Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

LỰA CHỌN NĂM XÂY NHÀ

Chọn tuổi làm nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số những vấn đề được nhiều người quan tâm và có lượng truy cập tìm kiếm nhiều nhất hiện nay đó là chọn ngày tốt để động thổ. Những ngày tốt, thì còn phải hợp với tuổi của gia chủ tránh năm Kim lâu hay Tam tai,.... Trong phương pháp chọn tuổi làm nhà người ta thường lưu tâm tới các điểm sau

Năm Kim lâu

Kim lâu có hai phương pháp tính:

Thứ nhất: Tính Kim lâu bằng cách lấy số tuổi âm chia cho 9 ra các số dư 1, 3, 6, 8 là gặp Kim lâu. Tuy nhiên phương pháp tính Kim lâu này dùng để áp dụng cho các bạn nữ tổ chức việc cưới hỏi, hôn lễ

Thứ hai: Dùng phương pháp chín cung, theo hình đồ dưới đây. Phương pháp này được áp dụng cho việc xem tuổi làm nhà đối với con trai.

                        Chọn năm xây nhà theo tuổi gia chủ

Dưới 10 tuổi không tính Kim lâu bắt đầu từ 10 tuổi khởi từ cung Cấn, đếm thuận theo chiều Kim đồng hồ 11 tuổi đến cung Chấn, 12 tuổi đến cung Tốn, 13 tuổi đến cung Ly… Hai mươi tuổi thì khởi từ cung Chấn, 30 tuổi khởi từ cung Tốn, và số tuổi hàng đơn vị thì đếm liên tiếp thuận chiều kim đồng hồ, nếu phạm vào vị trí các cung Càn, Khôn, Tốn, Cấn thuộc phương vị tứ duy thì sẽ phạm Kim lâu, là những ô màu xanh trên hình đồ trên.

Kim lâu lại chia thành bốn dạng

Kim lâu Thân: Có hại và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bản thân

Kim lâu Phu thê: Ảnh hưởng xấu đến người hôn phối, tức là vợ của gia chủ

Kim lâu Tử: Ảnh hưởng bất lợi tới con cái.

Kim lâu Lục súc: Có hại tới vấn đề chăn nuôi. Thời kỳ ngày trước hoạt động kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, không tách rời việc chăn nuôi. Nếu phạm Kim lâu Lục súc gia súc, gia cầm trong nhà dễ bị bệnh tật, có thể bị cúm gia cầm, thiệt hại nặng cho kinh tế. Sau đó về sau nhà đó cũng khó nuôi gia súc, gia cầm.

Ví dụ cụ thể như sau: Một người nam sinh năm 1982, năm nay muốn xây nhà, thì ta sẽ tính được người đó tuổi âm là 35. 30 tuổi khởi từ cung Tốn, đếm tiếp đến 35 thì sẽ dừng lại ở vị trí cung Khảm, nên năm 35 tuổi người này không phạm Kim lâu, có thể tiến hành xây dựng được.

Năm Hoang ốc

Trước tiên ta định nghĩa Hoang ốc là gì? Ốc nghĩa là nhà cửa, hoang có nghĩa là vắng vẻ, xây nhà nhằm năm hoang ốc sẽ không lợi cho việc phát triển nhân đinh, con cháu hiếm hoi, thưa thớt. Dựa vào hình đồ dưới đây, cũng như tính Kim lâu, dùng tuổi âm lịch của đối tượng.

                                     Chọn năm xây nhà theo tuổi gia chủ

Khởi từ 10 tuổi, tính thuận theo chiều kim đồng hồ, 11 tuổi sẽ ở nhị cát, 12 tuổi sẽ ở tam địa sát, 13 tuổi sẽ ở chỗ Tứ tấn tài…

Tương tự như vậy 20 tuổi khởi từ Nhị nghi, 30 tuổi khởi từ Tam địa sát… đến ngoài 70 tuổi không còn lo Hoang ốc nữa.

Theo phương pháp phong thủy học thì nếu năm nào rơi vào các cung Nhất cát, Nhì nghi, Tứ tấn tài thì sẽ đại cát, người chủ nhà hoàn toàn yên tâm xây cất nhà cửa. Nếu gặp các cung Tam địa sát, Ngũ thọ tử, Lục hoang ốc là xấu, không nên xây dựng, nếu xây dựng ắt phải mượn tuổi của người khác động thổ. Người được mượn tuổi thường là những người năm đó không phạm các yếu tố bất lợi trên (Kim lâu, Hoang ốc), bên cạnh đó, người được mượn tuổi bình sinh là người có đạo đức, phẩm chất tốt, tính tình sởi lởi, hào phóng

NămTam tai

Năm Tam tai được tính như sau

Tuổi Thân – Tý – Thìn gặp các năm Dần – Mão – Thìn

Tuổi Hợi – Mão – Mùi gặp các năm Tỵ - Ngọ - Mùi

Tuổi Tỵ  - Dậu – Sửu gặp các năm Hợi – Tý – Sửu

Tuổi Dần – Ngọ - Tuất gặp các năm Thân – Dậu – Tuất

Như vậy, các tuổi thống kê mà gặp các năm trên là phạm phải Tam tai. Tuy nhiên trong thực tế, khi xây dựng người ta cẩn thận nhất là hai vấn đề Hoang ốc và Kim lâu, đối với hạn Tam tai nhiều người cũng kiêng kị, tuy nhiên sức ảnh hưởng của nó không quá lớn. Nếu như hai yếu tố trên mà tránh được vẫn có thể tiến hành xây dựng bình thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: LỰA CHỌN NĂM XÂY NHÀ

Cách sửa nhà vệ sinh có vị trí không tốt –

Trong phong thủy nhà ở, để tránh trường hợp phòng vệ sinh đem lại điều đen đủi, cách tốt nhất là xây nó ở các hướng Đông, hướng Tây Bắc hoặc hướng Đông Nam (nhìn từ trung tâm căn phòng). Đồng thời, phải tránh xây ở các hướng xung khắc với năm tuổi c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

27.09.23.09.111297909251-vi-tri-cho-khu-ve-sinh-nha-ong

ủa người chủ nhà, chẳng hạn, người sinh năm Mão phải tránh hướng Đông. Có thể thấy, việc xác định vị trí phòng tắm không phải là việc đơn giản chút nào.

Ngày nay, các gia đình thường xây phòng vệ sinh ở mé phía Bắc của ngôi nhà. Nếu phòng vệ sinh đã nằm ở hướng Bắc hoặc hướng Đông Bắc thì nhất thiết phải di dời nó sang hướng khác. Khi đề cập đến vấn đề này, rất nhiều người đều than phiền rằng: “không có đất trông” và “đó quả thực là một điều rất khó thực hiện.” Trên thực tế, phần diện tích cần thiết cho phòng vệ sinh là không đáng kể. Chỉ cần bạn thực sự muốn, hãy thử bắt tay vào làm, chắc chắn bạn sẽ thấy đó không phải là một việc làm quá khó khăn. Với các phòng vệ sinh nằm ở hưóng Bắc hoặc hưóng Đông Bắc thì chỉ cần di chuyển thiết bị vệ  sinh sang vị trí cách trung tâm của hai hướng này khoảng 15 độ là được, chứ không nhất thiết phải xây lại phòng vệ sinh.

Nếu phòng vệ sinh giáp vói phòng bếp hoặc nhà kho thì đó là một dấu hiệu khá tốt, chỉ cần điều chỉnh lại một chút hai phòng đó sao cho hợp lí là được. Do đặc điểm kiến trúc khác nhau, có những ngôi nhà kết cấu khá đơn giản, với những ngôi nhà như vậy thì không dễ gì có thể di dời phòng vệ sinh sang một vị trí khác. Trong trường hợp đó, bạn hãy thay đổi vị trí các thiết bị vệ sinh như cách mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Trong quá trình tiến hành thay đổi vị trí các thiết bị này, nên thường xuyên mở cửa sổ. Hàng ngày, bạn hãy đặt lên đó một đĩa muối ăn và một chậu cây cảnh nhỏ. Muốỉ và năng lượng của cây xanh sẽ có tác dụng hóa giải hung khí.

Ngoài hướng Bắc và hưóng Đông Bắc, hướng Tây Nam cũng là một hướng xấu, không hợp để  xây phòng vệ sinh. Nếu phải di dời, chỉ có thể di dời từ hướng Tây sang hướng Tây Bắc. Trong khi đó, hướng Nam là hướng của ánh sáng. Nếu xây phòng vệ  sinh ở hướng này, có thể sẽ  ảnh hưởng tới vận mệnh của cả gia đình.

Tuyệt đối không được di dời phòng vệ  sinh tới gần vị trí của ban thờ, nếu không điềm dữ sẽ càng lớn. Trên thực tế, nạn nhân trực tiếp nhất của điềm dữ ấy lại chính là chủ nhà và những ngưòi lớn tuổi trong gia đình. Vì thế, ngoài hưóng Bắc và hướng Đông Bắc, chỉ cần lấy mười hai chi của hai vợ chồng chủ nhà để kiểm tra vị trí phòng vệ sinh, sau đó sửa lại là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sửa nhà vệ sinh có vị trí không tốt –

Tìm hiểu về đá Obsidian (Đá thủy tinh núi lửa) –

Đeo trang sức từ Obsidian sẽ tăng ý chí và niềm tin vào cuộc sống, tăng cường sức mạnh thể chất và khơi dậy cảm giác kiên định, lòng tin vào bản thân. Bài viết sau đây Tìm hiểu về đá Obsidian. Nguồn gốc hình thành và cấu tạo của đá Obsidian - Đá thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đeo trang sức từ Obsidian sẽ tăng ý chí và niềm tin vào cuộc sống, tăng cường sức mạnh thể chất và khơi dậy cảm giác kiên định, lòng tin vào bản thân. Bài viết sau đây Tìm hiểu về đá Obsidian.

Nội dung

  • 1 Nguồn gốc hình thành và cấu tạo của đá Obsidian
  • 2 Màu sắc Đá thủy tinh núi lửa
  • 3 Ý nghĩa Đá thủy tinh núi lửa
    • 3.1 Ý nghĩa chữa bệnh
    • 3.2 Ý nghĩa phong thủy
    • 3.3 Công dụng khác

Nguồn gốc hình thành và cấu tạo của đá Obsidian

Đá thủy tinh núi lửa còn có tên gọi khác là đá vỏ chai (Obsidian), một lại thủy tinh rhyolite có hàm lượng silic điôxit cao (chúng chiếm khoảng 65% đến 80%); được hifnht hành từ dung nham đã phun trào của núi lửa.

– Đá thủy tinh núi lửa là một dạng khoáng vật vô định hình, chúng được hình thành do sự nguội lạnh quá nhanh của nham thạch. Đá thủy tinh núi lửa có dạng cấu trúc tinh thể trung gian giữa cấu trúc của tinh thể rắn và cấu trúc hỗn độn của khí. Loại đá này có thể được tìm thấy ở bất cứ nơi đâu có hoạt động núi lửa. Chúng ta có thể tìm thấy chúng ở vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc Việt Nam; hay ở các nước Nam Mỹ, Mexico, Afghanistan, Nhật Bản,…

– Đá núi lửa giá trị nhất và có năng lượng nhất chính là loại đá núi lửa bị đóng băng tại các vùng băng tuyết. Khi năng lượng chưa kịp lan tỏa gặp băng lạnh đã đông kết lại.

– Loại đá này thường chứa ít nước (thấp hơn 1%) tính theo trong lượng. Dưới áp suất cao ở độ sâu, chúng có thể chứa lên đến 10% nước.

– Đá thủy tinh núi lửa có độ cứng 5.5 với thành phần chính là SIO2.

Màu sắc Đá thủy tinh núi lửa

– Đá thủy tinh núi lửa thường có màu tối. Điển hình là màu đen. Tuy nhiên màu có thể thay đổi tùy thuộc vào lượng tạp chất của Sắt và Magie. Hai loại tạp chất này có thể làm cho Đá núi lửa có từ màu lục sẫm đến đen.

– Ngoài ra cũng có rất ít mẫu được tìm thấy ở dạng gần như là không màu.

Ý nghĩa Đá thủy tinh núi lửa

Ý nghĩa chữa bệnh

– Ở Ấn Độ, Obsidian đen bóng được coi trọng như loại đá làm sạch có thể làm tiêu tán những “Nút thắt năng lượng”. Theo lời giới thiệu của nhà thạch học trị liệu Catrin Rafaell, nên để Obsidian ở vùng bẹn hoặc rốn để nạp năng lượng cho cơ thể. Những mảnh Obsidian đặt theo trục dọc cơ thể giúp làm cân bằng năng lượng theo đường kinh lạc.

– Theo ý kiến của Catrin Rafaell, rất có lợi khi xếp obsidian bên cạnh tinh thể thạch anh thiên nhiên, vì chúng giúp điều trị những “bế tắc” về tâm lý và tình cảm.

-Tràng hạt, chuỗi hạt và mặt ngọc bằng Obsidian có tác động tích cực đến dạ dày và ruột, cũng như kích thích hoạt động của thận, giữ ổn định huyết áp và củng cố tính miễn dịch.

Ý nghĩa phong thủy

– Người Hindu tin rằng, Obsidian đen dẫn truyền vào cơ thể người năng lượng của Trái Đất. Obsidian hấp thu những dụng ý xấu xa, vì thế có thể dùng nó như lá bùa hộ mệnh để giúp cho con người nhận thức được mặt còn yêú kém của mình.

