Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tọa lạc trên đồi Linh Quy phía đông của bán đảo Sơn Trà, thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt là một trong ba ngôi chùa cũng có tên gọi là Linh Ứng tại thành phố Đà Nẵng:
Linh ứng Non Nước – nằm trên hòn Thủy của 1 trong 5 ngọn núi Ngũ Hành Sơn.
Linh Ứng Bà Nà, nằm trên chót vót núi cao của địa danh du lịch nghỉ mát “Đà Lạt của miền Trung”
Và Linh ứng Bãi Bụt. Linh Ứng Tự Bãi Bụt là ngôi chùa lớn nhất, mới nhất và đẹp nhất trong 3 ngôi chùa. Ngôi chùa này có tượng Quan Thế Âm được xem là lớn nhất của Đông Nam Á.
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tựa lưng vào đỉnh Sơn Trà vững chãi, mặt nhìn ra biển Đông bao la, xa xa bên tả là đảo Cù lao Chàm án ngự, phía hữu là ngọn Hải Vân ngăn che với dòng Hàn giang hiền hòa thơ mộng.
Sơn Trà còn là nơi giao hòa giữa biển trời với núi sông trong khoảng không trầm lặng, với tiếng vỗ rì rầm của biển cả và lời kể về một câu chuyện thuở xưa: “Vào thời vua Minh Mạng, dân chài ven biển nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát, bằng lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu người vượt vòng trầm luân, kể từ đó sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn, từ đó nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian.”
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hiện được xem là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Đà Nẵng cả về quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật. Ngôi chùa mang một phong cách hiện đại kết hợp với tính truyền thống vốn có của chùa chiền Việt Nam, với mái ngói uốn cong có hình rồng, những trụ cột vững chắc được bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo.
Gian chính điện Tam Bảo và gian Nhà Tổ (bên trong một mặt đặt tôn tượng Đạt Ma Tổ Sư, một mặt đặt tôn tượng Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi) nối cách nhau một khoảng sân, có mái ngói che chắn. Sát gian Nhà Tổ là hai gian nhà khách mới xây, trong đó có một gian được bố trí theo cạnh chữ U.
Ngay khoảng sân áp lưng gian Chính điện, nhìn hướng Nhà Tổ là một “vườn tượng Phật” nhỏ với tôn tượng Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn bằng đồng, còn lại là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, tôn tượng Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn tượng Đức Phật Di Lặc, tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ trông thật đẹp. Nơi gian Chính điện Tam Bảo uy nghiêm thanh tịnh, chính giữa là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, bên phải là tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và bên trái là tôn tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Sảnh trước gian chính điện, một bên là tôn tượng Diện Nhiên Vương Bồ Tát, bên kia đặt tôn tượng Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát. Thẳng hướng chính điện là “Vườn La Hán” nhìn ra biển, nơi đặt tôn tượng 18 vị La Hán được tạc bằng đá trắng nguyên khối. Toàn bộ mái chùa và các gác mái, thay vì lợp ngói đỏ, sơn màu nâu hoặc đỏ nâu, đều phủ một màu xanh trúc dịu mát.
Vườn la hán
Các gian liền nhau, đều có kiến trúc mái tầng, nhưng được sắp đặt rất khoa học, thoáng đãng nhưng không quá loãng, gần nhau nhưng không san sát tới mức vướng tầm mắt. Dù ở không gian nào, bên trong hay ngoài trời, không khí vẫn trong lành, mát dịu. Bên ngoài, khi có ánh nắng mặt trời, các khoảng sân đều được lấp đầy ánh nắng, nếu đứng từ trong nhìn ra, như nơi gian nhà khách sát Nhà Tổ chẳng hạn, bạn sẽ thấy một thảm nắng vàng lung linh, từng làn gió biển mát rượi xa đưa thật khoan khoái…
Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Phật Quan Thế Âm được xem là cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m, tương đương tòa nhà 30 tầng). Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ như rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa. Trên mão tượng Quan Âm có tượng Phật Tổ cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”.
, đồng thời cũng là nơi ngoạn cảnh của du khách bốn phương, một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của thành phố Đà Nẵng, là nơi hội tụ linh khí đất trời và lòng người.
Đây là điển cố thứ Hai trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Tần Bất Đệ. Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ có bắt nguồn như sau:
Tô Tần (337 – 284 trước CN), tự là Quý Tử, là người làng Thừa Hiên, thuộc Lạc Dương nước Vệ thời kỳ Chiến Quốc (nay là thôn Thái Bình, Đông Giao, Lạc Dương, Hà Nam), ià người thuộc phái Tung hoành gia nối tiếng, đưa ra kế “hợp tung” (liên kết các nước khác để đối phó với nước Tần), nối tiếng sánh ngang với Trương Nghi.
Tô Tần xuất thân trong một gia đình nông dân thuần túy. ông là em út trong năm anh em, cho nên có tự là Quý Tử (em út), các anh trai của ông là Tô Đại, Tô Lệ, Tô Tịch, Tô Cưu, đều là những người thuộc phái Tung hoành rất nối tiếng. Lúc này đang ở vào thời kỳ Chiến Quốc, các nước tranh đấu kịch liệt, người tài giỏi gặp được cơ hội tốt, rất nhiều người thuộc phái Tung hoành đi du thuyết ớ các nước chư hầu, nhờ tài ăn nói mà có được công danh phú quý, trở thành khanh tướng, quyền hành lấn át cả bậc quân chủ, thanh danh chấn động thiên hạ. Tô Tần rất ngưỡng mộ những người đó, lại thêm sự ảnh hưởng của người anh cả đối với ông, cho nên từ nhỏ đã lập chí đi theo con đường này. ông một mình đi đến nước Tề, xỉn làm học trò một bậc đại sư của phái Tung hoành là Quỷ Cốc Tử, học hỏi thuật Tung hoành.
Sau khi học thành, Tô Tần lần lượt đi du thuyết ớ các nước Chu, Tần, Triệu, nhưng đều không được trọng dụng, gặp cản trở nên phải quay về, cảm thấy rất xấu hổ. Sau khi Tô Tần trớ về nhà, vợ và chị dâu đều không nhìn mặt, chế nhạo ông không lo sự nghiệp, không chịu làm nông buôn bán, cho rằng với tài năng của ông mà muốn đạt được thành công là điều không thể. Tô Tần nghe xong, không những không nản lòng nhụt chí, mà ngược lại đóng cửa không ra ngoài, khố công đọc sách, ông ngày đêm nghiền ngẫm các thiên “Âm phù”, “Sủy tình”, “Ma ý”, nghiền ngẫm các phương pháp để tác động đến bậc quân chủ. Nửa đêm đọc sách buồn ngủ, ông lấy cái dùi tự đâm vào đùi mình, máu chảy đầy chân. Điển cố này đã được ghi trong “Tam tự kinh”, trờ thành tấm gương về ý chí quyết tâm học tập.
Trời cao không phụ người có chí, sau một năm, học vấn của Tô Tần đã có bước tiến lớn, khả năng suy đoán ý nghĩ người khác cũng được nâng cao rất nhiều, Tô Tần lại một lần nữa lên đường đi du thuyết các nước.
Tô Tần tiếp tục đi du thuyết nước Tần, nhưng vẫn không được trọng dụng. Đúng lúc Yên Chiêu Vương chiêu nạp người hiền tài trong thiên hạ, vì thế Tô Tần vào nước Yên, rất được Yên Chiêu Vương tín nhiệm. Sau đó, Tô Tần lại thuyết phục sáu nước là Triệu, Vệ, Ngụy, Tề, sở thực hiện hiệp ước liên kết hợp tung, Tô Tần là người đứng đầu “Tung ước”, làm tướng của sáu nước.
Vào cuối thời kỳ Chiến Quốc Tô Tần có tiếng tăm rất lớn, trong “Tuần Tử” thiên “Thần đạo” đã đặt ngang hàng “Tô Tần nước Tề” với “Châu Hầu nước sở” và “Trương Nghi nước Tần”. Thời Tây Hán, Tô Tần vẫn được người đời khen ngợi, như trong “Sử ký” phần “Trâu Dương truyện” đã ca ngợi ông có thể trở thành trung thần của nước Yên. Trong “Hoài Nam Tử” cũng có nhiều chỗ nhắc đến ông, đều khẳng định ông rất giỏi quyền mưu. Tư Mã Thiên cho rằng Tô Tần đã thể hiện được tài trí hơn người trong quá trình “hợp tung sáu nước”.
Trước khi tiến hành xin xăm nên tìm hiểu qua bài viết Hướng dẫn cách xin quẻ Quan Âm để biết thêm lịch sử ra đời của bộ thẻ và nghi thức xin quẻ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Có thể bạn đã từng thấy những bông hoa trong giấc mơ của mình, nhưng không hiểu hết được ý nghĩa ẩn sau giấc mơ ấy. Hãy thử một lần khám phá, rất nhiều điều
Hoa cúc là biểu tượng cho sự tươi mới, vẻ đẹp trong trắng, ngây thơ, tinh khiết và giản dị.Thật tuyệt vời nếu bạn mơ thấy đang đi dạo trên những cánh đồng hoa cúc. Giấc mơ này không chỉ mang đến cho bạn những phút giây lãng mạn quý giá mà còn đem đến những dự báo tốt lành bởi hai điều: may mắn và thịnh vượng.Ngoài ra, nó còn ngầm cho biết có thể có ai đó sẽ đề nghị giúp bạn, cùng bạn vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.Nếu thấy những đóa cúc vạn thọ trong mơ, cũng đồng nghĩa với sức khỏe và sự trường thọ sẽ đến với bạn.Thấy những đóa hoa cúc zinnia trong mơ, đồng nghĩa với việc tiếng cười, tình bạn và niềm vui sẽ ngập tràn trong cuộc sống tương lai của bạn. Ngoài ra, nó còn ngụ ý niềm vui trong mùa hè.Hoa hồng
Mơ thấy hoa bay trước gió, bạn đang có được tình yêu trọn vẹn. Mơ thấy mình gom nhặt hoa hồng thường là điềm về cuộc sống ngập tràn niềm vui và tiếng cười. Mơ thấy tặng hoa hồng cho người khác, nghĩa là bạn sẽ được thương yêu chân thành và sâu sắc. Mơ thấy được nhận hoa hồng của người khác tặng, mang ý nghĩa hứa hẹn những thành công lớn trong lĩnh vực xã giao. Mơ thấy hoa hồng nở với làn hương phảng phất, niềm vui mới sẽ đến bên bạn. Hãy cẩn trọng hơn trong các mối quan hệ nếu bạn mơ thấy hoa hồng giả. Loại hoa này dự báo về mối quan hệ đố kị, ganh ghét và thiếu trung thực. Hoa huệ
Những cánh hoa huệ trắng muốt là biểu tượng của sự trong sạch, thanh cao. Chính vì vậy, loài hoa này thường được chọn để thờ cúng trong những dịp lễ tết. Nếu bạn mơ thấy chúng, cũng có nghĩa tài lộc, may mắn sắp vào nhà. Mơ thấy hoa huệ nở, là điềm báo đại phát tài.Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, mơ thấy hoa huệ còn mang điềm bị phụ bạc.
Hoa lan
Giấc mơ về hoa lan mang lại niềm vui
Là loài hoa đa dạng về màu sắc và hương thơm, lại rất biết chiều lòng người, mặc dù không dễ trồng nhưng người ta sẵn sàng “chăm như chăm con mọn” chỉ để đợi đến ngày hoa lan khoe sắc. Vì lẽ đó, giấc mơ về loài hoa này luôn mang niềm vui đến cho mọi người.Nằm mơ thấy hoa lan là điềm sinh con gái quý.Mơ thấy cài hoa lan trên tóc, điềm báo có người đến xin dạm hỏi.Mơ thấy hoa lan rụng hoặc rơi lác đác trên sân, điềm báo có đám cưới trong nhà.
Hoa mai
Theo quan niệm của người phương Tây, hoa mai biểu thị sự vô tình, nhưng trong văn hóa của người Việt, hoa mai là một trong bốn loài cây tượng trưng cho khí phách của người quân tử (tùng, cúc, trúc, mai). Mơ thấy hoa mai cũng là một điềm lành. Mơ thấy hoa mai nở rộ, là điềm báo bước vào con đường thành công. (còn nữa) Theo Giải mã giấc mơ
Chỉ một vài sự thay đổi nhỏ về phong thủy phòng tắm, gia chủ đã tái tạo nguồn năng lượng tích cực, giúp mọi người thêm khỏe mạnh.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác
Phòng tắm không chỉ là nơi để giải quyết những nhu cầu sinh hoạt cá nhân, nó còn là chốn yên bình giúp bạn có thể tận hưởng giây phút sảng khoái và thư giãn, giải tỏa cảm xúc mệt mỏi sau ngày làm việc, học tập căng thẳng. Theo đó, bạn nên chăm chút hơn đến vấn đề phong thủy phòng tắm nhằm biến nó trở thành không gian bình yên, giúp phục hồi năng lượng hiệu quả và nâng cao sức khỏe mọi thành viên trong gia đình. Lựa chọn màu sắc Màu sắc là yếu tố kích thích thị giác đầu tiên, do đó nó ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác của chúng ta. Trong phòng tắm đã có nhiều nguồn năng lượng đại diện cho hành Thủy như vòi sen, bồn tắm, bồn vệ sinh…Do đó, những màu sắc thuộc hành Mộc sẽ tương sinh với hành Thủy sẽ tạo cảm giác cân bằng, thư giãn và tốt cho sức khỏe. Ngoài ra, màu xanh dương giúp chúng ta hít thở sâu, giảm huyết áp và dễ đi vào giấc ngủ hơn. Còn màu xanh lục giúp thị giác được nghỉ ngơi và thần kinh ổn định.
Ảnh minh họa
Mang mùi hương thảo mộc vào phòng tắm
Mùi hương không chỉ kích thích các giác quan mà còn khuyến khích những dòng chảy tích cực của khí trong phòng tắm. Do đó, bạn có thể mang mùi hương thảo mộc như của hoa oải hương, phong lữ, hương chanh, hoa hồng… vào phòng tắm để xóa đi mọi cảm giác muộn phiền, giúp tinh thần thư thái và dễ chịu. Bên cạnh đó, bồn tắm là nơi rất lí tưởng để thêm tinh dầu có mùi hương dịu nhẹ. Nếu có thể, thêm chút âm nhạc trong đó để mang đến nguồn năng lượng tích cực cho chính bạn. Mở cửa sổ cho phòng tắm Khi xây dựng phòng tắm, cần lưu ý hệ thống cửa sổ điều chỉnh đối lưu gió hoặc chạy quạt thông gió nhằm ngừa năng lượng tiêu cực và các loại nấm mốc vi khuẩn phát sinh gây hại cho sức khỏe.
Một phòng tắm thoáng mát và sạch sẽ không những có lợi cho sức khỏe mà còn thúc đẩy yếu tố phong thủy, mang lại sự hài hòa về không gian sống. Nhấn nhá bằng các bức họa trang trí hoặc gương soi Nếu muốn tâm trạng hoàn toàn thư giãn và thoải mái, bạn nên trang trí phòng tắm bằng một vài bức họa có kích thức nhỏ gọn, đơn giản hoặc bài trí gương khổ lớn. Gương soi tạo cảm giác nới rộng không gian, tạo sự thoáng đãng cho phòng tắm. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn, âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để nảy nở.
Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình thường dù được vận hay.
Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nhân tướng học không chỉ xem xét vận mệnh của một con người qua tướng mặt, tướng tay, hay nốt ruồi, mà còn xem cả bộ phận khác của cơ thể như mông, chân… Qua việc xem tướng nửa dưới cơ thể, bạn cũng có thể biết được vận mệnh cuộc đời của mình về sau ra sao.
Người gầy thì thường không có mông (mông lép), người béo thường có mông to. Nếu người gầy mà không có mông thì vận trình không bị ảnh hưởng lắm nhưng nếu người béo mà mông lại lép thì cả vận trình sức khỏe và vận trình sự nghiệp đều vô cùng xấu. 2. Chân dài và thẳng
Những người con gái mới lớn thường cho rằng phải gầy mới đẹp, nên luôn muốn mình gầy một chút. Theo nhân tướng học thì chân thon dài tất nhiên là đẹp nhưng nếu gầy quá mức thì không tốt, càng kiêng kỵ nếu “da bọc xương”, nhất là phần bụng chân.
3. Đùi thon Xét theo góc độ y tế thì đùi thon cho thấy cơ thể người phụ nữ đó bị thiếu chất dinh dưỡng, tâm trạng rất hay bồn chồn, lo lắng, dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, mất ngủ, suy nhược thần kinh, thậm chí là trầm cảm và có cách sống hơi lập dị một chút. Những người sở hữu một cặp đùi thon thường rất khôn ngoan nhưng đôi khi lại quá nhạy bén, gần như lố bịch. Đối với tình yêu thì với người này có cũng được mà không thì cũng chẳng sao, nói chung là không quan tâm. Cho nên, đùi thon chưa hẳn đã là may mắn. 4. Chân rắn chắc
Chân tròn và rắn chắc, nhất là phần bụng chân, với phụ nữ thì đây là kiểu chân “bắp chuối”, không đẹp cho lắm nhưng thực ra lại rất tốt. Những người phụ nữ có chân như vậy thường rất kiên định, đoan trang, điềm tĩnh, kiên nhẫn và sống rất tình cảm. Ngoài ra, những người này còn rất giỏi trong việc tề gia nội trợ, họ luôn có thái độ lạc quan, vô cùng chung thủy trong tình yêu, đây đích thị là người mẹ hiền, người vợ đảm. 5. Lưng ngắn chân dài
Những người này thường nay đây mai đó, cả đời lao lực vất vả, cuộc sống gia đình không ổn định. Người phụ nữ có nhan sắc một chút thì cũng sẽ được hưởng nhiều tài lộc nhưng khả năng tích lũy được tiền bạc là rất thấp.6. Lưng dài chân ngắn
Lưng dài chân ngắn là người có quyền lực, rất có phúc khí, phù hợp với các công việc quyền cao chức trọng, phúc lộc song toàn, cả đời an nhàn và tài vận cũng vô cùng hanh thông. Phương Thùy (Theo 99166) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Một là bàn đến Mệnh viên. Cứ sao thủ Mệnh đoán nên tính tình. Tử Vi trọng hậu dung hình. Thiên Phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa. Hai sao đều gặp một nhà. Thiên tư ôn nhuận thiệt là tốt ghê. Lòng lành tính gặp Thiên Cơ. Vũ Tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng. Thái Âm viên mãn ai bằng. Thiên Đồng phì mãn, tính hằng ôn lương. Phá, Liêm to nhỏ khác thường. Tính tình cương trực, kết đường tà gian. Thiên Lương từ hậu dung nhan. Sát - Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng. Tham Lang tính bẩm thung dung. Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon. Thái Dương tính khí thực khôn. Thanh kỳ bậc nhất, tư lương khác thường. Kìa như Văn Khúc, Văn Xương. Tư nhiên khả ái, thông đường văn chương. Cự Môn tính khí bất thường. Hể khi xử sự, tìm đường đảo điên. Thiên Tướng, lòng thẳng mặt hiền. Thiên tư mỹ lệ: Khoa - Quyền hẳn hoi. Thanh bần ấy thật Việt, Khôi. Lại gia Thai - Phụ là nòi khoan dung. Phụ - Bật tuấn tú vốn dòng. Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không. Phụ - Bật đơn thủ Mệnh cung. Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà. Phượng - Long đều hợp Mệnh ta. Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay. Tuế - Riêu họa xướng ư lời. Nhận - Hư, lòng gió là người sai ngoa. Mây mưa ấy thật Đào Hoa. Lông kia đỏ kệch, Kỵ - Đà xấu trông. Trán đen, tính nóng, Kiếp - Không. Hỏa, Linh mặt mũi hình dung bi sầu
2. PHỤ MẪU CUNG
Số hai Phụ Mẫu kể tường. Âm, Dương, ngộ hãm là đường khắc xung. Hãm Dương, khắc phụ đã xong. Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai. Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy. Lưu Dương lại gặp đoán rày khắc cha. Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa. Thiên Hình - Tuần Triệt mẹ cha mất rồi. Cáo, Phong có chức, có ngôi. Khúc - Xương, Thái Tuế thì người cũng sang. Khôi - Khoa phát đạt hoa tràng. Khôi - Quyền chính chướng đường đường tốt thông. Thanh bần ấy phải Hóa - Không. Nhược bằng Lộc - Mã phú ông ai tày. Phụ Mẫu cung đã đoán bầy Đoán từng phần một, cốt hay tại người.
3. PHÚC ĐỨC CUNG
Số ba Phúc Đức kể liền. Lộc - Quyền đóng đó trong miền bản cung. Ở đời vinh hiển đã xong. Kiếp - Không ở đấy bần cùng khốn thay. Nay đây mai đó càng hay. Lại xem cung ấy sống rày được bao? Đồng - Lương - Tử - Phủ bốn sao. Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn. Âm - Dương - Xương - Khúc - Lộc Tồn. Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh trần. Thọ thì được ngoại thất tuần. Miếu thì thong thả, hãm thì tân toan. Liêm - Cự ta lại phải bàn. Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la. Việt - Khôi - Tả - Hữu - Quyền - Khoa. Lộc - Tham - Đế Vượng thật là Tràng Sinh. Đà La - Dương Nhận - Hỏa Linh. Vào thì ba bốn rành rành, chẳng sai. Kiếp - Không - Hư - khốc cùng bầy. Thiên Hình - Hóa Kỵ mới loài bạch tang. Nhị Phù tổn thọ một phương. Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai. Sát - Liêm - Tứ Sát cùng bầy. Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng. Cao thanh, Thọ - Quý - Ân - Quang. Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Tuế - Phá lạc hãm một âu. Tiếng tăm như sấm ra màu vẽ vang. Kìa như nói chẳng hé răng. Thiên Hình đơn thủ chốn đằng Mệnh cung. Lộc - Mã khéo kiêm nàn nồng. Phúc - Tấu bá đạo, mong trông một lòng. Hoa Cái má phấn lưng ong. Hỉ Thần dài giọng, tâm hung, tràng đầu. Triệt Không tính những chẳng âu. Hung trung vô định ra màu gian nan. Tuế - Tham trong dạ đa đoan. Kỵ - Riêu tửu sắc, một đoàn ngao du. Hổ - Tang chẳng việc mà lo. Quan Phù - Điếu Khách hay phô rộng lời. Lưỡng - Hao nhỏ nhặt hình người. Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu. Quý - Ân phong độ trượng phu. Chẳng hay quân Tử hình thù cũng xinh. Tướng Quân chỉ thích dụng binh. Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không. Cô - Quả thiết kỵ riêng lòng. Tràng Sinh, Đế Vượng vốn dòng thiện lương. Đào Hoa - Mộc Dục điểm trang. Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh. Mộ thì chẳng được thông minh. Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng. Triệt mà gặp được Kim cung. Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần. Tuyệt phùng hỏa địa một khi. Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung. Kìa Suy - Bệnh - Tử ba dong. Gặp vào nước ấy, ai dùng? ai màng? Hóa - Lộc tính khí dịu dàng. Bác Sĩ tính nết tìm đường tư hoa. Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa. Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô. Phá Quân tâm tính hồ đồ. Kiếp - Sát xử sự ba đào mênh mông. Xem trong nhân tính đã xong. Lại tính cho thấu các cung Ngũ Hành. Tường chân tính, nhận chân hình. Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy. Ví như thuộc Thổ Tử Vi. Tính trì mà gặp Hỏa thì lại nhanh. Thiên Phủ vốn tính hòa lành. Song gặp Không - Kiếp thời rằng khắc thâm.
Lại lấy Thân, Mệnh mà suy. Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương. Đã xem hưởng thọ đoán tường. Lại xem Phúc Đức đoán phương âm phần. Tràng Sinh chính phát thập phần. Gặp sao Quan - Phúc - Quý thần chầu trong. Phúc - Liêm nội ngoại thung dung. Khoa - Quyền - Xương - Khúc vốn dòng văn gia. Vũ - Tham mà gặp Hóa Khoa. Ấy là đất phát để ra anh hùng. Cự Môn - Lộc - Lộc tương phùng. Đoán rằng phú quý gia phong đời đời. Này là đoán trước mấy lời. Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là. Lại xem hướng mạch kể ra. Trước lấy khởi tố ấy là Tràng Sinh. Thanh Long lấy làm long hành, Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm. Phải lấy chi tự (Địa chi) phân kim. Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan. Trước có Dương Nhận - Hồng Loan, Nga mi tác án yên bàn chẳng sai. Thanh (Long) Hồng (Loan) là thủy nhập hoài. Tùy cung mà đoán cho người mới thông. Lại như Vũ - Khúc - Triệt - Không. Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau. Kìa Long với Hổ lai chầu Xem bên Tả, Hữu mới hầu luận xong. Bên tả có sao Thanh Long. Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên. Bên hữu Bạch Hổ đã yên. Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này. Lại xem tinh tú yên bầy. Thái Dương - Vũ - Tướng cùng rầy Phá Quân. Khoa - Quyền - Khôi - Việt tinh trần, Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai. Còn như đoán mả đàn bà, Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời. Tử - Phủ, Tổ mộ chẳng sai. Lạc nhàn thì đoán xa đời mà thôi. Thiên Cơ dương tổ sáu đời Vũ năm Đồng tứ chẳng sai chút nào. Liêm Trinh bảy tám đời cao. Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin. Cha còn thì đoán ông liền, Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh.
Thiên Phủ viễn tổ đã đành. Tham sáu, Cự bảy Lương rành tám thôi. Phá Quân - Thất Sát xa đời. Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà. Nếu còn thì kể đến bà. Ấy là âm mộ thuộc tòa âm cung. Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng. Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai. Suy xem tình tính hẳn hòi. Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường. Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường. Đoán rằng đạo táng gần phương mả này. Lại tùy Chính diệu suy bày. Lại nhân Không - Kiếp đoán rày lạc phân. Hoa Cái - Phượng Các tân phần. Tấu Thư - Xương - Khúc là thần đồng ra. Hoặc là Khôi - Việt gia Hóa Khoa. Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng. Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng. Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không. Tử Vi nhập Miếu Vượng cung. Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ. Lương - Tham thọ khảo kỳ di. Lại xem đất phát cung phi vẻ nào. Bởi chưng Hoa Cái - Hồng Đào. Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương. Đế Vượng đóng chính cung tường. Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh. Tuế - Phù tụng sự tương tranh. Lộc Tồn, Cô quả độc đinh thường thường. Tang Môn - Quả Tú bất thường. Ắt là trong họ gái thường quả phu. Phục Binh ngộ Tử phải lo.
Có người bị trận, chết con ngoài đường. Mộ cư Phúc Đức đường đường. Lại gia Thai - Tọa ấy Trường Sinh ta. Hỷ Thần - Thiên Hỷ hoặc gia. Ấy là Đắc địa chẳng hòa được đâu. Lại bàn hình thể mọi màu. (Ngũ hành các sao). Tổ sơn là Tử - Phủ chầu kể ra. Mộc Tinh là Thiên Cơ gia. Kim tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang. Văn Khúc là Thủy đáo đường. Liêm Trinh là Hỏa, Thiên Lương Thổ này. Thái Dương Dương long đã hay Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm. Thất Sát cũng Hỏa Tinh lâm. Phá Quân là Thủy, Cự tầm Thổ tinh. Thiên Đồng - Thiên Tướng đất binh. Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy. Mộc Trì là giếng gần đây, Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần. Kiếp - Không lộ tán dương phần. Kỵ - Riêu là Thủy, sát nhân hoàng tuyền. Thanh Long có suối lưu truyền. Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường. Khoa - Quyền là bảng văn chương. Lộc, Kỵ, Việt kiếm rõ ràng đóng đây. Ấy là phần mộ đoán bày. Cốt xem Phúc Đức mới hay mọi đường.
4. ĐIỀN TRẠCH CUNG
Bốn là bàn đến cung Điền. Phủ - Vi đóng đấy, Tài, Điền Vượng thay. Vũ - Cơ tài sản cũng hay. Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen. Âm Dương, Miếu ấy đa điền. Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân. Thiên Đồng hậu dị, tiên nan. Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành. Cự Môn tổ nghiệp tan tành. Sinh ra đời chắc sau rành được yên. Sát tinh bỗng chốc mà lên. Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường. Phá Quân của khéo dở dang. Nhược bằng ngộ hãm là tuồng khó khăn. Tướng - Lương - Tả - Hữu - Khoa văn. Việt - Khôi - Quyền - Lộc - Mã gần Trường Sinh. Điền viên đều vượng tậu thành. Hỏa - Linh - Không - Kiếp - Đà - Kình lục tinh. Nhị Hao - Kiếp Sát - Phục Binh. Không Vong - Tang - Tú - Phù Tinh vô điền.
5. QUAN LỘC CUNG
Năm là Quan Lộc đoán ngay. Thái Dương - Xương - Khúc ở đây cung này. Điện rồng chầu chực đêm ngày. Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường. Việt - Khôi - Tả - Hữu - Cơ - Lương. Khoa - Quyền - Tử - Phủ hợp cùng Trường Sinh. Tướng - Đồng - Lộc - Mã - Vũ tinh. Đều là cát tú cho mình hiển vinh. Âm - Dương - Quyền - Lộc được rành. Như bằng Hãm địa ắt hành lại hao. Liêm Trinh vũ chức, quyền cao. Như bằng ngộ hãm, khỏi nào hình danh. Tham Lang mà gặp Hỏa - Linh. Miếu thì phú quý, Hãm: bình mà thôi Sát - Cự Tý/ Ngọ ở ngôi Vượng thì vũ chức, Hãm thì hình thương. Phá Quân lao khổ trăm đường. Nhược ngôi Tý / Ngọ tài thường vượng thay. Tham Lang - Xương - Khúc ngày rày. Ngộ cung Tỵ / Hợi quan này làm ru. Liêm - Tham - Đà - Nhận phải lo. Phải mang dang díu quanh co bận mình Phù - Tang - Không - Kiếp - Hỏa, Linh. Khốc- Hư - Đà - Nhận - Kiếp - Kình - Nhị Hao. Phục Binh - Phá - Tú - xúm vào. Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn.
6. Phú Cho Cung Nô Bộc
Sáu là Nô Bộc đoán tường. Tử, Phủ, Tả, Bật, âm, Dương, Lương Đồng. Việt, Khôi, Tam Hóa, tương phùng. Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh. Quý, Quang, Xương, Khúc cùng lành. Vũ tinh mà đóng rành rành bản cung. No thì nó ở hầu ông. Đói thì nó bước chẳng mong nói gì. Liêm Trinh kìa nó càng ghê. Làm ân nên oán trăm bề mỉa mai. Tham Lang vì nó hao tài. Cự Môn báo oán những loài thị phi. Thất Sát sinh sự thị phi. Phá Quân hàn khổ như thì cận quanh. Còn như Không, Kiếp, Phục Binh. Dương, Linh, Đà, Kỵ, Thiên Hình, Khốc, Hư. Nhị Hao, Quan Phủ, Quan Phù. Gặp phường trộm cắp phải lo tổn tài.
7. Phú Cho Cung Thiên Di
Bảy là bàn đến Thiên Di. Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai. Vũ, Lương, cự phú chẳng sai. Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền. Âm, Dương, Tả, Hữu rất hiền. Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân. Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân. Nhược bằng ngộ Cát, mười phần tốt thay. Liêm Trinh nội trợ, ngoại hay. Đi thì cũng lợi, mới tầy Tham Lang. Lại thêm dâm dục hoang tàng. Vũ tinh xuất ngoại lại càng được yêu. Cự Môn khẩu thiệt đảo điên. Nhị Phù, Phá, Tú cũng miền Thiên Di. Đoán rằng lộ thượng, mai thi. Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên. Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền. Luận rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu. Cự Môn, Linh, Hỏa xung nhau. Tử ư đạo lộ ra màu xo ro. Liêm Trinh, Quan Phủ, Quan Phù. ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu. Kìa như đạo lộ phải âu. Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di. Tứ Sát đóng chính cung tường. ách nguy thêm lại hại đường tổ tông. Vũ, Liêm chẳng khá đồng cung. Luận rằng số ấy bần cùng ai qua. Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Dương, Đà. Tham Lang, Hình, Kỵ cùng là Khốc, Hư. Phá Quân phường ấy phải lo. Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng.
8. Phú Cho Cung Tật ách
Tám là Tật ách chẳng âu. âm, Dương phản bội làm màu bất minh. Mệnh cung có Địa Không tinh. Nhan manh mục tật, rành rành phải đương. Phá, Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương. Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên. Khúc, Xương, Tả, Hữu vào miền. Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Đồng, Lương. Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương. ốm thì lại gặp thuốc thang sợ gì. Thiên Cơ phải chứng thấp tê. Nhược bằng thêm Sát mặt thì vết ngang. Phong đàm bệnh ấy liền liền. Bởi sao Cơ, Khúc đóng miền ách phương. Nhược bằng gia Sát, trỉ vương. Thái âm đau bụng, Thái Dương đau đầu. Thêm Đà, Kỵ, Sát cũng rầu. Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau. Phá Quân khí huyết bất điều. Đồng, Lương, hàn, nhiệt là điều phải lo. Tướng thì đau ở bì phu. âm, Dương, Cự, Liêm, hình thù cơ nghinh. Đà La, Dương Nhận ít yên. Đau chân, nhức mắt chẳng hiền được đâu. Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau. Bởi đường sao ấy gặp tầy Tham Lang. Sát tinh thấp khí yếu đau. Tử, Sát có bệnh bởi hầu Sát gia. Tham Lang Tật ách xông pha. Lưng, chân có bệnh, chẳng hòa được chăng. Cự Môn mặt vết rõ ràng. Tứ chi có tật xấu chàng hổ ai. Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai. Kình, Đà, Linh, Hỏa cùng loài một phương. Mặt kia có vết rõ đường. Lại thêm bệnh trỉ nên thường phải e.
9. Phú Cho Cung Tài Bạch
Thứ chín kể đến Cung Tài. Để mà thí nghiệm mấy lời kể ra. Vũ, Lộc, Thiên Mã cùng gia. Tử, Phủ mà gặp, phương xa nhiều tiền. Tử Vi, Tả, Hữu rất hiền. Lâm Quan Tài Bạch ngoài miền lợi danh. Thái âm mà với Vũ tinh. Luận bàn cũng phải rành rành chẳng sai. âm, Dương, Tả, Hữu giáp lai. Có sao Đế Vượng cùng ngồi chính trung. Luận làm địch quốc phú phong. Đồng, Cơ, Vũ Khúc, tay không làm giàu. âm, Dương tài vượng khá mau. Nhược bằng hãm địa, có hầu lại không. Sát tinh đóng Tý, Ngọ cung. Hoạnh tài hoạnh phát đùng đùng chứa chan. Chủ cung phút hợp phút tan. Lộc Tồn, Hóa Lộc giàu sang trăm đường. Phá Quân tụ tán chẳng thường. Việt, Khôi, Tả, Hữu, Khúc, Xương, Khoa, Quyền. Với sao Hóa Lộc ở miền. ấy là phát phúc, Tài, Điền vượng hay. Liêm Trinh sao ấy luận ngay. Lộc Tồn, Vũ Khúc đóng rầy Tài cung. ấy là đại phát phú ông. Kiếp, Không ở đấy, bần cùng chẳng sai. Dương, Đà, Linh, Hỏa tán tài. Hỏa, Hình, Hư, Khốc cùng loài như nhau.
10. Phú Cho Cung Tử Tức
Thứ mười Tử Tức kể bày. Trước sinh nam tử, nhiều bày Nam tinh. Bắc tinh ấy gái trước sinh. Sinh ngày âm Kỵ chiếm rành bản cung. Sinh đêm Dương Kỵ chiếm cung. âm, Dương lâm Tý là vòng khắc xung. Vắng sao chính diệu Tử cung. Phải tìm đối chiếu luận cùng mới xong. Phủ, Vi, Đế Vượng, Thiên Đồng. Khúc, Xương, Tả, Hữu luận cùng năm tên. Nhược bằng gặp Sát cũng hèn. Dương, âm, cùng ngộ Lâm Quan một đoàn. Tướng, Lương, Quan Đới rõ ràng. ấy là cung được ba hàng thành thân. Khoa, Quyền, thêm Lộc tinh trần. Việt, Khôi, Thiên Mã mười phần quý nhân.
11. Phú Cho Cung Phu Thê
Mười một bàn đến Thê cung. Nhân thê trí phú bởi phùng Thái Dương. âm phùng Hao Tú một phương. Thành hôn chẳng lọ phải đường cưới xin. Dương, Đồng đa vợ mà hiền. Kìa như Lộc Mã tại điền vượng thay. âm phùng Xương, Khúc ngày rày. Cung trăng bẻ quế xem tày lên tiên. Tử, Phủ hòa hợp bách niên. Đồng, Cơ trai gái kết nguyền cũng xinh. Trai tơ gái trẻ đã rành. Âm, Dương miếu địa sớm thành nhân duyên. Nhược bằng hãm địa sau nên. Vũ tinh gia Sát đôi bên khiếm hòa. Tướng, Lương sớm nổi thành gia. Sát gia sắc đẹp lấy nhà trưởng nhân. Khúc, Xương, Tả, Hữu tinh trần. Thông minh giai lão trăm phần tốt thay. Lộc Tồn muộn vợ nhưng hay. Tham Lang sớm lấy người rày khắc xung. Tham mà gặp Sát tối hung. Phá Quân sớm khắc, ít lòng chính chuyên. Liêm Trinh phải khắc ba tên. Cự Môn, Thất Sát luận bàn chớ quên. Sát tinh xung khắc đã quen. ấy người dâm dục về miền trăng hoa. Khôi, Việt, gặp Lộc, Quyền, Khoa. Quý nhân sánh mấy duyên ta tốt lành. Linh Tinh, Kỵ, Hỏa, Đà, Kình. Khốc, Hư, Không, Kiếp đã rành khắc xung. Nhược bằng Cát Tú tương phùng. Cùng là giúp được vào vòng thiên ninh. Tam phương mà gặp Sát, Hình. Ly hương kết phối rành rành chẳng sai.
12. Phú Cho Cung Huynh Đệ
Mười hai Huynh Đệ bàn liền. Triệt, Không cũng thấy trong miền bản cung. Bắt đầu thì đoán khắc xung. Hoặc gia Địa Kiếp, Thiên Không chẳng nhiều. Tướng Quân, Lộc, Mã cũng nhiều. Anh em giàu có phú nhiêu được dùng. Tướng Quân, Hóa Lộc tương phùng. Anh em có kẻ ở trong cửa quyền. Trường Sinh, Đế Vượng lâm liền. Anh em có kẻ tất nhiên yên bài. Thái Dương, Thái âm giáp Thai. Sinh đôi một đối chẳng sai tí nào. Vượng, Thai, Tuyệt, Tướng thấu vào. Anh em ắt có dị bào chẳng không. Đào, Riêu, Thiên Hỷ trong cung. Phá Quân tính xử đối xung ở ngoài. Có chị em gái theo trai. Say mê đến nỗi hoang thai hổ mình. Trong thì Tướng, Phá, Phục Binh. Ngoài thì Hoa Cái cung tinh Đào, Hồng. Tường hoa liễu ngỏ ngóng trông, Anh em có kẻ dâm thông hẳn là. Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa. Thiên Hình thường có trong nhà giành nhau. Lộc, Mã buôn bán làm giàu. Nhược bằng Cự, Tướng ra màu thổ công. Tử, Phù, Hữu, Bật tương phùng. Có chị em gái lộn chồng đi ra. Thiên Khôi ba kẻ anh ta. Thiên Việt ba kẻ em ta bày đoàn. Xương, Khúc, Thái Tuế đều yên. Có người xã trưởng khôn ngoan ai cùng. Tuyệt, Không, Không, Kiếp chính cung. Hoặc gia Cát hội lai phùng Dương tinh. Luận làm nghĩa dưỡng anh em. Hoặc thêm Đà, Cự, Hỏa, Linh, đoán cùng.
Link nguồn: http://tuvilyso.org/forum/topic/1597-phu-tu-vi-thong-tho-683-cau
Cách xem tướng nhận biết người phú quý giàu sang –
Tướng này có người sinh ra đã có, có người do tu tâm dưỡng tính, làm nhiều việc thiện, do gặp vận may, hay do đức của cha mẹ truyền lại mà có: + Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầ
Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Phân tích các vận thế Để phân tích các phần trong Họ Tên khi số hóa và để các giá trị số biểu lý được cụ thể theo từng phần phù hợp với từng mặt, từng giai đoạn của một người mà qua số biểu lý của từng phần trong Họ và Tên phản ánh, ta tuân theo quy
Để phân tích các phần trong Họ Tên khi số hóa và để các giá trị số biểu lý được cụ thể theo từng phần phù hợp với từng mặt, từng giai đoạn của một người mà qua số biểu lý của từng phần trong Họ và Tên phản ánh, ta tuân theo quy ước gồm: Họ vận, Tên vận, Mệnh vận, Tổng vận và Phụ vận. Những vấn đề này thể hiện tiền vận, hậu vận, Tổng vận.
Năm vận thế của các giai đoạn và tình cảnh của một người được biểu trưng bằng số biểu lý. Mỗi chữ số mang biểu lý mà qua đó ta có thể dự báo được những thông tin về các mặt của đời sống của một con người. Nó được tham chiếu qua các số lý Họ, Tên. Đương nhiên qua số biểu lý chỉ có thể cung cấp một phần dự báo mà thôi. Nó không hoàn toàn khẳng định. Nhưng dự báo số biểu lý Họ Tên chỉ mang nghĩa Tiên thiên bởi vì con người còn có Hậu thiên chi phối lớn. Những dự báo có tính “Tiên thiên” không quyết định tất cả cuộc đời. Những gì có trong “Tiên thiên” ví như một ván cờ bày sẵn ban đầu. Quá trình diễn biến các thế cờ cho đến khi kết thúc ván cờ là “Hậu thiên”. Như vậy ở đây “Hậu thiên” mới là kết cục. Mà “Hậu thiên” của mỗi cá nhân khác nhau thì phần lớn là khác nhau. Không ai lại có mọi thứ ở “Hậu thiên” hoàn toàn giống hệt nhau. Tức là giống nhau từ hoàn cảnh gia đình, hay sự nuôi dưỡng, giáo dục và có nhà cửa, biển hiện, mã số v.v… đều giống hệt nhau. Hơn nữa điều kiện xã hội, vận hội đất nước của mỗi cá nhân ở mỗi thời điểm thời đại khác nhau là rất khác nhau. Từ những lý do đó mà những người có Họ, Tên, Đệm, Phụ tên giống y hệt đi nữa thì cũng không thể có kết cục giống nhau (như đã giải thích ở phần trên). Khi đặt tên cho hậu duệ của mình, các thành viên trong gia đình dù có muốn hậu duệ của mình có cái tên giống hệt một bậc vĩ nhân tiền bối nào đó đi nữa thì gia đình họ cũng phải có những điều kiện “tiền đề” nào đó. Và với những tiền đề đó, họ hy vọng hậu duệ của họ có thể thành đạt như bậc tiền bối mà họ muốn mượn tên đặt cho hậu duệ của họ. Mong muôn chỉ là mong muốn chứ làm sao có thể hoàn toàn giống được. Bởi lẽ hai con người sống ở hai thời đại khác nhau, ngay cả những người cùng thời mà có Họ Tên hoàn toàn giống nhau đi nữa nhưng vì gia đình của họ lại hoàn toàn khác nhau. Những điều kiện “Hậu thiên” cũng không bao giờ như nhau được.
Ý nghĩa của số biểu lý Họ Tên
Số biểu lý Họ Tên là “Tiên thiên”. Nhưng một phần “Tiên thiên” ấy vẫn tồn đọng trong “Hậu thiên” của cá thể đó đến cuối đời. Đó là tính cách, một phần thành quả tu luyện hay vận mệnh và duyên phận v.v…
Gia đình nhạc sỹ đương nhiên là tiền đề để con cái họ có gen về âm nhạc, bố mẹ họ muôn hậu duệ của gia đình họ sau này sẽ giống Bá Nha, hay giống Đặng Thái Sơn v.v… về khả năng âm nhạc và dẫu gia đình đó có cả Họ Tên giống hệt đi nữa thì cũng sẽ không có Bá Nha hay Đặng Thái Sơn ở hai thời khác nhau được, về “định tính” thì có; nhưng về “định lượng” thì không. Nghĩa là đều có năng khiếu âm nhạc đấy song mức độ tài năng sẽ hơn kém khác nhau, nhưng sở trường thì giống nhau. Song do thời đại khác nhau, vận thế đất nước lúc này lúc khác sẽ chi phối nhiều đến điều kiện sống và sự thành đạt. Vì vậy trong “Họ Tên dự đoán” có 5 vận thế để xem xét cụ thể. Nhưng chúng ta cần có nhận thức về thiên thời, khí vận nữa.
Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu "chài" đại gia
Bùa yêu vốn lưu truyền trong dân gian như một thứ bùa làm người khác mê mẩn, say đắm không dứt. Những câu chuyện ly kì xung quanh nó nhiều không kể xiết.
Người dân Sài Gòn những năm tiền khởi nghĩa thường bàn tán chuyện cô Ba Trà dùng bùa ngải làm bao tay trọc phú, tỷ phú đương thời phải lao đao, dẫn tới khuynh gia bại sản.
Quyền năng nhan sắc
Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, khi từ làng quê nghèo Cần Đước (Long An) đặt chân lên Sài Gòn chỉ mới mười sáu tuổi. Gia cảnh bần hàn, cha mất sớm, mẹ góa con côi bị nhà nội hắt hủi đành phải lên Sài Gòn làm thuê kiếm tiền. Chân ướt chân ráo lên đô thành, cô bị ép gả cho một tên Tây lai lắm tiền nhiều của. Từ đây, cuộc đời của cô gái “hồng nhan” rẽ sang một hướng khác. Nửa năm làm vợ hờ của một lão già, được ăn sung mặc sướng khiến Trà đẹp và “đàn bà” đến bất ngờ, khiến bao người ngẩn ngơ. Nổi tiếng, rực rỡ, Ba Trà nhanh chóng bị đẩy vào vòng xoáy phù hoa của đất Sài Gòn. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ba Trà nổi như cồn, nức tiếng trong giới công tử, trọc phú Sài Gòn. Hắc, Bạch công tử - hai công tử ăn chơi số một của đất Nam Kỳ thời ấy đã sớm là những tình nhân đầu ấp tay gối của Ba Trà. Đồng thời những ông phủ, ông hội đồng và các ông quan tòa, các tay cộm cán trong chính quyền thực dân đều chết mê chết mệt vì nhan sắc của cô gái được mệnh danh là hoa khôi không vương miện. Quyền năng nhờ bùa ngải?
Thời ấy, nhiều người đặt câu hỏi rằng Ba Trà quyến rũ đàn ông phải chăng chỉ nhờ nhan sắc hay còn bí quyết nào khác? Chẳng ai trả lời được chính xác nhưng họ đồn rằng cô dùng bùa yêu để mê hoặc đàn ông. Để chứng minh, báo chí thời ấy đưa ra những câu chuyện được cho là có thật về cô Ba Trà. Vào khoảng thập niên ba mươi, Ba Trà bằng nhiều lần đi sang xứ Xiêm (Thái Lan). Cô chẳng buôn bán cũng không phải viên chức Nhà nước mà đi công vụ, vậy qua cái xứ lắm bùa nhiều ngải ấy ngoài đi chuộc bùa, chuộc ngải còn làm gì. Sau này, người ta kháo nhau lúc gần chết, chính cô Ba Trà đã thuật lại cụ thể những chuyến đi thỉnh bùa, rước ngải. Cố học giả Vương Hồng Sển xác nhận lại chuyện này trong một số hồi ký xuất bản trước khi ông mất. Đích thân Ba Trà đã kể với ông, cô khoe thân trong một phòng riêng với lão thầy ngải để vừa nghe lão đọc thần chú vừa xông hương (ngải) cho ngấm vào da thịt, rồi mang ngải về dùng. Bởi thế mà bất cứ người đàn ông nào, dẫu bản lĩnh đến đâu, đã bị cô “chài” đều không thoát được. Ngay như vua cờ bạc đất Sài Gòn lúc bấy giờ là Sáu Ngọ vốn chỉ mê cờ bạc và tiền hơn đàn bà, vậy mà cũng phải lụy tình với cô Ba. Người ta đồn rằng ngải mê, bùa yêu trong Ba Trà đã phát huy tác dụng đến cực điểm của nó. Những lời đồn đoán mãi chỉ là đồn đại, những câu chuyện ly kì, thêu dệt về mỹ nhân Ba Trà âu cũng vẫn chỉ là của đôi kẻ hiếu kì thích chuyện tâm linh hay những người ganh ghét với nhan sắc cô hoa khôi bịa đặt ra. Chứ nếu thật có bùa yêu, sao cô gái nhan sắc nhường ấy vẫn chịu cảnh lẻ bóng đến cuối đời. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Mỹ Ngân (##)
Lịch sử ghi nhận nhiều minh chứng, con người có chức năng cảm giác đặc biệt. Giác quan thứ 6 đã ứng trên nhiều người nổi tiếng, như lời tuyên bố về sự tồn tại
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
Nhà bác học Nga, Mendeleev (1834 - 1907), người phát minh ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nhìn thấy rõ toàn bộ bảng tuần hoàn hiện ra trước mắt trong giấc mơ và ông chỉ việc ngồi dậy ghi chép lại. Tất nhiên, ông cũng phải nghiên cứu về định luật này hàng chục năm trước khi có giấc mơ đó. Nhà thơ người Nga Lermontov (1814 - 1841) cũng từng kể lại câu chuyện khó lý giải về giác quan thứ 6 khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kavkaz. Hôm đó, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình thì nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết. Hay như Napoleon (1769 - 1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành và kết quả đúng như điều ông linh cảm. Không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm đặc biệt. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill (1874 - 1965) đã một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức, do linh tính mách bảo. Năm 1944, ông Churchill vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm thành một hố bom lớn, ngay chỗ Churchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của ông, Churchill viết: "Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng". Linh tính, chức năng cảm giác kỳ lạ của người – giác quan thứ 6 tương đối phức tạp và đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, từ những câu chuyện có thực kể trên có thể khẳng định, khả năng cảm giác kỳ lạ là loại vật chất có nguồn gốc mà không nhận biết được bằng mắt, tai, lưỡi, cơ thể nhưng con người có thể tiếp thụ tin tức của loại vật chất đó do cơ cấu cơ thể, hệ thần kinh nội tạng truyền liên hệ thần kinh đại não mà nhận biết. ST
Tầm quan trọng của hoa, cây cảnh trong phòng khách –
Phòng khách là trung tâm của ngôi nhà vì thế việc bài trí cây xanh có tác dụng rất lớn. Hóa giải các góc nhọn sắc của phòng Do việc thiết kế xây dựng nên phòng khách của những ngôi nhà hiện đại thường tồn tại các góc và các trụ. Điều này vừa làm giảm
Phòng khách là trung tâm của ngôi nhà vì thế việc bài trí cây xanh có tác dụng rất lớn.
