Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Sự nghiệp ổn định thuận lợi là mong ước của nhiều người. Tuy nhiên, khi phạm những lỗi phong thủy dưới đây chắc chắn mệnh chủ sẽ gặp trắc trở trong sự nghiệp.
Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự nghiệp ổn định thuận lợi là mong ước của nhiều người. Tuy nhiên, khi phạm những lỗi phong thủy dưới đây chắc chắn mệnh chủ sẽ gặp trắc trở trong sự nghiệp, hãy cùng ## tìm hiểu.


Dai ky phong thuy gay trac tro nghiep cua dan van phong hinh anh
 
1. Phương vị không chuẩn

Phong thủy đặc biệt coi trọng phương vị và khí trường, đối với công việc thì phòng làm việc và bàn làm việc trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Vậy nên, khi chọn vị trí bàn làm việc cần thận trọng chú ý đến vị trí và vị trí cần phù hợp với mệnh lý của mệnh chủ. Ngoài ra, các lỗi phong thủy như chạm góc, quay lưng với cửa, góc phòng đối diện bàn làm việc đều sẽ ảnh hưởng đến công việc, sự nghiệp gặp trở ngại.
Chọn chuẩn màu quần áo cho 12 con giáp để tài vận dồi dào trong tháng 5
Màu sắc được kết hợp chính xác sẽ đem đến tài vận cho mệnh chủ. Những màu sắc trong trang phục dưới đây nếu được các con giáp diện trong tháng 5 sẽ đem đến tài

2. Bàn làm việc bừa bộn

Nhiều người cho rằng phong thủy chỉ liên quan đến cách bày biện trong phòng, không liên quan đến thói quen của bản thân, tuy nhiên đây là cách hiểu sai làm. Người và không gian luôn có mối quan hệ tương tác, nếu bàn làm việc bừa bộn, sẽ khiến vận thế rối loạn, sự nghiệp cũng theo đó gặp trắc trở. 
3. Quá nhiều đồ trang trí rực rỡ

Dai ky phong thuy gay trac tro nghiep cua dan van phong hinh anh 2
 
Rất nhiều dân văn phòng, đặc biệt là phụ nữ thích bày biện nhiều đồ trang trí rực rỡ trên bàn như chậu cây, tượng, đồ thủ công,…Tuy nhiên, điều này ẩn chứa nhiều khí trường không tốt trong phong thủy. Khi vận thế mệnh chủ tốt sẽ không đem đến ảnh hưởng, song khi họ gặp điều không may thì những đồ vật có gai nhọn như cây xương rồng, cây dây leo, đồ thủ công có khiếm khuyết làm họ càng gặp nhiều rắc rối hơn trong sự nghiệp. Vậy nên, dân văn phòng không nên bày biện quá nhiều đồ trang trí rực rỡ.
=> Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại kỵ phong thủy gây trắc trở nghiệp của dân văn phòng

Tên vần U và Y

Ước: Đa tài, thanh nhàn, phú quý, trung niên thành công thịnh vượng, nếu là nữ đề phòng gặp rắc rối trong chuyện tình cảm, nên theo nghiệp giáo dục.
Tên vần U và Y

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ước: Đa tài, thanh nhàn, phú quý, trung niên thành công thịnh vượng, nếu là nữ đề phòng gặp rắc rối trong chuyện tình cảm, nên theo nghiệp giáo dục.

Ương: Đa tài, nhanh trí, thanh nhàn, vinh hoa phú quý. Trung niên gặp nhiều rắc rối về chuyện tình cảm, cuối đời phát lộc.

Uy: Mau miệng, tính tình ngỗ ngược, trí dũng song toàn, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời thành công hưng vượng.

Úy: Ưu tư, lo lắng, vất vả nhưng không thành công, cuộc đời gặp nhiều tai ương, cuối đời cát tường.

 

Uyên: Phúc lộc, hưng gia, giàu lý trí, hiền từ, có đức độ, gia cảnh tốt, hưởng trọn phú quý.

Uyển: Thanh tú, đa tài, hiền hậu, xuất ngoại sẽ cát tường, cả đời hạnh phúc.

Ý: Vẻ ngoài hạnh phúc, bên trong u sầu, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Y: Xuất ngoại sẽ được cát tường. Ưu tư, vất vả, có thể gặp phải tai ương. Cuối đời hưởng phúc.

Yên: Hoạt bát, đa tài, trung niên sống bình dị, cuối đời cát tường. Cẩn thận họa trong tình ái.

Yến: Thanh tú đa tài, trung niên vất vả hoặc có tai ương, cuối đời cát tường, con cháu hưng vượng.

(Theo Tên hay thời vận tốt)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên vần U và Y

Chùa Tây Thiên - Huế

Chùa Tây Thiên là một trong những ngôi chùa cổ được liệt vào hạng những danh lam thắng cảnh của đất thần kinh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Tây Thiên - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tây Thiên tọa lạc ở thôn Dương Xuân Thượng I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Chùa Tây Thiên là một trong những ngôi chùa cổ được liệt vào hạng những danh lam thắng cảnh của đất thần kinh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa Tây Thiên là một cổ tự bao gồm một số công trình kiến trúc cổ miền Nam còn tồn tại đến ngày nay mặc dầu không được nguyên vẹn cho lắm. Chùa tọa lạc tại phần đất xã Dương Xuân Thượng. Muốn vào viếng cảnh chùa này, du khách có thể đi thẳng lên ngả đàn Nam Giao rồi rẽ vòng về sau phía núi Ngự Bình sẽ bắt gặp một ngôi chùa nằm ở một vị trí khuất tịch, u nhã dưới những bóng cây cổ thụ quanh năm xanh tốt.

Trước kia ở đây chúa Nguyễn Phúc Khoát xây dựng ngôi chùa ở hai hướng đông và tây của núi Ngự và đặt tên là Đông Thiền và Tây Thiền, là chỗ để cho các bậc cao tăng tham thiền nhập định, chính chúa Nguyễn Phúc Khoát cũng đã nhiều lần đến đây bái Phật, nghe đạo. Về sau không biết tự lúc nào đổi thành Tây Thiên như hiện nay.

Kiến trúc chùa khá đơn giản gồm một ngôi chính điện ba gian hai chái, hai bên điện trước đây có xây hai thiền đường. Trong chùa thờ Đức Thế Tôn và các vị Phật, Bồ tát khác. Xung quanh chùa là một con suối nước nóng trong vắt uốn quanh, suốt ngày róc rách tạo thành một âm thanh dìu dịu thanh nhã hòa lẫn với tiếng chuông sớm chiều ngân vang như đánh tan mọi ưu phiền trong lòng người khi tới nơi đây.

Chùa Tây Thiên là một địa điểm lý tưởng để giải tỏa những phiền muộn trong cuộc sống đời thường. Đến nơi đây những cảnh sắc thiên nhiên tốt tươi muôn vẻ, giữa không gian u tịch, lắng nghe tiếng kinh tiếng kệ vang vọng, chắc chắn du khách sẽ được những giây phút thoát tục xa đời…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tây Thiên - Huế

Xem tướng mặt phụ nữ –

Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó” hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữ” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ chồng. Đăng lùa được cá, nhưng đó lủng rách thì cá chui lọt đi hết còn đâu. Vậy hình tướ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng của đàn bà trọng đại tới tương lai chồng con lắm.

phunu

Sau đây chúng tôi xin sưu tập và dịch rỏ phần tổng quát về hình tướng phụ nữ để quí thân chủ và bạn đọc suy nghiệm.

– Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử.
– Lưỡng quyền cao mủi nhỏ là: Hại tử khắc phu.
– Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.
– Mũi cao lỗ kín là: Có chồng giàu sang.
– Môi xứng với miệng là: Con làm nên danh vọng.
– Mặt chỗ lép chỗ nhọn là: Sạt nghiệp chồng con.
– Mặt sáng ngời như ngọc: Ắt đẻ con sang, con hiếu.
– Mũi nhỏ mặt bạnh là: Đa dâm đa loạn.
– Mình thơm mắt sáng là: Phu quí tử vinh.
– Miệng rộng mồm méo là: Phu cùng tử yểu.
– Trán thẳng mày thanh là: Đàn bà phước đức.
– Mặt lớn má lép là: Người vô phước.
– Mũi tròn da mịn là: Tướng phụ nữ hưng gia.
– Mũi tẹt mặt lớn là: Tướng đàn bà phá sản.
– Môi trắng mỏ nhọn là: Phường ăn không nói có.
– Má cao khắc lỏm là: Tướng khắc chồng con.
– Môi hường tươi: Ắt sanh con quí.
– Con ngươi đỏ như tia lửa là: Khắc sát chồng con.
– Dáng vóc nhàn tịnh khiêm cung là: Nghiêm tướng.
– Mặt đẹp con ngươi vàng là: Sát tướng.
– Tướng hình đoan chính trang nghiêm là: Uy tướng.
– Mặt lớn mồm nhỏ răng thô là: Sát tướng.
– Trên sóng mũi có nhiều lằn gạch là: Sát tướng.
– Ngồi ngay nói thẳng lòng khoan hoà là: Uy tướng.
– Tai lật không có thành quách là: Sát tướng.
– Vẻ mặt hoà dịu, mừng không lộ, sợ không khiếp là: Nghiêm tướng, quí tướng, có con quí chồng sang.

– Mặt đẹp nhưng trắng như vôi, lông mi đen rậm như lưỡi dao lớn, con ngươi như mắt cá đỏ, lông mày thô như chổi, đều là Sát tướng. Dù mặt – tướng diện – có đẹp đẻ đến đâu cũng hình phu khắc tử sát hại chồng con ghê lắm.

Trở lên là tướng hình tốt xấu lẫn lộn, xem rồi suy ngẩm ắt thấy điều hay. Sau đây là tướng hình đàn bà hiền đức.

Trán bằng, đầu tròn, tóc mịn đen mướt.

Mặt như khuôn thiên, cằm nở dài mép có một vành. Đi đứng ngay thẳng, ngồi nằm khoan thai. Tóc nỏn nà nhuyễn mượt, mắt dày mày thanh môi hồng răng trắng ngà, da mịn xương nhỏ không lộ, mình trắng hơn mặt, thân mình sắc hoà dịu.

Lưng vai tròn, ngực rộng, vú to không xệ, rún sâu có vành. Bàn tay dài, ngón tay hơi nhọn, tiếng thanh, ít nói cười. Hơi mình thon, xương âm cao nhô ra, thịt dầy, âm đạo thẳng đều là tướng hiền, có phước đức.

Lại có những tướng hình tổng quát lẫn lộn thiện ác, tốt xấu như sau:

Người có tướng đi đứng khoan hoà hiền diệu, tinh thần nghiêm chỉnh, tiếng nói trắng thanh, ngồi nằm đoan chính là tướng đàn bà quí, lập danh cho chồng, để đức cho con, hưởng thọ tuổi cao, sanh toàn con trai.

Người có tướng mặt hơi vuông dài, ngực lớn, tiếng nói lớn mà thanh, tinh thần tươi sáng, cử chỉ đoan chính, chuyện trò êm thấm hoà dịu, vẻ người trang nghiêm chửng chạc, khiến kẻ đối diện nể trọng, ấy là đàn bà có phước đức trinh thuận, liêm chánh.

Người có tướng diện tươi thắm như hoa nở đầy hương nhụy, cười như hoa đào, mắt sáng như sao chớp, đi đứng phong lưu đài trang, làm cho người đối diện phải ao ước mơ tưởng và hình dung điều bất chánh, có khi kẻ đối diện có cảm tưởng như cởi bỏ y trang, để xoi mói vào bên trong thân thể, ấy là tướng tà dâm, rất dễ bị mềm lòng nhẹ dạ. Không tốt.

Tướng người mặt nhọn ngực lép mà bạnh ra, môi ướt răng hô, mắt tròn trắng dả, mũi nguỡng thiên, tiếng nói rè, đi như ma đuổi, đi lắc như phải gió, chưa nói mà ngoắc tay nghiêng mình kiễng chân như con lật đật. Tướng nghèo khó, hình phu, khắc tử.

Má thật cao, mắt lỏm, tóc xoắn, môi mép có lông rám như râu. Xương thịt thân thể cứng rắn, mình miệng và các chỗ kín có mùi hôi hám khó chịu đều là các hình tướng bần tiện, hạ đẳng, ngu độn chỉ làm nô tỳ chớ không thể làm nổi ca kỷ được nữa.

Tướng có gò má thật cao, lông mày xoáy hoặc hình chổi sề, hình lưỡi đao, tiếng nói nhọn bén như ong vò vẻ, mắt như mắt chó sói, như mắt cá đỏ, là tướng đàn bà cùng hung cực ác, khắc sát chồng con dữ lắm.

Lại có tướng người đi đứng không yên như gấp rút vội vàng như sợ sệt gì vậy. Người thì đong đưa nghiêng ngã, tưởng như sắp té đến nơi, giọng nói cợt nhả đỏng đảnh mời mọc, đó là tướng đàn bà ngồi lê đôi mách, bần tiện hạ lưu, chuyên đi nịnh bợ xoi móc hàng xóm.

Cũng có tướng người mặt ngang trán lớn má cao, tiếng nói khao khao, bước đi mông lắc như chim se sẻ, mắt lộ con ngươi đỏ như diều, như cá chép, như mắt rắn là người bạc ác, lòng một dạ hai, bất nghĩa bất tín mà ương ngạnh, ưa nói càng nói bướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt phụ nữ –

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè. Dù là với bất cứ hình thức nào, ý nghĩa câu chúc và sự chân thật trong câu chữ truyền tải tình cảm khéo léo
22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè. Dù là với bất cứ hình thức nào, ý nghĩa câu chúc và sự chân thật trong câu chữ sẽ khéo léo chuyển tải tình cảm trọn vẹn hơn. Từ đó khơi gợi những kỉ niệm đẹp trong mối quan hệ giữa các bạn và mang lại nguồn cảm xúc ấm áp, khó quên trong ngày trọng đại của cô dâu chú rể.

Đám cưới là ngày lễ quan trọng nhất của đời người. Chính vì vậy mà trong ngày trọng đại này, bất cứ cặp cô dâu, chú rể nào cũng mong muốn lễ cưới diễn ra thuận lợi và nhận được nhiều lời chúc phúc của mọi người.

Những lời chúc mừng đám cưới thể hiện sự chia sẻ, quan tâm của bạn bè người thân tới cô dâu chú rể cùng gia đình trong ngày cưới. Xemboituong.com xin tổng hợp và chia sẻ tới các bạn những lời chúc mừng đám cưới hay và có ý nghĩa nhất dành cho bạn bè.

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Những lời chúc ngắn gọn, xúc tích: Thích hợp cho lời chúc trực tiếp khi gặp mặt, hoặc ghi nhanh trên quyển sổ lời chúc ở bàn tiếp khách.

Chúc mừng hạnh phúc tân lang, tân nương!

Bách niên giai lão nha bạn tôi!

Luôn luôn được hạnh phúc vẹn tròn nhé!

Yêu nhau dài lâu nhé hai bạn!

Lời chúc mừng tận đáy lòng nhân ngày trọng đại của bạn

Cuộc sống mới chắc chắn là hạnh phúc “không thể chối từ”, chăm chỉ tận hưởng nha!

Những lời chúc dài: Thích hợp cho lời chúc viết tay trong thiệp, thiệp

Một cuộc sống mới đang đến với bạn và mình mong rằng trong đó tràn đầy những tháng ngày hạnh phúc đong đầy bên cạnh người bạn yêu thương. Happy Wedding !!

Gởi đến bạn món quà này với cả tấm lòng và một lời chúc bách niên giai lão.
Mình thì luôn tin là những điều tốt đẹp nhất luôn đến với người biết quan tâm và trân trọng hạnh phúc như bạn. Chúc mừng hạnh phúc hai bạn!

“Hôn nhân không phải là nơi thuyền tình cập bến mà là nơi hai người yêu nhau quyết định cùng giăng buồm vượt sóng ra khơi”
Chúc hai người mãi mãi có một tình yêu dịu dàng, bền chặt và luôn gặp nhiều điều tốt lành trong chuyến hành trình đặc biệt này
Hy vọng tấm thiệp này sẽ chuyển những lời chúc mừng hạnh phúc chân thành nhất của mình tới vợ chồng bạn.

Cánh thiệp nhỏ nhưng tình cảm thì không nhỏ nhé
Xin được gửi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất, may mắn nhất tới bạn.
Chúc cuộc sống mới của gia đình bạn sẽ tràn đầy niềm vui, tiếng cười và hạnh phúc.

May mắn đã cho chúng ta được gặp nhau, trở thành bạn thân nhất của nhau và cùng có với nhau rất nhiều kỷ niệm, mình sẽ không bao giờ quên những tháng ngày đó. Thực sự rất vui mừng khi biết bạn đã tìm được một nửa của cuộc đời mình.Chúc bạn có một cuộc sống thật viên mãn và sớm chào đón hoàng tử, công chúa.

Chúc mừng đám cưới của hai người!
Bắt đầu một cuộc sống mới, sẽ mất chút thời gian để rút gần khoảng cách trong gia đình nhỏ và gia đình lớn, nhưng hãy luôn cười thật hạnh phúc và được mọi người yêu mến nhé bạn tôi.
Cuộc sống sẽ thật đẹp nếu tràn đầy niềm tin, yêu thương và hạnh phúc. Chúc mừng đôi uyên ương, tất cả những điều đó từ bây giờ là dành cho hai bạn!

Chúc mừng hôn lễ của hai bạn!
Hãy đem những thiên thần bé nhỏ tới thế giới của hai bạn, điều này sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Hãy yêu thương nhau thật nhiều và cùng nhau tận hưởng cuộc sống này nhé.

