Người có mệnh Nhị Hắc Cự Môn thích hợp làm nghề gì? –
nuôi trâu bò, mèo…
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
nuôi trâu bò, mèo…
![]() |
Bạn sắp phát tài nếu mơ thấy mình bị đau ở ngực |
Nếu bạn mơ thấy cơn đau toàn thân thì xin chúc mừng bạn. Giấc mơ này biểu thị rằng thành công đang đến với bạn.
Nếu bạn mơ thấy cơn đau ở ngực thì có thể bạn sắp phát tài.
Nếu bạn thấy mình đâu ở tay hoặc chân thì đó là điềm báo rằng bạn nên xem xét lại hành động cũng như lời nói của bạn.
Nếu cơn đau xuất hiện ở tim thì bạn hãy lưu ý đến chuyện tình cảm của mình. Có thể bạn sẽ phải đối mặt với một số khó khăn trong tình yêu.
Nếu cơn đau đầu xuất hiện trong giấc mơ của bạn thì đây là điều rất xấu. Nó dự báo những điều tồi tệ có thể xảy ra
Nếu cơn đau xuất hiện ở răng thì bạn hãy chuẩn bị đối mặt với quãng thời gian nhiều lo âu. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ nhanh chóng qua đi mà không ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của bạn.
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
7. AVENTURINE
Còn được gọi là thạch anh lục bao gồm các thể vùi của fuchsite lục và trong mờ. Được tìm thấy ở Ba Tây, Liên sô, Tây Ban Nha và Tây Tạng, Việt Nam. Có ảnh hưởng cho vùng tim. Làm dịu, giúp lọc và tái điều hòa những thể tinh tế khác nhau.
8. THẠCH ANH MÀU KHÓI
Đi từ màu nâu sáng đến nâu sậm, hình thành từ một bức xạ của tinh thể đá bởi phóng xạ đá mau hay chậm khiến có màu sắc sậm hay dợt. Được tìm thấy ởÂu Châu, Liên sô, Ba Tây, Mỹ, Madagascar, Ấn độ và Úc và thấy nhiều ở Việt Nam. Thạch anh hun khói chống sự suy thoái và các tắc nghẽn vô ý thức và kết nối với ma trận của địa cầu. Khi bạn cầm nó trong tay nó sẽ giúp bạn dễ tập trung tư tưởng (trầm tư mặc tưởng), đặt vào các trung tâm luân xa sẽ kích hoạt sự hoạt động của luân xa và các khu vực tuyến nội tiết liên hệ tới luân xa mà bạn đặt (td: khu vực luân xa 3 – tác động đến tuyến tụy…) và làm điều hòa vùng luân xa đó. Làm khai mở thiên nhãn (nhìn thấu suốt quá khứ và vị lai).
Thạch anh màu khói :
¬Phân tích tốt mọi việc
¬Yên tĩnh – thư thái
Thạch anh màu khói giúp :
¬Gắn bó tình cảm gia đình
¬Làm hết buồn phiền – buồn rầu
¬Tập trung tư tưởng tốt
¬Giảm đau nhức
¬Xoá bỏ tính ích kỷ – hẹp hòi
9. THẠCH ANH ĐEN
Đen, ánh chói lờ đờ, không trong suốt Thạch anh hun khói tiếp xúc lâu dài với tia phóng xạ sẽ biến thành đen. Được tìm thấy ở Tiệp Khắc, Liên sô, Madagascar và Ba Tây và rất ít ở Việt Nam. Rất hiệu quả trong ung thư hay các bệnh cần điều trị bằng tia bức xạ.
Thạch anh đen :
-Tăng khả năng phân tích.
-Giúp vô thức.
-Khai tâm
-Làm biến đổi, thay đổi ý tưởng từ xấu thành tốt.
Giúp chữa các chứng sau :
-Ý muốn tự tử.
-Giúp làm xum họp
-Làm vui vẻ – lạc quan
-Làm hết giận hờn.
-Hết lãnh cảm – lạnh lùng
-Xóa bỏ hận thù
-Xóa bỏ tình trạng mặc cảm -cô đơn
-Xóa bỏ tình trạng lúc nào cũng nghĩ là mình là người bệnh tật.
-Trở nên ngoan ngoãn – dễ thương
-Hoà đồng với mọi người – không kiêu ngạo.
-Làm giải thoát những khó khăn – túng thiếu.
-Xóa sự sợ hải
-Gặp được sự may mắn – thành công
-Giải thoát được những đình đốn – đình trệ.
10. THẠCH ANH MÀU SẮT
Màu đỏ nâu do sự có mặt của oxid sắt. Ví dụ về một vĩa nổi tiếng là mỏ tinh thể Saint Jacques, vùng Compostelle ở Tây Ban Nha. Rất tốt cho các trường hợp liên quan đến máu. Ở Việt Nam Thạch anh pha sắt thường sen lẫn trong thạch anh hồng.
11. CALCÉDOINE (VI TINH THỂ)
+ CALCÉDOINE
Từ xám đến xám lam. Cũng có dạng trong suốt như dạng thủy tinh trong và mịn. Xuất hiện trong các suối nước nóng và các hóc biến chất. Loại khoáng sản này có mặt khắp nơi trên địa cầu được gọi là silex. Đó là loại đá lửa của người tiền sử. Người tiền sử đã xem đá này như một vị thần và thờ cúng như một thần lửa, vị thần đem đến sự sống.
Giúp phát triển sự thăng bằng thể xác và xúc cảm, làm cơ thể rắn chắt, làm dịu và tạo sự điềm tĩnh (thanh thản ở tâm hồn) và tạo sự tự tin. Calcédoine lam kích thích hoạt động dây thanh quản và giúp cho sự hùng biện (rất tốt cho những nhà kinh doanh những người làm công tác ngoại giao). Ngoài ra Calcédoine còn giúp giữa Thần khí cho những người bị mất Thần khí do tiếp xúc hoặc ở những nơi có nhiều Âm khí.
Về mặt thể xác làm tăng khả năng thị giác. Hoạt động vùng tim.
Calcédoine xanh:
1.Bình tĩnh – bình thản – yên tâm – hòa bình
2.Năng lực sáng tạo
3.Thấu hiểu – lĩnh hội tốt
4.Trung thành – trung thực – thành thực
5.Hài hòa
6.Cảm nhận tốt
7.Liêm khiết – thanh liêm
8.Thông minh
9.Khai triển nội tâm
10.Kiên nhẫn
11.Có những suy nghĩ cao thượng – khoan dung
12.Khí chất thanh thản – khách quan
Calcédoine giúp :
¬Khơi dậy tình thương – lòng trắc ẩn
¬Xóa sự dững dưng – lãnh đạm – thờ ơ
¬Xóa bỏ chứng ưu tư – nỗi sầu – phiền muộn
¬Dũng cảm và mọi người khâm phục
¬Không còn sợ hải
¬Chống những cơn ác mộng – tâm thần hoang tưởng.
+ MÃ NÃO
Được làm thành những sản phẩm như vòng đeo tay, vòng hạt hay những vật trang trí và có rất nhiều màu: trắng, vàng lục, nâu, vv…Được tìm thấy ở Âu Châu, Á Châu, Mỹ, Ba Tây và Uruguay và Việt Nam nơi có thể tìm thấy mã não ở độ sâu 2, 3 m.
Giúp can đảm, tươi tắn và vui nhộn. Tạo sự thân hữu và mối thiện cảm. Tùy màu sắc, nó tác động trên nhiều khu vực khác nhau của cơ thể.
Trong điều trị, có thể dùng chống sốt và ngộ độc. Do vậy đem nó theo trong mình khi đi các đám tang.
Giúp có tinh thần trách nhiệm, tự tin và làm cộng hưởng từ trường tốt ở xung quanh.
12. NGỌC THẠCH ANH
Màu đa dạng (Vàng, nâu, đỏ, hồng, lục) tùy sự hiện diện của Chlorid và Hématit.
Ngọc thạch anh được tìm thấy ở Âu Châu (quanh dãy Alpes), Liên Xô, Madagascar, Mỹ, Phi Châu và Ba Tây, Việt Nam. Làm dễ dàng sự hùng biện và tính mẫn tiệp. Làm chậm sự hình thành các sỏi thận. Tạo mối liên lạc với năng lượng vũ trụ.
Ngọc thạch anh có từ trong trong thạch anh xanh – thạch anh hồng – mã não.
13. HÉLIOTROPE
Cũng được gọi là thạch anh máu hay ngọc thạch anh máu do các đốm đỏ rải rác trên bề mặt của nó. Màu lục sậm chấm đỏ và nâu. Mờ đục. Được thấy ở Âu Châu, Nam và Bắc Mỹ. Giúp tập trung dễ dàng. Đặc tính cầm máu. Ngọc thạch anh máu đặc sắc để chống lại sự nhút nhát và thiếu tự tin.
Từ xa xưa, loài người của tất cả các nền văn minh đều nhạy cảm với biểu tượng trong suốt và thuần khiết này. Nhiều đặc tính vật lý của tinh thểcó nhiều tương ứng với một tầm cao hơn bao gồm cácthay đổi tâm lý, tâm linh nơi bản chất của con người.
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 52 được xây dựng trên điển cố: Thái Bạch Túy Lao Nguyệt – hay Thái Bạch say vớt trăng.
Đây là quẻ trung bình, thuộc cung Tý. Trong quẻ nói việc đến mà làm thì uổng phí công sức, không có hiệu quả. Từ ngôn ngữ đến hành động không nên tùy tiện, hồ đồ bởi khả năng của bản thân chưa tới.
Lý Bạch nguyên quán ờ Thành Kỷ, Thiểm Tây, vào cuối thời Tùy, gia tộc của ông chuyển đến thành Toái Diệp ờ Trung Á, Lý Bạch được sinh ra ở đây. Khi Lý Bạch bốn tuổi, gia đình ông chuyển đến huyện Chương Minh ở Cẩm Châu (nay là huyện Giang Du ờ Tứ Châu). Năm hai mươi tư tuổi, ông một mình rời khỏi đất Xuyên, bắt đầu đi du ngoạn, mong muốn được kết giao bạn bè, gặp gỡ những người có danh tiếng trong xã hội, từ đó mà được tiến cử, có được địa vị cao, thực hiện được lý tưởng và hoài bão chính trị. Ông phiêu bạt suốt mười năm, không có được thành công gì, nhưng lại sáng tác được vô số áng thơ kiệt xuất, tài thơ nổi tiếng khắp thiên hạ.
Năm Thiên Bảo thứ nhất, do được đạo sĩ Ngô Nhân Quân tiến cử (có một thuyết là do công chúa Ngọc Chân em gái của vua Đường Huyền Tông tiến cử), Đường Huyền Tông triệu Lý Bạch vào cung, làm việc cho viện Hàn Lâm. Không lâu sau, do bị những kẻ quyền quý gièm pha, ông bị đuổi ra khỏi kinh thành. Sau đó, ông quanh quẩn ở vùng Trường Giang và sông Hoài, tâm trạng vô cùng sầu muộn.
Mùa đông năm Thiên Bảo thứ 14 (năm 755), An Lộc Sơn làm loạn, lúc này Lý Bạch đang ờ ẩn ở núi Lư Sơn, gặp đại quân của Vĩnh Vương Lý Lân đang xuống phía đông, mời Lý Bạch xuống núi vào trong phủ. Sau đó Lý Lân làm phản, bị Đường Túc Tông tiêu diệt, Lý Bạch cũng bị liên lụy, bị lưu đày đến Dạ Lang (nay thuộc tỉnh Quý Châu), giữa đường được ân xá trở về. Ông qua lại ờ các vùng đất Tầm Dương (nay là cửu Giang tỉnh Giang Tây) và Tuyên Thành (nay là Tuyên Thành tỉnh An Huy).
Năm Bảo ứng thứ nhất đời vua Đường Thái Tông (tức năm 762), tương truyền Lý Bạch lúc đó ở huyện Đương Đồ tỉnh An Huy, sau khí uống rượu, bèn bơi một chiếc thuyền nhỏ đi ngắm trăng, thấy bóng trăng in dưới nước, ông muốn vớt trăng lên, vì thế trượt chân ngã xuống nước mà chết đuối.
Về cái chết của Lý Bạch, có rất nhiều giả thuyết, không thể xác định thuyết nào mới là đúng. Nhìn chung, có thể chia thành ba loại sau: một là say rượu mà chết, hai là mắc bệnh mà chết, ba là chết đuối. Thuyết thứ nhất gặp trong “Cựu Đường thư”, nói rằng “Lý Bạch uống rượu quá nhiều, say mà chết ở Tuyên Thành”. Thuyết thứ hai bắt nguồn từ các bộ chính sử khác hoặc từ sự khảo chứng của các học giả, chuyên gia. Thuyết này cho rằng, khi Lý Quang Bật lên phía đông trấn giữ Lâm Hoài, Lý Bạch lúc ấy đã sáu mươi mốt tuổi, không quản tuổi cao, nghe tin liền xin đi giết giặc, hy vọng lúc tuổi già xế bóng có thể tận lực cứu nguy cho đất nước. Vì bị bệnh, nên giữa đường phải quay về, năm sau thì ốm mà mất ở chỗ Lý Dương Băng, huyện lệnh huyện Đương Đồ. Còn thuyết thứ ba xuất hiện nhiều trong các truyền thuyết dân gian, mang đậm sắc thái lãng mạn, rất phù hợp với tính cách khác thường của thi nhân.
Nhưng cho dù là thuyết nào, cũng đều có mối liên quan trực tiếp đến việc Lý Bạch cùng Lý Lân mưu phản làm loạn. Bởi vì sau khi Lý Bạch bị lưu đày đến Dạ Lang, rồi được ân xá trở về không lâu, liền kết thúc cuộc đời ly kỳ mà đầy trắc trở của ông, đây là một sự thật không cần bàn cãi.
1. Chính Đông theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.
Tranh dòng sông, hồ
2. Chính Nam, Đông Nam theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
Tranh núi rừng
3. Đông Bắc theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.