Đá Obsidian ngăn ngừa những hành vi không chính đáng, và như vậy ngăn cho con người không rơi vào vòng tội lỗi. Những người đeo bùa bằng loại đá này không phải sợ bất cứ một sự biến đổi nào, kể cả những biến đổi bên ngoài hay bên trong. Họ luôn sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới về thế giới.

– Obsidian là biểu tượng của chòm sao Ma Kết, Nhân Mã, Sư tử trong cung hoàng đạo, năng lượng cảm thụ của âm có tác dụng tới luân xa vùng xương cùng: Cung cấp năng lượng cho trực tràng và bộ máy nâng đỡ – vận động; tạo ý chí trong cuộc sống, năng lượng thể chất, tiềm năng; Khơi dậy cảm giác vững tin và kiên định.

– Obsidian trong phong thuỷ phương Đông thuộc về hành Thuỷ, phù hợp cho người mạng Thuỷ và mạng Mộc.

Đá Obsidian là biểu tượng của chòm sao Ma Kết, Nhân Mã, Sư tử trong cung hoàng đạo

Công dụng khác

– Ngay từ thời đồ đá, người ta đã làm ra mũi tên, dao và cào từ obsidian. Ngày nay nó được dùng làm các trang sức như mặt nhẫn, mặt dây chuyền, tinh xảo hơn nữa là chạm trổ các mặt đeo hình Di Lặc, Quan Âm, Quan Công, Chung Quỳ, Cá phong thuỷ, Rồng phong thuỷ, Ngựa phong thuỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về đá Obsidian (Đá thủy tinh núi lửa) –

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, tu vi Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận

Việc đeo nhẫn ngón nào cũng ảnh hưởng tới tài vận của bạn!

Bạn hay đeo nhẫn ở ngón tay nào? Bạn có biết ý nghĩa đeo nhẫn của mỗi ngón tay? Hãy cùng xem chiếc nhẫn khi đeo vào các ngón tay khác nhau sẽ có ý nghĩa khác biệt như thế nào nhé.

Đeo nhẫn ngón cái tượng trưng cho hành Mộc

Ngón cái là yếu tố quan trọng nhất của bàn tay. Một mình ngón cái đóng vai trò như một bên cọng kìm, giúp chúng ta cầm nắm được mọi vật thật chắc. Ngón cái biểu trưng cho sức mạnh. Cũng vì thế mà nhẫn phù hợp với “ngón tay sức mạnh” thường là nhẫn to, trông khỏe khoắn và hầm hố nhất.

Đôi khi bạn phải chịu đựng một nỗi buồn thầm kín, giận ai đó mà không thể nói ra, hoặc bạn bị thất vọng về ai hay việc gì, bạn nên đeo nhẫn ở ngón cái. Nó sẽ giúp bạn tăng thêm năng lượng để giải quyết việc gì đó thật quyết đoán và trí tuệ.

Đeo nhẫn ngón trỏ tượng trưng cho hành Hỏa

Khi đeo nhẫn ngón trỏ, thường bạn sẽ thấy tự tin và tham vọng hơn. Đeo nhẫn ngón trỏ cũng là một cách chứng minh bạn là người có năng lực giải quyết mọi việc.

Nếu bạn muốn mở rộng công việc làm ăn, thay đổi gì đó để tiếp tục phát huy thêm tiềm năng thì bạn nên đeo nhẫn ở ngón trỏ, bởi năng lượng mà sao hỏa đem lại là cực kì lớn.

Đeo nhẫn ở ngón này còn giúp cho bạn luôn lạc quan, tự hào về bản thân, mạnh mẽ về ý chí, có nhiều tham vọng về quyền lực và luôn tiến lên phía trước mà không có gì ngăn cản nổi.

Nếu một người đeo nhẫn trong một thời gian dài, nhẫn đeo bị chặt mà họ vô tính không để ý thì đó là người tiêu xài quá độ đến không thể kìm hãm được. Lúc đó nên chuyển nhẫn sang ngón khác, xem boi vì đeo lâu và chặt như thế khó mà giữ tiền bạc với mình lâu dài và những sự vui chơi giải trí đôi khi là quá độ.

Đeo nhẫn ngón giữa tượng trưng cho hành Thổ

Ngón giữa cũng là ngón dài nhất, nó như biểu tượng của một kỉ lục cao để chúng ta cố gắng phấn đấu vươn tới.

Nếu bạn muốn mọi việc được kiểm soát tốt và bản thân làm việc có kỷ luật thì bạn nên đeo nhẫn ở ngón giữa, vì sao Thổ liên quan nhiều đến sự kiên nhẫn, tính kiên định và tính kỷ luật cao. Những đức tính này rất tốt để bạn luôn tập trung hoàn thành công việc một cách tốt đẹp.

Tuy nhiên, nếu bạn đang gặp chuyện nặng nề bế tắc, không có hướng giải quyết thì đeo nhẫn ở ngón giữa sẽ làm cho mọi việc càng khó khăn hơn.

Đeo nhẫn ngón giữa đồng nghĩa với việc bạn đang cố gắng làm một việc gì đó. Cố gắng thi đỗ đại học, hay cố gắng cưa cẩm một cô nàng.

Đeo nhẫn ngón áp út tượng trưng cho hành Kim

Ngón áp út là ngón được phân bố thần kinh nhiều nhất và theo y học thì ngón áp út có mạch máu chạy thẳng lên động mạnh của tim. Minh chứng cho việc đó là khi đi viện, các bác sĩ thường lấy kim chọc thẳng vào đầu ngón áp út để chích lấy máu xét nghiệm. Cũng chính vì thế nên ngón áp út là ngón biểu tượng cho tình yêu, tượng trưng cho sự trọn vẹn, vĩnh hằng.

Người cổ đại La Mã tin rằng, các tĩnh mạch trong ngón tay thứ 4 dẫn trực tiếp đến tim, đây được gọi là “các tĩnh mạch tình yêu”, nhưng khi khoa học phát triển thì người ta không còn công nhận cách gọi này nữa.

Thường thì mọi người đeo nhẫn ở ngón áp út bên bàn tay trái, vì họ cho rằng tay trái gần tim và tránh bất tiện trong công việc hằng ngày: viết, bắt tay…

Nhẫn cho ngón áp út thường là nhẫn đôi, nhẫn cưới. Hãy thận trọng trong việc đeo nhẫn ngón này vì khi bạn chưa có “ý chung nhân” mà đeo nhẫn ngón áp út thì đi ra ngoài thì không có chàng nào “hỏi thăm” bạn đâu.

Đeo nhẫn ngón út tượng trưng cho hành Thủy

Cân bằng với ngón tay sức mạnh (ngón cái) là ngón út. Ngón út – ngón của yếu đuối mong manh nhưng không thể thiếu được. Ngón út tượng trưng cho sự giao tiếp và bản năng giới tính. Nhiều người mơ hồ về khả năng giới tính của mình, hay họ có sự nhầm lẫn về giới tính, họ thường đeo nhẫn ở ngón út.

Đeo nhẫn ở ngón út sẽ hỗ trợ bạn tích cực trong lĩnh vực nghệ thuật. Đeo nhẫn ngón út có thể là bạn đang mang một lời hứa: không yêu ai, hay không kết hôn,.. đeo nhẫn ngón út cũng là cách mà các bạn trẻ chứng minh cho trinh tiết của mình.

Đôi khi đeo nhẫn ở ngón út để chứng tỏ họ đang cố gắng tăng cường nhận được năng lượng từ sao Thủy để giúp họ phát triển khả năng giao tiếp cũng như để chứng tỏ họ thực sự là một người giỏi về giao tế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận - Xem bói - Xem Tử Vi

12 chòm sao giả vờ ngây thơ trước mặt ai?

Xã hội vốn phức tạp khó lường, muốn sinh tồn cần phải có thủ đoạn. Cùng xem 12 chòm sao giả vờ ngây thơ cho ai xem nào.
12 chòm sao giả vờ ngây thơ trước mặt ai?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xã hội vốn phức tạp khó lường, muốn sinh tồn cần phải có thủ đoạn, giả bộ thuần khiết không phải là để lừa đảo mà là cách để bảo vệ bản thân. Cùng xem 12 chòm sao giả vờ ngây thơ cho ai xem nào.

12 chom sao gia vo ngay tho truoc mat ai hinh anh 2
 

Bạch Dương: bạn học

  Muốn xem ai là người có quan hệ tốt nhất với bạn học thì tuyệt đối là chòm sao Bạch Dương, không thể nghi ngờ. Trước mặt bạn bè, họ lúc nào cũng cố gắng mang hết sức mình biểu hiện thật chân thành, thật ân cần để chiếm cảm tình. Thậm chí nhiều khi Dương Dương còn khiến bạn bè lo lắng cho mình vì thái độ ngây ngô, có thể phải chịu thiệt thòi khi ra ngoài đấy.   Kỳ thực mọi người đều nhầm cả rồi, Bạch Dương rất thành thục, nội tâm sâu xa, lợi hại hơn bất kì ai, đừng thấy họ nhiệt tình đáng yêu mà nghĩ cái gì họ cũng không biết. Họ rõ mọi chuyện, chỉ là biểu hiện ra bên ngoài như thế để bạn học đều vui vẻ, thoải mái và dễ chơi chung mà thôi.
Xem thêm bài viết Yêu là yêu, những chòm sao đơn thuần nhất trong tình cảm
 

Kim Ngưu: người khác phái

  Chòm sao Kim Ngưu tưởng thuần khiết nhưng chuyên môn lừa gạt người khác phái, bình thường tán gẫu với bạn bè cũng oanh oanh liệt liệt lắm nhưng trước người khác lập tức thay đổi dáng vẻ. nam thì giả bộ thâm trầm, nữ thì ra vẻ đoan trang hiền thục, biết điều.   Trong 12 chòm sao giả vờ ngây thơ thì Ngưu chan là cao thủ đấu, họ thuộc trường phái hành động nhưng không vội vã, muốn tạo cảm giác thanh thuần để chiếm sự tin tưởng, dễ dàng tiếp cận. Mà bề ngoài hiền lành khiến cho việc giả bộ của họ vô cùng thuận lợi, thậm chí gạt được cả những người thân cận nhất ấy chứ, nhất là người mà họ có cảm tình  

Song Tử: cha mẹ

  Ra ngoài xã hội Tử nhi là người rất hiểu biết, nhìn thấu lẽ đời, cảm thấy bản thân rất lọc lõi, dáng vẻ đáng ghét, chẳng thèm đoái hoài tới sắc mặt của bất kì ai. Họ ngang ngược, tinh vi, có bản lĩnh nhưng khi về nhà thì chẳng muốn để cha mẹ nhìn thấy mình như vậy, thật lòng muốn làm một đứa con hiếu thuận, một người ngoan ngoãn đáng yêu.   Mặc dù bên ngoài gánh chịu bao nhiêu cực cổ nhưng vẫn hi vọng ở trước mặt cha mẹ thật hạnh phúc, thật thoải mái, thật vui vẻ, không để cho ai phải lo lắng. Vì lẽ đó mà ở bên ngoài oai phong bao nhiru về nhà lại ngoan hiền bấy nhiêu, thường cha mẹ sẽ nghĩ Song Tử chưa thích ứng được kĩ năng xã hội nhưng thực ra toàn là lo lắng suông thôi.  

Cự Giải: bản thân

  Trong lòng Cự Giải thuần khiết chính là sinh mệnh nên dù hiện tại có bao nhiêu mạnh mẽ, bao nhiêu sành sỏi cũng vẫn muốn làm ra dáng vẻ ngây thơ trong sáng để bản thân vui vẻ, không băn khoăn. Vì thế có thể nói là chòm sao này cực kì lợi hại trong việc giả bộ với chính mình.   Cùng một sự việc, có thể dùng phương pháp lõi đời để làm hoặc giải quyết bằng biện pháp hồn nhiên thì Cự Giải nhất định sẽ chọn dùng cách hồn nhiên nhất, vì như vậy sẽ có cảm giác mình rất trẻ trung, rất ngây thơ. Thực ra đó chỉ là lừa mình lừa người thôi, dẫu sao thì tự cảm thấy vui và những người xung quanh cũng thấy bạn đáng yêu là được rồi.  

Sư Tử: lãnh đạo

  Cứ thanh thanh cao cao nhưng với những người ngang hàng thì ai cũng rõ Sư Tử là người như thế nào, có bao nhiêu thói quen, bao nhiêu điều tốt điều xấu đều nắm trong lòng bàn tay. Nhưng trong mắt lãnh đạo thì khác hoàn toàn nhé, ngoan ngoãn dễ thương như bé ngoan.   Sư Tử cố gắng thể hiện dáng dấp tốt nhất, thanh thuần nhất để lấy lòng lãnh đạo, không những có thể gây ấn tượng tốt mà còn tạo quan hệ để họ nâng đỡ mình trong công việc sau này.  

