Số nét bút của họ tên có thể thể hiện khả năng bị phá tài (tổn thất tiền của) của ai đó. Đây thường là những con số hung hoặc bán cát bán hung trong Tính danh học. Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 14: Phá tài kiểu thiếu thực tế Người có số nét bú
Số nét bút của họ tên có thể thể hiện khả năng bị phá tài (tổn thất tiền của) của ai đó. Đây thường là những con số hung hoặc bán cát bán hung trong Tính danh học.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 14: Phá tài kiểu thiếu thực tế
Người có số nét bút họ tên này đa phần tình hình kinh tế bản thân không dư dật cho lắm. Lại vì không chịu thua khi so sánh với người ta nên hay mua những đồ vật đắt tiền vượt ngoài khả năng chi trả kinh tế của mình.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 20: Phá tài vì bạn bè thân tín vay tiền
Những người có số nét bút họ tên này thông thường rất có tài, cũng biết kiếm tiền. Nhưng vì bẩm tính lương thiện, dễ tin người đến nỗi mà bị bạn bè, họ hàng thân thích vay mượn tiền bằng đủ mọi danh nghĩa nhưng tiền cho vay một đi không trở lại.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 30: Phá tài vì đầu tư thất bại
Những người có số nét bút họ tên này thường hay rơi vào các ông chủ. Khi mới bắt đầu thì rất giàu, vì vậy khi nhắm đúng một dự án nào đó thì lao vào đầu tư, kết quả là thua lỗ, phá tài liên miên. Cho nên, cần phải có chỗ đứng chắc chắn, chỉ thích hợp đầu tư vào ngành nghề chuyên môn của mình, không nên đầu tư vượt ngành nghề mà mình không quen biết.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 38: Phá tài vì ảo tưởng
Bản thân người này rất có năng lực, nhưng thường vì ảo tưởng về một việc hay dự án nào đó sẽ đem lại nhiều tiền cho mình nên đi vay tiền để đầu tư. Kết cục thì lại không như mong muốn. Những người có số nét bút họ tên này cần phải điều tra kỹ công việc trước khi đầu tư, đừng để ảo tưởng ảnh hưởng đến mình.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 40: Phá tài vì thích cá cược, bài bạc
Những người có số nét bút họ tên này bản tính thích cá cược, cờ bạc nhưng đánh mười thua chín, do đó tiền tài đều mất hết trên sòng bài. Những người này dễ bị những trò cá cược mê hoặc, lúc nào cũng hy vọng không làm mà hưởng nhờ vào may mắn trong cờ bạc hoặc xổ số.
Tổng số nét bút họ tên (chữ Hán) là 43: Phá tài vì sĩ diện
Những người có số nét bút họ tên này thiếu quan niệm về quản lý tài chính, hay vung tay quá trán. Dù chẳng có bao nhiêu tiền nhưng vì sĩ diện mà lúc nào mời bạn bè ăn nhậu. Người này hay thể hiện, quăng bom trước mặt bạn bè nhưng khi về thì lại âm thầm thắt chặt lai quần mà sống.
Xem tuổi vợ chồng hợp khắc theo Thiên Can Địa Chi - Xem tuổi - Xem Tử Vi
Xem tuổi vợ chồng hợp khắc theo Thiên Can Địa Chi, Xem tuổi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tuổi vợ chồng hợp khắc theo Thiên Can Địa Chi, tu vi Xem tuổi vợ chồng hợp khắc theo Thiên Can Địa Chi, tu vi Xem tuổi
Khi xem tuoi vo chong thì phải lựa Thiên Can của tuổi trai coi xuống 12 Địa Chi của tuổi gái, như hợp thì đặng hòa thuận suốt đời và sanh con cũng mạnh khỏe, thông mình hay là ít bịnh tật.
12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi
Trai có chữ Giáp lấy 12 tuổi như dưới đây:
Giáp lấy vợ Tý: có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau
Giáp lấy vợ Sửu, Dần: có con không đặng nhờ vì con không đặng hiếu hạnh
Giáp lấy vợ Mẹo: vợ chồng không an toàn, hoặc có hư thai
Giáp lấy vợ Thìn: có con cháu không toàn vẹn
Giáp lấy vợ Tỵ: cuộc tình chồng nghĩa vợ dỡ dang, chẳng đặng bền lâu
Giáp lấy vợ Ngọ, Mùi: có con khó nuôi đến lớn
Giáp lấy vợ Thân: con cháu thi đỗ được nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền
Giáp lấy vợ Dậu, Tuất: cửa nhà vẻ vang, con cái thi đỗ thành công, con quý, rể hiền
Giáp lấy vợ Hợi: con cháu đặng thi đỗ, nhưng trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo
Trai có chữ Ất lấy 12 tuổi như dưới đây:
Ất lấy vợ Tý: con cái đặng thi đỗ, nhưng phải chịu gian nan thưở nhỏ, sung sướng về tuổi già
Ất lấy vợ Sửu, Dần: sanh con cháu thi đỗ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo
Ất lấy vợ Mẹo: nếu không có con thì mới đặng an toàn
Ất lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con sang trọng, đặng công thành danh toại
Ất lấy vợ Ngọ: vợ chồng được song toàn đại lợi, nhưng sau cũng sanh buồn phiền
Ất lấy vợ Mùi: được giàu sang vinh hiển, sanh con cháu thi đỗ đặng nhiều khoa
Ất lấy vợ Thân: có thi đỗ nhưng sau cũng không lợi
Ất lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở
Ất lấy vợ Tuất, Hợi: vợ chồng trước nghèo sau giàu
Trai có chữ Bính lấy 12 tuổi như dưới đây:
Bính lấy vợ Tý: người vợ sanh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu được vợ lẽ thì người vợ lẽ ấy sẽ sanh con trai.
Bính lấy vợ Sửu: vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi, sanh con trai thi đỗ, nhưng con phải có tật bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn
Bính lấy vợ Dần: vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sanh con trai thi đỗ vì đặng chữ “Phùng Xuân” ứng.
Bính lấy vợ Mẹo, Thìn: làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dầu có lúc phong lưu cũng vô ích
Bính lấy vợ Tỵ: đặng phú quý vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng đặng hiển đạt
Bính lấy vợ Ngọ, Mùi: vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đỗ
Bính lấy vợ Thân: vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ phú túc, tích nhiều thành đa, cần kiệm sẽ khá
Bính lấy vợ Dậu: vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, con cái ít.
Bính lấy vợ Tuất, Hợi: có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa
Xem tuoi vo chong Trai có chữ Đinh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Đinh lấy vợ Tý, Sửu: vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi, hoặc nghèo nàn
Đinh lấy vợ Dần: trước lành sau dỡ, khó được bén duyên tơ tóc
Đinh lấy vợ Mẹo: cuộc tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông
Đinh lấy vợ Thìn: có hai đứa con đặng thi đỗ, quan tước hiểng vang, nếu có vợ lẽ cũng đặng giàu sang
Đinh lấy vợ Tỵ: trước sau cũng đều đặng sang giàu, con cái đặng thi đỗ thành danh và đại lợi
Đinh lấy vợ Ngọ, Mùi: sanh con gái đầu lòng thì không đặng lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì nuôi con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẽ mới đặng toàn hảo thuỷ chung
Dinh lấy vợ Thân, Dậu: được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dỡ
Đinh lấy vợ Tuất: vợ chồng phải tha hương xứ người mới được hào phú đại lợi, có quyền quý, sanh con gái đặng song toàn
Đinh lấy vợ Hợi: trước có nhà cửa huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm.
Trai có chữ Mậu lấy 12 tuổi như dưới đây:
Mậu lấy vợ Tý: vợ chồng đặng sum vầy hòa hiệp, phú quý vinh hoa, trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang
Mậu lấy vợ Sửu, Dần: trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng cũng đặng song toàn hạnh phúc
Mậu lấy vợ Mẹo: vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng
Mậu lấy vợ Thìn: trước phải chịu cảnh gian truân, về sau đặng vinh hiển, lại e cuộc tình duyên chẳng đáng vẹn toàn.
Mậu lấy vợ Tỵ, Ngọ: khó bề đặng phú quý, nếu trai gái đều toàn thì sanh biến, không biến thì nhà cửa phải tiêu tan, dầu cho có quan lộc cũng phải biến
Mậu lấy vợ Mùi, Thân: trước sau đều đặng đại lợi, sanh con nhiều và tròn vẹn
Mậu lấy vợ Dậu: lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẽ sẽ sanh con trai được trọng quyền
Mậu lấy vợ Tuất, Hợi: không nhờ con cái, đi tha phương lại càng tốt.
Trai có chữ Kỷ lấy 12 tuổi như dưới đây:
Kỷ ly vợ Tý: vợ chồng làm ăn đặng thịnh vượng, nhưng trước phải đặng nghèo, rồi sau mới đặng giàu
Kỷ lấy vợ Sửu, Dần: sanh con trai khó nuôi được đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẽ sanh con dễ nuôi hơn
Kỷ lấy vợ Mẹo, Thìn: phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang mà sanh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết
Kỷ lấy vợ Tỵ, Ngọ: gặp thời thì thạnh lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng lìa xa đôi ngã, đời sau vợ chồng mới sanh con trai
Kỷ lấy vợ Mùi, Thân: vợ chồng được trường cửu hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đỗ cao, và vinh quang trọn đời
Kỷ lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường ốm đau bịnh tật
Kỷ lấy vợ Tuất: sanh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, nến con có đỗ cao cũng phải chịu khó về sau
Kỷ lấy vợ Hợi: vợ chồng đặng song toàn hạnh phúc, nhà cửa phú túc, con cháu đông đúc và thi đỗ cao
Trai có chữ Canh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Canh lấy vợ Tý, Sửu: lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù trai hay gái cũng trọn đời chẳng có gì là vinh hiển
Canh lấy vợ Dần, Mẹo: trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đỗ cao
Canh lấy vợ Thìn, Tỵ: vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quý và nhiều con, nếu thất đức thì ắc phải nghèo nàn
Canh lấy vợ Ngọ: tự mình lập thân chẳng cậy nhờ ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên
Canh lấy vợ Mùi, Thân: đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời vợ sau mới đặng giai lão
Canh lấy vợ Dậu: lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá
Canh lấy vợ Tuất, Hợi: đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới đặng vững bền và sanh đặng quý tử (con thảo)
Trai có chữ Tân lấy 12 tuổi như dưới đây:
Tân lấy vợ Tý: nếu có vợ sớm thì dẫu có con cũng không thành đạt, hay là sanh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi
Tân lấy vợ Sửu, Dần: không được hào con, sự làm ăn trước thành sau suy
Tân lấy vợ Mẹo: tự nhiên phú quý, nhưng có con thi đỗ thì chết, trước nghèo sau giàu
Tân lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc
Tân lấy vợ Ngọ: sự làm ăn hoàn toàn thạnh vượng, sanh con gái thì đặng hiếu thảo
Tân lấy vợ Mùi, Thân: trước giàu sang sau lại hóa ra nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già có bịnh tật liên miên
Tân lấy vợ Dậu: công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn
Tân lấy vợ Tuất, Hợi: có vợ gặp sanh sản khó, vợ chồng bất chánh
Trai có chữ Nhâm lấy 12 tuổi như dưới đây:
Nhâm lấy vợ Tý: vợ chồng sẽ có bịnh tật, thường gặp sự thưa kiện, dẫu sanh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn
Nhâm lấy vợ Sửu, Dần: sanh nhiều con gái, nếu có con trai dẫu có thi rồi cũng thất chức
Nhâm lấy vợ Mẹo: sanh con trai hay gái cũng đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đỗ cao cũng không đặng chức phận
Nhâm lấy vợ Thìn: về sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dầu thuở trước đã giàu sang, trở về già thường mắc bịnh tật
Nhâm lấy vợ Tỵ: dầu đặng giàu sang nhưng sanh con cũng khó nuôi được (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới yên vui được
Nhâm lấy vợ Ngọ: tuổi trẻ làm ăn được thạnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở về sau thì mắc bịnh tật không toàn
Nhâm lấy vợ Mùi: tự nhiên có lộc và quan chức, tuổi già có mắc tật bịnh
Nhâm lấy vợ Thân: sanh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ
Nhâm lấy vợ Dậu: tình vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gỗ trong gia đình
Nhâm lấy vợ Tuất, Hợi: được phú quý thịnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban
Trai có chữ Quý lấy 12 tuổi như dưới đây:
Quý lấy vợ Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi
Quý lấy vợ Sửu, Dần: có vợ ở xa xứ, đặng phú quý đại lợi, học hành thi đỗ
Quý lấy vợ Mẹo: ăn ở lúc nhở thì hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có chức vị quan tước
Quý lấy vợ Thìn, Tỵ: đặng phú quý đại lợi, lấy vợ ở xa xứ rất tốt
Quý lấy vợ Ngọ: trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quý, đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đỗ cao
Quý lấy vợ Mùi, Thân: đặng quan tước cao, công thành danh toại
Quý lấy vợ Dậu: dầu có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện
► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết nhân duyên và tình yêu của bạn
Món ăn chính
Tùy theo ẩm thực từng vùng miền khác nhau mà trên bàn ăn xuất hiện những món ăn khác nhau. Ví dụ như miền Bắc thường bao gồm các món mặn để dùng chung với cơm, nhưng miền Nam lại có nhiều món nhậu dành cho cánh đàn ông lai rai. Theo phong thủy học thì tốt nhất là nên ăn cơm, cơm được là từ lúa, là kết tinh của trời đất, là hạt vàng đối với người nông dân nên nó chứa đựng những ý nghĩa lớn lao. Nâng niu, trân trọng từng hạt cơm chính là tôn trọng người khác, những người vất vả làm ra hạt lúa hạt gạo cho chúng ta sử dụng, là nét văn hóa truyền thống của nền văn minh lúa nước. Các món nhậu cũng rất ngon, khá là hấp dẫn vị giác thế nhưng lại không mang nhiều tính truyền thống như cơm. Khi bạn tôn trọng người khác thì tự nhiên người khác cũng tôn trọng bạn, hình ảnh của bạn trong mắt người khác cũng sẽ trở nên đẹp đẽ hơn, như vậy vận đào hoa cũng tự khắc sẽ tăng lên.Đồ uống
Trong bữa ăn hoặc sau bữa ăn mọi người thường có thói quen dùng thêm đồ uống. Ở nước ta, việc dùng đồ uống thường được mọi người thực hiện sau bữa ăn, vì người xưa quan niệm nếu uống nước no rồi thì sao ăn được cơm. Tuy nhiên, người phương Tây lại có thói quen dùng một chút nước trái cây trong bữa ăn hoặc dùng một chút rượu vang trước bữa ăn tác dụng để khai vị. Nó còn là nhịp cầu kết nối, là phương tiện để mở lời giữa những con người không quen nhau nhưng vô tình ngồi cùng bàn ăn với nhau trong những buổi tiệc đông người. Hơn nữa, nước trái cây và rượu vang đều mang một màu sắc rất đẹp đẽ, rất là hút mắt. Còn sau khi ăn thì nên sử dụng những loại đồ uống nhẹ như hồng trà, trà nhài, trà hoa… để nâng cao khí chất, tạo sức lôi cuốn trong mắt người khác qua cách dùng trà, như vậy cũng là một cách để thúc đẩy vận đào hoa.Món điểm tâm
Cuộc sống hiện đại, đồ ăn quá nhiều và quá ngon nên ít khi người ta có cảm giác mình bị đói, vì vậy, sau những bữa chính no nê người ta chỉ dùng một vài món điểm tâm nhẹ, chứa ít kalo. Thật ra, không nhất thiết là sau bữa chính phải dùng điểm tâm ngay mà có thể dùng điểm tâm bất cứ khi nào bạn muốn, bạn thấy thèm, bạn muốn ăn một món ăn vặt nào đó, thời gian không phải là vấn đề quan trọng.Tốt nhất là sau khi ăn khoảng một giờ đồng hồ, cảm giác no bụng cũng đã giảm nhiều, bạn có thể sử dụng một chút hoa quả, vừa là hỗ trợ tiêu hóa, vừa tốt cho sức khỏe, người có thói quen ăn nhiều hoa quả cũng sẽ trẻ trung, tươi tắn hơn. Mà cũng không nhất thiết là hoa quả, bạn cũng có thể ăn kem, kem có vị ngọt ngào như tình yêu, cũng có thể tăng vận nhân duyên, biết đâu, bạn có thể gặp được nửa ấy ngay tại quán kem thì sao. Tuy nhiên, kem không phải là món ăn nên ăn thường xuyên vì vị lạnh của nó không tốt cho dạ dày.Lichngaytot.com Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Tuyết (##)
Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Tính: Âm Hành: Hỏa Loại: Quyền Tinh, Đào Hoa Tinh, Tù Tinh Đặc Tính: Uy quyền, quyền lực, hình ngục Tên gọi tắt thường gặp: Liêm
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 6 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
- Thuộc Bộ (Cách) Sát Phá Liêm Tham.- Có thêm sao chính tinh trong cùng một cung, nên gọi là 2 sao đồng cung.- Trường hợp lá số mẫu này là sao Liêm Trinh đồng cung với sao Thất Sát (gọi tắt là Liêm Sát đồng cung) tại Cung Huynh Đệ.- Đây là 2 sao quan trọng nhất đối với tất cả các sao khác đóng trong cùng một cung.- Sao Liêm Trinh khi tọa thủ trong các Cung Tý, Cung Dần, Cung Thìn, Cung Ngọ, Cung Thân, Cung Tuất là các Cung Dương thì thuộc bộ hay cách Tử Phủ Vũ Tướng. Vị Trí Ở Các Cung
Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất.
Vượng địa ở các cung Tý, Ngọ, Dần, Thân.
Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.
Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Mệnh Tướng Mạo Cung Mệnh có Liêm Trinh miếu, vượng, đắc hay hãm địa thì thân hình cao lớn, xương to và lộ, mặt hơi dài, sớm có nếp nhăn, vẻ mặt không được tươi nhuận, mắt lồi, sáng, lông mày rậm, lộ hầu. Tính Tình Sao Liêm Trinh nếu ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa thì có tính liêm khiết, thẳng thắng, đôi khi nóng nảy, cứng cỏi, đứng đắn và sáng sủa, đẹp đẽ, minh mẫn, tài giỏi, quả quyết, thanh cao, can đảm, cương quyết, được hưởng phú quý và có tuổi thọ. Ngoài ra sao Liêm Trinh còn có thêm đặc tính như sao Đào Hoa, đẹp người, đẹp nết, có tinh thần nghệ sĩ, phong lưu khoái lạc mà vẫn giữ được sự nghiêm túc, nhưng vẫn có sức thu hút đối với người khác. Còn đối với người nữ có sao Liêm Trinh ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người nghiêm nghị, đoan chính, thanh cao, đảm đang, thông minh, tài giỏi. Sao Liêm Trinh ở cung hãm địa thì có óc kinh doanh, khéo tay, giỏi về tài gia công chế biến, tính nóng nảy, ngoan cố, ương ngạnh, thích đua chen, tính toán, thủ đoạn. Có vị giác đặc biệt, thích ăn ngon mặc đẹp, nên còn có năng khiếu về thủ công. Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ Sao Liêm Trinh đắc địa thì hưởng ương sự được phú quý và thọ. Đặc biệt có tài kiêm nhiếp cả văn võ, rất thao lược và quyền biến. Nếu được thêm Xương Khúc đồng cung thì là bậc anh hùng. Những Bộ Sao Tốt
Liêm Trinh, Thiên Tướng: Dũng mãnh, oai quyền, danh giá, thường là quân nhân. Thiên Tướng đi với Liêm Trinh rất lợi vì có tác dụng khắc chế nóng tính của sao Liêm Trinh.
Liêm Trinh, Hồng Loan, Thiên Khôi, Văn Xương, Văn Khúc: Mưu sĩ giỏi, đắc dụng.
Liêm Trinh, Văn Xương, Văn Khúc: Có tài thao lược, quyền biến.
Liêm Trinh, Thiên Hình đắc địa: Quan võ giỏi, thẩm phán sắc. Nhưng cách này rất dễ bị hình tù vì cả hai sao đều cũ về tù tội.
Những Bộ Sao Xấu
Liêm Trinh, Phá Quân, Hỏa Tinh hãm địa: Tự tử, trong đời chắc chắn có lần tự tử.
Liêm Trinh, Phá Quân, Hóa Kỵ, Tham Lang: Chết cháy.
Liêm Trinh, Địa Kiếp, Kình Dương ở Mão, Dậu: Bị hình tù, bị ám sát (cũng như Liêm, Kình, Đá, Hỏa, Linh).
Liêm Trinh, Địa Kiếp ở Tỵ, Hợi: Tự ải trong tù.
Những bộ sao nói trên có ý nghĩa tương tự nhau. Tất cả đều báo hiệu sự tự tử, tai nạn đau thương, và ngục tù; không bị nạn này tất phải bị nạn kia. Cho nên Liêm Trinh là một sao tối nguy hiểm nếu đi với sát tinh mà thiếu sao giải. Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Cha mẹ nghèo nhưng có đức. Sớm xa cách hai thân. Làm con nuôi họ khác mới tránh được hình khắc.
Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Cha mẹ giàu có, nhưng bất hòa. Con cái thường không hợp tánh với cha mẹ.
Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Cha mẹ khá giả.
Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: cha mẹ vất vả, hay gặp tai nạn, con cái thường sống xa cách, hoặc lúc nhỏ đã ở nhờ nhà người khác.
Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: sớm khắc một trong hai thân. Nếu không, cha mẹ và con cũng không thể chung sống được với nhau.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Điền Trạch
Sao Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Gặp nhiều trở ngại trong việc tạo dựng cơ nghiệp, hay phá tán. Ông cha để lại nhà đất cũng không được hưởng.
Liêm Phủ đồng cung: Được hưởng nhà đất, giữ được cơ nghiệp của ông cha.
Liêm Tướng: Cơ nghiệp ngày càng phát đạt.
Liêm Phá: Hay phá tán, sau mới khá giả.
Liêm Sát: Nhà cửa tự lập, vất vả ban đầu, sau mới khá giả.
Liêm Tham: Có sản nghiệp của tiền nhân để lại nhưng cũng bị phá tán hoặc không được hưởng, rất bực mình vì điền sản, về già cũng không có nhà ở cố định. Dù có nơi ăn chốn ở cố định cũng không thường ở, hay đi, hoặc cho thuê, hoặc nhà đất mỗi nơi mỗi có, xa cách.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Quan Lộc Sao Liêm Trinh ở cung Quan Lộc rất tốt vì Liêm Trinh hợp với Quan Lộc tại Dần Thân, hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Tướng Quân: Võ nghiệp vinh danh, kiêm nhiếp cả chính trị, có uy quyền, được người kính nể.
Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung, làm ngành nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh nhưng không bền.
Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung, công danh lận đận, làm về công kỹ nghệ hay buôn bán thì tốt.
Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung, làm chỗ đông người làm ăn danh giá nhưng chức vụ thường nhỏ, hợp nghề địa ốc, thanh tra, thuế, nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh, nhưng cũng hay lận đận, không bền.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Nô Bộc Liêm Trinh ở cung Nô thông thường người giúp việc, bè bạn thường hay nói xấu mình, làm ơn nên oán. Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Thiên Di
Liêm Trinh đơn thủ ở Dần, Thân: Luôn luôn gặp được quý nhân. Được nhiều người kính trọng, tài lộc dễ kiếm, có danh giá, trấn áp được tiểu nhân.
Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Ra ngoài lợi ích hơn ở nhà, tài lộc dễ kiếm, có quý nhân phù trợ.
Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Hay lui tới chỗ sang trọng, được nhiều người kính nể.
Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Ra ngoài may rủi đi liền nhau.
Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp tai nạn giữa đường.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tật Ách Sao Cung Tật Ách có sao Liêm Trinh thì thường có tì tật ở chân tay hay ở lưng. Sao Liêm Trinh ở cung hãm địa thì suốt đời lận đận, bị nhiều bệnh tật, sức khỏe suy kém, hay bị tai nạn, phải ly tổ lập nghiệp, giảm thọ.
Liêm Trinh đơn thủ Dần, Thân có sao Hóa Kỵ đồng cung, dễ gặp tai nạn bất ngờ, ngộ độc.
Liêm Trinh, Tham Lang: Mắt kém, dễ bị vướng vào pháp luật.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tài Bạch
Liêm Trinh đơn thủ tại Dần, Thân: Phải cạnh tranh ráo riết mới kiếm được tiền. Làm giàu chậm nhưng chắc chắn.
Liêm Phủ đồng cung: Làm ăn thẳng thắn, liêm khiết, giàu có lớn, giữ được của.
Liêm Tướng đồng cung: Làm ăn lương thiện, giàu có lớn, giữ được của bền vững.
Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Dễ kiếm tiền trong lúc náo loạn. Nhưng tai ương thường đi liền với tiền bạc.
Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Tiền bạc thất thường hay hoang phí, hao tán nhưng hết rồi lại có.
Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: Túng thiếu. Suốt đời khổ sở vì tiền hay mắc tai họa vì tiền.
Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Tử Tức Cung Tử Tức có sao Liêm Trinh có những đặc tính chung là ít con, muộn con trừ khi đồng cung với Thiên Phủ. Khó nuôi con nếu gặp Thiên Tướng, Sát Phá Tham. Ý Nghĩa Liêm Trinh Ở Cung Phu Thê
Sao Liêm Trinh ở Cung Phu Thê hầu hết các vị trí đều bất lợi cho gia đạo như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách.
Sao Liêm Trinh ở Dần, Thân: Vợ chồng nghèo, làm ăn khó khăn.
Sao Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung: Gia đình thịnh vượng, giàu sang, nhưng cũng phải muộn gia đạo mới tốt, vợ chồng không hạp tính nhau nhưng bách niên giai lão.
Sao Liêm Trinh, Thiên Tướng đồng cung: Vợ chồng giàu sang, hòa thuận nhưng hình khắc nhau (tại Ngọ thì đỡ khắc).
Sao Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung: Vợ hay chồng là người có tài nhưng hay gặp rủi ro, khó chung sống.
Sao Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung: Vợ chồng làm ăn khó khăn, hay bất hòa, xung khắc.
Sao Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: Vợ chồng nghèo khổ, bất hòa, hay gặp tai nạn, xa cách.
Liêm Trinh Khi Vào Các Hạn
Liêm Trinh, Tham Lang, Tỵ, Hợi: Bị tù hình. Nếu gặp Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt thì giải được.
Liêm Trinh, Tham, Sát, Phá: Bị đau, bị oán trách.
Liêm Trinh, Phá đồng cung bị Kiếp, Kình: Kiện, tù, ám sát.
Liêm Trinh, Kình hay Đà: Rủi ro nhiều, ưu tư lắm.
Liêm Trinh, Hình, Kỵ, Kình hay Đà: Bị ám sát, lưu huyết thanh toán.
Kinh dịch là một di sản văn hóa phi vật thể của Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Bên trong bộ sách này chứa đựng hệ thống tư tưởng triết học đồ sộ của người Á Đông cổ đại.
Kinh dịch là một di sản văn hóa phi vật thể của Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Bên trong bộ sách này chứa đựng hệ thống tư tưởng triết học đồ sộ của người Á Đông cổ đại. Kinh Dịch được nghiên cứu dựa trên sự biến đổi và vận động của vạn vật. Trong đó, ba yếu tố then chốt làm nên tư tưởng cốt lõi của kho tang này chính là thiên, địa, nhân. Khi con người thấu suốt 3 yếu tố đó thì hoàn toàn có khả năng làm chủ và vận hành theo quy luật tự nhiên.
Nhắc đến Kinh Dịch, nhiều người thường quy chụp rằng đây là một hình thức bói toán mang tính chất mê tín dị đoan. Thế nhưng, bản chất của Kinh Dịch chính là nghiên cứu về thiên, địa, nhân dựa theo những quy luật vận động và tồn tại vốn có. Đó là những triết lý mang tính khoa học và duy vật sâu sắc. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa có một công trình nào chứng minh rằng Kinh Dịch chứa đựng triết lý thiếu căn cứ. Ngược lại, Kinh Dịch được xem như một kho báu bí ẩn mà người Á Đông thời cổ đại đã khơi nguồn được dựa vào những quan sát từ vạn vật.
Kinh Dịch được mở đường bởi nhà văn hóa Trung Hoa cổ đại Phục Hy. Lúc đó, Kinh Dịch vẫn còn đơn sơ. Về sau, Kinh Dịch được nghiên cứu và phát triển thành một hệ thống triết học qua các triều đại trong lịch sử Trung Hoa như nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu,… rồi được nhà triết học Khổng Tử tiếp tục xây dựng.
Cấu trúc khái quát của Kinh Dịch
Biểu tượng của kinh dịch được gọi là quẻ. Quẻ là các đường trừu tượng nằm trong tập hợp 64 tổ hợp. Trong mỗi quẻ lại chia thành 6 hào. Chúng được thể hiện dưới dạng các đoạn thẳng nằm ngang. Mỗi hào như thế có thể là đường nét liền (Dương) và đường nét đứt (Âm). Sáu đoạn thẳng này được xếp lên nhau từ dưới lên trên. Như vậy, chúng ta có được 64 tổ hợp của hào ứng với 64 quẻ. Mỗi quẻ là tượng trưng cho một trạng thái, diễn biến có thể xảy ra. Khi gieo quẻ bằng phương thức Kinh Dịch, người ta có thể chọn đúng tĩnh hoặc động. Đó là sự biến đổi từ Âm sang Dương hoặc ngược lại tạo thành một quẻ khác. Do đó, chúng ta sẽ căn cứ vào các thay đổi này nhằm có sự dự đoán những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai.
Vì có đến 64 quẻ cùng với việc gieo quẻ sử dụng số ngẫu nhiên nên xác suất đồng nhất hoặc trùng hợp là điều vô cùng hi hữu.
Lợi ích của kinh dịch
Cho đến ngày nay, người ta đã công nhận nhiều lợi ích khác nhau mà kinh dịch mang đến cho cuộc sống con người. Kinh Dịch hình thành cho con người những hiểu biết về các quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ. Nhờ đó, chúng ta có thể nhìn thấy sự đơn giản và rõ ràng của mọi sự việc cho dù hình thức biểu hiện có phức tạp hoặc khác nhau đến đâu đi chăng nữa. Đồng thời, Kinh Dịch còn cho chúng ta hiểu rằng vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Từ đây, con người biết cách mềm dẻo và linh hoạt trong cuộc sống nhằm giải quyết những tình huống khác nhau một cách êm đẹp. Mặc khác, Kinh Dịch sẽ cho bạn hiểu được những nguyên lý bất biến của sự sống. Đó là yếu tố tạo nên trật tự của cuộc sống mà chúng ta không thể thay đổi. Nhờ đó, bạn sẽ có sự thay đổi linh hoạt nhằm điều chỉnh cho hài hòa mang đến cuộc sống viên mãn hơn.
Phổ biến nhất có thể nhắc đến những ứng dụng thiết thực của kinh dịch trong việc xây dựng và kiến thiết nhà cửa. Chẳng hạn, có một cặp vợ chồng nọ trước đây rất yêu thương nhau nhưng kể từ khi chuyển đến căn nhà mới mua thì liên tục xảy ra cãi vã và mâu thuẫn đến mức muốn tiến đến ly hôn. Nhưng nhờ gặp được một người am hiểu về kinh dịch, họ đã tìm ra được căn nguyên của vấn đề. Sở dĩ, gia đình hay xảy ra cự cãi là bởi vì ngôi nhà ấy nằm ở ngay ngã ba có đường đi đâm thẳng vào nhà. Ứng dụng của Kinh Dịch trong xây dựng nhà cửa còn giúp bạn biết cách bố trí sắp xếp lối đi, cửa ra vào, gian bếp, cầu thang, nhà tắm nhằm đảm bảo sự chan hòa yêu thương trong gia đình. Nếu con cái bạn thường không nghe lời và khó dạy bảo thì bạn nên xem lại hướng cầu thang của ngôi nhà mình đang ở.
Bên cạnh những ứng dụng về lĩnh vực xây dựng, bố cục nhà cửa thì Kinh Dịch còn mang đến nhiều lợi ích trong vấn đề mồ mã, hôn nhân gia đình và dự báo tương lai. Hệ thống triết học này sẽ mang đến cho bạn một cái nhìn đúng đắn và thấu suốt bản chất thật sự của mọi vấn đề. Kinh Thi không phải là bói toán bởi lẽ nó không quy chụp hay đánh đồng mọi sự việc theo kiểu dân gian như: Dần thân tị hợi tứ hoành xung, Tam tai, Trai Nhâm gái Bính,… Mà trái lại, Kinh Thi sẽ cho bạn thấy được tính khoa học bên trong mọi dự báo, nhận định. Đó chính là lý do mà Kinh Thi trở thành một hệ thống triết học được nhiều bậc Giáo sư, Tiến sĩ đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu và giải mã. Cho đến nay, Kinh Thi vẫn còn là một kho báu đầy tiềm năng mà con người chưa khám phá hết được.
Cũng như số phận mỗi người khác nhau, vậy tại sao có một số tướng mặt lại sung sướng, một số tướng mặt lại nghèo khổ. Người có tướng mặt hình vuông hay phụ nữ mặt vuông thì sướng hay khổ, vận mệnh của họ như thế nào?
Mỗi người có một tướng mặt khác nhau, không ai giống ai. Cũng như số phận mỗi người khác nhau, vậy tại sao có một số tướng mặt lại sung sướng, một số tướng mặt lại nghèo khổ. Người có tướng mặt hình vuông hay phụ nữ mặt vuông thì sướng hay khổ, vận mệnh của họ như thế nào? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn vận mệnh của phụ nữ có tướng mặt vuông.
Mặt vuông là gì?
Phụ nữ mặt vuông hay còn gọi là mặt chữ điền.
khuôn mặt chữ Điền, hay còn gọi là mặt hình vuông là những người có xương hàm bạnh ra, chứ không thon gọn. nó tạo thành những đường nhìn gần như song song với đường chân tóc. Những người phụ nữ có mặt vuông hay mặt chữ điền thường có khuôn mặt khá to và thô.
Phụ nữ mặt vuông sướng hay khổ?
Đặc điểm của gương mặt vuông hay mặt chữ điền là người phụ nữ có tướng mặt khá thô, không hài hòa và kém duyên. Những người phụ nữ mặt vuông thường có nét nam tính, rắn rỏi chứ không “liễu yếu đào tơ” như những người khác. Không những thế, tướng mặt này còn ảnh hưởng lớn đến vận số của họ.
Bởi những người phụ nữ mặt vuông thường gai góc, có thể vận bất ổn, cuộc đời chịu nhiều thăng trầm vất vả. Không những thế họ còn đối mặt với nhiều khó khăn, cuộc sống phải lo lắng nhiều về tiền bạc, vật chất.
Những người con gái có mặt chữ điền hay mặt vuông cằm nhọn thường có cá tính mãnh mẽ, họ không thích dựa dẫm vào người khác. Vì thế nên tình cảm của họ cũng không được thuận lợi.
Con gái mặt vuông chữ điền có ý nghĩa gì? Theo nhân tướng học.
Ý nghĩa 1: Con gái mặt vuông chữ điền thường mạnh mẽ, khỏe mạnh, có thể gánh vác cuộc sống, yêu chồng, yêu con cái, nuôi dạy con cái tốt và rất chung thủy.
Ý nghĩa 2: Theo tướng pháp người con gái mặt vuông chữ điền sẽ bất hạnh về cuối đời, cô đơn, lẻ loi. Phụ nữ có tướng này thường có số mệnh gian nan, vất vả, cuộc sống hôn nhân gia đình không yên ấm gia đình dễ xào xáo, bất hòa. Do đó không thể khẳng định được mặt chữ điền xấu hay đẹp trong ý nghĩa nhất định nào đó.
Hoặc đối với những người mặt vuông cằm nhọn đều có ý nghĩa như trên. Để tham khảo thêm những thông tin hữu ích khác, bạn có thể xem thêm những bài viết dưới đây
+ Những cô gái có gương mặt phúc hậu nên lấy làm vợ
2. Nhất kiến khả trọng, trinh khiết nhi phúc trạch (phúc thọ) 3. Nhất kiến khả hỷ , tà đãng nhi dị dụ (Tướng dâm )
4. Nhất kiến khả khinh, bần bạc nhi tiện yểu (vừa dâm vừa tiện, và nghèo hèn )
5. Nhất kiến khả uý, cương cường nhi khi tâm ( có uy, tính ngang bướng , gian ngoan ) 6. Nhất kiến khả khủng, khác nhi ác cực (ác tướng, nên tránh xa )
Đàn bà mà phạm vào 3 điều cấm kỵ sau đây là không tốt :
1. Diện sắc hữu xích bạc như hoả giả mệnh đoản tất vong ( mặt lúc nào cũng đỏ rực như lửa, chết bất đắc kỳ tử )-2. Diện sắc nộ biến thanh lam, giả độc hại chi nhân ( Khi giận mà mặt dổi xanh xám là tướng cực ác, tâm địa gian hiểm )-3. Diện sắc trần ai bần hạ yểu tử ( Mặt lúc nào cũng như đưa đám, tướng bần tiện yểu tử )
Ngoài ra đàn bà có đào hoa sắc hay đào hoa nhãn thì rất xấu nhưng đàn ông thấy là khoái lắm. Vậy mới có câu:
Hồng diện đa dâm thuỷ-Mi nùng đa âm mao
Nói chung đàn bà mặt mũi lúc nào cũng nên tươi tắn sáng sủa, và vui vẽ cũng như nói năng ôn hoà dịu dàng thì tốt …Theo các nhà tướng học thì khi xem tướng cho các bà thì trước tiên coi tướng mũi vì tướng mũi là cung Phu tinh chỉ về chồng, đại khái là mũi tốt thì có chồng giỏi, mũi tốt thì phải có thế vững vàng ngay thẳng, tròn trịa và phối hộ đắc cách với trán + lưỡng quyền + cằm , nếu mà đắc cách như thế là rất tốt , vừa phúc hậu, vừa vượng phu ích tử, nếu mắt có liêm quang nữa thì sẽ rất nổi tiếng …
Tướng mắt:1. Nhãn quang như thuỷ, nam nữ đa dâm ( mắt lúc nào cũng ướt, rất dâm )-2. Mục hồng ngữ kết hiếu sắc vô cùng ( mắt pha màu hồng , hiếu sắc )-3. Viên tiểu đoản thâm, kỳ tướng bất thiện ( mắt tròn và nhỏ, xấu, là tâm đia không tốt )-4. Đoản tiểu chủ ngu tiện ( mắt ngắn mà nhỏ, chủ hèn đần )-5. Xích Ngân xâm đồng, quan sự trùng trùng ( mắt nhiều tia đỏ, dể vướng vào lao lý )-6. Mục vĩ tương thuỳ , phu thê tương ly ( đuôi mắt cụp xuống, vợ chồng xung khắc , phân ly ) 7. Mục xích tinh hoàng, tất chủ yểu vong ( mắt đỏ , con ngươi có sắc vàng , chết yểu )-8. Nhãn thâm định, thị phiếm tư lương, đới khấp phương phu tử bất cương ( mắt lúc nào cũng thâm quần lại ướt, làm khổ chồng con )-9. Lưỡng nhãn phù quang, song luân phún hoả, hung ác đại gian chi đồ ( mắt đỏ lại sáng quắc, háo sát tàn nhẫn, lạnh máu )-10. Thượng bạch đa tất gian, hạ bạch đa tất hình ( thượng ha tam bạch đều là mắt xấu, vừa dâm vừa gian và dể bị tù tội )-11. Nhãn nội đa mạch, nữ sát phu ( mắt bình thường có nhiều gân máu là tướng sát phu )
Tướng Miệng :1. Khẩu dốc như cung, vị chí tam công (Góc miệng uốn cong lên như hai đầu cung, cực tốt ) 2. Khẩu như hàm đan, bất thụ cơ hàn (Miệng đỏ như son một cách tự nhiên, phú quý )-3. Khẩu phương tứ tự, tín nghi chân ( Miệng như chữ Tứ, góc cạnh đều đặn đẹp, trung nghĩa và giàu )-4. Khẩu như súc năng, như suy hoả, tiêm nhi, phản tiêm nhị bạc hữu văn lý nhập khẩu( Miệng lúc nào cũng chu ra như đang thổi hơi , miệng dẩu ra, nghiêng lệch , chủ bần tiện )-5. Tung lý nhập khẩu ngã tử . ( nhiều văn nhập vào miệng, nghèo hèn )-Hai đường pháp lệnh chạy cong vào hai khoé miệng, đói khổ , chết vì đói )-6. Khẩu như suy hoả, cơ hàn độc toạ ( Miệng như thổi lữa chủ cơ hàn và cô độc )-7. Khẩu ư lộ sĩ ( miệng ráng ngậm mà vẫn thấy răng, bần tiện )-8. Thượng thần cai hạ, thần pháp bần hàn ( Trên dày , dưới mõng chủ bần hàn ) Hạ thần qua thượng, dả dối trá kiêu căng ( Dưới dày trên mõng, dối trá, gian sảo )-9 Vi tiếu khẩu ( miệng lúc nào cũng như có vẽ cười ) chủ ôn hậu-10. Chấn tĩnh chi khẩu ( Miệng lúc nào cũng như mím chặt ) chủ cương quyết-11. Lãnh tiếu chi khẩu ( Cười lạnh nhạt, nhếch mép ) thâm độc, ác tâm .
Tướng Tóc :1. Mấn phát can táo ưu sầu chi lão ( Tóc khô là tướng u sầu suốt đời )-2. Mấn phát thô sơ tài thực vô sơ ( Tóc khô mà thưa thì tiền bạc suốt đời chẳng dư )-3. Nhĩ biên vô phát tâm hoài độc ( Tóc mai không có thì tâm địa không tốt )-4. Hắc như ti vinh quí chi tư ( Tóc óng mượt mềm mại như nhung và đen tuyền là phú quý )-5. Mấn phát loạn sinh giảo trá nhân tăng ( Tóc xấu mà lại rối lung tung tính tình sảo trá gian hiểm )-6. Phát trung xíng lý tất chư binh tử ( Tóc có vết đỏ một cách không bình thường là chết bất đắc kỳ tử ) 7. Vị cập tứ thập nhi phát bạch, huyết suy nhi mệnh đoản ( Đàn bà mà tóc bạc sớm khi chưa qua khỏi tuổi 40 là huyết suy, yểu tử )-8. Phát phồn đa nhi khí sú giả chuân chuyên nhi bần tiện, phát như bồng quyền giả tính giảo nhi bần khổ( Tóc mà dựng đứng, tướng chỉ bần tiện chi nhân , tóc rậm mà còn có mùi hôi tự nhiên là tướng vừa hèn hạ vừa gian hiểm )
Tướng Cổ :Cổ của đàn bà cần phải hội đủ các điều kiện sau đây :-Phong : đều đặn trước sau-Viên : Tròn trặn ( Giàu )-Kiên : Cứng cáp vừa đủ-Thực : Chắc chắn vững vàng.Sách Tướng Lý Hành Chân ” viết :
1. Phì nhân cảnh đoản sưu nhân trường, Tự đắc thanh danh phan tứ phương (Người mập và thấp nười thì cổ ngắn mới hợp cách )-2. Cảnh tiểu ưng tri niên thọ tróc, túng nhiên phú quí mạc thương lượng (nếu mập mà cổ nhỏ thì yểu tử và nghèo hèn)-3. Đống lương bất chính tính tình thiên, phiêu bạt vô y tại vãn niên , Bỉ lận kinh doanh hưu vấn phúc, Tổng bả âm công tác phúc cơ ( Cổ cong queo , số khổ cực gian nan, phiêu bạt trôi nỗi , tính lại nhỏ nhen biển lận).-4. Xà cảnh đoan nhiên thị tiểu nhân, Khả lân nhất thế chí nan thân, Tương phùng phú giá đê đầu sàm, Trắc lập ân cần tiếu ngữ thân( Cổ rắn lắc lư không yên, tính dâm loạn, tiểu nhân, nịnh bợ, hay thấy sang bắt quàng làm họ ) 5. Thân trường cảnh đoản bất vi cao, Điểu vũ yên năng tác phượng mao ( Mình dài cổ ngắn là tiện nhân, chẳng khác nào lấy chân chim sẽ gắn vào thân Phượng Hoàng.
TƯỚNG CHÂN CỦA ĐÀN BÀ KỴ 8 ĐIỀU SAU ĐÂY :
1. CHẮC là đi đứng cứng ngắt – ngang bướng , nghèo hèn-2. KHÔ da thịt khô khan, mốc meo, – bất nhân , không có tín nghĩa-3. THÔ xương lộ – bần hàn 4. BẠC nhỏ bé khẳng khiu, dáng người yếu đuối – không thẻ giàu sang được-5. ĐOẢN là ngắn ngũi, chân ngắn hơn thân người – dâm và nghèo-6. TIÊU là yếu, đi như không vững – không chí khí, tính nhu nhược 7. SƯU là chân ốm nheo như chỉ xương với da – lao khổ suốt đời-8. TIÊM nhỏ nhọn, đầu xương nhọn và lồi ra – vừa ác vừa đần
1. Túc bối bạc nhi quang trụ, bôn khổ kham ta (chân mỏng như không có bụng chân, ống quyển lại bóng, lao đao khổ sở) 2. Cốt lộ cân phù lục thân hà năng ỷ kháo (Xương lộ gân lộ, lăng loàn trắc nết, bất hiếu bất nhân) 3. Túc bạc thủ đoạn định thị cường ngoạn chi lưu (khẳng khiu lại ngắn, dâm và ngang bướng) 4. Nhục khô bì sáp nhất sinh an vọng hiển vinh (Da khô mà nháp, suốt đời đừng mơ chuyện hiển vinh) 5. Cước bối hậu hưởng phúc bất tận ( Bàn chân dày đẹp thanh tú, phúc lộc dồi dào) 6. Túc đế hắc chí, tương lai phú quý miên trường ( gan bàn chân có nốt ruồi – giàu, sinh quý tử, nếu có 7 nốt ruồi mọc thành chùm là cực tốt, nhất túc đạp thất tinh là sinh con có chân mạng đế vương ) 7. Tất viên như đẩu nhất thế bình an (Đùi đẹp, chân dài, đầu gối đẹp cân xứng – suốt đời sung sướng ) 8. Thoái đại tất tiểu bán sinh quan tụng (Đùi to mà đầu gối quá nhỏ, hay mă’c quan tụng, thua thiệt ) 9. Tất thượng sinh cân nhất thế bôn tẩu ( Đầu gối nổi gân có vòng, suốt đời bôn tẩu, lao đao) 10. Tất tiểu vô cốt chủ tảo vong (Gối nhỏ, đùi ngắn, – bần tiện, yểu tử) 11. Tất tiêm thoái hiểu vi hạc tất chư hạ tiện (Đầu gối quá nhỏ, chân lại khẳng khiu yếu đuối như không xương, – yểu bần) 12. Thoái tất như sài lão vô kết quả (Da khô đầu gối nhỏ xương so với đùi – đến già vẫn chưa làm nên chuyện gì như ý)
YÊU TƯỚNG VÀ ĐIẾN TƯỚNG (tướng eo và mông)
1. Yêu nghi đoan viên hề nãi vi bối chi nghi biểu (Eo tròn trịa, ngay thẳng, có nghi biểu tốt, phú quý) 2. Phú quý khả suy hề nãi phì viên nhi vi nhiễu (Eo tròn trịa đầy đặn, giàu) 3. Dâm tiện đa tà kiêu hề, bần ngu hề đa hiệp tiêu (Eo lệch và hẹp mõng , dâm tiện và ngu đần) 4. Yêu tế điến cao hề phá gia đô vi kỳ kiểu (Mông lớn cong cớn, eo nhỏ, dâm tiện, phá sản) 5. Yến thể phong yêu hề tính mệnh như hà bất yểu (Mình én mà eo ong, dâm tiện và yểu tử) 6. Sưu nhân vô điến, đa học thiểu thành nhất sinh khốn đốn (người gầy mà không có mông, học nhiều nhưng cũng không làm được gì lớn lao cả) 7. Phì nhân vô điến, hữu phu vô tử, cô độc cùng khốn (người mập mà không có mông thì hiếm con hoặc không con, cô độc nghèo khổ) 8. Còn trẻ mà mông teo, cuộc đời lao khổ. 9. Mông lớn tròn trịa cân xứng và rắn chắc, vừa đẹp và vừa đam mê luyến ái, chí tình, hào phóng và rất độ lượng, vượng tử. 10. Mông nhỏ vừa đủ nhưng chắc và cân xứng với eo, dâm nhưng kém phúc lộc . Ngọc đới yêu vi: Quanh bụng có lằn thịt nỗi rõ ràng đẹp như cái đai ngọc, tướng vượng phu ích tử ( giúp chồng thành đạt, sinh con quý tử)
Chú ý: Cổ tướng thư có câu: Đàn bà thắt đáy lưng ong chỉ nên cưới làm thiếp chứ không nên cưới làm vợ, nghĩa là đàn bà mà lưng cong và dày, eo nhỏ, mông lớn, chân dài, thì không nên cưới làm vợ vì rất dâm đãng, nếu không thì sẽ nuôi con của hàng xóm hay bạn thân của mình …
1. Phù nhũ giả, vận huyết mạch chi tinh hoa liệt tâm hung chi tả hựu Nhũ hữu thất khiếu vi tiên thiên chi nguyên khí, nữ tử chi mệnh cung, tinh huyết hội tụ chi sở (Tinh hoa vận chuyển huyết nơi đây, phải trái tâm hung chia tỏ bày. Bãy lỗ tiên thiên cung mệnh nữ, là khu nguyên khí tụ nơi này) 2. Nhũ đầu đại nhi hắc giả hiền năng đa nhi tử (Nhũ hoa lớn, nhũ đầu đen đẹp, giỏi giang, hiền năng và sinh nhiều con) 3. Nhũ đầu như chu sa, Sinh quí tử (Nhũ hoa đẹp, nhủ đầu đỏ như chu sa, sinh con quý tử) 4. Nhũ đầu tiểu bạch nhu nhược vô năng nhi thiểu tử (Nhũ đầu nhỏ và trắng bệch, vụng về , vô tài, hiếm muộn) 5. Nhũ đầu hồng nộn giả đa vi dung bộc (Nhũ đầu có màu hồng non, có mùi hôi hám, thân phận làm nô tỳ) 6. Nhũ bạc nhi vô nhục y thực bất túc (Nhũ hoa nhỏ và mỏng, nghèo hèn) 7. Nhũ tiểu tuy khoan bất túc giai, hữu tiền vô lượng tính tình quai (vòm ngực lớn nhưng mà nhũ hoa quá nhỏ, cũng khá giả nhưng tính tình kỳ cục không theo bình thường).
Trong quan niệm phong thủy học truyền thống, cửa chính có ảnh hưởng rất lớn tới phong thủy nhà ở. Đây cũng là yếu tố quan trọng quyết định tới sự lành dữ của ngôi nhà.
Để mua được một mảnh đất xây nhà ưng ý là điều rất khó. Chúng ta biết “đồng loại tắc tương phối, bất đồng tắc tương khắc”. Nếu người Đông tứ mệnh (Thủy, Mộc, Hỏa) ở vào Tây tứ trạch (Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam) và ngược lại, người Tây tứ mệnh (Thổ, Kim) ở vào Đông tứ trạch (Đông, Đông Nam, Nam, Bắc) thì bài toán sẽ được giải như sau:
Theo “Bát trạch minh kính” nếu nhà hướng Đông Tây khó thay đổi thì bạn phải sửa cửa chính. Tức nếu trạch mệnh không tương đối, chủ nhà phải khiến cửa chính và quẻ mệnh tương phối. Dùng “Môn mệnh tương phối” thay cho “Trạch mệnh tương phối” cũng có thể bổ trợ được. Nói một cách khác, với người Đông tứ mệnh, cửa cần mở ở 4 phương vị quẻ Đông tứ: Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc. Người Tây tứ mệnh thì đặt cửa chính ở Tây tứ: Tây, Tây Nam, Tây Bắc hoặc Đông Bắc.
Ngoài ra, đối với trường hợp cửa chính đặt vào hướng chưa tốt, bạn có thể hóa giải theo hai cách: thêm cửa trong nhà và dùng màu sắc hóa giải tà khí. Nếu bạn thuộc Tốn, cửa chính nhà bạn tại Tây Nam thuộc Khôn (Ngũ quỷ), hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ trong nhà thuộc hướng tốt (ví dụ: chính Nam). Với cách này, gia đình sẽ gặp dữ hóa lành và tránh được những điều không tốt.
Tuy nhiên với những ngôi nhà có diện tích hẹp, bạn có thể dùng màu sắc để hóa giải bằng cách trải thảm ở cửa chính với các màu sắc khác nhau tùy theo ngũ hành của từng gia chủ: Mộc: màu xanh, lục; Hỏa: màu đỏ, tím; Thổ: màu nâu, vàng; Kim: màu trắng, vàng sẫm; Thủy: màu lam, xám.
Trong trường hợp mệnh Đông tứ gặp cửa Tây tứ. Cửa ở Tây và Tây Bắc gặp tà khí của Kim vì vậy bạn thuộc Thủy, Mộc nên trải thảm màu lam hoặc màu xám ở cửa chính, bạn thuộc Hỏa trải thàm màu đỏ hoặc tím. Cửa ở Tây Nam và Đông Bắc gặp tà khí của Thổ vì vậy bạn thuộc Thổ trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm, bạn thuộc Hỏa, Mộc trải thảm màu xanh hoặc lục.
Với mệnh Tây tứ gặp cửa Đông tứ. Cửa hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc nên bạn thuộc Thổ trải thảm hồng hoặc tím, nếu bạn thuộc Kim trải thảm trắng hoặc vàng nhạt là thích hợp. Cửa hướng Nam gặp tà khí của Hỏa nên bạn thuộc Kim, Thổ trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải. Cửa phía Bắc gặp tà khí của Thủy, nếu bạn thuộc Thổ, Kim thì trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải.
Cách lựa chọn màu sắc như trên dựa vào sự vận động tương sinh tương khắc của ngũ hành, phù hợp với quy luật phong thủy.
Theo KTS Vũ Quang Định, Mai Phương VNE Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Chàng trai có lông mày góc cạnh rõ ràng tạo cho phái nữ cảm giác rất mạnh mẽ và nam tính. Những anh chàng tướng lông mày thế này rất hay tạo được ấn tượng tốt đối với phái đẹp.
2.Lông mày rậm
Cánh XX vốn nhạy cảm và dễ tổn thương, vì vậy, họ luôn cần những anh chàng có khả năng thấu hiểu mình. Các chàng trai lông mày rậm vốn sinh ra đã có bản năng giao tiếp - rất dễ được lòng phái nữ.
3.Xương mày nhô ra
Xương mày nhô ra nhưng không quá lớn cho thấy đây là những chàng trai sẵn sàng tấn công các “đối tượng” trong “tầm ngắm” của họ.
4.Mắt to
Mắt to và hơi xếch là chàng trai tình cảm, có khiếu hài hước và thân thiện. Đây là những người có phong cách làm việc nghiêm túc, biết hướng tới tương lai nên rất được phái nữ chú ý.
5.Nốt ruồi ở tai
Đây là những người thông minh, hiếu thảo, có phúc tướng và thường là chỗ dựa vững chắc cho phái đẹp.
6.Môi trên cong
Tình cảm, nhẹ nhàng, lãng mạn, hài hước, những anh chàng này rất dễ hấp dẫn phái nữ.
7.Hai môi luôn khép chặt
Đây là người rất chu đáo. Gần họ, phái nữ sẽ có cảm giác vô cùng an toàn.
8.Tay to
Đây là những chàng trai sẵn sàng gánh vác trách nhiệm gia đình.
Trong kỳ trước, chúng tôi đã thuật lại những kinh nghiệm giải đoán nòng cốt của cụ Thiên Lương. Những kinh nghiệm đó khởi phát từ một cuộc khám phá rồi tiếp đó là những cuộc chiêm nghiệm lâu dài. Theo các cách giải đoán đó, chúng tôi đã xét lại nhiều lá số và thấy đúng, rồi đây chúng tôi sẽ xin trình bầy về những cuộc chiêm nghiệm đó hầu chuyện bạn đọc.
Trong kỳ này, chúng tôi xin lược ghi vài nét đã dẫn đến kinh nghiệm trên. Chúng tôi cũng xin kiểm điểm lại kinh nghiệm và nói kỹ hơn.
KHỞI ĐẦU CỦA SỰ KHÁM PHÁ
Trước hết, chúng ta ghi nhận rằng Thái Tuế là sao Vua, và vòng sao Thái Tuế hẳn phải có một sự kiện nào quan trọng khác với những điều người ta thường tưởng (từng chỉ đoán về vài sao trong vòng Thái Tuế, còn bỏ lại những sao khác).
Trong Tử vi, khi ghi các sao trong vòng Thái Tuế, chúng ta lại thấy Thái Tuế bao giờ cũng được ghi ở cung tuổi (như người tuổi Mùi thì Thái Tuế ghi ở cung Mùi). Và rồi 12 sao trong vòng Thái Tuế bao giờ cũng được ghi theo chiều thuận trên lá số, mỗi cung một sao, khác với những vòng sao khác ghi thuận hay nghịch theo âm dương của tuổi
Những sự kiện về vòng Thái Tuế bao giờ cũng đi một chiều và Thái Tuế bao giờ cũng ở cung tuổi, khiến người tìm tòi suy nghĩ rằng vòng Thái Tuế có liên quan lớn đến vận mạng con người, ít nữa là trong đại cương, và do đấy, tự tìm tòi hướng đến việc so sánh thế sao dàn ra của vòng Thái Tuế với vị trí của cung Mạng và Thân; hay nói ngược lại là vị trí của Mạng và Thân với vòng sao Thái Tuế. Những thế, vị trí này thay đổi tùy theo năm sinh tháng sinh và giờ sinh của mỗi người.
Câu hỏi tiên khởi đặt ra là tại sao có những người mà Mệnh đóng ngay cung tuổi, tức là đóng ngay cung có Thái Tuế, và hai cung tam hợp của cung đó; có những người khác mà Mệnh lại đóng ở thế tam hợp đối nghịch với thế tham hợp của cung tuổi (xin xem tập trước). Hoặc ở một thế tam hợp lệch với thế tam hợp của cung tuổi.
Long Phượng Hổ Cái
Nhận xét có ngay là khi Mệnh (hay Thân) đóng ngay cung tuổi hoặc ở hai cung tam hợp với cung đó, thì con người được hưởng ngay bộ Long Phượng Hổ Cái.
Một chút kiểm chứng nhờ cách tính 4 sao đó là cho thấy ngay. Hoặc các bạn kiếm trên một bảng lập thành để tính sao là thấy. Như trong mấy giòng ghi đây:
Ta đã biết rằng trong vòng Thái Tuế, Bạch hổ bao giờ cũng ở thế tam hợp với Thái Tuế. Lấy 1 thí dụ theo bảng trên: tuổi Sửu, nếu mạng ở Sửu, thì có Thái Tuế ở Sửu, Long Trì ở Tị, Phượng Các ở Dậu, Hoa Cái ở Sửu. Như thế người tuổi Sửu, mạng ở Sửu, có Long Phượng Hổ Cái. Nếu Mạng ở Tị hay ở Dậu (trong thế tam hợp) thì cũng có Long Phượng Hổ Cái.
Hầu hết các vị trí Mạng (hay Thân) có Thái Tuế hay ở cung tam hợp với Thái Tuế (tức là có Quan Phù hay có Bạch Hổ), đều có Long, Phượng, Hổ, Cái. Có một vài trường hợp bị thiếu – nhưng không được đủ bộ, thì cũng được 3 (thí dụ được Long, Hổ, Cái). Bộ Long Phượng Hổ Cái là bộ quý nhất trong Tử vi, chỉ có bậc Vua mới có đủ bộ này, dĩ nhiên Vua còn phải có thêm những bộ sao khác thành: quân, thần, khanh, tướng.
Chỉ nói về người thường, thì ai mà Mạng (hay Thân) có Thái Tuế, hoặc Quan Phù, hoặc Bạch Hổ, là cũng có bộ Tứ linh Long, Phượng, Hổ, Cái, đó là quý cách, khiến con người được xứng ý toại lòng, được tự hào rằng mình có chánh nghĩa, và được sung sướng rằng việc làm của mình không sai với chánh nghĩa mà mình ấp ủ. Trong đời, thiết tưởng dù sang hay hèn, giầu hay nghèo, nếu đạt được cách đó cũng là khoái tâm hồn rồi, còn giàu sang cũng có thể khổ vì trái ý, hay vì vẫn chưa được toại nguyện.
NẾU MỆNH Ở THÁI TUẾ? Ở QUAN PHÙ? Ở BẠCH HỔ?
- Mệnh ở Thái Tuế là cái thế của con người tự hào về chánh nghĩa của mình.
- Mệnh ở Quan Phù, trong thế tam hợp với Thái Tuế, cũng là của con người tự coi mình có chánh nghĩa, những người này tính toán nhiều hơn, xét các lợi hại để hành động sao cho phải.
- Mệnh ở Bạch Hổ, trong tam hợp với Thái tuế, cũng là của người tự coi mình có chánh nghĩa, và người này ít tính toán, cứ cố gắng mà làm trong phạm vi của mình.
Được cả Thân và Mệnh đóng tại cung có Thái Tuế, Quan Phù, hay Bạch Hổ, là tốt nhất. Nếu chỉ có Mệnh đóng đó, và Thân lại đóng khác đi, thì chỉ hưởng cái thế của Mệnh trong hẳn nửa cuộc đời. Nếu Mệnh không được hưởng thế đó, mà Thân được hưởng, thì lúc đầu không được toại nguyện về việc làm của mình, nhưng sau được toại nguyện rằng đi đúng chánh nghĩa như mình quan niệm.
THẾ TAM HỢP
Để dễ ghi nhận kinh nghiệm trên và các kinh nghiệm sau, chúng tôi xin trình bầy 4 thế tam hợp mà người yêu tử vi nào cũng biết.
Thế Hợi Mão Mùi tức là thế Mộc
…(bị mất trang)
Tuổi Dần, Ngọ, Tuất (Thế Hỏa) Thế so le đuổi theo, là khi Mạng ở Tỵ Dậu Sửu (thế Kim), Hỏa khắc Kim Thế so le lấn lên, là khi Mạng ở Hợi Mão Mùi (thế Mộc), Mộc sinh Hỏa.
Ở các thế này cũng đoán về đại vận như trên, nghĩa là: những đại vận nào trong thế tam hợp của cung tuổi, tức là những đại vận có Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ là những đại vận tốt, khá nhất trong cuộc đời.
Một kỳ sau, chúng tôi sẽ xin trình bầy những lá số dẫn chứng mà chúng tôi nhân đó, chiêm nghiệm được cách giải đoán căn bản của cụ Thiên Lương là đúng.
Lối ra vào có thể ảnh hưởng đến gnười ngụ cư. Ngõ vào phải thoáng, dễ đi lại và lối ra phải sáng sủa. Dẹp bỏ những thứ cản trở gần lối ra vào như cây cối, cột, vách tường… làm cản trở khí vận, cản trở dịp may kiếm tài lộc và sức khoẻ. Tuy nhiên cây cối ở khoảng cách an toàn với ngỏ vào lại thuận tiện trong việc bảo vệ nhà cửa.
Những lối đi cũng có ảnh hưởng tương tự. Nếu lối đi gần bên nhà cừa rất hẹp nhỏ thì khí người ngụ cưsẽ bị tù túng và mất quân bình.
Cách chữa: hoặc mở rộng lối đi hoặc tránh trồng cây lớn, cây rậm và bụi cây gần nó. Treo khánh trước cửa.
Sau đây là một số ví dụ:
1-2. Theo thông lệ, lối đi vào tốt tạo cảm giác thoáng, thênh thang. Lối đi tới cao ốc phải rộng.
3. Lối đi hẹp sẽ giới hạn nghề nghiệp và cả triểnvọng tài chính. Nếu nhà nằm trên triền dốc thì ngõ vào nhìn xuống đồi tốt hơn là cửa ra vào nhìn lên đồi.
4-5. Nếu có bậc cấp thì nó phải lên xuống dần chứ không quá dốc. Cửa ra vào phải mở ra trên thềm rộng. Bậc cấp hẹp và dốc không giữ được tiền bạc. Bậc thang từ trên đu xuống nhà thì xấu, làm người ngụ cư phải tanh đấu vất vả trong nghề nghiệp. Để giải quyết trường hợp xấu, người ta đặt đèn pha chiếu từ sau nhà chiếu lên mái.
6. Bụi cây trồng làm vinh không khí trong nhà, cây côi tươi tốt và lối đi cần thông thoáng, nếu cây mọc râm quá thì phải cắt xén.
7. Cổng ngỏ (mặt tiền) tạo cho nhà một vẻ thoáng và nối vào nhà, để ý đến cột chống mái. Cột chống không quá lớn và gần sát cửa ra vào. Cột tròn tốt hơn vuông, vì vuuông có thể là nguyên do gây bại sản. Để giải quyết cho cột vuông, trồng nho leo cột. Đối với cột to lớn sừng sững ta treo gương ngang tầm mắt hay hàng chữ “xuất nhập an bình” trên cột đó.
8. Lối đi dẫn đến cửa ra vào có tể cong vòng nhu cánh cung và có cây trồng gần đó đều được cả.
Xã hội ngày càng phức tạp, vấn đề miếng cơm manh áo của mỗi người càng thêm nhiều trở ngại. Làm sao để có cuộc sống dư giả là điều không dễ dàng, điều đó đòi hỏi bạn phải có trí tuệ nhanh nhạy, ý trí kiên cường và sự kiên trì tới cùng.
Người tuổi Tý là một trong những “đại diện” hội tụ đủ tố chất ấy. Khi làm bất cứ việc gì, con giáp này đều tâm niệm, bản thân phải làm tròn nghĩa vụ hoặc chí ít cũng không phải hổ thẹn với chính mình. Họ thà bình thường chứ quyết không làm những việc tầm thường, ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức của mình.
Tuổi Dậu
Đã là người tuổi Dậu ai nấy đều thông minh, nhanh nhẹn và khả năng thích ứng với điều kiện sống cực tốt. Họ có thể sống tốt trong điều kiện thiếu thốn vật chất, thậm chí là có chút hiểm nguy rình rập. Người tuổi Dậu cho rằng, chuyện thành bại ở mỗi người do chính họ quyết định và không bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh.
Trong công việc, con giáp này kiên định, quyết đoán và khả năng chịu áp lực tốt nên được đồng nghiệp và cấp trên dành tình cảm ưu ái. Không bao giờ có chuyện người tuổi Dậu đang làm việc gì đó lại bỏ dở giữa chừng vì lý do chán nản. Họ quyết không làm những thứ quá tầm thường khiến mọi người phải chỉ trỏ bàn tán về mình.
Tuổi Hợi
Là người chăm chỉ và “hậu phương” vững chắc cho gia đình, người tuổi Hợi luôn biết cách làm thế nào để hài hòa cuộc sống và các mối quan hệ. Con giáp sở hữu tính cách chân thành, hay giúp đỡ người khác và không kém phần thông minh lanh lợi này không bao giờ khiến ai đó phải hoài nghi về năng lực cũng như lòng bao dung của mình.
Họ nói được làm được và không bao giờ từ bỏ mục tiêu đã đề ra, dù mục tiêu ấy dành cho bản thân hay cho người nào khác. Cuối cùng mọi sự nỗ lực của người tuổi Hợi đều được mọi người, xã hội ghi nhận một cách xứng đáng.
Cự Môn là đầu đảng của các sao ám, tượng sự bất mãn thị phi nên rất cần Thái Dương soi sáng, do đó Cự Nhật đồng cung là một cách tốt đẹp. Nhưng cần chú ý ở Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn ở Thân. Cung Mệnh cư ở Thân có Cự Nhật là hạng người đầu voi đuôi chuột, thích đảm đương trọng trách nhưng hay bỏ việc giữa đường.
Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ. Ngược lại nếu cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với hai hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan; dù đắc cách Cự Nhật cũng thế. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Theo phong thủy, trưng bày bình lớn có thể mang lại may mắn cho gia chủ. Bình có trang trí biểu tượng hay họa tiết may mắn có thể đặt ở nhiều vị trí trong nhà, trừ nhà bếp. Bình có cắm cành thông hoặc cành tre và đặt ở giữa nhà được coi là biểu tượng của cuộc sống hôn nhân hòa hợp và lâu bền. Cắm vào bình 3 thứ vũ khí giáo, thương, rìu chiến biểu tượng cho sự thành công trong sự nghiệp.
Khi mua bình, bạn hãy chọn những kiểu bình hiện đại bằng pha lê hoặc sành sứ để tăng cường năng lượng Thổ ở góc Tây Nam hoặc ở giữa nhà.
Bạn có thể trưng bày bình hoặc dùng bình để cắm hoa. Không nhất thiết phải cắm hoa thật, bạn có thể dùng hoa làm bằng lụa. Có thể kết hợp cắm những loài hoa đặc trưng theo mùa như hoa cúc, hoa lan, hoa mận...(Theo Phong thủy trong tình yêu) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Trúc Loan (##)
Đôi khi do thời tiết, cửa gỗ nở ra nên không khớp với nhau làm trầy kẹt sàn nhà làm người ở trong nhà rất khó chịu, không yên ổn. Cửa bị kẹt có thể làm cho cuộc sống của bạn không được suôn sẻ.
Hãy thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của cửa chính
Cửa bị thủng, có vết nứt là những dấu hiệu cho thấy có gì không ổn với khí xung quanh lối vào nhà. Vì vậy bạn không những phải sửa cửa mà còn tiếp thêm sinh khí cho khu vực ở cửa trước bằng cách dùng đèn sáng, dùng nhang để xua đi những rung động xấu. Giữ cho khu vực này sáng sủa ít nhất một tuần, sau đó sơn sửa mới.
Năng lượng xấu ở ngoài cửa gây ra bởi bản lề kêu kẽo kẹt- phải bôi dầu mỡ ngay. Điều này phải làm ít nhất sáu tháng một lần để đảm bảo tất cả cửa và cửa sổ đều đóng mở dễ dàng, êm ái không gây ra bất cứ một tiếng kêu nào để tránh những điều không vui ập đến. Cửa trưóc phải được son màu tươi sáng.
Bên cạnh việc ngăn chặn các năng lượng xấu cho cửa trước, bạn cũng hãy tăng cường năng lượng bảo vệ cho khu vực này.
Hình ảnh những con vật trên của chính và cột cổng là những biểu tượng bảo vệ. Chúng ta thưồng lấy hình tưọng sư tử và chim làm bằng đồng hoặc đá đặt trước của vối ngụ ý bảo vệ tài sản cho gia đình.
Khi cửa trước mạnh, nó sở hữu một năng lượng bảo vệ mãnh liệt. Vì thế người dân ở vùng đất thiêng Bali đặc biệt quan tâm đến cánh cổng của các tòa nhà. Theo họ, các vật tổ (totem) ảnh hưởng rất lớn đến cửa chính, nó biếu thị năng lượng bảo vệ mạnh mẽ.
Người Trung Quốc thường tăng cường sinh khí cho khu vực cửa chính của các đền thờ và cung điện bằng các vị thần bảo vệ, còn ở nhà họ thường sử dụng một cặp kỳ lân. Bạn sẽ thấy rằng có rất nhiều nền văn hóa trên thế giới tin tưởng vào sức mạnh của các biểu tượng đặt ở cửa trước. Những biểu tượng này thường được đặt tại cổng ra vào nhà. Những biểu tượng sẽ trở nên dũng mãnh hơn khi bạn có ý thức tăng cường năng lượng cho cửa chính.
(Theo 162 cách sắp xếp nhà cửa hợp phong thủy) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Thư (##)
An thụ: Loại cây này cao như người không lồ, có thể bằng độ cao của hơn 20 tầng lầu, người trung niên thường không dám trồng loại cây này, được biết nếu cây lớn thi người đó sẽ chết; muốn trồng loại cây này phải mời những người già, dù sao thì đợi kh
An thụ: Loại cây này cao như người không lồ, có thể bằng độ cao của hơn 20 tầng lầu, người trung niên thường không dám trồng loại cây này, được biết nếu cây lớn thi người đó sẽ chết; muốn trồng loại cây này phải mời những người già, dù sao thì đợi khi cây lớn, người trồng cây đó thọ cũng chẳng còn bao lâu.
Phong thủy thụ: ơ phương Nam của Trung Quốc, gần một làng nhỏ có lưu giữ một cánh rừng cây xanh rậm um tùm, rất nhiều loại cây to sinh trưởng như Trương, Tùng, Bách, Nam… Nếu là người đi thăm quan thì không nên sờ vào chúng. Bởi lẽ dây chính là những cây phong thủy, cũng còn gọi là thủy khẩu thụ, dừng chỉ nhìn thấy cánh rừng nhỏ rậm rạp đó mà coi thường, vì nó có thể liên quan đến huyết mạch phong thủy của toàn thôn nhỏ đó, những người ở vùng đó đều không dám động vào một ngọn cỏ, một cành cây trong đó, vì họ sợ phá vỡ phong thủy vốn có của thôn mình.
Tùng: “Tùng” từ cổ đến nay là loài cây được ca tụng không ngớt. Trong Hoa kính có viết: ‘Tùng vi bách thụ chi trưởng…. đã tiết vĩnh niên, bì thỏ như long lân, diệp tế như mã hư, ngộ tương tuyết nhi bất điều, lịch thiên niên nhi bất thoái” (Tùng lớn giữa các cây khác… nhiều mắt, sống lâu, vò cây thể như rồng, lá nho như lông ngựa. Gặp sương tuyết không tiêu điều, sống ngàn năm mà không cỗi).
Vương An Thạch đời nhà Tống của Trung Quốc trong “Tự thuyết”có nói: ‘Tùng vi bách mộc chi trương, ưu công đã. Cố tự tùng công”. Có người bẻ chữ “tùng” thành “thập-bát-công”, Phùng Từ Trấn đời nhà Nguyên có viết “Thập bát công phú. Hồng lộ đời nhà Minh – Trung Quốc cũng có viết “phong cách của tùng thụ … Trong lịch sử có ghi chép Tần Thủy Hoàng khi đi du tuần ở Tần Sơn, gặp phải mưa to gió lớn, đứng dưới một cây tùng lớn đề trú mưa, sau này phong cây Tùng này thành “ngũ đại phu”, người đời sau gọi cây đó là ‘Tùng ngũ đại phu”.
Trong “Câu chuyện hoan học Quỳnh Lâm” có viết: ‘Trúc được gọi là quân tử. Tùng gọi là đại phu chữ đó cũng từ đó mà ra. Tùng chịu lạnh chịu khô cạn, có thể bám rễ song trên đá khô cằn gặp nhau cũng có thể sông được, đông hạ đều xanh tươi, xương lạnh không úa, có thể hiên ngang đứng trong gió tuyết lạnh. Tùng có thể trường thọ không già, dân gian chúc thọ thường có câu: “Phúc như Đông Hải trường lưu thủy, thọ tỷ Nam Sơn bất lẵo Tùng”. Trong thư hoạ thường có ‘Tuế hàn tam hữu” (tùng, trúc, mai), biểu thị cát tường. Trong thư hoạ, đồ dùng, đồ trang trí thường có “tùng bách đồng xuân”, “tùng cúc diên niên”, “tiên hồ tập khánh” (tùng chi, thủy tiên, hoa mai, linh chi…tập trung thành một bó trong bình). Tùng là loại cây trồng được coi là cát tường.
Xá lợi: Sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh
Bất chấp nhiều giả thuyết, xá lợi vẫn là ẩn số đối với khoa học và đã thể hiện phần nào những sự màu nhiệm của người tu luyện và sự thần kì của Phật Pháp.
Sự kì bí của phật giáo vẫn luôn là câu hỏi mà các nhà khoa học hiện đại chưa thể khám phá ra, một trong những bí ẩn đó là sự tồn tại của hạt xá lợi.
Xá lợi là những phần kết tinh còn lại sau khi làm lễ hỏa thiêu nhục cốt của Đức Phật và các vị cao tăng. Xá lợi hay xá lị là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy, mà khoa học hiện đại chưa giải thích thuyết phục được nguyên lí hình thành của các hạt này. Đây là các bảo vật của thế giới Phật giáo.
Trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã mang xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lợi, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.
Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:
Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp Sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt xá lợi.
Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn – Ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lợi.
Lại có một số trường hợp, xá lợi chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.
Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lợi to nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lợi lớn, màu nâu thẫm.
Những câu chuyện ly kì ở Việt Nam
“Trái tim bất diệt” của Bồ tát Quảng Đức
Trong thời kỳ tranh đấu bảo vệ Phật Giáo tại Việt Nam vào năm 1963, Hòa Thượng Thích Quảng Đức phát nguyện hy sinh nhục thân, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo, thức tỉnh nhà cầm quyền. Những ai được chứng kiến cảnh tượng bi tráng độc nhất vô nhị này, đều biết khi Bồ Tát Thích Quang Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng (nay là ngã tư đường Nguyễn Đình Chiểu) toàn thân ngài không tỏ vẻ đau đớn gì mà ngài vẫn điềm nhiên trong tư thế ngồi Thiền, sau khi thân xác ngài đã cháy rụi hết, duy chỉ còn quả tim là không cháy, người ta lấy quả tim đó đem vô lò thiêu lại, dưới sức nóng ..4000oC, cái lò thiêu muốn nứt nẻ ra, vậy mà trái tim của Bồ Tát Thích Quảng Đức vẫn còn.
Giới báo chí trong nước và nước ngoài có mặt lúc đó thi nhau chụp hình. Sự kiện này làm chấn động đất Sài Gòn một thời nói riêng và toàn Thế Giới nói chung, điều này làm cho mọi người càng thêm tin tưởng vào sự nhiệm màu của Phật Pháp không phải là hư danh
Xá lợi toàn thân hai Thiền sư
Ngôi chùa Đậu nổi tiếng linh thiêng bởi hai pho tượng táng của Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường cùng tu tại chùa này thế kỷ XVII, sau khi tịch, xác thân vẫn còn nguyên vẹn.
Đó là những kỳ tích bí ẩn của tài năng, trí tuệ khoa học, huyền diệu của các Thiền sư
Điều bí ẩn, và khác biệt của hai pho tượng nhục thân thờ ở chùa Đậu so với các Phraon và nhiều nước trên thế giới là phương pháp tu luyện kỳ bí của Thiền sư để có được một di thể bền vững, khi chết không bị phân hủy, mà không cần đến bất cứ loại thuốc tẩm ướp xác nào.
Những giả thuyết giải thích sự hình thành của xá lợi
Hình thành từ thói quen ăn uống đồ chay: Các nhà sư do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lợi. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục vì có nhiều người cũng người ăn chay trên thế giới nhưng hỏa táng lại không có.
Hình thành do bệnh lý: Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lợi là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật… Tuy vậy giả thiết này cũng không thuyết phục vì sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên không hề phát hiện xá lợi. Mặt khác, những cao tăng có xá lợi sinh thời thường rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao.
Theo quan điểm duy tâm và tâm linh của Nhà Phật thì cho rằng xá lợi là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.
Tướng nữ giới được quý nhân phù trợ: Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn yên tâm trong cuộc sống vì bên cạnh mình luôn có nhiều
Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn yên tâm trong cuộc sống vì bên cạnh mình luôn có nhiều quý nhân giúp đỡ.
Vai trò của quý nhân vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Bởi thế mà người xưa đã có câu: "Việc tốt không bằng vận khí tốt, vận khí tốt không bằng quý nhân tốt". Quý nhân không ở đâu xa chính là bạn bè, người thân quen, thậm chí là một người lạ bạn gặp trên đường. Nhưng dù là ai, họ sẵn sàng giúp đỡ bạn một cách nhiệt tình, không điều kiện. Được sự tương trợ của họ, công việc, sự nghiệp và cả tình duyên của bạn sẽ càng thêm thuận lợi.
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
Những cuộc “trò chuyện cha con” dưới đây không chỉ khiến cho người ta bội phục tự đáy lòng, mà cũng sẽ khiến cho các bậc làm cha làm mẹ phải suy nghĩ lại về phương thức giáo dục của bản thân mình, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với con cái.
Câu chuyện thứ nhất
Khi con trai được hai tuổi. Một ngày nào đó, đầu đụng phải góc bàn, đầu sưng một cục, khóc òa lên. Hơn một phút sau, tôi đi đến chiếc bàn, lớn tiếng hỏi:
“Cái bàn à, là ai đã đụng mày đau thế? Khóc lóc thương tâm thế kia?”
Con trai ngừng khóc, nước mắt lưng tròng nhìn tôi. Tôi sờ sờ cái bàn, hỏi con trai rằng:
“Là ai vậy? Là ai đã đụng đau chiếc bàn?”
“Con, ba ơi, là con đụng!”
“Ồ, là con đụng à, vậy còn không mau nghiêng mình với chiếc bàn, nói tiếng xin lỗi đi!”.
Con trai nuốt nước mắt, cúi mình, nói: “Xin lỗi”.
Từ đó, con trai đã học được tính có trách nhiệm và đảm đương!
Câu chuyện thứ hai
Con trai ba tuổi. Vô cớ khóc lớn, tôi hỏi:
“Sao vậy, chỗ nào không khỏe hả con?”
“Không có”.
“Vậy sao lại khóc!”
“Con chỉ muốn khóc thôi!”. (Rõ ràng làm nũng).
“Được thôi, con muốn khóc thì ba không có ý kiến, nhưng con khóc ở đây không thích hợp lắm, sẽ làm phiền mọi người nói chuyện, ba tìm một chỗ cho con, con một mình khóc cho đã, khóc đủ rồi mới gọi mọi người”.
Nói xong đem nhốt con ở phòng rửa tay: “Khóc xong rồi hãy gõ cửa”.
2 phút sau, con trai đạp cửa: “Ba ơi, ba ơi, con đã khóc đủ rồi!”
“Tốt, khóc xong rồi à? Khóc xong rồi thì đi ra đi”.
Kể từ hôm đó, con trai mãi cho đến 18 tuổi, không còn học thói thao túng và trút giận lên người khác!
Câu chuyện thứ ba
Con trai 5 tuổi. Chập tối, dẫn con đi bộ đi ngang qua cây cầu nhỏ, dưới cầu nước trong thấy được cả đáy, nước chảy cuồn cuộn. Con trai ngẩng đầu nhìn tôi:
“Ba ơi, con sông đẹp quá, con muốn nhảy xuống bơi”. Tôi có phần sửng sốt.
“Được thôi, ba sẽ cùng con nhảy xuống. Nhưng chúng ta hãy về nhà trước đã, thay quần áo một chút”.
Về nhà, con trai thay quần áo xong, nhìn thấy một chậu nước ở trước mặt, ngơ ngác không hiểu.
“Con trai, xuống nước bơi cần phải vùi đầu vào trong nước, điều này con không hiểu sao?”. Con trai gật đầu.
“Vậy thì bây giờ chúng ta hãy tập luyện trước một chút, xem thử con có thể vùi được bao lâu”. Tôi nhìn đồng hồ.
“Bắt đầu!”. Con trai vùi mặt vào trong nước, hào khí ngất trời? Chỉ được 10 giây:
“Úi chà, ba ơi, sặc nước rồi, khó chịu thật”.
“Vậy sao? Chờ một chút nhảy xuống sông, có thể sẽ càng khó chịu hơn nhiều đấy”.
“Ba ơi, chúng ta có thể không đi nhảy xuống nước nữa được không?”.
“Được thôi, không đi thì không đi nữa”.
Từ đó, con trai đã học được tính cẩn thận và không lỗ mãng, suy nghĩ cho kỹ rồi mới làm.
Câu chuyện thứ tư
Con trai 6 tuổi, ham ăn. Một buổi tối nọ, tan học đi ngang qua McDonald’s, dừng bước:
“Ba ơi, McDonald’s kìa!”. (Thèm chảy cả nước miếng).
“Ừm, McDonald’s! Muốn ăn không?”.
“Muốn ăn!”
“Con trai, một người muốn ăn liền ăn ngay, gọi là ‘cẩu hùng’ ( gấu chó), thèm ăn mà lại có thể không ăn, thì gọi là anh hùng”.
Rồi hỏi tiếp: “Con trai, con muốn làm anh hùng hay cẩu hùng đây?”.
“Ba, con đương nhiên muốn làm anh hùng!”.
“Tốt! Vậy anh hùng, khi muốn ăn McDonald sẽ thế nào đây?”.
“Có thể không ăn!”. (Rất kiên định!)
“Quá xuất sắc, anh hùng! Về nhà thôi”
Con trai chảy nước miếng, theo tôi về nhà.
Từ đó về sau, con đã học được những gì nên làm và những gì không nên lắm, chống lại được cám dỗ.
Câu chuyện thứ năm
Con trai 8 tuổi, nghịch ngợm, đánh nhau với bạn học lớn. Vết bầm tím khắp người, về đến nhà, khóc lớn không thôi.
“Ấm ức không?”.
“Ấm ức!”. Con trai vừa khóc vừa trả lời.
“Tức giận không?”.
“Tức giận!”. Con trai khóc to lên.
“Con dự tính sẽ làm thế nào?”. Hỏi tiếp: “Con cần ba làm gì cho con nào?”.
“Ba, con muốn tìm một viên gạch, ngay mai sẽ đập cậu ta từ phía sau!”.
“Ừm, ba thấy được! Ba ngày mai sẽ chuẩn bị cục gạch cho con”. Hỏi tiếp: “Còn gì nữa không?”.
“Ba, ba tìm một con dao cho con, con ngày mai sẽ đâm hắn ta từ phía sau!”.
“Được! Cái này càng hả giận hơn, ba bây giờ đi chuẩn bị một chút”. Tôi đi lên lầu.
Nghĩ rằng được ủng hộ, con trai dần dần bình tĩnh lại. Khoảng 20 phút sau, tôi từ trên lầu dọn xuống một đống lớn quần áo và chăn mền?
“Con trai, con đã quyết định chưa? Là dùng gạch, hay là dùng dao đây?”.
“Nhưng mà, ba ơi, ba dọn nhiều quần áo và chăn mền như vậy để làm gì vậy?”. Con trai nghi hoặc.
“Con trai, là như vậy: nếu như con dùng gạch đập hắn ta, như vậy cảnh sát sẽ bắt chúng ta đi, ở trong tù đại khái chỉ cần ở một tháng, chúng ta chỉ mang một số áo ngắn chăn mong là được rồi; nếu như con dùng dao đâm hắn ta, thế thì chúng ta ở trong tù ít nhất 3 năm không trở về được, chúng ta cần phải mang nhiều thêm một số quần áo chăn bông, bốn mùa đều phải mang đủ?”.
“Vì vậy, con trai con đã quyết định chưa? Ba đồng ý ủng hộ con!”.
“Phải như vậy sao?”. Con trai sững sờ.
“Chính là như vậy, pháp luật chính là quy định như vậy mà!”.
“Ba, vậy thì chúng ta không làm nữa nha?”.
“Con trai, con không phải là rất căm phẫn sao?”.
“Hây, hây, ba ơi, con đã không tức giận nữa rồi, thật ra con cũng có sao đâu”.
“Tốt, ba ủng hộ con!”.
Từ đó, con trai đã học được lựa chọn và trả giá.
Câu chuyện thứ sáu
Con trai 9 tuổi, năm lớp 4, môn toán không đạt, sầu não không vui.
“Sao thế? Thi không đạt, còn làm mặt nặng nhẹ với ba mẹ sao”
“Bởi vì cô giáo dạy toán rất đáng ghét, học lớp của bà ấy không thích nghe”.
“Ồ, đáng ghét như thế nào?”, tôi cảm thấy rất hứng thú.
“??, ??” , con trai nói rất nhiều, “nói tóm lại cô ấy cũng không thích con”
“Ồ, người khác thích con, thì con thích họ, người khác không thích con, thì con lại ghét họ. Điều này nói rõ rằng con là người chủ động hay là người bị động đây?”.
“Là người bị động ạ!”, con trai trả lời.
“Là người mạnh, hay là người yếu, là đại nhân, hay là tiểu nhân?”, tôi tiếp tục hỏi.
“Là kẻ yếu, là tiểu nhân!”, con trai sợ hãi.
“Vậy còn muốn làm đại nhân hay là tiểu nhân?”.
“Làm đại nhân! Ba ơi, con đã hiểu rồi: vô luận là cô giáo có thích con hay không, con đều có thể thích cô ấy, kính trọng, chủ động hưởng ứng cô ấy, làm một kẻ mạnh”.
Hôm sau, vui vẻ đến trường, từ đó môn toán đạt được kết quả ưu tú. Và đã biết được thế nào là đại nhân, thế nào là tiểu nhân.
Con trai, sau này khi con lớn lên, có lẽ, con sẽ nhớ đến hôm nay, nhớ đến bà nội, nhớ đến mẹ, nhớ đến ba đã dụng tâm vất vả thế nào.
Câu chuyện thứ bảy
Con trai 10 tuổi, chơi trò chơi. Mẹ nhắc nhở nhiều lần, con không chịu sửa.
“Con trai, nghe nói con mỗi ngày đều chơi cái này?”, tôi chỉ vào máy tính.
“Vâng”, con trai gật đầu thừa nhận.
“Mỗi lần sau khi chơi xong, con cảm thấy thế nào?”.
“Mờ mịt, trống trải, không còn hơi sức, tự trách, xem thường bản thân mình?”.
“Vậy tại sao lại còn chơi vậy? Không kiềm chế nổi bản thân, phải không?”.
“Đúng vậy, ba ơi”, con trai rất bất lực.
“Được rồi! Ba sẽ giúp con!”. Tôi ôm máy tính đến, đưa cho con một cái chùy nhỏ, “con trai, hãy đập nó!”.
“Ba ơi!”, con trai ngẩn người ra.
“Đập nó đi, ba có thể không có máy tính, nhưng không thể không có con được!”. Con trai rơi nước mắt, đích thân đập vào máy tính!
Từ đó, con trai hiểu được cái gì gọi là nguyên tắc.
Xưa kia Mạnh mẫu chọn hàng xóm để dạy dỗ con, một lần con trốn học bỏ về nhà chơi, vì để cảnh tỉnh con đã tự mình chặt đứt khung cửi.
Câu chuyện thứ tám
Con trai 11 tuổi, tôi cùng với vợ phải đi xa một thời gian dài, mỗi ngày đều gọi điện cho mẹ già, hỏi thăm. Một ngày kia, con trai nhận điện thoại:
“Ba ơi, chào ba!”, con trai rất lấy làm vui mừng.
“Ừm, chào con! Bà nội đâu rồi? Gọi bà nội nghe điện đi”.
“Ba ơi, sao mỗi ngày ba chỉ gọi điện thoại cho bà nội thôi vậy?”.
“Điều này có gì lạ đâu? Bởi vì đó là mẹ của ba mà!”.
“Vậy còn con? Con cũng rất nhớ ba mẹ!”.
“Vậy con hãy gọi điện cho mẹ con đi!”.
“Vâng!”.
Từ đó, cứ 6 giờ mỗi ngày, vợ tôi đều có thể nhận được lời hỏi thăm của con, bất kể mưa gió, đến nay đã 8 năm rồi!.
Đôi khi, sự thấu hiểu và cảm thông từ cha mẹ dành cho con cái là quan trọng.
Câu chuyện thứ 9
Con trai 12 tuổi, năm lớp 6, bài tập nặng nề, tính tình nóng nảy, con trai tan học về vừa bước vào cửa.“Tiểu tử thối, hôm qua có phải con đã làm vỡ cái đĩa của ta?”, em gái của tôi bắt đầu vặn hỏi.
“Không có, cô ơi, con không có!”, con trai nét mặt nghi hoặc.
“Ta đã tận mắt nhìn thấy con làm vỡ, còn chối nữa à!”, bà nội của nhóc lại làm chứng kiên quyết khẳng định.
“Con không có mà! Mọi người đổ oan cho con?”, con trai khóc òa lên, nằm vật xuống đất.
Khoảng 5 phút, tôi đi ra khỏi phòng nghiêm giọng rằng:
“Sao thế? Sao lại nổi điên ở đây!”.
“Ba ơi, cô và bà nội đổ oan cho con!”.
“Đổ oan? Đổ oan cho con thì sao! Đổ oan thì con lại nằm vật xuống đất sao? Thật là thứ không ra gì mà! Con có phải trang nam tử hán hay không?”.
Con trai ngừng khóc, đứng dậy, cúi gầm mặt xuống:
“Ba ơi, mọi người đổ oan cho con”.
“Nam tử hán đại trượng phu, dẫu cho trời có đổ sụp xuống, cũng không thể ngã xuống được! Huống hồ là một cái đĩa nhỏ bé? Thật không ra gì cả!”.
Tôi tiếp tục: “Một đời này của người ta, phải trải qua biết bao sóng gió, bị oan ức, khinh thường, phản bội, bán đứng? Con liền chịu ngã xuống sao? Đó là đồ hèn nhát!”.
Con trai ưỡn ngực, ngẩng đầu lên:
“Ba ơi, con đã hiểu rồi, bây giờ con nên làm thế nào?”
“Bây giờ? Hãy tự hỏi chính bản thân con đi, con có nhiều thời gian lắm đó?”.
“Không có, con có rất nhiều bài tập cần phải làm”.
“Vậy còn không mau đi làm bài tập đi! Hãy nhớ kỹ, dẫu cho núi lở đất sụp đi nữa, cũng đừng quản nó, hãy làm xong việc của mình trước đã!”.
Con trai nhấc cặp lên, cúi chào bà nội và cô, rồi ung dung đi vào trong phòng.
Ba người chúng tôi bật cười.
“Sủng nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc; khứ lưu vô ý, vọng thiên không vân quyển vân thư (Không quan tâm thiệt hơn, nhìn hoa nở hoa tàn trước sân; đi ở chẳng buồn, nhìn bàu trời mây cuộn mây tan)”. Con trai à, sau khi con trưởng thành, nhìn thấy câu đối này, có lẽ, con sẽ nhớ đến hôm nay, nhớ đến dụng tâm vất vả của bà nội, cô cô, và của ba.
Câu chuyện thứ mười
Con trai mười ba tuổi, kỳ học thứ nhất, thành tích bình thường. Một ngày kia, nó bỗng hỏi:
“Ba ơi, đi học có ích gì không vậy? Thành tích thi cử có tác dụng gì không?”.
“Tại sao lại hỏi như vậy?”, tôi ngẩn ra.
“Mấy ngày trước có rất nhiều các chú các dì đến nhà, ba luôn nói với họ rằng giáo dục bây giờ là giáo dục tồi tệ nhất trong suốt 5000 năm qua mà”, con trai nhanh nhảu đáp.
Ài, thì ra con trai đã ở bên cạnh lắng nghe được chuyện đàm luận trên trời dưới đất của tôi với chúng bạn.
“Không sai, học hành, thi cử thật ra không có tác dụng gì cả”
“Thế thì tại sao con vẫn cần phải đi học những thứ vô dụng này đây?”.
“Đó là vì con còn nhỏ, trước hết phải làm một số thứ vô dụng trước đã, để thử bản sự của con. Nếu như con ngày cả những thứ vô dụng này đều làm không được tốt, như vậy sau khi lớn lên, những thứ hữu dụng chắc chắn cũng sẽ không làm được. Vì vậy, đi học tuy vô ích, nhưng con vẫn cần phải học nó cho tốt”
“Ồ, ba ơi, con có bản sự để học tốt nó!”.
Từ đó, con trai luôn đạt được những thành tích ưu tú.
Con trai à, thật ra đời người cũng là hư ảo không thật, nhưng cuộc sống này vẫn cần phải sống cho tốt, tinh thần trong đạo lấy giả làm thật cần chúng ta dùng cả một đời để thể hội.
Câu chuyện thứ mười một
Con trai 13 tuổi rưỡi, đi chơi ở nhà người thân trở về. Người mặc đồ hiệu, đầu tóc mới lạ, hả hê vô cùng:
“Mẹ ơi, con có bảnh không? Anh trai nhà bác hai mua quần áo, giày dép cho con, nhãn hiệu XX, rất đắt tiền đó; bà nội ơi, bà xem mẫu tóc của cháu này, anh ấy đẫn con đi hớt đó, phía trước rất là dài, ha ha, có mốt không này?”.
Nó giống như một con bướm, bay đi bay lại khắp nhà.
Tôi nhìn mà chẳng thèm để mắt đến?
Hai ngày sau, con trai đứng trước tấm gương, tự mình ngây ngất. Tôi lặng lẽ, đứng ở đằng sau:
“Có mệt không vậy, con trai?”.
“Ba ơi, dọa con giật cả mình!”.
“Ha ha, có mệt không, lúc nào cũng phải mệt tâm; luôn lo lắng, thật là không đáng; luôn phải suy đoán, người khác thấy thế nào. Sao phải khổ vậy, người sống ở đó, bị quần áo đầu tóc làm cho mệt mỏi, thật là ngốc lắm thay?”.
“Ba, ba cười nhạo con rồi”, con trai mặt đỏ ửng.
“Ba trả lại cho con sự nhẹ nhàng tự tại, con thấy sao?”.
“Dạ”, con trai đi thay quần áo, đầu tóc để bình thường trở lại. “Ba ơi, thật là nhẹ nhàng, thật là thoải mái!”.
Từ đó, con trai biết được thế nào là đẹp, thế nào là xấu.
Khoa Phong thủy là một môn khoa học được ra đời từ rất lâu rồi. Nó được xây dựng nên từ sự nghiên cứu, tìm hiểu, trắc nghiệm trong thực tế điều kiện tự nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội. Những tri thức của nó để lại qua những công trình nghiên cứu có tầm vóc và giá trị lớn, đến hiện nay con người ta vẫn tìm hiểu nghiên cứu khám phá để nâng lên những đỉnh cao mới.
Thế nhưng có những viên ngọc quý, lẫn ở trong cát, mà chúng ta phải dầy công tìm kiếm mới thấy được, đó là thông qua văn hóa dân gian, tục ngữ ca dao.
Bàn về chuyện thiết kế, xây dựng chuồng gia súc thiết tưởng là điều không mấy quan trọng, thế nhưng với một quốc gia nông nghiệp như nước ta thì việc làm này rất quan trọng. Khi Ấn Độ tiến hành “Cách mạng xanh”, “Cách mạng trắng” trong nông nghiệp thì giá trị sản phẩm họ đạt được cứu cả dân tộc họ thoát khỏi tình trạng thiếu hụt về lương thực thực phẩm. Ngày nay, chúng ta chưa đủ sức mạnh để tiến hành cách mạng trong nông nghiệp, nhưng thâm canh, chuyên môn hóa, đa dạng hóa sản phẩm và thúc đẩy chăn nuôi, thì từ khâu thiết kế chuồng trại trở nên hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo Phong thủy học, đặc biệt nhấn mạnh ở Phong thủy phái Bát trạch, thì chuồng gia súc, nhà vệ sinh nhà kho, thường được xây dựng ở những phương vị hung sát trong Phong thủy, đó là các phương vị Ngũ quỷ, Lục sát, Họa hại, Tuyệt mệnh của căn nhà căn cứ vào quái mệnh của chủ nhà. Việc làm này có tác dụng như một công đoạn phủ định của phủ định, dùng những uế khí, trọc khí phát ra từ những công trình kia hóa giải những luồng sát khí bất lợi, bảo vệ sự bình yên, tạo nên sự an toàn, ổn định, hanh thông phát triển thuận lợi, thịnh vượng cho chủ nhân và các thành viên khác trong căn nhà đó.
Điều này trong chính tài liệu của Phong thủy Huyền không phi tinh cũng đã khẳng định. Tại những phương vị cát lợi, vượng khí, sinh khí (tức là vị trí của các phi tinh đắc lệnh), nên mở cồng đón thần tài, nên khơi động để tăng cường vượng khí và để làm những công trình có tính chất quan trọng khác, còn tại các phương vị hung sát thì nên làm nhà kho, những công trình không mấy quan trọng, hạn chế khơi động các phương vị này…
Kho tàng văn học dân gian nước ta trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của 4000 năm dựng nước, giữ nước, lao động sản xuất, nghiên cứu và cải tạo thiên nhiên, phấn đấu không biết mệt mỏi, với tinh thần quật cường mưu trí, cần cù chịu khó, siêng năng tiết kiệm, “sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa” đã tạo ra những viên ngọc quý giá vô cùng, để đến ngàn vạn năm sau chúng ta càng ngắm càng thấy đẹp, càng vận dụng càng thấy có ý nghĩa và mang lại hiệu quả cao, và nó tạo ra một sức hút trào lưu trong nghiên cứu, như một thứ hương thơm đam mê và quyến rũ.
“Chuồng gà hướng Đông, cái lông chẳng còn”.
Chính câu tục ngữ này tạo ra một tình huống có vấn đề, tại sao lại không được xây chuồng gà có cửa hướng về phía Đông. Theo ngũ hành phương vị thì phía Đông thuộc Mộc, tượng của những loại cây cối hoa màu xanh tốt, ngũ cốc ngập tràn đầy ắp, vậy thì là tượng cát lợi cơ mà. Thêm một vấn đề nữa, hướng Đông là phương vị mặt trời mọc, ánh sáng mặt trời về nguyên lý khoa học là các tác nhân lý hóa vô cùng quan trọng có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn, vi rút nhất là các vi rút chủng cúm A H5N1. Vào thời điểm dịch cúm gia cầm bùng phát lây lan, các chuyên gia y tế, dịch tệ, vệ sinh còn khuyến cáo con người nên mở cửa số mỗi khi có ánh nắng mặt trời, đó là cách tiêu diệt vi rút và tự bảo vệ bản thân rất hiệu quả. Như vậy hướng này là một phương vị cát lợi để xây dựng chuồng gia súc theo phong thủy.
Vậy thì tại sao cha ông ta lại khuyên bảo mọi người tránh hướng này??? Câu tục ngữ ngắn gọn không một lời chú thích y như một bức điện tín, mật mã. Suy luận một chút thì ta thấy Dậu (gà) thuộc Kim, chính Đông thuộc Mão hành Mộc vừa xung về địa chi, lại khắc về ngũ hành. Tuy nhiên suy luận này ngay lập tức bị gạt bỏ, vì hệ thống phương vị đó chỉ mang tính chất biểu tượng, tượng trưng mà thôi, cuộc sống muôn hình muôn vẻ, biến đổi hàng giờ, không phải đứng yên một chỗ…
Vận dụng kiến thức về Địa lý tự nhiên ta sẽ thấy được. Nước ta ở vào khoảng vĩ độ 23 độ Bắc – 8 độ Bắc, đây là khu vực hoạt động mạnh của gió Mậu dịch hay còn gọi là gió Tín phong, gió này có hướng Đông Bắc từ vĩ độ 30 độ Bắc về xích đạo, bán cầu Nam thì từ 30 độ Nam về hướng xích đạo theo hướng Đông Nam. Như vậy hướng Đông là hướng đón gió rất mạnh. Chưa kể, bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa, nước ta nằm trong khu vực giao tranh mạnh mẽ giữ các khối khí lục địa và đại dương.Vào thời điểm mùa hạ khối không khí đại dương hoạt động mạnh mẽ thổi tràn vào theo hướng Đông Nam, mang theo hơi ẩm và gây mưa nhiều.
Các loại gió chính tác động đến cuộc sống
Đến giai đoạn mùa đông, khối không khí lạnh từ lục địa xuất phát từ cao áp Xibia thổi mạnh thay chân khối không khí đại dương đã bị suy yếu dần. Đặc tính của khối không khí lục địa là khô và lạnh, chính là gió mùa Đông bắc vào các tháng mùa Đông ở nước ta, chưa kể khối không khí này với đặc tính khô khi kéo tràn qua các vùng biển Hoa Bắc, Nhật Bản, khu vực Biển Đông mang theo một lượng hơi ẩm, vì vậy nên mới có cảnh mưa dầm gió bấc, lạnh lẽo đến thấu xương, và dĩ nhiên khối không khí lạnh này nhằm hướng Đông Bắc – Tây Nam. Vậy thì hướng Đông chính là một hướng đón gió. Dân gian ta có câu: “ Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa ” vì sao vậy ?vì bán gà vào ngày gió gà sẽ xuống mã, không còn đẹp nữa thì ai mua? Tệ hơn nếu như gà mà có bị bệnh và chết thì đương nhiên tổn thất về kinh tế. Chúng ta cứ thử đặt tay vào một chú gà chúng ta sẽ nhận thấy thân nhiệt của chúng cao hơn mức bình thường khá nhiều, nếu gặp không khí lạnh, gà sẽ bị bệnh và chết. Bởi vậy xây chuồng gà theo hướng Đông chính là một hành động lợi bất cập hại. Chuyện tốt đẹp ở đâu thì chưa thấy, nhưng nguy cơ gà bị bệnh và chết được giải thích theo nguyên lý khoa học là quá rõ ràng.
Lược đồ khí hậu Việt Nam, hướng gió có ảnh hưởng tới cuộc sống và sản xuất
Trên cơ sở vận dụng kiện thức địa lý của trẻ con lớp 6, xâu chuỗi các vấn đề tôi khẳng định một điều rằng, câu tục ngữ đó là hoàn toàn chính xác. Và như vậy tự cổ chí kim không ai làm chuồng gà, chuồng gia cầm, gia súc theo hướng Đông là vì nguyên nhân hướng gió. Một việc làm đầy tính khoa học và đúng đắn.
Ngày nay, để phát triển sản xuất theo tầm cỡ quy mô công nghiệp lớn, người ta tập trung xây dựng hệ thống chuồng trại khép kín, chắn gió, có máy sưởi, nhưng với một quốc gia còn nhiều khó khăn, kinh tế hộ gia đình vẫn còn phát triển, thì việc chăn nuôi tự cải thiện, hay kinh doanh nhỏ lẻ còn tồn tại rất nhiều. Bởi vì lẽ đó, việc xây dựng chuồng gà ở phương vị hung trong căn nhà và tránh hướng Đông là một việc làm khoa học và sáng suốt, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống và hướng tới no ấm phồn vinh.
Mơ thấy cây ô liu: Tượng trưng cho an ninh và thành công trong học tập, công việc –
Giấc mơ với hình ảnh cây ô liu tượng trưng cho thành tích trong học tập và hòa bình. Nếu học sinh mơ thấy nhánh cây ô liu, dự báo học sinh đó đang nỗ lực học tập và sẽ có thành tích cao. Nếu mơ thấy tặng nhánh cây ô liu cho người khác, dự báo bạn sẽ
Chi tiết câu hỏi: Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp! Trả lời: Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa
Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp!
Trả lời:
Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa. Trên cửa nhà trên dùng chuông gió chấn lại để tán khí và dùng thêm một gương cửu long bát cát tường mà chiêu tài cho nhà bạn! Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Thư (##)
Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ cũng như tín ngưỡng của người dân Hải Phòng. Ngôi chùa được dựng lên từ tấm lòng thiện tâm của con người bởi lẽ cho đến nay chùa có tên “Đồng Thiện”. Chùa Đồng Thiện tọa lạc trên địa bàn phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi Ni sư Thích Diệu Tâm.
Chùa Đồng Thiện có tên chữ là Hải Ninh tự nằm ở phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, Hải Phòng. Theo văn bia ở chùa thì chùa Đông Thiện được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ này, do Hội đồng thiện đứng chủ hưng công. Công việc thiện tâm này của Hội đồng thiện được sự hưởng ứng của đông đảo tín đồ, thiện nam, tín nữ trong nước. Hội đồng thiện tỉnh Bắc Ninh đã quyên cúng cho việc làm tình nghĩa này cả một ngôi chùa khang trang đẹp đẽ.
Tên chùa Hải Ninh ra đời chính là để ghi nhớ về sự kiện thiện tâm đó của Hội đồng thiện Hải Phòng và Hội đồng thiện Bắc Ninh. Ngay từ buổi ấy chùa cũng được gọi là chùa Đồng Thiện với ý nghĩa là ngôi chùa được dựng nên từ tấm lòng thiện tâm của con người.
Kiến trúc với dáng bề thế, khang trang gồm nhiều tòa ngang dãy dọc, mặt quay hướng Đông Bắc. Chùa có hai lớp tam quan dọc theo đường “Thần đạo”, nối tam quan thứ nhất với tam quan thứ hai là một nhà thiêu hương và một hồ nước tròn, chu vi gần 400m. Kèm hai bên chùa là khu nghĩa trang rộng lớn, các mộ chí ở đây là cả một thế giới thu nhỏ của các loại hình kiến trúc cổ kim, đông tây, muôn sắc màu, san sát bên nhau yên bình và ấm cúng.
Bảo tháp trong Chùa Đồng Thiện
Nhà thiêu hương với kiến trúc một gian vuông vức, hai tầng tám mái chung quanh để thoáng không xây tường che, bốn bức dựng bốn cột tròn, kê trên chân tảng hình đôn đá, mái lợp ngói vẩy rồng rêu phong cổ kính, đao cong hình lá lật thâm thấp, thâm u. Thiêu hương là nơi quàn linh cữu của người xấu số, nơi các vị tăng ni chạy đàn cầu siêu thoát cho các sinh linh. Cả khối nhà là một thể thống nhất tượng trưng cho thái cực. Hai tầng tám mái là biểu tượng của lưỡng nghi (âm và dương). Ngôi nhà vuông tượng trưng cho tứ tượng, tám mái là biểu tượng của “bát quái”. Người xưa quan niệm rằng: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật hữu hình.
Trong chùa còn có hai cây bảo tháp, mỗi cây cao 1,4 mét, hình lục giác, cạnh đáy 0,2 mét gồm 5 tầng, ngăn cách giữa các tầng là một mái đao cong. Trên đỉnh tháp có hình nậm rượu và một con rồng quấn quanh. Hai cây bảo tháp có 60 bức họa mà tác giả là ông Vương Ái Việt, hội viên Hội đồng thiện Hải Phòng, năm 1926 ông đã cúng hai cây bảo tháp này cho nhà chùa.
Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa có giá trị thẩm mỹ cao, bình dị, không ồn ào, đã góp phần làm sáng tỏ thêm cái tính chất “Nhập thế gia trụ trì Phật pháp” của đạo Phật Việt Nam đậm tính nhân văn, đầy lòng nhân ái.
Câu chuyện về người phụ nữ chế tạo lá số tử vi để chọn giờ đẹp sinh mổ
Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.
Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.
Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.
Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.
Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.
Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.
Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:
- Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn. - Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân. - Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng. - Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.
Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ 8g30 – 9g30 ngày 16 tháng 5 âm lịch (Giáp Dần). Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.
Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…
Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.
Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.
Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.
Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.
Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%...3 lá số sai 50%... 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.”
Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”.
Hôn nhân là việc hệ trọng, mà con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Lúc đó cần dựa vào "Tông", họ hàng, tìm tình cảm chân thành và tri thức đúng đắn.
Đối với các cụ thì câu hỏi này thừa, vì “Nòi nào giống ấy”, “Cây nào quả ấy”, “Giỏ nhà ai quai nhà ấy”, “Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh”, “Tìm nơi có đức gửi thân”, ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm, rể thảo dâu hiền.
Thời nay, một số bạn trẻ coi thường cho là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái mới chỉ gặp nhau trên một đoạn đường, đã vội đính ước, tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả “Ngọn nguồn lạch sông”!!! Đành rằng cũng có trường hợp “Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên duyên”, song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.
“Tìm tông, tìm họ” không có nghĩa là tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ.
“Cha mẹ hiền lành để đức cho con”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Con người sinh ra lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng nam nữ thanh niên mới lớn lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo.
Hôn nhân là việc hệ trọng, tác động cả đời, mà con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Qua tuần trăng mật không phải mọi việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ. Khi có những việc khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết cho thoả đáng. Lúc đó cần dựa vào “Tông”, vào họ hàng, tìm những tình cảm chân thành và tri thức đúng đắn.
“Môn đăng hộ đối”, tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên thân thuộc, có những mặt cân đối phù hợp với nhau, chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh người trọng.
Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm sinh được quý tử, … Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc s
Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm sinh được quý tử, …
Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm có con cái cho gia đình thêm đông đúc, nhưng vẫn còn những mẹo phong thủy khác để sớm có tử tức được lưu truyền trong dân gian như sau:
1. Liên sinh quý tử Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”. Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.
2. Miên miên qua điệt
“Qua” có nghĩa là quả dưa, “điệt” là dưa nhỏ. Hình ảnh giàn dưa leo trái to, trái nhỏ và trái nhỏ thì nhiều hàm ý là “con cháu đầy đàn”. Cho nên khắc hình tượng “con cháu đầy đàn” trên cẩm thạch, người đeo sẽ nhanh chóng sinh con, vẽ trên tranh thì treo trong phòng ngủ.
“Điệt” là hài âm cho “điệp” (bướm). Từ đó, hợp lại thành “qua điệp”. Hình ảnh phú quý đồng tử tay cầm bướm, chân đạp dưa là hàm ý con cháu đầy đàn, phú quý cát tường.
3. Bầu bí đầy đàn
Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng 1 gia đình sum họp, con đàn cháu đống.
Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.
4. Thạch lựu
Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp. 5. Cát khánh hữu dư
Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).
6. Phú quý đồng tử
Là tranh 2 đứa trẻ khả ái tay cầm kim câu thiêm tài tiến bảo, sau lưng là cây phú quý đầy tiền vàng.