Bát mã đồ
4. Bắc theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài lộc, may mắn của gia chủ.
Cửu ngư đồ
5. Tây Bắc theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.
Tranh Vạn Lý Trường Thành
Bộ đi của người hạ tiện có vẻ yếu đuối hay là bước đi khinh phù. Khinh phù là thiếu thần khí là mạng yểu, đi bước không dính ngón chơn là người tranh danh đoạt lợi bôn tẩu đó đây.
Tánh muốn gấp rút, mà bước không rõ ràng vững chải. Người bước đầu đi trước là gian xảo mưu mô, hay nghĩ ngợi suy tư nên đầu cúi tới trước, chân bước theo sau.
Khí cương thần mãnh là người bước đi mạnh bạo, cương nghị, đỉnh đạc, không kinh sợ hiểm nguy gì, nên bước tới mạnh mẽ.
Tướng người buôn bán suy tư lời lổ nặng chiếm trong lòng nên bước đi rất mau, mà làm như nặng nề lôi cái mình chẳng chịu đi theo. Người lưng dài mông tròn là tướng làm quan võ, nên bước đi nặng chắc.
Người đi khoan thai là người quí hiền. Sách nói “lập như tòng, tọa như thái sơn, hành bộ đoan chính” là đứng thì ngay thẳng như cội tòng, ngồi thì bệ vệ như núi thái sơn, bước đi đoan chính không nghiêng lắc, đó là hiền nhân quân tử và phú quí trường thọ đó.
Ngôn ngữ thinh âm
Lời và tiếng nói cũng ảnh hưởng với đời người. Thinh âm là hơi tiếng như chuông. nếu bể nứt thì rè, bẹp, đâu có phát xuất được âm thanh tốt đẹp.
Con người cũng vậy. Mau miệng nhạy lời thì hay nói lầm, chắc lời nói thì ít sai. Răng lộ hô hay đùa giỡn. Răng bằng thẳng nói ngay, môi mỏng miệng mỏng là hay nói mau, và nói ít thật.
Người răng thưa răng nhỏ cũng nói dối. Răng cửa lớn mà đều đặn thì lời nói không xảo trá độc ác. Lưỡi lớn miệng nhỏ nói chẳng xong câu. Môi không che kín miệng ưa nói nhiều chuyện đời lắm. Người miệng rộng lưỡi nhỏ mà dài nói lời mau như bẻ cây, như rang bắp.
Nói chuyện có gốc có ngọn là lưỡi phải dài. Nói chuyện không đầu không đuôi là người lưỡi ngắn. Lưỡi đỏ lời nói có đạo đức, lưỡi xanh người không nghĩa, lời nói không có nghĩa.
Tiếng trong thanh là giàu sang, tiếng u trệ là giàu mà keo kiệt.
Tiếng rổn rang tánh nóng lòng ngay. Tiếng bén nhọn như mũi dùi là khôn ngoan mà bạc ác. Tiếng như dùi đục là ngu đần hèn cộc. Tiếng như chuột rúc là hạ tiện. Tiếng như chuông ngân là uy nghiêm.
Tiếng như kêu thét là ngu và ác, tiếng như rên rỉ là bần yểu. Tiếng như thanh la bể phát âm khàn khàn là nóng nảy hung bạo, hay ghen. Tiếng như lửa reo là gian khổ bần yểu, bắt đắc kỳ tử, gái nói giọng trai, giọng khàn vịt đực là sát phu khắc tử, đa dâm.
(St).
![]() |
Lì xì đầu năm |
Trong năm nay, người cha của gia đình và nam giới làm lãnh đạo cần đặc biệt chú ý khoảng thời gian nguy hiểm từ 6/6 đến 6/7.
Trong năm 2014, Ngũ Hoàng (#5) ở cung Tây Bắc, Nhị Hắc (#2) ở Đông, Tam Bích (#3) ở Đông Nam và Thất Xích (#7) ở Đông Bắc là những sao xấu cần được hóa giải.
Sơ đồ tóm tắt cách bài trí đồ phong thủy để hóa giải các sao xấu trong năm 2014:
1. Cung Tây Bắc – Ngũ Hoàng #5 (sao tai họa)
Ngũ hoàng là ngôi sao nguy hiểm và hung dữ nhất trong số 9 sao của hệ Phi tinh. Ngôi sao này có thể mang tới đủ kiểu bất hạnh như ốm đau, mất mát, thảm họa, tai nạn và trở ngại trên con đường đi tới thành công. Trong năm 2014, Ngũ Hoàng bay vào cung Tây Bắc, ảnh hưởng xấu tới vận may của người cha trong gia đình, lãnh đạo của cơ quan. Người sinh tuổi Tuất, tuổi Hợi cũng chịu nhiều ảnh hưởng xấu từ ngôi sao bất hạnh này.
Rất may cung Tây Bắc thuộc hành Kim, có thể làm suy yếu hành Thổ của Ngũ Hoàng, khiến nó trở nên bớt nguy hiểm. Tuy nhiên, sao Cửu Tử (#9) của vận 8 thuộc hành Hỏa lại khiến Ngũ Hoàng mạnh hơn. Các yếu tố này cần được tính đến khi áp dụng các biện pháp hóa giải Ngũ Hoàng.
Trong năm 2014, cần đặc biệt chú ý khoảng thời gian từ 6/6 đến 6/7, khi sao tháng Ngũ hoàng của tháng cũng bay vào cung Tây Bắc, khiến sự hung bạo của Ngũ hoàng tăng gấp đôi. Thời gian này, năng lượng Hỏa của mùa hè cũng đang lên cao, khiến ngôi sao tai họa càng thêm mạnh mẽ. Đây là khoảng thời gian đặc biệt nguy hiểm cho người Cha của gia đình và nam giới làm lãnh đạo.
Vận rủi ảnh hưởng tới người Cha, dù dưới dạng bệnh tật, tai nạn, hay đột nhiên mất thu nhập, đều tác động tới toàn bộ gia đình. Nếu cửa chính nhà bạn hướng về Tây Bắc thì càng phải thận trọng. Phòng ngủ ở cung Tây Bắc có thể khiến người cao tuổi bị bệnh trầm trọng như đau tim, đột quỵ…
Ngũ hoàng mang lại may mắn cho nam giới có quái số 5, chẳng hạn:
Tuổi Tỵ (1941, 1977)
Tuổi Dần (1950, 1986)
Tuổi Hợi (1959, 1995)
Tuổi Thân (1968, 2004).
Trong mọi trường hợp, tuyệt đối không được kích hoạt Ngũ hoàng mà phải hóa giải sao này.
Hóa giải Ngũ hoàng:
Tây Bắc là khu vực đặc biệt nguy hiểm, cần được giữ yên tĩnh tối đa trong năm nay. Mùa hè năm nay, nên hạn chế sử dụng quạt máy ở khu vực này, có điều kiện thì dùng điều hòa thay thế.
Nếu khu vực Tây Bắc được bố trí nhiều đèn và không thể không dùng chúng thì nên thay thế ánh sáng ấm của bóng đèn màu vàng bằng ánh sáng trắng lạnh hơn. Việc sử dụng các vật phẩm phong thủy để hóa giải năng lượng xấu là cần thiết, nhưng tốt nhất vẫn nên tránh xa khu vực này. Sau đây là một số nguyên tắc chung:
– Khu vực Tây Bắc năm nay rất xấu, tránh dành nhiều thời gian ở đây. Nếu phòng ngủ ở khu vực này thì nên đổi sang chỗ khác, nếu không thể được thì tránh kê giường ở góc Tây Bắc của phòng.
– Loại bỏ tất cả những gì thuộc hành Hỏa (đèn sáng, đồ vật màu đỏ, da cam, tím…), những thứ đồ gây chuyển động hay tiếng ồn như quạt máy, radio, tivi khỏi khu vực này.
– Không tụ tập hoặc gây tiếng ồn ở đây.
– Tuyệt đối không tu sửa, đào bới ở khu vực Tây Bắc trong năm nay.
– Đặt tháp ngũ hành, chuông ngũ hành, chuông gió 6 ống hoặc đồ kim loại ở Tây Bắc. Kim làm suy yếu năng lượng Thổ của sao Ngũ Hoàng.
2. Cung Đông – Nhị Hắc #2 (sao bệnh tật)
Nhị Hắc là ngôi sao hung hãn, mang lại bệnh tật, trong những trường hợp rất nặng có thể gây tử vong. Trong năm 2014, Nhị Hắc bay vào cung Đông, ảnh hưởng xấu tới người có phòng ngủ ở đây hoặc thường xuyên sử dụng khu vực này. Nhị Hắc ảnh hưởng nhiều nhất tới người sinh năm Mão. Vận may của trưởng nam (con trai cả) cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong năm nay.
Cần đặc biệt cẩn thận vào các khoảng thời gian từ 6/6 đến 6/7 và từ 7/12/2014 đến 5/1/2015, là khi ngôi sao tháng Ngũ Hoàng bay vào cung Đông, khiến cho năng lượng bệnh tật càng mạnh hơn. Ban cần chú ý:
– Cung Đông năm nay xấu, tránh dành nhiều thời gian ở đây. Nếu phòng ngủ ở khu vực này thì nên đổi sang chỗ khác, nếu không thể được thì tránh kê giường ở góc Đông của phòng.
– Phụ nữ có thai, người già, người ốm cần đặc biệt tránh dùng phòng ngủ ở cung này.
– Không đặt vật có năng lượng Thổ hoặc Hoả ở khu vực này.
– Không bật nhạc, tivi hoặc bật đèn nhiều.
– Để hóa giải, cần đặt các loại hồ lô kim loại và hồ lô tự nhiên, chuông gió 6 ống hoặc nhiều đồ kim loại ở cung Đông của ngôi nhà hoặc căn phòng. Kim làm suy yếu năng lượng Thổ của sao Nhị Hắc.
3. Cung Đông Nam – Tam Bích #3 (sao cãi cọ)
Tam Bích gây rắc rối liên quan tới cãi cọ, hiểu nhầm, xung đột và kiện tụng. Bay vào cung Đông Nam trong năm 2014, gặp hành Mộc của cung này, Tam Bích sẽ trở nên đặc biệt mạnh mẽ, mang tới nhiều rắc rối. Tam Bích có thể tấn công hết sức bất ngờ, khiến bạn đặc biệt lo lắng, bất an. Ngôi sao này ảnh hưởng mạnh nhất tới người sinh năm Thìn và Tỵ cũng như Trưởng Nữ (con gái cả) trong gia đình.
Những người sống trong ngôi nhà quay về hướng Đông Nam hay cửa chính rơi vào cung này cần đặc biệt cẩn thận với các loại bất đồng, cần nhớ rằng những hiểu lầm nho nhỏ có thể dẫn tới những vấn đề pháp lý trầm trọng.
Cách hóa giải:
Tam Bích thuộc hành mộc, vì vậy cần hạn chế các yếu tố Mộc và Thủy ở khu vực Đông Nam: loại bỏ những gì thuộc hành Thủy và Mộc khỏi khu vực này trong năm nay.
Dùng Hỏa để làm suy yếu Mộc: trải thảm, treo rèm hay sơn tường màu đỏ, đặt đồ vật hay treo tranh ảnh màu đỏ tại cung Đông của ngôi nhà, căn phòng; cũng có thể bật một ngọn đỏ đèn suốt đêm tại khu vực này. Các đồ vật phong thủy giúp hóa giải ngôi sao Tam Bích: bánh xe lửa, quả cầu lửa, quả cầu pha lê màu đỏ…
4. Cung Đông Bắc – Thất Xích #7 (sao bạo lực)
Thất Xích bay vào cung Đông Bắc của ngôi nhà trong năm 2014. Đây là ngôi sao nguy hiểm, mang theo nguy cơ trộm cướp, thù hằn, ẩu đả, phản kháng. Người sống trong khu vực chịu ảnh hưởng của sao này dễ bị lừa đảo, thường dẫn đến mất mát về tài chính. Trường hợp xấu, ngôi sao này có thể gây thương tích.
Thất Xích thuộc hành Kim và có màu đỏ, giống như máu, vì vậy sao số 7 tượng trưng cho bạo lực và trộm cướp có vũ khí. Khi bay vào cung Đông Bắc thuộc hành Thổ, Thất Xích sẽ trở nên đặc biệt hung hãn trong năm nay.
Thứ Nam (con trai út) trong gia đình và những người tuổi Sửu, tuổi Dần, cũng như người sống trong ngôi nhà có cửa chính nằm ở cung Đông Bắc, sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ ngôi sao này.
Những điều cần chú ý:
– Hết sức thận trọng nếu cửa chính hay phòng ngủ của bạn rơi vào cung Đông Bắc. Tránh đập cửa mạnh hoặc gây ồn trong phòng.
– Loại bỏ các yếu tố Kim (như chuông gió kim loại) và Thổ (pha lê) khỏi khu vực này.
– Dùng hành Thủy để làm suy kiệt năng lượng Kim của sao Thất Xích: bố trí các vật dụng màu đen, màu ghi, đặt nước tĩnh lặng…
– Đặt tượng tê giác và voi cuốn vòi lên ở cung Đông Bắc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Thày tướng giỏi nhìn mặt khí sắc đoán nhiều khi kinh thiên động địa, nhiều khi tốn hàng tháng, hàng năm để tìm ẩn tướng.
Mắt là cửa ngõ của linh hồn. Chẳng cần sự nghiên cứu tướng học Đông Tây đều công nhận điều này. Tuy vậy khoa xem tướng nghiên cứu và sắp đặt thành hệ thống rõ ràng, mắt thế nào là gian, thế nào là ác, thế nào là phú, thế nào là quí, là yểu là thọ.
Xem mấy phim Tây Phim Tàu, kẻ gian mắt lúc nào cũng đảo lia, đảo lịa, kẻ ác mắt cứ trắng dã. Ca dao, tục ngữ cũng không thiếu nói về con mắt.
- Đôi mắt lá dăm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền
- Lợn kia trắng mắt thì nuôi, người kia trắng mắt chơ’ chơi mà phiền.
- Nhất lé nhì lùn tam hô tứ lộ.
Những người mắt trắng môi thâm
Ví chẳng hại chồng thì cũng hại con.
Mắt và my (lông mày) đi thành bộ.
Mắt cần trong suốt, hắc bạch phân minh. Triệu Vân thời tam quốc có tướng thanh toàn cặp mắt trong suốt ( sách Vũ tài Lục), nên tả xung hữu đột Đương dương, suốt đời chinh chiến mà chết vẫn an lành.
Mắt thao láo mà không có linh động, cuối mắt tròn hơi lộ, mí nổi bờ lại thêm gân đỏ trong mắt là mắt cá ươn, người này mang bệnh nan y, giảo hoạt, khắc người quanh mình.
Mắt trắng lộ nhiều bên dưới là hạ bạch nhãn, tướng này bôn ba vất vả phòng chết vì thiếu dưỡng khí (phổi, chết đuối …)
Tướng Pháp là một môn học có hệ thống hẳn hòi, nhưng như những môn học khác, tuỳ theo người truyền bá, áp dụng và cải thiện thì nó mới được tiến hay không. Thế giới ngày càng phức tạp, nhiều quan niệm bị đạp đổ hay thay đổi đi. Tướng số cũng cần phải được được nhìn với con mắt và tấm lòng mở rộng như vậy, nhất là sách tướng thường nhìn theo quan niệm Á Đông. Nó cũng cần được bổ túc cho hợp hơn với nhân sinh ngày nay. Thày tướng xem tướng cũng chẳng khác, người trồng cây, xem cây. Đâu có gì là dị đoan đâu, có chăng là những người xem làm nó ra vậy thôi. Cây lá xanh tươi thì khoẻ mạnh, xanh làm sao thì có hoa nhiều, quả nhiều, xanh ra sao thì mãi mãi xanh rêu. Lá vàng làm sao là tự nhiên, ra sao là bị huỷ hoại,còn ảnh hưởng quanh đó nữa. Nhìn cây Lan hồ điệp tươi tốt, mọc ngay giữa vườn mùa thu, không thể quả quyết là tiền đồ sáng lạng, mùa đông đến, tuyết rơi nó sẽ chết. Nhưng cây hồng thì không. Nhìn cây Lan Vanda chẳng hạn, nhà nghề có thể biết nó được tưới nhiều hay ít, ẩm độ cao hay thấp, có thể biết có thể sắp ra hoa hay không và ngay cả hoa màu đậm, tím, đỏ hay nhạt vàng, cam, xanh lá cây cũng biết trước được, người không biết nói là nói ẩu. Vì vậy tốt còn tốt ra sao nữa. Thần khí, cốt cách là vậy.
Mắt buồn, mắt là cửa sổ linh hồn, mắt buồn vì lòng buồn, vì lo âu. Tuy vậy khi nói đến mắt buồn có thể gọi là buồn vì nhiều thứ, đuôi mắt loan xuống, mắt chứa vẻ u uất, lo âu ( thường mắt to và lòng đen nhiều mới có tướng này, khó có ở mắt hí hay trắng dã), gọi là mắt buồn là vậy, còn thỉnh thoảng buồn, hay sắp gặp nạn cũng có thể thấy ở mắt, nhưng cái buồn biểu hiệu qua mắt đó không gọi là mắt buồn. Câu hỏi tổng quát quá. giải thích như vậy được thôi.
Mắt lá dăm lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền
Mắt lá dăm nhìn cân đối, hơi dài, tròng đen nhiều và cũng cân đốị Người có con mắt này nếu được trong suốt những là người ôn nhu, nhưng sáng suốt và thông minh. Lông mày lá liễu hình dáng hơi nhỏ, gọn, cuối lông mà vòng xuống ôm lấy mắt. Những người có lông mày này, mắt này, trai hay gái đều đáng trăm quan tiền. Đàn ông chơi với bạn bè thủ túc rất trọng tình nghĩa. Đàn bà ở với chồng không hề hai lòng dù chồng nghèo khổ, chồng càng sa cơ người vợ này coi việc thương chồng như một sự tín nghĩa, là hãnh diện của chính họ. Sách của Hà lạc dã phu có thơ ví dụ về lông mày này:
Chồng người xe ngựa người yêu
Chồng em khố rách, em chiều em thương.
Có hàng trăm loại mắt và mi, không có hình vẽ không thể tả cho chính xác được. Chia theo hình thể, hoặc các loài cầm thú. Về cầm thú thì dĩ nhiên như các sách … Tàu khác, long và phụng là đầu mà thực ra chẳng ai biết mặt mũi hai con đó ra saọ Thôi thì như vầy, người ta lấy hai loại mắt đẹp nhất trong tướng học để vẽ hai con linh vật đó.
Mắt Rồng có Phục Long nhãn, Du long nhãn, mắt phượng có Minh phượng, thuỵ phượng, Đan phượng. Mắt tốt phải đi với mày tốt mới hoàn hảo.
Người có đôi mắt đẹp có tinh thần thì cái uy lực, cái diễm lệ nổi ra ngay. Trong khi đó lông mày theo tướng số cần mềm, mọc thuận đều, không cần rậm, hơi thưa càng tốt. Mày mọc xa mắt càng tốt, đàn ông mày mọc gần mắt quá là người không biết nhìn xa trông rộng chỉ cứ theo thời mà làm, nhiều lành tụ thời bình được đưa lên do đảng chính trị dễ sai khiến có đôi mày tốt, mắt tốt nhưng mọc gần dính vào mắt, lên nhờ thời. Đàn bà mày sát mắt nếu xấu nữa dễ bị đàn ông hiếp đáp hay dụ dỗ. Mày cao hơn tai là người tinh tường, nhìn rõ chi tiết sự việc nhưng hành sử bao quát và rõ ràng. VÌ thế mày đậm tuy đẹp nhưng theo sách tướng không được tốt. Mi thì thanh, mục cần tú.
Những hình vẽ hoặc biểu tượng giúp nhận xét một số mắt:
Mắt phục long lớn, lòng đen nhiều, cân đối, đuôi mắt hơi quết lên. Mí mắt xếp lên nhau, xem phim vẽ Disney mắt con khủng long lúc ngủ bị đánh thức dậy, chợt mở mắt trông giống như mắt phục Long tả và vẽ trong sách Tàu, mắt này cần đen trắng rõ ràng và có thấy một lằn gấp ở mí. thần mắt uy nghiêm. Mắt phục long lại ưa du long mi. Du Long mi dài mọc gọn, nhưng thưa, hơi sếch lên. Được bộ này đại phú quí. Tuy vậy phụ nữ không được hợp lắm, vì cứng cỏi phu thê bất hoà.
Mắt Du : Long lớn dài nhiều tròng đen và bóng láng, dáng như nổi giận, mắt xếch giống như một mí, phía dưới lộ chút tròng trắng. Nhìn phim Disney lúc chú bé khủng long nổi giận hăm hở bước đi, không hiểu tình cờ hay cố ý giống mắt du long, nhìn những tranh Tàu vẽ mắt rồng lúc nổi giận cũng thế, mí mắt thì thường không giống lắm, mí mắt du long mí thuờng đè lên nhau. Mắt du long lại đi với mày ngoạ long. Mày ngoạ long xếch, lớn dài tròn cạnh, mày hơi nhạt thưa. Được bộ này vang lừng tài danh, đại phú quý. Phụ nữ không hợp với du long nhãn vì tuy giỏi, nhưng quyết định hơi … bạo và khắc phu, bà Kenedy có mắt này. Mày ngoạ long đi với phục long nhãn đối với phụ nữ hợp hơn được phú quí nhưng khắc phu, và xa với con cái. Vì mắt phục long khí thế ẩn tàng hơn và mày ngoạ long thanh tú hiền hoà hơn.
đạo lý xuất phát từ 28 vì tinh tú trên trời, là một cách bố cục thiên tượng.
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ là khi từ hướng toạ sơn nhìn ra ngoài, bên phải bên trái đều xuất hiện núi dựa như một người giơ hai tay ra ôm trọn không gian trước mặt. Thanh Long bên trái đại diện cho cương dương, nam tính. Vị trí Thanh Long vượng thì chứng tỏ có quý nhân phù trợ và sức mạnh trấn áp. Bạch Hổ bên phải đại diện cho âm nhu, nữ tính. Vị trí Bạch Hổ vượng chứng tỏ sức mạnh âm nhu cực lớn. Nếu căn nhà chếch trái hoặc chếch phải gây ra hiện tượng Thanh Long ngắn, Bạch Hổ dài hoặc Bạch Hổ ngắn, Thanh Long dài. Điều đó chứng tỏ sức mạnh âm dương không cân bằng.
Bạch Hổ quá vượng đại diện cho hoạ thị phi, cho nên Thanh Long và Bạch Hổ cần phải cân bằng thì mới có phong thuỷ tốt. Không gian ôm đằng trước căn nhà là Chu Tước, còn gọi là Minh đường. Minh đường tốt nhất có thể nhìn thấy căn nhà và Thuỷ. Nếu toàn là Thuỷ sẽ khiến con người sản sinh ra ý niệm chùn bước. Nếu chỉ nhìn thấy căn nhà không thôi thì người ta lại làm việc như điên. Đoạn phía trước của căn nhà nhất định phải có hàng rào. Đây là bố cục tàng phong tụ khí. Không có hàng rào, khí trường chuyển động không thể nào ngưng tụ lại ở minh đường.
Điều đó cũng có nghĩa tài phúc không đi lại trong minh đường, cho nên cần phải làm tàng phong tụ khí để ngăn chặn. Vị trí có thể dựa được ở đằng sau căn nhà gọi là Huyền Vũ. Bất cứ bố cục phong thuỷ nào cũng phải có những tính chất trên thì mới gọi là phong thuỷ tốt.
Dù đã trải qua nhiều mối tình hay thậm chí đã kết hôn song nhiều người vẫn không quên được mối tình đầu. Những rung động đầu đời thường trở thành kỉ niệm khó phai trong trái tim mỗi chúng ta. Mối tình đầu là bông hoa tình yêu đầu tiên nở rộ trong cuộc đời chúng ta. Những tình cảm buổi đầu ngây thơ, non nớt ấy tưởng chừng mong manh nhưng đối với rất nhiều người, đó lại là những kỉ niệm không thể nào quên. Nó không chỉ là 1 đoạn tình cảm vào những ngày tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời chúng ta, mà nó còn mãi mãi lưu giữ hương vị của tuổi thanh xuân.
Nhớ về mối tình đầu, ta như sống lại những ngày tháng trẻ trung hồn nhiên và tràn ngập ước mơ. Cả thế giới nằm trong tay ta, mọi thứ dường như lúc nào cũng tươi mới và xinh đẹp trong những con mắt mộng mơ.
“Mối tình đầu như bước chân trên cát. Bước nhẹ nhàng nhưng mãi mãi in sâu.” Chẳng thế mà nhiều người không quên được mối tình đầu. Họ đơn giản chỉ đem nó cất sâu trong ngăn kéo kí ức, thi thoảng mở ra để nhớ về quãng thời gian ấy, không cần phải truy cứu rằng mối tình đó là sai lầm hay bản thân ta đã sai khi để vụt mất qua tay.
Vậy trong số 12 cung hoàng đạo, chòm sao nào là người không quên được mối tình đầu? Ai là người sẽ đem mối tình đó khắc sâu trong trái tim mình, cả đời không thể nào quên? Hôm nay Lịch ngày tốt sẽ bật mí điều này cho các bạn nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
Trong những chương tiết phía trên của cuốn sách này, chúng ta đã biết, bát tự của nam giới lấy chính tài ta khắc hoặc thiên tài là vợ, nhưng chồng trong bát tứ của vợ, lại phải triệt để ngược lại, lấy quan (chính quan) sát (thiên quan) khắc ta là chồng. Cũng vậy, khi xem cho con cái, nam mệnh lấy thiên quan (thất sát) khắc ta là con trai, Chính quan là nữ, còn nữ mệnh thì lấy thực thần ta sinh là con trai, thương quan là con gái.
Do trong xã hội phong kiến, đàn bà mọi việc đều phải dựa vào chồng “chồng lợi thì vợ cũng lợi, chồng khổ thì vợ cũng khổ”, cho nên mệnh cho nữ xấu hay tốt, trước hết phải xem vị trí quan sát của chồng thịnh hay suy để định sang hèn. Tiếp đến phải xem sao của con, vì rằng nuôi con để dựa lúc về già, bởi vì người đàn bà bản thân không có thu nhập, do đó cuối đời vinh hay nhục, toàn dựa vào sao của con xấu hay tốt.
Trong tình hình chung, quan, sát, tài đắc địa, có lợi cho chồng, thực thần đắc địa, có lợi cho con. Chồng có lợi thì xuất thân giàu sang, cả đời hưởng phúc. Con có lợi thì cuối đời được nuôi dưỡng tốt. Do thực thần có thể sinh tài, lại có thể sinh quan. Ví dụ có người chồng can ngày bát tự Ất Mộc sinh ra là Đinh Hoả, sau đó lại do thực thần Đinh Hoả sinh Thổ, Mộc có thể khắc Thổ, cho nên Thổ là tài của Ất Mộc. Tiếp đó lại do Thổ sinh Kim, Kim là quan khắc Ất Mộc. Vì duyên cớ ấy cho nên nữ mệnh phần lớn lấy thực thần, tài, quan làm dụng thần của bát tự. Nếu như quan, sát, tài, thực trong bát tự sinh ra không đắc địa, lại không sinh vượng hoặc là khuyết hàm, khi hành vận lại không bổ sung được, thê thì suôt đời khốn khổ, chẳng nói làm gì.
Lễ giáo phong kiến lại tôn sùng phụ nữ trinh tiết, trưóc sau như một, cho nên trong bát tự nếu thấy quan thì không được sát, nếu thấy sát thì không được thấy quan, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ cần không có sát lẫn vào trong đó, hoặc trong tứ trụ thuần là sát, không có quan tinh lẫn vào, thì đều có thể gọi là con gái nhà lành.
Trong Tam mệnh thông hội của Dục Ngô Sơn nhân đòi Minh soạn, có nói rất kỹ về bát pháp, bát cách của nữ mệnh, xin dẫn giải như sau;
I. Bát pháp
1. Thuần: gọi là thuần có nghĩa là thuần nhất. Ví như quan tinh thuần nhất, sát tinh thuần nhất, có tài (tài có thể sinh quan) có ấn (ấn thụ hộ thân), lại không gặp hình xung như vậy là thuần. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh dưới đây.
Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Bính Thân
Tân Dậu trong bát tự là bản thân, mà Dậu với Tân mà nói, do ư chính ở lộc địa của lâm quan, cho nên bản thân sinh vượng. Ngưòi xưa nói: vượng không theo hoá theo Lý thì thiên can hợp cục, Bính Tân cần phải hoá Thuỷ, bây giờ bản thân duyên lộc, cũng phải hoá mà không hoá. Ở đây sao chồng Tân Kim là chính quan Bính Hoả khắc ta, liên hệ với mệnh này sinh vào tháng Mậu Ngọ đúng vào thời hoà vượng của tháng 5 nông lịch, cho nên sao chồng kiện vượng. Lại liên hệ với can năm Quý Thuỷ, rất khéo hình thành mỗi quan hệ chính quan vói Bính Hoả sao chồng. Trong dụng thần, chính quan là một cát tinh, cho nên rất có lợi cho chồng. Nếu lại liên hệ với can tháng Mậu Thổ lại là cát thần thực thần của sao chồng Bính Hoả, và Bính Hoả cũng Mậu Thổ cùng quy lộc (Lâm quan) đên địa chi Tỵ của trụ năm, có thể nói là khó có được.
Sau khi xem sao chồng lại đến sao con. Tân Kim sinh Nhâm Thuỷ là con, mà thân trong cung con ở chi giờ lại khéo hàm chứa Nhâm Thuỷ mà mối quan hệ của Nhâm Thuỷ với Thân trong 12 cung lại đúng ở vào đất trưòng sinh vạn vật hướng sinh. Hơn nữa thiên can Quý Mậu hợp hoà, Bính Tân hợp Thuỷ, Thuỷ Hoả có tượng ky tế, địa chi Tỵ, Ngọ, Dậu, Thân, Canh Kim trong kỷ, Canh Kim trong than, Tan Kim trong Dậu đều là tài khcí của Bính Hoả sao chồng và Đinh Hoả trong chi tháng Ngọ, cho nên tự nhiên lấy chồng được làm quan mà ăn lộc trời, thuộc về mệnh chồng vinh con sang.
2. Hoà: gọi là Hoà có nghĩa là điềm tĩnh. Ví như trong bát tự bản thân nhu nhược, chỉ có một ngôi sao chồng khắc ta mà tứ chi lại không có thần công phá xung kích, nó liễm được khí trung hoà nên “Hoà” vậy. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh.
Năm Nhâm Thìn Tháng Tân Hợi
Ngày Kỷ Mão Giờ Kỷ Tỵ
Thiên can Kỷ Thổ của trụ ngày trong mệnh là bản thân, Giáp Mộc trong trụ thang hội là sao chồng. Hợi đối với Giáp Mộc mà nói, ở chỗ đất trường sinh vạn vật hưởng vinh. Những điều nói trên gọi là chồng được quan tinh, con đường trường sinh, cho nên chồng vượng, con lợi, còn như Ất Mộc trong chi ngày Mão, tuy là thất sát của bản thân Kỷ Thổ nhưng có Canh Kim trong chi giờ tỵ chế ước, cho nên “lấy sát lưu quan”, là quý tượng trong nữ mệnh.
3. Thanh: gọi la “thanh” có nghĩa là thanh khiết. Trong nữ mệnh, hoặc chỉ có một quan, hoặc chỉ có một sao chồng đắc thời, trong trụ có tài có quan, có ấn trợ thân, không có khí hỗn đục, mới có thể đắc thanh quý. Lấy một ví dụ nữ mệnh như thế này:
Năm Kỷ Mùi Tháng Nhâm Thân
Ngày Ất Mùi Giờ Giáp Thân
Trụ ngày bản thân Ất Mộc, lấy chi ngày chi giờ trong đó thân chinh Canh Kim làm sao của chồng. Thân với Canh mà nói, ở vào lộc địa của lâm quan, cho nên sao chồng đắc thời mà Ất Mộc lấy thực thần Đinh Hoả ta sinh làm sao con, mà trong chi ngày Mùi bản thân lại hàm chứa Đinh Hoả, mà Mùi với Đinh mà nói lại cũng ở vào Vượng địa của lâm quan, cho nên sao con đắc địa. Ất Mộc lấy Nhâm Thuỷ làm chính ấn, mà trị tháng Nhâm Thuỷ lại toạ ở Trung Kim, nguồn thuỷ không thiếu, hơn nữa kỷ Thổ trong chi ngày Mùi lại là thiên
tài do Ất Mộc đưa đến. Như vậy tài vượng sinh quan, tứ trụ lại không có hình xung phá hại.
Thơ rằng:
Tài cung ấn thụ tam ban vật
Nữ mệnh phùng chi tất vượng phu
Cho nên người đàn bà có mệnh là phu nhân, được hai nước phong chức.
4. Quý : gọi là “Quý” là danh hiệu tôn vinh. Trong mệnh có quan tinh và được tài khí trợ sinh, trong tứ chi lại không có hình cung phá bại, đó gọi là nghiêu vũ trong nữ mệnh quý vậy. Sách nói: mệnh mà nhân không sát (thiên quan), quý được làm phu nhân. Lại nói: “nữ mệnh vô sát phùng nhị đức, khả nhị quốc chi phong”. Gọi là Nhị Đức, không chỉ riêng Thiên Đức, Nguyệt Đức, với nữ mệnh mà nói, tài cũng là Đức, quan cũng là Đức nếu lại có ấn thụ, thực thần, như vậy càng thêm tôn quý. Nêu một nữ mệnh dưới đây.
Năm Ất Dậu Tháng Bính Tuất
Ngày Quý Mão Giờ Quý Tỵ
Thiên can trụ ngày Tân Kim, không chỉ lấy can năm Ất Mộc ta khắc làm thiên tài, trước tiên được một đức và lấy Bính Hoả của Canh Kim khắc ta trong can tháng làm quan nhân, mà quan nhân này lại toạ ở một khố tàng vạn vật và Tỵ trong chỉ giờ lại kéo tháng đến làm lộc địa của lâm quan, cho nên lại được thêm một đức. Ngoài hai đức ra, can giờ Quý Thuỷ quý là quan của Bính Hoả chồng. Bản thân Tâm Kim sinh ra Quý Thuỷ là con, mà Thuỷ của con lại toạ ở Tỵ lâm quan, có thể nói “phu lộc đồng vị” hơn nữa can giờ Quý lai gặp chi ngày Mão, được gọi là Thiên Ất quý nhân. Như vậy vừa là quý nhân, lại là tài quan song mỹ, cho nên chồng và con đều phát, cả hai được phong.
5. Trọc: gọi là “trọc” tức là đục mà không trong. Bát tự nữ mệnh nếu xuất hiện ngũ hành mất vị trí, Thuỷ Thổ làm tổn thương nhau, bản thân rất nguy hiểm, ngôi sao đại biểu cho chồng không hiện ra, mà thiên quan lại rối tạp, trong tứ chi lại không có Tài, Quan, An, Thực, những người này phân lớn là kỹ nữ, tỳ thiếp, dâm đãng, ở đây xin nêu lên một nữ mệnh như thế này.
Năm Ất Hợi Tháng Ất Hợi
Ngày Quý Sửu Giờ Kỷ Mùi
Bản thân Quỷ Thuỷ sinh vào tháng 10 tháng Hợi, quá nhiều Thuỷ. Quý Thuỷ lấy Mậu Thổ làm chính quan xem ở chính quan không hiện rõ mà dẫn can giờ Kỷ Thổ làm Thiên phu nhưng mà trong chi ngày Sửu và chi giờ Mùi Kỷ Thổ đều có thiên phu ở hỗn tạp với nhau, hơn nữa trong trụ ngày không có tài, Ất Mộc vốn là thực thần của Quý Thuỷ nhưng Ất Mộc sinh ở can tháng rất khoẻ, Kỷ Thổ bị khắc, như vậy ngũ hành mất vị trí, khó tránh khỏi ma quỷ đến người, trước trong sau đục, không thể hưởng phúc.
6. Lạm: gọi là “lạm” có nghĩa là tham lam, tức là nói trong thiên can tứ trụ có nhiều phu tinh (sao chồng) trong địa chi lại ngầm có tài vượng đái sát. Như vậy khó tránh khỏi tửu sắc vô độ, tư túi đắc tài. Gặp phải mệnh này, nếu không khắc phu tái giá thì thân làm nô tì, vì rằng thái quá hoặc bất cập sẽ đi theo hướng phản diện. Ví dụ mệnh như thế này:
Năm Canh Dần Tháng Bính Tuất
Ngày Canh Thân Giờ Đinh Hợi
Bản thân Canh Kim sinh vào tháng thu, chi ngày lại gặp lâm quan lộc địa, bản thân tự vượng. Trong đó trụ tháng nặng hơn trụ giờ, đáng lẽ Bính Hoả là chồng nhưng chi năm Dần và chi tháng hội thành Hoả cục, ở can giờ lại thấu xuất Đinh Hoả, không tránh khỏi rất yêu Hỏa. Lại như bản thân Canh trong Kim lại ngầm khắc vói chi năm chi tháng Dần Hợi Mộc là tài mà Nhâm Thuỷ trong Hợi lại là cát thần thực thần của Canh Kim, thực thần có thể sinh tài. Vì vậy tuy nói người đàn bà này lớn lên xinh đẹp có phúc, nhưng lại không thiếu lạm dâm mà đắc tài.
7. Xướng: gọi là “xướng” tức là xướng ca vô loài Trong bát tự nếu xuất hiện thân vượng phu tuyệt, quan suy thực thịnh, hoặc trong tứ trụ không thấy quan sát, hoặc có mà bị coi là hung thần thương quan, thương tận, hoặc quan sát hỗn tạp mà thực thần thịnh vượng, những người này nếu không là mệnh kỹ nữ, cũng là ni cô tì thiếp, khắc phu dâm bổn, chỉ ở một mình. Xem mệnh như thê này:
Năm Đinh Hợi Tháng Canh Tuất
Ngày Mậu Thìn Giờ Canh Thân
Can ngày bản thân Mậu Thổ, lẽ ra là phu tinh (sao chồng) khắc ta Giáp Mộc trong chi năm Hợi, nhưng do Mộc này ở vào tháng 9 tháng tuất của mình thu, trong vượng tướng hưu tù tử, ở vào tử thất thời nguyên khí, giờ đây lại gặp can tháng Canh Kim giám lâm, cho nên rõ ràng là khắc tuyệt, lại xem Canh Kim trong chi giờ Thân, lẽ ra thuộc về thực thần của Mậu Thổ, nhưng Thân với Canh mà nói lại là lộc định của lâm quan, cho nên thực thần có lực, hơn nữa Mậu Thìn vốn thuộc sao khôi cương, có lợi cho đàn ông, không lợi cho đàn bà, giờ đây khôi cương chiếu lâm, lại có thể sinh thực, nêu lại kết hợp với Canh Kim của can tháng can giờ thì không tránh khỏi thực thần vượng quá mức. Tuy nói Ất Mộc trong Thìn cũng là sao chồng khắc ta nhưng toạ ở bên dưới Mậu Thổ, không thể thấu xuất, nên không thể lấy để dùng. Ngoài ra Nhâm Thuỷ trong chi năm Hợi, Quý Thuỷ trong chi ngày Thìn, Nhâm Thuỷ trong chi giờ Thân đều là tài của bản thân Mậu Thổ, Mậu Thìn vốn thuộc khôi ải, bản thân cường vượng, bây giờ phu tinh khắc ta đã tử tuyệt mà xung quanh lại đầy những thực thần sinh ta, cho nên gọi là Thân vượng phùng sinh, tham thực tham tài, là một ca nữ xinh đẹp không có chồng.
8. Dâm: gọi là dâm là dâm ô quá mức. Bát tự của loại người này, bản thân tuy nhiên đắc địa nhưng phu tinh (sao chồng) thái quá, tối sáng giao nhau, người mà can ngày thân vượng, trong tứ trụ đều là quan sát thì đúng như vậy. Phu tinh xuất hiện ỏ thiên can gọi là minh, xuất hiện ở địa chi gọi là ám. Ví dụ 1 Đinh 3 Nhâm, hoặc Đinh Hoả đồng thời gặp phải thiên can Nhâm Thuỷ, Quý Thuỷ trong địa chi thìn, Quý Thuỷ trong địa chi Thìn, Quý Thuỷ trong Tý đều là những điền hình về tứ trụ thái quá hoặc minh ám giao nhau. Loại đàn bà đối với đàn ông quả là không thể dung nạp được, nêu một ví dụ:
Năm Mậu Thìn Tháng Nhâm thìn
Ngày Nhâm Tuất Giờ Quý Hợi
Nhâm Tuất trong mệnh và Quý Hợi, một trụ ở vào lộc địa của lâm quan, một trụ ở vào trạng thái đế vượng vạn vật trưởng thành, có thể gọi là bản thân đắc địa. Nhưng ở phu tinh, minh có trụ năm Mậu Thể là chính phu, ám có 3 Mậu Thổ (gồm 2 Thìn một Mậu) thành ám phu của Mậu Thổ, như vậy phu tinh giao tập, dâm hết chỗ nói
II. Bát cách
1. An tỉnh giữ phận: gọi là an tỉnh giữ phận tức là mệnh nữ phụ tinh trong bát tự có khí, can ngày tự vượng. Tài thực được đất, không có hình xung. Hãy xem một mệnh này.
Năm Quý Tỵ Tháng quan Canh Thân
Ngày Ất Mão Lộc Giờ Đinh Hợi
Canh ngày bản thân Ất Mộc, toạ ở chi ngày Mão là lộc địa lâm quan của Ất Mộc mà chi giờ Hợi cũng chi ngày Mão lại phùng hợp cục, cho nên can ngày tự vượng. Lại xem phu tinh, At Mộc lấy Canh Kim khắc ta làm chính quan hay ở chỗ, chi tháng thân ở nơi phu tinh toạ lại thuộc lộc địa lâm quan của Canh Kim mà chi năm Tỵ lại là đất trường sinh của Canh Kim, hơn nữa Nhâm Thuỷ trong chi giờ Hợi là thực thần thiên trù của Canh Kim, nên gọi (chồng) ăn thiên lộc, quan tinh mỹ vượng. Như vậy bản thân, quan tinh đều hưởng vượng khí, hai bên không xâm lấn nhau, tứ trụ lại không có thất sát lẫn vào, vì thế có thể thấy đó là mệnh của một phu nhân an tĩnh giữa phần, hoà nhã lịch thiệp.
2. Phúc thọ đểu đủ: đây là một loại cách cục thân toạ đất vượng, thông với ngụyên khí, can chi phò nhau, tổ hợp hữu tinh, mà Tài Quan Ân thụ đều đắc vị, không làm thóat tài hoại Ân, Thương quan, quả là cách cục thuần tuý. Nếu thân vượng mà vận hành vào đất tài, thực, cũng thuộc mệnh phúc thọ đều đủ. Nêu một ví dụ về nữ mệnh này:
Năm Bính Ngọ Tháng Canh Tý
Ngày Tân Dậu Giờ Quý Tỵ
Can ngày Tân toạ đất Dậu, chuyên lộc tự vượng. Tân Kim lấy Bính Hoả làm quan, mà quan tinh quy lộc ở chi giờ Tỵ, phu tinh đắc địa. Tân Kim lấy Quý Thuỷ là con, can giờ thực thần Quý Thuỷ quy lộc ở can tháng Tý Thuỷ, cho nên tử tinh (sao con) cũng đắc địa. Hơn nữa can chi phò nhau, không làm hại nhau, lại sinh vào Quý thuỷ tháng 11 dương lệch, trở thành tượng Kim Bạch Thuỷ thanh. Như vậy mệnh chủ xinh đẹp đoan chính, phu vượng tử quý, cho nên có thể đoán là một mệnh phúc thọ đều đủ.
3. Vượng phu thương tử: xem nữ mệnh ở vượng phu thương tử, mấu chốt là phải xem trụ ngày, vì rằng giờ là đất quy súc lại. Cách xem: hai sao ca con, dần quy về giờ, phu tinh sinh vượng, tử tinh suy bại vậy lấy một nữ mệnh là ví dụ:
Năm Bính Tuất Tháng Bính Thân
Ngày Đinh Tỵ Giờ Tân Hợi
Ngày sinh Đinh Hoả, toạ ở đế vượng Tỵ, bản thân đắc địa. Đinh Hoả lấy Nhâm Thuỷ chế ta trong chi tháng thân làm quan tinh mà chi giờ Hợi là lộc địa lâm quan của quan tinh Nhâm Thuỷ, chi tháng Thân Kim lại là đất trường sinh của Nhâm Thuỷ. Hơn nữa tháng 7 Kim vượng , Canh Kim trong thân và Tân Kim can giờ cùng với hai thiên can Bính Hoả của can giờ, can tháng là ấn thụ, tài thần của Nhâm Thuỷ quan tinh, cho nên đoán biết ông chồng thông minh phú quý. Đinh Hoả lấy thực thần kỷ Thổ làm chỗ dựa cho con cái bản thân, bây giờ trong trụ kia thấy Kỷ Thổ, cho nên lấy quyền đem Mậu Thổ tàng trong chi là tử tinh. Nhưng đem Mậu Thổ tàng trong chi Quý dẫn về cung chi giờ Hợi, Giáp Mộc trong Hợi là thất sát khắc phạt Mậu Thổ, thế đem Mậu Thổ đặt vào tuyệt địa. Vì rằng tử tinh bị khắc, cho nên trong mệnh khó có con, hoặc có thì cũng khó nuôi.
4. Vượng tử thương phu: về mệnh vượng tử thương phu, có thể từ trụ tháng, trụ giờ mà đoán biết. Quan tinh có khí đắc thời, chồng có thể thanh quư phát phúc; nếu không đắc nguyệt khí, ở trụ giờ lại không có vượng khí, thế thì chồng có thể vì mất khí mất thời mà nguy đến tính mệnh. Lại như tử tinh quy dẫn về giờ, nếu gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng mà không hình khắc, chứng tỏ tử tinh đắc địa mà sinh vượng, phần lớn có thể làm nên. Xin nêu một ví dụ.
Năm Kỷ Mão Tháng Giáp Tuất
Ngày Ất Mão Giờ Mậu Dần
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm chính quan. Sinh vào tháng Tuất, Canh Kim phùng Tuất, ở vào đất suy của nguyên khí, lúc dẫn quy về giờ, chi giờ Dần lại là đất trường sinh của Bính Hoả, mà Thìn Tuát hội cục, đều thuộc Hoả, nên đoán tử tinh hưởng vượng.
5. Thương phu khắc tử: nữ mệnh này, quan tinh và tử tinh mất tháng mất giờ, lại bị khắc tiết, cho nên không đẹp. Xem một nữ mệnh.
Năm Bính Tý Tháng quan Canh Tý
Ngày Ất Hợi Giờ Bính Tý
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm quan tinh. Bây giờ tháng Tý Kim hàn Thuỷ Lạnh, thực là Tử địa của Canh Kim
khí, trong tứ trụ không có Thổ đến sinh Kim. Cho nên đức ông chồng không lâu bền. Ất Mộc lấy Bính Hoả làm con, dẫn đến Tý cung ở giờ, thuộc về Thuỷ Hoả xung kích, là đất thuỷ vượng Hoả diệt, tuy nhiên năm đến can giờ đều có hai Bính Hoả, làm thế nào chịu nổi Thuỷ ở địa chi tứ trụ tuôn ra, cho nên con cái khó lòng tránh khỏi nguy nan.
6. Thiếu niên chết yểu: sách đoán mệnh cho rằng trong nữ mệnh vốn có quan tinh bị thương, hành vận lại thông đến đất quan, hoặc vô quan kiến thương, hành vận lại lâm đất quan và thân nhược quan sát quá nặng, sát nặng khắc thân, như thế nếu không chết thì cũng dâm ồ làm tràn. Ngoài ra nếu mang theo nhận không bị chế, hành vận lại phù hợp ở đất nhận, cũng không phải điềm lành.
Ví dụ:
Năm Đinh Mão Tháng Quý Sửu
Ngày Canh Thìn Giờ Bính Tý
Bản thân Canh Kim, Đinh Hoả là quan, bây giờ địa chi Tý Thìn và Quý Thuỷ trong Sửu củng là thương quan của quan tỉnh bị khắc chế nên bị hại vì chết đuối.
Lại như:
Năm Ất Dậu Tháng Mậu Tý
Ngày Bính Dần Giờ Kỷ Hợi
Ngày sinh Bính Hoả toạ chi Dần là đất trường sinh của Bính Hoả, đáng tiếc sinh vào tháng Tý giờ Hợi, quan sát quá nặng, giống như vượng Hoả gieo vào Thuỷ Thịnh, cho nên lo lắng sẽ chết khi sinh đẻ Lại xem một bát tự
Năm Nhâm Tý Tháng Quý Mão
Ngày Giáp Tuất Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, cho tháng Mão là Dương nhận, trụ Đinh Mão lại thương quan, Dương nhận, đồng thời địa chi Tý Mão dụng hình, Mão Tuất tương hợp, phu tinh. Tài tinh trong trụ yếu sức, vì vậy ngày Kỷ Mão, tháng Ất Sửu năm Quý Dậu phạm gian dâm mà chết.
7. Chính thiền tự xử: tam mệnh thông hội cũng rất thích thú về cách nói chính thiên tự xử. Sách nói: chính thiên tự xử là gì? là vợ chồng tương hợp, lại gặp Tỷ kiên phân tranh. Nếu một ngôi phù tinh có hai ngôi thể tinh tương hợp, gọi là tranh hợp. Nếu bản thân tự vượng, thân kia lại suy, tứ trụ không xung thì ta chính mà là thiên, nếu thân kia vượng mà ta suy, tứ trụ xung ta thì thân kia vượng mà ta thiên, nêu thân ta vượng hửu khí thì phu theo ta là chính, ta thân suy mà có ngôi vượng khác thì theo ngôi khác, ta ngược lại là thiên. Bảo rằng thân kia vượng, tranh đoạt chồng ta, ta đành phải là thiên, hoặc tự vượng thái quá, trụ không có phu tinh, cũng là thiên, hoặc quan sát hỗn tạp, hoặc thương quan quá nặng, cùng là thiên, càng dâm ô. Hãy xem:
Năm Nhâm Tý Tháng Bính Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Tân Mão
Bản thân Tân Kim, lấy can tháng Bính là quan tinh. Nhưng Bính lại hợp với can giờ Tân, thì lấy đây là mệnh hai đàn bà tranh một chồng, hay ở bản thân toạ tại lộc địa lâm quan chi Dậu, thân vượng có lực, mà can giờ Tân Kim lại toạ ở tuyệt địa Mão, suy nhược không chịu nổi công kích. Vì vậy kết quả tranh giành ta làm chính thê, còn kẻ kia làm thiếp. Lại như:
Năm Quý Mùi Tháng Nhâm Tuất
Ngày Quý Tỵ Giờ Nhâm Tý
Bản thân Quý Thuỷ, Mậu Thổ là quan. Đáng tiếc Nhâm Tý dựa Thân Thuỷ vượng. Quý Thuỷ Thuỷ nhược, do nhược không thắng vượng, cho nên kê kia thắng ta suy, đành phải làm thứ phòng. Nhưng trụ giờ Nhâm Thuỷ nặng mà tràn trề, toạ chi Tý dưới Nhâm gặp chi năm Mùi, kèm theo đào hoa cho nên kê kia tuy là chính thất (vợ cả) nhưng lại khó tự xử.
8. Chiêu giá bất định: sao lại gọi ,là chiêu giá bất định? Nghĩa là: trong nguyệt lệnh có phu tinh thấu can, tương hợp với kỷ, bản thân Tỵ tòng phục, phu tinh lại là nguyên khí, giờ dần phu tinh, hoặc sát tinh lại thích hưởng vượng địa đê khắc bản thân kỷ, lại tòng phục thiên phu, nên gọi là chiêu giá bất định (gả cưới không khẳng định) nếu phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, hẳn gã chồng chậm, hoặc lấy chồng không minh bạch, hoặc chồng chẳng giúp được gì, hoặc có ngoại tình. Lại như:
Năm Quý Dậu Tháng Giáp Tý
Ngày Kỷ Mùi Giờ Ất Hợi
Bản thân Kỷ Thổ, Giáp Mộc là quan, sinh vào tháng Tý mất thời không vượng. Nhưng chi giờ phùng hợi, hợi là đất trường sinh của Giáp Mộc, quan tinh đương vượng, nhưng can giờ Ất Mộc lại chế bản thân là sát, can ngày toạ Mùi, lại là đất thương khố (kho tàng) của ất Mộc, dẫn đến sát tinh cũng vượng. Như vậỵ, mệnh chủ ở vào trạng thái gả cho Giáp mà biến Ất, gả cho Ất mà biến Giáp, do dự không quyết nên gọi là “chiêu giá bất định”. Bát pháp, bát canh mà sách cổ nói ở trên, ý thức phong kiến nặng nề, mà còn có những lời nói chủ để mua vui, cho nên hy vọng độc giả có con mắt phê phán trong khi nghiên cứu phân tích.
9. Được phong nhất phẩm
Năm tài Đinh Tỵ tài quan ấn
Tháng quan Mậu Thân quan ấn kiếp
Giờ Thực ất mão thực
ơ mệnh này, quan tinh thực thần toạ lộc, ấn thụ đương lệnh phùng sinh, tài sinh quan vượng, không thương ấn thụ, ấn thụ đương lệnh, đủ để phù thân, thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, nhìn xem toàn cục ngũ hành dừng đều, an tường thuần thuý, biết là phu vinh tử quý, là phu nhân nhất phẩm hai đời.
10. Phu quý tử quý
Năm quan Kỷ Tỵ tài sát ấn
Tháng kiếp Quý Dậu ấn
Ngày Nhâm Thìn
Giờ thực Giáp Thìn thương sát kiếp
Thu thuỷ thông nguồn, ấn tinh thừa lệnh, quan sát tuy vượng, chê hoá hợp nghi, hay là giờ can thấu xuất Giáp Mộc, chết sát Thổ thú, một khí thuần tuý, cho nên nhân phẩm đoan trang, giỏi thi thử. Kết hợp hành vận không Hoả, cơ quan không trợ giúp, ấn không bị thương, nên có phu tinh hiển quý, con nối dõi giỏi giang, được vinh hạnh phong hàm nhị phẩm.
11. Nữ trung tài tử
Năm Canh Thìn Tháng Nhâm Ngọ
Ngày Ất Hợi Giờ Quý Mùi
Ất Mộc sinh vào tháng Ngọ, Hoả thế mạnh mà can năm Canh quan nhu nhược, tốt ở chỗ can tháng Nhâm Thuỷ, can giờ Quý Thuỷ thông căn chế Hoả, chi năm Thìn Thổ tiết Hoả sinh Kim, hơn nữa chi tháng Ngọ Hoả sinh chi năm Thìn Thổ, chi năm Thìn Thổ sinh can năm Canh Kim, can năm Canh Kim sinh can tháng Nhâm Thuỷ, Can tháng Nhâm Thuỷ sinh can ngày Ất Mộc, như vậy tiếp tục tương sinh, khiến Hoả trong trụ không mãnh liệt Thổ không táo, Thuỷ không cạn, Mộc không Thổ, cho nên thuần tuý trung hoà, là nữ trung tài tử.
12. Dĩ ân vĩ phu
Ví dụ
Năm Bính Dần Tháng Tân Mão
Ngày Quý Dậu Giờ Mậu Ngọ
Can ngày Quý Thuỷ sinh vào tháng Mão là tháng tiết khí, trong trụ tài quan đều vượng, can ngày nhu nhược, cho nên lấy Ấn tinh phù ta làm phù tinh. Nhìn thấy khắp toàn cục, phù tinh thanh mà đắc nguyệt nên hành vận đến sửu vận, mấy năm liền cung Kim tiết Hoả, sinh liền hai con, về sau vận hành đến Mậu Tý, vì Tý Thuỷ xùng đẫy Đinh Hoả trong chi giờ Ngọ khiến Dậu Kim không bị thương, chồng có tin mừng thi cử đỗ đạt. Nhưng một khi giao vào Đinh Hợi, tài tinh ngược đãi, nên buông tay mà chết. Phân tích mệnh này, bệnh ở tài khí quá vượng, lấy Bính Hoả can năm hợp với Tân Kim can tháng, lấy Đinh Hoả can giờ khắc phá chi ngày Dậu Kim, hơn nữa Dần, Mão dương quyền sinh Hoả, cho nên hành vận một khi đi vào Đinh Hợi, Hợi với chi năm Dần hợp hoá Mộc, giúp dựng lên vượng thần mà Đinh Hoả lại khắc Tân Kim nên không có lộc.
13. Dĩ tài vi tử
Ví dụ:
Năm Bính Thìn Tháng Quý Tỵ
Ngày Đinh Sửu Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào tháng Tỵ, Quý Thuỷ phu tinh thanh thấu, Giáp Mộc ấn thụ đẹp đứng một mình, cho nên phẩm cách đoan trang, trinh khiết. Tiếc là Bính Hoả ở can năm chi tháng quá vượng, sinh trợ thiên quan, để bị phá vỡ. Nhưng may lớn trong không may là chi tháng Tỵ cùng chi ngày Sửu hợp thành Kim cục, tài t́nh đắc dụng. Người xưa có câu nói: “Thân vượng tài vi tử, thể suy ấn tác nhi” cho nên lấy tài làm con, dạy con thành danh, về sau do hai con đều quý, được phong tam phẩm.
14. Hình phu nan thủ
Ví dụ:
Năm Đinh Mùi Tháng Ất Tỵ
Ngày Giáp Ngọ Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, sinh vào tháng Tỵ, chi thuộc nam phương, can thấu lưỡng Đinh, tương như hoà thế mãnh liệt, khiến cho Giáp Mộc tiết khí thái quá. Trong cục lại không ấn thụ sinh thân. Cho nên chỉ có thể lấy chi giờ Mão Mộc làm dụng thần. Kết hợp đại vận, lúc trẻ nhập Hoả địa. Cho nên chồng chết sớm. Do người này thông minh xinh đẹp, mà lại nông nổi khác thường, về sau một khi vận đến Mậu Thân, tranh chiến cùng Mộc Hoả, nên không thư tiết được.
15. Phu tử tự vằn
Ví dụ:
Năm Mậu Tuất Tháng Kỷ Mùi
Ngày Bính Thìn Giờ Mậu Tuất
Khắp cục thương quan, ngũ hành khuyết Mộc, ấn tinh không thấy, cách thành thuận cục. Người này thông minh xinh đẹp tiếc tứ trụ Kim Thuỷ ít quá, Thổ của thương quan quá khô và dày, mà phu tinh Tân Kim lại mộ ở Tuất, cho nên dâm loạn cực kỳ, chồng gặp hung tai mà chết, về sau theo người khác, không được 2-3 năm lại khắc, chờ đến Ất Mão Mộc vận, phạm vượng của Thổ, tự vẫn mà chết.
16. Khi phu dâm tiện
Ví dụ
Năm Mậu Ngọ Tháng Ất Sửu
Ngày Mậu Tuất Giờ Bính Thìn
Can ngày Mậu Thổ, sinh vào tháng Sửu Kim tàng Thổ vượng, khiến cho can tháng quan tinh Ất Mộc không thể dựa vào gốc, nếu lấy Ất Mộc thông vối chi giờ Thìn khố. Thì Ất Mộc trong Thìn lại gặp Tân Kim trong Mậu khắc phạt, hơn nữa chi năm, chi ngày, can giờ ấn thụ sinh thân, cho nên bản thân cường vượng, đủ để dối gian, đặt phu quân ra bên ngoài. Kết hợp ở tuổi trung niên hành nhập tây phương Kim vận, biết đó là loại đàn bà dâm tiện.
17. Thuỷ tính dương hoa
Ví dụ
Năm Đinh Mùi Tháng Quý Sửu
Ngày Cánh Tý Giờ Đinh Hợi
Hàn Kim hỉ Hoả, đáng tiếc địa chi Hợi Tý Sửu hội thành Thuỷ cục, can tháng Quý Thuỷ khắc can năm Đinh Hoả, Quý Thuỷ trong chi tháng Sửu xung diệt dư khí Đinh Hoả trong Mùi, mà can giờ Đinh Hoả lại do hư thoát vô căn nên không đủ để dùng, hơn nữa ngũ hành tứ trụ thiếu Mộc, cho nên Mùi đủ sức làm sống lại Đinh Hoả mà quản chế Canh Kim. Do vậy, ngày sinh Canh Kim tự hành sự một mình, không đếm xỉa bị Đinh Hoả quản thúc thuộc loại đàn bà thuỷ tính dương hoa.
18. Hợp đa dâm lạm
Ví dụ
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Tân Tỵ Giờ Bính Thân
Mệnh này, can tháng Nhâm Thuỷ hợp với can năm Đinh sát, can giờ Bính Hỏa đắc lộc ở Tỵ cho nên thân gia đình dòng dõi, đẹp mà khéo, người ta đều gọi bà là “Thái Dương Phi”. Xem cả cuộc đời bà khi 4-5 tuổi xinh đẹp khác thường, cho đến 13-14 tuổi đẹp như người trong tranh, năm 18 tuổi kết vợ chồng với một thư sinh, anh chàng này bình thưòng chăm chỉ học hành nhưng sau khi kết hôn yêu đương đắm đuôi, một năm sau bỏ học, mà cuối cùng mắc bệnh lao mà chết. Sau khi chồng chết, người đàn bà này càng tự do phóng khoáng, cuối cùng thân bại danh liệt, không nơi nương tựa mà đi đến bước đường cùng tự vẫn. Phân tích nữ mệnh này, trong mệnh cục này thiên can địa chi hợp lại quá nhiều, cho nên Nhậm Thiết Tiêu nói: trong thập can của chồng, duy Bính Tân hợp dùng quan hoá thương quan, gọi là tham hợp vong Quan và Tỵ Thân hợp cũng hoá Thương quan, Đinh Nhâm hợp thì ngầm hoá tài tinh, ý là đem Bính Nhâm Hoả đặt ra ngoài muôn đứng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống hồ can chi đều hợp, nên không phải là ý trung nhân. Nhà mệnh lý học cận đại, Viên Thụ Sách là người nổi tiếng đã soạn ra cuốn mệnh lý tham nguyên. Trong quyển 7 bộ sách có ghi hai nữ mệnh mà ông đã đoán, có thể dùng để nghiên cứu nhằm phê phán.
19. Đoán cho bà X
Năm Ất Hợi Tháng Bính Tuất
Ngày Mậu Ngọ Giờ Nhâm Tuất
An mệnh Ất Mậu
5 Đinh Hợi 15 Mậu Tý
25 Kỷ Sửu 35 Canh Dần
45 Tân Mão 55 Nhâm Thìn
65 Quý Tỵ 75 Giáp Ngọ
Ngày sinh Mậu Thổ, lấy can năm Ất Mộc làm phù tinh, lây chi Tuất Canh Kim là Tử tinh. Đang vào mùa thu, Mộc rụng Kim tàng nên phu tinh không vượng, tử tinh không nhiều, nhưng được mệnh cung Ât Dậu trợ giúp cho hai tinh cha con, vẫn làm cho bố con cùng thịnh, huống hồ can giờ Nhâm Thuỷ lại sinh ra Ất Mộc sao? Nếu mệnh mà phu tinh phối với Thuỷ Mộc tương đối nhiều thì nhuần hoà, 3-4 con nối dõi, chỉ hiềm dương nhận hội hợp, không tránh được lao tâm vất vả. Trước 30 tuổi, bực dọc không yên. 10 năm gần đây, hỉ khí đầy nhà, con cái vây quanh. 41 tuổi giao Dần vận, tam hợp hóa Hoả, không thể không táo Thổ, huyết bệnh ở phế gan, cần phải đề phòng, về sau ngoài 44 tuổi Mậu Ngọ, 47 tuổi Tân Dậu bị tổn thương ra, đến 60 tuổi đều mạnh khoẻ như ý, thọ ngoài lục thập hoa giáp.
20. Đoán cho người đàn bà đẹp
Năm Đinh Sửu Tháng Tỵ Dậu
Ngày Mậu Tý Giờ Bính Thìn
An mệnh Giáp Thìn
9 Canh Tuất 19 Tân Hợi
29 Nhâm Tý 39 Quý Sửu
49 Giáp Dần 59 Ất Mão
69 Bính Thìn 79 Đinh Tỵ
Mậu Thổ lấy chi Thìn Ất Mộc làm phù tinh, lấy Tân Kim của Dậu làm tử tinh, giờ Mộc ở mộ địa mà đắc mệnh quan Giáp Thìn trợ giúp, Kim được hợp với năm sửu, tựa như phu vinh tử thịnh vây, nào biết Giáp ở mệnh cùng cũng Kỷ của can tháng hoá Thổ, Tỵ mất tác dụng của Mộc, Sửu Dậu hợp Kim, là kẻ thù của Mộc, không thể coi là con được. Vì vậy chồng khó thọ đến già, con khó thành đạt, trước 23 tuổi còn được, 24 tuổi được đại vận Tân Kim, lưu niên Canh Kim cùng đến đánh phá Giáp Ất, làm Mộc khô mục, chồng bị chết, con không ngăn mà đến. May là ngày sinh Thổ dày, thắng được Thuỷ vận, con người vững như vàng đá, chịu mọi phong sương. Đức hạnh được truyền tụng trong làng xóm, danh nêu trong ấp, đáng trọng đáng kính, thọ ngoài sáu mươi.
Khi xem nữ mệnh thì khác với nam, kẻ phú quý một đời quan tụ, kể thuần tuý tứ trụ hưu tù, nếu đục tràn ngũ hành xung vượng, kẻ mỵ dâm quan sát đan nhau, không quan đa hợp đó là bất lương. Các trụ sát nhiều, không là khắc chế. Ấn thụ nhiều thì già không con, thương quan vượng còn trẻ mất chồng, tứ trụ không thấy phu tinh, không là trinh khiết, ngũ hành nhiều gặp Tý chiếu (chỉ thực thần nhiều) khó tránh hoang dâm, thực thần một ngôi phùng sinh vượng, bảo con đến bái thánh minh, quan sát không tạp gặp ấn phù, lấy chồng sẽ gặp hội thanh vân. Giữ phòng lạnh mà trinh khiết, Kim Trư Mộc hổ (chỉ ngày Tân Hợi, Giáp Dần) tương phùng (hai ngày này tuy khắc phu mà thủ chính), nhà không ngủ một mình, Thổ hầu Hoả Xà (chỉ ngày Mậu Thân, Đinh Tỵ) gặp nhau (hai ngày này khắc phu bất chính). Tài vượng sinh quan, phù thực vô thương mà phu vinh tử quý, quan thực lộc vượng nhất ấn hữu trợ mà sau được sủng ái. Thương quan lặp lại không tài ấn, nhà bại hình phu, quan sát trùng phùng gặp tam hợp, hoang dâm vô sỉ. Hợp nhiều, quan nặng là người tham dâm hiếu sắc. Quan tạp khí suy, thê thiếp ham dục tội chồng. Thân vượng quan hung, không ni cô thì là con hát tôi đòi, thực thần biến đức, trước nghèo hèn mà sau vinh hoa, ngoài ra, lúc xem đoán mệnh còn có một cách nói khắc phu nhảm khí. Dầu tiên, phàm nữ mệnh, ngày sinh ở quan, quỷ, tử, mộ, tuyệt, chủ khắc phu, ví như nữ mệnh sinh ngày Bính Tuất, Canh Tý, tra thiên Ngũ hành Vượng, Tưóng, Hưu, Tù, Tử và 12 cung nói ở trên, Bính gặp Tuất ở trạng thái đúng vào chỗ cuối của đời người mà quy mộ, mà Canh gặp Tý lại ở vào trạng thái đúng vào lúc vạn vật chết, vì vậy đều có thể tìm chồng. Nhưng cũng có người cho rằng, nữ mệnh sinh ngày Tân Mão, tuy phùng tuyệt địa, thì lại đẹp nhiều xấu ít, như vậy khó lòng mà nói khái quát được.
Hơn nữa, nữ mệnh, năm sinh ngày sinh cùng một ngôi thì khắc phu. Năm sinh ngày sinh đái lục Giáp, gọi là đái Giáp, chủ khắc phu, ngày và tháng cùng đái Giáp cũng vậy. Lấy ví dụ nói, nếu nữ mệnh sinh vào năm Giáp Ngọ lại gặp ngày sinh cũng là Giáp Ngọ, thế thì không thể không khắc phu. Dĩ nhiên, đây đều là cách nói không có căn cứ, không đứng vững được, không cần tin.
Điều thú vị là, trong sách đoán mệnh còn có nhiêu ca quyết đoán phụ nữ mang thai, sinh con trai hoặc sinh con gái trong tam mệnh thông hội ghi.
Bảy bảy bốn chín hỏi cô ngày nào có
Trừ năm sinh của mẹ, lẻ là nam chẵn là nữ
Chẵn là nam không bình thường
Thọ mệnh chẳng lâu dài.
Căn cứ bài ca quyết này, lấy 49 làm cơ số, nếu tuổi mẹ là 31 (theo tuổi mụ), tháng mang thai theo âm lịch là tháng giêng, thế thì lúc tính 49+1 (tháng giêng) bằng 50-31 bằng 19, 19 thuộc số lẻ, cho nên con trai. Nếu tính ra số lẻ sinh con trai, số chẵn sinh con gái, nhưng kết quả sinh ra, số lẻ sinh con gái, số chẵn sinh con trai, như vậy trái ngược, thọ mệnh không dài mà chết yểu. Nhưng có điều làm người ta nghi hoặc không hiểu được là, có sách lại đem tuổi mẹ cộng với 19 thế thì ngược hẳn với cách tính mang thai của tam mệnh thông hội.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
hoặc hạ thấp phần trần nhà nơi có bàn ăn, hoặc tạo hình bằng những đèn treo đẹp mắt tạo nên không gian trung tâm ăn uống, cũng có thể treo một vài bức tranh, bố trí một vài tượng gỗ v.v… tại không gian ăn uống dể tạo sự hứng thú; sử dụng màu sắc xung quanh phòng ăn ôn hoà, ấm áp làm tăng sinh khí cho phòng ăn.
Kích thước bàn ăn cần hài hoà với môi trường, bàn ăn quá to sẽ tạo cảm giác chật chội, bế tắc. Bàn ăn nên dùng loại làm bằng vật liệu chịu nhiệt và chịu ma sát, ghế ngồi phái thoái mái, độ cao hợp lý, tránh bàn cao ghế thấp hoặc bàn thấp ghế cao. Tạo hình của bàn ghế phòng ăn có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh không khí môi trường ăn uống. Bàn ghế phòng ăn làm bằng nguyên vật liệu tự nhiên sẽ tạo sự mộc mạc, thuần phác; loại làm bằng ống kim loại mạ hoặc vật liệu đan dệt nhân tạo mang đến cảm giác mới mẻ; loại làm bằng gỗ cứng có màu sắc đậm đà tạo sự trang nhã, lịch sự. Khi chọn dùng bàn ghế phòng ăn phải chú ý đến yếu tố hài hoà và thống nhất.
Khăn trải bàn có nhiều loại rất đẹp, nó không những bảo đảm tính vệ sinh mà còn có tác dụng tăng cảm hứng khi ăn uống, khi chọn dùng chú yếu cân nhắc về màu sắc, ví dụ khăn bàn ăn màu nhạt có thể phối hợp với màu đậm của đồ dùng khác hoặc ngược lại. Kiểu cách các loại đồ dùng như dao, bát, đũa, thìa… nên chọn loại phù hợp với môi trường, ví dụ những đồ dùng mang tính hiện đại không nên dùng chung với đồ dùng mang tính truyền thống. Trong các ngày lễ tết hoặc tiệc mừng sinh nhật có thể sử dụng khăn để tăng thêm không khí vui vẻ.
Khu vực ăn uống, ngoài việc phải chuẩn bị chu đáo bàn ghế ăn ra, các đồ dùng khác như tủ thực phẩm, tủ đựng dụng cụ, tủ lạnh cũng phải để gần với bàn ăn, như vậy sẽ rất thuận tiện khi cần sử dụng. Những dụng cụ bằng thuỷ tinh, sành sứ cũng có thể dùng làm cho môi trường ăn uống thêm phong phú đa dạng.
Nền nhà là bối cảnh của bàn ăn, chọn vật liệu và màu sắc làm nền là việc không thể xem nhẹ. Nên sử dụng màu sắc một cách hài hoà, ví dụ nền nhà màu hồng thì không được dùng bàn ghế cũng màu hồng, nền nhà trải thảm hoa thì không dùng khăn hoa trải bàn.
Đèn, ánh sáng của đòn đều có tác dụng làm tăng hiệu quả sử dụng của khu vực ăn uống, nên dùng đèn và ánh sáng đèn có màu gây cảm giác ấm áp, như vậy sẽ tăng thêm độ thân mật giữa các thành viên trong nhà. Cho dù là dùng đèn treo hay đèn trần, cần tránh để ánh đèn làm chói mắt người ngồi ăn.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 87 được xây dựng trên điển cố: Giảo Kim thám Địa Huyệt hay Giảo Kim xem huyệt đất.
Thử quái đào sa kiến kim nhân xừ hiểm cảnh chi tượng. Phàm sự hữu quý nhân chi triệu dã.
Quẻ trung bình thuộc cung Thân. Tượng này là muốn xẻ đá tìm ngọc, đào cát đãi vàng thì phải bỏ công sức lớn, tuy nhiên đây là việc hao tâm tổn sức trong lúc này.
Giảo Kim tức Trình Giảo Kim (589 – 665), là người Đông A, Tế Châu. Trình Giảo Kim gia nhập quân Ngõa Cương, đầu quân cho Vương Thế Sung, sau lại đầu hàng nhà Đường. Năm Trinh Quán thứ 17 (tức năm 643), Đường Thái Tông phong cho ông làm Lư Quốc Công, là một trong số hai mươi bốn vị công thần của Lăng Yên các.
Câu chuyện “Giảo Kim xem huyệt địa” bắt nguồn từ tác phẩm “Tùy Đường diễn nghĩa“.
Các hảo hán của trại Ngõa Cương mờ yến tiệc trong phủ nguyên soái, trong lúc đang ăn uống, bỗng nhiên nghe một tiếng vang động, chỉ thấy trong phòng luyện võ nứt ra một địa huyệt lớn. Địa huyệt đen ngòm, không biết là sâu bao nhiêu. Quân sư Từ Mậu Công nói: “Hãy lấy ba mươi bảy tấm giấy, ba mươi sáu tấm viết “bất khứ” (không đi), một tấm viết chữ “khứ” (đi), người nào bốc được tấm giấy có chữ “khứ” thì đi xuống!” Mọi người đều cho là có lý. Không may, Trình giảo Kim lại rút được tấm giấy có chữ “khứ”. Trình Giảo Kim giở trò: “Tôi không biết chữ, các anh lừa tôi nên mới bảo là tôi bắt được chữ “khứ”.
Mậu Công nói: “Bất khứ” là hai chữ, còn “khứ” là một chữ, lẽ nào ngươi không biết?”
Trình Giảo Kim nhìn những người khác đều là hai chữ, chỉ có mình lại là một chữ, liền kéo Vưu Tuấn Đạt nói: “Này anh trai, đều là do anh hại tôi. Lúc đó tôi làm nghề bán củi, anh lại lôi tôi làm đông đảng để cướp Vương Cương, phản Sơn Đông. Nay phải xuống địa ngục lạnh giá, chắc rằng khó mà sống sót, tôi và anh có quan hệ thân thiết, còn mẹ già mong anh sớm chiều chăm sóc!”
Vưu Tuấn Đạt nói: “Người anh em, cậu nói gì thế? Cậu cứ xuống đi, đảm bảo không có vấn đề gì đâu!”
Trình Giảo Kim không biết làm sao, đành mang theo cây búa lớn, ngồi vào trong chiếc sọt, để mọi người thả xuống dưới huyệt, chẳng bao lâu thì tới đáy. Trình Giảo Kim trèo ra khỏi sọt, cầm bủa trên tay, nhưng tối om không nhìn thấy tia sáng nào, cứ sờ tay mà đi, đi qua hai khúc quanh, bỗng thấy phía trước có luồng ánh sáng, Trình Giảo Kim cho rằng đó là yêu quái gì đó, liền chạy lên phía trước, bố xuống một búa, chỉ nghe một tiếng rầm, thì ra đó là hai cánh cửa bằng đá.
Trình Giảo Kim đi vào trong cửa đá, chỉ thấy phía trên cũng có bầu trời, bên dưới là một dòng sông lớn, ở giữa có một cây cầu đá. Đi qua cây cầu, lại là ba gian đại điện, nhưng không có người nào. Trình Giảo Kim tiến vào giữa đại sảnh, chỉ thấy trên bàn có bày một chiếc mũ bằng vàng có hai cánh hướng lên, một bộ long bào màu vàng, một dây đai bằng ngọc bích, một đôi giày “vô ưu”. Trình Giảo Kim nhìn thấy, rất lấy làm lạ, liền bỏ chiếc khăn vải tía trên đầu đi, đội chiếc mũ bằng vàng có hai cánh lên đầu, mặc bộ long bào màu vàng vào người, thắt dây đai bằng ngọc bích, tháo giầy da, đi đôi giày vô ưu. Lại thấy ờ bên bàn có một chiếc hộp quý, mở ra xem thì thấy có một viên ngọc khuê màu đen, một tờ giấy có chữ viết, nhưng Giảo Kim lại không biết đọc. Liền cất chiếc hộp vào trong bụng, đi ra đại sảnh.
Trình Giảo Kim vừa ra khỏi cửa đá, cánh cửa đá lại kêu rầm một cái, đóng lại như cũ. Giảo Kim sợ quá, vội vàng ngồi vào trong chiếc sọt, lắc mạnh sợi dây. Những người phía trên vội vàng kéo Giảo Kim lên, ra khỏi địa huyệt.
Trình Giảo Kim vừa mới ra khỏi chiếc sọt, lại nghe ầm một tiếng lớn, địa huyệt liền đóng chặt lại. Trình Giảo Kim nói: “Đúng là tạo hóa kỳ diệu, chậm một chút là bị chôn sống rồi!” Mọi người thấy Giảo Kim ăn mặc như vậy, đều cảm thấy kỳ lạ. Trình Giảo Kim kể lại tỉ mỉ sự việc, lấy chiếc hộp quý ra cho Từ Mậu Công xem. Mậu Công cầm tờ giấy đoc, chỉ thấy trên đó viết rằng:
“Trình Giảo Kim trọng nghĩa dấy binh, làm Hỗn Thế Ma Vương ba năm, nhiễu loạn thiên hạ”.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
![]() |
7. Điện từ sát
Nhà ở đối diện với tháp điện cao áp, trạm biến áp điện, hộp biến áp diện, có khi là cả cột chống sét thì đều tạo thành điện từ sát, người trong nhà không những bị nóng tì khí, tinh thần rối loạn, dễ ốm đau, mà làm ăn cùng dễ bị đổ vỡ. Để hoá giải có thể bố trí hồ lô đen trong nhà.
8. Khai khấu sát
Xung sát hình thành do nhà ở có cửa đối diện với cầu thang máy, đó chính là khai khẩu sát. cầu thang máy nằm ở trước cửa nhà tuy thuận tiện cho việc đi lại và ra vào nhà nhưng lại dễ gây những hậu quả như vận nhà đen đủi, không giữ được của cải, người trong nhà dễ bị đau ốm. Cách hoá giải là bố trí tượng sư tử miệng cắn kiếm, kết hợp thêm túi gấm ngân nguyên trong nhà, hoặc bài trí tượng sư tử làm bằng đồng trong nhà.
9. Khiên ngưu sát
Cửa nhà ở đối diện với cầu thang bộ từng tầng đi xuống , gọi là khiên ngưu sát. Khiên ngưu sát có thể làm cho toàn bộ vận tốt trong nhà thoát ra ngoài hết và vận xấu có thể xâm nhập vào nhà, gia trạch không gặp may mắn, người trong nhà dễ đau ốm. Gặp khiên ngưu sát, cách hoá giải có thể thiết kế thêm ngưỡng cho cửa hoặc đặt một tấm bình phong bên trong cửa, thêm nữa có thể bố trí bên trong cửa một xâu tiền đồng lục đế hoặc túi gấm ngân nguyên để hóa giải sát khí.
10. Bát quái sát
Bát quái sát là chỉ nhà ở đối diện có bố trí những đồ vật phong thuỷ như gương bát quái hoặc một số hình thú phong thuỷ tạo thành sát khí, do bản thân những đồ vật đó vốn đã mang sát khí mạnh đế khắc chế hung khí từ bên ngoài vào nhà, cho nên nếu nhà đối diện với chúng tự nhiên phải chịu ảnh hưởng không tốt. Phương pháp giải quyết tốt nhất là thương lượng với nhà kia để khắc phục. Nếu không được, có thể dùng xác rùa phong thuỷ hoặc một xâu tiền đồng bạch ngọc lục đế nhằm mục đích lây nhu chế cương để hoá giải.
11. Thiên trảm sát
Nhà ở đối diện với khe tiếp giáp giữa hai toà nhà lớn gọi là thiên trảm sát. Thiên trảm sát hình thành do khí lưu thông qua khe tiếp giáp giữa hai toà nhà tạo nên luồng khí lưu đao phong, luồng khí này đặc biệt hung đối với các thành viên trong nhà. Vì vậy mà người trong nhà thường xảy ra tranh chấp, dễ bị đau ốm, bệnh tật nặng, nếu như mở cửa hàng kinh doanh thì rất khó làm ăn. Gặp trường hợp này có thể bày mai rùa hoá sát hoặc dùng hai xâu túi gấm ngân nguyên để hoá giải.
12. Liêm đao sát
Nhà ở đối diện với đường cái uốn lượn hoặc đối diện với cầu, phạm vào liêm đao sát. Liêm đao sát khiến các thành viên trong nhà dễ mắc các bệnh mất máu, nếu là mở cửa hàng kinh doanh sẽ rất khó tụ được khí, vì vậy mà thường xuyên thất bại, thậm chí phá sản. Muốn hoá giải liêm dao sát có thể đặt đá chấn trạch hoặc bố trí mai rùa hoá sát hoặc 2 xâu túi gấm ngân nguyên trước cửa tòa nhà.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 70 được xây dựng trên điển cố: Lý Mật phản Đường hay Lý Mật phản lại nhà Đường.
Thừ quái mật phong thái hoa chi tượng. Phảm sự lao tảm phí lực dã.
Cuối nhà Tùy, Tùy Dạng Đế ngày càng ngông cuồng, xa xỉ, hoang dâm, thu thuế nặng nề, vơ vét của dân, khiến dân chúng lầm than khổ cực, nông dân các vùng lũ lượt dựng cờ nối dậy. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (năm 616), sau khi cuộc nổi dậy của Dương Huyền cảm chống lại nhà Tùy thất bại, Lý Mật (582 – 619) có xuất thân quý tộc đã chuyển sang đầu quân Ngốa Cương.
Lý Mật có tài thao lược, sau khi Địch Nhượng bên quân Ngõa Cương chọn dùng kế sách của Lý Mật, đã đánh bại Trương Tu Đà là bề tôi đắc lực của nhà Tùy. Do đó Lý Mật chiếm được chỗ đứng vững chắc trong quân Ngõa Cương, đồng thời xây dựng được doanh trại Bồ Sơn Công, doanh trại này do Lý Mật trực tiếp vũ trang. Vì vậy thế lực của Lý Mật trong quân Ngõa Cương dần dần lớn mạnh.
Cùng với những thắng lợi liên tục của quân Ngốa Cương, mâu thuẫn giữa Lý Mật với Địch Nhượng cũng ngày càng sâu sắc. Sau đó Lý Mật bày tiệc rượu mời đám Địch Nhượng, trong bữa tiệc, đã ra tay giết chết Địch Nhượng cùng mấy trăm tùy tùng thân tín. Lý Tích (vốn họ Từ, tên là Thế Tích, tự Mậu Công) bị trọng thương, còn Đan Hùng Tín thì cầu xin mà được miễn tội chết. Sau khi Lý Mật thay thế Địch Nhượng, công thành chiếm đất, chiến công lừng lẫy.
Năm 618 sau Công nguyên, Vũ Văn Hóa Cập giết chết Tùy Dạng Đế, chính quyền nhà Tùy trong tình thế cấp bách, bèn chiêu dụ Lý Mật, lệnh cho Lý Mật tiêu diệt Vũ Văn Hóa Cập. Đúng lúc Lý Mật nghênh chiến với Vũ Văn Hóa Cập, thì nội bộ Đông Đô nhà Tùy cũng xuất hiện phản loạn, Vương Thế Sung lợi dụng binh quyền trong tay mà lũng đoạn triều chính. Lý Mật lại xuất quân nghênh chiến Vương Thế Sung. Lý Mật đoán trước là có người muốn đầu hàng Vương Thế Sung, nên quyết định tương kế tựu kế, khi Vương Thế Sung đang vượt sông Lạc Thủy tiếp ứng cho quân phản loạn, sẽ nổi dậy tiêu diệt Thế Sung. Nào ngờ khi Vương Thế Sung vượt sông Lạc Thủy, binh sĩ thuộc hạ của Lý Mật lại xao nhãng không nhận ra. Đến khi phát hiện ra thì quân đội của Vương Thế Sung đã sang sông lên bờ toàn bộ rồi. Quân của Lý Mật thất bại như núi lở, chỉ còn cách mang theo một tốp người ngựa nhỏ chạy trốn. Lý Mật ban đầu muổn đi đến chỗ Lý Tích ở Lê Dương, nhưng lại cảm thấy không đáng tin, trong lúc không còn đường nào để đi, chỉ có cách cùng VớI Vương Bá Đương quy thuận Lý Uyên.
Sau khi Lý Mật đầu quân về Đại Đường, cho rằng dựa vào địa vị và uy vọng của mình, chắc chắn sẽ nhận được sự ưu đãi của Lý Uyên. Không dè Lý Uyên lại không hề coi trọng Lý Mật, chỉ cho làm một chức quan hư danh là Quang lộc khanh (thời Tần Hán gọi là Quang lộc huân, phụ trách việc canh giữ cửa cung điện. Từ sau nhà Bắc Tề đều gọi là “Quang lộc khanh”, chức trách được mở rộng là chuyên quản lý việc ăn uống trong triều đình cùng yến tiệc, đồ cúng tế trong triều hộl hoặc tế tự), nên trong lòng rất không vui.
Không lâu sau, Lý Uyên nghe nói những vị tướng cũ của Lý Mật trước kia đã đầu hàng Vương Thế Sung, rất nhiều người đều đã đổi ý, nên sai Lý Mật đi chiêu hàng. Lý Mật trong lòng bất mãn, tính kế bỏ đi. Khi chạy đến Thao Dương, Lý Uyên lại sai người hạ chỉ gọi Lý Mật quay về. Lý Mật nghỉ ngờ Lý Uyên không tin tưởng mình, muốn giết mình, vì thế đã phản lại nhà Đường. Dù Vương Bá Đương hết sức khuyên ngăn, nhưng Lý Mật vẫn không nghe.
Lý Uyên đối với Lý Mật quả thực là nửa tin nửa ngờ, nên sai đại tướng Sử Vạn Bảo, Thịnh Nhan Sư cho quân mai phục ở hang núi, giết hết toàn bộ người của Lý Mật và Vương Bá Đương. Khi Lý Mật chết mới có ba mươi bảy tuổi, hang núi mà Lý Mật bỏ mạng sau này được mọi người gọi là “Đoạn Mật giản” (tức là khe suối giết Lý Mật).
Xem tuổi làm ăn, tuổi Giáp Tý hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn sinh năm 1984 làm ăn hợp với tuổi nào, nên chọn nghề nào đặt bàn làm việc hướng nào? Bạn có thể tham khảo bài viết sau đây của Phong thủy số:
Tuổi Giáp Tý: Cung mệnh Chất, thuộc mệnh Thủy, mang cốt tinh Kim.
Vài nét chung của người tuổi Giáp Tý: Tuổi nhỏ được học hành nhiều, nhưng ít thành công. Là người thông minh, tài giỏi, lanh lợi, có khả năng tiên đoán, có tài ngoại giao, đa mưu túc trí. Tính tình cương trực, khôi khi nóng nảy dễ mất lòng. Nhược điểm của người tuổi Giáp Tý là hay đố kỵ, xem trọng vật chất.
Làm các nghề bình thường như thương mại, kỹ nghệ, thuần khoán, trạng sư, toán học thì sẽ khá giả.
Xem thêm: Tuổi Đinh Tỵ hợp làm ăn với tuổi nào?
Tuổi Giáp Tý làm ăn hợp với tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi thuộc mệnh Thổ thì luôn được hỗ trợ, quý nhân phù trợ, thậm chí được phù trợ, hoặc làm trợ lí cho Giáp Tý.
Kết hợp làm ăn với những người có mệnh Thủy (gồm Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu) tuy bạn buôn bán được sinh tài nhưng người Giáp Tý sẽ bị thiệt hơn, cho nên Giáp Tý phải là cấp giới hoặc làm trợ lí cho các tuổi có mệnh Thủy thì mới thuận buồm xuôi gió.
Người sinh năm 1984 làm ăn hợp với tuổi Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu thuộc mệnh Mộc, tuy có khắc chế, nhưng nếu Giáp Tý là cấp trên của các tuổi có mệnh Mộc thì người tuổi Giáp Tý vẫn phát tài lộc.
Người sinh năm 1984 kết hợp làm ăn với những người có mệnh Kim ( gồm Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi) thì bình hòa, hai bên dựa vào nhau, tương trợ nhau mà làm ăn.
Tuổi Giáp Tý không nên kết hợp làm ăn với các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi. thuộc hành Hỏa. Vì khi người tuổi Giáp Tý làm ăn với các tuổi này thường khiến công việc bị thua thiệt nhiều, nên tìm cách tránh thì hơn.
Màu sắc hợp với tuổi Giáp Tý: Trắng, ánh kim, vàng.
Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Giáp Tý: Đối với nam giới: nhìn hướng Đông - Nam, đối với nữ giới - nhìn hướng Tây Nam.
Trên đây là toàn bộ những kiến thức về tuổi giáp tý làm ăn hợp tuổi nào? Hay người sinh năm 1984 làm ăn hợp với tuổi nào? tuổi giáp tý hợp làm ăn với tuổi nào? đều đã được giải đáp ở bài viết trên.
Để tham khảo thêm những bài viết hữu ích khác tại thư viên: Tử vi
![]() |
Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chùa Sủi có tên gọi khác là Đại Dương Sùng Phúc tự. Làng Phú Thị trước kia có tên là “làng Sủi” nên chùa được nhân dân nơi đây thường gọi là chùa Sủi. Thời Lý – Trần, các vua thường qua đây ngủ đêm để ngóng mộng, chờ thông điệp của thánh thần. Hiện tại ở chùa còn 1 chiếc khánh đá hơn nghìn năm tuổi. Chùa vừa được trùng tu lại năm 2006, nằm trong cụm đình – chùa – đền (thờ Ỷ Lan nguyên phi) tọa lạc tại làng Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Chùa Sủi được xây dựng từ rất sớm (không rõ cụ thể năm nào). Năm 1066, Nguyên phi Ỷ Lan về đây cầu tự sinh thái tử Càn Đức, rồi cho xây dựng lại và hoàn thành vào năm 1115.
Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thông xuống phía Nam, phía sau có hình chim Huyền vũ, có thôn gồm muôn nhà trấn bên ngoài, bên trái có hình rồng xanh trùng trùng hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới. Chùa xây theo kiểu chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung và hai dãy hành lang (mỗi bên 7 gian), đầu hai hành lang giáp với tiền đường là 2 lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.
Chùa có số lượng tượng lớn và có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn. Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18.
Khánh đá lớn có từ năm Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía Tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) thời Tây Sơn.
Từ 1992 đến 2005, Đại đức Thích Thanh Phương – trụ trì chùa đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức đại trùng tu toàn bộ ngôi chùa và đền gồm: Đại điện, Tổ đường, Niệm Phật Đường và các công trình khác theo lối kiến trúc cổ truyền, hiện chùa còn lưu giữ một số cổ vật như; cổ chuông, khánh, ván, kinh. . . Chùa Sủi được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật ngày 21 tháng 1 năm 1989.
Đá phong thủy có rất nhiều loại đá dạng màu sắc và kiểu dáng khác nhau. Tuy nhiên nhiều loại đá có tên gọi na ná nhau khiến những người mua hàng bị nhầm lẫn. Tiêu biểu là 3 anh chàng Hổ Phách – Đá Mắt Hổ – Đá Mắt Mèo là 3 cái tên khiến mọi người đau đầu vì hay gọi nhầm tên nhau. Sau đây Mixi sẽ bày cho bạn cách phân biệt đá mắt hổ thật giả, phân biệt đá mắt hổ với đá mắt mèo, hổ phách.
Nội dung
Hổ Phách (tên quốc tế là Amber) bản chất là nhựa cây cổ đại trải qua quá trình phong hóa trở thành hóa thạch. Trong đấy hổ phách giá trị nhất được sinh ra từ nhựa thông cổ đại hiện tại đã tuyệt chủng (Thường xuất hiện ở vùng Bantic, Dominica và một số nước khác vùng ôn đới). Trong quá trình nhựa thông chảy ra cuốn theo những chiếc lá hoặc những sinh vật nhỏ tạo nên một thế giới cổ xưa bên trong viên đá.
Hiện nay trên thị trường hổ phách xịn rất hiếm nên chủ yếu hổ phách làm từ nhựa cây thông bây giờ (hổ phách hiện đại), hoặc nhựa làm giả hổ phách.
Hổ Phách được hình thành từ nhựa cây nên có đặc điểm mềm, dễ trầy xước và hạn chế tiếp xúc nhiệt độ cao. Nhưng bởi vì tác dụng phong thủy đặc biệt đến trẻ em như giảm đau, giảm sốt, giảm sưng viêm khi mọc răng, bớt quấy khóc. Đây là món quà mà những chuyên gia sưu tầm đá đều mong muốn.
Đá Mắt Hổ (tên quốc tế là Tiger’s Eye) là dòng đá thuộc họ thạch anh, trên bề mặt đá có các hiệu ứng ánh sáng dạng sọc chạy dài trên viên đá khi được mài cắt viên đá tròn giống như nhìn vào mắt của loài hổ.
Đá mắt hổ tự nhiên khá phổ biến và đa dạng màu sắc với các màu như vàng, vàng nâu, xanh đen với mức giá khá tốt.
Đá mắt hổ có màu phổ biến màu vàng tương tự hổ phách, tên gọi đều có chung chữ hổ nên nhiều người bị nhầm lẫn 2 loại đá này với nhau. Trong khi bản chất chúng khác nhau hoàn toàn: đá mắt hổ phân biệt với hổ phách ở chỗ có độ cứng, chịu va đập tốt; còn hổ phách bản chất là nhựa cây nên khá mềm, dễ xước.
Đá mắt hổ trên thị trường có rất nhiều chất lượng khác nhau, người mua nên cẩn thận phân biệt đá mắt hổ thật với những loại mắt hổ nhuộm màu như: hồng, xanh dương, xanh lục… Mua những loại đá này về nếu bạn đeo chơi thì được còn nếu đeo phong thủy không mang nhiều tác dụng.
Đá Mắt Mèo ( tên quốc tế là Chrysoberyl cat’s eye). Đây là dòng đá siêu đẹp và cực hiếm trong tự nhiên, loại đá mắt mèo đen có giá trị cao nhất với giá €1.733/ Carat. Ở Việt Nam không có loại đá này và chỉ những người sành đá mới siêu tập loại đá này.
Trên thị trường rất nhiều nơi rao bán đá mắt mèo với giá từ 50k – vài triệu đồng thực ra là:
– Thứ nhất là dòng Đá mắt hổ đã được nhắc đến ở trên, nhưng nhiều người bán đá hay gọi thành đá mắt mèo, vì hổ với mèo cũng … gần gần như nhau.
– Nhựa dởm nhiều màu có ánh mắt mèo. Loại này bạn thường thấy được bày bán tại cửa chùa với giá chỉ vài chục ngàn một cái, Tuy nhiên người không biết phân biệt đá mắt mèo thật giả có thể bị các shop online chém lên đến vài trăm thậm chí là vài triệu đồng.
Chình vì vậy để mua được những sản phẩm đá phong thủy chất lượng bạn nên tìm đến những nhà cung cấp uy tín trên thị trường để được tư vấn chính xác nhất dòng đá hợp mệnh và phù hợp với nhu cầu.