Hóa giải các góc nhọn sắc của phòng
Do việc thiết kế xây dựng nên phòng khách của những ngôi nhà hiện đại thường tồn tại các góc và các trụ. Điều này vừa làm giảm hiệu quả thẩm mỹ vừa trở thành áp lực đối với người sinh sống trong ngôi nhà, ảnh hưởng xấu tới phong thủy của cả căn nhà. Tuy nhiên, một số cách bài trí cây xanh có thể giúp hóa giải điều xấu nói trên:
– Bài trí 1 chậu cây to lá dày và rộng ở góc phòng để hóa sát.
– Tại góc tường, đặt kệ và chậu hoa dạng cong bằng gỗ; bài trí cây lá rộng, xanh và sáng bóng cùng với những vật phẩm nhỏ hoặc đèn chiếu sáng dùng để trang trí. Như vậy, vừa có thể giảm nhẹ được áp lực do góc nhọn gây ra vừa làm cho không khí trong phòng tràn đầy sức sống, hóa hung thành cát, tạo thành một điểm sáng trong cảnh quan ngôi nhà.
Thay đổi tầm nhìn trong phòng khách
Đề làm điều này, có thể sử dụng cây cảnh kết hợp với đồ trang trí nội thất khác.
Bài trí các cây cảnh có lá dạng cánh của các loại thực vật đuôi chồn tạo cảm giác thân thiện; cây thiết hải đường với thân cứng nhiều gai thể hiện sự kính trọng nhưng xa xôi; trúc tạo hình lại thể hiện tính cách vững vàng, không lay chuyển; hoa lan lại thể hiện sự thoát tục, thanh tao.
Khí chất của các loại cây nên phối hợp hài hòa với tính cách của chủ nhà và không khí chung trong phòng.
Trước tiên, chọn lựa cẩn thận các loại cây, dáng cây có thể thay đổi cảnh quan của phòng khách. Ví dụ, sử dụng lan treo và cây leo dại có thể làm cho căn phòng quá cao trở nên thấp hơn. Đối với những căn phòng hơi thấp một chút thì nên dùng những thực vật có hình dáng ngay ngắn, thẳng tạo cho căn phòng cảm giác cao hơn. Những loại cây lá nhỏ hoặc cành dài đưa ra có thể làm cho căn phòng vốn hơi nhỏ trở nên rộng hơn so với diện tích thực của nó.
Tỷ lệ cân bằng giữa các loại cây cũng hết sức quan trọng. Trong phòng khách rộng rãi, sang trọng thì có thể dùng những loại cây lá to nhưng hình dáng nên giản đơn để thể hiện khí chất. Những loại cây hình dạng phức tạp, màu sắc đa dạng thì có thể làm cho căn phòng trở nên phong phú hơn, tạo cho phòng khách không gian rộng hơn, tạo cho con người cảm giác thoải mái.
Nếu phòng ở phía Nam không có cửa sổ, không có ánh sáng chiếu vào thì khi đó nên đặt một chậu cây cảnh ở hướng này. Hàng ngày, nên đưa cây ra ngoài cho hấp thụ ánh sáng mặt trời trong một khoảng thời gian nhất định.
Đối với những căn phòng phía Tây có cửa sổ rộng, ánh nắng mặt trời chiếu vào quá nhiều, quá gay gắt thì có thể bố trí cây xanh tại đó.
Ngày nay khi chiếc điện thoại đã gần như không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta thì việc chọn một sim số đẹp và hợp tuổi của bạn cũng không đơn giản chút nào. Như thế nào là một sim số đẹp, làm thế nào để chọn được một sim số đẹp hợp tuổi phong
thủy tốt để mang lại sự may mắn tài lộc trong cuộc sống chúng ta ?
Dựa trên nguyên lý của 64 Quẻ Khí Kinh Dịch, các con số được tính toán trong Tổng hòa của cả một dãy số chứ không riêng gì 1 vài con số.
Với mỗi Mệnh đều có những Quẻ khí Đặc trưng bao hàm Ý nghĩa và Giá trị khác nhau sử dụng với mục đích khác nhau. Tuy nhiên, nó đều được nằm trong 1 quy luật hết sức chặt chẽ.
– Một Sim số hợp phong thủy phải hội đủ các yếu tố như sau: + Một Sim số có phong thủy tốt phải là con số Cân bằng Âm Dương + Một Sim số tốt phải là con số Tương Sinh giữa Ngũ hành của Dãy Số với Ngũ hành của Người Sử dụng + Một Sim số tốt phải là con số chứa Vượng khí, may mắn, tốt lành, đại cát + Một Sim số tốt phải có Quái khí hàm chứa các yếu tố tương hỗ cho Người dùng, ứng với Quẻ khí mang điềm Cát ( Cát tường)..
Một số quẻ tốt xấu ứng với bản mệnh
– Người Mệnh Mộc nên dùng số có Quẻ khí: Phong Lôi Ích, Bát Thuần Chấn, Sơn Lôi Di. Mạng Mộc gồm có các tuổi: Nhâm Ngọ1942 & Quý Mùi1943; Canh Dần1950 & Tân Mão1951; Mậu Tuất1958 & Kỷ Hợi1959; Nhâm Tý1972 & Quý Sửu1973; Canh Thân 1980 & Tân Dậu1981; Mậu Thìn1988 & Kỷ Tỵ1989.
– Người Mệnh Hỏa nên dùng số có Quẻ khí: Bát Thuần Tốn, Lôi Phong Hằng, Thiên Phong Cấu, Lôi Thủy Giải, Hỏa Phong Đỉnh…
Với mong muốn tìm được ý chung nhân đích thực như trong những câu chuyện cổ tích lãng mạn, người tuổi Tỵ sẵn sàng hy sinh thể diện để níu giữ trái tim nửa kia. Vì quá si tình, đặt quá nhiều niềm tin vào đối phương, nên khi tình yêu bị rạn nứt, người tuổi Tỵ không thể tin vào sự thật phũ phàng.
Họ tự nhủ với bản thân rằng mọi chuyện sẽ trở về như cũ. Tuy nhiên mọi nỗ lực níu giữ tình cảm đối phương đều vô nghĩa, khi chính họ cũng mơ hồ về tình cảm của mình. Nếu không suy nghĩ lạc quan hơn về chuyện tình yêu đã vụt qua, con giáp này khó có thể tập trung vào công việc, học tập trong quãng thời gian dài.
No2: Tuổi Sửu
Với người tuổi Sửu, việc bị người yêu bỏ là nỗi hổ thẹn không thể chấp nhận được. Đặc biệt, nếu là nữ, "sự cố" ấy trong tình yêu còn tồi tệ hơn gấp trăm nghìn lần. Kết quả là họ sẽ bất chấp tất cả để níu kéo tình yêu, cho dù lòng đã nguội lạnh. Sau này, khi hai người có quay lại với nhau, chuyện “chóng tàn” sẽ lại sớm xảy ra.
Mặt khác, con giáp này cảm thấy mình bị tổn thương quá nghiêm trọng khi đã dành hết tình cảm chân thành cho người ấy, mà bị cự tuyệt. Thậm chí, họ còn thoáng qua ý nghĩ việc quay lại sẽ là cơ hội tốt để "đáp trả". Hãy cho đi những gì xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ nhận được trái ngọt. Người tuổi Sửu nên làm như vậy để giảm bớt tính hiếu thắng của mình.
No3: Tuổi Mùi
Hôn nhân, tình yêu không phải là 100% kết quả của tình cảm. Người tuổi Mùi đôi khi còn vướng bận một số toan tính cho cuộc tình của mình. Do đó, việc bị "đá" chẳng khác nào cú đòn đốn gục bao công sức vun đắp hạnh phúc bấy lâu.
Từ luồng suy nghĩ ấy, con giáp này sẽ không ngừng nghỉ để níu giữ tình yêu. Có thể trải qua thử thách chia xa đó, người tuổi Mùi sẽ hiểu ai mới là một nửa đích thực và họ không thể sống nếu thiếu người đó.
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong.
1./ Ý nghĩa lễ húy kỵ - cúng giỗ:
Lễ húy kỵ còn gọi là nhật kỵ, húy kỵ, mệnh nhật, Kỵ thần, húy thần, đám giỗ, giỗ quải, đám quải, dọn đám giỗ
Chữ “Húy” theo tiếng tính từ có nghĩa là kiêng cữ, tránh không nói hoặc viết ra, cho nên mới nói: chữ húy, ẩn húy, tên húy, phạm húy.
Còn chữ “Kỵ” là kiêng cữ, giỗ chạp, đám kỵ, kỵ cơm, giỗ. Kỵ nhật tức là ngày giỗ, ngày cúng cơm người mất mỗi năm, thường thì tính theo âm lịch
Như vậy Húy Kỵ theo tiếng động từ là kiêng cữ, Húy nhật là ngày giỗ kỵ cúng cơm.
Ý nghĩa Lễ Giỗ Cúng giỗ là một buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời quan trọng của người Việt, được tính theo Âm lịch. Ngày này là ngày để thể hiện tấm lòng thủy chung, thương xót của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người mất cũng đã có lòng Thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương xót người đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để làm giỗ, không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Thân bằng, cố hữu của những người quá cố nếu thấy lưu luyến thì đến dự giỗ theo ngày đã định sẵn từ trước, không cần phải đợi đến thiệp mời như tiệc cưới, lễ mừng, không nên có chuyện hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo, nghĩa là mời thì đến, không thì thôi.
2./ Ngày cúng giỗ vào ngày nào?
Trong việc cúng vào ngày Giỗ thì bao gồm gồm 2 lễ quan trọng: Lễ Tiên thường (lễ cúng vào ngày trước ngày người chết qua đời 1 ngày), Lễ Chính kỵ (chính ngày mất).
Tiên Thường là ngày Cáo giỗ, ngày giỗ trước ngày người quá cố qua đời. Tiên Thường nghĩa là nếm trước, nếm thử, tức lễ cúng sơ sơ trươc ngày giỗ 1 hôm, như chúng ta thường nghe: cúng Tiên Thường, lễ Tiên Thường, hôm nay là ngày lễ Tiên Thường của thầy tôi, cha mẹ tôi…ngày mai là ngày Chính kỵ, mời các vị đến tham dự
Trong ngày này, con cháu cúng cáo giỗ để mời người đã khuất hôm sau về hưởng giỗ, xin phép Thổ công cho phép vong hồn người được giỗ và nội ngoại cùng về hưởng giỗ cùng con cháu. Ngày cúng cáo giỗ chỉ được áp dụng đối với giỗ trọng (tức những người hàng trên hoặc ngang hàng trưởng gia như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, chồng, vợ, anh, chị, em...) mà không cần thiết phải áp dụng đối với giỗ mọn (tức những người hàng dưới trưởng gia như con, cháu, chắt, chít...) mà chỉ cúng ngày chính giỗ. Vào ngày này, trưởng gia mang lễ ra mộ mời vong hồn về, sửa sang lại mộ phần cho ngay ngắn. Ngày này, bàn thờ được dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ từ sáng sớm để chuẩn bị cho việc cúng lễ Tiên Thường vào buổi chiều. Họ hàng nội ngoại thường gửi giỗ và sửa soạn để làm giỗ hôm sau. Lúc đầu sẽ cúng gia tiên và con cháu sẽ ăn uống với nhau. Phải cúng Công thần Thổ Địa trước, Gia Tiên sau. Bàn thờ lúc nào cũng hương khói nghi ngút cho đến hết lễ Chính Kỵ vào buổi sáng hôm sau. Khi cúng, Gia chủ cần phải cúng để mời người được hưởng giỗ trước, tiếp theo mới đến mời Gia tiên nội/ngoại từ bậc cao nhất đến thấp nhất và cáo thỉnh Gia thần cùng về đây để dự tiệc Giỗ.
Ngày Chính Giỗ còn được gọi là Chính Kỵ là ngày mất của người được giỗ. Điều bắt buộc trong cỗ cúng là phải có bát cơm úp và một quả trứng luộc kèm gia vị (ngày nay không bắt buộc). Gia chủ có thể mời khách khứa trong làng xóm, trong họ đến dự. Khách khi đến đều mang theo trà, cam, rượu... đến lễ giỗ. Khi khách đến thì đón đồ lễ đưa lên bàn thờ. Sau đó chủ nhà mời khách uống trà, ăn trầu hay bánh kẹo... Cỗ bàn được sắp thành từng mâm đặt trên chiếc cũi tầm, mỗi mâm có bốn hoặc sáu người ngồi ăn. Thành phần mâm cỗ gồm vài món ăn tinh khiết, thơm ngon mà chủ nhà đã chuẩn bị cùng với nước uống, bát đũa... Những người cùng lứa tuổi, ngôi vị được ngồi vào một mâm. Đàn ông và đàn bà không nên ngồi chung. Cỗ hay được làm vào buổi trưa có khi còn được lai rai đến buổi chiều. Sau khi khách ra về hết chủ nhà lên bàn thờ thắp thêm một tuần hương, lễ tạ xin hóa vàng. Có gia đình thường mời cả hai lễ Tiên Thường và Chính Kỵ, đôi khi lễ tiên thường đông hơn vì vào buổi chiều, khi làm xong việc thì tới nhà hàng xóm ăn giỗ tiện hơn. Có những gia đình cả hai vợ chồng được mời đến dự cả hai lễ, một người đi ăn lễ Tiên Thường và một người đi ăn lễ Chính Kỵ. Dần dần, người ta đã giản lược đi, chỉ mời khách đến dự trong một lễ nhưng vẫn cúng vàng hương, rượu trong cả hai lễ. Theo phong tục, lễ tiên thường phải cũng buổi chiều, lễ chính kỵ phải cúng buổi sáng kể cả khi đến chiều hoặc tối hôm đó mới mất.
Nguyên ngày trước, vào lễ “Tiên Thường”: con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa phương. Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ở mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng nơi.
Kết luận:
Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết.
Đại lâm Mộc là rừng cây chắn gió, cao vút hiên ngang che lấp Mặt Trăng, Mặt Trời. Mộc này sinh vào giao mùa xuân hạ phương Đông Nam, sinh trưởng thành rừng. Lấy Thổ làm gốc, Quý Sửu là núi. Nếu nạp âm không hình, xung, phá, hại chủ phúc hậu quyền quý. Gặp Canh Ngọ Lộ bàng Thổ là đắc lộc, chủ phú quý, tài lộc. Trụ khác có Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ, cần có thêm Nhâm Thân hoặc Quý Dậu Kiếm phong Kim, tất thành lương đống rường cột, là bậc nhân tài lại được trường thọ. Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Tỵ ưa Giáp Thìn Phúc đăng Hỏa, Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa; Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa, đều có thể trưởng thành dưỡng dục. Gặp đại, tiểu hạn cũng chủ về cát tường như ý. Trong tử vi Kỷ Tỵ không ưa Giáp Tuất, Kỷ Hợi Sơn đầu Hỏa, phạm vào chủ đoản thọ hoặc gặp hung họa. Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy; Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy chỉ có thể gặp 1, nếu gặp cả 2 Thủy này chủ bần tiện yểu mệnh, kỵ nhất Đại hải Thủy là lạc Không vong. Trong tử vi Kỷ Tỵ gặp Bính Ngọ, 2 lộc cùng đến, mệnh chủ phú quý. Là Mộc gần Hỏa, Kim tự sinh, kỵ gặp Hỏa sinh vượng gây tiết khí của Mộc, ưa gặp Kim, Thổ, có thể thành vật liệu, ưa gặp Mậu Thân, chủ phú quý, trường thọ. Tỵ mã tại Hợi, chi khác có Hợi, mã bị hình, không nên làm kinh doanh. Kỷ Tỵ Không vong tại Hợi, mã lạc Không vong, chủ một đời bôn ba. Chi khác có Tý, lộc bị hình phá, một đời túng thiếu. Trụ khác có Tân Hợi, là tượng hồ mực chảy ra suối vàng, văn chương xán lạn nên theo nghiệp văn, chỉ có điều là nhà văn nghèo. Trụ khác gặp Đinh Tỵ, là người dũng cảm. Chi khác có Ngọ, phạm Hàm trì, mệnh nam được nhà vợ kính trọng, mệnh nữ tình cảm bị cản trở. Kỷ Dương nhẫn tại Mùi, chi khác không ưa gặp Mùi, e rằng mắc bệnh hiểm nghèo mà tính mạng gặp nguy khó. Mỗi khi gặp năm Tỵ, Hợi trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà. Người sinh năm Kỷ Tỵ chọn bạn đời chớ gặp người sinh năm Giáp, Ất. Nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác
Theo Tử vi toàn tập Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Cát Phượng (##)
Món quà ngọt ngào có thể là một chiếc bánh chocolate handmade, một món ăn mà anh ấy yêu thích, chiếc khăn len do bạn tự đan, một album ảnh handmade.... Những món quà này tuy không đắt tiền nhưng lại gói ghém tất cả tình yêu và sự quan tâm của bạn dành cho chàng đó.
Áo sơ mi, cà vạt
Những chiếc áo sơ mi, cà vạt lịch lãm luôn luôn cần thiết với các chàng trai. Bạn có thể chọn mua những chiếc áo sơ mi để tặng cho bạn trai. Đặc biệt, bạn hãy quan tâm tìm hiểu số đo của bạn trai trước nhé.
Nước hoa
Nhiều bạn trai có thói quen sử dụng nước hoa. Vì vậy bạn có thể mua tặng anh ấy một loại nước hoa nam tính ở cửa hàng.
Giày
Bạn hãy quan sát trang phục mà anh ấy thường mặc để lựa chọn một đôi giày hợp lý, đúng kích cỡ.
Ví da, dây lưng
Ví da gắn liền với mong muốn thành đạt của các chàng trai. Bạn có thể mua một chiếc ví với màu sắc phù hợp để anh ấy luôn mang theo bên mình.
Nếu hai bạn đã gắn bó với nhau trong một thời gian dài thì có thể mua món quà tế nhị hơn là dây lưng để tặng chàng.
Chúc các bạn lựa chọn được món quà Valentine tặng bạn trai, chồng ưng ý!
12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được
Để thấu hiểu và chiều lòng những người phụ nữ xung quanh bạn như bạn gái, em gái hay mẹ thì nhất định phải đọc vị 12 chòm sao nữ thông qua những nét tính cách
Những người phụ nữ cung Bạch Dương thích di chuyển và đây là lý do bạn bè thân thiết của họ là những người có lối sống năng động giống Bạch Dương. Họ không chịu đựng được những người chậm chạp, ù lì và cũng không thích ở một nơi quá lâu. Thích thay đổi là thế nhưng phụ nữ cung Bạch Dương là người bạn chân thành, người tình chung thủy. Họ thích là người kiểm soát những mối quan hệ này bằng sự nhiệt tình và vô cùng nhiệt huyết của mình. Luôn chủ động và tràn đầy đam mê là đặc điểm dễ thấy của những cô nàng cung Bạch Dương. Đối với họ, sự độc lập đồng nghĩa với hạnh phúc. Họ không chịu được sự gò bó hay có ai đó kiểm soát, chỉ bảo họ. Và đó là lý do họ thường trốn tránh việc kết hôn cho tới thời điểm việc đó là thực sự cần thiết.
Xem thêm: Những mặt tối cung Bạch Dương muốn giấu cũng không được
Cung Kim Ngưu nữ
Đối với những người phụ nữ cung Kim Ngưu, gia đình là điều vô cùng quan trọng đối với họ và họ sẽ cố làm mọi thứ như chuẩn bị bữa ăn ngon, nhà cửa sạch sẽ để đảm bảo một cuộc sống gia đình ấm êm, thuận hòa. Họ là những người chăm chỉ và sống hết mình cho bạn bè và gia đình. Kim Ngưu sáng tạo, lãng mạn, sống thiên về cảm xúc. Cô ấy cũng khá độc lập và muốn cuộc sống diễn ra theo cách riêng của mình. Họ cũng luôn giữ tinh thần lạc quan nên mỗi lần gặp họ bạn dều thấy họ tươi cười vui vẻ.
Cung Song Tử nữ
Phụ nữ cung Song Tử thực sự là người phức tạp. Họ là con người kết hợp giữa sự thông minh, giỏi giao tiếp, sống khao khát, nhờ đó, điều đó mang lại cho họ tinh thần chiến đấu rất cao, sẵn sàng đối mặt với những trở ngại và những cuộc phiêu lưu. Những cô nàng cung Song Tử rất tò mò và luôn mong muốn tìm hiểu những điều mới lạ. Để đi tìm những kiến thức mới, họ ham mê đọc sách. Họ dễ bị thay đổi cảm xúc hơn bất kỳ ai trong bất kỳ 12 cung hoàng đạo nữ. Họ luôn sẵn sàng đi du lịch hoặc học một ngôn ngữ cũng như những kỹ năng mới.
Cung Cự Giải nữ
Cự Giải rất biết cách xử sự với những người khó tính hay giải quyết những vấn đề khó khăn. Cô ấy có thể là một người phụ nữ rất cảm xúc, nhưng đồng thời cô ấy là một người phụ nữ quyết tâm. Sự bền bỉ này vẫn tiếp tục trong tình bạn của cô ấy. Họ có trái tim nhân hậu và có sức hút đặc biệt với những người tương tự như mình. Từ bé, họ đã bộc lộ ra rằng mình rất yêu thương và quan tâm đến bạn bè cũng như người thân trong gia đình. Người phụ nữ cung Cự Giải thường có một thái độ khá bình tĩnh trước mọi vấn đề có thể xảy ra. Tuy nhiên, điểm yếu của họ là ngại giao tiếp, rất nhút nhát khi nói chuyện với mọi người.
Tham khảo thêm bài viết sau: Tiết lộ về con người cung Cự Giải nam
Cung Sư Tử nữ
Cung Sư Tử nữ luôn muốn mình là trung tâm của mọi sự chú ý. Cô ấy thích nói lớn và luôn đầy năng lượng. Họ rất dễ tính và hướng ngoại, nhờ tính cách này mà họ càng được nhiều người biết đến, thỏa mãn sở thích được chú ý của Sư Tử. Những cô nàng cung Sư Tử luôn sẵn sàng đối mặt với những thách thức mới trong cuộc đời. Họ là người mạnh mẽ và độc lập, thích được làm chủ mọi vấn đề và không muốn làm theo bất cứ ai. Tuy nhiên, họ chỉ cần kiểm soát tính hung hăng của mình mỗi khi mong muốn mọi người tôn trọng, lắng nghe mình.
Cung Xử Nữ nữ
Những cô nàng Xử Nữ có thể làm hạ cơn giận của bất cứ ai bằng giọng nói êm dịu và sự quan tâm nhẹ nhàng. Họ có khả năng đặc biệt trong việc "dẹp loạn". Cô ấy rất đơn giản, hào phóng. Vốn là người thực tế nên họ luôn sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp nhất có thể xảy ra. Phụ nữ cung Xử Nữ trung thực, tỉ mỉ và có đầu óc tổ chức, sắp xếp. Đây là ưu điểm nổi trội của những người thuộc cung hoàng đạo này so với 12 chòm sao nữ còn lại.
Cung Thiên Bình nữ
Những người phụ nữ cung Thiên Bình rất giỏi trong việc tạo không khí hài hòa và khôi phục sự cân bằng trong cuộc sống. Cô ấy phù hợp với những công việc đòi hỏi hòa giải. Họ luôn tin tưởng vào việc giải quyết tranh luận một cách hài hòa. Người phụ nữ cung Thiên Bình không bao giờ bị lúng túng bởi những lời nói “làm màu” của bất cứ ai hay những lời cầu xin đầy mủi lòng. Họ luôn mong có cuộc sống cân bằng và thanh bình vì thế, không bao giờ họ muốn xúc phạm hay cõi cọ với ai nhằm mục đích có được môi trường hài hòa, vui vẻ. Có đôi lúc họ lạnh lùng và xa cách vì như thế mới mang lại cho họ cảm giác an toàn. Xem thêm: Phản ứng của 12 chòm sao khi gặp chân tình
Cung Hổ Cáp nữ
Hổ Cáp cực kỳ chu đáo và hào phóng với bạn bè của cô ấy, và sẽ trả lại bạn gấp mười lần cho sự tử tế nhỏ nhoi. Cô ấy có thể bí mật trong giao dịch của mình và không sẵn sàng chia sẻ cuộc sống cá nhân của cô ấy một cách dễ dàng. Tính cách năng động của cô làm cho cô trở thành một ông chủ mà không nghi ngờ gì. Phụ nữ là những cá nhân độc lập và quyết tâm. Cô ấy dẫn dắt cuộc sống không cân bằng. Gần như mọi khía cạnh của cuộc sống của cô dường như đang ở trên cùng hay khác. Cô ấy là một nhà lãnh đạo giỏi và có kỹ năng giao tiếp tuyệt vời.
Cung Nhân Mã nữ
Người phụ nữ Nhân Mã là những người sành điệu là thích chia sẻ những câu chuyện về xu hướng thông qua những cuộc trò chuyện của mình. Họ là người ưa mạo hiểm, thích cuộc sống với những chuyến phiêu lưu, vì thế thực sự là người bạn thú vị ngay từ lúc mới tiếp xúc. Tính cách đặc trưng của những cô nàng Nhân Mã đó là sự tò mò, họ có cái nhìn triết lý về cuộc sống và bản thân mình, và sẽ áp dụng một cách logic vào cuộc sống của họ một cách thường xuyên. Tư duy của họ khá rõ ràng vì thế họ cũng không ngại nói ra những suy nghĩ của mình với bất cứ ai.
Cung Ma Kết nữ
Bạn bè của Ma Kết chắc chắn sẽ cảm thấy vinh dự khi có người bạn như họ, vì họ là những người sống chân thành, mạnh mẽ, biết yêu thương, quan tâm tới người khác.
Cô ấy không phải là dễ thể hiện cảm xúc của mình đối với mọi người. Vì vậy cô ấy có thể bị hiểu nhầm là xa cách và thờ ơ nhưng thực tế không phải như vậy. Họ có trái tim ấm áp và coi trọng gia đình.Là người bản lĩnh, họ luôn quyết tâm hoàn thành bất cứ mục tiêu nào đã đề ra. Ngoài ra họ là người chăm chỉ và tháo vát với mức độ tự tin cao.
Cung Bảo Bình nữ
Những phụ nữ thuộc cung Bảo Bình sẽ nghĩ, cảm nhận và làm bất cứ điều gì cô ấy hài lòng mà không phải lo lắng về việc những người khác đánh giá về mình như thế nào. Cung Bảo Bình nữ là một trong những người độc đáo và sáng tạo nhất trong 12 chòm sao nữ. Cô ấy là người thích hợp để bạn tìm đến khi gặp những vấn đề mà không ai có thể giúp bạn. Họ chỉ hanh phúc khi cảm nhận được sự tự do, thoải mái. Họ rất thông minh, sáng tạo và là một người biết lắng nghe. Và họ không quan tâm nhiều đến sự ổn định tài chính.
Cung Song Ngư nữ
Cung Song Ngư nữ là những người sáng tạo, trực quan, và luôn luôn tìm cách để thể hiện cá tính của mình. Nhờ sự nhạy cảm và óc quan sát, ho rất hiểu tâm lý mọi người và sẵn lòng giúp bất cứ ai thoát khỏi rắc rối. Song Ngư là người chín chắn và phức tạp nhất trong 12 chòm sao nữ. Có đầu óc sắp xếp và logic, Song Ngư nữ luôn có vẻ biết những gì họ làm ngay lúc này và cả những bước tiếp theo. Kate Nguyễn
12 cung hoàng đạo nếu làm chồng sẽ như thế nào12 cung hoàng đạo đi xe gì cho “hợp với dáng em”Bí kíp làm đẹp sinh ra để dành riêng cho 12 sao nữ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Trong cuộc sống hiện thực, các hình phạt thường khiến người ta sợ hãi và bị ám ảnh. Thế nhưng, trong giấc mơ thì hình phạt chưa chắc đã là điềm xấu, tốt hay dữ còn phụ thuộc vào việc bạn mơ thấy bị phạt như thế nào.
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát
Nam đã kết hôn mơ thấy mình bị trừng phạt là cát mộng, sắp được công thành danh toại. Nữ mơ thấy mình bị trừng phạt là sắp xảy ra mâu thuẫn với chồng. Mơ thấy đối thủ của mình bị trừng phạt là bạn đã sắp thành công, đối thủ sắp phải đầu hàng. Người bị khống chế mơ thấy mình bị trừng phạt thì cơ hội trốn thoát sắp đến, bạn nên nhanh chóng nắm bắt lấy nhé.
Ảnh minh họa
Mơ thấy mình bị nhận bản án phạt lại là điềm tốt, tất cả khó khăn mà bạn đang phải đối mặt sẽ sớm qua đi. Nam mơ thấy vợ mình bị trừng phạt thì là tin vui, sắp tới sẽ được thừa kế đồ quý báu của nhạc phụ. Nữ mơ thấy chồng mình bị trừng phạt ngụ ý sắp sinh con gái. Mơ thấy bạn bè bị trừng phạt ám chỉ sắp tới bạn có thể sẽ gặp phải nguy hiểm lớn. Mơ thấy trừng phạt vợ tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tôn trọng lẫn nhau. Mơ thấy trừng trị người bạn thân cảnh báo trong gia đình sắp xảy ra cãi cọ.
Bí ẩn giấc mơ nợ nần Trong cuộc sống hiện thực, chả ai vui vẻ khi mang trên mình một món nợ nào đó. Giấc mơ về sự nợ nần cũng không phải là giấc mơ đẹp. Mơ thấy quan tòa tuyên án phạm tội là sắp được thăng chức tăng lương. Mơ thấy mình trừng trị đối thủ dự báo bạn sắp được đề bạt một chức vị mới. Mơ thấy mình trừng phạt cấp dưới có nghĩ rằng bạn sắp bị tổn thất lớn vì một âm mưu nào đó. Mơ thấy mình không bị trừng phạt là đại hung, cảnh báo đại nạn sắp rơi vào đầu. Mơ thấy mình chấp nhận hình phạt thì sẽ mất đi bạn bè hoặc người ủng hộ.Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Không ít người tới với Phật như một cứu cánh về tinh thần, cuộc sống bế tắc tới cầu Phật, muốn thành công tốt đẹp tới xin Phật, khó khăn hoạn nạn tới khấn Phật sao cho tai qua nạn khỏi. Phật pháp nhiệm màu liệu có phải là cầu gì được nấy, muốn gì có nấy như vậy hay không?
1. Thế nào là Phật pháp nhiệm màu?
Phật pháp nhiệm màu với nhiều người là sự thần thông quảng đại, chúng Phật nghe thấu, hiểu rõ tiếng lòng tiếng khổ của chúng sinh và ra tay giúp đỡ, giải quyết mọi khó khăn hoạn nạn. Nhưng liệu chỉ quỳ dưới chân Phật, cầu khấn van xin thì mọi việc sẽ hanh thông, cuộc đời sẽ may mắn?Nếu vậy thì hẳn trên đời không có người đau khổ, nghèo hèn, không có ai là mất mát buồn thảm. Tiếc rằng cách hiểu ấy hoàn toàn chẳng đúng chút nào. Phật giáo như bất cứ tôn giáo nào khác, Đức Phật như bất cứ thánh thần nào khác, đều không có nhiệm vụ “giải cứu thế giới”, không phải người ra tay che chở tất thảy chúng sinh.Phật giáo là đạo giác ngộ, Đức Phật là vị thần thánh hướng dẫn giác ngộ. Giác ngộ về tinh thần dẫn tới giác ngộ về hành động mới là yếu tố cơ bản nhất giúp con người tự hoàn thiện bản thân mình cũng như tự thoát khỏi những khốn khó của cuộc sống. Quyền năng của Phật pháp chính là dẫn dắt ý chí, định hướng con người tới chân – thiện mĩ như vậy. Xem thêm bài viết Ý nghĩa danh xưng "Phật" - không phải ai cũng biết
2. Con đường đến với Phật pháp nhiệm màu
Phương tiện để đi đến sự giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ giúp con người nhìn nhận sâu sắc và thấu hiểu mọi vấn đề. Trí tuệ là nền tảng cơ bản của sự sáng suốt, tỉnh táo, kiểm soát dục vọng và loại bỏ nghiệp ác. Người có trí tuệ là người giác ngộ nhanh nhất, cũng nhận thấy rõ ràng nhất sự kì diệu của Phật pháp.Người hiểu luân lý nhà Phật không cầu xin ở Đức Phật bất cứ điều gì, chỉ mong được soi đường chỉ lối, hướng dẫn để tu dưỡng đúng đạo. Vì thế Phật giáo là đạo bồi dưỡng và khuyến khích trí tuệ của chúng sinh. Có hai loại trí tuệ: trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư.Trí tuệ hữu sư là trí do học hỏi từ những người xung quanh, từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, cuộc sống,…. Thông qua những lời chỉ dẫn, những kinh nghiệm thực tiễn, những bảo ban ấy mà chúng ta dần tích lũy được kiến thức riêng cho mình.Trí tuệ vô sư là trí có sẵn trong mỗi con người ngay từ khi sinh ra. Ví dụ như “nhân tri sơ tính bản thiện”, lương thiện cũng là một loại trí tuệ, mà còn là trí tuệ quý giá mà bất cứ ai cũng sở hữu. Nhưng loại trí tuệ này không có người dẫn đường thì dễ bị quên lãng nên cần tới Phật, Bồ Tát hay các vị tăng sư, những người truyền giáo tới dìu dắt, khai mở loại trí tuệ này.
Khi có trí, nhận ra bản chất của cuộc đời, tự mình vượt khó vượt khổ tìm thấy sự an yên, bình thản. Nhờ Phật pháp tỉnh mộng trăm năm, khơi dậy cả trí hữu sư và trí vô sư, chuyển từ mê sang ngộ, chuyển từ sai lầm sang đúng đắn, chuyển từ khờ dại sang khôn ngoan, chuyển từ ác nghiệp sang hạnh lành. Đó mới địch thực là sự màu nhiệm của Phật pháp.
Xem thêm bài viết 10 đạo lý kinh điển của nhà Phật ai ngẫm cũng thấy đúngLà người hướng Phật, quỳ dưới chân tam bảo, cúng dường đọc kinh hàng ngày phải hiểu được đạo lý này. Con người tự bản thân đều có Phật tính, thông qua tu dưỡng mà Phật tính được bộc lộ đó là điều đáng quý nhất của việc tu hành, tin Phật. Những người miệng đọc kinh cầu nhưng lòng có tà niệm, không học hỏi, không giác ngộ thì tuyệt đối không có ý nghĩa gì.Sự nhiệm màu của tâm linh nằm ở tâm ý tương thông, giữa tâm hồn và đạo có sự ăn ý, thấu hiểu và quán triệt. Phật giáo là tôn giáo khuyến khích tất cả mọi người học tập trí tuệ, bởi chỉ có trí con người mới không ngu muội, không dung túng cho cái xấu và cái ác, không mê lầm lạc lối. Người học đạo, đạo ứng với người, tất cả những bị Phật, Bồ Tát đều thành chính quả nhờ khắc khổ tu hành, đều từ người bình thường trở thành đấng siêu nhiên. Vì thế, sở cầu đắc sở nguyện, những điều mong muốn nếu thực sự tha thiết, thực sự khẩn khoản để trở thành hiện thực, chỉ có con đường giác ngộ. Quỳ dưới chân Phật không làm cuộc đời tốt đẹp hơn, Phật pháp chỉ nhiệm màu khi con người hiểu được ý nghĩa cơ bản của Phật giáo.
Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốtMa quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữNhững bài kinh Phật hay cho Phật tử tu tại giaTâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Trong phong thủy, đôi uyên ương tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng bền vững, sự gắn bó hạnh phúc trong hôn nhân. Bạn có thể tìm thấy rất nhiều hình ảnh đôi uyên ương trên các tác phẩm thủ công mỹ nghệ của Hồng Kông, vì ai cũng muốn bài trí những vật
Trong phong thủy, đôi uyên ương tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng bền vững, sự gắn bó hạnh phúc trong hôn nhân. Bạn có thể tìm thấy rất nhiều hình ảnh đôi uyên ương trên các tác phẩm thủ công mỹ nghệ của Hồng Kông, vì ai cũng muốn bài trí những vật dụng có đôi uyên ương, với mong muốn mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc sống hạnh phúc gia đình.
Treo bức tranh có đôi uyên ương ở góc Tây Nam của phòng ngủ sẽ tạo ra năng lượng tốt bồi dưỡng cho cuộc sống tình cảm của bạn. Nhiều người Hoa trước đây cho rằng nếu ai còn độc thân thì nên treo tranh uyên ương hoặc mua một đôi uyên ương bằng gỗ đặt trong phòng ngủ.
Lưu ý là chỉ sử dụng một đôi, không được dùng một hoặc ba con. Lý do là treo hoặc trưng chỉ một con trống hay mái chỉ hàm ý là người treo sẽ sống độc thân mãi mãi, còn ba con hàm chỉ trong cuộc hôn nhân sẽ có kẻ thứ ba chen vào. Muốn thu hút người khác phái, hãy để một đôi uyên ương trong phòng ngủ của mình.
Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tài hoa và tương đối thông minh. Trán nhẵn và rộng thể hiện sự phóng khoáng, cao quý. Những người có tướng mạo thế này rất hợp với cuộc sống trong gia đình quyền quý. Họ có khả năng ứng khó với các quy tắc mà không thất lễ với những người trong gia đình. Những người con gái có tướng mạo thế này cũng rất được cánh mày râu ưa thích. Có thể nói họ là những mỹ nhân có khí chất, và rất có ưu thế trong các mối quan hệ giao tiếp.
2. Mắt to, mày dài, lông mi cong
Rất nhiều người nói, lông mày là nơi để giao lưu tình bạn. Nếu người con gái có lông mày dài, mỏng và đôi lông mi cong thì vô cùng có khí chất. Cho dù làm bất cứ việc gì, họ cũng không dễ dàng lùi bước hoặc từ bỏ. Nếu có thêm cặp mắt to thì lại càng có sức sống hơn. Rất nhiều đàn ông chết mê chết mệt vì những người con gái vừa hấp dẫn vừa tràn đầy sức sống này. Người ta sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở bên họ. Vì thế, những người con gái này rất thuận lợi trên phương diện tình cảm.
3. Gò má cao vừa phải Nếu trán và cằm đã tương đối đẹp thì cần phải phối hợp với xương gò má. Mỗi người đàn ông luôn cần một cô vợ đảm, mà hai bên gò má của người phụ nữ chính là sự động viên của người chồng. Xem tướng cho răng, gò má của người phụ nữ không được phép quá cao. Những người phụ nữ có hai bên má cao vừa phải sẽ là những người nội trợ đảm đang, là hậu phương vững chắc cho người chồng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
4. Hai cằm
Rất nhiều cô gái có hai cằm nhưng đã giảm cân vì muốn xinh đẹp hơn, thậm chí còn đi phẫu thuật thẩm mỹ để bỏ hai cằm. Nhưng họ không biết rằng hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài. Những người con gái có hai cằm còn được gọi là những người có tướng giúp chồng. Nó không chỉ đem lại may mắn cho bản thân, mà còn giúp cho sự nghiệp của chồng. Những người con gái có tướng mạo như vậy thì sẽ luôn có tài vận tốt.
5. Ngón tay dài
Rất nhiều người nói con gái có ngón tay dài thì vất vả, không có vận mệnh tốt. Thực ra không phải như vậy. Những người con gái có ngón tay dài, thon đa phần đều chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Ngón tay dài tức là giữ được tiền, có khả năng kiếm tiền rất tốt. Ấn tượng đầu tiên của mọi người đối với những cô gái này là sự thục nữ. Trong sự nghiệp, họ nhất định sẽ thuận buồm xuôi gió.
Phòng cần phải đẹp, căn phòng đẹp có thể khiến con người cảm thấy an nhàn, thoải mái và ấm áp. Cũng giống như con người, căn phòng sau khi được trang hoàng mới trở nên tráng lệ. Tuy nhiên, mọi người thường chú trọng đến việc trang điểm cho chính mìn
h mà bỏ quên việc tô điểm cho căn phòng mình ở; hay cho dù có coi trọng việc đó thì cũng không biết bắt đầu từ đâu.
Để khiến ngôi nhà là mái ấm đẹp, dễ chịu thì phải bỏ công sức quan tâm đến. Làm đẹp cho căn phòng có quy luật nhất định nhưng không phải là không thể thay đổi được. Bạn có thể căn cứ vào kinh nghiệm của mình cộng với tham khảo để tạo cho mình một khoảng không gian riêng như ý.
(1) Lấy ánh sáng, vệ sinh
Căn phòng ngoài ngăn nắp sạch sẽ, không bám bụi ra thì ánh sáng đầy đủ là điều vô cùng quan trọng. Nếu cửa sổ nhỏ, lấy ánh sáng không đủ nên sử dụng các đồ màu nhạt và bố trí đèn có ánh sáng mạnh.
(2) Kinh tế, hợp lý
Tất cả đồ đạc và việc sắp đặt chúng phải thuận tiện theo yêu cầu của cuộc sống; không gian phải sử dụng một cách kinh tế, có hiệu quả; cho dù là không gian nhỏ cũng không được biến thành góc chết.
(3)Bài trí đơn giản
Bài trí trong phòng phải có điểm nhấn, có trật tự, đồ đạc không nên quá nhiều, nếu không sẽ có cảm giác bừa bộn. Sự bài trí đồ đạc trong mỗi phòng phải thể hiện được phong cách của phòng đó chứ không được chất đồ lung tung, chẳng hạn phòng ăn không nên để dụng cụ làm vườn, phòng ngủ không nên để đồ làm bếp.
(4)Hài hòa, thống nhất
Đồ đạc lung tung chắc chắn là không đẹp, chất liệu và hình dáng của đồ dùng trong nhà và đồ trang trí dệt may tốt nhất nên thống nhất để thể hiện được cái đẹp của sự hài hòa.
(5)Phối hợp nhịp nhàng
Các loại đồ dùng phải có tỉ lệ thích hợp mói tạo cảm giác hài hòa.
(6) Đối xứng
Việc sắp xếp đồ đạc phải cân bằng, ví dụ hai bên phải đặt ghế sofa có kích cỡ giống nhau, cốc quanh ấm trà phải có kích cỡ thích hợp tạo cảm giác hài hòa, dễ chịu.
(7)Màu sắc hài hòa
Màu sắc trong và ngoài phòng phải hài hòa cân xứng, mỗi căn phòng lại có màu sắc vui mắt riêng nhưng nguyên tắc là mỗi phòng không nên sơn quá hai màu.
(8)Tạo cảm giác
Có 3 thứ có thế tạo cảm giác, đó là màu sắc, đèn và sự bài trí đồ đạc, trong đó đèn là công cụ tốt nhất để điều tiết tình cảm.
(9) Đan xen, thay đổi
Đồ dùng trong nhà tuy cố gắng làm sao cho đơn giản, thống nhất, nhưng cũng phải có sự thay đổi và phối hợp đan xen, ví như sự đan xen thú vị giữa các đồ dùng trong nhà, con người cố ý tạo ra sự cao thấp không giống nhau, màu sắc không giống nhau như vậy mới tạo được cảm giác đẹp mới lạ.
Thập Ác Đại Bại là gì, phạm phải mệnh xấu khôn lường
Theo Tam Mệnh Thông Hội: Thập Ác Đại Bại là phạm vào 10 tội lớn, không thể xá miễn ví như trong binh pháp, khi giao chiến với địch, đại bại là không sống sót.
Theo sách Tam Mệnh Thông Hội: "Thập Ác Đại Bại là phạm vào 10 tội lớn, không thể xá miễn; giống như trong binh pháp, khi giao chiến với địch, đại bại là không ai sống sót, ví với điều rất xấu".
Tranh cát tường
Cách xem Thập Ác Đại Bại là lấy năm sinh kết hợp với ngày sinh để định. Ví dụ, sinh vào ngày Giáp Thìn của năm Canh Tuất, chủ nhân sẽ phạm vào Thập Ác Đại Bại.
Cụ thể như sau:
1. Năm Canh Tuất gặp ngày Giáp Thìn
2. Năm Tân Hợi gặp ngày Ất Tỵ
3. Năm Nhâm Dần gặp ngày Bính Thân
4. Năm Quý Tỵ gặp ngày Đinh Hợi
5. Năm Giáp Tuất gặp ngày Canh Thìn
6. Năm Giáp Thìn gặp ngày Mậu Tuất
7. Năm Ất Hợi gặp ngày Tân Tỵ
8. Năm Ất Mùi gặp ngày Kỷ Sửu
9. Năm Bính Dần gặp ngày Nhâm Thân
10. Năm Đinh Tỵ gặp ngày Quý Hợi
Trong 10 trường hợp trên, bất kể là tháng sinh, giờ sinh như thế nào thì đều là mệnh xấu.
Văn Khấn Bồi hoàn địa mạch dùng khi đào lấp ao, khơi rãnh, xây tường không may làm tổn thương đến Long Mạch, thì những người sống trong gia đình đó dễ gặp tai hoạ, vận rủi, điềm xấu… Do đó gia chủ phải làm lễ bồi hoàn địa mạch để giải trừ tai hoạ, vận xấu.
Sắm lễ cúng Bồi hoàn địa mạch
Để tránh được tai họa thì gia chủ phải lấy nước ở ba con sông, hoà với năm loại đất linh để nặn Thần Quy (Thần Rùa), cho chỉ 5 màu vào thân Rùa.
Sau đó, chọn các ngày Thiên Xá, Thiên Nguyên, Địa Nguyên, Cường Nhật, Trùng Mậu, Trùng Kỷ rồi tìm nơi đào đất tạo thành hố bày lễ hoa quả ứng với Ngũ Hành (gồm 5 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen hoặc tím) cùng lễ mặn ứng với Ngũ Hành, hoa 5 màu, hương, vàng mã… cạnh hố khấn cầu theo bài văn khấn bồi hoàn địa mạch.
Văn Khấn Bồi hoàn địa mạch
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Đức U minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát
– Con kính lạy Đức Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy các Ngài Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ nhạc thánh đế, Nhị thập tứ khí phần quan, Địa mạch thần quan, Thanh Long Bạch Hổ, chư vị thổ thần cùng quyến thuộc.
– Con kính lạy các ngài Kim Niên Đương cai Tôn thần, Bản cảnh Thành hoàng Tôn thần và các vị thần minh cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:……
Ngụ tại:……………………
Hôm nay là ngày…. Tháng…. Năm…, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án, xin điền hoàn địa mạch. Tín chủ có lời thưa rằng:
Bởi vì trước đây
Do tinh mờ mịt
Thức tính hồn mờ
Đào đất lấp ao
Gầy nên chấn động
Hoặc bởi khách quan
Hoặc do chủ sự
Tổn thương Long Mạch
Mạo phạm thần uy
Ảnh hưởng khí mạch
Nay muốn cho phong thổ an hoà, gia đình chúng con mọi người được an bình, miễn trừ tai họa, nên tín chủ con trượng uy Đại Sỹ, nương đức Tôn thần, cung tạo bồi hoàn, nhương kỳ khẩn đảo thần công, nguyện xin bảo hộ, chứng minh sám hối, thụ hưởng đan thành.
Tín chủ chúng con xin thành tâm cúng dâng Ngài
U minh Giáo chủ Bản tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát
Ngài Kiên Lao địa thần Bồ Tát, các Ngài Ngũ phương,
Ngũ đế, Hậu Thổ nguyên quân, Sơn nhạc Đế quân,
Đương phương Thổ địa, Thổ phủ Thần kỳ, 24 Khí
Thần quan, 24 Long Mạch Thần quan, 24 Địa Mạch
Thần quan, 24 Sơn Địa Mạch Thần quan, 24 Hướng
Địa Mạch Thần quan, Thanh long Bạch hổ, Thổ bá,
Thổ hầu, Thổ mãnh, Thổ trọng Thần quan, Thổ phụ,
Thổ mẫu, Thổ lương, Thổ gia Thần quan, Thổ tử,
Thổ tôn, Thổ khảm, Thổ khôn Thần quan,
Thổ kỳ Ngũ phương Bát quái và các Thần minh quyến thuộc,
Kim niên Hành khiển Thái tuế chư đức Tôn thần,
Đương cảnh Thành hoàng bản thổ Đại Vương và tất cả các vị Thần minh cai quản khu vực này,
Cúi xin thương xót tín chủ chúng con, nhận lời cầu thỉnh, chuẩn tâu sám tạ, giáng phó án tiền, hưởng lễ vật. Nguyện cho:
Phong thổ phì nhiêu
Khí sung mạch vượng
Thần an tiết thuận
Nhân sự hưng long
Sở cầu như ý.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.