Xử Nữ: khắp thế giới


12 chom sao gia vo ngay tho truoc mat ai hinh anh 2
 
Hình tượng của Xử Nữ vững như bàn thạch, cả thế giới muốn hủy diệt cũng không thể diệt được. Bất kì tình huống nào cũng nhất định duy trì sự hoàn hảo, không thể có sai sót nào. Vì thế mà đối diện với mọi người đều mang mặt nạ, lâu ngày quên mất cả bản ngã của chính mình. Xử Nữ ban ngày đối diện với ai cũng là bộ dang tinh khiết, không ai nhìn ra chút khuyết điểm nhưng có nhiều người sẽ ác ý bới móc những điểm ấy ở bạn. Quan trọng là ai nguyện ý ở cùng mình cả những khi mình có điểm chưa hoàn hảo, chưa mỹ mãn. Thanh thuần quá lại hóa mệt mỏi, sống vì người khác chứ không phải vì bản thân mình.
Xem thêm bài viết Điểm danh 3 chòm sao nữ kén chọn khiến chậm duyên muộn chồng
 

Thiên Bình: bạn bè

  Trong 12 chòm sao giả vờ ngây thơ thì Thiên Bình là am hiểu nhất. Họ thường xuyên bày ra bộ dạng người tốt, giả bộ thuần khiết nhưng không xa lạ, có những chuyện dù hiểu rõ trong lòng nhưng cũng chẳng dại gì xen vào, giữ an toàn cho bản thân là tốt nhất.   Tưởng như thế là cân bằng nhưng thực ra là lạnh lùng, lãnh đạm. Trong mắt Bình nhi, bạn bè chính là bạn bè, cuộc đời ai người đó phụ trách, cùng mình căn bản không có quan hệ nên tốt nhất là cứ giả bộ không biết gì, ngây thơ một chút cho có lợi, tránh vướng vào rắc rối không đáng có.  

Hổ Cáp: bạn đời

  Bạn đời chính là người sẽ chung lưng đấu cật, hợp tác với mình trên tất cả các phương diện cuộc sống nên Hổ Cáp rất chú ý, rất lo lắng tới thái độ của đối phương. Ở trước mặt người khác có thể mặt không biến sắc mà chửi bậy, nói những điều trắng trợn không kiêng dè nhưng trước mặt bạn đời liền lập tức rất ngoan ngoãn, rất ngây thơ, thay đổi chóng mặt.   Thực ra điều đó xuất phát từ việc Hổ Cáp rất thương yêu tới bạn đời, nếu không họ tội gì phải cực khổ giả vờ giả vịt cho đối phương xem. Nói là họ giả tạo, chi bằng nói rằng họ biết cách làm vui lòng người mình yêu thì đúng hơn.  

Nhân Mã: người không quá quen

  Khác với các chòm sao khác, Nhân Mã không thích làm màu với những người thân quen xung quanh nhưng lại khá khép kín với người không thân lắm. Bề ngoài vẫn vui mừng, nhiệ tình nhưng bên trong suy nghĩ phức tạp, không bộc lộ con người thật, ngụy trang chính mình bằng vẻ ngoài dễ chịu.   Nhân Mã kinh nghiệm vô số, đau thương không ít nhưng không muốn người khác thấy điểm đó. Vì thế mà hầu hết người mới quen đều đánh giá sai lầm về chòm sao này, không nhìn ra sự sâu thẳm trong tâm hồn của họ, chỉ thấy họ đáng yêu và ngây thơ như trẻ nhỏ.

Xem thêm bài viết  3 chòm sao lúc nào cũng vui vẻ như trẻ thơ

Ma Kết: người quen

  Trái ngược với Nhân Mã, trong 12 chòm sao giả vờ ngây thơ, Ma Kết luôn ngụy trang với người thân quen. Người xa lạ, không cần cố tỏ ra, rất phí sức lực, đâu có hữu dụng, quan trọng là người có mối quan hệ thân thiết với mình   Kết Kết vốn sĩ diện, có khó khăn cũng không để người khác thấy, nhiều người dù thân vẫn cảm thấy xa lạ với họ là vì như vậy. Giữu khoảng cách để không ai thấy rõ nội tâm của mình, càng là người mà mình quan tâm thì càng khách khí, càng cố gắng bày ra trạng thái tốt đẹp nhất.  

Bảo Bình: cấp trên


12 chom sao gia vo ngay tho truoc mat ai hinh anh 2
 
Người khác chọn con đường làm giàu, Bảo Bình muốn thăng quan tiến chức để phát tài. Vì lẽ đó khi ai ai cũng cố biểu hiện mình khôn khéo già dặn thì họ ngược lại, muốn dùng dáng vẻ ngây thơ để chiếm cảm tình của cấp trên. Họ biết thời thế, tỏ ra vừa đủ, không quá thông minh vượt mặt lãnh đạo nhưng đủ nổi bật, tuyệt đối không qua loa.    Có thể làm được 10 phần nhưng Bảo Bình chỉ làm 8 phần, 2 phần còn lại là ngụy tạo. Như vậy mới cảm thấy an toàn, không gây kiêng kị cho lãnh đạo, mang lập trường của mình thể hiện rất ngây thơ nhưng lại là sách lược mạnh mẽ nhất.  

Song Ngư: người khác phái

  Khác với Kim Ngưu chỉ thể hiện trước mặt người mình thích, Ngư nhi thi triển công phu trên diện rộng, từ 8 tuổi tới 80 tuổi, bất kể là giới tính khác họ đều cố gắng biểu hiện ra những điểm thật tốt. Đây quả thực là điều không dễ dàng, ngoài Song Ngư ra không chòm sao nào làm được.   Giả bộ nhiều quá tới mức hành vi ngây thơ đã trở thành phản xã có điều kiện, không cần tốn sức, trường kì kiên trì là thuận buồm xuôi gió rồi. Nếu muốn họ thay đổi có khi còn không làm được ấy.
Nhận diện 12 đứa trẻ hoàng đạo 5 cao thủ lừa người của 12 chòm sao 5 chòm sao nữ khiến các chàng trai si mê vọng tưởng
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao giả vờ ngây thơ trước mặt ai?

Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết.
Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tìm đuợc một ngôi nhà tốt hoàn toàn theo phong thủy là điều không dễ dàng. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết là điều khó tránh. Dưới đây là một vài gợi ý để cải thiện ngôi nhà có thế lỗi phong thủy.


1. Những ngôi nhà xấu do ngoại cảnh


Nhà gần đê hoặc gần những con đường cao hơn so với nền nhà ở được coi là không tốt theo phong thủy. Những phương án tôn nền nhà cho cao bằng cốt nhà thường không mấy khả thi. Trường hợp này, chủ nhà nên thiết kế một tầng hầm (có thể sử dụng làm hầm rượu, gara…) cho ngôi nhà sao cho sàn tầng 1 tối thiểu cao bằng nền đường.

Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 1) hinh anh
 
Thế nhà âm dương thái quá, không cân bằng. Ví dụ, ngôi nhà quá thiếu ánh sáng hoặc không khí (yếu tố dương trong phong thủy), thường gặp trong khu vực ngõ ngách ở đô thị. Để hóa giải, nên bố trí hệ thống thắp sáng thường xuyên ngay trước khu vực cửa ra vào nhằm tăng cường năng lượng dương giúp cân bằng trở lại.
 
Những ngôi nhà có con hẻm đâm vào nhà cũng là một trong những lỗi phong thủy nhà ở thường gặp và gây rất nhiều lo lắng: thế nhà Thương sát.
 
Thật ra, thế nhà này chỉ xấu trong trường hợp ngõ đâm thẳng vào nhà có chiều dài tương đối lớn, hoặc mật độ lưu thông dày đặc. Nên treo một chiếc gương lồi, có tác dụng làm tản mạn bớt luồng xung khí. Hoặc xây nền nhà cao hơn bình thường, tạo thế nhà cao cũng làm giảm bớt hiệu ứng của luồng xung khí do thế nhà xấu mạng lại.
 
Còn nếu con đường đó ngắn và mật độ thưa thớt, yên ả sẽ tạo minh đường sáng sủa, thì lại là một lợi thế dưới góc nhìn phong thủy. 
 

2. Nhà xấu theo Bát trạch

Thông thường, khi mua nhà hoặc xây nhà chúng ta hay để ý tới tuổi của gia chủ và muốn biết tương quan của nó với hướng nhà. Các hướng gặp phải Ngũ quỷ, Tuyệt mạng, Lục sát, Họa hại là bốn hướng xấu gây bất lợi với gia chủ. 
 
Ngoài hướng nhà, phong thủy cũng rất coi trọng hướng bếp. Bếp đặt theo một hướng tốt sẽ khắc phục và hóa giải yếu tố xấu của hướng nhà.

Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 1) hinh anh 2
 
Ví dụ : Người nam tuổi Canh tuất, sinh năm 1970 (quái Chấn) làm nhà hướng Tây (quái Đoài) là hướng Tuyệt mạng. Nếu muốn khắc phục chúng ta có thể lấy hướng bếp Thiên y – tức là quay bếp về hướng Bắc (Quái Khảm) để hóa giải yếu tố bất lợi do hướng Tuyệt mạng gây ra.
 
Đặt ban thờ và giường ngủ tại phương vị tốt cũng góp phần hóa giải những bất lợi do hướng nhà xấu đem lại.  
(Còn tiếp)

 
Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 2) Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 3)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Vì sao đi chùa phải dâng hương để lễ Phật?

Đi chùa chúng ta thường dâng hương lễ Phật, nhưng chỉ làm theo thói quen mà ít người biết ý nghĩa thực sự của việc này.
Vì sao đi chùa phải dâng hương để lễ Phật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vi sao di chua phai dang huong de le Phat hinh anh
 
Người đi chùa dâng hương lễ Phật thường cầu xin mọi việc tốt lành cho gia đình và bản thân. Điều này là nhu cầu chính đáng, không đi ngược lại lời Phật dạy. Nhưng cầu thế nào cho đúng, cầu gì cho đủ? Muốn biết thì phải hiểu, tại sao lễ Phật lại dâng hương?
 
Hương có mùi trầm ấm, thơm thoang thoảng, thanh tịnh, được coi là vật phẩm để dâng lên Phật. Dâng hương là dâng lòng thành kính, thể hiện sự ngưỡng vọng công đức của Đức Phật đối với chúng sinh.

Thắp hương lễ Phật là tâm nguyện rũ bỏ vinh nhục đời thường, tự thấy lòng mình thanh tịnh, như nhiên tự tại, vạn sự như mây khói, thả hồn về chốn niết bàn. Hai tay dâng nén hương trầm là thanh tâm, tự mình buông bỏ mọi tham, sân, si.
 
Bởi thế, ý nghĩa lớn nhất của việc dâng hương là dâng lòng thành, là tự mình thể hiện sự thành tâm trước Phật, đồng thời thể hiện sự tôn kính với công đức trời bể của Phật với chúng sinh. Bởi Phật chẳng tham của tục trần giới hương đăng, chỉ mong chúng sinh chân tâm, định hương hướng Phật. Hiểu rõ điều này thì đi chùa mới thực sự có ý nghĩa.
 
Kinh Phật dạy rằng “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, nghĩa là cầu tài cần đúng phép đúng lý, nhà Phật gọi đó là “bố thí”. Nói một cách dễ hiểu hơn là muốn cầu tài cầu phúc, trước hết phải biết bố thí, trồng cây phúc đức. Bố thí là nhân, cầu tài cầu phúc là quả. Kinh Phật nói “từ bi hỷ xả” thì trong đó xả là “nhân”, đắc là “quả”, cho nên được và mất chỉ là một mà thôi.

Nói cụ thể hơn, phúc đức của mình là do mình làm ra, chẳng Phật nào cho cả. Vì thế kinh Phật mới nói: “Mệnh do mình tạo ra, phúc do mình tự cầu”. Dâng hương cầu tài cũng nên ghi nhớ điều này.
 
Dâng hương lên Phật bỏ điều tà ác, lòng không ám bụi trần, đương nhiên nhận phúc lộc vô biên; bởi không tham thì không ai lừa được mình, bởi không tà thì ma quỷ không dám phạm, thế chẳng phải là bình an mạnh khỏe cả thân thể và tâm hồn hay sao. 
 
Cho nên lễ Phật cầu an không nên tự tư tự lợi, rắp tâm hại người khác, lợi cho mình; thành tâm chúc nguyện cho mọi người bình an may mắn, nguyện chúng sinh và toàn xã hội an bình thì công đức vô lượng. 
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo Phan Vũ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao đi chùa phải dâng hương để lễ Phật?

Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Dần

Xem hướng nhà theo tuổi người đàn ông là truyền thống lâu đời của người Việt. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần.
Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lấy chồng xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông, xem hướng nhà theo tuổi người đàn ông trụ cột trong gia đình là truyền thống lâu đời của người Việt. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần, mời các bạn tham khảo.

Xem huong nha theo tuoi cho nam gioi tuoi Dan
 
Xem hướng nhà theo tuổi là cách đảm bảo vị trí nhà phù hợp với mệnh của chủ gia đình, mang tới phúc khí, may mắn cho cả gia trạch. Đàn ông tuổi Dần khi làm nhà, mua nhà, hãy chú ý chọn cho mình hướng cát, tránh hướng hung theo những gợi ý cụ thể sau.  

1. Tuổi Canh Dần 2010 – mệnh Cấn

  - Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.
 
- Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.
Xem thêm bài viết Tính chất cơ bản của 24 hướng nhà
 

2. Tuổi Mậu Dần 1998 – mệnh Khôn

  - Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.  

3. Tuổi Bính Dần 1986 – mệnh Khôn


Xem huong nha tot xau cho nam gioi tuoi Dan
 
- Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần, nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.
Xem thêm bài viết Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Nam có tốt không?
 

4. Tuổi Giáp Dần 1986 – mệnh Cấn

  - Hướng tốt:   Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.   Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.   Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.   - Hướng xấu:   Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.   Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.   Hướng Đông – Lục sát: Xem hướng làm nhà, nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.   Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.   Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.  

5. Tuổi Nhâm Dần 1962 – mệnh Khôn


Xem huong lam nha
 
- Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.  
Xem thêm bài viết Hướng dẫn người ít kinh nghiệm xác định hướng nhà, tâm nhà
 

6. Tuổi Canh Dần 1950 – mệnh Khôn

  - Hướng tốt:   Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.   Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.   Hướng Tây – Thiên y: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.   - Hướng xấu:   Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.   Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.   Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.   Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.   Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.  
Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủy Giải đáp những thắc mắc thường gặp để xác định hướng nhà tốt Muốn chọn hướng nhà tốt, nhớ ngay 4 lưu ý

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Dần

Tứ Lục lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Trong Cửu tinh, Tứ Lục là sao Văn Khúc; Tứ Lục lưu niên bay tới 8 hướng thì phong thủy nhà ở cũng khá tốt đẹp.
Tứ Lục lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Cửu tinh, Tứ Lục là sao Văn Khúc; Tứ Lục lưu niên bay tới 8 hướng thì phong thủy nhà ở cũng khá tốt đẹp.


Tu Luc luu nien anh huong toi phong thuy nha o hinh anh
 
Cửu vận là Tứ Lục, Ngũ hành thuộc Mộc, màu sắc là màu xanh lá cây, phương vị Hậu thiên Bát quái thuộc cung Tốn.

Tứ Lục phi tinh là sao Văn Xương, khi đắc vận chủ về thi cử đỗ đạt, văn chương lừng lẫy, khoa bảng đứng đầu. Khi thất vận chủ về số đào hoa, vì đam mê tửu sắc mà gặp tai họa, bị hen suyễn, trúng gió, tự tử, bệnh ở đùi, bệnh gan hoặc bệnh từ thắt lưng trở xuống.
 
Tứ Lục lưu niên bay tới 8 hướng trong nhà chủ về những vận hội khác nhau, chủ yếu liên quan tới đường quan vận, sự nghiệp, học hành
 
Khi Tứ Lục đến phương Bắc: Chủ về học hành, thi cử thuận lợi, đỗ đạt khoa bảng, lợi cho quan văn, làm quan mau thăng tiến.
 
Tứ Lục đến phương Tây Nam: Bệnh đường ruột, tai tiếng bủa vây, họa vạ miệng, nên cẩn thận lời ăn tiếng nói.
 
Tứ Lục đến phương Tây Bắc: Bất lợi cho phụ nữ, cha và trưởng nữ mâu thuẫn, trong nhà dễ có người đi xa hoặc di chuyển.
 
Tứ Lục đến phương Nam: Học hành tiến bộ, có lợi cho quan văn, có hỷ sự, tin mừng, không phải vận dễ bị hao tài.
 
Tứ Lục đến phướng Đông: Vận khí thất thường, lúc lên lúc xuống.
 
Tứ Lục đến phương Đông Bắc: Tổn thương trẻ nhỏ, đề phòng bệnh tật, thành tích đi xuống, sự nghiệp thụt lùi, bị giáng chức hoặc mất chức.
 
Tứ Lục đến phương Đông Nam: Chủ về người nhà thông minh, khéo léo, học hành có nhiều tiến bộ, sự nghiệp có nhiều bước thăng tiến đáng kể, người làm ăn đắc vận, thu được khoản lợi lớn từ đầu tư.
 
Tứ Lục nhập trung cung: Đề phòng bệnh phong thấp, bệnh ngoài da.
 
Tứ Lục đến phương Tây: Dễ bị thương, đề phòng gặp Đào Hoa sát khiến gia đình lục đục, gặp nạn trai gái mà tiền của tiêu tán.

Theo Phong thủy Huyền không
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ Lục lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Chọn chỗ ngồi cho phái nữ nơi công sở

Ngày nay, không chỉ có những người làm ăn buôn bán lớn mà ngay cả những nhân viên văn phòng cũng đều rất quan tâm đến phong thủy . Một số bạn gái khá mơ hồ về
Chọn chỗ ngồi cho phái nữ nơi công sở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phong thủy trong phòng làm việc, nhất là chỗ ngồi sao cho hợp với vận mệnh, công việc được suôn sẻ hơn, gặp may mắn.

Không nên ngồi:

Bàn làm việc ngay dưới xà ngang: khi chọn chỗ ngồi, hoặc kê bàn làm việc không nên chọn vị trí này. Không những trong công việc mà khi ngủ cũng không nên nằm vị trí này. Vì như vậy bạn sẽ có cảm giác bị đè nén, khó chịu, hiệu suất công việc không tốt.

Ngồi quay lưng trực tiếp ra cửa sổ: Hiện nay đa số các văn phòng hiện đại đều thiết kế của kính, và ngồi quay lưng ra của kính là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên nếu ngồi tư thế này là điều đại kị trong phong thủy. Nó sẽ làm cho bạn có cảm giá chênh vênh, không an toàn, mất cân bằng. Và tất  nhiên hiệu suất mang lại công việc không hiệu quả.

Quay lưng ra cửa: tương tự như của sổ, nó cũng tạo cho người ta cảm giác không thoải mái, lạnh do cửa là nơi sinh khí của ngôi nhà, hoặc là khí ô uế. Cho nên bạn cần tránh những vị trí này.

Ngồi sát cửa phòng: tiếng cửa mở ra, vào rất ồn ào sẽ làm bạn phân tâm, mất tập trung trong công việc.

Ngồi sát đối diện cửa sổ: Nếu bàn làm việc của bạn nhìn ra ngoài trời, về mặt phong thủy cũng không tốt, bởi nó cũng tạo cảm giác trống trải cho người làm việc. Bên cạnh đó ánh nắng của ngoài trời hắt vào khiến bạn chói mắt, mệt mỏi và không làm tốt công việc.

Nen chon vi tri ngoi rong, thoai mai
Nên chọn vị trí ngồi rộng, thoải mái

Vậy chọn chỗ phù hợp như thế nào?

Trước tiên bạn cần cân nhắc sự phù hợp giữa bàn làm việc và các vị trí các đồ vật khác trong văn phòng. Sau đó đến chất liệu bàn làm việc (có thể là gỗ màu kem hoặc nâu để ta cảm thấy dễ chịu hơn).

Nên chọn những loại ghế gỗ hoặc bọc da, tránh kết hợp những đồ vật bằng thủy tinh hoặc kim loại vì chúng sẽ làm tăng thêm những mâu thuẫn gay gắt trong văn phòng. Hoặc có thể kết hợp các đồ vật có kim loại kết hợp với gỗ hoặc ván ép hoặc da.

Nên chọn những vị trí, hoặc có bàn làm việc bằng gỗ để tăng hiệu quả về mặt tinh thần đối với ai sử dụng nó.

Vị trí ngồi của bạn phải hội tụ 4 yếu tố:

- Vị trí chỗ ngồi phải quan sát được của ra vào, điều này làm bạn yên tâm hơn, nhất là kiểm soát được mọi việc liên quan đến cánh cửa đó.

- Bàn làm việc không được đặt gần cửa ra vào, vì ồn ào, năng lượng không ổn định gây ảnh hưởng đến tinh thần.

- Nên chọn chỗ ngồi quay lưng vào tường vì như vậy sẽ tạo cho bạn cảm giác an toàn, thoải mái nhất, năng lượng cũng được lưu thông khắp cơ thể.

- Hoặc có thể chọn vị trí có bức tường bên trái hoặc bên phải. Vị trí này bạn có thể làm quan sát không gian ở một góc nhỏ và vừa tầm nhìn nhưng vẫn kiểm soát được tình hình.

 Theo Bestslim


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn chỗ ngồi cho phái nữ nơi công sở

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao sẽ quyết định cách họ tiếp cận và cư xử với những mối quan hệ tình cảm trong đời.
Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao sẽ quyết định cách họ tiếp cận và cư xử với những mối quan hệ tình cảm trong đời.


Khuynh huong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh
 
Bạch Dương

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao đối với Bạch Dương là bốc lửa và quyết đoán. Trong tình yêu, họ nhiệt tình và nhiều ham muốn. Vì thế Bạch Dương rất chủ động trong các mối quan hệ.
 
Kim Ngưu

Gợi cảm và trìu mến là cách Kim Ngưu tiếp cận với tình yêu. Họ có những cử chỉ và cách tiếp xúc khiến người khác phái cảm thấy rất thân thiện và cuốn hút.
 
Song Tử

Tò mò và nói nhiều là khuynh hướng tình cảm đặc trưng của Song Tử. Mọi mối quan hệ với Song Tử đều bắt đầu bằng sự tò mò, muốn khám phá và tiếp diễn bằng những cuộc trò chuyện, chia sẻ. Kết nối tinh thần là một trong những yêu cầu tất yếu của Song Tử.
 
Cự Giải

Nuôi dưỡng và chu đáo, Cự Giải nuôi dưỡng tình yêu như một cái cây. Họ cố gắng, tỉ mỉ tận dụng từng cơ hội để chăm sóc cho tình cảm của mình. Một khi yêu ai họ hết lòng mong ngóng và làm hài lòng đối tác. Đấy là niềm hạnh phúc lớn lao của Giải Giải.
 
Sư Tử

Nổi bật và thú vị, Sư Tử có khuynh hướng tình yêu sôi nổi như tính cách của họ. Khi yêu, Sư Tử lan tỏa tình cảm và ánh mặt trời của mình tới mọi người xung quanh.
 
Xử Nữ

Xử Nữ có cách tiếp cận tình yêu thực tế và hoàn hảo. Mọi mối quan hệ đều trong tính toán và tầm kiểm soát của họ, để đảm bảo, tình yêu của Xử Nữ sẽ là đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất, đáng ngưỡng mộ nhất.
 
Thiên Bình

Hòa hợp và cân bằng, Thiên Bình thích tình yêu như vậy. Quan trong nhất trong một mối quan hệ là Bình nhi phải cảm thấy hòa quyện vào đối phương, tự nhiên và chân thật. Đó phải thực sụ là trao đổi tình cảm, cảm xúc và thương yêu.
 
Thiên Yết

Nóng bỏng và kín đáo, Thiên Yết có khuynh hướng tình cảm rất mạnh mẽ nhưng được giấu kĩ trong vẻ ngoài lạnh lùng. Họ làm thế để chắc chắn rằng tìm được đối tác phù hợp và thật lòng.
 
Nhân Mã

Phóng khoáng và quyến rũ, tình yêu của Nhân Mã như cơn gió mát lành. Họ thích cảm giác kích thích trong quá trình tìm kiếm các mối quan hệ, càng khó khăn càng thích, càng lãng mạn và phiêu lưu càng mê.
 
Ma Kết

Lý trí và ấm áp, tình cảm của Ma Kết đến từ sự chân thành bên trong và hành động cụ thể nên khuynh hướng tình yêu của họ cũng tuân thủ nguyên tắc này. Không cầu kì, phô trương, trực tiếp tiến thẳng tới trái tim đối phương.

Thủy Bình

Trí tuệ và vui nhộn là tiêu chí tình cảm của Thủy Bình. Phải là điều gì đó khác thường, hấp dẫn và vui vẻ mới thu hút được chòm sao này.
 
Song Ngư

Song Ngư có cách tìm kiếm tình yêu rất sáng tạo, chủ yếu thông qua cảm nhận và trực giác. Họ coi tình yêu là một loại hình nghệ thuật cao cấp, cần phải để hết tâm hồn vào.

► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Tâm Lan (Theo Huffingtonpost)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Giải mã giấc mơ thấy cha mẹ đã mất –

Nếu ta mơ thấy cha hoặc mẹ vốn đã qua đời, bạn hãy chờ đợi, tin tức quan trọng có thể sẽ đến. Nếu bạn nói chuyện với cha hoặc mẹ quá cố trong mơ, tin tức tốt lành sẽ sớm xuất hiện, có thể là dưới hình thức thừa kế hay sẽ có một điềm báo khác. Có rất
Giải mã giấc mơ thấy cha mẹ đã mất –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy cha mẹ đã mất –

Ý nghĩa của cây Lựu và Quýt –

Lựu (Thạch Lựu) Lựu hay còn có tên là An Thạch Lựu. Trong tích có ghi lại rằng, Thạch Lựu khi dâng cho Hán Vũ Đế, Trương Tại đã sai quân xuất xứ Tây Vực từ An Thạch trở về, cho nên có tên là An Thạch Lựu. Nhưng trong ghi chép y điển được phát hiện kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lựu (Thạch Lựu)

Lựu hay còn có tên là An Thạch Lựu. Trong tích có ghi lại rằng, Thạch Lựu khi dâng cho Hán Vũ Đế, Trương Tại đã sai quân xuất xứ Tây Vực từ An Thạch trở về, cho nên có tên là An Thạch Lựu. Nhưng trong ghi chép y điển được phát hiện khi đào mộ của Mã vương Đời Hán lại ghi chép rằng Thạch lựu đã có từ thời trước rồi.

Cổ văn nói về Lựu cũng rất nhiều như: Lương Nguyên Đế có bài thơ “Vịnh Thạch lưu”: Từ lâm ứng vị phát, xuân thú chuyển tương thôi. Nhiên đăng nghi dạ hỏa, cát châu thắng tảo mai” (Rừng Từ còn đang ngủ, Chiều xuân giục gọi vê. Trái chín như ánh lửa đêm. Hái quả về thay Mai sớm.). Trong văn hóa dân gian cho rằng Thạch Lựu bách tử” là tượng trưng của “đa tử đa phúc” (lắm con nhiều phúc).

Trên thực tế, hoa quả Thạch lựu đỏ như lửa, quả lại có thể giải khát, có giá trị mỹ quan về thực dụng, được trồng rộng rãi ở các đình viện.

quythong

Quýt

Khuất Nguyên (Trung Quốc) đã từng có bài ca “Quýt tụng” để nói lên phẩm cách hình chất của quýt. Quýt tính vì địa khí mà ứng biến. Trong “Chu lễ khảo công ký” có viết: “Quýt du hoài nhi hoá vi tích … thử địa khí nhiên dã” (Quýt khó khăn lắm mới ra được quả (trong tiết trời khô lạnh)…đó là nhờ tinh khí của đất mà thành vậy. Quýt có linh tính, được biết có thể ứng nghiệm sự vật. “Quảng ngũ hành ký’’ có viết: ‘Trần hậu chủ mộng Hoàng y nhân vây thành, vây thành quýt thụ tận khảm chi. Nãi tuỳ binh chế, thượng hạ thông báo Hoàng Y, vị kỷ vi tuỳ công thành chê ứng”. Giá trị thực tế chủ yếu của quýt là quả tươi có thể ăn, và có thể làm thuốc, trồng cây có tính hiệu quả cao. Trong dân gian của Trung Quốc, quýt và cát đồng âm, nên thường viết chữ Hán có ghép chữ cát vào, lấy quýt là dẫn cát cầu phúc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của cây Lựu và Quýt –

Chàng trai tuổi nào đa tình nhất trong 12 con giáp? –

Câu hỏi được các bạn nữ đặt ra nhiều nhất đó chính là trong 12 con giáp chàng trai nào đa tình nhất? Với bản tính thích tự do, ham cái mới khiến những anh chàng tuổi Ngọ và Thìn xếp đầu bảng trong danh sách này. Tất cả chúng ta đều tò mò vì sao họ lạ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi được các bạn nữ đặt ra nhiều nhất đó chính là trong 12 con giáp chàng trai nào đa tình nhất? Với bản tính thích tự do, ham cái mới khiến những anh chàng tuổi Ngọ và Thìn xếp đầu bảng trong danh sách này. Tất cả chúng ta đều tò mò vì sao họ lại trong danh sách đa tình.Củ thể thế nào chúng ta cùng khám phá để biết được nam giới tuổi nào đa tình?

Nội dung

  • 1 Chàng trai nào đa tình nhất?
  • 2 Thứ 1: Chàng trai tuổi Ngọ
  • 3 Thứ 2: Chàng trai tuổi Thìn
  • 4 Thứ 3: Chàng trai tuổi Dậu

Chàng trai nào đa tình nhất?

Thứ 1: Chàng trai tuổi Ngọ

Vốn yêu thích tự do nên trong tình yêu, những anh chàng tuổi Ngọ vô cùng chú trọng đến việc tìm không gian riêng cho mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tình cảm chân thành họ dành cho đối phương trong giai đoạn chớm nở của tình yêu. Khi giai đoạn ngắn ngủi này kết thúc, níu giữ họ cho riêng mình có lẽ là việc khó hơn cả lên trời.

20140702-boi-van-menh-tuoi-ngo-1307-1878-1407107071

Những chàng trai tuổi Ngọ đã cân nhắc khá kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định quan trọng trong chuyện tình cảm, nhưng nếu có cảm giác không hài lòng, họ lập tức rời bỏ đối phương để đi tìm một nửa phù hợp hơn. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự phong lưu, đa tình của người tuổi Ngọ.

Thứ 2: Chàng trai tuổi Thìn

Những anh chàng tuổi Thìn không những đa tình mà còn ham “của lạ”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều muốn chinh phục và thưởng thức điều mới mẻ. Thay đổi tình yêu với những chàng trai tuổi Thìn là chuyện cơm bữa và không thể thiếu trong cuộc sống này.

tuoi-thin-01-1782-1407107071

Con trai tuổi Thìn hài hước, có biệt tài ăn nói nên đi tới đâu cũng gây sự chú ý và có sức hút mạnh với người khác giới. Cuộc đời của họ trải qua không ít mối tình. Với họ kết thúc một mối tình là sự khởi đầu cho những trải nghiệm mới thú vị hơn.

Thứ 3: Chàng trai tuổi Dậu

Với những anh chàng cầm tinh con Gà, tình cảm cũng như những phương diện khác của cuộc sống, đều phải rõ ràng, không có chuyện yêu nửa vời, nói chia tay năm lần bảy lượt rồi lại quay về với nhau. Ngoài ra, họ biết mình có số đào hoa, đa tình nên rất tự tin trong chuyện tình cảm.

chinh-phuc-nguoi-tuoi-dau-6092-1407107071

Người tuổi Dậu không tin vào tình yêu vĩnh cửu mà chỉ quan tâm tới cảm giác tức thời. Do đó, một khi đã hết cảm giác yêu, chàng trai tuổi Dậu sẽ chia tay dứt khoát, không chút vướng bận mà đi tìm tình yêu mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chàng trai tuổi nào đa tình nhất trong 12 con giáp? –

3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Các cô gái trong tình yêu thường mềm yếu và có chút mù quáng. Nhưng 3 chòm sao nữ mạnh mẽ dưới đây thì khác nhé, họ tự tin, độc lập, biết yêu thương bản thân.
3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các cô gái trong tình yêu thường mềm yếu và có chút mù quáng. Nhưng 3 chòm sao nữ mạnh mẽ dưới đây thì hoàn toàn khác nhé, họ tự tin, độc lập, biết yêu thương bản thân nên càng khiến cho người khác cảm thấy hấp dẫn.

=> Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao được cập nhật mới nhất

3 chom sao nu biet yeu chinh minh hinh anh 2
 
Nhân Mã
Cô gái Nhân Mã sinh ra đã phóng khoáng và tràn đầy sức sống, bản năng của họ là sự tự do và vui vẻ. Vì thế, không giống những cô gái khác khi yêu thường có giận hờn, buồn bã hay quá dựa dẫm vào tình cảm, Nhân Mã rất rõ ràng và thoải mái. Yêu thì phải hạnh phúc, không hạnh phúc thì không yêu nữa, đơn giản vậy thôi.   Sự thú vị của một nàng Nhân Mã
Cự Giải
  Cự Giải vốn là chòm sao nữ hiền lành, nhưng lại khá mạnh mẽ và biết cách làm bản thân thỏa mãn. Tuy biết cách quan tâm tới người khác, nhất mực chăm sóc và mong muốn được đối phương hồi đáp nhưng nếu không như ý thì Cự Giải cũng không lấy đó làm suy sụp. Họ cam tâm tình nguyện nên sau quãng thời gian trầm mặc sẽ tự mình rút lui, bảo vệ bản thân và tự đối tốt với mình.
Cự Giải - Cự Giải: cưới ngay kẻo lỡ
3 chom sao nu biet yeu chinh minh hinh anh 2
 
Ma Kết
  Ma Kết từ trước đến nay đều là chòm sao nữ mạnh mẽ, khi yêu họ có ý thức trách nhiệm cao với bản thân và đối phương nên biết cách cân bằng trong cuộc sống. Kết Kết đối xử tốt với người họ yêu và yêu cầu được đáp lại như vậy một cách hết sức tự nhiên, mối quan hệ sẽ trở nên thuận lợi và cả hai cùng cảm thấy vui vẻ. Họ còn có bản lĩnh tự điều tiết cuộc sống theo ý mình, nên không bao giờ vì yêu mà bỏ bê bản thân.   Tuy rằng hiền dịu nhu mì không có gì sai những nếu vất vả miễn cưỡng bản thân, vì tình yêu mà khiến mình phải chịu đựng thì thật không đúng. Vì càng yêu thì càng phải trân trọng và đối tốt với nhau.   Khám phá tính cách của Ma Kết theo ngày sinh
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Còn điều gì về tử vi của người tuổi Bính Dần, xin mời độc giả theo dõi.
Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Lục Thập Hoa Giáp, Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Ngoài ra, bởi tự nhận tài trí hơn người nên thành lười biếng, coi rằng mình đã ngập tràn nhiệt tình rồi, không cần phải tiếp tục nỗ lực nữa. Còn điều gì về tử vi của người tuổi Bính Dần, xin mời độc giả cùng theo dõi.

Dac diem noi bat ve tinh cach cua nguoi tuoi Binh Dan hinh anh
 
Theo Lục Thập Hoa Giáp, người tuổi Bính Dần nhiệt tình phóng khoáng, tự tin hiếu thắng, hay nói hay cười, thiếu bình tĩnh, tâm tình bất ổn, dễ kích động tức giận, khuyết thiếu cẩn thận chăm chú. Luận giải dựa trên kiến thức tử vi thì Bính là Thái Dương, tọa Trường Sinh, có ánh sáng sắc bén nên chủ nhân thông minh nhưng lại tọa Kiêu Thần đoạt Thực nên không may mắn.   Người sinh vào khoảng thời gian sau Đông Chí, trước Hạ Chí là Mậu Thổ Trường Sinh với Dần, Thực Thần vượng, chủ nhân thông minh, cát lợi. Người sinh vào khoảng thời gian sau Hạ Chí trước Đông Chí thì Mậu Thổ Trường Sinh ở Thân, Thực Thần yếu, vận trình kém hơn một chút. Để xác định thời gian, xin mời tham khảo bài viết: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm.   Tuổi Bính Dần thiếu thành thục, tâm tình không ổn định, nhanh mồm nhanh miệng, ngay thẳng chân thật, ưa vận động, lợi Quan gần Quý. Nữ mệnh hiền lương, lanh lợi, nếu cần cù sẽ có thu hoạch lớn. Bính là Dương Hỏa ưu thế mãnh liệt, hừng hực thiêu đốt, có thể làm sắt nóng chảy.    Bởi vậy người sinh vào năm Bính tinh lực dồi dào, đến đâu cũng có thể giành được quyền uy và danh tiếng, nhiệt tình theo đuổi lý tưởng của chính mình. Quang minh chính đại không che giấu bất kì khuyết điểm hay thiếu sót nào nên có lúc sẽ ồn ào tâm sự, thổ lộ những điều trong lòng mình với người khác.   Người tuổi Dần có uy lực, là con hổ dũng mãnh nên cá tính có phần cương ngạnh, cần có người thuần phục. Tính hoang dã trong con người tràn trề, nhiều khi khiến những người xung quanh cảm thấy sợ nhưng thực chất bạn hiền lành và thẳng thắn, không câu nệ tiểu tiết, thích làm thân với mọi người và có tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng tương trợ lúc khó khăn, hoạn nạn.    Tuổi Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Ngoài ra, bởi tự nhận tài trí hơn người nên thành lười biếng, coi rằng mình đã ngập tràn nhiệt tình rồi, không cần phải tiếp tục nỗ lực nữa. Công việc vì thế cũng phập phù, lúc tốt lúc xấu, nếu có thể toàn tâm toàn ý phấn đấu cho sự nghiệp thì đảm bảo thành quả không hề nhỏ, khiến người khác phải ngưỡng mộ.
Dac diem noi bat ve tinh cach cua nguoi tuoi Binh Dan hinh anh
 
Có khi như mặt trời mọc thoải mái trong sáng, có khi lại gây mâu thuẫn xung đột với những người xung quanh, cần phải biết cách khống chế tính cách của chính mình. Người sinh ngày Bính đều nhiệt tình trong tình yêu, một khi đã yêu thích ai sẽ không do dự, tích cực theo đuổi đến cùng, có thể coi là một hình thức quả cảm, không mấy ai sánh kịp.    Lần đầu gặp mặt chỉ cần phán đoán đó chính xác là đối tượng lý tưởng, bạn lập tức viết thư, gọi điện, tìm cách liên lạc hoặc trực tiếp đến trước mặt người đó đưa ra lời mời hẹn hò. Nam mệnh đa tình, có khuynh hướng năm thê bảy thiếp, vượt quá phạm vi chuẩn mực cho phép. Người này cũng có thể yêu nhiều người không cùng tính cách, kỹ xảo đạt tới mức thượng thừa.   Tuổi Bính Dần là người ăn nói dễ nghe, dễ lấy lòng người khác, thực tế chỉ khó vượt qua Hỏa tính trong lòng mà thôi. Một khi xác định mối quan hệ thì rất nhiệt tình, quan tâm nhưng vẫn không ngừng theo đuổi người con gái khác gây ảnh hưởng tới tình cảm hiện tại. Có thể bạn không thích các cô khác lắm đâu, rất yêu người yêu hiện tại nhưng bản tính thích chinh phục làm bạn không thể ngừng lại được.    Gieo rắc đào hoa khắp nơi cuối cùng không cẩn thận lại bị lửa đốt, chịu tổn thương, Bính Dần bị tình yêu chi phối, đi theo đường trái tim chỉ dẫn, cháy hừng hực như lửa, trời sinh có sức thuyết phục rất tốt. Họ sẽ được tha thứ nhưng có nắm bắt được cơ hội, làm lại từ đâu, trân trọng người mình đang có hay không thì chỉ có thể dựa vào chính bản thân bạn mà thôi.

Ngoài ra, bạn đọc có thể xem thêm một góc nhìn khác về số mệnh của người này thông qua bài viết: Giải mã vận mệnh người tuổi Bính Dần theo Lục Thập Hoa Giáp.

Xem tuổi xông nhà 2017 cho gia chủ tuổi Bính Dần Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Dần
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

Những lỗi đặt bàn thờ không đáng có phạm đại kị

Bàn thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà nhưng nhiều gia đình lại mắc lỗi đặt bàn thờ. Những điều kiêng kị khi đặt ban thờ dưới đây sẽ giúp bạn tránh
Những lỗi đặt bàn thờ không đáng có phạm đại kị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ban thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà, phải chú trọng để cả nhà được yên ổn và hưởng an lành. Những điều kiêng kị dưới đây sẽ giúp bạn tránh được những lỗi đặt bàn thờ không đáng có.


Nhung loi khong dang co khi dat ban tho hinh anh
 

Vị trí đặt ban thờ là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất trong phong thủy ban thờ. Một lỗi đặt bàn thờ thường gặp là vị trí phạm phải sát khí hoặc xú khí, tức là đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh, bếp, dưới xà nhà hay xung với cửa.
 
Đây đều là các vị trí rất xấu trong phong thủy, không thích hợp để đặt ban thờ. Đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh thì ô uế, hại sức khỏe; gần bếp thì hỏa vượng, thiêu rụi gia chủ, tán tài, phá phúc; dưới xà nhà thì áp lực đè nén, họa chết giáng đầu; xung với cửa thì có dao hướng tới, họa không lường được.
 
Điều kiêng kị khi đặt ban thờ thứ nữa là xung quanh có quá nhiều đồ đạc. Ban thờ nên đặt ở nơi thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ.
 
Theo nguyên tắc trái Thanh Long, phải Bạch Hổ thì phía trái ban thờ kị đồ diện, phía phải ban thờ kị bừa bộn. Bởi đồ điện thuộc Kim, không hợp với Bạch Hổ, dễ sinh sát khí mà làm hại gia chủ. Thanh Long chủ sức khỏe, sự nghiệp, đặc biệt ảnh hưởng tới nam giới trong nhà, phương này mà ô uế thì những thứ ấy đều hại.
 
Phía dưới ban thờ nên đặt một chiếc la bàn để tăng vượng khí, phía bên phải đặt tì hưu, bạch ngọc để cải thiện môi trường phong thủy. Ngoài ra không nên đặt thêm thứ gì khác, đặc biệt là dưới ban thờ.
 
Nếu như hướng của ban thờ ngược với hướng của nhà sẽ khiến cho gia đình không hòa thuận, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến việc không có con nối dõi. Đây là điều kiêng kị khi đặt ban thờ nhất thiết phải chú ý. Bởi đôi khi, gia chủ chỉ chú ý tới không gian, vị trí mà cho rằng hướng ban thờ không quan trọng. Cần phải nhớ, ban thờ là nơi tích tụ tâm linh, có hòa hợp với nhà thì mới tốt. Tránh được lỗi đặt bàn thờ này sẽ tránh phạm đại kị.
 
Đặt bài vị sát tường sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ, vận mệnh cả đời của con cháu, vì vậy luôn phải để một khoảng trống nhỏ giữa bàn thờ và bài vị tổ tiên. Ngược lại với bài vị, tượng Thần Phật phải đặt sát tường mới tốt.  
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lỗi đặt bàn thờ không đáng có phạm đại kị

Ở đời nên học chữ... tùy duyên

Đức Phật từng nói: với người không có duyên, dù nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể thức tỉnh mọi giác quan của họ…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa. Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn. Giữa tình cảm với nhau, có thể sâu, cũng có thể cạn.


Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay. Bạn không nên quá bận lòng, chỉ cần quản tốt việc của bản thân: làm những việc cần làm, đi con đường nên đi, giữ gìn sự lương thiện, nuôi dưỡng lòng chân thành; khoan dung với mọi người, nghiêm khắt với bản thân, còn lại thuận theo nhân duyên là được.


Đức Phật từng nói: với người không có duyên, dù nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể thức tỉnh mọi giác quan của họ…

Có một số việc, vừa phân trắng đen đã trở thành quá khứ; Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng; Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước; Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.

Đôi khi hôm nay là việc lớn, ngày mai nhìn lại chẳng có gì đáng kể; năm nay quan trọng, sang năm sẽ trở thành thứ yếu; chuyện vĩ đại đời này, đời sau người ta gọi là truyền thuyết.

Chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ là câu chuyện của một người. Vì thế trong cuộc sống hay công việc, nếu gặp chuyện không vừa ý, hãy nói với bản thân: “hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi cũng đến, hãy buông bỏ tất cả để bắt đầu ngày mới!”

Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.

Trên đời, có một số việc không phải không để tâm, mà để tâm cũng không làm được gì hơn.
Cuộc sống không có “nếu như”, chỉ có “hậu quả” và “kết quả”.

Đón nhận đời mình như thế nào là do bản thân lựa chọn, người khác không thể quyết định thay.

Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.

Theo Phununews

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ở đời nên học chữ... tùy duyên

Tính cách người tuổi Tị nhóm máu AB: Thông minh, nhạy bén

Tính cách người tuổi Tị có khác biệt gì khi bị ảnh hưởng bởi nhóm máu? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về tính cách và cuộc đời người tuổi Tị nhóm máu AB nhé.
Tính cách người tuổi Tị nhóm máu AB: Thông minh, nhạy bén

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tị vốn được biết đến bởi sự thông minh và bí ẩn mang nhiều nét quyết rũ riêng. Vậy tính cách người tuổi Tị có khác biệt gì khi bị ảnh hưởng bởi nhóm máu? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về tính cách và cuộc đời người tuổi Tị nhóm máu AB nhé.  

Tính cách đặc trưng của người tuổi Tị nhóm máu AB

  Xem tử vi, những người sinh năm Tị mà có nhóm máu AB thường rất thông minh, họ có thể trở thành người lãnh đạo cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Bản thân họ cũng thích đứng ở vị trí quyết định, không ngừng trau dồi bản thân để làm tốt vị trí của mình, nhờ thế mà được khen ngợi rất nhiều.   Tính cách người tuổi Tị nhóm này vô cùng hoạt bát, vui vẻ, thích nói cười, hát ca, thích các môn thể dục thể thao. Tuy nhiên họ lại là những người vô cùng nghiêm túc trong công việc, đề cao hiệu suất và chất lượng công việc. Họ bình tĩnh và logic, tư duy cực kì nhạy bén, bất cứ chuyện gì cũng lên kế hoạch kĩ càng. 


tinh cach nguoi tuoi Ti nhom mau AB
 
  Người này khá ưa sĩ diện, thậm chí có phần phù phiến, luôn tỏ vẻ mình là một người lão luyện, có khí chất hơn người và năng lực xuất chúng trước mặt mọi người, giấu kín những hỉ nộ ái ố của bản thân sau lớp vỏ bọc ấy.   Ngay cả đối với bạn bè hay đồng nghiệp, họ cũng luôn giữ vẻ bề ngoài lạnh lùng và giữ khoảng cách với mọi người. Họ không thích quá thân mật với những người khác, không thích người khác xâm nhập vào không gian riêng tư của bản thân. Dù có gặp khó khăn, họ cũng không thích người khác giúp đỡ, ngược lại, họ cũng hiếm khi lấy việc giúp người làm vui.   Trí tuệ hơn người, có khả năng phán đoán khá chính xác, họ có thể dự đoán được vận cát hung trên chặng đường tương lai của mình, sau đó quyết đoán đưa ra những biện pháp để phòng tránh. Nhờ thế mà người tuổi Tị nhóm máu AB có cuộc đời khá bình ổn, không phải trải qua nhiều trắc trở, có cuộc sống vui vẻ, bình an.

Thử xem Vận số người tuổi Tị theo tháng sinh bạn nhé.
  Tuy nhiên, có lẽ vì gặp nhiều may mắn nên tính cách người tuổi Tị nhóm này không được tích cực cho lắm. Họ làm việc thiếu đi sự nỗ lực, không đủ cố gắng và quyết tâm, nhờ trí thông minh và tài năng của mình mà không xảy ra sai sót, hoàn thành công việc đúng thời hạn với chất lượng không đến nỗi nào. Thêm nữa, họ là người làm việc có kế hoạch, không ham chơi, tập trung khá cao vào công việc của mình. Khả năng ước lượng và sắp xếp công việc tốt nên họ hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo cả về công việc và gia đình, song điều đó khiến họ đôi khi cảm thấy trống rỗng.   Những người tuổi Rắn nhóm máu AB thường có vẻ ngoài khá cuốn hút, lại có trí tuệ nên tự nhiên cũng trở nên hấp dẫn hơn trong mắt người khác phái. Khi đã xác định được mục tiêu, họ sẽ tiếp cận đối phương một cách khéo léo và thu hút đối phương bằng sức hấp dẫn của riêng mình. Họ thể hiện những điều đó một cách rất tự nhiên, làm theo kế hoạch mà như thể tùy cơ ứng biến, khiến cho đối phương dần sa bẫy mà không hề biết rằng mình đã vướng phải lưới tình giăng sẵn.   Có điều bản tính người tuổi Tị khá lạnh lùng nên thái độ với người yêu của họ cũng không quá nồng nhiệt. Nếu gặp phải những người giàu cảm xúc thì có lẽ tình yêu “nhàn nhạt” của người tuổi Tị nhóm máu AB sẽ khiến cho đối phương bỏ họ mà đi. Nên chọn những người có tấm lòng bao dung hay những người có tính cách lạnh lùng tương tự thì đôi bên sẽ có sự thấu hiểu và cho nhau khoảng trời riêng, có không gian riêng để tận hưởng cuộc sống mà vẫn sống hạnh phúc bên nhau.   Người này không có quá nhiều ước vọng về tình yêu, càng không mơ mộng về cuộc sống gia đình. Với họ, hôn nhân chỉ mang đầy phiền phức do sự ràng buộc, mất tự do. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân khiến cho họ không quá tình cảm nồng nàn với một nửa của mình.   Nam mệnh nên chọn cô gái vui vẻ nhiệt tình, khoan dung, hài hước làm vợ. Nữ mệnh nên chọn người đàn ông trung thực, rộng lượng, sống tích cực làm chồng, sẽ có được hôn nhân hạnh phúc bền lâu.  

Ưu điểm của người tuổi Tị nhóm máu AB

  Người tuổi Tị nhóm này có thể nói là người sống rất lý trí, có tinh thần độc lập tự chủ cao. Bề ngoài họ rất mạnh mẽ nhưng kì thực lại vô cùng tinh tế và nhạy cảm, có trực giác nhạy bén hơn người, có khả năng phán đoán đúng sai rất chuẩn xác. Họ tự lên mọi kế hoạch cho cuộc đời mình, từng bước từng bước hoàn thành những mục tiêu mình đặt ra, cũng có những dự đoán tương đối chuẩn xác về tương lai nên cuộc đời người tuổi Tị nhóm máu AB khá suôn sẻ và thuận lợi.


uu diem nguoi tuoi Ti nhom mau AB
 
  Họ không thích thể hiện tình cảm ra ngoài, cũng không thích bị người khác can thiệp vào cuộc sống riêng của mình, ngược lại, họ cũng sẽ không tò mò về những điều riêng tư của người khác. Trong con mắt của mọi người, họ là người chín chắn và trưởng thành, cũng rất lạnh lùng, không dễ lại gần.   Tuy nhiên, người này cũng có đủ khả năng xử lý tốt tất cả các mối quan hệ trong xã hội, nhờ thế mà họ trở nên vô cùng nổi bật giữa đám đông. Năng lực của bạn được cả đồng nghiệp và cấp trên công nhận.   Khí chất phóng khoáng lạnh lùng rất phù hợp với tài trí của người tuổi Tị nhóm máu AB, cho dù không có ngoại hình xuất chúng đi chăng nữa thì ở họ vẫn toát ra nét quyến rũ rất riêng, đặc biệt thu hút người khác giới, chính vì thế mà vận đào hoa của người tuổi Tị này vô cùng vượng phát.   Họ thích tình yêu an ổn, bình yên, vẫn giữ được lý trí cho mình chứ không bị cuốn theo những cơn sóng cuồng nhiệt của cảm xúc. Họ có thể nắm giữ tiết tấu tình yêu vô cùng tốt, nhờ thế mà hôn nhân hạnh phúc bền lâu. Người tuổi Tị nhóm máu AB có cái nhìn rất thực tế về tương lai, không ôm quá nhiều hy vọng, càng không kì vọng quá cao, họ thích cuộc sống bình dị để có thể thanh thản và thư thái tâm hồn.  

Nhược điểm của người tuổi Tị nhóm máu AB

  Tính cách người tuổi Tị nhóm này có phần phù phiếm, ưa hư vinh, song cũng rất sĩ diện. Họ đem tất cả cảm xúc của mình giấu đi, không để người khác biết mình đang nghĩ mình, giữ hình tượng một người chín chắn và trưởng thành. Đôi khi sự trưởng thành mà họ cho người khác thấy chỉ là lớp vỏ bọc được họ ngụy trang mà thôi, chỉ khi gặp người thực sự trưởng thành thì lớp vỏ bọc ấy sẽ chẳng thể che giấu được con người thực sự của người tuổi Tị nhóm máu AB.
 
Họ không thích can thiệp vào cuộc sống của người khác, cũng không lấy chuyện giúp người làm vui, vì thế mà số bạn bè thân thiết tri kỉ của họ không quá nhiều, thậm chí có thể đếm trên đầu ngón tay. Song họ không lấy thế làm buồn bởi họ cho rằng sự cô đơn của tâm hồn là điều khó có thể tránh được.   Dưới bàn tay sắp xếp của mình, người tuổi Tị nhóm máu AB có cuộc sống bình lặng, không có gì nổi bật, cũng không có mong muốn trở nên nổi bật, điều đó khiến cho người khác thấy bạn nhạt nhẽo, bản thân bạn cũng không có hứng thú gì nhiều với cuộc sống.  

Tài lộc người tuổi Tị nhóm máu AB

  Nhìn chung vận thế tài lộc của người tuổi Tị nhóm này khá bình ổn. Từ thời trẻ cho tới khi tóc bạc da mồi tuy không giàu có hơn người nhưng chẳng bao giờ lâm vào cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, do tính cách của người tuổi Tị nhóm máu AB luôn lên kế hoạch cho cuộc đời mình nên họ cũng tích cóp được chút ít, không phải lo cơm ăn áo mặc.


tai loc nguoi tuoi Ti nhom mau AB
 
  Nhờ vào tài năng và trí tuệ của mình, họ tự tay gây dựng cuộc sống và giữ cho nhịp độ cuộc sống được bình an, thuận lợi. Thêm nữa, họ thích cuộc sống ổn định nên sẽ không có quá nhiều quyết tâm để thay đổi trong cuộc sống, vì thế mà cũng bỏ lỡ khá nhiều cơ hội phát tài. Tới tuổi trung niên, họ sẽ đứng trước một vài cơ hội thay đổi vận mệnh tài lộc của mình, chỉ là bản thân họ có nắm bắt được hay không thôi.

Mời bạn xem thêm: Tài lộc của người tuổi Tị theo từng tháng.
  Mặc dù về cơ bản thì cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, kinh tế của người này luôn thuận lợi hơn người khác, nhưng bản thân chính họ chọn lựa cuộc sống ổn định như vậy rồi lại tự mâu thuẫn khi thấy người khác giàu có phát đạt hơn mình.   Có thể nhiều người sẽ nói người tuổi Tị nhóm máu AB giàu có nhờ may mắn, song kì thực những gì họ có được là do chính tài năng của bản thân, do trí thông minh và năng lực của họ mà nên. Nếu họ có thể thoát khỏi lớp vỏ bọc an toàn và phát huy khả năng của mình hết mức thì chắc chắn sẽ có được nhiều thêm cơ hội tài lộc lớn đến với mình.  

Tình yêu và hôn nhân của người tuổi Tị nhóm máu AB

 

Tình yêu

  Người tuổi Tị nhóm máu AB là những người rất hấp dẫn với người khác phái. Với khí chất và trí tuệ của mình, họ tỏa sáng giữa đám đông. Họ không cần phải chủ động tiếp cận đối tượng mà vẫn có được người mình muốn. Khi giao tiếp, họ rất thoải mái và tự nhiên, có sức hút không nhỏ.   Họ cũng là người có khả năng kiểm soát tình cảm khá tốt, cũng biết cách kiểm soát người mình yêu. Họ biết cách để đối phương rơi vào “bẫy tình”, làm theo những điều mình muốn một cách khéo léo. Đó có lẽ là tài năng hiếm có mà không phải ai cũng có thể làm được.   Tuy nhiên, họ vốn là người lạnh lùng nên luôn giữ khoảng cách an toàn khá xa với mọi người. Họ không thích quan hệ bạn bè quá mức thân mật. Có thể nói ngay cả với bạn bè thân thiết, họ cũng chỉ dừng lại ở mức độ xã giao chứ không quá hồ hởi, vồ vập.   Họ cũng giữ thái độ như thế cho mình trong tình yêu. Sự gắn bó thân thiết trong tình cảm là điều họ còn thiếu sót nên chuyện tình yêu có thể gặp phải khá nhiều trắc trở. Nếu đối phương là người có tính cách và suy nghĩ tương tự thì mọi chuyện có thể tiến triển tốt, song nếu đối phương là người giàu cảm xúc và trọng tình cảm thì sẽ thấy tình yêu nhạt nhòa, tình yêu dần phai nhạt, hai người khó đi đến được kết cục tốt đẹp.   Tuy thu hút được sự chú ý của người khác giới nhưng ở người tuổi Tị nhóm máu AB lại thiếu đi sự nồng nhiệt cần có trong tình yêu. Bản thân họ không có quá nhiều mơ ước về chuyện tình cảm, cũng chẳng có những ảo tưởng màu hồng về người mình yêu. Họ luôn cho rằng hôn nhân với nhiều điều hạn chế, bó buộc sẽ mang lại nhiều phiền toái, thậm chí họ không muốn kết hôn để có thể tận hưởng cuộc sống luôn được làm mọi chuyện theo ý mình. Đây cũng chính là một trong lý do khiến họ lạnh nhạt với người mình yêu.

Bạn đã biết Tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân chưa?


tinh yeu hon nhan nguoi tuoi Ti nhom mau AB
 
 

Hôn nhân

  Thái độ sống và cách nhìn hôn nhân khá tiêu cực nên với người tuổi Tị nhóm máu AB, cuộc sống gia đình không mang lại cho họ nhiều hạnh phúc và thoải mái như cuộc sống độc thân. Họ sẽ vô cùng thận trọng trong việc lựa chọn bạn đời.   Người tuổi Tị nhóm này phần lớn kết hôn không phải do tình yêu thúc giục mà là do những nhu cầu của cuộc sống cũng như sự mong chờ của người xung quanh. Họ sống phóng khoáng nên không đặt nặng vấn đề trinh tiết, có thể sẽ nảy sinh quan hệ tình dục trước hôn nhân.   Vốn là những người thích cuộc sống ổn định, ngại thay đổi nên có thể nói sau khi kết hôn, họ an phận với cuộc sống mình có, không dễ thay lòng đổi dạ mà luôn biết gia đình là nơi để trở về.  

Lời khuyên dành cho người tuổi Tị nhóm máu AB

  Bạn nên đặt thêm nhiều cảm xúc vào trong cuộc sống hơn nữa, có kế hoạch là tốt, nhưng thi thoảng hãy thử buông thả một chút và sống bản năng hơn. Nếu bản thân bạn thực sự là người bình tĩnh, lý trí, không dễ bị tình cảm tác động thì hãy cứ sống với tính cách của mình. Còn nếu bạn chỉ vì sĩ diện, vì ham hư vinh, mong muốn được mọi người công nhận năng lực của mình mà cứ gồng mình mang theo lớp áo giáp, đeo lớp mặt nạ không phải thuộc về mình thì hãy từ bỏ và sống thoải mái hơn.   Không có nhiều bạn bè, có ít bạn bè thân thiết không phải là chuyện tốt, hãy tìm cho mình một người thực sự đáng tin tưởng để tâm tình, bộc lộ những suy nghĩ ẩn sâu trong nội tâm. Hàng ngày, hãy sống thân thiện và cởi mở hơn, đừng quá giữ khoảng cách với mọi người, cũng nên nhiệt tình giúp đỡ mọi người. Việc đó sẽ giúp bạn có thể mở rộng thêm mối quan hệ. Bạn sẽ thấy mình tìm được sự cân bằng trong cảm xúc khi có người để chia sẻ buồn vui.   Hy Vũ

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tị mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Thìn, tuổi Tị (Âm lịch) Người sinh năm Kỷ Tị, Tân Tị, Quý Tị, Ất Tị, Đinh Tị thì mệnh gì? Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tị

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Tị nhóm máu AB: Thông minh, nhạy bén

Xem giờ sinh tuổi Tuất: Sinh giờ nào thì uy danh lừng lẫy?

Xem giờ sinh tuổi Tuất: Người tuổi Tuất sinh giờ Ngọ có chức có quyền, uy danh lừng lẫy bốn phương, ở nhà được gia đình hậu thuẫn, ra ngoài có quý nhân giúp đỡ
Xem giờ sinh tuổi Tuất: Sinh giờ nào thì uy danh lừng lẫy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nên dễ đạt được thành công bền vững. 


Giờ Tý (23h – 1h)

  Theo luận đoán tử vi, vì Tuất Thổ khắc chế Tý Thủy nên người tuổi Tuất sinh giờ Tý có số không hợp thời, cuộc sống nhiều thăng trầm trắc trở, ra ngoài không được quý nhân phù trợ nên lập nghiệp khó khăn, mưu sự khó thành.   Đa phần người sinh giờ này đều có số mệnh trôi nổi, phiêu bạt nay đây mai đó nhưng nếu biết nắm bắt xu hướng phát triển của xã hội và nhạy bén với những hoàn cảnh xung quanh để hành động sáng suốt thì cũng có được những thành công nhất định.

 

Giờ Sửu (1h – 3h)

  Cuộc đời của người tuổi Tuất sinh giờ Sửu cũng nhiều trắc trở và phiền muộn, khó tránh việc phá tài nhẹ. Tuy nhiên người này có quý nhân là người khác giới trợ giúp nên đều tai qua nạn khỏi và cuộc sống khá yên ổn.  

Giờ Dần (3h – 5h)

  Người tuổi Tuất sinh giờ Dần có cuộc đời trắc trở, nhiều kẻ tiểu nhân quấy phá, làm tổn hại đến sự nghiệp. Vì tin tin tưởng và nghe lời người khác một cách mù quáng nên trong đời vướng vào nhiều rắc rối hoặc tranh chấp thị phi, nhẹ thì tổn hao tiền của, nặng thì thân bại danh liệt.  

Giờ Mão (5h – 7h)

  Do Mão Mộc khắc chế Tuất Thổ nên người này dễ mắc bệnh tật nên hao tiền tốn của, sự nghiệp cũng không có thành công nổi trội. Tuy nhiên, được sao Nguyệt Đức chiếu mệnh, nên không gặp đại nạn, về cơ bản vẫn có cuộc sống khá bình yên.

Xem gio sinh phu quy cho nguoi tuoi Tuat hinh anh
Ảnh minh họa
 

Giờ Thìn (7h – 9h)

  Theo Tử vi trọn đời, người tuổi Tuất sinh giờ Thìn tính tình nóng vội nhưng thẳng thắn chính trực, cuộc đời cũng nhiều khó khăn trắc trở, cộng thêm sao Nguyệt Không chiếu mệnh nên có số hao tài tốn của, tiền vận khó khăn, trung vận chuyển biến tích cực, tay trắng lập nghiệp nhưng hậu vận lại dễ phá tài, nên hành xử phải hết sức cẩn trọng.  

Giờ Tỵ (9h – 11h)

  Cuộc đời người tuổi Tuất sinh giờ Tỵ vui buồn song hành, tuy số gặp đại nạn nhưng nhờ sao Long Đức hộ mệnh nên tai qua nạn khỏi, tài sản không bị phát tán. Ngoài ra, người này có cuộc sống gia đình hòa thuận, ra ngoài được quý nhân giúp đỡ nên sự nghiệp cũng phát triển một cách thuận lợi.   

Giờ Ngọ (11h – 13h)

  Do Ngọ hỏa sinh Tuất Thổ nên người tuổi Tuất sinh giờ Ngọ có chức có quyền, uy danh lừng lẫy bốn phương. Người này tính tình chính trực, thông minh nhanh nhẹn, có dũng khí vượt qua mọi hiểm nguy, ý chí kiên định, ở nhà được gia đình hậu thuẫn, ra ngoài có quý nhân giúp đỡ nên dễ đạt được thành công bền vững.    Tuy nhiên, người này có sao Bạch Hổ chủ về hao tán tiền bạc chiếu mệnh nên làm việc gì liên quan đến tài chính đều phải thận trọng.  

Giờ Mùi (13h – 15h)

  Đa phần người tuổi Tuất sinh giờ Mùi đều có số mệnh cô đơn, trong đời tuy không gặp đại nạn (do có phúc tinh chiếu mệnh) nhưng cũng nhiều khó khăn trắc trở. Người này dễ vướng vào họa khẩu thiệt thị phi lại thiếu sự trợ giúp của gia đình và quý nhân nên sự nghiệp khó thành.   

Giờ Thân (15h – 17h)

  Cuộc sống của người tuổi Tuất sinh giờ Thân khá hạnh phúc, thành đạt, vạn sự như ý nhưng lại phải sống li hương, lập nghiệp ở nơi đất khách quê người.  

Giờ Dậu (17h – 19h)

  Người này có được sự hậu thuẫn vững chắc từ gia đình, tổ tiên và được quý nhân phù trợ nên sự nghiệp phát triển thuận lợi, đạt được những thành tích đáng nể, cuộc sống giàu sang phú quý nhưng sức khỏe yếu, dễ mắc bệnh tật, cần phải tăng cường rèn luyện và chăm sóc sức khỏe hơn.  

Giờ Tuất (19h – 21h) 

  Người tuổi Tuất sinh giờ bản mệnh thông minh linh hoạt, có tư tưởng tiến bộ, tài năng xuất chúng nên có cuộc sống khá yên ổn, hạnh phúc và đạt được thành công nhất định trong sự nghiệp. Tuy nhiên, vì bản mệnh phạm Thái Tuế nên hay phải lo nghĩ, tinh thần bất ổn.  

Giờ Hợi (21h – 23h)

  Số người này phải sống xa quê hương, một mình bôn ba khắp nơi để cầu danh lợi, nhưng được sao Thái Dương chiếu mệnh nên đến trung vận thì sự nghiệp bắt đầu khởi sắc, hậu vận được an nhàn, hạnh phúc.   Kết luận: Giờ sinh phú quý của người tuổi Tuất là giờ Tỵ, Ngọ và Thân theo Lịch âm dương - Lịch Vạn Niên.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Người tuổi Tuất có nhân duyên hợp tác làm ăn với tuổi nào?

An Khánh (Theo XZ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh tuổi Tuất: Sinh giờ nào thì uy danh lừng lẫy?

10 kinh nghiệm của sát thủ Tử Vi

Bài viết "10 kinh nghiệm của sát thủ tử vi" của GS Lê Trung Hưng trình bày rất hay về các kinh nghiệm của phái Thiên Lương trong việc giải đoán lá số Tử Vi.
10 kinh nghiệm của sát thủ Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi "Mười Kinh nghiệm" được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm:

1 - Sinh bất phùng thời:

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ: Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:

  • Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
  • Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
  • Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
  • Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá, Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
  • Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai!)

2 - Đồng bệnh tương lân:

Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ: tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết... ). Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau:

  • Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách)
  • Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
  • Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của "Đồng Mệnh tương lân": Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ: Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung, là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói: "Thiện căn ở tại lòng ta".

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ: Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ: hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách:

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn...

4 - Công ơn Tổ-Phụ:

Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là: nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú: "Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp". Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống, chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa: giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên "may mắn" còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời "Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí"

Ví dụ: Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi "Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa" là một đời có nghĩa "Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số". Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó 

Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương: Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng "mày râu" (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều!) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao? Xin thưa ngay rằng: Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú:

– Người trần thế muốn nhàn sao được?

Nói dễ hiểu hơn: Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa "ký sinh nhân"?

6 - Làm thân trâu ngựa

Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là: Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.

Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào:

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả oán:

Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ: Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau: Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ, đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.

Ví dụ: Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7 - Trắng tay sự nghiệp

Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao: Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng:

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8 - Sớm đầu tối đánh

Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện:

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế!). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau: Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu "họa vô đơn chí", nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời, bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9 - Được làm vua thua làm giặc

Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10 - Anh hùng tạo thời thế

Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

- Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

- Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm của sát thủ Tử Vi

Bảng tương sinh tương khắc của 12 con giáp

Theo luật tương sinh tương khắc trong ngũ hành, có những con giáp sau khi gặp nhau sẽ kìm kẹp, gây hại lẫn nhau, nhưng cũng có những con giáp sau khi gặp nhau sẽ tạo đại cát đại lợi...
Bảng tương sinh tương khắc của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-1 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-2 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-3
Sửu  Dần Mão
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-4 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-5 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-6 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-8 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-9 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-10 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Anh Anh (theo D1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tương sinh tương khắc của 12 con giáp

Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Lời nói gió bay, vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.
Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời nói gió bay, miệng nói mà tay không làm thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.


► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Song Tử   Chòm sao bạo miệng Song Tử tất nhiên là nói giỏi, khua môi múa mép giỏi nhưng làm thì chưa chắc đâu nhé. Có một số việc, Song Tử rất nhanh nhẹn nhận phần, hứa hẹn hùng dũng khiến người khác thập phần tin tưởng công việc sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng cuối cùng chỉ nhận về thất vọng. Độ chém gió thành thần của Song Tử đã cao tới mức, có 1 nói thành 100, có 10 nói thành 1000 rồi nên điều đó có gì là lạ đâu.
Nhân Mã   Lạc quan mù quáng và tin tưởng quá độ chính là điều biến Nhân Mã thành chòm sao giỏi chém gió. Do không cân nhắc năng lực cùng điều kiện thực tế, quá coi trọng bản thân, không lường trước khó khăn, nhìn nhận sự việc đơn giản nên Mã Mã tự tin sẽ làm tốt, hứa hẹn rất hoành tráng. Cuối cùng, sóng gió ập tới, thực tế phũ phàng khiến họ thất hẹn. Dù không cố lừa đảo hay khoác lác nhưng kết quả lại biến thành người như vậy.
4 chòm sao có trí thông minh hơn người 3 chòm sao nữ có tấm lòng vị tha, độ lượng 3 chòm sao nói KHÔNG với tình một đêm

Bạch Dương
  Bạch Dương là chòm sao thành thật, tại thời điểm hứa hẹn họ thật sự là muốn làm tốt, nhưng bản tính khoác lác, khoe mẽ không sao bỏ được nên thêm mắm dặm muối, thổi phồng năng lực lên nhiều lần khiến đối phương cảm thấy rất tín nhiệm. Dẫu cố gắng trân trọng sự tin tưởng ấy bao nhiêu nhung vì năng lực thực chất có hạn nên bạch Dương vẫn không thể hoàn thành sự việc hoàn hảo, tốt đẹp như họ từng chém gió trước đây. Cũng vì thế mà mác khoác lác cứ đeo bám mãi thôi.
Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Sư Tử
  Chòm sao kiêu ngạo như Sư Tử dễ gì mà có 1 nói 1, có 2 nói 2. Họ phải thể hiện bản lĩnh, tâng bốc bản thân để người khác phải trọng vọng. Thói ham hư vinh đến chết không chừa ấy đã nhiều lần mang tới rắc rối cho Sư Tử và những người khác khi mà hoàn thành công việc không đúng với hứa hẹn ban đầu thì họ lại quay ra đổ lỗi xằng bậy chứ nhất định không chịu nhận trách nhiệm về mình. Một vài lần, người khác sẽ tự khắc hiểu lời nói có Sư Tử có mấy phần đáng tin.    3 chòm sao lúc nào cũng vui vẻ như trẻ thơ Chỉ điểm cách giải tỏa áp lực trước kì thi cho 12 chòm sao Chỉ số thông minh của 12 cung hoàng đạo Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Nhân viên tiếp thị trong mơ là tượng trưng cho tất cả những gì bạn cần và mong muốn. Trong mơ xuất hiện nhân viên tiếp thị, cho thấy bạn hy vọng sẽ mang tặng người khác những gì bạn thấy cần cho bản thân. Nếu mơ thấy mình trở thành nhân viên tiếp thị
Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí.
Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí chúng ta.  
Mỗi dịp Tết trung thu khắp những con phố nhỏ rộn ràng khúc hát: “Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu. Cán đây rất dài cán cao quá đầu. Em cầm đèn sao em hát vang vang. Đèn sao tươi màu của đềm rằm liên hoan! Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh..."

Đã từ lâu mặt nạ giấy bồi, đèn Trung thu hình ngôi sao là những món đồ không thể thiếu đối với trẻ em trong dịp Tết trung thu ngày trước. Ngày nay, tuy nhiều loại đồ chơi hiện đại xuất hiện nhưng những món đồ chơi này vẫn có một ý nghĩa đặc biệt với trẻ nhỏ.
 
Để làm một chiếc đèn Trung thu hoàn toàn bằng thủ công, người thợ phải làm nhiều công đoạn chi tiết và phức tạp, từ chẻ tre, vót tre, cắt khung, làm xương đèn, lắp cán đến in hoa văn, màu sắc trên giấy kính… mới tạo thành một chiếc lồng đèn hoàn chỉnh.

Tre làm lồng đèn phải là tre già ngâm với nước muối nhiều ngày để chống mối mọt, sau đó phơi khô, chuốt nan tùy theo kích cỡ của từng loại đèn. Giấy dán lồng đèn có nhiều màu, khi căng ra dán người thợ cần phải khéo léo để giấy thẳng góc và không bị rách.
 
 Tham khảo: Nét đẹp phong tục truyền thống trong Tết Trung Thu đất Việt
 

Y nghia cua den Trung thu truyen thong
 
Những công đoạn, như: chẻ tre, cột khung, ráp hình đã được chuẩn bị trước hàng tháng trời. Đến khi giáp Tết trung thu người ta chỉ cần dán dấy, nhấn nhá thêm vài nét vẽ nữa là hoàn thành. Từng chiếc lồng đèn hình con bướm, con cá, giỏ hoa, xe tăng… đủ màu sắc và ngộ nghĩnh được gia chủ treo lên trước cửa tiệm đã thu hút mọi ánh nhìn của người qua đường.

Làm lồng đèn là một nét đẹp văn hóa có từ lâu đời. Nét đẹp đó chỉ có thể duy trì nếu mỗi thế hệ biết giữ gìn, trân trọng. Đó là truyền thống kết tinh từ tình yêu, sức sáng tạo, từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào, hướng thiện trong mỗi con người.
 
Những đồ chơi này tuy không được gắn những con chíp điện tử để có thể phát sáng hoặc phát ra một đoạn nhạc như đồ chơi hiện đại ngày nay, nhưng chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ em. Đặc biệt là trước đây, nhiều gia đình thường tự làm những chiếc đèn Trung thu cho con cái, điều này mang lại những kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ với con trẻ.
 
 Tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung thu truyền thống của Việt Nam
 
Neu duoc tu tay lam den Trung thu se tang su sang tao cua tre
 
Lựa chọn Tết Trung thu để tạo kỷ niệm đẹp với con cái là một điều tuyệt vời. Con trẻ bao giờ cũng hiếu kỳ, thích khám phá. Cho nên các con sẽ vô cùng háo nức khi cùng cha mẹ làm lồng đèn. Nhờ đó, bé biết hy vọng vào một điều gì đấy, giống như việc chờ đợi ngày chiếc lồng đèn hoàn thành. Đơn giản vì trong tâm trí trẻ thơ, chúng tin rằng chiếc đèn lồng này là duy nhất và chỉ dành cho mình.   Đây là một dịp để gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui của ngày hội. Sau khi chiếc lồng đèn “ra lò”, mọi người trong gia đình hãy cùng nhau thắp đèn, hát 1 bài vui nhộn hay kể một câu chuyện ý nghĩa nào đó. Chắc chắn, kỷ niệm ngọt ngào này sẽ luôn được các thành viên nhớ về mỗi khi gặp chuyện không vui trong cuộc sống.   Việc mua lồng đèn có sẵn sẽ khiến trẻ cảm thấy chúng quá dễ có được, thậm chí trẻ sẽ không biết quý trọng những gì mình đang có, lại còn muốn đòi mua liên tục ba bốn cái khác nhau. Tuy nhiên lồng đèn do tự tay trẻ làm ra sẽ được trẻ giữ rất kỹ. Bởi lẽ trẻ cảm nhận được tình yêu, sự tâm huyết của mọi người dành cho trẻ. Thậm chí qua khỏi mùa Trung thu, trẻ vẫn giữ chiếc lồng đèn để tiếp tục thắp sáng trong những đêm thường.   Khi quan sát hoặc tự làm lồng đèn sẽ giúp trẻ có tư duy nhạy bén hơn. Đứa trẻ nào cũng rất tò mò, vậy nên nó sẽ xem xét lỹ lưỡng mọi thứ mà nó cảm thấy lạ. Và biết đâu trẻ sẽ “sáng chế” ra những chiếc lồng đèn mà hiện nay chưa có trên thị trường.   Dù thành quả thế nào, cuối cùng thì chiếc lồng đèn này vẫn là chiếc đèn lồng độc nhất trên hành tinh. Giống như tình cảm gia đình thiêng liêng được duy trì qua mỗi thế hệ.

Kate Nguyễn
Cách làm bánh Trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao Top 4 con giáp may mắn nhất trong dịp Tết Trung Thu 2017 Tết Trung Thu tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát tán tai, cầu an

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Thiết kế nhà theo phong thủy bằng cách sử dụng biểu tượng trái cây

Thiết kế nhà theo phong thủy bằng cách sử dụng biểu tượng trái cây không chỉ mang lại những điều tốt cho gia đình và còn khiến không gian nhà tràn ngập hơi thở thiên nhiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy truyền thống, các trái cây được phân loại thành biểu tượng của trường thọ, sự giàu có, thịnh vượng…  Tùy vào mong ước của chủ nhân cũng như sở thích bài trí nhà cửa mà lựa chọn loại hình biểu tượng trái cây phù hợp. Có thể treo tranh, ảnh hay bài trí biểu tượng trái cây bằng chất liệu đá quý, đồng, ngọc…

1. Đào tượng trưng cho trường thọ trong phong thủy nhà

Là loại quả phổ biến trong phong thủy, đào còn biết đến với cái tên “đào tiên” vì gắn với truyền thuyết cổ Trung Hoa về các vị thần bất tử. Đào được xem là biểu tượng của sự giàu có, sức khỏe, sự thịnh vượng và trường thọ. Hoa đào cũng được xem là biểu tượng của tình yêu và hôn nhân.

2. Thiết kế nhà theo phong thủy với trái lựu để “con đàn cháu đống”

Lựu rất nhiều hạt tượng trưng cho khả năng sinh sản, được coi là biểu tượng hóa giải, thúc đẩy vận may về con cái. Nói cách khác, hình ảnh trái lựu tươi thắm, căng mọng gợi hình ảnh về một gia đình hạnh phúc và đông con nhiều cháu. Theo các chuyên gia phong thủy, những cặp vợ chồng mới cưới nên treo tranh ảnh nghệ thuật về lựu.

3.Biểu tượng trái nho mang lại tài lộc cho gia chủ

Trong phong thuỷ, nho tượng trưng cho sự dư thừa về lương thực, sự dồi dào về tiền bạc… Nho cũng đại diện cho sự thành công đang hiện hữu trong gia đình bạn hoặc trong tương lai không xa. Đôi khi, nho cũng được sử dụng như là công cụ phong thủy cho các vấn đề về sinh sản cũng như trong việc hóa hung thành cát.

4. Táo tượng trưng cho sự ấm êm trong gia đình

Táo biểu hiện cho sự hòa bình, đem lại sức khỏe và sự hòa hợp trong gia đình. Trong tiếng Hán, quả táo gọi là “bình quả”, chữ “bình” này đồng âm với chữ “bình” trong từ “hòa bình”. Theo quan niệm phong thủy, táo đỏ được coi trọng hơn mặc dù táo xanh hoặc vàng cũng được sử dụng rộng rãi.

5. Dứa mang tiền bạc vào nhà

Theo phong thủy, trái dứa tượng trưng cho sự may mắn về tiền bạc.

6. Cam, quất, chanh – sự thịnh vượng, may mắn cho cả nhà

Sự phổ biến của cam trong các ứng dụng phong thủy truyền thống được giải thích là do hương vị dễ chịu và tinh khiết của nó, cũng như do năng lượng dương trong màu sắc của cam. Bạn có thể sử dụng bày 9 trái cam trong phòng khách hoặc phòng bếp để đem lại sự may mắn và thịnh vượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiết kế nhà theo phong thủy bằng cách sử dụng biểu tượng trái cây

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd