Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vạch tai xem trí thông minh

Hình dáng và những đặc điểm riêng biệt của đôi tai có thể nói lên trí tuệ của một người. Tai bạn giống hình dạng nào sau đây ^^.
Vạch tai xem trí thông minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đỉnh trên vành tai cao hơn lông mày

Trong nhân tướng học, nếu vành tai trên ngang bằng hoặc cao hơn lông mày thì được gọi là cát tướng. Người sở hữu đôi tai này có đầu óc thông minh, trí lực cao, làm việc luôn có tư duy tích cực, kiên trì và được hưởng phú quý. Đặc biệt nữ giới có kiểu tai này linh cảm cực nhạy, rất xem trọng đời sống tinh thần, theo trang Chiêm tinh học Meiguoshenpo.

vach-tai-xem-tri-thong-minh

2. Màu sắc của tai trắng hơn mặt

Đây là kiểu tai vô cùng tốt. Bạn có tư chất thông minh, cá tính độc lập tự cường, có khả năng dựa vào trí tuệ của bản thân để tạo lập sự nghiệp và có thể trở thành người quyền cao chức trọng, rất được tín nhiệm.

3. Luân quách (vành ngoài và vành trong của tai) rõ ràng

Đây được xem là kiểu tai tốt nhất. Bạn thông minh, nhân từ và có nhiều phúc vận. Bạn hiếu học, thích tìm tòi khám phá và không sợ khó khăn, không câu nệ tiểu tiết và không dễ bị ảnh hưởng bởi người khác.

4. Tai to và cửa tai rộng

Tai to là phúc tướng. Bạn có sinh lực tràn trề, tính tình ổn định, thận trọng, đầu óc tỉnh táo và ham học hỏi. Trong cách đối nhân xử thế, bạn rất hiểu ý người khác và phân biệt rõ ràng thị phi, thiện ác, là người vững chãi, đáng tin cậy. Nếu thêm vào cửa tai rộng thì bạn còn có một trái tim khoan dung, rộng rãi.

Khang Ninh 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vạch tai xem trí thông minh

Những lưu ý khi sử dụng vật phẩm phong thủy –

Gương Bát quái Gương Bát quái trong phong thủy có tác dụng phản xạ lại luồng hung khí chiếu đến, có tác dụng che chắn những hình dạng kiến trúc như góc tường, nhà lầu hình nhọn đâm thẳng vào nhà, con đường đâm vào nhỏ, hàng rào cọc nhọn nhà hàng xóm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gương Bát quái

Gương Bát quái trong phong thủy có tác dụng phản xạ lại luồng hung khí chiếu đến, có tác dụng che chắn những hình dạng kiến trúc như góc tường, nhà lầu hình nhọn đâm thẳng vào nhà, con đường đâm vào nhỏ, hàng rào cọc nhọn nhà hàng xóm chĩa vào nhà…

guong-bat-quai

Gương Bát quái dùng để treo thường là Tiên Thiên Bát quái. Thường thì các gương Bát quái bày bán có làm khoen treo sẵn giúp bạn xác định được hướng treo trên dưới. Nhưng cũng có thể có trường hợp bị sai lệch. Nguyên tắc của treo gương Bát quái là quẻ Càn (ba vạch liền) hưóng lên trên và quẻ Khôn (ba vạch đứt) hướng xuống dưới.

Trước khi treo gương Bát quái nên nhờ ngưòi có chuyên môn làm thủ tục “khai quang”. Gương Bát quái là một vật khí được sử dụng phổ biến với nhiều tác dụng nhưng không nên sử dụng tùy tiện. Tốt nhất nên nhờ ngưòi có kiến thức về phong thủy tư vấn.

Ngựa phong thủy

Theo phong thủy có nhiều cách để trang trí trong nhà. Thông thường dùng sư tử, rùa, rồng để trừ tà, hóa giải điều không may. Nhưng cũng có người dùng ngựa hay chó thay thế.

Vậy ngựa có tác dụng gì? Khi bày ngựa có cần kiêng kỵ điều gì không?

ngua-phong-thuy

Biểu tượng ngựa rất ít khi dùng để hóa giải điều dữ vì nó vừa không dũng mãnh như rồng hay sư tử. Nhưng may mắn rằng, ngựa lại là biểu tượng của sự bền bỉ, sinh sôi, thịnh vượng. Vì thế, có người đặt tượng ngựa tại những vị trí đẹp trong nhà với hy vọng “Mã đáo thành công”.

Ngựa nên bày ở phía Nam. Vì ngựa thuộc chi Ngọ trong 12 địa chi. Mà “Ngọ cung” lại ở phía Nam. Vì thế, đặt hình ngựa ở phía Nam là thích hợp nhất.

Thông thường, số lượng hợp nhất là: 2, 3, 6, 8 và 9. Trong đó “lục mã” được xem là tốt lành nhất. Vì “lục” có cách phát âm gần giống như “lộc” mang nghĩa: của cải. Sáu ngựa cùng phi sẽ mang ý nghĩa là ngựa mang của cải đến.

Phong thủy kỵ nhất bày ngựa 5 con. Vì nó mang nghĩa “ngũ mã phanh thây”.

Tuy ngựa tượng trưng cho sức mạnh, sự thịnh vượng nhưng lại khắc với người tuổi Tý. Vì thế, những người tuổi này không nên bày tượng hoặc treo tranh ngựa trong nhà.

Tranh phong thủy

tranh-phong-thuy

Phong thủy học truyền thống cho rằng, khi ánh sáng tự nhiên trong phòng không đủ có thể bổ sung bằng cách treo thêm tranh, thư pháp, câu đối, tranh thiên nhiên, phong cảnh… Sở dĩ như vậy vì màu sắc, nội dung của các bức tranh mang đến cho gia chủ nhiều niềm vui và may mắn.

Sau đây là ý nghĩa của một số bức tranh mang lại may mắn. Bạn có thể tham khảo và áp dụng cho ngôi nhà của mình.

– Thư pháp, câu đối, hoành phi mang ý nghĩa chúc phúc, cầu may cho gia đình.

– Tranh tường lớn vẽ hoa mẫu đơn tượng trưng cho vinh hoa hú quỹ.

– Tranh vẽ hoa hướng dương làm căn phòng tăng thêm dương khí, bù đắp lượng ánh sáng thiếu hụt, tạo sinh khí cho ngôi nhà.

– Tranh vẽ hoa sen, cá chép tượng trưng cho sự no đủ, tiền tài viên mãn.

– Tranh tùng bách xanh 4 mùa tượng trưng cho sự trường thọ.

Khi treo tranh cần chú ý

– Nội dung và kích cỡ tranh, chữ của các bức thư pháp, câu đối, hành phi phải tương xứng, cân đối với căn phòng; phù hợp với thân phận, địa vị của gia chủ.

– Khi treo tranh vẽ các loài mãnh thú như hổ, báo, sư tử hay chim muông nên chọn các tranh mà đầu của chúng ở tư thế hướng lên trên, sẵn sàng tự vệ. Không nên chọn hình ảnh chúng đang nhìn bạn như thể chuẩn bị tấn công.

– Treo tranh sơn thủy cần chú ý đến thế nước chảy phải hướng vào nhà chứ không được hướng ra.

– Những bức tranh màu nặng nề, u tối không nên treo. Vì nó dễ làm nảy sinh tâm lý chán nản, bi quan, thiếu động lực làm việc.

– Không nên treo tranh trừu tượng vì loại tranh này thường khiến người xem hoảng loạn tinh thần.

– Không nên treo tranh, ảnh chân dung của người thân đã quá cố tùy tiện. Vì nó tạo cảm giác nặng nề cho gia đình.

Biểu tượng con trâu

trau-phong-thuy

Trong phong thủy, biểu tượng con trâu được sử dụng khá phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau như hội họa, điêu khắc… Khi lựa chọn vật phẩm này để bài trí, bạn cần chú ý đến chất liệu tạo tác.

Trâu đồng mang Kim khí rất tốt cho tài lộc, có lợi cho các công việc kinh doanh, bất động sản hoặc đầu tư dài hạn. Ngoài ra, trâu đồng còn dùng để chế hóa, trấn yểm các hung tinh như Nhị Hắc, Ngũ Hoàng, biến hung thành cát.

Nếu như có điều kiện tài chính thì bạn hãy bài trí một chú trâu bằng vàng bởi toàn thân linh vật có ánh sáng màu vàng (kim) sẽ giúp sự nghiệp tiến nhanh chóng và tài lộc dồi dào.

Có thể sử dụng trâu bằng đất nung nhưng phải kết hợp với phương hướng bài trí để phát huy tác dụng.

Tránh sử dụng biểu tượng trâu (thuộc hành Thổ) bằng gỗ (thuộc hành Mộc) vì theo Ngũ hành Mộc khắc Thổ, khiến trâu không thể phát huy được linh khí. Ngoài ra, bạn nên chú ý đến phong thái của con vật.

Những lưu ý khi bài trí:

Đặt trâu ở hướng Bắc hoặc Đông Bắc là thích hợp nhất. Tránh bài trí trâu ở hướng Nam hoặc Tây Nam.

Nên đặt trâu ở phòng khách, trên bàn làm việc, nơi các vượng tinh như Lục Bạch, Bát Bạch phối chiếu. Tránh đặt nơi ô uế, nhà vệ sinh, đặt trên bàn học, trên bàn thờ, nơi hung tinh Nhị Hắc, Tam Bích chiếu đến.

Biểu tượng này có tác dụng hỗ trợ người tuổi Tỵ, Dậu, Hợi, Tý, Sửu; người tuổi Mùi không nên sử dụng vì Sửu – Mùi xung khắc, con vật không phát huy được linh khí.

Đá phong thủy

Theo các chuyên gia phong thủy, nhiều người vì không am hiểu phong thủy, nguồn gốc của đá nên đã bày, trang trí một cách thái quá. Ví dụ, trường họp đặt đá lên bàn thờ là yếu tố không hợp lý, thậm chí kiêng kỵ, trái với truyền thống văn hóa.

da-phong-thuy

Bởi bàn thờ là nơi thờ tổ tiên, thần linh cần có sự thanh thoát. Trong khi đó, đá mang tính chất âm và thuộc về đất, vì thế chỉ nên trưng bày, trang trí sát nền đất tạo nên sự hài hòa.

Đá được đặt lên bàn thờ chỉ ở các trường họp như khắc làm bài vị thờ cúng tổ tiên. Hoặc viên đá, hình đá đó có tính chất kỷ niệm giữa người quá cố và người thân trong gia đình. Khi đặt lên bàn thờ, đá sẽ có những ý nghĩa riêng. Tất nhiên, những loại đá đặt lên bàn thờ đảm bảo các yếu tố như an toàn về phóng xạ, sạch sẽ và nhỏ gọn.

Ngoài ra, các gia đình cũng cần hạn chế đặt đá trong phòng ngủ. Bởi, đá thường có hình dạng kỳ dị, ít thanh thoát. Còn phòng ngủ cần sự nhẹ nhàng, yên tĩnh. Tính chất nặng nề của đá sẽ đối lập với phòng ngủ.

Những loại đá có phóng xạ mà ngưòi dùng không biết có thể làm ảnh hưởng mạnh tới sức khỏe người trong nhà. Nếu thích, chỉ nên đặt trong phòng ngủ các loại đá được tạc tượng theo hình nghệ thuật như hình mẹ bế con, hình thiếu nữ..

Chọn đá để trang trí cũng cần phải phù hợp với hoàn cảnh, màu sắc, hình dáng…

Khi chơi đá, người ta cảm nhận viên đá đầu tiên ở hình dáng bề ngoài, sau đó mới đến ý nghĩa riêng của nó. Với hình dáng, hoa văn không hợp lý sẽ gây nên ấn tượng xấu, từ đó tạo nên cảm giác bi quan, tạo không khí xấu cho nơi đặt đá.

Trong quan niệm phong thủy, kiêng kỵ đặt đá dạng giả sơn trên tầng cao nhất căn nhà, điều này mang ý nghĩa không tốt cho sự phát triển của gia chủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý khi sử dụng vật phẩm phong thủy –

Đoán ‘chuyện ấy’ của chàng qua rốn –

Thì ra những hình dạng thú vị của rốn có thể nói lên nhiều điều về chủ nhân của nó, kể cả những chuyện thầm kín… Hình móng ngựa Chàng là người kiên quyết và thẳng thắn. Chàng tinh tế, nhạy cảm trên giường ngủ và dễ gục ngã trước cám dỗ, đặc biệt nếu
Đoán ‘chuyện ấy’ của chàng qua rốn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán ‘chuyện ấy’ của chàng qua rốn –

Xem người chết vào ngày có bị trùng tang không –

Tháng Ngày chết Tháng Ngày chết Giêng-Hai-Ba Tư-Năm-Sáu Chết vào ngày Mão Chết vào ngày Ngọ Bảy-Tám-Chín Mười-Mười một-Chạp Chết vào ngày Dậu Chết vào ngày Tý Theo bảng này, nếu người chết vào ngày đã nêu tương ứng với tháng là bị trùng tang, phải l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1781-phongtuc103

Tháng

Ngày chết

Tháng

Ngày chết

Giêng-Hai-Ba

Tư-Năm-Sáu

Chết vào ngày Mão Chết vào ngày Ngọ

Bảy-Tám-Chín Mười-Mười một-Chạp

Chết vào ngày Dậu Chết vào ngày Tý

Theo bảng này, nếu người chết vào ngày đã nêu tương ứng với tháng là bị trùng tang, phải làm phép trị trùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem người chết vào ngày có bị trùng tang không –

Rèm cửa hợp phong thủy giúp hóa dữ thành lành

Rèm cửa không chỉ mang lại sự kín đáo, có tác dụng trang trí mà nó còn hỗ trợ cho phong thủy, có ảnh hưởng đến vận mệnh chủ nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn rèm cửa có màu sắc hợp với mệnh sẽ có tác dụng hỗ trợ tốt cho sức khỏe, tài vận, sự nghiệp và cả tình duyên của gia chủ. Nếu chủ nhà hợp với kim nên chọn rèm màu trắng; hợp với mộc, chọn rèm màu xanh; hợp với hỏa, chọn màu tím; hợp với thổ nên chọn màu vàng; hợp thủy nên chọn màu xanh lam.