Chúc mừng hạnh phúc hai bạn vì đã tìm thấy nhau trong cuộc đời rộng lớn này!
Mình thực sự cảm thấy rất vui khi được tham dự lễ cưới của hai người.

Hai bạn hãy đối xử thật tốt với nhau, cùng nhau tận hưởng những giây phút hạnh phúc trong cuộc sống.
Dù trước mắt sẽ còn nhiều khó khăn và thử thách nhưng tôi tin bằng tình yêu chân thành hai bạn sẽ vượt qua tất cả.

Chúc cho cô dâu chú rễ trăm năm hạnh phúc, thủy chung trọn vẹn, đi về có nhau, dù sống đến tuổi răng long đầu bạc nhưng xem nhau như những ngày mới gặp, đã chỉ non mà thề đã chỉ trăng mà hẹn thì phải giữ trọn tình yêu.

Chúc mừng hai bạn nhân ngày về với nhau! Hy vọng rằng các bạn đạt được những gì hằng mong muốn trong cuộc sống chung.

Chúc bạn có thể thành công gửi đi những lời chúc phúc đầy ý nghĩa của mình!

Hy vọng tấm thiệp này sẽ chuyển đến những lời chúc chân thành của tôi đến với bạn. Bạn sẽ tràn đầy hạnh phúc trong tương lai.

Mình chúc mừng hai bạn nhân ngày đính hôn của các bạn. Hy vọng rằng các bạn đạt được những gì hằng mong muốn trong cuộc sống chung

Tôi nhiệt thành chúc mừng hạnh phúc cuộc hôn nhân của bạn. Mong rằng sự kết hợp này sẽ mang lại hạnh phúc mãi mãi cho gia đình mới của bạn

Chúc mừng đám cưới của hai bạn! Bắt đầu một cuộc sống mới, tôi hy vọng rằng bạn sẽ tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm sống với gia đình cả hai bên. Hãy học cách đối nhân xử thế trong sinh hoạt gia đình mỗi ngày để làm hài hòa cuộc sống hôn nhân bạn nhé.

Trên đây là những lời chúc đám cưới hay và ý nghĩa mà chúng tôi sưu tầm được. Những lời chúc chân thành xuất phát từ trái tim sẽ là cách thể hiện tốt nhất tình cảm của người gửi dành cho người nhận. Trong không khí xúc động và không gian lãng mạn của buổi lễ, những lời chúc ngọt ngào của những vị khách quý sẽ giúp cho cô dâu chú rể cảm thấy vui vẻ, yêu đời và hạnh phúc hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Mơ thấy trẻ con –

Trẻ em vốn được xem là những thiên thần nhỏ được mọi người yêu mến. Em bé còn là biểu tượng cho sự trong sáng, dễ bị tổn thương, không có khả năng tự bảo vệ. Nếu một em bé xuất hiện trong giấc mơ của mình, thì hình ảnh này biểu tượng cho những khởi đ
Mơ thấy trẻ con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy trẻ con –

Mơ thấy cãi nhau –

Cãi nhau cũng là một phương pháp giao lưu, hai bên đều thẳng thắn nói ra ý kiến của mình. Trong giấc mơ, điều này có nghĩa là hai bên đã giải quyết được sự tranh chấp, có thể thẳng thắn giảng hòa. Mơ thấy cãi nhau với vợ, điều này cho thấy vợ chồng h
Mơ thấy cãi nhau –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cãi nhau –

Con gái mắt xếch nói lên điều gì –

Mắt xếch là mắt có xu hướng bị lệch sang phía trên, gần đường chân mày, thiếu cân đối. Có người chỉ xếch một bên mắt nhưng có người cả hai mắt đều xếch, khiến khuôn mặt trông dữ hơn, gây cảm giác khó gần. Nhiều người có quan niệm mắt xếch là không th
Con gái mắt xếch nói lên điều gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con gái mắt xếch nói lên điều gì –

Tử vi Tân Mùi phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Trong tử vi Tân Mùi là con dê nơi đồng hoang, tính cách cương trực, làm việc nghiêm túc không giả dối, tướng mạo cốt khí đẹp, ngoài cương trong nhu, trọng tình nghĩa. Lộ bàng Thổ là đất bên đường, bằng phằng rộng vạn mẫu, hoa màu sinh trưởng, cỏ cây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi Tân Mùi là con dê nơi đồng hoang, tính cách cương trực, làm việc nghiêm túc không giả dối, tướng mạo cốt khí đẹp, ngoài cương trong nhu, trọng tình nghĩa.

Lộ bàng Thổ là đất bên đường, bằng phằng rộng vạn mẫu, hoa màu sinh trưởng, cỏ cây tươi tốt,

Đây chính là Thổ ấm áp, nuôi dưỡng vạn vật. Do đó trước tiên là cần gặp đến tưới tắm thấm nhuần, lại được Kim đến tương trợ thì hoa màu trĩu hạt, bội thu

tuoi-mui

Tân Mùi gặp Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy, nếu không gặp hình, xung, phá, hại tất tuổi trẻ sớm làm quan.

Tân Mùi gặp Bính Ngọ Thiên hà Thủy, chủ cát lợi.

Không ưa Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy; Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, vì Thủy này không tưới tắm được Thổ này, phạm vào tất gặp hung tai.

Trong tử vi  Tân Mùi gặp Mậu Tý Tích lịch Hỏa, Ấn quý triều dương, chủ cát lợi.

Nêu có Giáp Thìn, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, Bính Tuất, Đinh Hợi ốc thượng Thổ đây gọi là Siêu phàm nhập thánh cách.

Ưa nhất Canh Dần Tùng bách Mộc, gặp được là tôt. Trong sách cổ gọi là Cưòng Thổ kiên Mộc cách, nổi bật giữa đám đông.

Gặp Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Dương liễu Mộc, không thể gánh vác, chủ vất vả khổ cực.

Tân Mùi gặp Mậu Dần, 2 quý cùng đến, mệnh chủ hiển quý.

Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Thổ, Kim này sinh Thủy, có thể trợ giúp Thổ này, chủ cát lợi.

Nếu mệnh gặp Thủy không gặp Kim, gặp đại, tiểu hạn cũng chủ về phúc.

Là Thổ mới sinh ra, Mộc không thể khắc, duy kỵ Thủy nhiều vì làm tổn thương nguyên khí của nó, Mộc nhiều có nơi quy về, Thổ dày có đức, hòa khí dung hợp, phúc lộc đầy đủ. Hợp cách, có thể làm quan thanh liêm, có lòng bác ái.

Chi khác có Dần, mã bị hình, không nên làm kinh doanh, không được đánh bạc, đầu cơ.

Trong tử vi  khi gặp năm Mùi, Sửu, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Chi khác có Tý, không tốt cho cốt nhục lục thân, chưa kết ân tình đã sinh thù địch.

Bạn đời chớ nên gặp người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm Giáp, Ất.

Tân quý tại Dần, đại, tiểu hạn đi đên cung Dần, hoặc gặp lưu niên Thái tuế Dần, chủ cát tưòng như ý.

Tân Dương nhẫn tại Tuất, chi khác gặp Tuất là gặp Dương nhẫn, mệnh chủ đoản mệnh, hoặc mắc ung thư vô phương cứu chữa.

Ưa nhất trụ khác có Bính Dần Lư trung Hỏa, quan quý lục hợp, phú quý dài lâu.

Chi khác có Sửu, Tuất là phạm hình, là người bảo thủ cô chấp, tự đánh giá mình quá cao, tất gặp thất bại.

Chi khác có Mùi, vợ chồng duyên mỏng; có Sửu, con cái duyên mỏng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Tân Mùi phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Bước sang tháng 11, người tuổi Tị chịu ảnh hưởng của mối quan hệ tương xung, mọi phương diện trong cuộc sống đều có sự biến động lớn, nhất là về mặt công việc.
Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Vận trình sự nghiệp của người tuổi Ngọ ảm đạm trong tháng 11. Làm việc gì, bản mệnh luôn trong trạng thái lực bất tòng tâm, không thể nghĩ ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết triệt để mọi việc. Cứ thế, việc nọ dồn đống lên việc kia, tứ phía bộn bề, đầy rẫy những rắc rối. 

   

1. Người tuổi Tị

  Theo luận giải tử vi năm 2016, bước sang tháng 11, người tuổi Tị chịu ảnh hưởng của mối quan hệ tương xung, mọi phương diện trong cuộc sống đều có sự biến động lớn, nhất là về mặt công việc, sự nghiệp.    Khối lượng công việc tăng nhiều, kèm theo đó là áp lực từ những mối quan hệ xã giao khiến dân văn phòng một phen chao đảo. Đã vậy, dù bản mệnh nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao theo cách hoàn hảo nhất, nhưng điều đó lại không được cấp trên ghi nhận hay mọi người chú ý. Trong đầu bạn nảy sinh nhiều ý nghĩ tiêu cực, thậm chí không còn nhiệt huyết muốn cống hiến như trước.    Làm việc vất vả, có sự sáng tạo mà lại không được đánh giá cao, như vậy chẳng khác nào mọi công lao cố gắng đều đổ xuống sông xuống biển. Một số tuổi Tị vì bất mãn như thế, muốn ra ngoài tìm việc khác phù hợp hay tự lập nghiệp, nên tỷ lệ nhảy việc trong tháng khá cao.    Người kinh doanh, buôn bán tạm thời chưa đưa ra dự án hoặc ý tưởng kinh doanh mới mẻ nào, tạm thời vẫn nên dành thời gian để nghiên cứu và khai thác thị trường mới. Tiến trình diễn ra khá chậm, cần kiên nhẫn chờ đợi, manh động là hỏng chuyện.    Ngoài ra, vận tiểu nhân đeo bám trong tháng không hề ít, trong hợp tác làm ăn tuổi Tị phải đề cao cảnh giác kẻo bị “hớt tay trên” tiền bạc, lợi ích kinh tế lúc nào không hay.  
Thuoc nhom tuoi nay, su nghiep lao dao tu phen trong thang 112016 hinh anh goc
 


2. Người tuổi Thân

  Lâm cục diện Lục Hại, tử vi sự nghiệp của người tuổi Thân cũng thăng trầm, nhiều biến động trong tháng 11. Nhất là khi quan điểm trong công việc của bản mệnh không được mọi người đón nhận và ủng hộ. Cảm giác lên kế hoạch làm gì cũng khó, cũng vấp phải trở ngại tứ bề.   Thêm nữa, kẻ đố kị, ghen ăn tức ở xung quanh lại nhiều, lúc nào cũng rình rập chỉ chờ mệnh chủ có chút sơ hở là moi móc, phá đám cho bằng được. Sống trong tập thể mà lúc nào cũng phải rè chừng, lo lắng như thế quả thực khiến đầu óc bạn lúc nào cũng căng thẳng, không thể tập trung suy nghĩ tới những việc lớn lao.    Thời gian từ giữa tháng trở đi, khối lượng công việc càng nhiều. Việc cứ dồn ứ lại, không được giải quyết triệt để nên cứ như mớ bòng bong, càng cố làm càng thấy rối. Áp lực công việc lớn còn khiến sức khỏe của bản mệnh giảm sút đáng kể. Hơn thế, bạn lại thường xuyên nổi giận vô cớ, khiến hình ảnh và uy tín bản thân giảm sút.  
Thuoc nhom tuoi nay, su nghiep lao dao tu phen trong thang 112016 hinh anh goc
 

3. Người tuổi Ngọ

  Tử vi sự nghiệp của người tuổi Ngọ ảm đạm trong tháng 11. Làm việc gì, bản mệnh luôn trong trạng thái lực bất tòng tâm, không thể nghĩ ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết triệt để mọi việc. Cứ thế, việc nọ dồn đống lên việc kia, tứ phía bộn bề, đầy rẫy những rắc rối.    Tuổi Ngọ vốn dĩ năng động và có thực lực. Nhưng có vẻ như bạn chưa tìm được “đất dụng võ”. Muốn phát huy tài năng, khẳng định cá tính đấy nhưng khổ nỗi thiên thời địa lợi nhân hòa đều chưa có. Bạn cần dành nhiều thời gian để tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm, chờ cơ hội tốt đến là “bách chiến bách thắng”.   Người kinh doanh, buôn bán, hành nghề tự do cũng có một tháng vất vả, chạy đôn chạy đáo khắp nơi mà thu về thành quả không ưng ý, thậm chí còn bị lỗ. Nếu có ai rủ rê bạn tham gia các hạng mục đầu tư mạo hiểm, nên từ chối thẳng thừng kẻo nguy cơ lừa gạt, thua lỗ càng lớn.

Xem chi tiết vận hạn, luận giải lá số tử vi cuộc đời của mười hai con giáp, mời bạn đọc tham khảo: Trọn bộ Tử vi cuộc đời của 12 con giáp

 
Nhật Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Đẩu số cốt tủy phú chú giải

Tác Giả: Vũ Tài Lục
Đẩu số cốt tủy phú chú giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiên minh cách cuộc
Thứ khán ác tinh
Yêu tri nhất thế chi vinh khô
Định khán ngũ hành chi cung vị
Đệ nhất thị khán thân mạng
Tài tam tế khảo thiên di
Phân đối cung chi thể dụng
ĐỊnh tam hợp chi nguyên lưu
Mạng vô chính diệu yểu chiết cô bần
Cát hữu hung tinh mỹ ngọc hà điếm
Ký đắc căn cơ kiên cố
Tu tri hợp cuộc tương sinh
Kiên cố tắc phú quý diên thọ
Tương sinh tắc tài quan chiêu trước
Mệnh hảo thân hảo hạn hảo đáo lão vinh xương
Mệnh suy thân suy hạn suy, chung thân khất cái
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
Giáp Kình giáp Đà vi khất cái
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
Liêm Trinh hãm, hà tiện cô hàn
Thái Âm vượng, nhất sinh khoái lạc
Tiền bần hậu phú Vũ Tham đồng thân mạng chi cung
Tiền phú hậu bần chỉ vị vận hạn phùng Kiếp Sát
Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ tài quan chi vị
Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài Phúc chi hương
Văn Khúc Văn Xương vi nhân đa học đa năng
Tả Phụ Hữu Bật bình tính khắc khoan khắc hậu
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần
Vi sĩ vi quan, định chủ hanh thông chi triệu
Miêu nhi bất tú, Khoa danh hãm ở hung thần
Phát bất chủ tài, Lộc chủ triền ư nhược địa (Tý Ngọ Thân Dậu là nhược địa của Hoá Lộc)
Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh xương
Tử Phủ đồng cung, chung thân phúc hậu
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu, vị chí công khanh
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim ý tử
Khoa Quyền Lộc củng, danh dự chiêu chương
Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá
Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung
Bính Tân nhân ngộ phúc hưng long
Cự Cơ đồng cung, công khanh chi vị
Tham Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ
Tham Lang Hoả tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại
Tử Phủ triều viên, thực lộc vạn chung
Khoa Quyền đối củng, dược tam cấp ư Vũ Môn (cá hoá rồng)
Nhật Nguyệt tịch minh, tá cửu trùng kim điện
Phủ Tứơng đồng lai hội mạng cung, toàn gia thực lộc
Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ổn bộ thiềm cung
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí
Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mạng trung phùng
Tam phương vô cát phước nan hưng
Nhược hoàn cát hoá phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng
Thiên Lương Thiêm Mã hãm, phiêu đãng vô nghi
Liêm Trinh, sát bất gia, uy danh viễn bá
NHật chiếu Lôi môn, phú quý vinh hoa
Nguyệt lãng Thiên môn tiến tước phong hầu
Dần phùng Phủ Tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quý
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển
Khúc ngộ Lương tinh vị chí đài cương
Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập tướng
Văn tinh ám củng, Giả Nghị doãn hỷ đăng khoa
Kình Dương Hoả Tinh, uy quyền xuất chúng
Đồng hành Tham Vũ uy áp biên di
Lý Quảng nan phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ
Nhan Hồi yểu chiết, Văn Xương hãm ư Thiên Thương
Tử Vũ tài năng, Cự tú, Đồng Lương xung thả hợp
Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cụ Môn
Lộc đảo Mã đảo, kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không
Vận suy hạn suy hỷ Tử Vi chi giải hung ác
Cô bần đa hữu thọ
Phú quý uc yểu vong
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu truy lâu chi ách
Quan Phù Thái Tuế, Công Dã hữu luy tiết chi ưu
Hạn chí Thiên La Địa Võng, Khuất Nguyên nịch thủy chi vong
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không, Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm chỉ táng mạng yểu niên
Mạng Không, hạn Không vô cát tấu, công danh tắng đắng
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết xứ
Mạng trung ngộ Kiếp cáp như lãng lý hành thuyền
Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên Không nhi táng quốc
Thạch Sùng cự phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia
Lữ Hậu chuyên quyền, lưỡng phùng Thiên Lộc, Thiên Mã
Dương Phi hảo sắc, tam hợp Văn Khúc Văn Xương
Thiên Lương ngộ Mã, nữ mạng tiện nhi thả dâm
Văn Khúc giáp Trì, nam mạng quý nhi thả hiền
Cực cư Mão Dậu, đa vi thoát tục chi tăng
Trinh cư Mão Dậu, định thị công tư tại bối
Tả Phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng
Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai
Đặng Thông ngã tử, vận hành Đại Háo (Hao) chi hương
Phu Tử tuyệt lương hán đáo Thiên Thương chi nội
Linh Xương La Vũ, hạn chí đầu hà
Cự Hoả Kình Dương, chung thân ải tử
Mạng lý phùng Không, bất phiêu lưu tất chủ tất khổ
Mã đầu đới kiếm, phi yểu chiết tắc chủ hình thương
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc
Xương Tham cư mạng, phấn cốt thoái chi
Triều đẩu ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa
Đan Trì Quế TRì tảo loại thanh vân chi chí
Hợp Lộc củng Lộc đôi kim ngọc
Tước lộc cao thiên ý cẩm bào
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa
Phụ Bật ngộ tài quan, y phi trước tử
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tính
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh
Vũ Khúc nhân cung đa xảo nghệ
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân
Khôi tinh lâm mạng, vị liệt tam thai
Vũ Khúc cư Càn, Tuất Hợi thượng
Tối pha Thái Âm phùng Tham Lang
Hoá Lộc hoàn vị hảo
Hưu tướng mộ trung tàng
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc
Minh Lộc Ám Lộc cẩm thượng thêu hoa
Toạ thủ là minh nhị hợp là ám
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân
Phú nhi bất thật hữu hư danh
Xương Khúc Phá Quân phùng
Hình khắc đa lao lục
Tham Vũ mộ trung cư
Tam Thập tài phát phúc
(Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân
Vận quá tam thập phương diên thọ)
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối
Đinh nhân hoá cát chủ đại quý
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa
Tân nhân hoá cát lộc tranh vanh
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, nãi vị thất huy
Thân Mạng định yếu tinh cầu, khủng sai phân số
Âm chất diên niên tăng bách phúc
Chí ư hãm địa bất tao thương
Mạng thật, hạn kiên, cảo điền đắc vũ
Mạng suy, hạn nhược, nộn thảo tao sương
Luận mạng tất suy tính thiện ác
Cự Phá Kình Dương tính tất cương
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo
Hoả Kiếp Không Tham tính bất thường
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp, khúc toàn cố quý
Dương Đà Thất Sát tương tạp, hỗ kiến tắc thượng
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung
Hoả Tinh Linh tinh chuyên tác hoạ
Kiếp Không Thương Sứ hoạ trùng trùng
Cự Môn Kỵ tinh giai bất cát
Vận thân, mạng, hạn kỵ tương phùng
Cánh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ
Quản giao tai bệnh nhi tương công
Thất Sát thủ thân chung thị yểu
Tham Lang nhập mạng tất vi xương
Tâm hảo Mệnh vi diệc chủ thọ
Tâm độc mạng hậu diệc yểu vương
Kim nhân mạng hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu trường
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đẩu số cốt tủy phú chú giải

Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tuổi nào tương hợp - tương khắc, bổ khuyết cho nhau? Teen có thể tham khảo bảng tra dưới đây để biết mối tương quan giữa các con giáp nhé.
Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã. Qua bảng dưới đây, các bạn 12 con giáp sẽ biết được đối tượng tương khắc với mình và tránh ghép đôi cùng nhau hoặc tìm cách hóa giải tương khắc nhé.

12-con-giap-5376-1437623762.jpg

Tuệ Anh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Văn khấn Gia tiên mùng 1 và 15 hàng tháng

Văn khấn Gia tiên vào ngày mùng 1 đầu tháng và ngày 15 hàng tháng, bài cúng gia tiên ông bà tổ tiên trong gia đình thành tâm kính hiếu của con cháu
Văn khấn Gia tiên mùng 1 và 15 hàng tháng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn Gia tiên mùng 1 đầu tháng và ngày 15 hàng tháng

 Sắm lễ cúng Gia tiên

Lễ cúng Gia tiên vào ngày Mồng Một (lễ Sóc) và lễ cúng vào chiều tối ngày Rằm (lễ Vọng) thường là lễ chay: Hương, loa, trầu cau, quả, tiền vàng. Ngoài lễ chay cũng có thể cúng thêm lễ mặn vào ngày này gồm: Rượu, thịt gà luộc, các món mặn.

Sắm lễ ngày mồng một và ngày rằm chủ yếu là thành tâm kính lễ, cầu xin lễ vật có thể rất giản dị: hương, hoa, lá trầu, quả cau, chén nước.

Văn khấn Gia tiên

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
– Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
– Các cụ Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
– Thúc bá đệ huynh và các hương linh nội, ngoại.
Hôm nay là ngày …….. tháng ….. năm …………..
Tín chủ con là ………………………………………….. ….
Ngụ tại ………………………………………….. ……. cùng toàn gia quyến.
Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, trà quả và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời:
– Các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.
– Hương hồn Gia tiên nội, ngoại
Cúi xin các Ngài thương xót tín chủ
Giáng lâm trước án. Chứng giám lòng thành. Thụ hưởng lễ vật
Phù trì tín chủ chúng con:
Toàn gia an lạc, mọi việc hanh thông
Người người được chữ bình an,
Tám tiết vinh khang thịnh vượng,
Lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang
Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo!

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Gia tiên mùng 1 và 15 hàng tháng

6 tướng mạo trai tốt, con gái chớ để tuột

Những người sở hữu vầng trán cao đầy đặn, mắt sáng, cằm vuông tròn rất thích hợp để làm người chồng tốt nhé các ấy.
6 tướng mạo trai tốt, con gái chớ để tuột

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trán đầy đặn

Chàng trai có trán đầy đặn, cân xứng, sáng bóng thường tràn trề tinh lực, tư duy hoạt bát, con đường làm quan rộng mở. Nếu kết hợp với cằm vuông vắn nữa thì phú quý song hành, đường phát tài rõ ràng, sự nghiệp tươi sáng, tham vọng cao, vận may liên tiếp.

2. Mắt sáng

Ánh mắt là cửa sổ tâm hồn, ánh mắt trong suốt, có thần thì tinh thần hăng hái, làm việc có chủ kiến, có ý chí. Chàng ít nói, nhưng mỗi lời nói đều âm vang có lực, biểu đạt trực tiếp suy nghĩ, hành động chuẩn xác, nhanh gọn, gặp khó khăn không hoảng loạn. Sự nghiệp và gia đình của chàng tương đối thành công.

con-trai-jpeg-9714-1428113434.jpg

Ảnh minh hoạ.

3. Đôi tai ép sát vào đầu

Đôi tai đầy đặn, hồng hào, dái tai như ngọc, tai ép sát vào đầu được xem là tướng tai tốt, thường có thành tựu cao, tâm hồn lương thiện, đáng tin cậy, đáng để cưới làm chồng.

4. Mũi dầy đầy đặn

Mũi được xem là tài vận. Mũi không đầy đặn, 2 cánh mũi không nâng lên thì nguồn tài vận sẽ thiếu hụt. Sống mũi cao, cánh mũi có thịt, lông mũi không lộ ra ngoài thì tài vận sẽ dồi dào, chàng trai có tướng mũi như vậy thì sự nghiệp nhất định có thành tựu, thậm chí còn là người chồng tốt của gia đình.

5. Miệng như thác chảy

Miệng vuông vắn, môi dày, góc cạnh rõ ràng, hồng hào như ngọc, chàng làm việc có nguyên tắc, nổi trội ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là cương vị lãnh đạo. Chàng có thể biểu hiện tốt trước đám đông, nhận được sự ngưỡng mộ, lời khen ngợi của mọi người. Chàng coi trọng tình cảm, là kiểu đàn ông tốt khó tìm.   

6. Cằm vuông tròn

Cằm tròn mượt, dày có thịt, vuông nhưng không góc, tròn nhưng không trĩu, không nếp gấp, được xem là tướng cằm lý tưởng. Chàng trai có cằm dài coi trọng gia đình, thích cảm giác quây quần bên gia đình, có ý thức trách nhiệm. Chàng trai có cằm đầy đặn, tròn trịa hồng hào, biểu thị sự tùy hứng, nhân hậu, phát đạt, khỏe mạnh, là kiểu đàn ông tốt của gia đình hạnh phúc, hoàn mỹ.

Chocopie (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 tướng mạo trai tốt, con gái chớ để tuột

Xem tướng đôi mắt đẹp – xấu –

Mắt là cửa ngõ của linh hồn, xem tướng mắt chúng ta có thể biết người có đôi mắt đẹp, có tâm hồn trong sáng, người mắt xấu… Tướng số là một môn học có hệ thống, nghiên cứu cẩn thận về tâm, sinh lý ảnh hưởng vào con người. Coi tướng phải bao gồm mọi b
Xem tướng đôi mắt đẹp – xấu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đôi mắt đẹp – xấu –

Tại sao lại chọn nhà “quay lưng phía Bắc, ngoảnh mặt hướng Nam”? –

Theo ghi chép trong “trạch kinh” trong “tứ khố toàn thư - thuật số” viết: “tất cả những ngôi nhà có dương khí thì trong dương khí đều có âm khí... thiên đức, nguyệt đức đều có vị trí của nó, nhà mà sạch sẽ rộng rãi thì gia đình sẽ yên bình, sung túc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo ghi chép trong “trạch kinh” trong “tứ khố toàn thư – thuật số” viết: “tất cả những ngôi nhà có dương khí thì trong dương khí đều có âm khí… thiên đức, nguyệt đức đều có vị trí của nó, nhà mà sạch sẽ rộng rãi thì gia đình sẽ yên bình, sung túc và hạnh phúc”.

phong-thuy-1_2

Muốn có ngôi nhà mà trong khí dương có chứa khí âm thì tất nhiên vị trí lí tưởng nhất là xây nhà hướng Nam. Thời xưa khi các bậc Hoàng đế lên ngôi đều thích hướng Nam. Người dân cũng tự nhiên mà thích xây nhà ở hướng Nam. Bôi thế xây nhà theo hướng Nam chính là một trong những nguyên tắc xây dựng cơ bản trong phong thuỷ học truyền thống. Bắc được coi là âm, Nam được coi là dương, một nơi có phong thuỷ tốt nên là nơi trong khí âm có khí dương.

–  Lấy ánh sáng tốt: Kinh nghiệm cho chúng ta thấy bất kì một chiếc cửa sổ nào quay về hướng Nam, hướng Đông Nam hay hướng Tây Nam thì lượng ánh sáng mà ngôi nhà hấp thụ được tương đôi nhiều. Nhà mà xây ở hướng Nam sẽ tận dụng hết sức ánh sáng mặt trời, bảo đảm mùa đông thì ấm áp và chiếu ánh nắng mùa hè thì mát mẻ.

–  Thông gió tốt: Ngôi nhà ngoảnh mặt hướng Nam, quay lưng phía Bắc sẽ làm cho không khí trong nhà luôn lưu thông.

–  Tránh gió bấc: Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm do vậy chỉ xây nhà dựa lưng phía Bắc ngoảnh mặt hướng Nam mới có thể vừa lấy đủ ánh sáng, thông gió, vừa tránh được gió bấc. Trong “địa học chỉ chính” có viết: “ khí dương vốn đã sợ gió, trong giới tự nhiên có âm có dương, vật hướng về phía Đông, phía Nam sẽ bị ảnh hưởng của luồng gió ấm, gọi là gió dương. Những vật hướng về hướng Tây, phía Bắc sẽ chịu ảnh hưởng của gió lạnh, gió mát, gọi là gió âm, nên đề phòng nếu không sẽ bị gió thổi cuốn mất”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tránh sự tác động của gió Bắc trong mùa đông.

Theo quy hoạch ngày nay, không dễ tìm được một căn nhà ngoảnh mặt hướng Nam, quay lưng phía Bắc vì vậy, bạn chọn những căn nhà lấy phương vị chính Nam làm nguyên tắc, hơi nhích về hướng Đông hoặc Tây là được. Không nên chọn nhà quay lưng về hướng Đông Nam, ngoảnh mặt về phía Đông Bắc vì nhà ở hướng này có ánh sáng tự nhiên kém, không khí ẩm ướt, rất có hại cho sức khỏe.

Nếu không thể chọn được ngôi nhà ưng ý thì nên trổ nhiều cửa sổ nhìn về hướng Nam, hoặc tăng thiết bị chiếu sáng, sưởi ấm và trồng nhiều cây, tường vây chắn gió ở phía Bắc để bù đắp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao lại chọn nhà “quay lưng phía Bắc, ngoảnh mặt hướng Nam”? –

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

1001 chuyện vui tử vi: Tham Lang cư Thê; Liêm,Tham Tị,Hợi; Đào,Hồng,Hình,Riêu

Bài viết thuộc chủ đề 1001 chuyện vui tử vi, nói riêng về 3 vấn đề: Tham Lang cư thê; Liêm Tham Tị Hợi và Đào Hồng Hình Riêu. Nội dung hay, dọng văn hài hước rất cuốn hút người đọc.
1001 chuyện vui tử vi: Tham Lang cư Thê; Liêm,Tham Tị,Hợi; Đào,Hồng,Hình,Riêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

PHONG NGUYÊN

Trong KHHB Xuân Quý Sửu tôi đã có dịp kể vài câu chuyện về tử vi và nay nhân dịp Xuân Giáp Dần, tôi xin tiếp tục đưa ra một số kinh nghiệm về tử vi dưới hình thức những mẫu chuyện có thực để quý bạn vừa giải trí vừa ôn luyện tử vi

1. Tham Lang cư Thê

Tối phải thú thựa với quý bạn là tôi luôn luôn thành kiến xấu về cung Thê có Tham Lang, và do đó ôi đã chê sao này trong bài “Tìm hiểu phụ nữ qua tử vi”, đang trên KHHB mới đây, mặc dầu tôi vẫn hiểu rằng, về tử vi không bao giờ nên đặt ra một định lệ cố định. Đó cũng chỉ vì tôi đã gặp quá nhiều trường hợp rõ rệt mà sau đây tôi xin nêu ra hai “ca” điển hình.

a- Một lần có người bạn giới thiệu một sĩ quan (hiện là đại úy trong QLVNCH) để nhờ tôi coi dùm về công danh, sự nghiệp. Thường thường dù lá số có giờ sinh chính xác tôi vẫn nêu ra vài chi tiết nổi bật nhất để xem xét có đúng giờ sinh hay không? Cho nên đối với lá số của vị sĩ quan này vì tôi thấy cung Thê dễ đoán nhất (có Tham Lang cư Dần hội Địa Kiếp, Lộc tồn), tôi liền hỏi thẳng đương số có phải có người vợ chỉ nghĩ đến tiền trước hết chứ chẳng có tình nghĩa gì phải không? Vị sĩ quan đó tỏ vẻ khó chịu và nói rằng chỉ cần hỏi tôi về công danh sự nghiệp chứ còn vấn đề vợ con chẳng có gì thắc mắc. nhưng tôi vẫn cứ nhấn mạnh điểm đó để kiểm sóat giờ sinh, và lúc đó đương sự bảo rằng chắc giờ sinh trật, như vậy khỏi cần coi tiếp. rồi sau vài ba câu xã giao, đương sự cùng người bạn tôi ra về, còn tôi cũng chẳng thắc mắc gì nữa vì yên trí giờ sinh sai rồi. thế rồi ngay tối hôm đó đương sự mò tới nhà tôi một mình và vội vàng thú thực với tôi qua vẻ mặt đau buồn là vợ đương sự, quả thực bê bối như tôi đã đóan. Hơn nữa đương sự còn cho biết là đương sự đang muốn li dị với vợ mà không dám thổ lộ tâm sự cùng ai, vì cho đó là điều nhục nhã xấu xa, do đó trước mặt người bạn tôi dù là thân thiết, đương sự vẫn không chịu nói thật (có lẽ vì phải giữ uy tín trong vấn đề làm ăn chăng) và ngay đối với cả tôi đương sự cũng còn giấu diếm luôn, nhưng về sau suy nghĩ thấy cần phải dựa vào tử vi để tìm phương pháp giải quyết nên đương sự mới tìm đến tôi. Đương sự còn tâm sự thêm là người vợ tuy làm ăn khá giả mà mỗi tháng cho mẹ ruột một hai ngàn đồng còn thấy tiếc, chỉ muốn rút bớt đi khiến cho đương sự phải can ngăn. Ngoài ra, đương sự có tiền phải giấu riêng hoặc phải gửi vào trương mục riêng của mình vì sợ vợ chiếm đọat hết. Vì vậy đương sự chỉ muốn xin li dị và do đó phải nhờ đến tử vi. Thực ra đương sự không có chủ đích hỏi về công danh sự nghiệp mà chính ra chỉ thắc mắc về vấn đề hôn nhân, hạnh phúc vợ chồng nhưng vì tự ái và danh dự đương sự phải nói tránh ra như vậy đó thôi. Và khi đương sự gặng hỏi có thể li dị được không? Tôi không dám trả lời dứt khóat ngay mà đành bảo đương sự cho coi lá số của người vợ và của một người con rồi mới dám quyết đoán. Sau khi xem kỹ lá số này rồi, tôi quả quyết là không thể li dị được và cho tới bây giờ đương sự vẫn chưa thực hiện được, chẳng biết về sau này ra sao. Vì danh dự của đương sự tôi giấu ngày giờ, năm tháng sanh của đương sự.

Qua mẫu chuyện trên đây quý bạn thấy Tham Lang cư Thê (nhất là ở Dần Thân) ứng với câu “Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân” (có sách nói là nhàn cung), lại còn có Địa Kiếp thành ra xài hết nổi. Còn Lộc Tồn tuy gọi là chân nhân chi tú, nhưng đi với Tham Lang, Địa Kiếp lại trở nên quá lý tài, vụ lợi, ích kỷ, tuy kiếm ra tiền được khá giả do khả năng. Ngoài ra, tại sao tôi quả quyết là không li dị nổi? Đó chỉ vì lá số của người vợ lại quá truyền tin với người chồng (nhất là các sao xấu như Tham Lang, Địa Kiếp) và các con cái cũng truyền tin với cha lẫn mẹ cho nên mới có sự ràng buộc chặt chẽ. Thành ra người vợ trở thành “của nợ” đeo đẳng mình suốt đời.

b- Đây là trường hợp thứ nhì về Tham Lang cư Thê: Tôi chỉ xin nói sơ qua về lá số của đương sự là Mệnh cư Dần có Vũ Tướng đồng cung. “Thân” cư Quan có Tử Vi cư Ngọ. Thê có Tham Lang cư Tý hội Đào Hồng, Thiên Không. Đương số là một người hàng xóm rất thân thiết với gia đình tôi nen tôi có dịp theo dõi cuộc sống của đương sự cũng như biết rõ đời tư của đương sự. Sau khi đương sự lập gia đình là tôi bắt đầu theo dõi hạnh phúc của đương sự có bị Tham Lang “hành” không? Chính đương sự cũng biết về tử vi nên đương sự cũng e ngại về cung Thê có Tham Lang và để tự an ủi đương sự bảo rằng ‘Tham Lang cư Thê, nghi cầu trưởng nữ” chứ đâu có gì đáng sợ (đương sự có lấy người con gái lớn nhất trong gia đình thật). Thế rồi độ năm sau năm sau, người vợ bắt đầu “đổ đốn” tới mức không thể tưởng tượng được vừa hại chồng, vừa lăng loan ngọai tình, mà tôi không tiện nêu ra chi tiết để khỏi làm buồn lòng đương số. Vì vậy đương số đã thương một người con gái khác và đi tới sống chung thực sự, có con với người này nữa. Nhưng khổ thay chỉ độ một thời gian ngắn, về sau đương số cho tôi biết là vợ sau còn tệ hại hơn nữa. Và hiện nay đương số đã có một ‘bà” thứ ba rất nết na, thùy mị, đoan trang được nhiều thầy tướng coi mặt và khen hết mình.

Đọc đến đây chắc quý bạn hơi thắc mắc là tại sao cung Thê như vậy mà cuối cùng lại có vợ tốt. Tôi xin trả lời ngay rằng nhờ cung Nô bộc rất tốt (vì cư ngay cung tuổi và có Tả Hữu hội chiếu nhiều sao tốt) cho nên ứng vào thứ thiếp đàng hòang, nết na, đắc lực, đảm đang. Nhưng tôi nghĩ rằng người vợ thứ ba này chỉ tốt khi hai người chung sống với nhau bán chính thức, nghĩa là chưa có hôn thú, chứ còn khi đã chính thức hóa cuộc hôn nhân thì sao Tham Lang tại cung Thê lại có dịp họat động. Tuy nhiên, điều này thuộc về tương lai chưa thể biết có ứng nghiệm hay không.

Nói tóm lại qua hai mẫu chuyện trên đây, mỗi khi quý bạn gặp trường hợp cung Thê có Tham Lang, Địa Kiếp, Đào Hồng… (là một trong những cách tôi chê nhất), quý bạn cần chú trọng tới cung Nô Bộc để xem có vớt vát được vấn đề hạnh phúc hôn nhân hay không? Ngòai ra nếu có thể được cầm xem có truyền tin hay không để quyết đoán về vấn đề có thay đổi được cuộc sống vợ chồng không. Trường hợp trên nếu không truyền tinh là may, còn ngược lại ráng mà … chịu.

2. Liêm-Tham Tỵ Hợi

Ai học tử vi mà chẳng biết câu “Liêm Tham Tỵ Hợi hình ngục nan đào”, cũng chỉ vì câu này khiến tôi phải chú tâm nghiên cứu tử vi và đã thắc mắc nhiều nhất về sự chính xác của khoa tử vi. Tôi còn nhớ hồi tôi mới biết sơ qua về tử vi, tôi có được coi khá nhiều lá số có Liêm-Tham Tỵ, Hợi và nghiệm thấy có vài trường hợp rất đúng, nhưng lại có nhiều trường hợp sai hẳn, mặc ầu giờ sinh đúng, vì có người bị tù lên tù xuống nhưng có người chẳng bao giờ biết một ngày giam giữ. Vì vậy tôi rất bực mình và bèn làm mộ “collection” riêng về các lá số có Liêm Tham Tỵ Hợi, rồi khi thấy ai bị tù tội, giam cầm là tôi viết ngay một chữ “Tù’ duy nhất thật to trên lá số của đương số, để chiêm nghiệm riêng về khía cạnh đó chứ chẳng hề chú ý với điểm khác. Thế rồi một hôm, vì sơ ý để “râu ông này cắm cằm ba kia”, tôi đã viết chữ “Tù” lên trên một lá số của người bạn thân chưa hề bị giam giữ. Và nếu chỉ có thế thôi thì đâu có sao, nưng khổ một nỗi là tôi đã để người bạn đó thấy khi anh ta đến chơi, khiến anh ta cứ tưởng tôi biết chắc là anh thế nào cũng bị tù nên mới viết chữ to như thế trên lá số. Phải chi anh hỏi tôi thì cũng dễ giải thích, nhưng anh đã làm thinh để trong lòng và từ đó vẻ mặt luôn đăm chiêu, chẳng dám họat động, làm gì cả mặc dù anh ta có bằng cấp cao, có tài năng đến nỗi sau một năm trông anh già hẳn đi và đùng một hôm tôi được tin anh ta bị giam giữ vì bị nghi oan gì đó. Khi ấy tôi vội vàng mở lá số của anh tar a coi thì thấy đã có sẵn một chữ “Tù” to tướng ghi trên lá số anh ta. Tuy tôi biết mình đã biên lộn nhưng thấy ngẫu nhiên ứng nghiệm, tôi đâm ra mê tín cho rằng đó là cái điềm xấu cho anh.

Nhờ sư tập nhiều lá số Liêm-Tham Tỵ, Hợi và sau khi tham khảo nhiều vị tử vi cao thâm, tôi xin trình bày cùng quý bạn về khía cạnh này:

- Trước hết tôi cần nói rằng Liêm-Tham Tỵ, Hợi chủ về người ưa thích mạo hiểm, ưa làm liều, rất can đảm, thích đảm trách hoặc hay phải đảm trách những chuyện bí mật rắc rối, làm việc gì cũng mau mắn lanh lẹ, quả quyết, và những đặc tính này người có Liêm-Tham Tỵ, Hợi dễ bị vướng vào vòng pháp luật, hoặc nghi oan, liên lụy, nhưng còn phải tùy thuộc các sao phụ mới có thể quyết đóan như vậy được. Ngòai ra tôi xin nói thêm (điểm này không ăn nhằm gì với tù tội) để quý bạn tùy nghi áp dụng, là người Liêm – Tham Tỵ, Hợi còn hay có năng khiếu về máy móc, điện khí hoặc về ngành tư pháp (như Luật sư, thẩm phán) nếu có thêm các sao khác bổ túc.

- Vì những đặc tính trên, muốn tránh được tù tội. Liêm-Tham cần xa lánh được Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Tuế Phục. Nếu gặp đủ hết các sao này thì quả thực câu phú trên rất đúng. Có nhà tử vi sợ Hóa Kỵ, Thiên Không đồng cung với Liêm Tham nhưng thực ra hai sao này đồng cung lại giải được hết sự xấu xa, tù tội. Ngòai ra, nếu Liêm Tham lại gặp được Tả Hữu, Lộc Tồn thì thực là rất hay (chưa cần thêm các sao tốt khác), nghĩa là sẽ trở thành một người nổi bật trong quần chúng về tài năng, chứ không hẳn về bằng cấp, văn hóa.

- Nếu chỉ có Liêm-Tham Tỵ Hợi không thôi, nghĩa là tránh được các sao xấu kể trên và cũng không có cách nào tốt phụ thêm, thì người đó chỉ làm được những chuyện về chân tay như thợ máy, thợ mộc … và không đảm đương được việc quy mô, rộng lớn, còn việc tù tội, tuyệt nhiên không có gì ứng nghiệm.

3. Đào Hồng, Hình, Riêu

Qua câu chuyện tôi sắp kể dưới đây, tôi nhận thấy rằng, về tử vi nếu chỉ biết lơ mơ không những chẳng có ích gì mà có khi còn bất lợi cho mình. Đó là trường hợp một anh bạn tôi như sau:

Anh ta mới học tử vi được vài tháng nhưng lúc nào cũng tự cho mình là thấu triệt về tử vi vì của đáng tội anh rất thong minh và nhớ dai, các câu phú anh thuộc làu làu, nhưng về phần kinh nghiệm thì đương nhiên chưa có gì. Khi anh ta tới tuổi lập gia đình (đây tôi nói hồi anh còn niên thiếu trẻ trung) anh rất kén chọn ý trung nhân vì dù sao anh cũng nhiều tài năng, bằng cấp cao lại đẹp trai thì thiếu gì gái theo đuổi, ưng chịu. Thế rồi anh để ý một thiếu nữ còn đang đi học (Trung Học) rất duyên dáng, dễ thương và đoan trang nết hạnh, và anh đi tới chỗ yêu thương say đắm, nhưng khổ một nỗi khi xem tử vi cho nàng anh lại đâm ra thất vọng và lần lần đi tới chỗ chán chường. Tôi lấy làm lạ hỏi anh và anh tâm sự rằng anh không dám tiến tới hôn nhân với cô ta, vì thấy cung Mạng “Thân” (cư Tài) có đủ cả Đào Hồng Hình Riêu lại thêm Xương Khúc, Tả Hữu thì chắc là hư đốn lắm. Anh còn lý luận thêm rằng nếu không chạm vào câu phú “Hình Riêu phận gái long đong” thì cũng vướng vào câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa, dắt tay trai vào”, tuy các sao ấy không đồng cung thì ảnh hưởng nhẹ đi.

Sau khi nghe anh bạn tôi lý luận về tử vi như vậy, tôi cũng e dè vì hồi đó tôi cũng chỉ là tay “ăn dong” và khoa này, cho nên tôi đành làm thinh tuy trong thâm tâm chưa đồng ý mà còn nghĩ rằng cô ấy không hư hỏng mà còn có thể giúp ích cho chồng bằng khả năng của mình. Hơn nữa cứ theo cách thức ăn nói và hình dáng của cô ta, dù cho người không biết coi tướng mặt cũng phải công nhận cô ta đoan trang nết hạnh. Tuy vậy tôi vẫn không dám khuyên anh bạn tôi tiến tới, vì sợ có chuyện gì ngang trái, đổ vỡ xảy ra thì mình đâm ra ân hận.

Độ chừng 5 năm sau, tình cờ tôi gặp lại người vợ hụt của anh bạn tôi và được biết cô ta học được dở dang rồi xoay sang học giải phẫu thẫm mỹ và sửa sắc đẹp. Ngòai ra cô còn cho biết đã lập gia đình, chồng làm bác sĩ và rất hạnh phúc, gián tiếp chứng tỏ cô ta không có gì trắc nết hoặc hại chồng: trái lại cô ta rất đác lực với chồng về phương diện tài chính, cũng như quán xuyến việc nội trợ. Và sau khi gặp cô, tôi vội đến nhà của anh bạn tôi để nói rõ sự thực cho anh tat ha hồ tiếc rẻ, nhưng ai ngờ chính anh bạn tôi cũng mới gặp cô ta và định chạy lại nhà tôi tâm sự về chuyện đó, đồng thời thảo luận với tôi về tử vi trên khía cạnh đó. Với gương mặt thơ thẩn anh tỏ ý hối hận và luyến tíêc người đẹp thủa xưa đồng thời mạt sát khoa tử vi quá cỡ. Khi ấy tôi đã tiến bộ nhiều về tử vi và hơn nữa thấy được thực tế đã bày tỏ trước mắt, nên tôi liền lên tiếng bênh vực tử vi và nói với anh ta rằng Đào Hoa, Hồng Loan cư Tài Bạch (có cả “Thân” đóng ở đó) ứng vào việc mưu sinh bằng mỹ thuật như họa sĩ, hỉai phẫu thẫm mỹ, hoặc sửa sắc đẹp; Xương-Khúc chứng tỏ có ăn có học đàng hòang về ngành chuyên môn chứ không phải chỉ làm quen tay; Tả - Hữu thì chủ về giúp ích cho đời và nếu phụ trách về sửa sắc đẹp thì cũng là một cách giúp đời: Thiên Hình ứng cho dao kéo, giải phẫu; Thiên Riêu-Thiên Y tượng trưng cho thuốc men dung trong khi giải phẫu hoặc sửa sắc đẹp. Ngòai ra tôi còn nhớ lá số của cô ta có Khoa, Quyền, Lộc nữa thì làm sao bê bối được, chỉ khổ một nỗi là sự việc đã xảy ra rồi mà có lý luận hay cách mấy, cũng bị bạn tôi cho là nói dựa. Nhưng dù sao đó cũng là một cách học tử vi, phải không quý bạn?

oOo

Tôi xin chấm dứt bài hôm nay nơi đây và hi vọng KHHB được trường tồn để tôi có dịp hầu chuyện quý bạn qua Xuân năm tới, vì những chuyện về tử vi có thực còn rất nhiều. Sau hết nhân dịp Xuân về, Phong Nguyên tôi xin chúc quý bạn và gia đình một năm mới hòan toàn hạnh phúc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 1001 chuyện vui tử vi: Tham Lang cư Thê; Liêm,Tham Tị,Hợi; Đào,Hồng,Hình,Riêu

Những thói quen khiến bạn mất tiền mất của

Trong cuộc sống có rất nhiều điều tưởng chừng vô hại lại có thể đặt bạn vào tình huống cháy túi , đặc biệt là những trường hợp dưới đây.
Những thói quen khiến bạn mất tiền mất của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Phòng khách nhiều cửa

Đây là điểm dễ phá phong thủy nhất, nhiều người muốn phòng khách được thông thoáng nên thường để rất nhiều cửa thông với các phòng, nhưng như vậy sẽ khiến phòng khách không thể hấp thụ khí, khó lưu giữ may mắn tài phú ở lại.

2. Két đối diện với cửa

ket-sat-6269-1412914059.jpg

Trong két chúng ta thường đặt vật có giá trị như: vàng bạc, tiền mặt, trang sức... những vật quý giá như vậy bạn nên đặt ở nơi an toàn chứ không nên đặt ở nơi mở cửa ra là nhìn thấy, như vậy sẽ khiến tiền tài lụi bại, không giữ được của cải.

3. Cửa trước và cửa sau cùng mở

Có một số ngôi nhà xây cửa chính ở cả trước và sau để tiện cho việc ra vào. Điều này cũng được nhưng bạn cần lưu ý là không nên để 2 cửa này cùng mở, nếu không sẽ rơi vào thế phá tài.

4. Vòi nước hướng thẳng cửa ra vào

bep2-7521-1412914059.jpg

Trong phong thủy thì nước tượng trưng cho tài, nếu nhà có vòi nước hưởng thẳng cửa ra vào thì nước sẽ chảy ra phía ngoài cửa, về mặt phong thủy gọi là phá tài.

5. Nhà có nhiều vết nứt

Nếu trên tường phòng ngủ và phòng khách nhà bạn có vết nứt nghĩa là tài vận không tốt, cần phải đặc biệt chú ý. Đây là dấu hiệu tài vận bị hạn chế.

6. Đồ dùng nhà bếp hư hỏng

Trong phong thủy, đồ dùng nhà bếp đại diện cho sự giàu có, nếu bát ăn cơm, nồi niêu... có dấu hiệu hư hỏng thì tốt nhất bạn nên thay nó, bởi sự hỏng hóc đại diện cho sự nghèo túng.

7. Không biết "tôn trọng" đồng tiền

Thiếu tôn trọng tiền có nghĩa thiếu tôn trọng tài vận. Không biết ‘tiếc’ tiền, thì cũng sẽ khó có tài vận tốt. Bình thường các nhà buôn bán không để ý đến những khoản tiền nhỏ, nên đôi khi tiền trên tay hay mất, tiền trên người cũng cạn sạch, nếu không chú ý cách tiêu tiền, cách giữ tiền thì tài vận sẽ bị hạn chế.

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thói quen khiến bạn mất tiền mất của

Khái niệm về cách cục trong tứ trụ

I. Các loại cách cục thường gặp Cách cục như địa chỉ riêng của mỗi người, qua “địa chỉ” này mà có thể biết khả năng và cuộc sống người đó. Cách cục được xác định: lập tứ trụ (4 cột thời gian), lấy nhân nguyên (Can) do chi tháng tàng chứa lộ ra, nghĩa là có thần tương ứng lộ ra. Còn nhân nguyên (Can) không lộ ra thì chọn một thần nào đó cần lấy. Cách cục có hai dạng: Bát cách và Ngoại cách.
Khái niệm về cách cục trong tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bát cách có: Chính tài cách, Thiên tài (Phiến tài) cách, Chính quan cách, Thất sát cách, Chính ấn cách, Thiên ấn (Phiến ấn) cách, Thực thần cách và Thương quan cách.

Nhưng cách cục căn cứ theo 10 can ngày sinh như sau:

1. Ngày sinh can Giáp

1.1. Nếu sinh tháng Dần: Dần là Lộc của Giáp, nếu có lộ ra chữ Giáp thì đó là cách Kiến lộc.

1.2. Sinh tháng Mão có lộ hay không lộ chữ Ất thì gọi là Dương nhận cách (ngoại cách).

1.3. Sinh tháng Thìn: nếu lộ chữ Mậu là cách Phiến tài. Lộ chữ Quý là cách Chính ấn. Trong trường hợp không lộ chữ nào thì chọn một chữ quan trọng nhất lấy làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ lên chữ Bính là Thực thần cách. Lộ lên chữ Canh là Cách Thất sát. Lộ lên chữ Mậu là Cách Thiên tài. Nếu cả 3 chữ không lộ lên thì lấy một chữ quan trọng làm cách cục. Còn nếu 2 hay 3 chữ lộ lên nên lấy chữ Bính làm cách cục căn bản.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ lên chữ Đinh là Thương quan cách. Lộ lên chữ Kỷ là Chính tài cách. Nếu cả hai chữ không lộ lên thì lấy một chữ khác làm cách cục. Nếu Đinh Kỷ đều không lộ lên nên lấy một chữ khác làm cách cục.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ lên chữ Kỷ là Chính tài cách. Lộ lên chữ Đinh là Thương quan cách. Nếu cả 2 chữ đều không lộ lên thì lấy một chữ khác làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: Lộ lên chữ Canh là Thất sát cách. Lộ lên chữ Mậu là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Nhâm là Thiên ấn cách.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ lên chữ Tân là Chính quan cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ lên chữ Mậu là Phiến tài cách. Lộ lên chữ Tân là Chính quan cách. Lộ lên chữ Đinh là Thương quan cách.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ hay không lộ chữ Nhâm cũng là Thiên ấn cách.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ hay không lộ chữ Quý cũng là Chính ấn cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ lên chữ Kỷ là Chính tài cách. Lộ lên chữ Quý là Chính ấn Cách. Lộ lên chữ Tân là Chính quan cách. Nếu 3 chữ đều không lộ lên nên chọn một chữ khác làm cách cục.

2. Ngày sinh can Ất

1.1. Sinh tháng Dần: lộ lên chữ Mậu là Chính tài cách. Lộ lên chữ Bính là Thương quan cách. Nếu hai chữ này không lộ lên thì chọn 1 chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ lên chữ Ất là Kiến lộc cách. Nếu không lộ lên chữ Ất thì cũng là Kiến lộc cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Mậu là Chính tài cách. Lộ lên chữ Quý là Thiên ấn cách. Nếu không lộ lên hai chữ này thì chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ lên chữ Bính là Thương quan cách. Lộ lên chữ Canh là Chính quan cách. Lộ lên chữ Mậu là Chính tài cách.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ lên chữ Đinh là Thực thần cách. Lộ lên chữ Kỷ là Thiên tài cách.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ lên chữ Kỷ là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Đinh là Thực thần cách. Nếu lộ lên chữ Ất thì không có cách cục nào cả mà lấy chữ Đinh hoặc Kỷ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ lên chữ Canh là Chính quan cách. Lộ lên chữ Nhâm là Chính ấn cách. Lộ lên chữ Mậu là Chính tài cách.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ lên chữ Tân là Thất sát cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ lên chữ Mậu là Chính tài cách. Lộ lên chữ Đinh là Thực thần cách. Lộ lên chữ Tân là Thất sát cách.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ lên chữ Nhâm là Chính ấn cách. Lộ lên chữ Giáp không có cách cục gì, nhưng nếu không có chữ Nhâm thì cũng là Chính ấn cách.

1.11. Sinh tháng Tý: nếu lộ lên hay không lộ chữ Quý thì cũng là Thiên ấn cách cục.

1.12. Sinh tháng Sửu: nếu lộ lên chữ Kỷ là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Quý là Thiên ấn cách. Lộ lên chữ Tân là Thất sát cách .

3. Ngày sinh can Bính

1.1. Sinh tháng Dần: lộ lên chữ Giáp là Thiên ấn cách. Lộ lên chữ Mậu là Thực thần cách. Nếu không lộ lên 2 chữ đó thì lấy một chữ khác làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: có thể lộ hay không lộ lên chữ Ất đều là Chính ấn cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Mậu là Thực thần cách. Lộ lên chữ Quý là Chính quan cách. Lộ lên chữ ất là Chính ấn cách. Nếu cả 3 chữ đó không lộ lên thì chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ lên chữ Canh là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Mậu là Thực thần cách. Lộ lên chữ Bính là Kiến lộc cách (ngoại cách). Nếu cả 3 chữ không lộ lên thì lấy một chữ làm cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: nếu lộ lên chữ Đinh là Dương nhận cách (ngoại cách). Lộ hay không lộ lên chữ Kỷ cũng là Thương quan cách.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ lên chữ Kỷ là Thương quan cách. Lộ lên chữ Ất là Chính ấn cách. Nếu cả 2 chữ này không lộ lên thì chọn một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ lên chữ Canh là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Mậu là Thực thần cách. Lộ lên chữ Nhâm là Thất sát cách. Nếu không lộ lên 3 chữ này thì chọn một chữ làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: có thể lộ hay không lộ lên chữ Tân thì cũng là Chính tài cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ lên chữ Mậu là Thực thần cách. Lộ lên chữ Tân là Chính tài cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ lên chữ Nhâm là Thất sát cách. Lộ lên chữ Giáp là Thiên ấn cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì lấy một chữ quan trong làm cách.

1.11. Sinh tháng Tý: có thể lộ hay không lộ chữ Quý thì cũng là Chính quan cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ lên chữ Kỷ là Thương quan cách. Lộ lên chữ Quý là Chính quan cách. Lộ lên chữ Tân là Chính tài cách. Nếu cả 3 chữ không lộ lên thì chọn một chữ làm cách cục.

4. Ngày sinh can Đinh

1.1. Sinh tháng Dần: lộ lên chữ Giáp là Chính ấn cách. Lộ lên chữ Mậu là Thương quan cách. Nếu cả 2 chữ không lộ lên nên chọn một chữ khác làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: là Thiên ấn cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Mậu là Thương quan cách. Lộ lên chữ Ất là Thiên ấn cách. Lộ lên chữ Quý là Thất sát cách. Nếu cả 3 chữ không lộ lên có thể chọn một chữ để làm nên cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ lên chữ Canh là Chính tài cách. Lộ lên chữ Mậu là Thương quan cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chon một chữ làm cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ hay không lộ chữ Đinh, Kỷ đều là Kiến lộc cách (ngoại cách).

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Kỷ là Thực thần cách. Lộ chữ Ất là Thiên ấn cách.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ chữ Canh là Chính tài cách. Lộ lên chữ Mậu là Thương quan cách. Lộ lên chữ Nhâm là Chính quan cách. Nêu cả 3 chữ không lộ lên nên chọn một chữ làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ hay không lộ lên chữ Tân là Thiên tài cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ lên chữ Mậu Thương quan cách. Lộ lên chữ Tân là Thiên tài cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ lên chữ Nhâm là Chính quan cách. Lộ lên chữ Giáp là Chính ấn cách. Nếu không lộ lên chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ lên hay không lộ lên chữ Quý đều là Thất sát cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ lên chữ Kỷ là Thực thần cách. Lộ lên chữ Quý là Thất sát cách. Lộ lên chữ Tân là Thiên tài cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì lấy một chữ làm tên cách cục.

5. Ngày sinh can Mậu

1.1. Sinh tháng Dần: lộ chữ Giáp là Thất sát cách. Lộ chữ Bính là Thiên ấn cách. Nếu cả 2 chữ không lộ lên sẽ lấy 1 chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ hay không lộ chữ Ất thì cũng là Chính quan cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Ất là Chính quan cách. Lộ lên chữ Quý là Chính tài cách. Nếu không lộ lên 2 chữ như vậy thì chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Thiên tài cách. Lộ chữ Canh là Thực thần cách. Nếu không lộ chữ nào thì chọn lấy một chữ làm cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ hay không lộ chữ Đinh cũng là Chính ấn cách.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ lên chữ Ất là Chính quan cách. Lộ lên chữ Đinh là Chính ấn cách, cả hai chữ nếu không lộ lên thì chọn một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ lên chữ Canh là Thực thần cách. Lộ lên chữ Nhâm là Thiên tài cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ hay không lộ lên chữ Tân cũng là Thương quan cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ chữ Đinh là Thiên ấn cách. Lộ lên chữ Tân là Thương quan cách. Nếu không lộ hai chữ đó lên thì chọn chữ khác làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ lên chữ Nhâm là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Giáp là Thất sát cách. Nếu các chữ đó không lộ lên thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ hay không lộ chữ Quý cũng là Chính tài cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ lên chữ Tý là Chính tài cách. Lộ lên chữ Tân là Thương quan cách. Nếu không lộ lên một chữ nào thì lấy một chữ khác làm cách cục.

6. Ngày sinh can Kỷ

1.1. Sinh tháng Dần: lộ lên chữ Giáp là Chính quan cách. Lộ lên chữ Bính là Chính ấn cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ hay không lộ lên chữ Ất cũng là Thất sát cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Quý là Thiên tài cách. Lộ lên chữ Ất là Thất sát cách. Nếu không lộ lên một chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Chính ấn cách. Lộ lên chữ Canh là Thương quan cách. Khi không lộ lên chữ nào hãy chọn một chữ khác làm tên cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ hay không lộ lên chữ Bính và chữ Kỷ thì cũng là Kiến lộc cách, đây là ngoại cách.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Ất là Thất sát cách. Lộ chữ Đinh là Thiên tài cách. Không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ chữ Canh là Thương quan cách. Lộ lên chữ Nhâm là Chính tài cách. Không lộ lên chữ nào lấy một chữ khác làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ chữ Tân hay không lộ ra thì cũng là Thực thần cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ lên chữ Tân là Thực thần cách. Lộ lên chữ Đinh là Thiên ấn cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ lên chữ Nhâm là Chính tài cách. Lộ lên chữ Giáp là Chính quan cách. Không lộ chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ hay không lộ chữ Quý cũng là Thiên tài cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ lên chữ Tân là Thực thần cách. Lộ lên chữ Quý là Thiên tài cách. Nếu không lộ lên chữ nào thì chọn một chữ khác làm cách cục.

7. Ngày sinh can Canh

1.1. Sinh tháng Dần: lộ chữ Giáp là Thiên tài cách. Lộ chữ Bính là Thất sát cách. Lộ chữ Mậu là Thiên ấn cách. Nếu không lộ chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ hay không lộ chữ Ất cũng là Chính tài cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ chữ Mậu là Thiên ấn cách. Lộ chữ Quý là Thương quan cách. Lộ chữ Ất là Chính tài cách. Nếu không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Thất sát cách. Lộ chữ Mậu là Thiên ấn cách. Nếu không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ chữ Đinh là Chính quan cách. Lộ chữ Kỷ là Chính ấn cách. Nếu không lộc chữ nào lấy 1 chữ làm cách cục.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Kỷ là Chính ấn cách. Lộ chữ Đinh là Chính Quan cách. Lộ chữ ất là Chính tài cách. Nếu không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: vì Thân là lộc của Canh, nên gọi là Kiến lộc cách.

1.8. Sinh tháng Dậu: Dậu là Dương nhận của Canh, nên gọi là Dương nhận cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ chữ Mậu là Thiên ấn cách. Lộ chữ Đinh là Chính quan cách. Nếu không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ chữ Nhâm là Thực thần cách. Lộ chữ Giáp là Chính tài cách. Nếu không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ hay không lộ chữ Quý cũng là Thương quan cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ chữ Kỷ là Chính ấn cách. Lộ chữ Quý là Thương quan cách. Không lộ chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

8. Ngày sinh can Tân

1.1. Sinh tháng Dần: lộ chữ Giáp là Chính tài cách. Lộ chữ Bính là Chính quan cách. Lộ chữ Mậu là Chính ấn cách. Không lộ chữ nào lấy một chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ chữ Ất hay không lộ chữ Ất cũng là Thiên tài cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ chữ Mậu là Chính ấn cách. Lộ chữ Quý là Thực thần cách. Lộ chữ ất là Thiên tài cách.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Chính quan cách. Lộ chữ Mậu là Chính ấn cách. Nếu không lộ chữ nào thì chọn một chữ làm cách cục.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ chữ Đinh là Thất sát cách. Lộ chữ Kỷ là Thiên ấn cách. Lộ chữ Ất là Thiên tài cách. Không lộ chữ nào chọn một chữ làm cách cục.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Kỷ là Thiên ấn cách. Lộ chữ Đinh là Thất sát cách. Nếu không lộ chữ nào lấy một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: Thân là Nhận của Tân nên gọi là Nhận cách. Nếu lộ chữ Nhâm sẽ chuyển thành Thương quan cách, hoặc lộ chữ Mậu là Chính ấn cách.

1.8. Sinh tháng Dậu: Dậu là lộc của Tân nên gọi là Kiến lộc cách (ngoại cách).

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ chữ Mậu là Chính ấn cách. Lộ chữ Đinh là Thất sát cách. Không lộ chữ nào lấy một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ chữ Nhâm là Thương quan cách. Lộ chữ Giáp là Chính tài cách. Không lộ chữ nào lấy một chữ làm tên cách cục.

1.11. Sinh tháng Tý: lộ chữ Quý là Thực thần cách, không lộ chữ nào tuỳ việc mà đoán chọn.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ chữ Kỷ là Thiên ấn cách. Lộ chữ Quý là Thực thần cách.

9. Ngày sinh can Nhâm

1.1. Sinh tháng Dần: lộ chữ Giáp là Thực thần cách. Lộ chữ Bính là Thiên tài cách. Lộ chữ Mậu là Thất sát cách, cả 3 chữ không lộ chọn một chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ hay không lộ chữ ất cũng là Thương quan cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ chữ Mậu là Thất sát cách. Lộ chữ ất là Thương quan cách. Cả 2 chữ không lộ thì chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Thiên tài cách. Lộ chữ Canh là Thiên ấn cách. Lộ chữ Mậu là Thất sát cách.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ chữ Đinh là Chính tài cách. Lộ chữ Kỷ là Chính quan cách. Cả 2 chữ không lộ lên chọn một chữ làm cách cục.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Kỷ là Chính quan cách. Lộ chữ Đinh là Chính tài cách.

Lộ chữ ất là Thương quan cách, cả 3 chữ không lộ lên chọn một chữ làm cách cục.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ chữ Canh là Thiên ấn cách. Lộ chữ Mậu là Thất sát cách, cả 2 chữ không lộ lên hãy chọn một chữ làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ hay không lộ chữ Tân cũng là Chính ấn cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ chữ Mậu là Thất sát cách. Lộ chữ Đinh là Chính tài cách. Lộ chữ Tân là Chính ấn cách, cả 3 chữ không lộ thì chọn một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: Hợi là lộc của Nhâm nên gọi là Kiến lộc cách.

1.11. Sinh tháng Tý: Tý là Dương nhận của Nhâm nên gọi là Dương nhận cách (Kiếp tài).

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ chữ Kỷ là Chính quan cách. Lộ chữ Tân là Chính ấn cách, cả 2 chữ không lộ tuỳ việc mà chọn một chữ làm cách cục.

10. Ngày sinh can Quý

1.1. Sinh tháng Dần: lộ chữ Giáp là Thương quan cách. Lộ chữ Bính là Chính tài cách Lộ lên chữ Mậu là Chính quan cách. Nếu cả 3 chữ không lộ lên thì chọn 1 chữ làm cách cục.

1.2. Sinh tháng Mão: lộ hay không lộ chữ Ất cũng là Thực thần cách.

1.3. Sinh tháng Thìn: lộ lên chữ Mậu là Chính quan cách. Lộ lên chữ Ất là Thực thần cách. Không lộ lên 2 chữ này chọn một chữ làm cách cục.

1.4. Sinh tháng Tỵ: lộ chữ Bính là Chính tài cách. Lộ chữ Canh là Chính ấn cách. Lộ lên chữ Mậu là Chính quan cách.

1.5. Sinh tháng Ngọ: lộ chữ Kỷ là Thất sát cách. Lộ chữ Đinh là Thiên tài cách, cả hai chữ không lộ thì chọn một chữ khác làm cách cục.

1.6. Sinh tháng Mùi: lộ chữ Kỷ là Thất sát cách. Lộ chữ Đinh là Thiên tài cách. Lộ chữ Ẩt là Thực thần cách.

1.7. Sinh tháng Thân: lộ chữ Canh là Chính ấn cách. Lộ chữ Mậu là Chính quan cách, cả hai chữ không lộ lên thì chọn 1 chữ làm cách cục.

1.8. Sinh tháng Dậu: lộ hay không lộ chữ Tân cũng là Thiên ấn cách.

1.9. Sinh tháng Tuất: lộ chữ Mậu là Chính quan cách. Lộ chữ Tân là Thiên ấn cách. Lộ chữ Đinh là Thiên tài cách. Nếu cả 3 chữ không lộ lên thì chọn một chữ làm cách cục.

1.10. Sinh tháng Hợi: lộ hay không lộ chư giáp cũng là Thương quan cách.

1.11. Sinh tháng Tý: Tý là lộc của Quý, nên đây là Kiến lộc cách.

1.12. Sinh tháng Sửu: lộ chữ Kỷ là Thất sát cách. Lộ chữ Tân là Thiên ấn cách. Nếu không lộ lên hai chữ thì chọn một chữ là cách cục.

II. Những cách cục phản ánh mệnh tốt

Có những cách cục mà thông qua đó có thể cho biết cuộc đời người đó có nhiều thành công hay thường phải gặp những điều không đắc ý. Sau đây là cấu trúc những cách cục thể hiện có nhiều thành công trong cuộc đời.

1. Cục là Chính quan cách

Thứ nhất: Nhật chủ (ngày sinh) phải cường, như gặp: Trường sinh, Đế vượng, Quan đới. Trong tứ trụ có các tài tinh (như Chính tài, Thiên tài...) sinh quan tinh (như Chính quan, Thiên quan...).

Thứ hai: Nhật chủ yếu (gặp thai, dưỡng, suy), có Chính quan cường mạnh, có ấn sinh Nhật chủ.

Thứ ba: trong tứ trụ Chính quan không có Thất sát lẫn lộn.

2. Cục là Thiên tài và Chính tài cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Tài tinh cũng cường lại gặp Quan.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, Tài tinh cường, có ấn và Tỷ hộ Nhật chủ.

Thứ ba: Nhật chủ cường, Tài tinh yếu và có Thương Thực sinh Tài.

3. Thiên tài và Chính tài cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Ấn yếu, có Quan, Sát mạnh.

Thứ hai: Nhật chủ cường, Ấn cường, có Thương, Thực ở vị trí tử của Nhật chủ.

Thứ ba: Nhật chủ cường, nhiều Ấn, có Tài lộ ra và mạnh.

4. Thực thần cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Thực thần cũng cường và trong tứ trụ có Tài.

Thứ hai: Nhật chủ cường, Sát quá mạnh, Thực thần chế ngự Thất sát nhưng lại không có Tài tinh. Nếu có Tài thì Tài phải yếu.

Thứ ba: Nhật chủ yếu, Thực thần mạnh, có Ấn sinh Nhật chủ.

5. Thất sát cách

Thứ nhất: Nhật chủ rất mạnh (có Lộc, Vượng, Trường sinh).

Thứ hai: Nhật chủ cường, Sát lại cường hơn, có Thực thần chế ngự Thất sát.

Thứ ba: Nhật chủ yếu, Sát mạnh có ấn tinh sinh Nhật chủ.

Thứ tư: Nhật chủ và Thất sát quân bình (mạnh yếu như nhau), không có Quan tinh lẫn lộn.

6. Thương quan cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Thương quan mạnh, có Tài tinh.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, Thương quan mạnh, có Tài tinh.

Thứ ba: Nhật chủ yếu, Thương quan mạnh, có Thất sát và Ấn lộ ra.

Thứ tư: Nhật chủ cường, Sát Mạnh, Có Thương quan chế Sát tinh.

III. Những cách cục bị phá hoại

Đây là những cách cục thể hiện qua 4 cột thời gian hay tứ trụ. Sự sắp xếp các thần trong tứ trụ có thể tiên lượng mệnh của một người chưa đẹp. Những cách cục đó như sau:

1. Cục là Chính quan cách

Thứ nhất: có Thương quan nhưng không có Ấn.

Hai là: gặp phải hình, xung , hại.

Ba là: có Thất sát lẫn lộn.

2. Cục là Thiên tài, Chính tài cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Tài tinh yếu, có nhiều Tỷ kiếp.

Thứ hai: gặp phải hình, xung, hại.

Thứ ba: Nhật chủ yếu, Thất sát mạnh, Tài cũng mạnh sinh Sát tinh hại Nhật chủ.

3. Thiên ấn, Chính ấn cách

Thứ nhất: Nhật chủ yếu, Ấn cũng yếu, Tài tinh mạnh phá ấn.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, Sát quá mạnh lại có Quan lẫn lộn.

Thứ ba: gặp phải hình, xung, hại.

4. Thực thần cách

Thứ nhất: Nhật chủ cường, Thực thần yếu lại gặp Thiên ấn.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, có Thực mạnh lại có Tài tinh.

Thứ ba: Gặp phải hình, xung, hại.

5. Thất sát cách

Thứ nhất: gặp phải hình, xung, hại.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, không có ấn.

Thứ ba: Tài tinh mạnh sinh Sát, không có Thương Thực , chế sát.

6. Thương quan cách

Thứ nhất: gặp phải Quan tinh.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, lại gặp nhiều Tài tinh.

Thứ ba: Nhật chủ cường, Thương quan yếu, nhiều ấn tinh.

Thứ tư: gặp phải hình, xung, hại.

Những cách cục trên ở hai mức độ thành công và không thành công. Cũng có những cách cục lại thái quá hay bất cập, cả hai trạng thái này nói chung cũng không tốt. Như:

IV. Cách cục thái quá

1. Cách cục Chính quan cách

Thứ nhất: Quan tinh mạnh mà lại nhiều, Nhật chủ quá yếu.

Thứ hai: Quan tinh mạnh, Nhật chủ yếu lại gặp nhiều Tài tinh.

2. Thiên tài, Chính tài cách

Thứ nhất: Tài tinh mạnh lại nhiều, Nhật Chủ quá yếu.

Thứ hai: Tài mạnh, Nhật chủ yếu lại thêm nhiều Thực Thương.

3. Thiên ân, Chính ấn cách

Thứ nhất: Ấn mạnh, Nhật chủ yếu, Tài yếu.

Thứ hai: Tỷ kiếp nhiều, ấn mạnh, Thương, Tài, Quan yếu.

4. Thương Thực cách

Thứ nhất: Nhật chủ yếu, Thực Thương nhiều và mạnh lại chế Sát, lại không có Tài tinh.

Thứ hai: Nhật chủ cường, Sát yếu, Thực, Thương mạnh chế sát thái quá, lại không có tài tinh.

5. Thất sát cách

Thứ nhất: Nhật chủ yếu, Sát rất mạnh, không có Thực, Thương.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, Sát mạnh, không có Thực, Thương.

V. Cách cục bất cập

1. Chính quan cách

Thứ nhất: Nhật chủ mạnh, Quan yếu, không có Tài tinh.

Thứ hai: Nhật chủ mạnh, Quan yếu, lại thêm nhiều Ấn tinh hoặc có Thương Quan khắc Quan tinh.

2. Thiên tài và Chính tài cách

Thứ nhất: Nhật chủ mạnh, thêm nhiều Tỷ, Kiếp, Lộc, Nhận.

Thứ hai: Tài tinh không gặp Thực, Thương, lại có nhiều Tỷ, Kiếp.

3. Thiên ấn và Chính ấn cách

Thứ nhất: Tài mạnh, không có Quan tinh.

Thứ hai: có nhiều Tỷ, Kiếp.

4. Thương Thực cách

Thứ nhất: Ấn mạnh, Nhật chủ yếu.

Thứ hai: Nhật chủ yếu, Tài, Quan nhiều.

5. Thất sát cách

Thứ nhất: Thực mạnh, không có Tài tinh.

Thứ hai: Nhật chủ mạnh, Ân mạnh.

VI. Những cách cục đặc biệt

Ngoài những cách cục trên, trong dự báo theo 4 cột thời gian, theo các nhà mệnh lý rất hiếm khi gặp một số cách cục, đó là ngoại cách. Việc khảo sát các cách cục này cũng cần thiết, vì trong thực tế dự đoán có khi gặp phải. Có tất cả 9 ngoại cách sau:

1. Cách Khúc trực

Những điều kiện rơi vào cách cục này như sau:

Thứ nhất: ngày sinh (Nhật chủ) là Giáp, Ất (đều Mộc). Sinh tháng Dần, Mão, Thìn tức mùa xuân khi Mộc khí năm lệnh.

Thứ hai: Trong 4 cột thời gian (tứ trụ) không có các can: Canh, Tân và chi Dậu vì chúng đều là Kim khắc Mộc.

Thứ ba: trong số các địa chi của 4 cột thời gian không tạo ra Tam hội cục, tam hợp cục để hoá Mộc hoặc Mộc nhiều có thế vượng.

Ví dụ: sinh năm Quý Mão, tháng Giáp Dần, ngày Giáp Dần, giờ Giáp Tý.

Phân tích: Nhật chủ Giáp Mộc sinh tháng Dần Dương Mộc, tháng này Mộc khí nắm lệnh. Can năm Quý thuỷ sinh Giáp Mộc, địa chi Tý cũng Thuỷ sinh phù Giáp Mộc, Mão cũng là Mộc. Như vậy toàn cục có 6 Mộc 2 thuỷ, không thấy Kim, như Thân Dậu, Canh, Tân, do vậy cách này còn gọi là Mộc độc vượng (chỉ có Mộc vượng).

Ví dụ 2: Sinh năm Giáp Thìn, tháng Quỷ Mão, ngày Giáp Thìn, giờ Giáp Tý.

Phân tích: Giáp Mộc sinh vào tháng Mão và địa chi toàn là Dần, Mão, Thìn (2 mộc 1 thổ). Thiên can lại có Nhâm, Quý Thuỷ sinh Mộc, Tứ trụ không gặp Canh, Tân, Thân, Dậu, nghĩa là không có yếu tố Kim để xung khắc Mộc. Đây cũng là Khúc trực cách.

2. Cách viêm thượng

Những điều kiện rơi vào cách này như sau:

Thứ nhất: sinh vào các ngày Bính, Đinh đều Hoả.

Thứ hai: sinh vào các tháng Tỵ (âm hoả), Ngọ (dương hoả), Mùi (âm thổ), được khí của tháng nắm lệnh hoặc chi các tháng Dần, Ngọ, Tuất (Mộc , Hoả, Thổ).

Thứ ba: tứ trụ có nhiều Mộc và Hoả.

Ví dụ: Sinh năm Đinh Tỵ, tháng Bính Ngọ, ngày Bính Ngọ, giờ Ất Mùi.

Phân tích: Nhật chủ Bính hoả sinh ở tháng Ngọ cũng hoả nắm lệnh. 3 địa chi Tỵ Ngọ Mùi tam hội hoá Hoả, lại gặp các can Bính Đinh là Hoả, ất là Mộc. Như vậy cả 4 cột thời gian có 7 hoả, 1 mộc, nghĩa là hoả chiếm đa số nên cách này còn gọi là Hoả độc vượng.

Ví dụ 2: Năm sinh Đinh Tỵ, tháng Bính Ngọ, ngày Bính Dần, giờ Ất Mùi.

Phân tích: Nhật chủ Bính Hoả sinh tháng Ngọ Hoả, thiên can có Bính, Đinh đều hoả trợ giúp, lại có địa chi Tỵ, Ngọ, Mùi (2 hoả 1 thổ) thuộc phương Nam, lại không có Nhâm, Quý, Hợi, Tý (là thuỷ) khắc Hoả, nên cách này hoả vượng.

3. Cách Thổ độc vượng (Gia tường)

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: nhật chủ (ngày sinh) là Mậu, Kỷ Thổ.

Thứ hai là: sinh ở các tháng Thìn, Sửu, Mùi, là lúc Thổ khí nắm lệnh hoặc trong 4 cột thòi gian thuần Thổ.

Thứ ba là: có 4 hoặc 3 địa chi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Thứ tư là: trong 4 cột thời gian không có Giáp, Ất, Dần, Mão đều là Mộc để phá cách.

Ví dụ: sinh năm Mậu Thìn, tháng Kỷ Mùi, ngày Mậu Thìn, giờ Quý Sửu.

Phân tích: Nhật chủ Mậu thổ sinh tháng Mùi Thổ khí nắm lệnh. Các chi Thìn, Sửu, Mùi đều là Thổ. Hai thiên can Mậu, Quý ngũ hợp được Thìn, Sửu Thổ trợ giúp để hoá Thổ, lại có thêm Kỷ thổ trợ giúp. Trong tứ trụ không có Giáp, Ất, Dần, Mão đều là Mộc phá cách. Đây cũng là cách gọi là Gia tường hay gia thích.

Ví dụ 2: sinh năm Mậu Tuất, tháng Kỷ Mùi, ngày Mậu Thìn, giờ Quý Sửu.

Phân tích: Mậu Quý hợp hoá Hoả, sinh tháng Mùi Thổ: Hoả sinh Thổ, trong tứ trụ toàn Thìn, Tuất, Sửu Mùi làm thành Thổ cục nên Thổ rất vượng, lại không có Giáp ất Dần Mão khắc Thổ. Do vậy ở đây độc vượng Thổ.

4. Tùng cách cách hay Kim độc vượng

Những điều kiện rơi và cách này:

Thứ nhất: ngày sinh can Canh, Tân kim.

Thứ hai là: sinh vào các tháng Thân, Dậu khi mà Kim khí nắm lệnh.

Thứ ba: các chi Thân Dậu Tuất tam hội thành Kim cục, hoặc Tỵ Dậu Sửu tam hợp hoá Kim cục.

Thứ tư: trong tứ trụ không có Bính Đinh, Ngọ, Tỵ để phá cách.

Ví dụ 1: năm sinh Mậu Thân, tháng Tân Dậu, ngày Canh Tuất, giờ Ât Dậu.

Phân tích: Nhật chủ Canh Kim sinh tháng Dậu kim, kim khí nắm lệnh. Các chi Thân Dậu Tuất Tam hội hoá Kim cục. Thiên can Ất Canh ngũ hợp được Tuất Dậu trợ giúp hoá thành Kim cục, còn được Mậu Thổ sinh Kim và Tân Kim tương trợ. Trong cục không có Bính Đinh Ngọ Tỵ Hoả phá cách.

Ví dụ 2: năm sinh Mậu Tuất, tháng sinh Tân Dậu, ngày sinh Tân Tỵ, giờ sinh Kỷ Sửu.

Phân tích: Nhật chủ Tân Kim sinh vào tháng Dậu Kim, địa chi Tỵ Dậu Sửu tam hợp thành Kim cục, thiên can Mậu Kỷ sinh Tân Kim, lại không có Bính Đinh, Ngọ Mùi khắc Kim.

5. Cách Nhuận hạ (Thuỷ độc vượng)

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: Nhật chủ là Nhâm, Quý là hành Thuỷ.

Thứ hai: sinh ở các tháng Hợi, Tý hay Thìn Thuỷ khí nắm lệnh hoặc các tháng Thân Sửu được chi tháng trừ khí.

Thứ ba: trong tứ trụ không có Mậu, Kỷ, Mùi khắc Thuỷ.

Thứ tư: địa chi có tam hội cục, tam hợp cục hoá Thuỷ, hoặc Thuỷ quá nhiều.

Ví dụ: năm Nhâm Thân sinh, tháng Nhâm Tý, ngày Nhâm Thìn, giờ Canh Tý.

Phân tích: Nhật chủ Nhâm thuộc Thuỷ, lại sinh tháng Tý Thuỷ khí nắm lệnh. Các địa chi Thân Tý Thìn tam hợp hoá Thuỷ cục, lại được thiên can Canh Kim, Nhâm Thuỷ trợ giúp. Trong tứ trụ không có Mậu Tỵ, Tuất, Mùi phá cách, nên các nhà mệnh lý gọi là cách nhuận hạ.

Ví dụ 2: sinh năm Tân Hợi, tháng Canh Tý, ngày Quý Sửu, giờ Quý Sửu.

Phân tích: Quý Thuỷ sinh vào tháng Tỵ, địa chi toàn là Hợi Tý Sửu cũng thuộc Thuỷ, thiên can Canh, Tân sinh Quý, lại không có Mậu Kỷ Mùi Tuất khắc Thuỷ.

6. Cách tàng tài

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: nhật chủ nhược, mệnh cục không có Tỷ kiên, Kiếp tài hoặc không có Thiên ấn, Chính sinh phù.

Thứ hai: can chi của Tài vượng, hoặc có Thực thần, Thương quan xì hơi Nhật chủ sinh tài.

Ví dụ: Năm sinh Mậu Tuất, tháng sinh Bính Thìn, ngày Ất Mùi, giờ sinh Bính Tuất.

Phân tích: Nhật chủ Ất Mộc, các chi toàn là Thổ, Tài vượng, có hai can Bính Hoả làm xì hơi Mộc để tái sinh Tài, lại có Mậu Thổ trợ giúp. Trong mệnh cục có ất Mộc nhưng không có khí gốc nên đây là cách có tên gọi Tài tàng.

7. Cách tàng sát

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: Nhật chủ nhược, không có khí gốc.

Thứ hai: trong tứ trụ Quan Sát nhiều, không có Thực, Thương để không chế Quan Sát.

Thứ ba: có Hỷ Tài để sinh Quan Sát.

Ví dụ 1: sinh năm Nhâm Tý, tháng Quý Sửu, ngày Bính Tý, giờ Canh Tý.

Phân tích: Nhật chủ là Bính Hoả sinh vào tháng Sửu thể tính Đông Hoả. Các chi khác đều Tý Thuỷ, là Quan, Là Sát. Thiên can Nhâm Quý thuộc Thủy, Canh Kim sinh Thuỷ. Trong tứ trụ Thuỷ rất vượng, Hoả không có gốc (Bính Tý Thuỷ) nên phải theo Sát (tòng sát).

Ví dụ 2: năm sinh Mậu Tuất, tháng sinh Tân Dậu, ngày sinh Ất Dậu, giờ sinh Ất Dậu.

Phân tích: Nhật chủ ất Dậu (Mộc) mà sinh vào tháng Dậu (tuyệt địa: Mộc bị tử tuyệt vào mùa thu tháng 7 và 8 âm). Các địa chi khác cũng ở trong mộ, tuyệt: yếu quá, trong khi đó Kim vượng không bị ai kiềm chế, Thất sát Dậu Kim được thời, Ất Mộc thế cô nên đành phải theo sát (tòng sát).

8. Tùng nhi cách

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: chi tháng là Thực thần hoặc Thương quan của Nhật chủ, toàn cục Thực thần vượng.

Thứ hai: mệnh cục phải có Tài (Thực Thương sinh Tài).

Thư ba: Trong mệnh cục có tam hội cục, hoặc tam hợp cục hoá thành Thực thần, Thương quan.

Thứ tư: trong mệnh cục không có Quan, Sát hoặc Chính, Thiên ấn khắc Nhật chủ hoặc khắc Thực Thương.

Ví dụ 1: sinh năm Ất Tỵ, tháng Bính Tuất, ngày Ất Mùi, giờ Bính Tuất.

Phân tích: Ất Mộc sinh tháng Tuất, nhân nguyên trong Tuất (Tuất tàng độn Mậu Đinh Tân từ đây để tìm các thần) không có Đinh Hoả làm Thực thần. Hai thiên can ất Mộc sinh cho Bính Hoả, Bính hoả lại sinh cho Tỵ Hở, Tuất Thổ do vây gọi là Tùng nhi.

Ví dụ 2: sinh năm Đinh Mão, tháng Nhâm Dần, ngày Quý Mão, giờ Bính Thìn.

Phân tích: nhật chủ Quý Thuỷ lại sinh vào tháng Dần Mộc khí dương thịnh, địa chi toàn là Dần, Mão, Thìn thuộc : Đông Mộc, trong 4 cột thời gian không có Kim mà khắc Mộc và sinh Thuỷ. Nhật chủ Quý Thuỷ sinh Mộc bị Mộc hút hết nước và sẽ trở thành khô cạn nên phải theo hành Mộc mà đi nên gọi là tùng nhi cách.

9. Cách hoá khí

Những điều kiện rơi vào cách này:

Thứ nhất: can của ngày sinh (Nhật chủ) ngũ hợp với can bên cạnh là can tháng hoặc can giờ hoá thành cục có ngũ hành khác với ngũ hành Nhật chủ.

Thứ hai: Trong mệnh cục ngũ hành vừa ngũ hợp thành, tạo nên thành cục vượng.

Thứ ba: ngũ hành của hoá thần giống với ngũ hành của chi tháng.

Thứ tư: hỷ thần Thực Thương làm xì hơi thế vượng của nó.

Ví dụ: năm sinh Bính Dần, tháng Canh Dần, ngày Đinh Mão, giờ Nhâm Dần.

Phân tích: Đinh Nhâm ngũ hợp hoá Mộc, sinh tháng Dần là Mộc nắm lệnh, các địa chi Dần Mão đều thuộc Mộc, can Canh Kim không có gốc (Canh Dần Mộc không là Kim), lại bị Bính Hoả khắc nên thành Mộc cách.

10. Hoá Mộc cách

Là cách mà ngày sinh (Nhật chủ) can Đinh hợp với tháng can Nhâm hay giờ can Nhâm. Hoặc là ngày sinh can Nhâm hợp với tháng can Đinh hay giờ can Đinh.

Nếu sinh ở những tháng Hợi, Mão, Mùi, Dần mà trong 8 can chi còn lại không có hành Kim thì gọi là hoá Mộc cách.

Ví dụ 1: năm sinh Kỷ Mão, tháng Đinh Mão, ngày Nhâm Ngọ, giờ Quý Mão.

Phân tích: Nhâm Đinh hợp hoá Mộc, sinh ở tháng Mão thì Mộc vượng. Trong 8 can chi đều không có hành Kim nên hoá Mộc thành công.

Ví dụ 2: năm sinh Quý Hợi, tháng Quý Hợi, ngày (Nhật chủ) Đinh Mão, giờ Nhâm Dần.

Phân tích: Đinh Nhâm hợp hoá Mộc, sinh tháng Hợi, Thuỷ Mộc lưỡng hành đều vượng, ngày Đinh Hoả gặp Nhâm Thuỷ hợp hoá Mộc nên bản chất của Hoả không còn nữa.

11. Hoá Hoả cách

Trong cách này: ngày Mậu hợp với tháng can Quý hay giờ can Quý. Hoặc ngày Quý hợp với tháng can Mậu hay giờ can Mậu. Hay sinh ở những tháng Dần Ngọ, Tuất, Tỵ mà không gặp hành Thuỷ ở can chi nên gọi là hoá Hoả cách.

Ví dụ: năm sinh Bính Tuất, tháng Mậu Tuất, ngày (Nhật chủ) Quý Tỵ, giờ Giáp Dần.

Phân tích: Mậu Quý hợp hoá Hoả, tuy không sinh vào mùa Hạ, nhưng nhờ có Bính và Tỵ đều Hoả dẫn Hoả. Giờ Giáp Dần trợ giúp Hoả, trong 4 cột thời gian bát tự không có Thuỷ khắc Hoả, do vậy đây là cách hoá Hoả.

12. Hoá Thổ cách

Trong cách này: ngày Giáp gặp tháng hay giờ can Kỷ. Hoặc ngày Kỷ gặp tháng hay giờ can Giáp. Khi sinh vào những tháng Thìn Tuất Sửu Mùi mà bát tự trong 4 cột thời gian không có hành Mộc, nên gọi là hoá Thổ cách.

Ví dụ: năm sinh Mậu Thìn, tháng Nhâm Tuất, ngày (Nhật chủ) Giáp Thìn, giờ Kỷ Tỵ.

Phân tích: ngày Giáp Mộ sinh ở tháng Tuất Thổ, thời gian tháng này Thổ có được bởi Giáp Kỷ hợp hoá Thổ, ở các Can Chi không có hành Mộc khắc Thổ nên cách hoá Thổ.

13. Hoá Kim cách

Trong cách này: ngày ất sinh vào tháng hay giờ can Canh. Hoặc ngày Canh sinh vào tháng hay giờ can ất.

Nếu sinh vào những tháng Tỵ, Dậu, Sửu, Thân mà các can chi trong bát tự của 4 cột thời gian không gặp Hoả nên là cách hoá Hoả.

Ví dụ: năm sinh Giáp Thân, tháng sinh Quý Dậu, ngày sinh (Nhật chủ) Ất Sửu,giờ sinh Canh Thìn.

Phân tích: ngày Ất sinh tháng Thân Kim vượng, Ất Canh hợp hoá Kim.

14. Hoá Thuỷ cách

Trong cách này: ngày can Tân sinh tháng Can Bính hay giờ Can Bính.

Ngày Bính sinh tháng hay giờ can Tân.

Sinh vào các tháng Thân, Tý, Thìn, Hợi không gặp hành Thổ nên gọi là hoá Thuỷ cách.

Ví dụ: năm sinh Giáp Thìn, tháng sinh Bính Tý, ngày sinh Tân Sửu, giờ sinh Nhâm Thìn.

Phân tích: tháng sinh mùa đông Thuỷ vượng, Nhâm (Thuỷ) nguyên thần lộ lên rất đẹp. Tuy có Thìn Thổ và Sửu Thổ nhưng Thổ bị “ẩm ướt” nên không khắc Thuỷ, nên Tân Bính hợp hoá Thuỷ cách.

GHI CHÚ: để tìm Cách cục nhanh, có thể tham khảo qua bảng sau, bằng cách: đối chiếu Can ngày sinh với Tháng sinh:



Ghi chú: những chữ viết tắt như sau:

Tâ: Thiên ấn; Câ: Chính ấn; Tq: Thiên quan.

Cq: Chính quan; Thq: Thương quan; Tht: Thực thần;

Ct: Chính tài; Tt: Thiên tài; Kl: Kiến lộc; DN: Dương 1 nhận. T.s: Tháng sinh; C.ngày:Can ngày sinh.

Từ bảng trên, hãy xét qua các ví dụ sau tìm cách cục:

Sinh tháng Giêng ngày Giáp: thì cách Kiến ; ngày Đinh cách Chính ấn; ngày Canh cách Thiên tài.

Sinh tháng Hai ngày Giáp: cách Dương nhận, ngày Đinh cách Thiên ấn, ngày Quý cách Thực thần...

Sinh tháng Chạp ngày Giáp: cách Chính tài, ngày ất : cách Thiên tài, ngày Đinh cách Thương quan.

Sinh tháng Sáu, ngày Giáp: cách Chính tài, ngày Bính cách Thương quan, ngày Nhâm cách Chính quan...

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khái niệm về cách cục trong tứ trụ

Khám phá giấc mơ về những chú heo

Chú heo trong giấc mơ của bạn sạch sẽ, đáng yêu, thì đây là điềm báo bạn có thể đón nhận sự thành công nhờ vào nỗ lực và khả năng của chính mình.
Khám phá giấc mơ về những chú heo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chú heo trong giấc mơ của bạn sạch sẽ, đáng yêu, thì đây là điềm báo bạn có thể đón nhận sự thành công nhờ vào nỗ lực và khả năng của chính mình.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu
  Nếu chú heo đó dơ bẩn, dự báo bạn có thể đón nhận một lời đề nghị hấp dẫn trong việc kinh doanh.   Nếu là một chú heo rừng trong mơ, bạn nên cẩn thận với chuyện ngồi lê đôi mách ác ý của người thân cận với mình. Nhưng nếu trong giấc mơ thấy mình giết con heo rừng đó, thì bạn đã tránh được những điều ác ý đó rồi đấy.   Mơ thấy làm thịt heo, là điềm có người mời ăn uống.  Mơ thấy heo sinh con đẻ cái đầy đàn, tín hiệu cho thấy sự nghiệp của bạn sẽ thuận lợi và thành công rực rỡ. Gia đình bạn vui được vui vẻ, hòa thuận và hạnh phúc ngập tràn.   Nếu mơ thấy những chú heo xếp thành từng hàng ngay ngắn, đây là điềm báo tin tốt lành sẽ đến với bạn hoặc có khách từ phương xa tới thăm nhà bạn.   Trong mơ thấy có heo đi vào trong phòng, gia đình bạn luôn hòa thuận, bạn là nhân tố quan trọng trong việc gắn kết những người thân trong gia đình mình lại với nhau.   Giấc mơ xuất hiện chú heo bị ngã nhào xuống nước, bạn đã kịp thời cứu vớt chú. Điều này là điềm báo tốt lành về danh tiếng và vận may tiền tài của bạn. Năng lực của bạn được mọi người khẳng 5. định và ngưỡng mộ. Bạn trở thành nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong công việc.   Mơ thấy bản thân đang cho heo ăn, là dấu hiệu siêu may mắn về phương diện tiền bạc của bạn. Rất có khả năng bạn sẽ được thừa hưởng một khối tài sản khổng lồ, điều này khiến bạn vô cùng bất ngờ và hạnh phúc.
 
Nếu mơ thấy chú heo đang từ tay bạn nhảy xuống mặt đất, điều này có nghĩa một việc nào đó bạn đã làm (nhưng tạm thời quên mất) sẽ mang lại kết quả tuyệt vời, ngoài sức tưởng tưởng của bạn. Đó là một bất ngờ thú vị dành cho bạn.   Mơ thấy mình đang lái một chiếc xe chở rất nhiều heo, báo hiệu bạn sẽ nhận được giải thưởng nào đó, kèm theo nó là sự tín nhiệm và ủy thác quyền lực.   Trong giấc mơ thấy bản thân đang ôm một chú heo đáng yêu hoặc có chú heo nào đó cứ đi theo bạn. Đây là mộng lành, báo hiệu vận may trong sự nghiệp của bạn, rất có thể là việc thăng chức tăng lương hoặc nâng cao danh tiếng và vị trí của bạn.   Nếu mơ thấy chú heo đang rất sợ hãi và bỏ chạy khi nhìn thấy bạn, bạn nên quan tâm hơn nữa đến mọi người xung quanh vì có khả năng họ sẽ gặp phải bất trắc khó đề phòng như tiêu hao tài sản, thậm chí là phá sản.   Mơ thấy hành động bán heo, bạn cần hết sức đề phòng những rủi ro có thể xảy tới với món tiền đầu tư của bạn. 

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá giấc mơ về những chú heo

Tướng phụ nữ lận đận tình duyên –

Phái nữ có tướng này thường dễ thất vọng chuyện tình cảm, tuy nhiên họ sẵn sàng chấp nhận tổn thương để ở bên người. 1. Trán cao Phái nữ trán cao thông minh, thường là con người của sự nghiệp. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng họ không cần hạnh
Tướng phụ nữ lận đận tình duyên –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ lận đận tình duyên –

Lý giải vì sao kiêng quan hệ vào ngày rằm, mùng một

Sự mất cân bằng âm dương là một trong những yếu tố khiến người xưa quan niệm kiêng kị mây mưa vào ngày rằm mùng một.
Lý giải vì sao kiêng quan hệ vào ngày rằm, mùng một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Sự mất cân bằng âm dương là một trong những yếu tố khiến người xưa quan niệm rằng không nên “mây mưa” vào ngày rằm, mùng một.


► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
  Theo quan niệm truyền thống, nam thuộc dương, nữ thuộc âm. Nam giữ “động phòng” để duy trì nòi giống, vì thế “cô âm bất sinh, cô dương bất trưởng” (ý là, nếu chỉ có riêng yếu tố âm thì không thể sinh ra được, chỉ riêng yếu tố dương thì không thể lớn khôn được).    Khi âm dương không hòa hợp, không những ảnh hưởng tới vấn đề nối dõi tông đường mà còn sản sinh ra nhiều rắc rối, mối hung họa. Vậy vì sao cấm kị “làm chuyện ấy” trong ngày rằm mùng một?
Ly giai vi sao kieng quan he vao ngay ram, mung mot hinh anh
 
1. Vì sao kiêng kị “mây mưa” vào ngày rằm, mùng một?   Ngày đầu tháng (mùng 1) và ngày giữa tháng (rằm) là thời điểm “nguyệt khuếch khuy không”, nguyệt thuộc âm, lúc này âm hư, tức âm dương mất cân bằng, không tốt cho chuyện phòng the, cũng như sẽ mang tới những điều xui rủi.    Sách “Tố Nữ Kinh” có viết: “Cấm kỵ giao hợp vào những ngày mùng 1,ngày rằm, ngày cuối tháng âm lịch, phạm vào những cấm kỵ này khi sinh con cái ra sẽ bị thương tổn, còn mình thì tổn hao nguyên khí, trong mình lúc đó bị giục hỏa thiêu trung nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tâm can nên nước tiểu phát ra có màu đỏ hay màu vàng đậm nhiều khi mang thêm bệnh di tinh, giảm tuổi thọ”.  
Ly giai vi sao kieng quan he vao ngay ram, mung mot hinh anh goc
 
Kiêng chuyện chăn gối vào ngày rằm và mùng một là theo quan điểm Nho giáo. Họ cho rằng, ngày đầu tháng, đầu năm cần sạch sẽ. Vì thế, không chỉ kiêng kị tình dục mà còn phải kiêng cả sát sinh…   Tuy nhiên, theo quan điểm thời nay, “yêu” vào ngày nào không quan trọng. Vấn đề ở đây là sức khỏe của người trong cuộc. Nếu cả hai hoàn toàn khỏe mạnh, có cảm hứng “xông trận” thì mọi thứ vẫn diễn ra tốt đẹp như những ngày bình thường khác. Đứa trẻ được sinh ra từ hai cơ thể khỏe mạnh, cảm xúc thăng hoa như thế cũng sẽ mạnh khỏe, không hề có vấn đề gì trước và sau khi thụ thai.   Biết tuốt bản chất con người bạn qua hình dáng khuôn mặt 6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới 4 mẹo phong thủy đánh bật kẻ thứ 3
2. Ngày “Ngũ độc, Cửu độc” có cần kiêng “yêu”?
  Ngoài ra, ngày 5/5 gọi là “Ngày ngũ độc”, 9/9 là “Ngày cửu độc” đều có vấn đề về mặt âm dương nên kiêng kị “hành sự”.   Tháng 5 âm lịch còn gọi là tháng trăng độc, ngày 5/5 âm dương tranh đấu, âm thắng dương, mang tới điều xui rủi về ma quỷ, tà khí, dịch bệnh…   Ngày 9 tháng 9 còn gọi là tết Trùng Dương, thời điểm dương khí thịnh, lấn át âm khí, gây mất cân bằng âm dương. Vì thế, “yêu” trong ngày này là điều cấm kị, tổn hại cho sức khỏe và tinh lực của cả nam và nữ.   Hoàng Lam 9 ngày độc trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng
Tháng 5 âm lịch hay tháng Canh Ngọ được coi là tháng vượng đào hoa nhất trong năm, nhưng cũng là “tháng cửu độc”, có 9 ngày thân thể bị tổn hao nguyên khí

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải vì sao kiêng quan hệ vào ngày rằm, mùng một

Ngủ mơ thấy gia vị ám chỉ điều gì?

Trong nghệ thuật nấu ăn, gia vị là thứ không thể thiếu, nó còn đóng vai trò quan trọng nữa là đằng khác. Trong giấc mơ cũng vậy, gia vị cũng thể hiện ước mơ
Ngủ mơ thấy gia vị ám chỉ điều gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đa dạng hóa cuộc sống của bạn. Tuy nhiên, hãy thực tế một chút nếu bạn không muốn vấp phải những sai lầm không đáng có.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

 

Gia vi trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Trong nhiều món ăn, vị chua của giấm là một loại gia vị không thể thiếu, nó góp phần tạo nên vị chua đặc trưng của món ăn ấy. Thế nhưng, nếu mơ thấy giấm thì lại là điềm báo không tốt, dự báo những tiêu cực sắp xảy ra với bạn. Đặc biệt, nên cẩn thận trong tình yêu vì rất có thể bạn là nạn nhân của sự ghen tuông, ngờ vực.

 

Gừng là một loại gia vị cay nóng nhưng mang lại cảm giác ấm áp, chiêm bao thấy gừng là biểu thị cho sự an toàn và trong cuộc sống bạn luôn có người động viên, an ủi để vượt qua nỗi khó khăn.

 

Đường phèn có vị ngọt, chình vì vậy nếu chiêm bao thấy hoặc ăn đường phèn trong mơ, là điềm báo cuộc sống sắp tới của bạn sẽ tràn ngập niềm vui và những điều thú vị đấy.  Mặc dù vậy, giấc mơ về đường phèn cũng hàm ý một số sự đam mê hoặc thú vui của bạn đang gặp phải sự phản đối từ mọi người xung quanh.

 

Mơ thấy đang ngửi hoặc ăn một cây húng quế, biểu thị cho lòng tốt, sự dịu dàng và tình yêu sâu đậm của bạn với "một nửa" của mình.

 

Mơ thấy hạt tiêu, ám chỉ rằng bạn cần thêm một chút gia vị để làm phong phú cuộc sống của bạn. Ngoài ra, có thể có cái gì đó đang quấy rầy hay làm bạn phát cáu và giấc mơ này đang cố chỉ ra điều đó.

 

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngủ mơ thấy gia vị ám chỉ điều gì?

Xem tướng mặt kiểu phương Đông –

1. Người Trung Quốc, cụ thể là các tướng thuật gia như Ma-Y tiên sinh, ngài Trương Phương Bình, ngài Thông Diễn, ngài Trương Tuấn Công, ngài Viên Thiên Cương v.v... thì lấy các sao, hành tinh, mặt trăng, mặt trời để đặt cho các kiểu mặt. Và từ đó suy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người Trung Quốc, cụ thể là các tướng thuật gia như Ma-Y tiên sinh, ngài Trương Phương Bình, ngài Thông Diễn, ngài Trương Tuấn Công, ngài Viên Thiên Cương v.v… thì lấy các sao, hành tinh, mặt trăng, mặt trời để đặt cho các kiểu mặt. Và từ đó suy ra nhân tính dựa trên tính chất của các tinh tú đó. Ví dụ ta có:

coi-boi-qua-khuon-mat

2. Kiểu mặt to tròn, đó là mặt kiểu Thái Dương – Mặt trời. Tướng mặt Thái Dương sáng ngời, mọi thứ trên khuôn mặt chỉnh chu đầy đặn là mặt của bậc vương giả, công khanh.

3. Mặt tròn vành vạnh. Đó là kiểu mặt Thái Âm – trăng. Tướng mặt Thái Âm sáng bóng, thanh tú các giác quan, nhạc, gò hài hòa là mặt của bậc thánh hiền, phúc hậu, nhân từ.

4. Kiểu mặt trái xoan, đó là kiểu mặt Kim tinh. Tướng mặt Kim tinh thanh thoát, tươi tắn mọi bộ phận trên khuôn mặt đầy đặn, tươi nhuận. Đó là mặt của các mỹ nhân, vương hậu phúc lộc đủ đầy.

5. Kiểu mặt vuông vắn, to – mặt vuông chữ Điền. Đó là kiểu mặt Thổ tinh.
Tướng mặt Thổ tinh thì đầu, mặt vuông vức cổ tròn, to khỏe, da đậm màu. Đấy là kiểu mặt bậc tướng lĩnh, dữ tợn, cương quyết, mạnh mẽ. Kiểu mặt của tranh đấu, can đảm, gan dạ, con nhà võ.

6. Kiểu mặt xương gầy. Đây là kiểu mặt của Hỏa tinh.
Tướng mặt Hoả tinh chữ nhật, gân xương, sắc tía. Mọi thứ
hài hòa đầy đủ sáng sủa, tướng hoạt bát, trí tuệ phát triển, nhanh hiểu biết, có học thức, nóng nảy, tự lực cao.

7. Kiểu mặt bầu bĩnh. Đây là kiểu mặt Mộc tinh. Tướng mặt Mộc tinh đầy đặn, các thứ cao đầy sắc khí xanh nhạt. Đây là khuôn mặt học giả, trí tuệ phong phú, ít hoạt động thể lực, nhân cách đàng hoàng, trầm tĩnh, tâm đức, chừng mực.

8. Kiểu mặt lưỡi cày. Đó là kiểu mặt Thủy tinh. Tướng mặt Thủy tinh sắc đậm, đen, cằm nhọn nhô, mắt lạnh sắc. Đây là khuôn mặt của mưu thần, tư vấn tốt, trí tuệ thông đạt, mưu mô, thủ đoạn.

9. Kiểu mặt choắt, mặt dơi. Đó là kiểu mặt Âm tinh. Tướng kiểu mặt Âm tinh bé hẹp vuốt nhọn cằm nhọn mắt lô” sắc sám xỉn hoặc nhợt nhạt. Đây là kiểu mặt nghèo hèn, láu lỉnh, háu hớt, yểu (khó thọ).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt kiểu phương Đông –

Chọn màu xe ô tô theo mệnh – Phong thủy xe hơi –

Nhiều người cho rằng, việc chọn màu xe phù hợp với tuổi sẽ khiến chiếc xe gặp ít trục trặc hơn và người sở hữu sẽ cảm thấy may mắn, an toàn hơn khi tham gia giao thông. Dưới đây là những kiến thức cơ bản về ngũ hành và màu sắc, cũng những kinh nghiệm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người cho rằng, việc chọn màu xe phù hợp với tuổi sẽ khiến chiếc xe gặp ít trục trặc hơn và người sở hữu sẽ cảm thấy may mắn, an toàn hơn khi tham gia giao thông.

Dưới đây là những kiến thức cơ bản về ngũ hành và màu sắc, cũng những kinh nghiệm chọn màu xe hợp với mệnh của bạn.

Ngũ hành

Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tồn tại theo quy luật tương sinh và tương khắc. Quy luật của Ngũ hành hoàn toàn phù hợp với quy luật của tự nhiên, vì vậy từ khi được biết đến, Ngũ hành luôn thể hiện một sự chính xác cho những người tin vào. Mỗi người sinh ra đều có mệnh của mình theo quy luật xoay vòng của Ngũ hành 2 năm 1 lần, qua đó ứng với quy luật tương sinh tương khắc với mệnh khác.

phong-thuy-xe-hoi

Trong ngũ hành, tương sinh là vòng tròn phía ngoài, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc. Ứng với tự nhiên là cây khô dễ cháy sinh lửa, lửa đốt mọi vật ra tro, thành đất, đất tạo nên quặng trở thành kim loại, kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng như nước, nước nuôi cây lớn. Vòng tròn tương sinh cũng ứng với sự hỗ trợ, làm tốt lên, tạo sự may mắn, yên ổn. Tương khắc là những đường bên trong vòng tròn tương sinh, tạo thành hình ngôi sao 5 cánh. Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ và Thổ khắc Thủy. Ứng với tự nhiên là nước dập tắt lửa, lửa làm chảy kim loại, kim loại cắt được cây, cây hút chất màu của đất, đất ngăn nước chảy. Tương khắc ngược lại với tương sinh, tức là có thể sẽ gây là những điều không tốt, đối lập. Ngũ hành và màu sắc Bảng màu cũng có sự chuyển động tương ứng như ngũ hành, và bảng màu cũng rất phù hợp với quy luật của tự nhiên. Theo đó, Mộc ứng với màu xanh lá cây; Hỏa ứng với màu đỏ, hồng, da cam; Thổ ứng với màu nâu, vàng đậm; Kim ứng với màu vàng sáng, bạc, trắng; Thủy ứng với màu xanh nước biển, đen, tím. Chọn màu xe theo ngũ hành Theo ngũ hành tương sinh tương khắc, có nghĩa là việc chọn màu cũng nên chọn theo quy luật tương sinh tương khắc với chủ nhân. Chọn màu tương sinh với mệnh sẽ khiến bạn cảm thấy tự tin, may mắn, thoải mái thanh thản. Bản thân màu tương sinh cũng khiến bạn cảm thấy rất phù hợp. Chọn màu mà mệnh của bạn tương sinh cũng hợp lý, khiến chiếc xe bền hơn và hợp với chủ nhân. Bạn có thể chọn màu cùng mệnh, nhưng đừng quá lạm dụng. Màu cũng mệnh sẽ khiến bạn yên ổn và an toàn nhưng nếu nhiều màu cùng mệnh quá sẽ sinh ra dư thừa, phản tác dụng. Cần tránh những màu tương khắc với mệnh của bạn. Những màu tương khắc sẽ khiến sức khỏe của bạn bị ảnh hưởng, tâm trí bất định, mất tập trung, hay bực bội nóng giận, dễ gặp tai nạn hơn nếu lái xe, có thể bị thương tật. Bạn cũng không nên lạm dụng những màu mà mệnh của bạn khắc, hay còn gọi là khắc xuất. Những màu ấy tuy không ảnh hưởng đến bạn nhưng sẽ khiến chiếc xe của bạn không ổn định, hay hỏng hóc khó sửa chữa và khó giữ chiếc xe lâu dài. Kinh nghiệm chon màu xe

Người mệnh Hỏa nên chọn xe màu xanh lá cây. Có thể chọn xe màu da cam, đỏ, hồng cùng mệnh. Nếu bạn cảm thấy một chiếc xe màu xanh lá cây đôi khi quá nổi bật và không phù hơp, hãy chọn các màu như nâu, vàng đậm, trắng, bạc, vàng sáng. Cần tránh xe màu xanh nước biển, đen. Người mệnh hỏa sinh các năm 1934, 1935, 1948, 1949, 1956, 1957, 1964, 1965, 1978, 1979, 1986, 1987, 1994, 1995.

menh-hoa-xe-mau-xanh

Người mệnh Thổ nên chọn xe màu đỏ, da cam, hồng. Có thể chọn màu nâu, vàng đậm, vàng nhạt, bạc, trắng. Nên tránh màu xanh lá cây và nhớ đừng lạm dụng màu xanh da trời, đen. Người mệnh thổ sinh các năm 1938, 1939, 1946, 1947, 1960, 1961, 1968, 1969, 1976, 1977, 1990, 1991, 1998, 1999.

menh-tho-xe-mau-do

Người mệnh Kim nên chọn xe màu nâu, vàng đậm. Bạn cũng có thể mua xe màu trắng, vàng nhạt, xanh nước biển. Cần cân nhắc khi mua xe màu xanh lá cây và thận trọng với màu đỏ, da cam, hồng. Người mệnh Kim sinh các năm 1932, 1933, 1940, 1941, 1954, 1955, 1962, 1963, 1970, 1971, 1984, 1985, 1992, 1993, 2000, 2001.

menh-kim-xe-mau-nau

Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng, vàng nhạt. Có thể sử dụng màu cùng mệnh như xanh nước biển, đen hay màu xanh lá cây. Bạn cần tránh những màu như nâu, vàng sẫm. Màu đỏ, da cam là màu khắc xuất cũng nên thận trọng khi lựa chọn. Người mệnh Thủy sinh các năm 1936, 1937, 1944, 1945, 1952, 1953, 1966, 1967, 1974, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997.

menh-thuy-xe-mau-trang

Người mệnh Mộc nên sử dụng xe có màu xanh nước biển, đen, tím. Có thể sử dụng màu xanh lá cây, nâu, đỏ, hồng, da cam và cần tránh các màu kim như bạc, trắng, vàng ánh kim. Người mệnh Mộc sinh các năm 1942, 1943, 1950, 1951, 1958, 1959, 1972, 1973, 1980, 1981, 1988, 1989, 2002, 2003.

menh-moc-xe-mau-xanh-nb

Nhìn chung, nên rất trận trọng khi sử dụng các màu tương khắc với mệnh của bạn để có thể an tâm khi sử dụng xe. Dù sao, quan trọng hơn vẫn là việc tập trung khi lái xe, không sử dụng rượu bia và lái xe đúng luật, còn nếu không thì dù có sử dụng xe có màu phù hợp đến mấy bạn cũng phải nhận những hậu quả đáng tiếc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu xe ô tô theo mệnh – Phong thủy xe hơi –

Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Chùa Bà Tấm được xây dựng từ thời nhà Lý. Sự ra đời của ngôi chùa gắn với Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan - một nhân vật nổi tiếng của vương triều nhà Lý
Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bà Tấm là tên gọi phổ biến trong nhân dân để chỉ khu di tích tưởng niệm về một nhân vật nổi danh của lịch sử dân tộc ở thời Lý. Đền còn có tên gọi theo địa danh là đền Dương Xá, hay đền Ỷ Lan, chùa có tên chữ Linh Nhân Tư Phúc tự. Chùa Bà Tấm (Đền thờ Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan) thuộc địa phận xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

Chùa Bà Tấm được xây dựng từ thời nhà Lý. Sự ra đời của ngôi chùa gắn với Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan – một nhân vật nổi tiếng của vương triều nhà Lý. Bà giỏi việc trị nước (hai lần nhiếp chính), khiến nhân tâm hoà hợp, đất nước thanh bình, nhân dân sùng Phật, tôn bà là Phật Bà Quan Âm.

Bà chính quê làng Thổ Lỗi, sau đổi thành siêu loại Thuận Thành Bắc Ninh nay thuộc xã Dương Xá huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Vì mẹ mất lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám. Sử ghi Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội là đền thờ Bà Tấm vì thế.

Đây là nơi thờ Đức Quốc Mẫu Ỷ Lan Nguyên phi. Quần thể khu di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan gồm chùa, đền, điện, sơn trang nằm trong khuôn viên có sân, nhà thủy đình, cây xanh các loại rộng khoảng 3ha. Chừa và đển thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi là chùa “Bà Tấm”, đền “Bà Tấm”, chùa Cả, đền Cả. Nằm ở phía tay trái, trước cửa đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan là đôi rồng chầu bằng đá phủ phục, với đường nét, chạm khắc hết sức tinh xảo. Qua các bậc xây, du khách đi vào trong đền. Đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XI, là nơi phụng thờ bà ngay chính trên quê hương Nguời. Đền có kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc loại cổ nhất nước ta, cách không xa đền phía tay phải có chùa mang tên: “Linh Nhân tư Phúc Tự” do chính Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xây dựng cùng với hàng trăm ngôi chùa khác, được khánh thành tháng 03 năm Ất Mùi(1115).

chùa bà tấm
Khu di tích lịch sử Ỷ Lan Nguyên Phi

Đặt chân vào ngôi đền làm cho mọi người cảm thấy sự yên bình, thanh tịnh bởi đó là những kiến trúc đẹp, những hàng cây lá xanh tốt. Quần thể di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi chùa “bà Tấm”, đền “bà Tấm” – chùa Cả, đền Cả.

Chùa có tên “Linh nhân Tự Phúc Tự” do chính Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan) xây dựng khánh thành vào tháng 3 năm Ất Mùi 1115, đền kiến trúc theo lối cung đình, thời Lý, có 72 cửa thuộc loại cổ nhất nước ta.

Trong đền và chùa hiện còn nhiều hiện vật quý và hiếm. Nổi tiếng là đôi sư tử điêu khắc bằng đá, Sư tử được tạc từ 1 khối đá lớn cao 1.2m, rộng 1.36m trong tư thế nằm phủ phục, đường nét đặc biệt mềm mại, tạo cho chúa sơn lâm một vẻ đẹp, vừa uyển chuyển, vừa oai hùng mạnh mẽ – các chi tiết: đôi mắt to, lồi hẳn ra ngoài, ẩn dưới đôi lông mày rậm, mũi hở, hàm răng đều đặn, răng nanh to, nhọn và khoẻ, nhất là chân mập, có những móng cong sắc, quắp chặt, khiến cho người xem thấy rõ chúa sơn lâm ẩn tàng sức mạnh phi thường.

hiện vật
Trong chùa còn chứa nhiều hiện vật quý hiếm

Tuy nhiên bằng nghệ thuật điêu khắc khéo léo tuyệt vời, bằng cách sử dụng nhiều hoạ tiết đan móc khi thì gợi nhớ tựa lưng vào nhau thành đường viền quanh miệng, khi thì to sù ở trên vai, khi lại xếp thành những bông hoa hé nở ở móng chân, khiến cho người xem có ấn tượng con vật đang sống vẫn thở nhịp nhàng. Cũng khác những con sư tử thường thấy điêu khắc ở các đình chùa; sư tử trong đền thờ Ỷ Lan đang vờn hòn ngọc, đồng thời trên trán được trổ chữ “vương” khẳng định vị trí chúa tể muôn loài, bảo vệ vật báu của đất nước.

Đây là một công trình nghệ thuật điêu khắc tuyệt tác, một hiện vật cổ quý và hiếm ở Việt Nam, và còn cả ở khu vực Đông Nam Á. Trong cung còn 2 khám cổ thời Mạc hiện tìm thấy, các máng chạm trên khám như hoa lá, rồng phượng đều có giá trị về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.

Trong đền và chùa “bà Tấm” còn có một thành bậc bằng đá liền khối điêu khắc rồng lân thời Lý đang chạy xuống, dài 1.3m, cao 0.8m hành chục tấn; và nhóm tượng ba ông tam thế ngồi trên đầu hai con sư tử cao 4m, tạc bằng những khối đá rất tinh xảo, cũng là những hiện vật độc đáo đã trải qua gần 9 thế kỷ, còn lại đến ngày nay.

Đặc biệt còn đôi câu đối ở đền từ cổ xưa ghi rõ: “Thập bát tử, diêu phỏng thế tại tam truyền chiêu lênh thục” – “Bách dư sở tự quán địa lưu cố trạch tối linh thanh”. (có nghĩa: đời nhà Lý thứ 3 kén được người con gái đẹp, có đức và có tài. Trên đất nước ta có trên 1 trăm nơi thờ nhưng đây chính là quê hương của Bà được lưu truyền đến ngày nay và rất linh thiêng).

Tượng Nguyên Phi Ỷ Lan được tạc rất đẹp, khi Bà là Nguyên Phi cùng tượng 6 vị cung nữ trong triều. Hiện nay nước ta có 72 nơi lập đền thờ bà. Nhưng đền chùa và đền thờ Ỷ Lan được xây dựng ở Dương Xá ngay chính trên quê hương Bà.

Hàng năm nhân dân trong vùng đã kéo về mở hội truyền thống suốt 3 ngày (19,20,21 tháng 2 âm lịch) tại Dương Xá. Hoà cùng với cả nước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội, UBND huyện Gia Lâm cùng với UBND xã Dương Xá đã tôn tạo trùng tu ngôi đền và xây dựng tượng đài Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, ngôi tượng này đang được thực hiện với chiều cao 9.1m nặng 25 tấn đồng.

Ngoài ra, còn có bức phù điêu đá xanh Thanh Hoá 31.2m và vườn hoa, cây cảnh, hồ bán nguyệt do công ty Mỹ Thuật xây dựng đảm nhận thiết kế và thi công với chi phí gần 19 tỉ VNĐ. Dự kiến sẽ hoàn thành vào ngày 2/9/2010. Đây thực sự là một công trình nghệ thuật độc đáo. Đền Nguyên Phi Ỷ Lan với lối kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hoá nhà Lý, vừa mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc lại vừa mang giá trị nghệ thuật cao. Trong tương lai không xa, nơi đây còn trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách trong nước và nước ngoài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd