Tính cách, sự nghiệp và tình duyên của bạn qua số hoa tay

Câu hỏi: Bạn có mấy hoa tay?
![]() |
0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Maruko (theo Piaoliang)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Câu hỏi: Bạn có mấy hoa tay?
![]() |
0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Maruko (theo Piaoliang)
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: thôn Thổ Hoàng, thị trấn An Thi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Đối tượng suy tôn: Thành hoàng thôn là Bùi Đạo vương Phúc thần đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh bại quân Lương.
Nội dung: Vào ngày này người dân địa phương mở lễ hội với phần lễ vật dùng hương hoa, cỗ chay bánh dầy và phần hội là ca hát và các trò vui, các trò chơi dân gian nhằm tỏ lòng biết ơn đối với Thành hoàng Thôn là Bùi Đạo Vương Phúc Thần đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh bại quân Lương. Lễ hội diễn ra rất long trọng không chỉ thu hút du khách địa phương mà còn thu hút được khá nhiều du khách ở nơi khác đến tham dự.
Giường ngủ là nơi để nghỉ ngơi, do đó cần đặt ở vị trí hợp với phương vị của người sử dụng. Có như vậy, tinh thần mới thoải mái và tạo được giấc ngủ ngon.
Cần chọn vị trí đầu giường hợp với tuổi.
Theo những nguyên tắc về phong thủy áp dụng trong thuật kiến trúc và nghệ thuật sắp xếp nội thất, “mệnh Đông tứ” nên ngủ ở “giường Đông tứ”, còn “mệnh Tây tứ” thì nên ngủ ở “giường Tây tứ”. Những người thuộc ngũ hành Thuỷ, Mộc, Hoả đều thuộc “mệnh Đông tứ” do đó, giường ngủ đặt ở hướng Bắc, Đông, Nam và Đông Nam sẽ tốt. Những người thuộc mệnh Kim, Thổ trong ngũ hành thuộc “mệnh Tây tứ” giường ngủ nên đặt ở hướng Đông Bắc, Tây Bắc , Tây Nam và Tây. Việc sắp xếp phòng ngủ thiên biến vạn hoá, nhưng việc đặt giường ngủ thì không thể vượt ra ngoài những phương thức mà phong thuỷ học:
– Giường ngủ nên đặt ở hướng cát của bản mệnh: “Giường mệnh tương xứng” rất quan trọng, điều đó có nghĩa là “mệnh Đông tứ” nên ngủ “giường Đông tứ” ngược lại “mệnh Tây tứ” nên ngủ ở “giường Tây tứ” như thế sẽ ngủ ngon và tinh thần sảng khoái.
– Đầu giường nên gối về hướng của bản mệnh: Chức năng của ngủ, nghỉ là để cho não được nghỉ ngơi. Vì thế gối đầu ở hướng cát sẽ thu hút được liên tục khí cát trong giấc ngủ giúp ngủ ngon và khi tỉnh dậy tinh thần thoải mái. Nên chú ý, nếu giường ngủ đặt ở vị trí là hướng cát của bản mệnh nhưng đầu giường không đặt theo hướng cát của bản mệnh thì vận khí sẽ giảm sút rất nhiều.
– Phòng ngủ sáng sủa không nên tối tăm: Môi trường phòng ngủ lý tưởng nhất là ban ngày thông thoáng, ánh sáng tràn ngập tránh tù túng tạo âm khí, còn ánh đèn ban đêm thì dịu mắt khiến tâm hồn thư thái, yên tĩnh. Phòng ngủ tối tăm sẽ làm cho ý chí tiêu trầm, trong trường hợp này nên kê giường ngủ tới gần cửa sổ để có nhiều ánh sáng hơn.
Ngoài ra, giường ngủ nên đặt ở “sao phục vị” của bản mệnh vì “sao phục vị” có nghĩa là tĩnh tại bất động.
“Sao phục vị” của “mệnh Đông tứ”:
Mệnh “Chấn – mộc”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Đông.
Mệnh “Tốn – mộc”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Đông Nam.
Mệnh “Ly – hoả”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Nam.
Mệnh “Khảm – thuỷ”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Bắc.
“Sao phục vị” của “mệnh Tây tứ”.
Mệnh “Khôn – thổ”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Tây Nam.
Mệnh “Cấn – thổ”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Đông Bắc.
Mệnh “Càn – kim”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Tây Bắc.
Mệnh “Đoài – kim”, giường ngủ nên đặt ở sao phục vị hướng Tây.
– Phong thủy nhà ở kị nhà có quá nhiều gương, bài trí chậu cây cảnh có gai, treo ảnh nghiêng lệch, ảnh buồn... Xem những lỗi phong thủy nhà ở các gia đình hay mắc phải.
Lỗi phong thủy khiến nỗi cô đơn đeo bám gia chủ![]() |
![]() |
Chùa Vua nằm tại số 33 phố Thịnh Yên, phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chùa Vua là tên gọi chung của quần thể kiến trúc bao gồm Thượng điện Hưng Khánh, Điện Đế Thích, Đền thờ Trần Hưng Đạo tọa lạc ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chùa còn có tên gọi khác là chùa Hưng Khánh. Mặt chùa hướng Đông Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Đi qua cổng tam quan với gác chuông rất đẹp là khoảng sân rộng lát bằng đá xanh, đây cũng chính là một bàn cờ tướng khổng lồ được kẻ bằng vôi. Ngày thường, những vị trí đặt quân trên bàn cờ được đặt các chậu cảnh. Trên thân chậu cũng ghi tên quân với tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã… Đi qua sân đánh cờ là đến thẳng một tòa kiến trúc cổ, trên cửa có 3 chữ “Thiên Đế Điện”, đây là điện thờ Đế Thích. Thẳng hàng về phía bên trái điện là Thượng điện chùa cũng có kiến trúc tương tự.
Chùa được khởi dựng vào thời Lý mang tên Hưng Khánh tự cùng với điện thờ Đế Thích trở thành một trong Tứ Quán của kinh thành Thăng Long. Theo sách nhà Phật và thần thoại Ấn Độ, Đế Thích chính là thần Indra của đạo Bà La Môn, được coi là vua của các vị thần. Tín ngưỡng Phật giáo đã đưa Indra Đế Thích vào điện thờ cùng với thần Brama (Phạm Thiên). Hai vị này được coi là hai vị vua thần bảo vệ Phật pháp cho nên trong các chùa Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc hiện nay thường có tượng Đế Thích và Phạm Thiên đặt hai bên tượng Đức Thích Ca Sơ sinh Cửu long phún thủy. Từ xa xưa, dân gian nước ta coi Đế Thích là vị thần có khả năng cải tử hoàn sinh và người đánh cờ giỏi nhất cả cõi người, cõi trời.
Đến thế kỷ 19, một võ tướng của Hoàng Hoa Thám là cụ Hoàng Đình Điều, sau khi chống Pháp không thành, đã tìm đến chùa Vua quy y xuất gia, rồi làm trụ trì chùa, sau này được Nhà nước ta tặng bằng khen có công với nước. Cũng chính ở chùa này, ông Nguyễn Phong Sắc, Xứ ủy Bắc Kỳ thường đi về ẩn náu trong những ngày trước cách mạng, cất giấu tài liệu dưới bệ tượng Đế Thích. Những ngày toàn quốc kháng chiến, chùa Vua là nơi chứa quân trang quân dụng và lương thực của quân đội ta, bởi vậy năm 1947 giặc Pháp đã đốt phá chùa. Ngày 10-4-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm chùa.
Ngày nay, chùa Vua còn lưu giữ được nhiều di vật quý giá bao gồm 14 pho tượng Phật và tượng Đế Thích cổ chế tác rất đẹp làm bằng gỗ hoàng đàn; hai đỉnh đồng thời Nguyễn, một quả chuông nhỏ thời Cảnh Thịnh, hai quả chuông to và hai chóe lớn cao chừng 1,6m đều được đúc từ thời Lê. Trong đó, pho tượng Đế Thích bằng gỗ cao 1,6m được tạo tác trong hình hài một ông vua ngự trên ngai vàng, đầu đội mũ miện, mặc áo cổn.
Với truyền thống tôn kính Đức Vua trời Đế thích, Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Điện Mẫu, hàng năm, vào mùng 6 đến mùng 9 tháng Giêng âm lịch, các kỳ thủ lại nô nức tìm về chùa Vua ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) tham gia lễ hội cờ danh tiếng để phân tài cao thấp do Trung tâm TDTT quận Hai Bà Trưng và nhà chùa tổ chức.
Những người đoạt giải nhất tại hội thi cờ chùa Vua thường là những tên tuổi lừng danh của làng cờ Việt Nam như cụ Hứa Tiến (từng là kiện tướng cờ châu Mỹ), rồi các danh thủ cờ Cường, Phác – những kiện tướng của làng cờ tướng Việt Nam. Nguyễn Vũ Quân – kỳ thủ từng 2 lần vô địch cờ tướng Việt Nam năm 2004-2005 và Huy chương đồng thế giới cũng đã 2 năm liền giành giải nhất tại Lễ hội Chùa Vua. Kỳ thủ từ các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia… cũng tìm sang thi đấu trong hội chùa Vua, càng cho thấy sự danh giá của giải vô địch cờ tướng chùa Vua.
Khách thập phương đến xem hội lúc nào cũng đông nghịt, đứng vòng trong vòng ngoài, vừa xem vừa bình phẩm về các “quân cờ”, vừa đánh giá nước đi của đấu thủ mà hồi hộp mong đợi kết quả của trận đấu. Không khí vừa ồn ào sôi nổi, vừa căng thẳng, trí tuệ. Giá trị giải thưởng tuy không nhiều về vật chất, song có ý nghĩa về tinh thần, bởi đây là giải đấu có uy tín cao. Với những danh thủ đạt giải ba năm liền, sẽ được khắc tên vào bia đá của chùa. Chùa Vua được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1992.
1. Màu trắng
Họ không cần lao động cực khổ cũng gặt nhiều thành công.
2. Màu hồng
Họ có vận mệnh tốt, công sức bỏ ra 1 thì thu hoạch 10.
![]() |
3. Màu đỏ sáng
Màu đỏ sáng được xem là tốt, màu tối hơn thì xấu. Họ chăm chỉ kiếm tiền, tính cách nóng vội, việc phiền phức đều tự mình giải quyết, được đự đoán là có tương lai sáng sủa.
4. Màu đỏ
Bàn tay chỉ xuất hiện một chút điểm đỏ là người có tính cách nóng vội, đồng thời cũng là dấu hiệu của bệnh tim mạch.
5. Màu đỏ tụ lại
Họ có vận mệnh không tốt lắm, phù hợp với kinh doanh.
6. Màu vàng
Số phải lao động khá vất vả, nên tránh bài bạc.
Chocopie (theo WB)
– Chữ Đạo (thể hiện dạng chữ viết tiếng Hán: 道), có nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải ai cũng lĩnh hội hết. Dưới góc nhìn Phật giáo, Đạo là rất cao siêu, khó mà giải rõ nghĩa được vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.
![]() |
![]() |
Chuẩn bị :
Có nhiêù phương pháp gieo quẻ, nhưng dù theo phương pháp nào, ngừơi hỏi cũng cần chuẩn bị sẵn trước mặt :
- Hoặc 1 đống đồ vật có thể đếm được ( như hộp diêm quẹt, hay hộp tăm, hay đống sỏi, đống đậu phụng ..)
- Hoặc 3 đồng tiền (monnaie) như nhau. Qui ước : mặt ngưã là có hình ngừơi (âm), mặt sấp là mặt kia (dương).
Cách gieo quẻ : Nên theo các bước sau đây :
1/ Xin keo : tức là xin Thiên - Ðịa (Âm – Dương) : lấy 2 đồng tiền ấp trong 2 bàn tay độ 1 phút, tập trung tâm tư , nguyện xin cho biết có xin quẻ hôm nay được không. Rồi gieo 2 đồng tiền xuống.
Nếu được 1 ngữa và 1 sấp thì xem tiếp mục 2/3/4/5 dưới đây.
Nếu là 2 sấp hoặc 2 ngữa cả thì cho phép bạn xin vớt một lần nưã, nếu lần này được 1 sấp 1 ngưã thì xem tiếp mục 2/3/4/5 dưới đây.
Còn nếu vẫn không được (2 sấp hoặc 2 ngữa cả) thì hôm đó bạn nên bỏ ý định xin quẻ ;đừng cưỡng cầu; bảo đảm với bạn quẻ sẽ rất xấu.
2/ Khi xin keo đã được (hoặc bạn không muốn xin keo mà muốn xin quẻ ngay) thì bạn tập trung tâm tư khoảng 1 phút vào vấn đề muốn hỏi, muốn có câu trả lời, môĩ vấn đề một câu hỏi, tránh VÀ hay HOẶC; tự giới hạn (trong suy nghĩ) về không gian, thời gian, số tiền, cho ai, khi nào, ở đâu, bao nhiêu, việc gì , thời hạn, v.v…
3/ Hoặc bốc một nắm đồ vật, một cách tự nhiên, đếm bao nhiêu và ghi số; từ số ta sẽ định ra quẻ.
Người ta cũng có thể chỉ căn cứ vào năm tháng ngày giờ lúc gieo quẻ để định quẻ; hay phối hợp nhiều cách khác nhau.
4/ Hoặc kẹp 3 đồng tiền vào giữa 2 bàn tay trong thời gian tập trung tâm tư trên đây, rồi gieo 6 lần, ghi theo thứ tự từ 1 tới 6, môĩ lần bao nhiêu ngữa, bao nhiêu sấp. Mỗi lần gieo sẽ giúp ta định một vạch quẻ. Đây là cách định quẻ theo phương pháp 6 hào.
5/ Ghi năm, tháng, ngày, giờ gieo tiền hay bốc đồ vật trên đây, cùng với kết quả trong (3) hay (4).
Ngoại trừ cách bạn gieo quẻ trước mặt thầy đoán thì thầy có thể giải ngay ; các cách trên đây bạn có thể làm bất cứ lúc nào, đặc biệt lúc mà ý niệm muốn biết loé lên trong đầu bạn thì xin quẻ ngay sẽ rất linh nghiệm.
Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hà Lan tên là De Groot thì Quan Âm Nam Hải trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự.
Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng Diệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn.
Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Gương bát quái là một tấm biển trên đó vẽ hình bát quái (8 quẻ) gồm càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn với các nét vẽ dẽ nhận biết. Càn: 3 gạch liền. Khôn: 6 gạch ngắt quãng. Khảm: ở giữ liền. Ly: ở giữa hở. Chấn: Như chiếc ống lật ngửa. Cấn: Như bát úp. Đoài: khuyết ở trên. Tốn: đứt ở dưới.
Theo gương bát quái là để sửa lại các khiếm khuyết trong phong thủy, mang ý nghĩa làm biến đổi vật chất từ môi trường chưa được phù hợp đến môi trường phù hợp hơn để phong thủy đạt đến mức hoàn thiện nhất, đạt được các điều kiện tốt nhất cho con người. Đó là sự giao hòa giữa con người với cảnh vật, giúp cho bạn thực sự thoải mái, khỏe mạnh, “hợp” với nhà mình. Gương bát quái thực sự phát huy tác dụng với những trường hợp nhà thiết kế quá nhiều góc cạnh, nhà đối diện với cột điện, nhà cao tầng, máy biến áp, cửa sổ đối diện với nhà vệ sinh, nhà bếp… giúp thay đổi khí trường, loại trừ những ảnh hưởng xấu.
Ba loại gương bát quái thường gặp và công dụng:
(Theo Sức khỏe & ATTP)
Chùa Đông Khê là một công trình tôn giáo văn hoá có giá trị, đồng thời là một sơn môn nổi tiếng của Phật phái Trúc Lâm. Đây là ngôi chùa được xây dựng từ rất sớm. Theo truyền thuyết, Như Hiện thiền sư, sau khi đắc pháp trong phái Trúc Lâm đã đến trụ trì, khai hoá thành chốn tổ. Trước cổng chùa có hai dãy tháp – mộ các vị sư từng trụ trì ở chùa.
Chùa Đông Khê cùng đình Đông Khê, chùa Linh Quang tạo thành khu di tích văn hoá hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là vào ngày lễ chính tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 hàng năm. Chùa Đông Khê tọa lạc tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi đại sư: Ni Sư Thích Giác Tiến
Chùa Đông Khê tên chữ là Nguyệt Quang tự, một ngôi chùa cổ của Hải Phòng, một môn sơn nổi tiếng. Chùa được dựng từ lâu đời, năm Chính Hòa thứ 5 đã có đợt sửa chữa lớn, nhưng chỉ từ khi thiền sư Như Hiện thuộc dòng Lâm Tế, đời Pháp thứ 37 của Phật phái này về trụ trì thì chùa Đông Khê trở thành một chốn tổ lớn, có ảnh hưởng rộng, đào tạo nhiều tăng tài trong đó có đến 60 người xuất sắc. Thiền sư tinh thông đạo pháp, kiên trì giới hạnh được nhân dân, sĩ thứ vô cùng kính trọng.
Năm 1748, Thiền sư được vua Lê Hiển Tông ban chức tăng cương, năm 1757 lại được vua phong Tăng thống Thuẫn Giác hòa thượng. Ngài viên tịch ngày 6-5 Ất Dậu( 1765), bảo tháp lưu giữ xá lỵ ở chùa Đông Khê hiện còn. Chùa hiện mang phong cách kiến trúc Nguyễn gồm Đại hùng bảo điện, nhà tổ, vườn tháp, nhà tăng, nhà phương trượng… đã hoàn chỉnh. Tam quan, cổng chùa vốn khá đẹp nhưng năm 2000 lại được làm mới hoàn toàn với quy mô to đẹp hơn. Từ ngày đổi mới đến nay, nhà sư trụ trì đã tu bổ, tôn tạo nhiều tạo nên một danh lam.
Đồ thờ tượng tháp cổ đều còn giữ được khá đầy đủ, đặc biệt chùa còn giữ được một quả đại hồng chung, đúc năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9 – đời Sơn Tây. Ngoài các ngày lễ, cũng như các chùa thờ Phật khác, hàng năm chùa Đông Khê giỗ tổ vào ngày 4-2 âm lịch. Thực ra đây chính là ngày sinh của sư tổ Như Hiện, nhng người ta đã quen gọi như vậy.
Chùa Nguyệt Quang đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1997. Chùa Đông Khê và chùa An Đà mới được trùng tạo là một quần thể di tích rất có giá trị thu hút đông đảo khách hành hương, khách du lịch.
Màu đen thường gợi sự tối tăm, thiếu sinh khí và gây cảm giác ngột ngạt. Tuy nhiên trong phong thủy, màu đen tượng trưng cho nước (hành Thủy) và là màu ẩn chứa nguồn năng lượng được xem là có thể đem lại tài lộc cho người sử dụng. Muốn phát huy tối đa nguồn năng lượng này, tốt nhất nên sử dụng màu đen ở hướng Bắc, Đông và Đông Bắc.
![]() |
Mảng trần oval nền đen họa tiết trắng như nét chấm phá độc đáo |
Trong thiết kế nội thất, nếu biết kết hợp khéo léo, màu đen sẽ tôn thêm vẻ đẹp của các màu khác. Ngày nay, màu đen được sử dụng để tạo phong cách hiện đại cho không gian sống. Những bộ bàn ghế, tủ kệ hay những mảng tường màu đen sẽ tạo nên nét chấm phá sang trọng và trang nhã cho căn phòng. Nên sử dụng màu đen cho sảnh đón, phòng khách, phòng làm việc để thu hút những năng lượng chủ về tiền tài và danh vọng.
Hạn chế sử dụng màu đen trong trang trí phòng trẻ em và phòng ngủ. Không nên dùng nhiều màu đen trong việc trang trí những không gian nhỏ hẹp hoặc tường, trần cao… Nếu căn nhà đã được trang trí nhiều mảng màu đen, bạn có thể trổ thêm cửa sổ hoặc bố trí thêm nhiều đèn để tăng ánh sáng và sức sống cho căn phòng.
Hiệu ứng tương phản màu sắc sẽ tạo ra nhiều yếu tố bất ngờ khi kết hợp màu đen với những gam màu khác. Tuy nhiên, không nên kết hợp quá nhiều màu đen với màu đỏ hoặc màu vàng vì chúng là những màu xung khắc. Ngoài ra, tránh dùng màu đen ở hướng Nam (hành Hỏa) vì điều này sẽ gây bất lợi cho gia chủ.
(Theo Afamily)
![]() |
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
1. Bàn học không nên đặt đối diện với cửa sổ
Bàn học đối diện với cửa sổ sẽ khiến tinh thần không tập trung, dễ bị phân tâm bởi những hình ảnh bạn nhìn thấy bên ngoài.
2. Bàn học không nên kê sát với bếp hoặc tường nhà vệ sinh
Việc đặt bàn học ngay sát với bếp hoặc tường nhà vệ sinh vô tình làm cho vận khí giảm sút, dễ gặp phải các áp lực trong thi cử.
![]() |
3. Bàn học không nên để trước gương
Nhiều bạn nữ thích để gương trước bàn học mà không biết rằng nó sẽ làm cho khả năng ghi nhớ của bạn giảm sút, hiệu quả học tập cũng vì thế mà bị giảm theo.
4. Bàn học không nên đặt ở cửa ra vào
Bạn biết đấy, mọi sự chuyển động ở bên ngoài đều khiến bạn bị phân tâm, không tập trung nếu bạn đặt bàn học ở ngay cửa ra vào.
Gợi ý phong thủy cho bàn học:
1. Trên bàn học nên để một chậu hoa sáng màu hoặc cây trúc phát lộc. Nó là những loại thực vật dễ kiếm, dễ trồng và cũng dễ nuôi dưỡng. Bạn hãy bỏ nó vào bình nước, sự sinh sôi phát triển của nó sẽ mang tới vận khí tốt cho việc học hành, thi cử của chủ nhân.
2. Trải thảm đỏ dưới bạn học, sẽ giúp cho sự nghiệp học hành ngày càng may mắn, thăng tiến.
Anh Anh (theo Sina)
Tại sao nói chim phượng hoàng là biểu tượng của ngũ hành? Để có câu trả lời về vấn đề này chúng ta cùng đọc bài viết sau đây nhé!
Nội dung
Chim phượng hoàng thường được mô tả có đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá với năm màu và cao sáu thước. Nó tượng trưng cho sáu vật chất mà ngày nay có thể hiểu nôm na như sau: đầu là bầu trời, mắt là Mặt trời, lưng là Mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đuôi là các hành tinh. Lông của nó đại diện cho màu sắc của ngũ hành (đen, trắng, đỏ, xanh và vàng).
Hình ảnh về phượng hoàng đã xuất hiện tại Hồng Kông cách đây trên bảy nghìn năm, thông thường trong các miếng ngọc và trên các tôtem (vật tổ) may mắn. Nó là tôtem của các bộ lạc miền Đông thời cổ đại ở Hồng Kông. Trong thời kỳ nhà Hán, phượng hoàng được sử dụng như là biểu tượng của hướng Nam, được thể hiện dưới dạng con trống và con mái quay mặt vào nhau. Nó cũng được sử dụng để biểu thị cho hoàng hậu (hay các phi tần) ở trong cặp đôi với rồng là biểu thị của vua hay hoàng đế, đại diện cho quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu. Nếu hình ảnh phượng hoàng được sử dụng để trang trí nhà cửa thì nó biểu tượng cho lòng trung thành và sự trung thực của những người sống trong ngôi nhà đó.
Phượng hoàng còn là biểu tượng của đức hạnh và vẻ duyên dáng, thanh nhã, cũng biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Theo truyền thuyết, nó xuất hiện trong thời kỳ hòa bình và thịnh vượng.
Tại Trung Hoa thời cổ đại, có thể tìm thấy hình ảnh của phượng hoàng trong các trang trí của đám cưới hay của hoàng tộc cùng với con rồng. Điều này là do người Hồng Kông coi rồng và phượng (hoàng) là biểu tượng cho quan hệ hạnh phúc giữa chồng và vợ, một kiểu ẩn dụ khác của âm và dương.
Là một trong bốn tứ linh (long, lân, quy, phụng) và là vua của các loài chim, phượng hoàng còn biểu hiện cho khả năng hồi phục kiên cường sau thất bại, đổ nát lại vươn lên từ đống tro tàn. Trong Phong Thủy, thân hình của phượng hoàng gợi lên năm đức tính của con người: đầu tượng trưng cho đức hạnh, đôi cánh tượng trưng cho tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ, chiếc lưng tượng trưng cho cách đối nhân xử thế khéo léo, bộ ngực là lòng nhân đạo và lòng trắc ẩn và phần bụng biểu thị sự đáng tin cậy. Phượng hoàng chiếm giữ cả cung hướng Nam của bầu trời, và phù hợp với ánh lửa của phương Nam, có liên hệ với Mặt trời, với hơi ấm của mùa hè và niềm vui có được một vụ mùa bội thu.
Nếu muốn đặt hình ảnh của một con phượng hoàng trong nhà, hãy đặt chúng ở một chỗ cao, trên một chiếc kệ hoặc trên tủ đựng tách để nó tỏa sáng. Cũng có thể đặt hình phượng hoàng dọc theo bức tường phía Nam ngôi nhà hoặc treo trong góc phòng sinh hoạt gia đình. Nếu không tìm được tranh vẽ phượng hoàng, có thể treo một bức tranh của một con công hoặc một con gà trống để thay thế.
Khi phượng hoàng đi chung với một rồng, thì đó là biểu tượng của một cuộc sống vợ chồng hạnh phúc (phượng hoàng bên phải, rồng bên trái). Không nên trưng hai con phượng hoàng bên nhau, điều đó hàm ý về mối quan hệ đồng giới. Trong khi đó, một chú chim phượng hoàng bên bông hoa mẫu đơn lại tượng trưng cho những người trẻ tuổi đang yêu. Đôi lúc, hình tượng phượng hoàng cũng được thể hiện với một đứa trẻ ngồi trên lưng và ôm một bình hoa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
![]() |
![]() |
=> Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
![]() |
Long huyệt |
Sách “Địa lý nhân tử nên biết” viết: “Huyệt giống như huyệt trên cơ thể con người, nơi tinh túy nhất của trời đất”. Huyệt có loại cao, loại thấp, loại to, loại nhỏ, loại béo, loại gầy. “Ngũ long (ngũ sơn) làm huyệt chia thành 5 loại: hoành, trực, phi, tiềm, hồi, huyệt. Chúng biến hóa đa dạng từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyệt hướng Bắc - Nam, huyệt hướng Đông - Tây. Có loại hình đi nhanh, có loại bay chéo, có loại bối thủy, có loại cận giang. Huyệt có chính thể, biến thể”.
Căn cứ vào hình dáng, huyệt được phân loại thành: huyệt oa, huyệt kiềm, huyệt nhũ, huyệt đột. Theo phương thức nhận khí gồm: huyệt thụ, huyệt phân thụ, huyệt bàng thụ. Ngoài ra còn có chân huyệt, giả huyệt, phúc huyệt, quý huyệt, bần huyệt, tiện huyệt, quái huyệt…
Huyệt phải có thế lớn, hình chính, tụ khí, uy phong. Điều này còn có nghĩa là huyệt mộ cao mà không nguy, thấp mà không vùi, hiển mà không lộ, tĩnh mà không âm u, kỳ (lạ) mà không quái, xảo mà không liệt, chính mà không xung, dựa mà không nghịch, nằm ngang mà không nổi, bao bọc mà không lõm, chuyên nhất mà không lồi, tiết lậu.
Theo Bí ẩn thời vận
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất |
Nếu Sao tử vi tọa thủ cung Thìn, Tuất, Chủ có tài lộc dồi dào.
Cung Thìn, Tuất là thế địa Tử vi, sao Thiên tướng cùng tọa thủ, sao Phá quân thế vượng tại cung Phúc đức xung chiếu. Cung Mệnh là sao Liêm trinh nhập miếu, cung Quan lộc là thế vượng, sao Vũ khúc và sao Thiên phủ (cung Tý là nhập miếu, cung Ngọ là thế vượng), cung Điền trạch là sao Thiên đồng nhập miếu, cung Thiên di là sao Tham lang thế bình.
Thìn, Tuất là cung Thiên la Địa võng, khiến cho sao Tử vi, Thiên tướng có thế địa, sức mạnh không đủ, chủ vấp phải khó khăn và thường có chí mà khó thế hiện, kinh doanh vất vả, dễ rơi vào hữu danh vô thực.
Sao Tử vi quý khí đầy đủ, sao Thiên tướng nhân hòa mạnh, hai sao kết hợp cùng tọa thủ cung Tài bạch chủ giàu có, khéo léo linh hoạt, tài lộc phong hậu, có thể quản lý tiền tài và tích lũy, biết đạo lý kiếm tiền, thân thiện ôn hòa, phóng khoáng, thích khoe của, dục vọng tương đối nhiều, biết cách hưởng thụ, có hứng thú với ngành dịch vụ. Thích hợp đảm nhiệm công việc chủ quản cao cấp trong cơ quan chính phủ hoặc công ty lớn.
Cung Mệnh là sao Liêm trinh nhập miếu độc tọa là mệnh cách Hùng túc triều nguyên, có thể khiến cho tính cách của sao Liêm trinh có nhiều biến đổi, có duyên với công chúng và người khác giới, giỏi giao tiếp với công chúng, phóng khoáng giỏi biện luận, ham muốn nhiều, thích tranh đấu, không gặp thời, kiêu căng tự phụ... đều phát huy ra hết.
Làm việc chuyên tâm, sống hòa thuận với mọi người, có trách nhiệm, sau khi trải qua gian khổ phấn đấu thì thường đảm nhiệm chức vụ quan trọng, duy chỉ có cởi mở quá mức nên dễ kéo theo thị phi.
Sao Phá quân tọa cung Phúc đức, kiên cường, ý thức được thế mạnh cùa bản thân, cả đời bôn ba vất vả, biết chịu khổ nhẫn nại, xử lý tiền tài rất cẩn thận.
Sao Thiên đồng tọa cung Điền trạch, có thể giữ sản nghiệp tổ tiên, cũng có thể thu mua tài sản. Những năm trung niên và cuối đời bất động sản nhiều, môi trường sống thích rộng rãi thoải mái.
Sao Vũ khúc, Thiên phủ cùng tọa thủ cung Quan lộc, chủ độc lập tự tin, có tài hoa, có thể đối diện với thử thách, biết chịu trách nhiệm trong công việc, thích hợp với ngành tài chính kinh tế.
Sao Tham lang tọa cung Thiên di, dễ kích động, coi trọng thể diện, cuộc sống có nhiều biến đổi, tứ hải làm nhà, thích cuộc sống nơi đô thị, phạm đào hoa nặng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Ngũ nhạc là chỉ trán, cằm, mũi và hai bên gò má trái phải. Các nhà tướng thuật cho rằng. Ngũ nhạc có sự cân xứng, hài hòa với nhau là quý. Ngũ nhạc không ngay ngắn, cuối đời sẽ nghèo khổ.
Mũi phải cân xứng hài hòa, như thế mới là phú quý; ngược lại, nếu không có sự tương xứng sẽ là tướng phá hại.
Mũi nên cao lớn bằng thẳng, gò má trái nên bằng, cũng không có sự hướng bên phải nổi cao, như thế không hình thành nên được thế tương hỗ với mũi, như vậy người này sẽ chẳng có quyền thế, chỉ là một người dân bình thường, tuổi thọ không dài.
Người có mũi gầy bằng, do nó ở chính giữa mặt, cho nên 4 nhạc khác không thể dựa vào nó được, 4 bộ vị khác đều tốt cũng không có cách gì bổ sung khiếm khuyết. Người sinh ra mà có hình tướng như thế cả đời sẽ chẳng được phát đạt, tuổi thọ cũng chẳng dài lâu.
Người sinh ra có mũi nổi cao nhưng lại quá dài cũng là tướng không tốt, cũng chẳng được trường thọ.
Người có mũi tương đối nhọn lại gầy, như thế cuối đời chẳng được điều như ý, gia nghiệp có khả năng bị phá hoại.
Người có trán dài mà không có sự đối xứng với các bộ vị khác, lại có thế nghiêng lệch, người đó cả đời chẳng được phát đạt.
Người có cằm thấp lõm, lại có thế thu vào trong, người có tướng đó cả đời cũng không có nhiều thành tựu, cuộc sống vất vả tầm thường. Hai bên gò má mà không có sự cân xứng, không ngay ngắn, như thế là không được thế, lại có nhân phẩm không tốt, lòng hiểm độc, không có chút lòng nhân từ.
Ngũ nhạc ứng với 5 chòm sao trên trời, cai quản 5 phía Đông Nam Tây Bắc và ở giữa. 5 ngọn núi sừng sững giữa đất trời là kết quả của sự tương hỗ giữa chúng.
Trán là Hoành sơn, vuông vắn và rộng là tướng cát lợi. Hàm dưới là Hằng sơn, tròn và dày là tốt.
Xương gò má trái là Thái sơn, xương gò má phải là Hoa sơn, tròn và đoan chính là tốt.
Mũi là Tung sơn, cao và cân xứng là tốt.
Năm bộ phận này đầy đặn, hài hòa, nổi lên mà không bị lõm xuống mới là tướng tốt.
Phật dạy người sống trên đời có 20 cái khó. 20 điều khó của con người là những việc mà phải vượt qua những tâm lý thường tình, những chông gai trắc trở của cuộc sống mới có thể đạt được. Phật pháp vô biên, thiên địa bao la, thiện ác tùy tâm, tiến tới vô thường mới là đạo lý chân chính.
![]() |
![]() |