Không nên sử dụng rèm cửa có các gam màu đỏ, đen vì chúng khiến thần kinh bị ức chế, gây căng thẳng. Rèm cửa trong phòng ngủ nên tránh dùng màu hồng bởi màu này kích thích tính đào hoa. Đối với người đã có gia đình, rèm cửa hồng có thể dẫn đến sự xuất hiện của người thứ ba, gây ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng.

Ngoài ra, màu sắc rèm cửa nên hài hòa với màu tường và trần nhà. Theo phong thủy, trần nhà đại diện cho trời, sàn nhà đại diện cho đất, tường đại diện cho con người. Màu sắc tường hay rèm cửa có tác dụng kết nối trần và sàn nhà. Tốt nhất màu của tường và rèm cửa nên sẫm hơn trần nhà và nhạt hơn sàn nhà để tạo ra sự hài hòa.

 rem cua hop phong thuy giup hoa du thanh lanh - 1

Những người có cá tính thường thích lựa chọn rèm cửa với các hình vẽ phá cách và thời thượng. Tuy nhiên nhiều trong số các hình vẽ này có thể ngụ ý về điều không lành, chẳng hạn như các hình thù kỳ quái, đầu lâu hay các loài động vật hung dữ.

Bạn nên lựa chọn họa tiết rèm cửa cẩn thận, đặc biệt là đối với phòng của người già và trẻ em. Tuyệt đối không nên dùng rèm cửa có các hình ảnh xấu, kỳ quái để tránh các ảnh hưởng xấu đến chủ nhân.

Rèm cửa với các hình vẽ quá mỹ miều cũng không tốt, nó có thể khiến gia đình bạn ít khách khứa. Lựa chọn họa tiết tối ưu của rèm cửa nên là các hình vẽ hoặc hoa văn đơn giản.

Rèm cửa không nên quá dày bởi chúng sẽ gây ra cảm giác nặng nề, mang lại áp lực, từ đó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe các thành viên trong gia đình.

Rèm của dày và nặng cũng ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Thiết kế rèm cửa như vậy trong phòng ngủ cũng khiến chủ nhân thường xuyên mệt mỏi, buồn ngủ, giảm hiệu quả công việc.

Đối với căn phòng có không gian nhỏ, rèm cửa nên thiết kế đơn giản. Ngược lại, một không gian lớn, bạn có thể sử dụng rèm cửa có thiết kế cầu kỳ hơn để mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho toàn bộ căn phòng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rèm cửa hợp phong thủy giúp hóa dữ thành lành

3 lí do chính nên chọn và làm nhà hướng Nam

Người xưa có nhiều câu nói liên quan đến lợi thế của việc làm nhà hướng Nam: “nhà hướng Nam, không làm cũng có ăn” hay “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”...
3 lí do chính nên chọn và làm nhà hướng Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng tìm hiểu lí do tại sao nhà hướng Nam lại được ưa chuộng đến vậy.


► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Dưới đây là 3 lí do chính nên chọn và làm nhà hướng Nam.
1. Ánh sáng tốt
 
Theo quan niệm của người xưa, hướng Bắc là âm, Nam là dương, thế đất hay thế nhà có phong thủy tốt là phải âm dương hài hòa. Thực tế cho thấy xác định được phương vị chính Nam là điều không dễ dàng, do đó nếu hơi nghiêng về Đông hoặc Tây cũng không có trở ngại gì. Hoặc nếu không có cách nào xây dựng nhà ở hướng Nam, thì cần mở cửa sổ hoặc xây giếng trời ở hướng Nam để tăng thêm ánh sáng cho ngôi nhà.
 
Xây nhà ở hướng Nam có thể tránh được ánh nắng chói chang từ phía Đông vào mỗi buổi sáng và buổi chiều cũng không bị nắng từ phía Tây chiếu gay gắt, đồng thời tránh được gió nóng từ phía Tây thổi tới hoặc gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Theo đó, ngôi nhà tọa ở hướng Nam sẽ lợi dụng triệt để ánh sáng mặt trời, giữ cho ngôi nhà luôn ấm áp vào mùa đông và mát mẻ và mùa hè.

3 li do chinh nen chon va lam nha huong Nam hinh anh
Ảnh minh họa

2. Thông gió tốt

 
Vị trí địa lí và đặc thù khí hậu của Việt Nam là nhiệt đới, nóng ẩm và gió mùa. Ở hầu hết các vùng miền thì hướng Nam là hướng thuận lợi nhất để xây dựng nhà cửa, vừa lưu thông gió tốt, lại đón được đầy đủ ánh sáng. 
 
Các ngôi nhà có hướng Nam thì đông ấm hè mát, mùa hè đón được những ngọn gió mát từ hướng Đông Nam và chính Nam, mùa đông tránh được gió mùa thổi lạnh. Luồng không khí lưu thông trong căn nhà luôn được đảm bảo ở tình trạng tối ưu nhất. 
 
3. Hướng cao quý và phát đạt
 
Theo Tiên thiên bát quái, phía Nam có tượng là quẻ Càn (trời, vua…), nên được coi là hướng của bậc đế vương. Theo Hậu thiên bát quái, hướng này lại có tượng là quẻ Ly, biểu tượng của ánh sáng và lửa. Các bậc vua chúa xưa thường tọa Bắc nhìn Nam để hướng về lẽ sáng, anh minh cai trị thiên hạ. 
 
Theo đó, hướng Nam gắn với vận mệnh cao quý, phát đạt và đầy quyền uy của con người. Song theo lí luận phong thủy phái Bát trạch lại cho rằng, hướng Nam chỉ thích hợp với người mệnh Đông tứ trạch. Với những người thuộc mệnh Tây tứ trạch vẫn có thể làm nhà hướng Nam nếu biết sử dụng các vật phẩm phong thủy như gương bát quái… để hóa giải.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 lí do chính nên chọn và làm nhà hướng Nam

Ghé thăm vườn tượng Phật tại Lào Wat Xiengkuane

Nếu có dịp ghé thăm đất nước Lào bình yên và xinh đẹp thì bạn chớ nên bỏ qua địa danh vườn tượng Phật Wat Xiengkuane – đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng
Ghé thăm vườn tượng Phật tại Lào Wat Xiengkuane

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

không chỉ dành riêng cho các Phật tử.


Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Công viên tượng Phật Xieng Khuan tọa lạc bên bờ sông Mekong, phía trên cửa khẩu Nongkhai, cách trung tâm Viêng Chăn khoảng 25 km.

Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Công viên được xây dựng vào năm 1958 với hơn hơn 200 bức tượng Phật và các vị thần Hindu.

Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Đây là điểm đến lý thú với cảnh vật thanh bình, bên phải là vườn, rừng, suối róc rách, bên trái là Mekong mênh mang.

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Bước chân vào Vườn tượng Phật, du khách dễ cảm thấy choáng ngợp bởi có lẽ chưa ở đâu người ta lại thấy một tập hợp nhiều tượng đến thế.

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Ở trung tâm của vườn có một bức tượng Phật nằm khổng lồ. Bức tượng dài khoảng 40 mét với gương mặt thanh thoát, bao dung, vầng trán rộng, mắt khép nhẹ, môi mỉm cười, dáng vẻ thảnh thơi như tư thế Phật tổ nhập Niết Bàn hơn 25 thế kỉ trước.

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Ở đây còn có một công trình lớn được gọi là động Âm phủ mang hình dáng trái bí ngô khổng lồ. Cửa động là miệng của con ác quỷ cao hơn 2 mét. 

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Ngoài tượng Phật, tượng thần, nơi đây còn có một số tượng linh vật, ác quỷ, con người (nhạc công, vũ nữ) được đúc bằng xi măng.

Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Bổ sung cho hình ảnh Đức Phật từ bi lúc nhập điện là hình ảnh thần Vishnu với chủ đề khuấy biển sữa cứu khổ nhân loại. Đó là hình ảnh thần Vishnu toạ trên mình con rắn vũ trụ nhiều đầu.

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Sự pha trộn của Hindu giáo, Phật giáo hòa quyện với những thần nhân trong sử thi Ramayana như Shiva, Visnu, Rama, Sita… tạo nên không gian vừa linh thiêng mà cũng rất sinh động.

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Cảnh vật ở khu vườn  Phật rất thanh bình, giữa không gian thanh bình ấy là những khuôn mặt tượng mộc mạc rong rêu với vẻ kỳ bí, huyền diệu thần thái của những bức tượng làm cho nơi đây trở nên thu hút hơn. 

 
Ghe tham vuon tuong Phat tai Lao Wat Xiengkuane hinh anh
Đến với công viên tượng Phật Xieng Khuan, du khách có thể cảm nhận được nét bình dị, ấm cúng và gần gũi của một vùng đất Phật, đồng thời gửi gắm nguyện ước và niềm tin của mình ở chốn linh thiêng này.
 
=> Đọc thêm: Thế giới tâm linh huyền bí bốn phương

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ghé thăm vườn tượng Phật tại Lào Wat Xiengkuane

Chỉ số thuận lợi về tình duyên của bạn là bao nhiêu phần trăm?

Gần gây, chuyện tình duyên của bạn có thuận buồm xuôi gió ? Tìm câu trả lời phía dưới nhé!
Chỉ số thuận lợi về tình duyên của bạn là bao nhiêu phần trăm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi: Giả sử người yêu mời bạn về nhà ăn bữa cơm tất niên, đồng thời "ra mắt" bố mẹ chàng. Tình huống nào xảy ra dưới đây sẽ khiến bạn cảm thấy bối rối nhất?

tinh-duyen-7023-1409201910.jpg

A. Tự nhiên ăn quá nhiều.

B. Vô ý vứt vào thùng rác đồ vật tượng trưng cho tài lộc, phú quý của gia đình bạn trai.

C. Bất cẩn làm vỡ bát đĩa.

D. Thao thao bất tuyệt nhiều câu nói không may mắn.

Đáp án:

A B C D

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ số thuận lợi về tình duyên của bạn là bao nhiêu phần trăm?

Tướng số bàn tay –

Bàn tay nói lên tính cách nổi bật của mỗi con người. Việc coi bói qua bàn tay cho chúng ta biết được cuộc đời này mình được sung sướng cực khổ ra sau.Chúng ta hãy cùng tử vi số mệnh xem bói bàn tay của mình theo kiểu nào. 1.Hình dạng tổng quát của bà
Tướng số bàn tay –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số bàn tay –

Mơ thấy kim là chìm trong biển khổ

Kim và đinh đều là những vật sắc nhọn, có hình dáng tương đồng với nhau, thế nhưng mơ thấy kim sẽ “nguy hiểm” hơn mơ thấy đinh rất nhiều.
Mơ thấy kim là chìm trong biển khổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Giải mã giấc mơ thấy kim:

Mo thay kim la chim trong bien kho hinh anh
Ảnh minh họa

 
  Mơ thấy kim là tượng trưng cho khó khăn và đau khổ.

 
Đàn ông mơ thấy mình làm thợ may vá thì dự báo sắp có điềm xấu, phụ nữ mơ thấy mình là thợ may thì cuộc sống sẽ được sung túc. 
 
Mơ thấy mình bị kim châm là sắp bị đối thủ, kẻ thù phục kích và xui xẻo thay là bạn không thể thoát được cạm bẫy này và thất bại thảm hại là điều không thể tránh khỏi.
 
Mơ thấy kim bị gãy là bản thân sắp bị khai trừ ra khỏi một tổ chức nào đó.

Mo thay kim la chim trong bien kho hinh anh 2
Ảnh minh họa
Đàn ông chưa kết hôn mơ thấy mình bị đinh đâm là sắp cưới được một người vợ hiền từ.

 
Nam giới đã kết hôn mơ thấy mình bị đinh đâm là chuyện làm ăn vui vẻ, thuận lợi.

 
Phụ nữ chưa kết hôn mơ thấy mình bị đinh đâm là sắp được gả vào nhà giàu có.

 
Phụ nữ đã kết hôn mơ thấy mình bị đinh đâm là sắp có bầu.


Mơ thấy giấy là cát mộng
Phần lớn những giấc mơ có liên quan đến giấy mang lại điềm báo tốt lành liên quan đến tiền bạc và công danh của chủ nhân giấc mơ đó.
Mơ thấy người khác bị đinh đâm là bản thân sắp gặp khó khăn.

 
Mơ thấy đối thủ đâm đinh vào chân là trong nhà có rất nhiều sự việc ưu phiền.

 
Mơ thấy vợ bị đinh đâm vào chân là sắp phải rời xa vợ.
 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy kim là chìm trong biển khổ

Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Môn học Chu Dịch Dự Đoán đưa ra khá nhiều cách thức lập quẻ để dự đoán, điển hình là Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) Tham khảo 1 số sách trong nước và nước ngoài, tôi chọn ra 3 cách lập quẻ cơ bản : 1. Gieo 3 đồng tiền: Dự đoán ý thức & tiềm thức của người gieo đồng tiền. 2. Gieo theo phương vị: Dự đoán suy nghĩ của người bị đoán. 3. Gieo theo thời gian: Dự đoán diễn tiến sự việc.
Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003
Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam)

KINH DỊCH
KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN

Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved.
Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !

CHƯƠNG 2 : CHU DỊCH DỰ ĐOÁN HỌC

Môn học Chu Dịch Dự Đoán đưa ra khá nhiều cách thức lập quẻ để dự đoán, điển hình là Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) Tham khảo 1 số sách trong nước và nước ngoài, tôi chọn ra 3 cách lập quẻ cơ bản :
1. Gieo 3 đồng tiền: Dự đoán ý thức & tiềm thức của người gieo đồng tiền.
2. Gieo theo phương vị: Dự đoán suy nghĩ của người bị đoán.
3. Gieo theo thời gian: Dự đoán diễn tiến sự việc.

LỜI BÀN :
- Xưa kia, các mưu sĩ, quân sư tài giỏi thường chuộng cách gieo quẻ theo chữ viết, câu nói (tương tự như khi gieo đồng tiền) Do cách gieo này nhận biết chính xác tâm thức của Vua Quan, nên dễ lấy được nhanh lòng tin. Nhưng khi lâm sự, cách gieo trên không mang lại hiệu quả cao do phải vận dụng 3 lần dự đoán: Dự đoán tâm thức, căn cứ vào tâm thức dự đoán hành vi, căn cứ vào hành vi dự đoán kết quả sự việc. Nếu gieo theo thời gian, ta chỉ cần 1 lần dự đoán, dự đoán diễn tiến & kết quả của sự việc. Những cẩm nang đi đường chỉ mở ra xem vào một thời điểm nhất định, được ghi trong các câu chuyện về Khổng Minh, Trương Lương… hoàn toàn không phải là chuyện hoang đường. Nó được vận dụng từ cách gieo quẻ theo thời gian của môn Chu Dịch Dự Đoán Học.
- Ngày nay, đa phần những người hoạt động bói toán vẫn thường thích sử dụng cách gieo quẻ theo đồng tiền là điều dễ hiểu. Nó nắm bắt được ngay tâm thức của người đến xem bói.
- Trong bài này, tôi viết về môn học dự báo. Những chi tiết hoang đường, kỳ bí, huyền hoặc không phù hợp với lý luận cơ bản tôi không đề cập đến.
Môn học này dự đoán cái gì ?

1. Dự đoán về Tôi (Ngôi thứ nhất)
2. Dự đoán về Người khác (Ngôi thứ hai)
3. Dự đoán Sự Kiện (Ngôi thứ ba)
Để dự đoán, ta cần có những thông tin nào ?
1. Ngôi thứ nhất: Nhận thông tin qua 3 đồng tiền.
2. Ngôi thứ hai: Nhận thông tin qua phương hướng.
3. Ngôi thứ ba: Nhận thông tin qua thời gian.

Có thông tin, ta đi lập bài toán dự đoán :

TẠO LẬP BÀI TOÁN DỰ ĐOÁN
Tạo lập bài toán cho dự đoán ngôi thứ nhất:
Thực hiện các bước sau:
1. Chọn 3 đồng tiền có chất liệu giống nhau, bằng đồng (Cu)
2. Qui ước mặt hình là âm ( __ __ ), mặt chữ là dương ( _____ )
3. Đặt 3 đồng tiền vào 2 lòng bàn tay khoảng 1 phút. Gieo chúng lên mặt phẳng bất kỳ. Nếu:
3 mặt hình, ta ghi: ___ ___ x
3 mặt chữ, ta ghi: _______ x
2 hình 1 chữ, ta ghi: _______
2 chữ 1 hình, ta ghi: ___ ___
Sau khi gieo 6 lần, giả thử ta có đồ hình:
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Đồ hình 1                 Đồ hình 2

* Qui ước ghi từ dưới lên.
* Đảo ngược các thanh dấu x, ta có đồ hình 2.
* Trường hợp không có x sau khi gieo, ta chỉ có 1 đồ hình duy nhất. Ví dụ:
_______
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
Đồ hình không có x

Ta gọi tên chúng (xem bảng 2 & 3)
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Sơn Hoả Bí                 Lôi Hoả Phong

Tạo lập bài toán dự đoán cho ngôi thứ hai
Thực hiện các bước sau:
* Người chuyển động: ta lấy hướng sau lưng họ.
* Người ngồi: ta lấy hướng trước mặt họ.
Ví dụ: Ông lão đi từ hướng Tây nam đến vào lúc 12h trưa.
Ta lập bài toán như sau:
Ông lão: Thiên ; Tây nam : Địa (xem bảng 2)
Thiên: 1 ; Địa: 8 (Xem bảng 2)
12h trưa: 7 (xem bảng 1)
Ta làm phép tính:
1 + 8 + 7 = 16
16 : 6 có số dư x = 4
Ta có:
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Thiên Địa Bỉ                 Phong Địa Quán

Tạo lập bài toán dự đoán ngôi thứ 3
Ví dụ: 8h sáng ngày 27-8 năm Nhâm Ngọ
8h sáng: 5
Nhâm: 9
Ngọ: 7
* 27 + 8 + 9 = 44
44 : 8 dư 4 (Lôi)
44 + 5 = 49
49 : 8 dư 1 (Thiên)
49 : 6 dư 1 (x = 1)
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
Lôi Thiên đại                 Tráng Lôi Phong Hằng

* 27 + 8 + 7 = 42
42 : 8 dư 2 (Trạch)
42 + 5 = 47
47 : 8 dư 7 (Sơn)
47 : 6 dư 5 (x = 5)
___ ___                 ___ ___
_______x                 ___ ___x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Trạch Sơn Hàm                 Lôi Sơn Tiểu Quá

KỸ THUẬT DỰ ĐOÁN
Theo các bước sau :
1. Nêu vấn đề cần dự đoán ở dạng câu hỏi. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng.
2. Xem nghĩa của 2 quẻ Chủ nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biễn của sự việc vào thời gian đầu.
3. Xem nghĩa của 2 quẻ Biến nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biến của sự việc ở thời gian sau.
4. Căn cứ vào (1) (2) (3) đưa ra lời dự đoán.

Ví dụ 1 : 20h ngày 20 – 10 Nhâm Ngọ, 2 bên thương thảo lại giá cả mua bán theo đề nghị của Bên A. Bên A là người bán. Cuộc thương thảo kết thúc nửa giờ sau đó. Tôi muốn biết kết quả cuộc thương thảo ấy.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ấy ra sao?
Lập bài toán dự báo, ta có:
- 2 quẻ Chủ : Vị tế (Chưa xong) ; Quán (Bày tỏ)
Luận : Một bên bày tỏ quan điểm của mình nhưng chưa hoàn tất.
- 2 quẻ Biến : Giải (Giải thích) ; Hoán (Tan vỡ)

Luận : Một bên đưa lý lẻ nhằm giải thích. Cuộc họp tan vỡ không có kết quả.
Dự Đoán :
Cuộc họp do yêu cầu của Bên A, cho nên việc bày tỏ quan điểm là ở bên A. Bên A bày tỏ chưa xong thì xuất hiện lời giải thích. Lời giải thích này tất nhiên là ở bên B. Lời giải thích ở bên B đưa ra đã khiến cuộc họp tan vỡ.
Bên A là bên bán, ta suy ra bên A muốn nâng giá bán. Và bên B đã không chấp nhận điều ấy khiến cuộc họp không đem lại kết quả.

Ví dụ 2 : Vẫn ví dụ trên, nhưng cuộc họp kéo dài qua khung giờ sau (21h). Cho biết kết quả.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ra sao ?
Lập bài toán dự báo, ta có :
- 2 quẻ Chủ : Tiểu Súc (Cản ngăn) ; Phong (Phát triển)
Luận : Một bên cho biết rằng họ có thể sẽ phát triển giải pháp nhằm cản ngăn đề nghị của bên kia.
- 2 quẻ Biến : Tốn (Vâng thuận) ; Chấn (Chấn động)
Luận : Một bên chấn động phải vâng thuận theo bên kia.

Dự Đoán
:
Ta có 2 trường hợp:
1. Trường hợp thứ nhất : Nếu bên A là người cung cấp nhỏ so với bên B, hoặc bên A phụ thuộc bên B ở nguyên liệu đầu vào, thì : Bên B cho biết răng họ có thể nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán hiện nay giữa 2 bên. Bên A lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

2. Trường hợp thứ hai : Nếu bên A là nhà cung cấp lớn, hoặc loại hàng bên A cung cấp hiện đang bán chạy trên thị trường, thì : Bên A cho biết rằng họ có thể sẽ nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán giữa 2 bên hiện nay. Bên B lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

Ví dụ 2 : Một người bạn cùng khoá tổ chức sinh nhật, nhưng chỉ mời vài bạn gái trong lớp. Tôi đã có bạn trai, nhưng vì nể bạn nên cũng nhận lời. Tôi muốn biết buổi sinh nhật tối hôm ấy sẽ diễn tiến ra sao khi biết rằng có dancing ?
- Xem qua các quẻ (17h – 19h) 2 quẻ Chủ: Tuỳ & Giải ; 2 quẻ Biến: Đoài & Sư, thấy rằng buổi tiệc diễn ra vui vẻ và các bạn tôn trọng nhau.
- Xem qua (19h – 21h) 2 quẻ Chủ: Đại Quá & Tiểu Quá ; 2 quẻ Biến: Khốn & Hàm, thấy rằng có khả năng xảy ra tình trạng các bạn chọc ghẹo qua lại quá đáng. Tôi đã có bạn trai, vì thế có khả năng ai đó quan tâm hay chọc ghẹo tôi. Không muốn để xảy ra những chuyện như thế, bèn dặn người nhà gọi điện kêu tôi về gấp.

- Xem qua (21h – 23h) 2 quẻ Chủ: Khốn & Dự ; 2 quẻ Biến: Khảm & Tấn, thấy rằng nếu còn ở lại dancing thì rất có khả năng tôi bị đối xử sổ sàng. Vì thế, vì lý do gì chưa thể về sau 19h thì bằng mọi cách tôi phải về trước 21h.

BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài thứ nhất: Một người đến hỏi: “Khoảng 6 giờ chiều hôm qua, tôi nhận được cú điện thoại từ nước ngoài gọi về. Đó là con rể, mới làm lễ Đính Hôn cách đây 4 tháng. Cháu nó nói rằng có gởi về Việt Nam 1 lá thư, không rõ tôi đã nhận được chưa. Hơn 1 tiếng sau, có người nhà cậu ấy mang lá thư qua. Trong thư nói rằng con rễ tôi không thể về Việt Nam làm lễ cưới như đã định trước đó. Và đề nghị bên tôi chờ (!?)”
17h – 19h: quẻ Chủ: Tỉ & Lâm ; quẻ Biến: Khảm & Qui Muội.
19h – 21h : quẻ Chủ: Nhu & Minh Di ; Biến: Tiết & Ký tế.
Câu hỏi :
1. Ẩn ý cú điện thoại ?
2. Ẩn ý lá thư ?

Bài thứ hai : 2h30 chiều, một người đàn ông ngoại quốc đến yêu cầu cho gặp giám đốc với lý do muốn bàn với công ty chuyện làm ăn. Ông ta tự giới thiệu là người đại diện cho 1 tập đoàn có trụ sở chính đặt tại Châu Á. Ông ta đề nghị một hợp tác song phương.
1h – 3h : quẻ Chủ: Chấn & Khảm ; quẻ Biến: Phệ Hạp & Tỉ.
3h – 5h : quẻ Chủ: Hằng & Kiển ; quẻ Biến: Đại Tráng & Tỉ.

Câu hỏi :
1. Đây là một đề nghị hợp tác nghiêm túc ?
2. Diễn tiến câu chuyện (Ông ấy ra về lúc 4h) ?

Bài thứ ba : ngày 11 – 9 – 2001, Hoa Kỳ bị khủng bố bằng máy bay. Toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở Newyork bị đổ sụp hoàn toàn.
Quẻ Chủ: Trung Phu & Di ; quẻ Biến: Tiết & Tổn.
Câu hỏi :
1. Phản ứng của Hoa Kỳ ?
2. Đánh giá khả năng bảo vệ (an ninh) của Hoa Kỳ trước ngày 11 – 9 ?
3. Tổ chức đó lâu đời hay mới thành lập ?

BẢNG 1:

CAN CHI GIỜ
Giáp 23h – 1h 1
Ất Sửu 1h – 3h 2
Bính Dần 3h – 5h 3
Đinh Mão 5h – 7h 4
Mậu Thìn 7h – 9h 5
Kỷ
Tỵ 9h – 11h 6
Canh Ngọ 11h – 13h 7
Tân Mùi 13h – 15h 8
Nhâm Thân 15h – 17h 9
Quý Dậu 17h – 19h 10

Tuất 19h – 21h 11

Hợi 21h – 23h 12

BẢNG 2:
_______                  ___ ___                  _______                  ___ ___
_______                  _______                  ___ ___                  ___ ___
_______                  _______                  _______                  _______

CÀN (Thiên)         ĐOÀI (Trạch)         LY (Hoả)         CHẤN (Lôi)
Ông Lão                 Bé Gái                     Thanh Nữ          Trung Niên
Tây Bắc (1)            Tây (2)                    Nam (3)             Đông (4)


___ ___                  _______                  ___ ___         ___ ___
___ ___                  _______                  _______         ___ ___
_______                  ___ ___                  ___ ___         ___ ___

TỐN (Phong)         KHẢM (Thuỷ)         CẤN (Sơn)         KHÔN (Địa)
Trung Nữ               Thanh Niên               Bé Trai               Bà Lão
Đông Nam (5)       Bắc (6)                   Đông Bắc (7)      Tây Nam (8)


BẢNG 3:

00 THUẦN KHÔN 40 LÔI ĐỊA DỰ
01 ĐỊA THIÊN THÁI 41 LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
02 ĐỊA TRẠCH LÂM 42 LÔI TRẠCH QUI MUỘI
03 ĐỊA HOẢ MINH DI 43 LÔI HOẢ PHONG
04 ĐỊA LÔI PHỤC 44 THUẦN CHẤN
05 ĐỊA PHONG THĂNG 45 LÔI PHONG HẰNG
06 ĐỊA THUỶ SƯ 46 LÔI THUỶ GIẢI
07 ĐỊA SƠN KHIÊM 47 LÔI SƠN TIỂU QUÁ
10 THIÊN ĐỊA BỈ 50 PHONG ĐỊA QUÁN
11 THUẦN CÀN 51 PHONG THIÊN TIỂU SÚC
12 THIÊN TRẠCH LÝ 52 PHONG TRẠCH TRUNG PHU
13 THIÊN HOẢ ĐỒNG NHÂN 53 PHONG HOẢ GIA NHÂN
14 THIÊN LÔI VÔ VỌNG 54 PHONG LÔI ÍCH
15 THIÊN PHONG CẤU 55 THUẦN TỐN
16 THIÊN THUỶ TỤNG 56 PHONG THUỶ HOÁN
17 THIÊN SƠN ĐỘN 57 PHONG SƠN TIỆM
20 TRẠCH ĐỊA TUỴ 60 THUỶ ĐỊA TỈ
21 TRẠCH THIÊN QUẢI 61 THUỶ THIÊN NHU
22 THUẦN ĐOÀI 62 THUỶ TRẠCH TIẾT
23 TRẠCH HOẢ CÁCH 63 THUỶ HOẢ KÝ TẾ
24 TRẠCH LÔI TUỲ 64 THUỶ LÔI TRUÂN
25 TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ 65 THUỶ PHONG TĨNH
26 TRẠCH THUỶ KHỐN 66 THUẦN KHẢM
27 TRẠCH SƠN HÀM 67 THUỶ SƠN KIỂN
30 HOẢ ĐỊA TẤN 70 SƠN ĐỊA BÓC
31 HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU 71 SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
32 HOẢ TRẠCH KHUÊ 72 SƠN TRẠCH TỔN
33 THUẦN LY 73 SƠN HOẢ BÍ
34 HOẢ LÔI PHỆ HẠP 74 SƠN LÔI DI
35 HOẢ PHONG ĐỈNH 75 SƠN PHONG CỔ
36 HOẢ THUỶ VỊ TẾ 76 SƠN THUỶ MÔNG
37 HOẢ SƠN LỮ 77 THUẦN CẤN


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Bố trí phòng ngủ cho trẻ hợp phong thủy –

Phòng ngủ cho trẻ nếu được thiết kế và bố trí hợp lý theo thuyết phong thủy không những giúp trẻ ngon giấc mà còn tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe của trẻ nói chung. Một không gian yên tĩnh là tiêu chuẩn hàng đầu để thiết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ cho trẻ nếu được thiết kế và bố trí hợp lý theo thuyết phong thủy không những giúp trẻ ngon giấc mà còn tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe của trẻ nói chung.

Một không gian yên tĩnh là tiêu chuẩn hàng đầu để thiết kế phòng ngủ cho trẻ.

1

Phòng ngủ cho trẻ theo đó không nên đặt ở nơi ồn ào như gần phòng khách, gara… vì như vậy trẻ sẽ rất khó đi vào giấc ngủ hoặc dễ bị tỉnh giấc vì những tiếng động mạnh.

Vị trí đặt giường trong phòng thế nào cũng không kém phần quan trọng bởi nó có tác động trực tiếp đến phong thủy phòng ngủ trẻ.

Theo các chuyên gia phong thủy, giường ngủ của trẻ thích hợp nhất với vị trí đầu giường dựa vào tường. Nên kê giường cạnh cửa phòng ngủ, không nên kê đối diện cửa vì vi phạm quy tắc phong thủy.

Giường ngủ của trẻ cũng không nên kê trực diện với cửa sổ của phòng ngủ vì đó là nơi tận thu ánh sáng khiến giấc ngủ của trẻ bị gián đoạn.

Đặc biệt, khi cho trẻ ngủ không nên đặt trẻ trong tư thế “đối đầu” với bức tường của phòng vệ sinh, nhà vệ sinh.

Gam màu lựa chọn cho phòng của trẻ nên là gam màu sáng, gam màu nóng ấm… thể hiện sự vui nhộn, hiếu động. Điều này sẽ tác động tích cực đến sức khỏe, sự phát triển của trẻ cũng như tạo cảm giác thích thú cho trẻ khi được là “chủ nhân” của căn phòng.

Theo thuyết phong thủy, gam màu trắng rất hợp với trẻ con nói chung, nhung không nên phối hợp trắng đen trong phòng ngủ của trẻ vì sẽ tạo sự tương phản trong phong thủy.

Khi muốn kết hợp màu sắc, bạn nên chọn những gam màu tương đồng với nhau như xanh lá cây và xanh da trời, hồng và vàng hoặc trắng…

Nhiều bậc cha mẹ thường lựa chọn chủ đề con vật để trang trí cho phòng trẻ nhưng chỉ nên chọn những con vật có tính hiền lành, thân thiện với con người hoặc những nhân vật hoạt hình trẻ yêu thích như thỏ, mèo, chó…

Không nên chọn mãnh thú hoặc những con vật hung dữ như hổ, sư tử… vì sẽ gây cho trẻ tâm lý sợ hãi cũng như những ấn tượng không cần thiết.

Ngoài ra, cũng không nên chọn những biểu tượng gươm, đao, kiếm… để trang trí phòng trẻ.

Phong thủy phòng ngủ trẻ sẽ không tốt nếu có quá nhiều ánh sáng hoặc ngược lại quá ít ánh sáng. Cả hai điều này đều gây bất lợi cho phong thủy nói chung cũng như chất lượng giấc ngủ của trẻ nói riêng.

Theo các chuyên gia, phòng ngủ trẻ phải là nơi thoáng đãng, mát mẻ, có độ sáng vừa phải. Có thể sử dụng rèm cửa để điều chỉnh một cách linh hoạt nguồn sáng trong căn phòng. Ngoài ra, cần lưu tâm đến việc luân chuyển luồng khí trong phòng để tạo sự phát triển toàn diện nhất cho trẻ về sức khỏe, thể chất.

Để đạt được mục đích này, mỗi sáng sớm bạn nên mở rộng cửa sổ và cửa chính phòng trẻ tạo thuận lợi cho quá trình lưu thông không khí.

Trẻ con rất hiếu động, chỉ cần một chút bất cẩn có thể dẫn đến 1 những hậu quả khôn lường, vì thế các bậc cha mẹ nên đặc biệt lưu tâm đến điều này vì sự an toàn của con em mình.
Không nên trưng bày hoặc trang trí bằng những vật sắc nhọn, dễ vỡ trong phòng trẻ nếu không muốn trẻ dễ bị thương hoặc gặp phải những tai nạn không đáng.

Lưu ý: phòng ngủ trẻ nhỏ không nên đặt máy tính, tivi hay gương vì các vật dụng này ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ của trẻ.

Nguyên tắc phòng ngủ cho trẻ sinh đôi

Thiết kế và trang trí phòng cho một cặp song sinh cần những nguyên tắc của riêng nó.

2

Yêu cầu sự cân xứng:

Đây là nguyên tắc “bất di bất dịch”, không chỉ áp dụng khi trang trí phòng trẻ sinh đôi mà còn có hiệu quả trong hầu hết quá trình nuôi dạy chúng. Nguyên tắc này có nghĩa là bạn cần phải tạo sự cân xứng cho căn phòng bằng cách dành cho mỗi trẻ một khoảng không gian và đồ đạc như nhau.

Những chiếc giường cũng cần giống hệt nhau và được kê ngay ngán song song. Nếu căn nhà của bạn không được vuông hoặc diện tích hơi hẹp thì bạn có thể sử dụng giường tầng thay vì suy nghĩ cách kê giường tận dụng không gian mà bỏ qua tính cân xứng.

Màu sắc phải tươi sáng:

Màu sáng khiến căn phòng như rộng và thoáng hơn so với màu tối là điều không phải bàn cãi. Điều này lại càng thích hợp cho phòng trẻ bởi trẻ con thường thích những màu sắc tươi tắn hơn những màu trầm. Khi chúng còn nhỏ, bạn có thể tự trang trí màu sắc nào bạn nghĩ là đẹp, nhưng khi chúng lớn hơn, hãy để trẻ quyết định sử dụng màu sắc gì cho căn phòng.

Bởi không phải tất cả các cặp song sinh đều thích một thứ giống nhau. Bạn chỉ cần đảm bảo cho chúng có quyền lợi như nhau khi sử dụng căn phòng là đủ. Sẽ xảy ra trường họp nực cười khi mỗi trẻ lại đề xuất sơn một màu tường khác nhau. Khi đó bạn có thể nhờ tới các chuyên gia trang trí tường để chúng được “toại nguyện” mà không ảnh hưởng đến thẩm mỹ của căn phòng.

Cần phải lo xa:

Điều này là hiển nhiên bởi khi 2 đứa trẻ ở chung một căn phòng sẽ ít vấn đề nảy sinh hơn so với lúc chúng lớn hơn. Khi chúng cao lên và cần nhiều không gian hơn, những chiếc giường nhỏ xíu xanh đỏ chắc chắn không còn phù hợp nữa. Vì vậy, bạn cũng nên tính đến việc xử lý không gian ra sao nếu không có dự định chuyển chỗ ở.

Phòng dành cho cặp sinh đôi trai – gái:

Nếu không phải là cặp sinh đôi đồng giới bạn có thể lựa chọn phong cách sau để trang trí phòng cho trẻ.

Hai gam màu dành cho hai tính cách hai trường phái khác nhau. Bé trai có thể lựa chọn giường có màu xanh nhẹ với bức tranh trang trí rất đơn giản đầu giường.

Còn với bé gái cần một chút điệu đà và màu sắc có thể lựa chọn gam màu hồng với những con thú cưng cùng gam màu để trang trí.

Hai gam màu, hai phong cách thiết kế và trang trí khác nhau từ giường ngủ, của sổ, gạch nền… nhưng cần tạo nên sự hài hòa ăn nhập.

Phòng ngủ cho trẻ sơ sinh

Ngoài những điều kiêng kị chung của phòng ngủ, phòng của trẻ sơ sinh còn cần chú ý hơn trong các điểm:

– Trẻ sơ sinh không nên ở trong những căn phòng mới xây vì khi mới sinh, các chức năng trong cơ thể trẻ vẫn còn rất non nớt, lại gần như luôn trong tình trạng ngủ, vì thế nhà mới xây rất không tốt cho sự phát triển bình thường của trẻ.

– Tránh tình trạng ô nhiễm không khí và tiếng ồn. Phòng trẻ sơ sinh cần tuyệt đối tránh người qua lại, đặc biệt không hút thuốc lá trong phòng để giảm ô nhiễm không khí.

– Phòng trẻ sơ sinh không được thẳng vào bếp, tránh tiếng ồn và khói mùi trong bếp bay sang.

– Phòng trẻ sơ sinh cần giữ cho đủ ánh sáng và thông gió. Cần làm cho năng lưọng ánh sáng tràn vào phòng nhưng cũng cần chú ý không để ánh nắng chiếu thẳng vào mặt trẻ. Không được đặt kính thủy tinh trong phòng, vì thủy tinh sẽ ngăn chặn tia tử ngoại, không thực hiện được chức năng tạo canxi.

– Phòng trẻ sơ sinh nên duy trì nhiệt độ và độ ẩm ổn định. Mùa hè, nhiệt độ thích hợp là từ 24 – 28 độ, mùa đông từ 18 – 20 độ, độ ẩm khoảng từ 40 – 50%. Đồng thời cần giữ cho không khí trong phòng trong lành và thông gió. Khi mở cửa thông gió không được để gió thổi thẳng vào trẻ. Khi bên ngoài đang có gió to tuyệt đối không được mở cửa. Khi quét vệ sinh phòng không được làm khô, nhằm tránh bụi bặm bay vào làm ô nhiễm không khí.

– Giường của trẻ sơ sinh phải độc lập, đặt ở giữa phòng cho bố mẹ tiện chăm sóc. Hướng giường tốt nhất là đầu quay về hướng Bắc, chân hướng Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí phòng ngủ cho trẻ hợp phong thủy –

Cô nàng tuổi nào là 'cao thủ' mặc cả

Dù vào cửa hàng đã niêm yết giá, những cô nàng tuổi Sửu... vẫn mặc cả nhiệt tình. Tất nhiên, chiến thuật cò kè bớt 1 thêm 2 của họ luôn thành công.
Cô nàng tuổi nào là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Sửu

Bạn đừng xem nhẹ sự dịu dàng, ôn hòa của các nàng tuổi Sửu nhé. Bởi khi đã vào "cuộc chiến" giá cả thì đến thượng đế cũng phải nể họ đôi phần. Tính cách nhẹ nhàng, chân thành kết hợp với tài ăn nói khéo léo giúp người tuổi Sửu làm chủ được mọi tình huống khi đi mua sắm.

Suu-4211-1416241317.jpg

Nếu bạn có ý định mua thứ gì, tốt nhất nên tham khảo ý kiến của con giáp này hoặc hãy rủ họ đi cùng. Chắc chắn bạn sẽ vô cùng hài lòng với những món đồ "ngon bổ rẻ" mà mình sắm được.

Á quân: Tuổi Thìn

Thin-7936-1416241318.jpg

Lý do khiến những cô  nàng tuổi Thìn mặc cả quyết liệt không phải vì suy nghĩ sẽ tiết kiệm được chút tiền cho bản thân mà do một vài yếu tố đặc biệt khác. Chẳng hạn như họ nghĩ rằng anh chủ quan cứ liếc nhìn mình, chắc chắn vì anh ta nghĩ rằng mình quá xinh đẹp. Do đó, khi người đẹp đã lên tiếng mặc cả thì lẽ thường chủ shop nào cũng sẽ liêu xiêu ^^.

No3: Tuổi Mùi

Mặc dù lớn lên trong gia đình điều kiện kinh tế khá giả, những cô  nàng tuổi Mùi lại có sở thích mặc cả chi ly miễn sao có thể bớt được chút ít. Vì vậy, trong các cuộc "đọ trí" với chủ cửa hàng, họ thường dành phần thắng.

Mui-4382-1416241318.jpg

Ngoài ra, các cô nàng tuổi này có sự nhạy cảm trời cho về việc đánh giá chất lượng sản phẩm. Họ biết rõ hàng nào tốt, giá nào là hợp lý và xứng đáng bỏ tiền túi ra mua. Nếu gặp phải khách là con giáp này, chủ cửa hàng đều sẽ nhượng bộ họ đôi ba phần.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cô nàng tuổi nào là 'cao thủ' mặc cả

Xem tướng ngón tay cong và những dự báo –

1. Nhìn chung thì ta thấy về mặt y biểu. - Ngón tay trỏ bị cong: Mắc bệnh ở gan. - Ngón tay giữa cong: Mắc bệnh tai, ruột, gân xương. - Ngón nhẫn cong: Mắc bệnh tim, mắt, thận. - Ngón út cong: Bệnh về thần kinh và cơ quan sinh dục. Về mặt tính cách t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhìn chung thì ta thấy về mặt y biểu.
– Ngón tay trỏ bị cong: Mắc bệnh ở gan.
– Ngón tay giữa cong: Mắc bệnh tai, ruột, gân xương.
– Ngón nhẫn cong: Mắc bệnh tim, mắt, thận.
– Ngón út cong: Bệnh về thần kinh và cơ quan sinh dục.

jbnfqUP57LJwtc

Về mặt tính cách thì:
– Cong ngón trỏ: Tính thiếu trung thực, hành động vô kỷ luật trật tự xã hội. Không tôn trọng pháp luật.
– Cong ngón giữa: Tính độc tài, chấp nhén, câu nệ.
– Cong ngón nhẫn: Tính rộng rãi nhưng cong quá lại thiếu lương tâm.
– Cong ngón út: Dấu hiệu bất lương, gian xảo.

2. Khi để bàn tay tự nhiên khép nếu
– Các ngón khác nghiêng vào ngón giữa thì con người hay bi quan, sống vô tâm.
– Ngón trỏ thẳng các ngón khác nghiêng vào nó: Con người có óc nghệ sỹ.
– Ngón út thẳng ngón khác nghiêng vào: Khéo léo và tài hoa.
– Ngón trỏ và giữa xa nhau: Tính tự do, không thích lệ thuộc.
– Ngón nhẫn xa ngón út: Thích hành động tự do.
– Ngón giữa gần xít ngón nhẫn: Nguy biện, hiếu kỳ, hiếu thắng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngón tay cong và những dự báo –

Bảng đối chiếu thai tức

Duới đây là chi tiết về bảng đối chiếu thai tức.
Bảng đối chiếu thai tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảng đối chiếu thai tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Giáp

Kỷ

Sửu

Giáp

Tuất

Kỷ

Mão

Giáp

Thân

Kỷ

Tỵ

Giáp

Ngọ

Ất

Mùi

Giáp

Thìn

Ất

Dậu

Giáp

Dần

Ất

Hợi

Ất

Sửu

Canh

 Tý

Ất

Hợi

Canh

Dần

Ất

Dậu

Canh

Thìn

Ất

Mùi

Canh

Ngọ

Ất

Tỵ

Canh

Thân

Ất

Mão

Canh

Tuất

Bính

Dần

Tân

 Hợi

Bính

Tân

Sửu

Bính

Tuất

Tân

Mão

Bính

Thân

Tân

Tỵ

Bính

Ngọ

Tân

Mùi

Bính

Thìn

Tân

Dậu

Đinh

Mão

Nhâm

Tuất

Đinh

Sửu

Nhâm

Đinh

Hợi

Nhâm

Dần

Đinh

Dậu

Nhâm

Thìn

Đinh

Mùi

Nhâm

Ngọ

Đinh

 Tỵ

Nhâm

Thân

Mậu

Thìn

Quý

Dậu

Mậu

Dần

Quý

Hợi

Mậu

Quý

Sửu

Mậu

Tuất

Quý

Mão

Mậu

Thân

Quý

Tỵ

Mậu

Ngọ

Quý

Mùi

Kỷ

Tỵ

Giáp

Thân

Kỷ

Mão

 Giáp

Tuất

Kỷ

Sửu

Giáp

Kỷ

Hợi

Giáp

Dần

Kỷ

Dậu

Giáp

Thìn

Kỷ

Mùi

Giáp

 Ngọ

Canh

Ngọ

Ất

Mùi

Canh

Thìn

Ất

Dậu

Canh

Dần

Ất

Hợi

Canh

 Tý

Ất

Sửu

Canh

Tuất

Ất

Mão

Canh

Thân

Ất

 Tỵ

Tân

Mùi

Bính

Ngọ

Tân

Tỵ

Bính

Thân

Tân

Mão

Bính

Tuất

Tân

Sửu

Bính

Tân

Hợi

Bính

Dần

Tân

Dậu

Bính

Thìn

Nhâm

Thân

Đinh

Tỵ

Nhâm

Ngọ

Đinh

Mùi

Nhâm

Thìn

Đinh

Dậu

Nhâm

Dần

Đinh

Hợi

Nhâm

Đinh

Sửu

Nhâm

Tuất

Đinh

Mão

Quý

Dậu

Mậu

Thìn

Quý

Mùi

Mậu

Ngọ

Quý

Tỵ

Mậu

Thân

Quý

Mão

Mậu

Tuất

Quý

Sửu

Mậu

Quý

Hợi

Mậu

Dần

(Theo Tử bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng đối chiếu thai tức

Tử vi Bính Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

BÍNH DẦN: LƯ TRUNG HỎA Trong tử vi Bính dần là con hổ tướng mạo uy nghi, cá tính trung thành chính trực. Lư trung Hỏa có tượng thiên địa là lò, âm dương là than, ánh sáng chiếu sáng vũ trụ, hun đúc trong Càn Khôn. Hỏa này là Hỏa viêm thượng, ưa được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

BÍNH DẦN: LƯ TRUNG HỎA

Trong tử vi  Bính dần là con hổ tướng mạo uy nghi, cá tính trung thành chính trực.

Lư trung Hỏa có tượng thiên địa là lò, âm dương là than, ánh sáng chiếu sáng vũ trụ, hun đúc trong Càn Khôn.

Hỏa này là Hỏa viêm thượng, ưa được Mộc sinh, nhất là Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc. Trụ khác có Kim càng thêm tốt.

Hỏa này lấy Kim làm Dụng thần, nạp âm ưa Kim. Nếu Mộc nhiều thì Hỏa viêm, nếu không có Thủy chế ngự, chủ yểu mệnh.

TuoiDan

Bính Dần gặp Tân Hợi, Quý nhân trùng trùng, chủ phú quý dài lâu.

Bính Dần là Hỏa mãnh liệt, không có Thủy chế phục tất chủ gặp họa thiêu cháy, Thủy cũng không thể cứu được.

Bính Dần Hỏa chứa linh khí tinh túy, sinh vào bốn mùa đều có đức. Nhập quý cách chủ về người đứng đầu thiên hạ.

Trong tử vi cho rằng Bính Dần gặp Mậu Dần là tượng hồ mực chảy ra suôi vàng, chủ cát lợi, đỗ đạt trạng nguyên. Ngày nay nên làm nhà văn, hơn nữa còn có tiền tài, duy có điểm thiếu hụt là vợ chồng không được sống cùng nhau đến đầu bạc răng long.

Nạp âm ưa gặp Đinh Mùi Thiên hà Thủy, nếu tọa nhật trụ hoặc thời trụ, chủ vinh hoa phú quý dài lâu. Mệnh nữ là vô cùng tốt, chồng hiền lành, con hiếu thuận.

Chi khác không nên có Thân, Tỵ, là phạm hình, mệnh nữ tối kỵ. E rằng mệnh chủ lưu lạc phong trần, hoặc sảy thai, hoặc làm vợ lẽ.

Chi khác có Tỵ, cơ thể bị thương tật, hoặc trúng phong. Chi khác có Dần, vợ chồng n duyên mỏng. Chi khác có Thân, con cái duyên mỏng, không tốt.

Chi khác có Ngọ, phạm Dương nhẫn, mệnh chủ ly hương.

Nhật trụ là Quý Tỵ, hôn nhân không hoàn mỹ, thông gia không nhìn mặt nhau.

Can khác có Nhâm, nếu là Nhâm Dần nên làm quan võ, nhưng không được dài lâu. Là Nhâm Thân cũng luận như vậy.

Can khác có Đinh thì không được có thêm Kỷ. Can khác có Giáp thì không được có Nhâm, phạm vào tất chán nản thất vọng.

Can khác có Mậu ưa gặp Mậu Dần. Nếu có Giáp Tuất chủ ngưòi này giỏi văn chương, có thể thành nhà văn.

Nhật chi tọa cung Thìn, mệnh nam lấy được vợ giàu có, mệnh nữ lấy được chồng phú quý.

Gặp năm Dần, Thân là phạm Phục ngâm Phản ngâm, chủ trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Canh, Tân. Không nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Bính Dần Không vong tại Tuất, Hợi, chi khác không nên có Tuất, Hợi.

Trong tử vi Người sinh năm Dần gặp Hợi là Kiếp sát, nếu tọa nhật chi chủ khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, con cháu nghèo khổ, còn chủ con cái yểu mệnh, cuối đời phá bại.

Nhật chi có Tuất, chủ khắc bạn đời.

Thời chi có Tuất, khắc con cái, nên nương nhờ nơi cửa Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Bính Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Tại sao nhà ở phải cách xa chùa, miếu? –

Những người quan niệm có thần linh trên thế gian đều cho rằng những nơi như chùa, miếu, đền thờ, đạo quán, nhà thờ là nơi gần thần linh nhất, là nơi trấn quỷ diệt tà, vì thế ở đó sẽ có cảm giác an toàn. Trên thực tế, những nơi gần chùa miếu, đền thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người quan niệm có thần linh trên thế gian đều cho rằng những nơi như chùa, miếu, đền thờ, đạo quán, nhà thờ là nơi gần thần linh nhất, là nơi trấn quỷ diệt tà, vì thế ở đó sẽ có cảm giác an toàn.

aa

Trên thực tế, những nơi gần chùa miếu, đền thờ v.v… nếu dựa trên nguyên tắc Phong Thủy là nơi vô cùng không thích hợp cho cư ngụ vì đây là những nơi “âm khí” nặng nhất vì một số “âm linh” đều tập trung ở nơi này tạo nên “âm sát”.

Phong Thủy học truyền thống chủ yếu nghiên cứu trạng thái của trường khí, mà âm dương hai khí có cân bằng hay không đều có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cơ thể và tâm lý con người. Lý luận Phong Thủy cho rằng nơi gần chùa, miếu… vì có quá nhiều u oán, cũng có thể nói là “âm khí” tập trung nhiều gây nên sự mất cân bằng âm dương, cho nên ở gần chùa miếu không có lợi cho người cư ngụ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao nhà ở phải cách xa chùa, miếu? –

Vì sao chúng ta lại giàu có?

bạn có thể nhìn lại mình qua gương và mỉm cười: "Hóa ra, mình cũng là một người giàu có".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày, một ông lão đi qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của một anh chàng, bèn hỏi:

su-giau-co

- Chàng trai, sao trông cậu buồn thế, có việc gì không vui à?
- Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
- Nghèo ư, cháu là một người giàu có đấy chứ.
- Giả sử ta chặt của cháu một bàn tay, ta trả cháu 30 đồng vàng, cháu đồng ý không?
- Không bao giờ. Chưa ai nói với cháu như vậy cả, cháu rất nghèo.
- Giả sử ta chặt một ngón tay cái của cháu, ta trả cháu 3 đồng vàng, cháu có đồng ý không?
- Không ạ.
- Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả cháu 300 đồng vàng, cháu thấy thế nào?

- Cũng không được.
- Vậy, ta trả cháu 3.000 đồng vàng để cháu trở thành một ông lão như ta, già cả, lú lẫn được không?
- Đương nhiên là không.
- Cháu muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu 30.000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của cháu, cháu thấy thế nào?
- Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là một người giàu có.

Trong cuộc sống, rất nhiều người thường than thân trách phận mà không hiểu thực ra mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Bạn hãy xem:
- Nếu sáng nay tỉnh dậy, cảm thấy mình khỏe mạnh, thì bạn đã hạnh phúc hơn rất nhiều người không còn cơ hội sống đến ngày mai.
- Nếu bạn chưa bao giờ phải trải qua sự tàn phá của chiến tranh, sự đơn độc, lạnh lẽo trong nhà tù, chưa bị đói rét rình rập, thì bạn đã may mắn hơn hàng trăm triệu người trên trái đất.

- Nếu trong tủ lạnh nhà bạn có thức ăn, bạn có quần áo để mặc, có tiền để tiêu, thì bạn đã hạnh phúc hơn biết bao người nghèo đói vô gia cư trên thế giới.
- Nếu bố mẹ bạn vẫn còn sống và vui vẻ hạnh phúc bên nhau, thì bạn thuộc số ít nhóm người hạnh phúc nhất trên thế giới.
- Nếu trên khuôn mặt bạn lúc nào cũng nở một nụ cười tươi tắn, bạn luôn cảm thấy lạc quan yêu đời, thì bạn là người vô cùng hạnh phúc bởi trên thế giới có rất nhiều người muốn lạc quan như bạn mà cũng không được.
- Nếu bạn được ôm người thân vào lòng hay được dựa vào bờ vai của họ để nói lên tâm sự của mình, thì bạn đã hạnh phúc hơn rất nhiều những người không bao giờ nhận được tình yêu từ người khác.
- Nếu bạn đọc được những dòng chữ này, thì bạn hạnh phúc hơn vài tỷ người không thể đọc được trên trái đất này.

Sau khi đọc xong những dòng chữ này, bạn có thể nhìn lại mình qua gương và mỉm cười: "Hóa ra, mình cũng là một người giàu có".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao chúng ta lại giàu có?

Ý nghĩa nuốt rồi ở trên đầu –

Chúng ta thường quan tâm đến nốt ruồi trên mặt, chân tay hay trên cơ thể và ít khi để ý nốt ruồi trên tóc, vì nó thường khuất và không nhìn thấy được. Tuy nhiên mỗi nốt ruồi đều mang đến một ý nghĩa nhất định Nốt ruồi trên đầu mà nằm chính giữa đỉnh
Ý nghĩa nuốt rồi ở trên đầu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta thường quan tâm đến nốt ruồi trên mặt, chân tay hay trên cơ thể và ít khi để ý nốt ruồi trên tóc, vì nó thường khuất và không nhìn thấy được. Tuy nhiên mỗi nốt ruồi đều mang đến một ý nghĩa nhất định

Nốt ruồi trên đầu mà nằm chính giữa đỉnh mang vận mệnh may mắn khiến nhiều người ao ước. Ngay từ khi sinh ra họ đã có cuộc sống giàu sang, vương giả. Cuộc sống của bạn không cần phải lo “thiếu ăn thiếu mặc”, trong khi người ta phải phấn đấu nhiều năm, còn bạn ngay từ khi sinh ra đã có cuộc sống tốt hơn người khác. Trong trường hợp gặp khó khăn, họ sẽ có quý nhân phù trợ.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa nuốt rồi ở trên đầu
    • 1.1 Nốt ruồi ở phía bên phải đầu
    • 1.2 Nốt ruồi nằm phía trái trên đầu
    • 1.3 Nốt ruồi phía sau
    • 1.4 Nốt ruồi ở tóc mai

Ý nghĩa nuốt rồi ở trên đầu

Nốt ruồi ở phía bên phải đầu

Nốt ruồi ở phía bên phải đầu là tướng của người nổi tiếng. Họ có nhiều cơ hội để nắm giữ những vị trí cao trong xã hội. Nếu nốt ruồi có màu đỏ hoặc xanh lá cây thì nhiều khả năng người đó trở thành Bộ trưởng.

Nốt ruồi nằm phía trái trên đầu

Nốt ruồi nằm phía trái trên đầu là người sống trong nghèo khó và lận đận đường tình duyên.

Nốt ruồi phía sau

  • Phụ nữ có  đầu thường yếu đuối.
  • Đàn ông sở hữu nốt ruồi phía sau đầu có khả năng kiếm nhiều tiền nhưng lại không có địa vị cao trong xã hội.

Nốt ruồi ở tóc mai

Tóc mai là phần nằm giữa mái tóc và trán. Nếu phụ nữ có nốt ruồi nằm ở vị trí này chứng tỏ là người thông minh, nhanh nhẹn.

  • Nốt ruồi nằm bên trái tóc mai, người này thường ôn hòa, biết nhường nhịn chồng và là mẫu phụ nữ vun vén cho gia đình.
  • Nốt ruồi nằm bên phải tóc mai có nốt ruồi, nhất là nốt ruồi đen, đích thị bạn là người có hôn nhân viên mãn, thích làm việc thiện, có khiếu hài hước và được chồng trọng vọng, yêu thương. Không những thế, với bản tính thông minh, người sở hữu tướng này thường là ‘bóng hồng’ núp sau lưng, góp phần làm nên sự phát triển, thành công trong sự nghiệp của chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa nuốt rồi ở trên đầu –

Vận trình tử vi trọn đời Canh Dần nam mang chi tiết

Canh Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Canh Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1950, 2010 và 2070
Cung KHÔN. Trực NGUY
Mạng TÒNG BÁ MỘC (cây tòng, cây bá)
Khắc LỘ BÀN THỔ
Con nhà THANH ĐẾ (trường mạng)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON HEO

Phật Bà Quan Âm độ mạng

Đoán xem số tuổi Canh Dần,
Người giàu mệt trí kẻ nghèo khổ tâm.
Thuận sanh thì số lại đông,
Canh Dần là số vợ chồng đôi ba.
Đặng sanh sung sướng vô cùng,
Có người sai khiến có bồi nấu ăn.
Nhưng mà cũng số lạ kỳ,
Có khi hưng thạnh có khi điêu tàn.
Ra ngoài doanh nghiệp có duyên,
Quý nhân phù trợ, phước trời ban cho.
Tánh tình ăn ở thẳng ngay,
Ai mà hiếp yếu ra tay binh liền.
Gặp ai thánh đố chẳng kiên,
Giận dữ mất trí như điên sợ gì.

xem bói tử vi tuổi Dần

CUỘC SỐNG

T uổi Canh Dần thuộc mạng Mộc nhưng tánh lại nóng nảy, cộc cằn làm cho cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Cuộc sống chưa hẳn thành công vào tuổi nhỏ. Sáng suốt và nhẫn nại lắm mới vượt qua những điều lao khổ về thể xác, tâm hồn hay bị giao động, tình cảm có phần không hay đẹp lắm, phải qua nhiều sóng gió. Như một con thuyền đang ở biển khơi có gió bão.

Tóm lại: Cuộc đời toàn là sóng gió và sôi động như mặt biển bị cơn giông to phải bình tĩnh và sáng suốt lắm mới thoát được những cạm bẫy.

Số rất ngay thẳng, nhưng thường hay làm cao hưởng giàu sang ở mức vào giữa cuộc đời, tâm tánh hay nóng nảy, thiếu bình tĩnh, số của bổn mạng rất tốt ít hay đau bịnh, bất ngờ. Số hưởng thọ trung bình từ 52 đến 55 tuổi. Nhưng tùy theo trường hợp ăn ở nhân đức thì hưởng được gia tăng niên kỷ thêm từ năm năm trở lên.

TÌNH DUYÊN

Là tuổi Dần lại thuộc mạng Mộc nên chuyện tình duyên có nhiều khe khắt. Phải qua nhiều thay đổi và mang nhiều vết thương đau, không bao giờ được sống với cuộc đời tràn đầy hạnh phúc, mà trái lại toàn là chuyện đau lòng về vấn đề này. Những vết thương tình ái cứ tiếp tục gây ra thành những dòng máu thương đau trong kiếp sống, làm cho cuộc đời mang nhiều mặc cảm về vấn đề tình duyên. Và theo dưới đây là con số mà bạn phải đi vào con đường tình duyên nhiều hay ít. Nếu bạn sanh nhằm vào những tháng này thì cuộc đời bạn phải qua nhiều thay đổi về lương duyên và tối thiểu là ba lần, đó là nếu bạn sanh trong những tháng 5, 7 và 11 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng được kể dưới đây sẽ có hai lần thay đổi về tình duyên, hạnh phúc, đó là những tháng mà bạn sanh vào tháng Giêng, 3, 6, 8 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng này thì chuyện lương duyên chi một chồng một vợ và không có sự thay đổi, đó là bạn sanh nhằm những tháng 2, 9 và 10 Âm lịch. Nhưng nói chung thì tuổi Canh Dần nhiều đau thương về vấn đề tình ái trong lúc số tuổi bắt đầu vào 20 trở đi.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Công danh của tuổi Canh Dần bắt đầu phát triển và có nhiều may mắn vào những năm mà tuổi đã được 19 trở đi, phần công danh có cơ hội lên đến mức độ trung bình. Sẽ có kết quả tốt đẹp vào những năm 23 và 24 tuổi, và đến 26 và 27 thì công danh có phần nổi bật lên cao. Nếu sang suốt và nhẫn nại trong vấn đề này. Gia đạo lại có nhiều buồn phiền, số không được sống nhờ bà xon thân tộc, mà phải sống cô đơn hay nhờ ở bè bạn, người xa lạ nhiều hơn. Ít khi nắm lấy một cái gì tốt đẹp do bà con, gia tộc dành cho.

Công danh cũng có lúc trầm bổng, tuy nhiên vẫn được đạt thành sở nguyện. Hy vọng vào năm 18 tuổi, công danh bắt đầu có cơ hội tạo điều kiện tiến bộ và nhờ đó bạn có thể phát triển thêm.

… Vấn đề gia đạo, có nhiều phiền tủi vào những tuổi mà bạn vừa qua từ 20 đến 21 tuổi. Nếu mồ côi cha trước thì công danh ít sáng tỏ. Nếu mồ côi mẹ trước thì trái lại phần công danh sáng tỏ và lên cao mau lẹ. Gia đạo luôn ở trong những việc buồn phiền, cố gắng và phải có lòng yêu mến gia đạo, Trời, Phật mới thương mà giúp cho tạo lấy một cuộc sống nhiều may mắn.

Nếu bạn có sự nghiệp vững chắc và bền bỉ thì cũng phải ở vào số tuổi bắt đầu từ 26 trở đi, nhưng công việc hoàn thành được một sự nghiệp vĩ đại thì không có cơ hôi nên. Tuy nhiên nắm lấy được một sự nghiêp nho nhỏ và vững chắc hơn, bạn mới có thể kéo dài một cuộc sống ở vào tình trạng trung bình. Tiền tài từ tuổi 19 trở đi đến tuổi 26 thí ít khi có dịp phát triển mạnh mẽ, nhưng bước qua 27 tuổi lại cón nhiều cơ hội tốt đẹp tạo nên cho bạn về vấn đề tiền bạc. Bạn muốn chắc hơn thì việc tạo lấy sự nghiệp phải đi song song với sự toạo lấy tiền tài, tuy không lên cao, hay giàu sang phú quí, nhưng sự nghiệp và tiền tài do bạn tạo ra cũng được ở trong một mức sống khá cao.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Khi ra đời trong việc giao dịch, hay giao thương phát triển nghề nghiệp, bạn cũng nên chọn lựa những tuỗi trùng hạp với tuổi mình để làm ăn, thì sự tạo lấy sự nghiệp và tiền tài mới được mau chóng và mới có nhiều kết quả hơn. Và sau đây là những tuổi mà bạn chọn có thể giúp bạn, trùng hạp cho việc phát triển cuộc đời, tạo lấy một cuộc sống khá tốt đẹp, đó là những tuổi: Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu. Những tuổi này rất hạp với tuổi Canh Dần và khi hợp tác, sẽ giúp cho tuổi Canh Dần mang nhiều thắng lợi lớn trên mọi khía cạnh cuộc đời. Vậy khi bạn muốn phát triển công danh hay nghề nghiệp, tiền bạc, nên chọn lấy những tuổi trên để hùn hạp, làm ăn hay hợp tác trong việc đ ào tạo lấy cuộc sống thì chắc chắn không bao giờ mang lấy thất bại cả.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong việc xây dựng hạnh phúc, hôn nhân, bạn cũng cần lựa chọn cho sự trùng hạp tuổi tác, có khi nhờ sự trùng hạp tuổi tác, công danh và sự nghiệp phát triển được mạnh mẽ, nhưng có khi vì sự trùng hợp tuổi tác hay tuổi khắc kỵ, bạn trở nên nghèo khó, tuyệt vọng và thất vọng. Đây là những tuổi mà bạn có thể kết hợp lương duyên, có thể kết hợp với tuổi Canh Dần mà sẽ được nhiều ảnh hưởng tốt đẹp và sẽ nhờ đó mà thành công trong cuộc đời, đó là những tuổi mà bạn có thể lựa chọn trong sự kết duyên như: Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu, Nhâm Ngọ, Quý Mão, Bính Ngọ.

Bạn kết duyên với tuổi Nhâm Thìn giúp bạn tạo được công danh cuộc sống có đầy đủ về danh vọng, hào tài hào con vượng phát. Bạn kết duyên với tuổi Ất Mùi, tuổi này giúp bạn được giàu sang phú quý, đầy đủ phước đức, hào tài hào con đều đông đủ. Bạn kết duyên với tuổi Mậu Tuất, tuổi này giúp bạn thành công trên mọi khía cạnh tình cảm, tài lộc lẫn sự nghiệp công danh, rất thuận lợi cho bạn trong việc tạo lấy sự nghiệp. Bạn kết duyên với tuổi Kỷ Sửu, cũng giúp bạn được giàu sang, con cái đầy đủ gia đình hạnh phúc. Bạn kết duyên với tuổi Nhâm Ngọ, Quý Mão, Bính Ngọ, đều có thể trùng hợp làm cho bạn rạng rỡ công danh cũng như về con đường tài lộc và sự nghiệp.

Những tuổi trên đây đều hạp với tuổi của bạn, trong cuộc đời và liên quan đến sự sống tương lai của bạn.

Bạn kết hôn với những tuổi này bạn chỉ có thể hưởng được một cuộc sống đủ ăn đủ mặc, nghĩ là bạn chỉ có được một cuộc sống trung bình mà không giàu sang hay nghèo khổ, đó là những tuổi chỉ hạp với tuổi Canh Dần về tình cảm mà phần tài lộc chỉ có tánh cách tượng trưng đó là những tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu, Bính Tuất.

Ba tuổi chỉ có thể giúp bạn thoát khỏi cảnh lẩn quẩn của cuộc đời, chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.

Nếu gặp những tuổi này thì dù cho nhiều mưu lược có học khá hay có nhiều kế hoạch tạo lấy cuộc sống, cũng không tạo được gì khả dĩ giúp cho cuộc sống luôn luôn phải sống trong cảnh bần hàn, nghèo nàn, những tuổi này chỉ hạp một phần về tình cảm mà không hạp về tài lộc hay sự phát triển công danh, đó là những tuổi: Đinh Dậu, Giáp Ngọ, Kỷ Hợi. Những tuổi này rất khắc với tuổi Canh Dần về mặt phát triển tài lộc, nếu gặp những tuổi này mà kết duyên thì đời sống của bạn trở nên nghèo khó, bần hàn.

Những năm nầy bạn không nên cưới vợ hay chọn lựa lương duyên, đó là những năm mà tuổi bạn ở vào tuổi 18, 22, 24, 30, 34, 36 và 42 tuổi. Nếu bạn cưới vợ hay lựa chọn lương duyên trong những năm này thì sanh ra nhiều buồn phiền, số phận hẩm hiu xa vắng làm cho bạn có nhiều khổ tâm về tình duyên hay số phận của bạn.

Tuổi Canh Dần sanh vào những tháng này, trong cuộc đời sẽ phải nhiều lần thay đổi lương duyên hay ít ra cũng có nhiều vợ, đó là bạn sanh vào nhằm những tháng 3, 4, 5, 6, 11 và 12 Âm lịch. Sanh vào những tháng này bạn sẽ có nhiều vợ, hay sẽ bị nhiều đau khổ vì đ àn bà. Không bao giờ thoát được cảnh truân chuyên thay đổi.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Những tuổi đại kỵ với tuổi Canh Dần, đó là những tuổi: Ất Mùi, Canh Tý, Tân Tỵ, Đinh Mùi, Quý Mùi, Mậu Thân. Những tuổi này nếu kết duyên thì sanh ra cảnh biệt ly hay tuyệt mạng, thúc đẩy bạn vào con đường không có ngày mai của cuộc sống.

Khi làm ăn hay kết duyên nếu gặp tuổi khắc kỵ tuổi Canh Dần phải xem ngày và năm sao hạn của mình mà cúng kiến, không nên bỏ qua, không được làm dối trá, cần phải: có tâm thành, làm phước, cứu giúp người bần hàn thì sẽ được giải hạn.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Canh Dần thuộc mạng Mộc, tánh tình trầm lặng, ít ưa thích xa hoa nhưng lại có nhiều mơ tưởng về công danh sự nghiệp. Những năm mà tuổi Canh Dần mang lấy nhiều khó khăn nhất đó là những năm tuổi Canh Dần ở vào tuổi 16, 22, 26, 28, và 32. Những năm này nếu không xảy ra đau bịnh, thì cũng gặp nhiều trở ngại trong việc làm ăn, sự phát triển công danh bị ngăn trở hay sự nghiệp cuộc đời thường bị đe dọa thường xuyên.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Tuổi Canh Dần hạp với ngày chẵn giờ lẻ và tháng chẵn. Bất kỳ lúc nào, bạn cũng có thể xuất hành được theo như trên, bạn sẽ thâu nhiều kết quả về tài chính, thành công trong việc làm ăn, không bao giờ sợ thất bại hay mang lấy nhiều sự buồn lòng mà trái lại, cuộc đời có lắm thắng lợi hơn theo sự xuất hành đúng như trên.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 18 đến 25 tuổi: 18 tuổi gặp nhiều trở ngại lớn trong vấn đề công danh, thường hay bị sứt mẻ tình cảm và có những buồn phiền về gia đạo, tuy nhiên năm này bạn không có những trở ngại lớn. Năm 19 và 20 mang nhiều đau xót về cuộc đời, nhưng công danh có phần tiến bộ. Việc tình duyên cũng bắt đầu chớm nở trong những năm này: 21 và 22, có thay đổi quan trọng trong cuộc sống, thành công đôi chút về công danh lẫn tài lộc, 23 và 24, tình duyên có thể kết hợp trong những năm này, tài lộc có phần hao hụt và thiếu kém, mức sống trở nên khó khăn hơn và có nhiều buồn phiền, 25 tuổi công danh lên đôi chút, cuộc sống có phần dễ chịu, tình duyên nhiều hay đẹp

Từ 26 đến 30 tuổi: Tuổi 26 có nhiều thắc mắc hay trở ngại trong sự làm ăn, cần cẩn thận thân thể, năm này không thể phát triển công danh được, 27 tuổi, sao Thiên La chiếu, năm này rất khó làm ăn lắm. Nên cẩn thận xe cộ hay những việc có tánh xa xỉ. 28 tuổi, năm nhiều tốt đẹp cho số công danh, nên cẩn thận trong mọi công việc giao dịch, giao thương, cũng như mọi công việc khác. 29 đến 30 tuổi, hai năm có nhiều triển vọng tốt đẹp hơn hết, chẳng những phát triển việc làm ăn mà còn tấn phát về đường tài lộc.

Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian này là thời gian bạn lên hương nhất, phát triển mạnh mẽ về nghề nghiệp, công danh lẫn tài lộc, có thể hoàn thành sự nghiệp trong những năm này, hoàn toàn thành công trên mọi khía cạnh nghề nghiệp. Năm 31 và 32, không nên đi xa làm ăn. Năm 33 và 34, việc làm ăn có nhiều phần tiến triển tốt. Năm 35, lên cao trong tất cả mọi vấn đề, cố gắng giữ lấy thân mình vào năm 35 tuổi, sự phát triển nghề nghiệp sẽ có kẻ ganh tỵ, thù hiềm, đề phòng mang tai vạ.

Từ 36 đến 40 tuổi: Suốt thời gian này bạn làm ăn rất phát đạt, có thể có nhiều triển vọng tốt đẹp về tài lộc lẫn tình cảm. Nhất là những năm mà tuổi bạn ở vào 37 và 38. Tuổi 39 và 40 có đau bịnh, hao tài đôi chút, không đến nỗi phải đỗ vỡ sự nghiệp.

Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian này là thời gian có nhiều sung sướng nhất, có thể lên cao nữa về vấn đề tài lộc lẫn tình cảm. Nhưng vào năm 41 và 42 tuổi, trong gia đạo không được yên vui lắm, sẽ có nhiều chuyện buồn phiền đưa đến. Năm 43 và 44 tuổi, không xảy ra việc gì quan trọng trừ trường hợp có nhiều điểm thắc mắc hay rắc rối thường ngày không đáng kể. Ngoài ra tuổi 45 là tuổi nhiều rạo rực về tình cảm và phát đạt mạnh về tài lộc. Tạo lấy được cơ hội phát triển mạnh mẽ và có thể giàu sang vào những năm này.

Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi gặp sao Thái Bạch, năm 47 tuổi, gặp sao Thổ Tú, hai năm này công việc làm ăn, tình cảm tài lộc vẫn ở trong mức độ bình thường, nhưng hãy phòng bịnh hoạn vào những tháng 6, 7 và năm 47 tuổi. Năm 48 và 49 tuổi rất hay đẹp, không có sự gì quan trọng xảy ra trừ gia đạo có đôi chút rắc rối. Năm 50 tuổi, hưởng an nhàn và bình thản cho đến suốt cuộc đời. Không có việc gì mà bạn không hưởng được cả.

Từ 56 đến 60 tuổi: Thời gian này chỉ đề phòng bệnh hoạn, vấn đề con cháu có rất nhiều phát triển nghề nghiệp. Số tuổi con cháu phải chịu nhiều cay đắng rồi mới thành công được và cũng hưởng phần tài lộc ở vào mức độ trung bình mà thôi.

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Dần

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Canh Dần nam mang chi tiết

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Xem bói đường chỉ tay học vấn |

Trên bàn tay của con người có 3 đường chỉ tay quan trọng thể hiện vận số đó chính là đường sinh mệnh, đường tình cảm và đường học vấn. Một người càng trưởng thành thì những đường chỉ tay càng xuất hiện rõ nét trên bàn tay như một sự dự báo số vận của
Xem bói đường chỉ tay học vấn |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói đường chỉ tay học vấn |

Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu?

Những nốt ruồi ở vị trí yết hầu mang lại ý nghĩa gì đối với vận mệnh, sức khỏe của bạn. Nốt ruồi ở yết hầu thường có 2 dạng bao gồm: Nốt ruồi mọc nổi cao ở yết hầu và nốt ruồi mọc chìm giữa yết hầu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những vị trí nốt ruồi trên cơ thể thường mang một ý nghĩa nào đó đối với cuộc đời của bạn. Vị trí nốt ruồi ở yết hầu cũng vậy? Thực tế, theo các nhà khoa học thì nốt ruồi là những khối u sắc tố, do sự sinh sản lành tính và khu trú của sắc tố melanine ( sắc tố màu da của bạn). Tuy vậy nhưng đối với những nhà Nhân tướng học thì nốt ruồi có thể là một điềm báo đối với tương lai của bạn, đó có thể là một điềm tốt hoặc xấu. bài viết dưới đây, phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn các ý nghĩa của vị trí nốt ruồi ở yết hầu.

Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu?

Những nốt ruồi ở vị trí yết hầu mang lại ý nghĩa gì đối với vận mệnh, sức khỏe của bạn. Nốt ruồi ở yết hầu thường có 2 dạng bao gồm: Nốt ruồi mọc nổi cao ở yết hầu và nốt ruồi mọc chìm giữa yết hầu.

Đối với nốt ruồi ở yết hầu nhưng mọc nổi cao:

Bất kể là trai hay gái có sở hữu nốt ruồi này đều gặp nhiều điều may mắn tốt đẹp về mặt lương duyên, tài lộc. Trong tình cảm sẽ luôn gặp được nhiều hạnh phúc, những công việc đều phát triển vượt bậc, chồng nói vợ nghe rất thuận thảo.

Nốt ruồi mọc chìm giữa yết hầu:

Với những người sở hữu nốt ruồi này thì cuộc hôn nhân của họ thường bất lợi, nhất là với những người lấy chồng hoặc lấy vợ sớm. Nếu phụ nữ có nốt ruồi mọc chìm dưới yết hầu thì tuyệt nhiên không nên lấy chồng sớm, bởi có thể vợ hoặc chồng sẽ phải chết sớm.

Đối với nốt ruồi mọc ngay dưới yết hầu:

Đối với nốt ruồi nổ thì người như vậy thường có tính rày đây mai đó, hay đi xa, không ở nơi quê quán mà thường rong ruổi trên đường trường.

Đối với người có nốt ruồi chìm mọc ngay dưới yết hầu thì cẩn thận dễ bị tai ương về xe cộ.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại:

+ Nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì?

+ Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu

+ Nốt ruồi ở vai phải có ý nghĩa gì?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu?

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mão

Tử vi tháng Hai của người tuổi Mão không quá hung hiểm, ngược lại người tuổi Mão còn nhận nhiều tin tức tốt vì Thiên Đức và Thái Cực quý nhân cùng xuất hiện.
Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng Hai của người tuổi Mão không quá hung hiểm, ngược lại người tuổi Mão còn nhận nhiều tin tức tốt vì Thiên Đức và Thái Cực quý nhân cùng xuất hiện.



Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mao hinh anh goc
 
Trong tháng Hai âm lịch này, mặc dù Thiên Can Thái Tuế Bính Hỏa khắc chế Thiên Can Tân Kim nhưng địa chi Mão Mộc vẫn phát triển rực rỡ. Người tuổi Mão sẽ nhận được thu nhập bất ngờ, đặc biệt là những khoản Thứ Tài không ngờ tới. Dù vậy bạn vẫn phải phấn đấu không ngừng, đề phòng tính cẩu thả trong công việc.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Tránh hấp tấp vội vàng, hành sự ổn định thì mọi sự mới thành công. Chú ý xuất hành đầu xuân có Kiếp Sát hung tinh ảnh hưởng gây va chạm, thương tật chân tay.

Tử vi tháng Hai của người tuổi Mão không quá hung hiểm, ngược lại người tuổi Mão còn nhận nhiều tin tức tốt vì Thiên Đức và Thái Cực quý nhân cùng xuất hiện. Khi làm bất cứ việc gì, bạn cũng nên tích cực, phấn đấu hết mình thì sự nghiệp sẽ thuận buồm xuôi gió.

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mao hinh anh goc 2
 
CÔNG VIỆC

Theo tử vi người tuổi Mão, nhờ quý nhân che chở, người tuổi Mão sẽ được cấp trên coi trọng, đồng nghiệp yêu quý, có dấu hiệu của cơ hội thăng chức. Uy tín của bạn sẽ ngày càng được khẳng định, đồng thời tâm thế sự nghiệp và trách nhiệm cũng sẽ tăng cao. Dân văn phòng nên xem lại tài khoản bảo mật của hòm thư hay tài khoản online. Quan hệ đồng nghiệp cần lưu ý tiểu nhân quấy nhiễu.

TÀI LỘC

Quan hệ Thiên Can Bính Hỏa khắc Tân Kim sẽ đem tới vận tài lộc bất ngờ dành cho người tuổi Mão. Chủ yếu thông qua quan hệ xã giao mà bạn sẽ có nhiều thu nhập Thứ Tài không nghĩ tới. Tuy vậy, có đi có lại, bạn cũng nên trao đổi thông tin cho bạn bè hoặc đồng nghiệp, quý nhân sẽ giúp đỡ lại bạn để tài lộc gia tăng. Kiếp Sát nhắc nhở bạn không nên lui tới nơi đông người hoặc đường vắng, tránh để bị cướp bóc.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mao hinh anh goc 3
 
TÌNH CẢM


Người tuổi Mão sẽ phải phiền não nhiều về mặt tình cảm. Người đang yêu thì dùng dằng mãi, chỉ đem tới sự đau khổ, chi bằng chấm dứt sớm. Đương nhiên bạn nên tôn trọng nguyên tắc cũng như kết quả cuối cùng. Khi chia tay không nên quá níu kéo, làm bạn bè là thượng sách. Người độc thân nên lui tới những nơi đông người, chủ động bắt chuyện, thể hiện sức hút bản thân, nhất định sẽ có người động lòng trước bạn.

SỨC KHỎE

Nếu cơ thể khó chịu, bạn cần đi khám kịp thời, có những căn bệnh tiềm tàng lâu ngày không thể nhìn bằng mắt. Tháng có Kiếp Sát xuất hiện dễ gặp nhiều nguy hiểm bất ngờ, người tuổi Mão không nên đi sớm về khuya, đề phòng cướp bóc, xây xước chân tay.

Ngoài ra, bạn sẽ gặp chút vấn đề về da dẻ quá mẫn cảm hay bị thương ngoài da. Người còn trẻ chú ý triệu chứng biếng ăn, hay quá kén chọn món ăn. Bạn có thể suy nghĩ về việc tác động tới dạ dày, kiểm tra hoặc phẫu thuật để cải thiện tình hình.

Nhìn chung, vì ảnh hưởng từ Kiếp Sát nên người tuổi Mão phải đặc biệt chú ý tới mặt sức khỏe và túi tiền của mình. Công việc và tình cảm được quý nhân giúp đỡ nên không có gì quá đáng ngại. Có điều Thiên Can tương khắc sẽ gây rắc rối nhiều cho đôi lứa đang yêu, chia tay khó khăn mà kéo dài thì không ổn.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mao hinh anh goc 4
 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mão

Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 24/11 tới ngày 28/11)

Theo ý nghĩa các ngày sinh, những người sinh vào ngày 26 tháng 11 luôn rất coi trọng sự sáng tạo cũng như thành tích của bản thân.
Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 24/11 tới ngày 28/11)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo ý nghĩa ngày sinh, những người sinh vào ngày 26 tháng 11 luôn rất coi trọng sự sáng tạo cũng như thành tích của bản thân, họ là người sống có lý tưởng nhưng cũng rất hiện thực. 


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
 

Ngày 24 tháng 11

  Những người sinh vào ngày 24 tháng 11 theo ý nghĩa các ngày sinh thường rất nhiệt tình, hào phóng, thích các hoạt động xã hội, thích giao tiếp, kết bạn kết bè. Họ tràn ngập ảo tưởng, họ có hàng tá ước mơ và mơ ước, thích tán gẫu cùng mọi người, thảo luận công việc, luôn lấy niềm vui làm mục đích sống.   Ưu điểm: Lạc quan, nhân duyên tốt, giàu tình cảm, tâm địa thiện lương, có năng khiếu nghệ thuật.   Khuyết điểm: Khá mẫn cảm, tùy hứng, tinh thần dễ bị xao động, dễ xảy ra cãi vã với người khác.  
Giai ma y nghia cac ngay sinh Tu ngay 2411 toi ngay 2811 hinh anh
Ảnh minh họa

Ngày 25 tháng 11
 

Hầu hết những người có sinh nhật vào ngày 25 tháng 11 thường có sức tưởng tượng phong phú, khả năng nghệ thuật thiên phú. Ngoài ra, tinh lực dồi dào, tâm đồ lớn, năng lực làm việc tốt, khá nhiệt tình nhưng rất thích cạnh tranh cùng người khác.   Ưu điểm: Chí tiến thủ lớn, năng lực tốt, ý chí kiên  định, tinh thần vượt khó.   Khuyết điểm: Thích sai khiến người khác theo ý muốn của mình, chủ quan, độc đoán.

 

Ngày 26 tháng 11

  Những người sinh vào ngày 26 tháng 11 luôn rất coi trọng sự sáng tạo cũng như thành tích của bản thân, họ là người sống có lý tưởng nhưng cũng rất hiện thực, thích tự do tự tại. Nếu đã có hứng thú với việc gì thì họ sẽ làm tới nơi tới chốn, thận trọng từng bước, nhưng nội tâm lại khá mâu thuẫn.   Ưu điểm: Khả năng sáng tạo phong phú, có thể thực hiện lý tưởng, giàu tinh thần trượng nghĩa, thích giao lưu kết bạn.   Khuyết điểm: Thường hay do dự, thiếu quyết đoán, nhất là trên phương diện tình cảm.  

Ngày 27 tháng 11

  Dũng mãnh, kích động, quả cảm, yêu thích mạo hiểm là những điểm rất dễ nhận thấy ở những người sinh ngày 27 tháng 11. Họ thích vận động, thích tự do tự tại, không thích bị ràng buộc, trực giác tốt, năng lực làm việc phi thường.   Ưu điểm: Tận tình, tinh lực dồi dào, phản ứng nhanh nhạy, tràn ngập tự tin. Khuyết điểm: Dễ bị kích động, có khuynh hướng bạo lực, nếu có bất kỳ việc gì không được như ý muốn thì tỏ ra khá là muộn phiền.  

Ngày 28 tháng 11

  Ý nghĩa các ngày sinh cho biết đa phần những người sinh vào ngày 28 tháng 11 rất hoạt bát, rộng rãi, nhiệt tình, phi thường, thẳng thắn. Hơn nữa, họ còn rất hướng ngoại, khả năng giao tiếp tốt, tài ăn nói khéo léo, thích thể hiện ý tưởng của mình.   Ưu điểm: Thông minh, sáng tạo, nhanh nhẹn, giàu sức sống, khả năng thuyết phục, diễn đạt tốt.   Khuyết điểm: Quá đề cao chủ nghĩa cá nhân, vô cùng mẫn cảm, đời sống sinh hoạt bất ổn.   Lichngaytot.com

Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 09/11 tới ngày 13/11) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 04/11 tới ngày 08/11) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 30/10 tới ngày 03/11)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 24/11 tới ngày 28/11)

Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì là thắc mắc của không ít người. Để giải đáp và cung cấp thêm thông tin cho độc giả, Lịch Ngày Tốt xin trả lời những
Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

câu hỏi trên.   Với những người có ý định sinh con hoặc làm việc quan trọng thì chắc chắn năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? sẽ là những vấn đề đáng lưu tâm.   

nam 2019 la nam con gi
 

1. Năm 2019 là năm con gì?

  Dựa theo 12 con giáp và vòng tuần hoàn thiên can, năm 2019 là năm Kỷ Hợi.   Tính chất của Kỷ Hợi là nóng nảy, bộc trực nhưng lễ nghĩa, làm việc có trách nhiệm. Trong các tuổi Hợi, đây là tuổi bốc đồng nhất, giống như con lợn hoang, nếu không biết kiềm chế sẽ gây ra chuyện. nếu tiết chế được bản thân thì sẽ phát huy được năng lực, đạt được công danh   Tuổi Hợi bề ngoài vui vẻ, nhàn nhã nhưng là người đa sầu đa cảm. Kỷ Hợi trọng tình trọng nghĩa, luôn giúp đỡ anh em bạn bè mà không nề hà. Họ ngoài lạnh trong nóng, không thích bày tỏ cảm xúc nhưng là người tình cảm, nhạy cảm và lo nghĩ nhiều, tự mình bao quát việc của người khác. Xem thêm bài viết Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúc   Người tuổi Hợi số mệnh là số hưởng, con giáp cuối cùng trong 12 con giáp nên nhàn hơn những con giáp khác. Nhưng Kỷ Hợi cũng không tính là quá thong dong, tuổi trẻ làm quan, hậu vận phát đạt song trung vận ắt phải bôn ba, dành nhiều tâm sức. Người này tự thân lập thân, không có người tương trợ, tự tạo dựng sự nghiệp của riêng mình.   Người tuổi Hợi thông minh, giỏi tính toán, biết sắp xếp nên không thiệt thòi, nhưng hay mềm lòng, ít làm được đại sự.    Tam hợp với Hợi là Mão và Mùi, tứ hành xung với Hợi là Dần, Thân và Tị.    Xét về người hợp tuổi làm ăn với tuổi Hợi có thể hợp tác với người tuổi Sửu, Mão, Mùi, Hợi. Xét về tình cảm, người tuổi Hợi nên lựa chọn bạn đời tuổi Mão, tuổi Mùi, tuổi Dần. Với người tuổi Kỷ Hợi khi chọn bạn đời không nên chọn người sinh năm Giáp, Ất mà nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Xem thêm bài viết Tuổi Hợi hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?   Người sinh năm 2019 – Kỷ Hợi cần thận trọng mỗi khi tới năm Hợi và năm Tị.   

2. Năm 2019 mệnh gì?

 
nam 2019 la nam con gi 1
 
Năm 2019 mạng gì? Theo Lục Thập Hoa Giáp, năm 2019 có nạp âm là Bình Địa Mộc, mệnh Mộc. Mộc này là gỗ đồng bằng, mới nhú mầm nhú lá rồi phát triển thành cành nên thích mưa móc, không ưa tuyết sương, còn chưa vững vàng lắm. Mộc này phát triển tốt ở mặt đất, nơi thoáng mát.    Bình Địa Mộc là Mộc tự sinh, vốn tươi tốt, tự thân lập thân không có người đỡ đần, có chí lớn và tài năng nên tuổi trẻ đã phát đạt. Người nếu gặp thời, sinh vào giờ tốt thì đắc cách, nhất định là số mệnh hiển quý.
Xem thêm bài viết Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận
 
Theo ngũ hành, Kim khắc Mộc nhưng Mộc của Kỷ Hợi không kị Kim, chỉ hiềm Tân Hợi Thoa Xuyến Kim, Tân Tị Bạch Lạp Kim, Quý Dậu Kiếm Phong Kim còn các Kim khác đều không gây tổn thương.    Thủy sinh Mộc, Kỷ Hợi đẹp nhất là gặp Ất Mão Đại Khê Thủy, Bính Ngọ và Đinh Mùi Thiên Hà Thủy, sẽ có số vinh hoa phú quý, nên hợp tác làm ăn với những tuổi này. Ngoài ra Giáp Thân Tỉnh Tuyền Thủy, Đinh Sửu Giản Hạ Thủy cũng khá tốt, nên chọn những người tuổi này để kết hôn, vợ chồng hòa ái lâu dài.   Mộc sinh Hỏa, Kỷ Hợi kết hợp với các tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu Tích Lịch Hỏa, Mậu Ngọ và Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa, Bính Dần và Đinh Mão Lư Trung Hỏa cũng tốt. Nếu nữ mệnh tuổi Kỷ Sửu lấy nam mệnh các tuổi này thì vợ vượng phu, tốt cho chồng.   Thêm vào đó, Mộc vượng khí thịnh, Kỷ Sửu gặp các tuổi Nhâm Tý và Quý Sửu Tang Đố Mộc, Mậu Tuất Bình Địa Mộc chủ về cát lợi, sinh con các tuổi này là song Mộc thành rừng, có nhiều điểm tốt.   2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? Các câu hỏi đều được giải đáp rõ ràng với những kiến thức đầy đủ, chính xác và hữu ích. Mong rằng bạn đọc sẽ có thêm cơ sở để tiến hành những việc quan trọng của mình trong năm Kỷ Hợi, đón cát tránh hung, trăm sự đều lành, phúc lộc song toàn, gặp nhiều may mắn.
Người tuổi Hợi mệnh Mộc Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp
Trần Hồng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Với đầu óc kinh doanh tuyệt đỉnh, những con giáp này dễ dàng trở thành người kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ, khiến bao người trầm trồ thán phục.
Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền bạc nằm ngay trước mắt bạn, chỉ là bạn có biết cách giành lấy chúng hay không mà thôi.   Ai ai cũng đều ngưỡng mộ người có tiền và mong ước mình cũng trở nên giàu có như họ, nhưng không phải ai cũng biết cách kiếm tiền. Cơ hội đến với tất cả mọi người, nhưng không phải ai cũng biết cách nắm bắt.   Những người thành công là người có tham vọng, có ý chí và có đầu óc tư duy sắc sảo hơn người. Họ nhanh nhạy trước thời cuộc, lanh lẹ nắm bắt thời cơ. Trong lúc những người khác còn đang e ngại và do dự thì họ đã mạnh dạn tiến lên, bất chấp tất cả để giành lấy mục tiêu đã định.   Vậy bạn có biết rằng xem bói tử vi 12 con giáp, ai là người kiếm tiền giỏi nhất, vô địch thiên hạ hay không? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.

 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

Tuổi Thân: Đầu óc linh hoạt

  Con giáp này vốn nổi tiếng nhanh nhẹn, hoạt bát trong số 12 con giáp. Họ hiếm khi chịu ngồi yên một chỗ nơi văn phòng, cuối tháng nhận số thù lao ít ỏi. Trong đầu họ, ý chí kiếm tiền luôn sôi sục. Họ có nhiều ý tưởng, suy nghĩ không ngừng nghỉ và thực sự có hành động thực tế để biến suy nghĩ đó hành hiện thực.   Bất kể ý tưởng đó có kì quái khó tin đến đâu thì người tuổi Thân vẫn luôn quyết định làm theo suy nghĩ của mình. Họ nghĩ đơn giản là dù sao thì số vốn bỏ ra cũng không quá nhiều, “được ăn cả, ngã về không”, đâu có sao. Vả lại, không thất bại vài lần thì sao biết cách kinh doanh thành công cho được.
Bạn có biết cách Nhận biết khả năng kiếm tiền qua khuôn mặt không? Đọc ngay nhé.


Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

 

Tuổi Tị: Không cam tâm trước hiện tại

  Người tuổi Tị thường không hài lòng với chính mình, không chấp nhận thực tại mình là người kém cỏi và tiền bạc ít ỏi. Tuy công việc ổn định nhưng nếu tiền công nhận được không nhiều thì họ cũng sẽ thấy không cam tâm. Bởi số tiền đấy với họ chỉ đủ để nuôi thân, sao có thể trở nên giàu có.    Họ quyết tâm thay đổi vận mệnh, chẳng thể chờ đợi vào chút lương còm đó mà gánh vác cả gia đình vượt qua sóng gió được. Chính vì thế mà họ vắt óc suy nghĩ, đào sâu tìm tòi, làm thêm đủ nghề, cuối cùng cũng tìm ra cách để gây dựng cơ nghiệp, được mệnh danh là một trong những con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ.

Bảo bối phong thủy tấn tài tấn lộc cho 12 con giáp, bạn đã có chưa?
 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 3
 

 

Tuổi Tuất: Một nghề cho chín còn hơn chín nghề

 

Với con giáp này, kiếm tiền không nhất định phải bằng cách kinh doanh buôn bán. Người tuổi Tuất cho rằng con đường học hành cũng có thể phát tài phát lộc. Đặc biệt, nếu tinh thông một nghề, từ đó nghiên cứu phát triển ra sản phẩm mới thì việc kiếm tiền bỗng trở nên dễ như trở bàn tay.

Bạn có biết rằng cô nàng tuổi Tuất là một trong số Con giáp nữ kiếm nhiều tiền nhất 12 con giáp?
  Con giáp này vốn thông minh, lại thêm ý chí kiên cường nên họ dễ dàng trở thành người học hành giỏi giang, định hướng mà họ đưa ra cho mình là thông qua học tập để đạt được lợi ích kinh tế. Họ không thấy có gì vất vả khi chuyên tâm nghiên cứu học thuật. Lặng lẽ tập trung làm việc của mình, qua một đêm vang danh thiên hạ chính là nói về con giáp này đó.
 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

Tuổi Mùi: Biết lợi dụng những nguồn lực sẵn có

  Con nhà nghèo muốn thành công không phải là không thể, chỉ có điều họ sẽ phải nỗ lực hơn người thường gấp nhiều lần. Còn nếu bạn có sẵn nguồn lực hỗ trợ bên mình thì chuyện thành công chẳng có gì quá khó khăn. Với người thành đạt, chút lợi nhỏ mà họ tiện tay cho bạn có lẽ chẳng đáng gì, nhưng với những người bình thường thì có phấn đấu, tích cóp cả đời chưa chắc đã có được.   Người tuổi Mùi hiểu rõ điều này, họ giỏi xã giao, có duyên ăn nói nên càng thuận lợi trong việc kết giao, đặt mối quan hệ với những người thành đạt xung quanh mình. Từ những mối quan hệ đó, họ tìm kiếm cơ hội để phát tài. Nhờ khả năng nhạy bén mà chỉ dựa vào chút lợi nhỏ nhoi được tùy tiện đưa cho, họ cũng có thể phát triển sự nghiệp thành công rực rỡ. Chẳng thế mà người này được cho là nhờ tài xã giao mà kiếm tiền giỏi, tự mình gây dựng cơ đồ.   An An

Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều? Top 3 con giáp Nam lọt vào hàng quý hiếm vừa chung thủy lại siêu kiếm tiền Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd