơi để có thể bước tiếp. Bạn sẽ không phải hối tiếc về điều này, ngược lại bạn có thể sẽ hạnh phúc vì tìm được người phù hợp hơn.

Tuổi Hợi

 

Đây là một tháng tốt lành cho người tuổi Hợi, nhất là người cha trong gia đình hay người chủ cơ quan, doanh nghiệp khi ngôi sao Lục Bạch xuất hiện kép trong cung tử vi của bạn. Cơ hội mới xuất hiện nhiều hơn bình thường, trực giác của bạn cũng trở nên nhạy bén hơn. Hãy mơ ước rồi kiên định theo đuổi giấc mơ, cơ hội thành công rất lớn. 

Tuổi Hợi có vẻ quan tâm nhiều tới vấn đề tiền bạc trong tháng này, vì vậy cũng là tự nhiên nếu bạn tập trung chú ý vào sự nghiệp và tài chính. Đây là lúc bạn nên thức khuya dậy sớm làm việc hết mình để có được lòng tin của cấp trên.

Các chủ doanh nghiệp tuổi Hợi có thể gây ảnh hưởng lớn tới những nhân viên dưới quyền. Hãy tận dụng từng cơ hội để động viên nhân viên của mình. Bạn có khả năng khơi dậy ở họ sự tận tụy, trung thành, điều còn quan trọng hơn cả tiền bạc. Chẳng hạn, nếu cần cân nhắc chọn người cho một vị trí lãnh đạo của công ty, việc chọn người nội bộ thay vì đưa người ngoài vàò sẽ là liều thuốc động viên cực kỳ lớn đối với nhân viên của công ty. Việc đầu tư đào tạo nhân viên sẽ được đánh giá cao. Đừng giao phó toàn bộ công việc của bạn cho người khác, dù họ có giỏi đến đâu. Lúc này, bạn cần tranh thủ tiếp xúc với từng nhân viên và ảnh hưởng của bạn tới họ càng lớn, họ sẽ càng trở nên hữu ích đối với bạn.

Trong cuộc sống tình cảm, đây là thời điểm hứa hẹn cho tất cả các mối quan hệ. Hãy để mọi chuyện diễn biến một cách tự nhiên, đừng ép mình duy trì những mối quan hệ bạn chẳng thực sự thấy thích vì sự gượng ép sớm hay muộn cũng sẽ khiến bạn mất hứng. Đừng vội ràng buộc mình với ai nếu bạn chưa muốn, hãy sử dụng cơ hội của người độc thân để làm những điều mình yêu thích, gặp gỡ bạn bè mới. Và đừng quên mở rộng cánh cửa trái tim, đừng ràng buộc nó bởi các tiêu chuẩn cứng nhắc, bạn sẽ thấy tình yêu lý thú hơn nhiều.

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận may của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch

Giải mã giấc mơ thấy mưa –

Tối qua bạn có nằm mơ thấy mưa. bạn đang lo lắng không biết giấc mơ ấy mang tới điềm báo gì, tốt hay xấu? Tùy hoàn cảnh, giới tính, giấc mơ thấy mưa sẽ mang các tầng nghĩa khác nhau. Củ thể như thế nào chúng ta cùng giải mã giấc mơ để biết ý nghĩa củ
Giải mã giấc mơ thấy mưa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy mưa –

Tuổi Ngọ hợp với tuổi gì –

May là trời cũng có chỗ thênh thang cho ngựa chạy. Tuổi Ngọ (ngựa) năng động, biết làm tiền, thích đi đây đi đó. - Tuổi Ngọ là con giáp du mục trong mười hai con giáp. Tới lui từ chổ này, dự án nọ, sang chỗ khác, chương trình khác. Giỏi là biết làm r
Tuổi Ngọ hợp với tuổi gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Ngọ hợp với tuổi gì –

Phong thủy và hình xăm –

Hình xăm phong thủy và những bí ẩn sau mỗi hình xăm luôn là câu chuyện được rất nhiều người quan tâm. Bởi lẽ, có những sự tình cờ, hoặc do sắp xếp của một thế lực vô hình nào đó không thể lý giải, có người xăm hình xăm phong thủy thì phất lên như diề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

u gặp gió, có người thì gặp phải án “tử chết không toàn thây…

y-nghia-hinh-xam

 

1. Một số quan niệm về thuật phong thủy đối với hình xăm trong nhân tướng học

Tứ thú là bộ hình xăm rất quen thuộc. Tứ thú bao gồm rồng xanh, hổ trắng, chim công và rùa đen. Theo thuật phong thủy thì bốn con vật này phải được xăm vào đúng vị trí của nó thì mới tốt. Do đó, người ta hay nói: “tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ”. Điều này có nghĩa là bên cánh tay trái nên xăm rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm chim công, sau lưng là xăm hình rùa đen có con rắn quấn quanh.

Bốn linh vật này vốn được coi là vật mang lại may mắn nhưng bạn nên nhớ rằng chúng không mang lại may mắn cho tất cả mọi người. May mắn chỉ có được khi mệnh của chủ nhân hợp với hình xăm đó. Ngược lại nếu mệnh không gánh được tứ linh thì chỉ gây tổn hao nguyên khí, lành hóa dữ, hợp hóa xung.

hinh-xam-phong-thuy

 

Những hình xăm phong thủy khó xăm nhất mà bạn nên cân nhắc kỹ trước khi tiến hành đó chính là hình rồng, hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long, chữ nhẫn, Quan âm ngồi đài sen… Mặc dù những hình xăm này rất phổ biến nhưng kỳ thực lại rất nguy hiểm đến vận mạng chủ nhân nếu không thích hợp. Những hình xăm này đòi hỏi mệnh của chủ nhân phải gánh rất nặng nề, bằng không mệnh nhỏ, mệnh yếu rất dễ gây hậu họa. “Chữ nhẫn” là một hình xăm không hề đơn giản, những người kinh doanh, những người giảo ngoạt, chua ngoa, thiếu thật thà, thiếu kiên trì nhẫn nại nếu cứ quyết xăm “chữ nhẫn” cho bằng được thì sớm muộn cũng gánh tai ương. Hình “Quan âm ngồi đài sen” cũng vậy, nếu kẻ xăm hình không một lòng hướng phật, tâm tà thì ắt hẳn sẽ gặp vận xui.

2. Những vị trí xăm hình đầy nguy hại

Vẫn phải nhắc lại hình xăm phong thủy cần phù hợp với tính cách, vận mạng của chủ nhân. Những hình xăm không thích hợp sẽ gây ra những hậu họa nhất định phụ thuộc vào tưng vị trí khác nhau.

y-nghia-phong-thuy-hinh-xam

 

Xăm ngực và phần dưới cơ thể: Đây là vị trí xăm nguy hiểm. Với những ai chưa lập gia đình sẽ lận đận tình duyên. Sau khi lập gia đình dễ vô sinh, xung khắc với con với cháu.

Xăm hình ở ngón tay: Với nữ nếu xăm ở ngón tay bên bàn tay trái thì chồng bạc duyên, nếu xăm bên bàn tay phải thì nhân duyên kém. Ở nam thì ngược lại.

Hình xăm ở mông: Dễ gặp những điều thị phi thường xuyên, không dứt.

Hình xăm ở đùi: Dễ khiến đường đời gập ghềnh, trúc trắc

Hình xăm che sẹo: Trong thuyết phong thủy nơi có sẹo là nơi tổn hao đến khí, nếu xăm hình lên vết sẹo sẽ càng khiến khí loạn, khí rối hơn.

Hình xăm trên vai, cổ: Những hình xăm nếu không hợp mệnh được xăm ở vị trí này dễ gây mệnh khổ, ngoài ra ảnh hưởng đến đường hô hấp, khí huyết lưu thông.

hinh-xam-tren-vai

 

Xăm hình động vật: Dễ bị người khác sai khiến, lợi dụng. Ngoài ra nếu không cẩn thận còn có thể gây xung khắc trong bộ 12 con giáp.

Xăm hình cây cỏ: Da vốn mang tính thổ, thực vật mang tính mộc, mộc lại khắc thổ nên hay gây sự cố bất thường, dễ bị thương tích, tai bay vạ gió

Xăm hình ở tay chân: Dễ gặp điều thị phi suốt đời. Đặc biệt xăm ở bắp chân dễ ảnh hưởng đến chuyện tình duyên, nam nữ.

Nếu vận mạng, sự may mắn, tài lộc của bạn thay đổi theo chiều hướng xấu sau khi xăm hình thì ắt hẳn là hình xăm của bạn đã phạm, không hợp mệnh. Cách khắc phục duy nhất là hãy xóa bỏ hình xăm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy và hình xăm –

Kiêng kỵ về hướng nhà tắm –

Đối với phong thủy nhà ở mà nói, nhà tắm dẫn đến hung tượng làm người ta sợ hãi nhất. Đặc biệt khi gia trạch bị coi là nằm ở phướng Đông Bắc củu Hậu Quỷ Môn và phương Tây nam của Tiền Quỷ Môn. Đó là do ở phương Đông Bắc trong Hậu Thiên Bát Quái được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

coi là Cấn Quái, phương Tây Nam trong Bát Quái được coi là Khôn Quái, tính chất của chúng là thuộc Thố, còn Quái tướng của nhà tắm là thuộc Thủy. Đem nhà tắm thuộc Thủy đặt trên Cấn Phương và Khôn Phương thuộc Thổ sẽ sinh ra bất lợi thổ khắc Thủy, vì thế đó là đại hung.

tam2
Trong phong thủy nhà ở, để nhà tắm không mang lại hung tướng, tốt nhất nên đặt ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía đông (nhìn từ trung tâm ngôi nhà), đồng thời, cần phải tránh hương tương xung với năm sinh của nam nữ chủ nhà. Nếu nhà tắm ở hướng Bắc hoặc hướng Đông Bắc thì cần chuyển nhà tắm sang phương vị khác, chì cần tránh trung tâm chính Bắc 15(phạm vi Tý), Đông Bắc lệch về Bắc 15(phạm vi Sửu) và trung tâm nông Bắc 150 (phạm vi Cấn) là được. Nếu tính toàn bộ nhà vệ sinh đều nằm trên hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần đặt bồn cầu lệch đi phương vị đó trên 150 là được. Nếu bồn cầu nằm trong phạm vi này thì chỉ cần dịch chuyển bồn cầu là được, không cẩn phải cải tạo là nhà tắm.

Ngoài hướng Bắc và hướng Đông Bắc ra, nhà tắm nằm trên hướng Tây Nam cùng thuộc hung tướng. Nếu cần dịch chuyển thì chỉ có thể dịch chuyển sang hướng Tây hoặc Tây Bắc. Nhà tắm nằm ở hướng Tây cũng không tốt, song chỉ cần trong nhà không có người sinh năm Dậu thì không cần phải lo lắng. Để thiết kế vẹn toàn, có thể đặt bồn cầu ở hướng Tây Bắc, cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở hướng Nam, tốt nhất chuyển sang phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc, bởi vì hướng Nam là phương vị sáng sủa, hướng Nam là Ly Quái, Ngũ hành thuộc Hòa, còn nhà tắm Ngũ hành thuộc Thủy, nhà tắm thuộc Thủy đặt ở hướng Nam thuộc Hỏa là nhà tắm đã khắc với Hỏa Địa, vì thế bất cát. Nhà tắm nếu nằm trên phương vị này thì có thể ảnh hưởng đến vận khí.

Còn một điểm nữa cũng vô cùng quan trọng, nhà vệ sinh không nên đặt ờ vị trí trung tâm nhà, nguyên nhân như sau:

Một là, dựa vào phương vị “lạc thư”, trung tâm nhà thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh, nhà tắm thuộc Thổ, nếu đem nhà vệ sinh thuộc Thủy đặt vào vị trí trung tâm thuộc thổ thì sẽ xảy ra sự tương khắc, Thổ khắc Thủy. Không những trái với đạo phong Thủy mà còn gây mất thẩm mỹ, không tạo được ấn tượng.

Hai là, nhà tắm, nhà vệ sinh đặt ở vị trí trung tâm nhà ở thì việc cấp nước và xả nước đều phải đi thông qua các phòng khác nên việc sửa chữa là vô cùng khó khăn. Nếu đường ống xả nước thải cũng đi qua các phòng khác vậy thì càng bất cát.

Ba là, trung tâm nhà cũng như trái tim con người vậy, vô cùng quan trọng, tim tạng mà tăng ô nạp uế thì còn được gọi là “cát trạch” nữa không?

Ngoài ra, dịch chuyển vị trí nhà vệ sinh tuyệt đối không được xây nó sát với thần đàn (nơi thờ cúng), nếu không thì sẽ bị biến thành hung tướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ về hướng nhà tắm –

Chùa Quang Lãng - Hà Nội

Chùa Quang Lãng , tên thường gọi là chùa Giáng , ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, là nơi trụ trì của Đệ Tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Chùa Quang Lãng - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Quang Lãng, tên thường gọi là chùa Giáng, ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, là nơi trụ trì của Đệ Tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ.

Thời điểm ra đời của chùa hiện không có thư tịch ghi lại, nhưng trước năm 1900, chùa được dựng ở ngoài bãi sông Hồng, cho tới năm 1900 thì có nguy cơ sạt lở, cho nên dân làng hai xã Quang Lãng và Mai Xá đã công đức và mời Pháp sư Thích Nguyên Uẩn tới trụ trì và dỡ chuyển chùa đến nơi hiện nay.

Khi đã xây dựng quy củ, Pháp sư tập hợp tăng ni trong Sơn Môn Pháp Phái để thành lập đạo tràng lấy tên là Viên Minh Pháp Hội giảng dạy tu học Phật pháp. Bởi thế, nơi đây còn được gọi là “Viên Minh tự”.

Năm Nhâm Dần 1902, Pháp sư Thích Nguyên Uẩn mở Đạo tràng Viên Minh Pháp Hội, quy tụ được hơn 100 tăng ni giảng dạy và tu học trong 12 năm (1903 – 1915). Đạo tràng đã biên soạn nhiều kinh sách, khắc ván in để quảng bá Phật pháp.

Khi còn tu học ở Tổ đình Bồ Đề, Ngài đã chép lại bộ kinh Hoa Nghiêm 81 quyển, vẽ tranh minh họa “Thất sứ cửu hội” quang cảnh Đạo tràng những nơi giảng đàn của Đức Phật Thích Ca, khắc ván kinh Pháp Hoa 2 tập 7 quyển, bộ Nhật tụng 2 tập, Luật Nghi phạm thụ giới 3 quyển, chép giúp chốn Tổ Tế Xuyên bộ Quy nguyên trực chỉ 3 tập, …

Hiện nay, tại chùa Giáng còn lưu giữ tạng ván kinh điển: Kinh 42 chương, kinh Phật Di giáo, Cảnh sách Quy Sơn giảng giải, kinh Vô lượng nghĩa, Khởi tín luận, Lục trúc song, Điệp văn Bồ đề, …..

Hiện nay Viên Minh tự được trùng tu mới phía trước, khang trang và tĩnh mịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Quang Lãng - Hà Nội

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Sao Thai Phụ ở Mệnh là người có danh chức, học hành tốt, có sự đỗ đạt cao, thăng tiến về công danh, có bằng cấp, huy chương, bằng khen.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Hành: Kim

Loại: Quý Tinh

Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, quý hiển

Tên gọi tắt thường gặp: Thai

Là một phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Thai Phụ và Phong Cáo. Gọi tắt là bộ Thai Cáo.

 

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Mệnh:

Thai Phụ ở Mệnh là người có danh chức, học hành tốt, có sự đỗ đạt cao, thăng tiến về công danh, có bằng cấp, huy chương, bằng khen.

Lợi ích cho việc thi cử, cầu danh vì sao này chủ về bằng sắc, huy chương, công danh.

 

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Quan Lộc:

Phong Cáo, Thai Phụ đi chung mới đủ mạnh, và nhất định là đi cùng với cát tinh càng khác.

Phong Cáo, Thai Phụ, Xương Khúc, Khoa Quyền hay.

Phong Cáo, Thai Phụ, Âm Dương sáng sủa hoặc.

Phong Cáo Thai Phụ, Tướng Ấn: Rất quí hiển, được trọng dụng, có huy chương, tưởng lục.

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Điền Trạch:

Phong Cáo, Ấn, Thai Phụ: Được ban cấp điền sản ăn lộc, hay khẩn hoang.

Thai Phụ Khi Vào Các Hạn:

Cũng có nghĩa như đắc tài, đắc danh, được tiếng khen, có huy chương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thai Phụ

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Đặt tên cho Con cần tham khảo

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng. Bạn có thể tham khảo một số điều dưới đây trong khi lựa chọn tên cho con.

luu-y-dat-ten-be-2016

Tên đem lại nhiều may mắn cho bé trai sinh năm Bính Thân 2016:

Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp. Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy tương sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.

Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…

Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc rất thích hợp cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.

Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…

Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…

Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.

Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn.

Tên hợp phong thuỷ cho bé trai, bé gái sinh năm 2016:

Tên có các bộ thủ Tý, Thìn và Thủy: Tuổi Thân sẽ nằm trong tam hợp với Tý, Thìn. Do đó nếu tên bé cũng có các bộ thủ Tý, Thìn thì vận mệnh sẽ rất tốt đẹp. Cũng vậy, người sinh tuổi Thân thuộc hành Kim nên tương sinh với Thủy. Vì thế, những tên có bộ Thủy sẽ tốt cho bé.

Như vậy, bạn có thể tham khảo những cái tên hợp vận với bé như sau: Nguyên, Hải, Băng, Giang, Tuyền, Khánh, Chân, Học, Nông, Thìn, Giá, Lệ, Tân, Hồ, Cầu, Lân…

Tên có bộ Mộc: Do khỉ rất thích leo cây và thường sống trong những cánh rừng rậm rạp cây cối nên những cái tên có bộ Mộc cũng sẽ rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.

Những cái tên mang bộ Mộc có thể kể đến như: Lương, Dương, Đào, Liễu, Tùng, Đỗ, Đông, Tài, Bản,… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người tuổi Thân đồng thời cũng thuộc hành Kim, mà Kim lại khắc Mộc nên khi đặt những cái tên liên quan đến bộ Mộc cũng cần phải thận trọng.

Tên có bộ Miên, Mịch: Từ xa xưa, khỉ cũng thường sống bầy đàn trong những cái hang nên những bộ thủ Miên, Mịch với hình dáng tượng hình gợi nhớ đến những cái hang khỉ cũng rất hợp để dùng đặt tên cho người tuổi Thân với ước muốn cầu mong người này có cuộc sống an nhàn. Theo đó, có thể kể đến những cái tên như: Đài, Thiện, Dung, Bảo, Đường, Gia, Hòa, Tông, Quan, Nghi, Hoành, Hựu, Thực, An, Trình, Hướng, Quân, Tư, Sử, Trung, Quân…

Tên có bộ Nhân, Ngôn: Bởi khỉ là động vật có những hành động gần giống con người nhất nên bộ Nhân hoặc bộ Ngôn gợi nhớ đến khuôn miệng bắt chước của khỉ cũng được dùng để đặt tên cho người tuổi Thân. Có thể kể đến trong số đó những cái tên như: Nhân, Nhiệm, Mưu, Nghị, Nghi, Giới, Đại, Kim, Huấn, Trọng, Ngữ, Thành, Cảnh, Tín, Hà, Bảo…

Tên có bộ Vương: Do truyền thuyết gắn với loài khỉ luôn thấy khỉ xưng thành Hầu Vương nên những chữ thuộc bộ Vương cũng được cho là đem lại may mắn, sung túc cho người tuổi Thân. Những cái tên có thể kể đến như: Dao, Cầm, Ngọc, Cửu, Linh, Cầu, San, Anh, Lâm…

Tên có bộ Sam, Y, Mịch, Cân: Vẻ ngoài đẹp đẽ và linh lợi của khỉ rất thích hợp để mô tả bằng những bộ thủ như Y, Sam, Mịch, Cân. Do đó, những bộ này được đặt cho người tuổi Thân sẽ giúp họ cũng may mắn có được một vẻ ngoài đạo mạo, tuấn tú hay cao sang, quyền quý. Có thể kể đến những cái tên trong số này như: Hồng, Hình, Chương, Ảnh, Thị, Y, Sư, Dao, Ước, Thường, Bân, Lệ, Ngạn, Kinh, Duyên, Tố, Hi…

Những tên không nên đặt cho con sinh năm 2016:

Các chữ thuộc bộ Kim, Dậu, Đoài, Mãnh, Điểu, Nguyệt không phù hợp khi dùng để đặt tên cho người tuổi Thân, bởi những chữ đó đều chỉ phương Tây (thuộc hành Kim).

Theo ngũ hành, Thân thuộc hành Kim; nếu dùng những chữ thuộc các bộ trên để đặt tên cho người tuổi Thân sẽ khiến Kim tụ lại quá nhiều, dễ dẫn đến hình khắc và những điều không tốt. Theo đó, những chữ cần tránh gồm: Kim, Cẩm, Ngân, Xuyến, Nhuệ, Phong, Cương, Chung, Thoa, Trân, Trâm…

Khỉ thích phá hoại các loại ngũ cốc trên đồng ruộng. Vì vậy, những chữ thuộc bộ Hòa, Mạch, Tắc, Mễ, Điền, Cốc như: Do, Giới, Thân, Nam, Đương, Phan, Khoa, Thu, Đạo, Chủng, Tùng, Tú, Bỉnh, Đường, Tinh, Lương, Lượng… không nên dùng để đặt tên cho người tuổi Thân.

Dần và Thân xung nhau, Thân và Hợi (Trư) thuộc lục hại. Do vậy, khi chọn tên cho người tuổi Thân, bạn cần tránh những chữ có liên quan tới các con giáp trên. Vì dụ như: Dần, Xứ, Hổ, Báo, Lư, Hiệu, Hợi, Tượng, Gia, Duyên, Hào, Mạo…

Những chữ thuộc bộ Khẩu cũng nên tránh ví dụ như: Huynh, Cát, Hòa… vì mang ý nghĩa bị kìm hãm. Các chữ như Quân, Tướng, Đao, Lực cũng nên tránh khi đặt tên cho người tuổi Thân.

Để đặt tên cho con tuổi Thân, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về Bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho Con cần tham khảo

SAO CÔ THẦN - QUẢ TÚ TRONG TỬ VI

cô thần (Thổ) quả tú (Thổ) *** 1. Ý nghĩa tính tình: - lạnh lùng trong việc giao thiệp - khó tính, câu chấp, khắ...
SAO CÔ THẦN - QUẢ TÚ TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 cô thần (Thổ) quả tú (Thổ)

***



1. Ý nghĩa tính tình:

- lạnh lùng trong việc giao thiệp

- khó tính, câu chấp, khắt khe, nệ tiểu tiết, ai trái ý không muốn chơi, không biết chiều chuộng

- lập dị, khắc kỷ, vô duyên

- cô độc, không thích giao thiệp, ít ưa bạn bè, bạn bè cũng ít ưa đương sự (giống như sao Đẩu Quân)



2. Ý nghĩa phúc thọ:

Cô Quả chỉ sự cô đơn, chiếc bóng, nhất là đối với phái nữ. Đây là một yếu tố của sự góa bụa của phái nữ. Do đó, Cô Quả có hại cho hôn nhân, cho sự cầu hôn, cho sự đoàn tụ, chung sống của vợ chồng.



3. Ý nghĩa liên quan đến tài sản:

Tại cung Điền và Tài, Cô Quả chủ sự cầm của, tức là gìn giữ được của cải bền vững nhờ sự so đo, suy tính hơn thiệt trước khi xài, xài kỹ lưỡng, nếu không nói là hà tiện. Về điểm này, Cô Quả giống sao Đẩu Quân.



4. Ý nghĩa của cô quả ở các cung:



a. ở Phúc, Tử, Bào:

- hiếm anh em, có thể là con một

- hiêm con cái, có thể rất chậm vợ/chồng.


b. ở Phu Thê:

- cô đơn, không được chiều đãi, cô độc, dù có vợ/chồng nhưng vẫn thấy lẻ loi, thiếu tình thương.

- bị bỏ rơi, thất tình

- có thể góa bụa hay không vợ/chồng nếu gặp hung sát tinh, nếu cùng chiếu vào Phúc và Phu, Thê.

- phải xa vợ/chồng một thời gian rất lâu.



c. ở Di, Nô:

- ít bạn bè, không thích giao thiệp, khó tính

- không thích nghi với xã hội

- thiếu hạnh phúc ngoài đời, miễn cưỡng sống ở đời, không cảm thấy hanh thông.

Đi với Đẩu Quân, ý nghĩa nói trên càng thêm rõ.





5. Ý nghĩa cô quả và các sao khác:



- Quả, Phục: bị nói xấu, bị gièm pha bởi tiểu nhân; nói xấu, gièm pha người khác.

- Quả, Kỵ, Tuế : bị ghen ghét, ruồng bỏ, thất sủng; bị nhân tình bỏ.

- Quả, Đào, Mã: đàn bà số phận lênh đênh, có nhiều nhân tình mà không ở lâu được với người nào. Nếu Mệnh, Thân xấu, có thể là gái giang hồ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO CÔ THẦN - QUẢ TÚ TRONG TỬ VI

Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Giấc mơ này thường liên quan đến vai trò của các bậc cha me, hoặc tượng trưng cho mối quan hệ phụ tử. Hình ảnh con gái trong mơ luôn mang lại niềm vui cho người nằm mơ, làm tan biến bao chuyện buồn lo trong cuộc sống thường nhật. Thế nên, mơ thấy con
Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con gái: Có tâm trạng tốt –

Thiên Mã

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu
Thiên Mã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu được lợi trong sự vận động. Tuy nhiên, Thiên Mã cũng giống như Đào Hoa, tùy thuộc vào tổ hợp tứ trụ để xét mức độ tốt hay xấu.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Cách tra Thiên Mã là lấy chi ngày (hoặc chi năm) làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Thiên Mã nhập mệnh.

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Dần, Ngọ, Tuất thấy chi Thân

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Dần

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Hợi

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Tỵ

Ví dụ: Người sinh vào 16 giờ ngày 14/9/1990 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thân, ngày Quý Hợi, tháng Bính Tuất, năm Canh Ngọ.

Theo trường hợp 1, chi năm Ngọ (Canh Ngọ) gặp chi Thân của giờ (Canh Thân), do vậy tổ hợp này xuất hiện Thiên Mã.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên Mã

Người có khuôn mặt phúc hậu –

Bạn có biết rằng những dấu hiệu nào trên khuôn mặt được xem là người phụ nữ gặp được nhiều may mắn hạnh phúc hay còn gọi là khuôn mặt phúc hậu. Vậy một người có khuôn mặt phúc hậu nó thể hiện như thế nào? Có rất nhiều người thắc mắc về điều ấy. Bài
Người có khuôn mặt phúc hậu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người có khuôn mặt phúc hậu –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd