Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Sửu –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Phong thủy của phòng ngủ chính được coi là một trong nơi quan trọng nhất trong một ngôi nhà. Trong khi phong thủy của phòng khách sẽ ảnh hưởng đến người chồng thì phong thủy của phòng ngủ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và mối quan hệ của cặp đôi, và thậm chí cả sự sinh con đẻ cái. Có rất nhiều nguyên tắc phong thủy cho phòng ngủ chính. Dưới đây là tám nguyên tắc quan trọng nhất:
1. Ánh sáng không thể quá sáng
- Không giống như phòng khách, ánh sáng trong phòng ngủ chính không thể quá sáng, vì đây là một căn phòng để bạn cảm thấy thanh thản và cảm thụ. Nếu ánh sáng quá sáng trong phòng ngủ chính, nó sẽ gây ra các vấn đề trong mối quan hệ và sức khỏe.
2. Diện tích không quá lớn cũng không quá nhỏ
Nếu diện tích phòng ngủ chính là quá lớn, điều này sẽ gây ra những hành vi phản bội cả về tinh thần lẫn thể xác. Ngoài ra, những tin đồn và khó khăn trong công việc cũng bủa vây lấy bạn. Mặt khác, nếu diện tích phòng ngủ chính là quá nhỏ, điều này sẽ tạo ra hành vi hẹp hòi của chồng với vợ.
3. Không để đèn chùm thẳng trên giường
Nếu có một chùm ở phía trên giường, nó sẽ gây ra vấn đề sức khỏe cho các cặp vợ chồng, đặc biệt là các bệnh ở đầu và hệ thần kinh. Điều này cũng sẽ khiến chất lượng giấc ngủ bị ảnh hưởng. Và vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất trong công việc hàng ngày.
Lưu ý: Trong phong thủy, các chùm tia được coi là mang yếu tố gỗ. Như vậy, nếu bạn mệnh Mệnh, ngủ dưới đèn chùm sẽ ít bị ảnh hưởng.
4. Không có dựa đầu giường
Theo phong thủy truyền thống thì phải có một chỗ dựa vững chắc ở đầu giường, giống như một bức tường. Nếu phía đầu giường là cửa kính hoặc có không gian trống phía sau đầu giường sẽ gây ra sự thiếu liên kết hai vợ chồng. Trong trường hợp còn độc thân, anh/cô ấy sẽ gặp khó khăn để thu hút nửa kia của đời mình.
5. Cửa phòng ngủ không thông thoáng
- Nếu cửa phòng ngủ luôn luôn bị chặn bởi các đối tượng hoặc đồ nội thất, bên cạnh việc gây ra xui xẻo, điều này sẽ khiến vợ chồng hiểu lầm nhau. Nhiều lần, một trong hai người sẽ có xu hướng không muốn ở nhà.
6. Không để gương đối diện với cửa phòng ngủ
Nếu gương là điều đầu tiên mà ai đó nhìn thấy khi bước vào phòng ngủ, điều này chỉ ra rằng sẽ có người thứ ba xen vào giữa hai người. Nếu còn độc thân thì sẽ phải rất lâu nữa bạn mới tìm được người yêu.
7. Không treo tranh trừu tượng hoặc thư pháp
- Trong phong thủy, treo thư pháp thể hiện sự cô đơn. Ngoài ra, tranh trừu tượng khiến đầu óc luôn có cảm giác mông lung và rối rắm.
8. Không treo hình ảnh cô gái xinh đẹp ở hai bên giường
Điều này sẽ thu hút năng lượng âm xui xẻo và gây ra các vấn đề sức khỏe. Nếu đã kết hôn, một hoặc cả hai người sẽ được đà thúc đẩy ngoại tình.
► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc |
![]() |
![]() |
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
![]() |
Ø Nhân trung là ngòi rạch của một thân người, ngòi rạch khai thông, thì đường nước chảy chẳng lấp; nếu nông hẹp chẳng sâu thì đường nước phải nghẽn.
Ø Nhân trung là cung Thọ mệnh của Nam nữ đó.
Ø Nhân trung rộng hay là hẹp, dài hay ngắn, có thể đoán được trai hay gái, nhiều hay là ít, thọ mệnh dài hay là ngắn. Cho nên muốn dài mà chẳng muốn co, trong sâu, ngoài rộng và buông xuống, đều là tướng hay vậy.
Ø Nhỏ và hẹp là tướng ăn mặc bức bách;
Ø Đầy mà phẳng là tướng Tai ách truân chuyên, trên hẹp
Ø Dưới rộng, là tướng nhiều con cháu;
Ø Trên rộng, dưới hẹp, là tướng ít con cháu;
Ø Trên, dưới đều hẹp, mà lòng giữa rộng, là tướng con cháu tật khổ mà khó thành đạt;
Ø Trên, dưới thẳng mà sâu là tướng con cháu đầy nhà;
Ø Trên, dưới phẳng mà nông là tướng con cháu chẳng thành.
Ø Sâu mà dài là tướng sống lâu;
Ø Nông mà ngắn là tướng chết yểu.
Ø Nhân trung khuất khúc là tướng người vào tín;
Ø Nhân trung ngay thẳng là tướng người trung nghĩa
Ø Ngay mà dủ xuống là giàu và thọ;
Ø Găn mà co lên là tướng hèn và yểu;
Ø Sáng như mảnh tre chẻ, là tướng ăn lộc hai ngàn hộc;
Ø Nhỏ như cây kim treo, là tướng tuyệt tự và bần cùng;
Ø Trên có Nốt ruồi đen, là tướng nhiều con trai;
Ø Dưới có Nốt ruồi đen là tướng nhiều con gái;
Ø Giữa có Nốt ruồi đen là tướng lấy vợ dễ, mà nuôi con khó
Ø Có hai Nốt ruồi đen là tướng đẻ sinh đôi;
Ø Có thớ ngang là tướng tới già không con;
Ø Có thớ dựng là tướng phải nuôi con người khác;
Ø Có thớ dọc là tướng sinh con túc tật (tật liên miên lâu ngày);
Ø Nếu phẳng lỳ như không, là tướng cùng khổ, đến già tuyệt tự;
Ø Xế phía tả là tướng tổn cha
Ø Xế phía hữu là tướng tổn mẹ.
Về khoa Tử vi có cả ngàn chuyện lý thú, kể ra hoài hoài không sao hết được. Trong những câu chuyện lý thú lại có những kinh nghiệm ly kì, làm đề tài thảo luận cho những vị mê tử vi. Vì Tử vi là một khoa rất khó, bao la, đòi hỏi những kinh nghiệm cả mấy chục năm đối với những người say sưa nhất. Cho nên chúng tôi đã thỉnh các vị tài ba nhất về tử vi, để nêu lên đây những câu chuyện về tử vi để cống hiến quý vị.
Trong những câu chuyện tử vi ghi sau đây, có thường xuyên trong những số báo, chúng tôi cũng đi tìm những nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẳn của các sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những “cách” có sẳn (những thế giao nhau của chính tinh, trung tinh, ác sát tinh,…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm, mà chỉ có những nhà tử vi thật nhiều kinh nghiệm mới luận đoán đúng.
Bởi thế, chủ đích của chúng tôi mà nhân những câu chuyện, nêu lên một số những kinh nghiệm để làm đề tài thảo luận, và trao đổi sự am hiểu giữa các quý vị, cũng như góp thêm kinh nghiệm cho những vị đương theo dõi tử vi, đương thích tử vi.
Người có số đào hoa cư Tý chiếu mệnh ra ngoài được nhiều người yêu thương, giúp đỡ
Nói chuyện sao Đào hoa, dâm tinh hay không? Thân có Trường sinh tốt lắm – Người mạng Mộc phải coi chừng – Chuyện cô gái mạng Mộc.
Nhân được hân hạnh biết cụ Hoàng Hạc nên có theo lời cụ để kể chuyện Tử vi hầu quý bạn đọc trong mấy số đầu. Nay chúng tôi đã được phép để loan báo với quý bạn đọc rằng chính cụ Hoàng Hạc sẽ đích thân viết 1001 chuyện Tử vi kể từ số này. Ngoài sự am hiểu về Tử vi của cụ, quý bạn sẽ thưởng thức cả lối hành văn dí dỏm. Cụ Hoàng Hạc là một nhà văn, một nhà học giả đương lo những công trình văn hóa lớn, hiện là giáo sư ở Đại học Văn khoa. Trần Việt Sơn kính mời bạn đọc theo dõi.
1. Sao đào hoa
Trong những số trước chúng tôi đã đề cập tới sao lộc tồn và đã biết. Sao lộc tồn trong tử vi lạ lùng lắm, nó có 2 vai trò Phúc tinh hay Lộc tinh nó cũng lại có 1 công dụng là sao thanh cao gọi là chân nhân chi tử và nó diệt tất cả những tánh cách dâm đãng của các sao đào hoa và hồng loan. Bởi vậy về sau tôi có xem cho một người đàn bà (một vị giáo sư) đứng đắn lắm vậy mà lá số tử vi có đào hoa, sao thai thủ mạng nhưng thêm có lộc tồn.
Tôi giảng cho ông bạn tôi thì ảnh bảo:
-Lạ nhỉ để tôi kiểm lại.
Chúng tôi có cả một hồ sơ số các người đàn bà dâm đãng giang hồ mà tên tuổi không cứ là phải có Đào hoa. Nếu mà Đào hoa là có sắc đẹp thì Đào hoa nhập cung Hỏa còn đẹp nỗi gì?
Bạn tôi dạy tôi:
-Cái bí quyết của Đào hoa lại còn ly kỳ nữa. Đừng tưởng Đào hoa là xấu đâu. Nó ở đúng cung của nó như Đào hoa cư Tý thì số dách.
-Số dách ở chỗ nào?
-Thủ mạng không hay nhưng được nó chiếu, nghĩa là chánh chiếu thì bạn là người mà ai cũng thương mến. Không cần đọc sách học “đắc nhân tâm” cũng thành công; người nào mà thay vì gặp Đào hoa chánh chiếu (nhất là Đào hoa cư Tý) thì chả thèm học cái thuật gì cả thiên hạ họ mê như điếu đố, đi đâu người ta cũng thương, nói gì người ta cũng nghe.
Còn không có nó, hay gặp nó hãm địa hoặc gặp Hóa kỵ chánh chiếu. thì thôi: thiên hạ thấy cái bản mặt mình là đã ghét rồi mà mình có chọc ghẹo gì chúng đâu chúng cũng ghét.
Thật vậy tôi xét lời nói bạn có phần rất hữu lý. Có nhiều bộ mặt mình thấy là có thiện cảm nói chuyện bá vơ với họ là đã thấy dễ chịu và ưa mến họ rồi. Tây họ gọi mấy người đó có cái “Charme” còn có nhiều người không chọc ghẹo gì mình mà thấy cái mặt không mà thôi là đã có ác cảm rồi.
Bạn tôi thấy tôi ngồi suy nghĩ nói tiếp:
-Hễ Đào hoa cư tý chiếu mạng thì mạng phải ở cung Ngọ không bổ
-Đúng!
-Có gì lạ
-Mạng ở cung Ngọ (là thiên cung) có phải là “ngon” chăng đã ngon lại còn được kẻ yêu người mến thì làm gì không thành công, các bực được đại kỳ công trong xã hội, đều là bọn người có sao Đào hoa cư Tý hoặc chính chiếu, hoặc tam lục hạp chiếu…Bạn cứ tin tôi đi.
Họ có nghèo ở một cái nhà tranh vách đất, cũng là một người ra vẻ con người, lại đắc nhân tâm. Trái lại, thì dù có đọc cả ngàn làn sách học cũng không làm sao thực hiện được việc “đắc nhân tâm” là vì họ chưa nói, chưa làm thì tự mình đã tiết ra một “luồng khí” mà không một ai “ngửi” được!
Người sinh ra mà “vô duyên” ai thấy cũng “ghét” số thì thật là “bất công” hết sức.
Tôi đã bàn về các vì sao Thai và sao Lộc tồn nhưng khoa tử vi còn nhiều cái trớ trêu. Tuy trớ trêu mà thật sự nó có những nguyên lý hết sức khoa học.
2. Hạn Thiên Cơ, sống chết thế nào ?
Có một ông thầy hồi đó đoán lá số cho người bạn tôi, quả quyết: đến năm Tỵ (cách đây 6 năm) sẽ chết, vì già mà ngộ Thiên Cơ, trùng hạn gặp Đào hoa. Quả thật, anh bạn tôi mất tại Ba Lê đúng vào năm ấy. Tôi lật số tử vi của ông bạn rồi tấm tắc khen thầm. Nhưng cũng một ông bạn khác nhờ ông này xem giùm thì cũng được ông ấy đoán:
Hạn Thiên cơ nhằm khoản 52 thì chết. Cũng giống số ông bạn kia. Nhưng ông bạn này đã trên 60 rồi, lại tôi bảo:
-Ê! Toa nói thằng cha ấy hay! Nhưng moa khoảng 51 bước qua 53 bước lại, moa lo muốn chết. Té ra… Chẳng có gì cả! Thằng ấy “láo”
Tôi không biết nói sao, bèn nảy ra ý thì đi tìm một anh bạn thạo tử vi khác (anh này là nhà tu nhưng là một cây tử vi). Một hôm thình lình ông bạn đi vân du dã rồi, lại lò mò trở về ghé thăm bạn cũ. Mừng quá tôi đem lá số ấy ra hỏi, và thuật lại những lời mà ông bạn trên đây than phiền. Tôi hỏi,
-Tại sao hai lá số cùng một hạn Thiên Cơ mà một người bị, một người không?
Anh bạn nhà tu của tôi bảo:
-Thiên Cơ gì! Đào hoa gì! Người ta Thiên Cơ cư Sửu, Đào hoa cư Tý, nhưng Thân đeo cung Phúc ngộ Trường Sinh. Chết sao nổi mà chết!
-Thân cư Phúc địa ngộ trường sinh là sao ?
-Đây, tôi nói cho anh nghe: Người này tuổi Thủy, mạng cư Ngọ vị, tức là sai mạng. Mạng cung tương khắc. Người này lại tuổi Âm nam nên vòng Đại hạn đi nghịch chiều. Trong khoảng nhỏ, anh bị lận đận, có thể chết ngay hồi trong lúc sơ sinh. Nhưng sống lại được, là nhờ Thân cư cung Phúc đã ngộ Trường Sinh mà còn Thân cư cung Thân Kim nữa. Kim trường sinh lại năng sinh Thủy thì Thủy vượng, lửa ở cung Ngọ đốt không đủ sức tiêu diệt. Vòng đại hạn nghịch chiều qua khoảng 30 trở lên thì anh này mới thấy khá được vì hết bị hỏa thiêu, nhưng chưa đắc thời là vì hạn vào các cung Mộc, mạng Thủy mà hạn lâm Mộc cung thì bị tiết khí (rút bớt khí) đi nghĩa là Thủy cũng bị lưng bớt vì phải lo nuôi dưỡng cung hạn. Tuy vậy lúc này anh ấy cũng khá hơn lúc thiếu thời. Đến lúc qua hạn, Thủy thì Thủy, Thủy trùng phùng, Phá quân cư Tý, tức là hạn chịu ảnh hưởng của cung phúc (thuộc hành kim) thì đã chẳng những không chết, lại còn Vượng lên ghê lắm; Phá quân cư Tý tức là sóng cồn đại hải ngộ, Thanh long cư Thìn (Long cư long vị) ngộ Lưu hà tức là rồng ra biển cả mặc sức tung hoành… làm sao chết nổi. Thằng cha thầy kia coi mò thiển cận quá, anh hỏi lại có phải vậy chăng ?
Tôi thuật lại lời nói của ông bạn thày tu cho anh bạn tôi thì anh này nói:
-Hay quá: cái gì chứ lối cắt nghĩa như thế tinh vi.
3. Thân có trường sinh
Hồi nhỏ, tôi sinh ra, không được ba ngày là nhịn bú, và nằm khóc hoài. Cha mẹ tôi chạy thầy chạy thuốc hết phương, định bỏ rồi…thì bỗng dưng ‘Thất nhật hoàn hồn”: tôi tự nhiên hết khóc, rồi chịu bú lại. Bắt đầu từ đấy, mạnh lại như thường. Nhưng cứ èo uột mãi, đến khoảng 18,19 thì lại đau yếu liên miên, vì tôi cảm thấy đời mình sẽ không kéo dài hơn 25 tuổi. Vậy mà lần lần, tôi mạnh khỏe thêm, rồi khoảng 37, 38 tuổi tôi thấy khỏe mạnh hơn hồi nhỏ. Nay lớn tuổi rồi, vậy mà ít khi đau yếu, sức khỏe đối với hồi niên thiếu và làm việc hăng hái hơn, có khi người thanh niên làm việc không bền bỉ bằng tôi.
Sau đó tôi mới lưu ý đến cái mà tử vi gọi là “Thân” đeo cung Trường sinh quan trọng đến đổi cát lá số của những kẻ yểu tử không bao giờ gặp cung Phúc tốt, trái lại thường là gặp những điều không may. Nhất là tôi để ý đến cá đại hạn.
Những người tuổi Mộc
Những cung đại hạn nguy nhất những người tuổi hành Mộc mà lại tiểu hạn lâm vào các cung Hỏa thì nguy gớm! Có một cô gái quen với tôi, cậy tôi xem giùm lá số tử vi của cô. Tôi nhìn thấy cung Phu xấu lắm. Mạng cô là mạng Mộc, mà hạn sắp lâm vào cung Hỏa. Tôi nói:
-Cô hãy ráng lo mà học. Số cô đừng lấy chồng khoảng 4 năm này…Nếu cô cải số thì e phải hỏng cả.
Một ông bạn nghe tôi đoán, hỏi:
-Mạng Mộc sinh cung Tý thủy tốt lắm. Còn tiểu hạn cô dù lâm vào cung Hỏa, thì đại hạn còn ở thủy cung, chắc là không sao.
Tôi nói:
-Lấy Ngũ hành sinh khắc chế hóa thì nên biết không có mạng ai thuộc Mộc mà hạnh phúc. Là vì trong các hành, hành Mộc dở nhất. Mạng Kim, sinh Thủy, bị Hỏa khắc, nhưng Hỏa khắc Kim, thì Kim thành khí cụ, gian nan mà tốt về sau Mạng Thổ bị mộc khắc, nhưng Mộc khắc Thổ, bị khắc nhưng được Mộc che chở cho râm mát mà khỏi thành đất hoang…Thổ sinh Kim thì Thổ trở nên quý hơn. Chỉ có Hành Mộc sinh Hỏa thì bị tan ra thành tro bụi. Cho nên tuổi hành mộc này kỵ nhất là gặp người yêu mạng thuộc Hỏa. Gặp mạng Hỏa và gặp vào hạn Hỏa thì tiêu cả đời !
Anh bạn tôi phân vân, tuy không cãi lại nhưng vẫn nói:
-Để xem.
Một thời gian cô gái này đến gặp tôi bảo cô sắp lấy chồng. Chồng cô hứa cưới cô và ông chồng làm to lắm. Học giỏi bảnh trai quân tử…Tôi hỏi:
-Tuổi gì?
-Tuổi Giáp Tuất
Tôi nhìn cô ngạc nhiên:
-Sao lại lấy chồng Hỏa, lại tuổi Hỏa. Cô đã quên lời tôi dặn rồi à.
-Nhớ chứ! Nhưng anh ấy yêu tôi lắm! Con nhà thế phiệt trâm anh, học giỏi lắm, ăn nói đàng hoàng…
Tôi lặng thinh.
Tôi không nói gì cả, chỉ thở ra và cũng hơi hoài nghi và rất mong mình đoán sai.
Té ra, không đầy một tuần lễ, thì bỗng thấy cô gái đến, tóc tai rũ rượi, khóc lóc bù lu bù loa: rằng đã bị người yêu phụ ước một cách chua cay. Tên Sở khanh đã để lại cho nàng một “bầu” tâm sự !
Tôi mới nghĩ: anh bạn tôi đáo để thật! Trước đây ảnh đã dặn tôi: hãy lưu ý thật kỹ về mấy cái hạn lâm vào cung khắc mạng. Mạng mộc mà hạn lâm vào cung Hỏa thật là cảnh đời tang tóc !
Sách tử vi cũng có nói, nhưng lại nhấn mạnh phần quan trọng đến thế, cho nên chúng tôi xem thường. Xem tử vi thì rất khó. Vô ý mà bỏ qua một vài chi tiết rất nhỏ cũng đủ làm cho mình đoán sai. Như về các dâm tinh, thì có nhiều người quá máy móc cứ đinh ninh rằng đàn bà có dâm tinh là người không đứng đắn. Cái đó tùy.
(KHHB số 4) Cụ Hoàng Hạc chính là học giả Nguyễn Duy Cần.
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Đối với những người hay đi xe một mình về khuya hoặc những tài xế lái xe lâu năm chắc chắn một điều rằng trên một đoạn đường nào đó, bỗng dưng bạn cảm thấy lạnh sống lưng...
Trước khi đọc bài viết này, tôi muốn bạn chắc chắn một điều rằng bạn không có tiền sử bị bệnh tim mạch hoặc huyết áp, bạn không đọc khi bạn đang ở một mình và hãy chia sẻ nó để giúp ích mọi người.
Trường hợp bị người âm "đi nhờ" hay còn gọi là quá giang xe không còn xa lạ với các bác tài xế lái xe lâu năm và thường chạy đường dài, đi đêm đón khách hay những người thường xuyên đi về khuya một mình như đạp xe, chạy xe máy một mình.
Khi đi qua những cung đường thường xuyên xảy ra tai nạn hoặc đường vắng ít có ánh sáng của đèn đường thì chắc chắn nơi đó có "người âm cư ngụ", và bạn phải chấp nhận một điều rằng trong thế giới thực này chúng ta tồn tại song song với thế giới tâm linh, điều này khoa học cho đến nay vẫn không thể giải thích tuy nhiên tất cả đều có thật.
Vậy cách nhận biết khi bạn bị "người âm đi nhờ xe" là gì?
Khi đi qua những đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn (thông thường nơi đó có lập miếu thờ) hoặc đường vắng không có ánh đèn bỗng dưng bạn cảm thấy lạnh sống lưng, hoặc cảm thấy phía sau mình nặng cảm giác như có người ngồi như đang chở ai đó, hoặc bổng dưng đuôi xe bị chao đảo như có ai đó vặt xe bạn... thì chắc chắn bạn đã gặp người âm.
Khi đi xe về khuya nếu gặp trường hợp nghe tiếng ai đó kêu tên hoặc kêu "anh ơi, chị ơi..." nhưng nhìn xung quanh không thấy ai thì chắc chắn 100% bạn đã gặp người âm, hãy để ý gương chiếu hậu phía sau.
Một số dịch vụ cho thuê xe du lịch, trong đó có cả hợp đồng vận chuyển hài cốt - tro cốt người đã khuất thì thông thường nếu người ấy hợp với chiếc xe thì sẽ ở mãi không đi mặc trù tro cốt được vận chuyển sang nơi khác, nếu vị khách nào vô tình thuê nhầm chiếc xe ấy (không thể nào biết được xe đã từng vận chuyển hài cốt - tro cốt hay chưa) nếu hạp tuổi, hạp mạng thì sẽ bị vong theo về nhà... cách nhận biết đơn giản nhất đó là "những dấu hiệu khi bước chân lên xe" hãy để ý đến những dấu hiệu đó, chặn hạn như "đau đầu nhưng không phải do say xe (đối với những người đi quen xe thì việc say xe là không thể)", "cảm thấy nổi da gà, sởn óc khi bước lên xe", "cảm thấy như có ai ngồi kế bên, mặc dù chỗ đó trống", "hoặc cảm thấy khó chịu với chỗ ngồi của mình (vì bạn hiện đang ngồi lên chỗ của người âm đang ngồi, làm cho họ khó chịu)".
Một số bác tài, lơ xe hay đi khuya để đón khách dọc đường, nếu gặp trường hợp nhìn thấy khách từ xa vẫy tay bắt xe mà lại gần không thấy thì chắc chắn 100% đã gặp người âm.
Một vài câu chuyện tôi được nghe kể lại từ những tài xế xe du lịch có thâm niên nghề trên 10 năm kể lại về việc gặp người âm trên đèo Hải Vân đại loại như là chạy từ xa thấy một người được đắp chiếu giữa đường giống như tai nạn giao thông, nhưng đến khi lại gần thì chẵn thấy ai, hay là gặp những nữ sinh mặt áo dài trắng đứng vẫy xe nhưng xe càng lại gần thì bóng trắng càng khuất xa cho đến khi mất dạng hẳn... và còn rất nhiều cậu chuyện tương tự
Những trường hợp bên trên, theo dân gian thường gọi là "nhẹ bóng vía" thì bạn sẽ nghe được những âm thanh hoặc thấy trực tiếp bóng dáng của người âm, còn nếu bạn "nặng bóng vía" thì sẽ nhận biết bằng các dấu hiệu bên trên.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Cách xử lý khi "bị người âm đi nhờ" xe hoặc bị "người âm để ý" khi đi đường?
Nếu bạn gặp một trong những dấu hiệu bên trên, hãy bình tĩnh xử lý theo các bước sau:
1. Nếu bạn là người có đạo, hãy nhẫm trong miệng tên người mà bạn tôn thờ và tin tưởng nhất (đạo Phật thi cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, hoặc niệm Lục Tự Đại Minh Chú 'Om Mani Padme Hum')
2. Hãy nhanh chân chạy đến nơi có ánh đèn điện hoặc đông người, nán lại cho đến khi cảm thấy an tâm hẳn.
3. Cầu nguyện, đọc rõ tên một người trong gia đình bạn đã khuất có chức sắt ngày xưa trước khi mất như: Cửu huyền thất tổ, ông bà, cha mẹ... (Bởi vì những người có chức sắt theo nghĩa tốt, khi mất sẽ được phong thần)
4. Để tránh gặp phải những trường hợp bên trên bạn nên đeo những vật trang sức "kỵ tà" như bạc nguyên chất, những vật có tính sát khí mạnh như "nanh cọp, móng cọp", hoặc mặt dây chuyền hình Thánh Giá, hình Phật.
5. Tuyệt đối không trả lời khi nghe gọi tên hoặc nghe gọi "ê ê, anh ơi, chị ơi, em ơi...".
Mang những đồ trang sức kỵ tà
Kết luận
Không phải người âm nào cũng là xấu, chẳng qua là tâm âm thức của bạn quá yếu dẫn đến việc khai thông âm dương mà vô tình gặp được họ, vì vậy bạn chỉ cần nói thầm trong miệng "chết nơi nào, về nơi đó, chúng ta không duyên không nợ chớ làm hại nhau. Người đâu rồi cũng trở về với cát bụi, xin quý vị hãy an nghĩ và phù hộ cho tôi cũng như chốn đây được bình an"...
>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Top 1: Người tuổi Ngọ
Chỉ số may mắn: ★★★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Cảnh giác khi đầu tư, kí kết hợp đồng
LichVanNien365 xin chúc mừng những quý ông, quý bà, quý anh, quý chị cầm tinh con giáp này. Tháng 5 này là quãng thời gian đại phát, đại tài, đại cát đại lợi với họ. Tiền bạc thu về đã tốt, nguồn lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ còn đáng ngưỡng mộ hơn.
Tốc độ tăng trưởng tiền bạc trong tài khoản chính, tài khoản công ty và tiền vốn đối tác đổ về sẽ “rầm rập” và nhân theo tốc độ phi mã. Đặc biệt hơn nữa là, trong 30 ngày tới, họ sẽ được quý nhân phù trợ đắc lực nên không hề gặp bất cứ trở ngại nào trong công việc, ký kết hợp đồng nên nhờ đó nhanh chóng xử lý được các khoản nợ tồn đọng từ đầu năm đến giờ.
Vận may, thần tài và niềm vui sẽ luôn ở bên, bầu bạn, sẻ chia với họ trong suốt 1 tháng tới. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý rằng, cần hạn chế cho vay vì một khi tiền đã trao đi sẽ rất khó đòi lại.
Khi làm ăn, cần chi li, chặt chẽ, đối tác dù tin cậy đến mấy cũng cần có chứng từ khi kí quỹ, chuyển khoản để tránh các khoản thất thoát không đáng có. Cổ phiếu sẽ đem lại cho họ nguồn doanh thu rất có triển vọng nhưng cũng đừng vì thế mà “ham hố” lướt sóng ngắn ngày, nếu tiền vốn dài hơi và dư sức, hãy chịu khó chọn những mã chứng khoán thanh khoản tốt để đầu tư dài hạn.: Tránh nhẹ dạ, cả tin trong làm ăn
Các cá nhân tuổi rồng trong tháng 4 có vẻ hơi lận đận một chút về tài chính, trục trặc một chút trong sự nghiệp. Nhưng chuyển sang tháng mới, tài vận, may mắn của họ sẽ thăng hoa tuyệt vời.
Thứ nhất, doanh thu và tiền lãi của họ sẽ rất ổn định, không chập chờn hay xuống dốc như thời điểm tháng trước. Các khoản thu phụ tuy không đem lại quá nhiều tiền bạc nhưng cũng đủ để họ luân chuyển tiền vốn đổ vào kinh doanh.
Tiếp đến là, các cơ hội đầu tư liên tục và dồn dập “đổ” xuống đầu họ, nhiều đến nỗi mà, chỉ cần ngồi không với các ý tưởng kinh doanh táo bạo, họ cũng “kiếm chác” được một món hời! Bù lại cho tháng 4 vất vả, nhọc nhằn bao nhiêu là một tháng 5 ấn tượng, “hoành tráng bấy nhiêu”.
Tuy nhiên, 30 ngày tới, họ cần đặc biệt chú ý khi giao dịch, kí kết hợp đồng, tránh việc bị lừa gạt. Nên chọn ngày tốt xấu trước khi ký kết hợp đồng. Khi làm việc không nên nhẹ dạ cả tin, cũng tuyệt đối không trao tiền, không chuyển khoản khi đối tác chưa đưa ra các bằng chứng, thông tin rõ ràng.
Top 3: Người tuổi Tuất
Chỉ số may mắn: ★★★★
Tài chính: ★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★
Nhắc nhở: Tiết kiệm trong chi tiêu, chú ý cân đối tài chính tránh hao hụt quá nhiều.
Tháng 5 là quãng thời gian hoàng kim với người tuổi Tuất, tài vận của họ vô cùng vượng. Vượng đến mức, chỉ cần động vào bất cứ dự án, món hàng hoặc triển khai ý tưởng kinh doanh nào, họ đều thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
Điểm trừ của họ là do thích tiêu pha và không giỏi cân đối tài chính nên thu vào thì nhiều mà chi ra cũng ác liệt không kém. Nếu không gắt gao, sát sao trong việc cân đối thu chi thì 10 ngày cuối tháng, nhiều kế hoạch của họ sẽ đổ bể.
Bù lại, tháng này, các cơ hội vàng sẽ xuất hiện khá nhiều với tần suất cao. Người tuổi Tuất cần chủ động nắm bắt lấy chứ đừng mang nặng tâm lý “ôm cây đợi thỏ”. Hành động đúng, cẩn thận và tinh tế, họ sẽ kiếm được những món hời không nhỏ. Vì thế, lời khuyên dành cho người tuổi Tuất tháng này là nên tiết kiệm và “năng nhặt chặt bị”.
Xem thêm Vận Hạn năm 2016 của người tuổi Tuất !
Ngoài ra, tuyệt đối không được “mon men” đến gần thị trường chứng khoán, không đầu tư ngắn hạn và cũng tránh bỏ tiền túi để liều mình đầu tư dài hạn theo cảm tính nhất thời. Không mạo hiểm đầu tư lớn và tránh cho vay, dù được gợi ý mức lãi suất cao đến mấy đi chăng nữa.
Top 4: Người tuổi Hợi
Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★
Khả năng đòi nợ: ★★★★★
Nhắc nhở: Lên kế hoạch rõ ràng và dài hơi cho mọi dự án và các khoản đầu tư.
Tháng 5 này, người tuổi Hợi nên chủ động hơn nữa trong kinh doanh, hãy chịu khó lăn xả vào các đối tác tiềm năng. Để nhanh chóng bắt kịp với xu thế và khắc phụ khó khăn cùng bất cập trong quản lý, họ cần lên kế hoạch dài hơi và ngắn hạn rõ ràng, súc tích, chi tiết.
Chỉ cần làm được điều đó, khoản thu cố định của họ sẽ nhỉnh hơn tháng trước từ gấp 3 đến gấp 5 lần, thậm chí là tăng vọt vào cuối tháng đấy. May mắn nhất là 30 ngày tới, họ sẽ đòi lại được các khoản nợ xấu tồn đọng từ năm trước, thậm chí nhiều đối tác tự nguyện “dâng tiền đến tận miệng”. Điều đó là nhờ vào việc họ được các quý nhân giấu mặt phù trợ và giúp đỡ âm thầm.
Top 5: Người tuổi Mùi
Chỉ số may mắn: ★★★
Tài chính: ★★★★★
Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★
Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★
Khả năng đòi nợ: ★★
Nhắc nhở: Cần đổi mới tu duy liên tục.
Từ đầu năm đến giờ, người tuổi Mùi đã phải vất vả, lăn lộn không ít trên thường trường, trong sự nghiệp. Các mối quan hệ với đối tác sẽ được cải thiện bất ngờ, chính nhờ vào sự nỗ lực miệt mài của họ.
Nguồn vốn đổ về nhiều hơn, tăng dần từ đầu đến cuối tháng, đặc biệt “nở hoa” vào 10 ngày cuối, tài lộc vì thế trở nên dồi dào như thể là bất tận. Có thể do quá quen với việc phải nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ nên các cá nhân tuổi Mùi sẽ thấy khá ngạc nhiên nhưng cũng vô cùng thích thú.
Xem bói ngày sinh cực chuẩn !?
Điểm họ cần lưu ý là, các mặt hàng kinh doanh có khả năng bị cạnh tranh đạo nhái cao nên cần đổi mới tư duy liên tục, cập nhật theo đúng xu thế thị trường. Các khoản thu tuy nhiều nhưng cũng có khá nhiều công việc đòi hỏi chi trả, thanh toán gấp nên chớ dại dột cho vay nhiều, vay lâu.
Ưu điểm: Tính tình thẳng thắn, có tài năng lãnh đạo nổi trội, có tinh thần trách nhiệm, giàu lòng nghĩa hiệp, có tài giao tiếp, xuất thân giàu sang hoặc sớm thành đạt trở nên nổi tiếng.
Khuyết điểm: Không hợp với mệnh nữ, vì có chí khí của nam giới, lấn át chồng, dễ bị sa ngã bởi đàn ông.
Ca quyết như sau:
Thái Dương Mão vị quý kham khoa
Tất chủ bình sinh phú quý gia
Thuần túy thiếu niên đăng giáp đệ
Chinh chiến thanh thế động di Hoa
Nghĩa Là:
Thái dương tại Mão thật hiển quý
Ắt chủ bình sinh được giàu sang
Tuổi trẻ khoa danh sớm đỗ đạt
Chiến công lừng lẫy khắp biên cương
Trong kinh văn có viết: "Mặt trời (Thái Dương) chiếu cổng sấm, phú quý vinh hoa".
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Chùa Bút Tháp nằm tọa lạc ở thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây được trụ trì bởi Đại đức Thích Thanh Sơn. Chùa Bút Tháp khác hẳn so với những ngôi chùa khác là tạo sự thu hút vào trong chùa bằng lối kiến trúc đồ sộ mà tinh xảo. Chắc chắn Chùa Bút Tháp sẽ làm hài lòng du khách từ khắp mọi miền khi đặt chân đến đây.
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) hay còn gọi là chùa Nhạn Tháp, từ lâu chùa đã nổi tiếng bởi vẻ đẹp độc đáo về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử lâu đời, cũng như phong cảnh hữu tình. Chùa là sự dung hội của hai nền văn hoá Việt – Hoa. Chùa có pho tượng Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay bằng gỗ lớn nhất Việt Nam và tòa cửu phẩm liên hoa với những giai thoại kỳ bí của dòng thiền Mật Tông.
Tương truyền, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”.
Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật từ thế kỉ 17. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên mộ trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái. Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường – Thiên hương – Thượng điện tạo thành chữ “công”. Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.
Đặc trưng của chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 789 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm.
Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng – nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ.
Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ,… còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.
Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Chùa có tháp Bảo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng trệt của toà tháp này có mười ba bức chạm lấy đề tài động vật làm chính. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động.Chùa Bút Tháp tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc cổ của các ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ, cả về giá trị nghệ thuật và lịch sử.
Chùa được cấp bằng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia từ năm 1962. Đây không nhưng là nơi sám hối, cầu nguyện của phật tử mà còn là điểm du lịch lý thú cho du khách trong và ngoài nước.
t giường ngủ ngay phía sau bàn thờ sẽ dễ gây nên những bất lợi cho quan hệ tình cảm vợ chồng.
Tương tự, dân gian không chỉ kiêng kị việc đặt giường ngủ của vợ chồng sau bàn thờ, mà còn cho rằng những người trong độ tuổi từ 12 – 60 không nên ngủ ở ngay phía sau trang thờ, bàn thờ.
Điều này nhằm tránh nảy sinh những bất lợi đối với “đào hoa nhân duyên”, ngăn chặn sát khí, vốn là khí xấu làm cho tình cảm đôi lứa trở nên nhạt nhòa, bất hòa hoặc thất vọng về nhau.
Xét dưới góc độ khoa học, đặc điểm chung của con người là hay liên tưởng đến những gì diễn ra quanh mình.
Nếu phòng ngủ đặt ngay sát phía sau bàn thờ thì người ngủ ở đó sẽ thường xuyên phải ngửi mùi nhang khói, nghe những lời tụng niệm, đọc kinh, gõ mõ… từ đó liên tưởng đến thần thánh, tổ tiên và những người đã qua đời. Cũng vì thế, trong tiềm thức, họ sẽ nảy sinh tư tưởng hướng về cõi tâm linh, nhạt dần với đời sống trần tục, với quan hệ tình cảm lứa đôi…
Với người chưa lập gia đình, thường xuyên sống ở phía sau bàn thờ Thần Phật thì cách suy nghĩ, quan niệm của họ (về mặt tình cảm cũng như quan hệ giới tính) đều sẽ khác với người bình thường. Hầu hết họ đều không mấy hứng thú trong chuyện tình cảm mà có xu hưóng thiên về cõi tâm linh, Thần Phật.
Theo đặc điểm sinh lý thì ở vào độ tuổi dưới 12, thường thì trẻ em chưa hình thành tình cảm với người khác giới cũng như chưa hề có ý niệm gì về quan hệ giới tính.
Còn những người ở độ tuổi trên 60 là những người đang đi vẻ già, họ đã trải qua mọi giai đoạn phát triển về mặt tâm sinh lý.
Đây là giai đoạn mà nhu cầu tình cảm giảm dần. Nếu họ cố ở ngay phía sau bàn thờ thì những ảnh hưởng về mặt tâm linh có nhẹ hơn một chút.
Nhưng dù thế nào đi nữa, tư tưởng và tình cảm của những người thường xuyên sống và sinh hoạt ở phía sau bàn thờ vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng về tâm linh, tín ngưỡng. Do đó, tốt nhất là không nên chọn không gian sát phía sau bàn thờ để làm phòng ngủ.
Để hóa giải sát khí do phòng ngủ nằm ngay phía sau bàn thờ gây nên, cách tốt nhất là chọn một vị trí khác thích hợp hơn để làm phòng ngủ hoặc chọn một vị trí thích hợp trong nhà để làm nơi thờ tự, cúng bái.
Nếu không, bạn có thể sử dụng những biện pháp hóa giải khác như dùng ván gỗ hoặc bê tông ngăn phòng ngủ với bàn thờ, biến không gian ấy thành một lối đi tương đối thoải mái hoặc thành một cái kho để chứa đồ đạc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Xem tử vi ,cách xem hạn tháng hay trong năm của bạn
Ở những bài trước Xem Tướng Chấm Net đã trình bày cùng các bạn cách xem đại vận 10 năm trong lá số tử vi của mỗi người ,cũng như cách xem hạn năm của mỗi người dựa vào lá số.
Bài này Xem Tướng Chấm Net xin trình bày chi tiết cách xem hạn tháng theo phương pháp và quan điểm của cụ Thiên Lương :
Vận tháng, hxem-ạn tháng hay các cụ xưa thường gọi là Nguyệt vận, là vận hạn tốt xấu trong tháng, khi xem tử vi vận tháng là chúng ta tìm hiểu xem những biến cố xảy ra trong tiểu vận có xảy ra trong tháng đó không.Khi xem hạn tháng chúng ta có những nguyên tắc sau đây:
Nếu Đại vận và tiểu vận tốt, thì Nguyệt vận cũng tốt thì càng tốt thêm; Nguyệt vận có xấu cũng bớt xấu.
Nếu Đại vận và tiểu vận bị xấu mà Nguyệt vận bị xấu thì càng xấu; Nguyệt vận tốt cũng chỉ tương đối.
-Tính Nguyệt vận, có 2 nguyên tắc :
Xem hạn tháng ở tháng nào, tháng ấy có Can Chi gì, lấy hàng Can so với Can của năm sinh là thấy tháng ấy tốt hay xấu. Mức độ tốt xấu đại cương này đúng đến 60%, chỉ còn những chi tiết của biến cố tốt xấu là do sao mà đoán.
Cũng vì sự tốt xấu của tháng đã được ấn định, do hàng Can của tháng, cho nên hàng Chi của tháng không thay đổi, cứ:
Tháng Giêng là tháng Dần, ở cung Dần
2 | Mão | Mão | |
3 | Thìn | Thìn | |
4 | Tỵ | Tỵ | |
5 | Ngọ | Ngọ | |
6 | Mùi | Mùi | |
7 | Thân | Thân | |
8 | Dậu | Dậu | |
9 | Tuất | Tuất | |
10 | Hợ, | Hợi | |
11 | Tý | Tý | |
12 | Sửu | Sửu
|
Xem các sao cung Nguyệt vận, dể biết các chi tiết vận tốt xâu (40% còn lại).
Xem sao ở cung Nguyệt vận, phải kể cung chính và cung tam hợp; tam hợp nhị hợp sinh cho tam hợp Nguyệt vận thì cho các sao nhị hợp, và tuỳ theo tam hợp Nguyệt vận khắc tam hợp cung xung chiếu hay bị khắc lại, mà đoạt những sao tốt hay phải chịu những sao xấu của cung xung chiếu.
Trong nhiều trường hợp mà sự tốt xấu đã rõ ràng (như Đại vận và niên vận đều báo sự thi đậu hay thăng tiến công danh, hay phát tài lộc, hay đau ốm sắp chết) có khi không cần xem sao Nguyệt vận, chỉ cần xem tháng đó tốt hay xấu trong đại cương. Nếu là tháng tốt thì việc tốt xảy ra, nếu là tháng xấu thì việc xấu xảy ra.
Muốn biết tháng tốt hay xấu, trước hết phải biết hàng Can của tháng. Hàng Can của tháng tính như sau:
Năm vận (là năm tiêu hạn) | Tháng Dần |
Giáp, Kỷ | Bính Dần |
Ất, Canh | Mậu Dần |
Bính, Tân | Canh Dần |
Đỉnh, Nhâm | Nhâm Dần |
Mậu, Quý | Giáp Dần |
Thí dụ: Năm Kỷ Mùi, tháng Giêng là tháng Bính Dần.
Năm Canh Thân, tháng Giêng là tháng Mậu Dần.
Rồi cứ theo thứ tự hàng Can và hàng Chi mà tính các tháng kê tiếp.
Cũng như niên vận, tính các tháng tốt xâu bằng hàng Can so sánh với Can năm sinh.
Can nguyệt vận sinh cho Can năm sinh
Can nguyệt vận sinh cho Can năm sinh | Tốt 1 |
Can năm sinh khắc Can nguyệt vận | Tốt 2 |
Can nguyệt vận hoà Can năm sinh | Bình |
Can năm sinh Can nguyệt vận | Xấu vừa |
Can nguyệt vận khắc Can năm sinh | Xấu |
Vấn đề tốt xấu là do hành Can (của năm vận và năm sinh so sánh với nhau). Đó là về năm về tháng, tháng tốt xấu cũng được ấn định bằng hành Can của tháng vận so với hành Can năm sinh.
Nhưng ta có thêm nguyên tắc sau này:
-Nếu là năm vận Âm, thì sự việc tốt hay xấu (tùy theo là năm tốt, xấu) thường xảy ra vào tháng âm
-Nếu là năm vận Dương thì sự việc tốt xấu (tùy theo là năm tốt, xấu) thường xảy ra vào tháng dương
-Chờ tháng một sự kiện xấu đã sẵn có, phải tìm đến tháng mà hành Can khắc được hành năm vận, nếu năm vận xấu.
-Vài kinh nghiệm xem tử vi vận tháng của cụ Thiên lương
Câu chuyện thứ nhất:
Đương số” tuổi Kỷ Mùi bị ở tù. Đầu năm Đinh Tỵ, Cụ Thiên Lương giải đoán: “Năm nay tốt đây, tuổi Kỷ có thể về nhà được, vì Đinh Hoả sinh Kỷ Thổ”.
Hỏi: Có thể về tháng nào?
Đáp: Chưa xem lá sô”, nhưng đoán rằng sẽ về trong một tháng Âm.
Năm Đinh Tỵ, tháng Giêng là tháng Nhâm tức tháng Dương. Bao giờ các tháng 1,3,5,7,9,11 cũng là tháng Dương. Tháng Âm bao giờ cũng là tháng 2, 4, 6, 8, 10, 12.
Tuổi Kỷ Mùi đã được tự do tháng 8 năm Đinh Tỵ, đúng tháng Âm.
Câu chuyện thứ hai:
Người con ông Cụ tuổi Nhâm gần nhà đến coi cho cha: “Cha tôi bị đau liên miên, sợ khó qua khỏi”
Năm đó là Mậu Ngọ – Mậu Thổ khắc Nhâm Thủy, ông cụ đau nặng là phải. Qua đến năm Kỷ Mùi, ông Cụ càng đau thêm.
Cụ Thiên Lương nói: “Cụ khó qua khỏi, năm Kỷ còn xấu, Kỷ cũng là Thổ, cũng khắc Nhâm Thủy. Nhưng tháng Giêng này chưa sao đâu, phải phòng tháng 2 hay tháng 4”.
Kỷ là năm Âm, việc xấu do năm báo trước thường xảy ra vào tháng Âm là tháng 2 hay 4…… Tháng 2, ông Cụ tuổi Nhâm mất
Câu chuyện thứ ba:
Một người tuổi Mậu bị bệnh lâu ngày. Năm đó là năm Ất, Ất Mộc khắc Mậu Thổ bị bệnh là phải.
người nhà đến nhờ xem giờ khỏi. Xem lá số tử vi người đó không yểu, Cụ Thiên Lương bảo: Sẽ khỏi trong tháng Âm, mà vào tháng Quý, vì Mậu khắc Quý”.
Quả nhiên, tháng 6 Quý Mùi người đó khỏi bệnh.
Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Hợi qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Hợi, sự xung khắc của tuổi Hợi với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Ất Hợi, Quý Hợi, Tân Hợi, Kỷ Hợi, Đinh Hợi theo tháng sinh và giờ sinh.
Heo là con vật cuối cùng trong mười hai con giáp của người Việt Nam, thế nên, nó là con vật kiên nhẫn vì nó phải đợi tới lượt mình. Người tuổi Hợi là người có bản tính nhút nhát và có vẻ lãnh đạm, nhưng họ rất biết thông cảm và là người đáng yêu.
Người tuổi Hợi thẳng tính và trung thực, và luôn cố gắng để không bao giờ bỏ rơi người khác. Đây là kiểu người hiền hòa, thích đến chốn đông người và những chỗ quen thuộc hơn là những nơi xa lạ.
Mặc dù những người tuổi Hợi không phải là những người chậm chạp nhưng họ là những người thích sự thanh thản sung túc. Trong mười hai con giáp thì con lợn được cho là con tượng trưng cho sự hưởng lạc và an nhàn. Những người tuổi Hợi thường mơ ước được sống một cuộc sống dễ dãi, xa hoa, nhưng những điều đó không nhiều để dành cho tất cả họ, biết thế nên họ đã cố gắng theo cách của họ để có được những thứ mà họ mơ ước. Những người tuổi Hợi thường là những người sống tình cảm và yêu gia đình. Nơi họ ở thường ấm cúng, thoải mái, thân thiện, tuy nhiên cũng khá bề bộn.
Người tuổi Hợi tính tình trầm lặng, chắc chắn, cương nghị, lòng dạ hiền lương, đôn hậu, không nề hà ngại khó và luôn dốc hết sức mình để hoàn thành công việc. Họ đảm nhận mọi công việc được giao với một tinh thần dẻo dai không biết mệt mỏi, dũng cảm, kiên trì và sẽ dốc toàn bộ sức lực để hoàn thành tốt công việc. Do vậy họ luôn được mọi người tín nhiệm và giao phó cho những công việc quan trọng. Họ muốn hoàn thiện bản thân mình bằng tinh thần nhẫn nại, lao động không biết mệt mỏi cũng với tinh thần này, họ có thể trở thành một nhà giáo ưu tú.
Những người tuổi Hợi thường là những người vui tính, tốt bụng và dễ hòa đồng. Họ hào phóng, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, sẵn sàng động viên an ủi. Họ luôn là nguồn động viên khuyến khích người khác phát triển. Họ là những người rất thật thà và đôi khi trở nên quá ngây thơ vì họ nghĩ ai cũng giống họ. Nhưng một khi họ đã mất lòng tin và lên cơn thịnh nộ thì không có gì ngăn cản họ được.
Người tuổi Hợi thuộc mẫu người chất phác, ít màu mè, song lại có những kiến giải rất độc đáo. Tính tình họ ôn hòa, không bao giờ đẩy người khác vào tình thế khó xử. Người tuổi Hợi an phận không thích tranh đấu, chỉ khi bị bức bách đến đường cùng, họ mới phản kháng, nhưng họ chẳng bao giờ để bụng ai và cũng không đối chọi với người khác. Họ ghét phải tranh chấp với mọi người, giỏi tháo gỡ những gợn mắc, mâu thuẫn của người khác, sự chân thành và đáng tin cậy quả là tài sản đáng quí của họ. Họ đối xử với mọi người hòa nhã đồng thời cũng mong người khác chấp nhận những sai sót của mình.
Người tuổi Hợi được mọi người yêu mến do họ biết cách đối nhân xử thế hòa nhã, mềm mỏng giống như người tuổi Mùi, tuổi Mão. Họ khoan dung độ lượng, luôn dịu dàng trước những lỗi lầm của người khác, vì vậy luôn giữ được mối quan hệ thân thiết với mọi người.
Trong suốt cuộc đời, họ luôn trung thực, thành thật và biết nghĩ cho người khác, luôn giữ gìn thận trọng mối giao tình với bạn bè. Họ trân trọng tình bạn, trung thành với bạn dù có thể họ bị thiệt hại. Một người bạn tuổi Hợi luôn muốn giúp đỡ tương trợ khi bạn gặp khó khăn dù cho đó sai lầm của bạn thì người tuổi Hợi vẫn không hề có ý trách cứ mà dốc sức giúp đỡ. Người tuổi Hợi cũng là người dễ tin vào lời nói và việc làm của người khác. Do vậy dễ bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng.
Người tuổi Hợi không thích mê hoặc người ta giống như tuổi Thìn và cũng chẳng giỏi cuốn hút mọi người như Khỉ hay Hổ, càng không nói năng ngọt ngào như Rắn, mà dần dần bộc lộ tấm lòng chân thật với bạn, khiến bạn càng lúc càng khó rời xa họ. Người tuổi Hợi thường chú trọng đến dáng vẻ đường hoàng, vừa có phong thái hào hiệp vừa có tinh thần giúp người làm vui, có thể thay người ra đảm đương những công việc khó khăn mà chẳng than phiền lấy nửa lời, khi bạn bè gặp nỗi nguy nan, họ sẽ giơ thân ra “đứng mũi chịu sào”. Chúng ta có thể hòan toàn tin tưởng họ, vì họ chẳng bao giờ tính mưu gian hay quỷ kế gì. Ngược lại, có khi còn vì quá thành thật, trong sáng mà trở thành vật hy sinh.
Thái độ chân thành của người tuổi Hợi sẽ giúp anh ta giành được sự giúp đỡ từ khắp nơi, họ chưa yêu cầu hay nhờ cậy đã có người tự nguyện đến trợ giúp. Còn khi họ có khả năng giúp đỡ ai, họ quyết không phủi tay bàng quan đứng nhìn. Nhờ phẩm chất này mà họ được mọi người tôn kính, tin tưởng. Họ sẽ không ngừng tạo ra hết kì tích này đến kì tích khác.
Người tuổi Hợi tuy đôi lúc phát cáu, giận dỗi, nhưng họ không ham cãi cọ, mỗi lần nảy sinh tranh chấp, họ thường nhường một bước để sự tình mau chóng kết thúc. Vì họ cố gắng sống hòa nhã, lại không có tính bợ đỡ lấy lòng, giành tư lợi… nên họ yêu thích công tác xã hội, lắng nghe bạn dốc bầu tâm sự hay than thở những đắng cay khổ cực và với một tấm lòng hiền từ, bao dung, họ sẽ nhiệt tình giúp đỡ bạn. Dù bạn gây ra lỗi lầm, họ cũng sẽ không tỏ ý trách cứ mà sẽ dốc sức giúp đỡ bạn, thậm chí còn nhờ cả người khác đôn đáo khắp nơi giúp bạn giải quyết khó khăn. Ở bên họ, bạn sẽ không uổng công hay nghe những lời giáo huấn cứng nhắc, bạn cứ tin rằng, với người tuổi Hợi, mọi vấn đề phức tạp đều có thể được đơn giản hóa.
Khi có một người bạn tuổi Hợi đến nhà bạn làm khách, có thể anh ta sẽ ăn uống một cách rất tự nhiên, mặc quần áo của bạn, chưa được phép song đã sử dụng cái máy ảnh bạn vừa mua, xe ôtô của bạn… Anh ta không hiểu lắm và cũng không chấp nhận cái nguyên tắc gọi là “cuộc sống riêng tư”.
Tuổi Hợi là người theo chủ nghĩa vật chất, song họ không keo kiệt mà thích chia sẻ với người khác những gì mình có. Họ luôn bảo vệ được lợi ích của mình mà không làm mếch lòng ai cả. Họ hiểu rằng phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng thái độ nhẫn nhịn. Khi có người đè đầu cưỡi cổ họ, họ tự biết cầm cây roi lên, khi người khác còn đang dương dương tự đắc thì đã vào thế cưỡi lên lưng hổ, khó mà thoát thân. Đây quả là một sách lược đáng khen.
Người tuổi Hợi khá chú trọng đến hình thức bên ngoài dù không lấy đó là mục đích chính. Họ ưa thích các buổi tụ họp, tổ chức những buổi kỉ niệm chúc mừng ngày lễ ngày tết, hay chủ trì các buổi dạ hội. Họ vui lòng tham gia các loại tổ chức câu lạc bộ, hội nhóm…
Phụ nữ tuổi Hợi là người dịu dàng, mềm mỏng, họ luôn sắp đặt nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, mọi thứ trong nhà được bày biện ngăn nắp, gần như hết thảy phụ nữ tuổi Hợi đều như vậy, chỉ có một số ít hơi tùy tiện. Ngoài ra họ có cá tính mạnh mẽ, tôn trọng bản thân và cũng tôn trọng người khác, họ có thể dồn toàn bộ sức lực vào những công việc họ yêu thích mà chẳng cần bất cứ sự đền đáp nào. Bạn hoàn toàn có thể tin tưởng vào những hành động chắc chắn của họ. Họ có một tấm lòng cao thượng, giúp người không để lộ danh tính. Họ sẽ tiếp đón bạn bè của chồng một cách chu đáo, chẳng hề ngại ngần hay thấy phiền phức, thậm chí lấy đó làm vui. Họ xuất hiện ở đâu, nơi đó lập tức trở nên nhộn nhịp. Nhưng thế không có nghĩa là họ không biết oán thán, nhưng khi oán thán cũng vẫn rất đỗi ôn hòa.
Người tuổi Hợi khá nhẹ dạ, dễ tin vào mọi chuyện người ta kể, dù đó là người mới quen biết sơ sơ. Vì vậy họ rất dễ mắc lừa. Họ sẽ mất tiền mất bạc vì tính cả tin ấy. Không nên để họ quản lý tài vụ, vì họ hay mềm lòng, sẽ giữ tiền không mấy chặt chẽ. Mặt khác, thế giới tinh thần của họ khá nghèo nàn, nông cạn, chỉ thấy cái hiện tại, trước mắt. Có lẽ chính vì đặc điểm này nên họ ngại gặp phải khó khăn, từ nhỏ họ đã sợ hãi, né tránh tai họa.
Người tuổi Hợi có thể tự nuông chiều mình quá mức và có một lối sống không lành mạnh, nhưng họ là người tốt. Họ tin rằng mọi người đều tốt và sẽ không làm tổn thương đến bất kỳ ai. Bản chất của họ là người tốt, nhưng đừng nhầm điều đó với sợ hãi hay hèn nhát, vì nếu cần thiết, họ sẽ tự bảo vệ chính mình.
Phía sau vẻ lương thiện, người tuổi Hợi còn ẩn chứa một sức mạnh kiên định, chỉ cần có cơ hội, họ sẽ ngồi vào ngôi báu của bậc quân vương. Có điều, với các nhược điểm quá thận trọng, canh trước dòm sau lại tạo ra không ít trở ngại trên con đường tiến thân của họ. Ngoài ra họ còn thiếu lòng tin, khi bị hạn chế hoặc cảm thấy không vui, họ có thể buông xuôi, nhường hết cho đối thủ, còn mình đi lập công giành phần thưởng ở chỗ khác. Người tuổi Hợi rất thành thực, chỉ cảm thấy tự hào, hãnh diện trước những thành quả lao động vất vả của bản thân, nên ít khi trở thành kẻ lừa bịp hay trộm cắp.
Người tuổi Hợi có tình cảm mãnh liệt, họ hoàn thành công việc với sức khỏe dồi dào và tinh thần nhẫn nại tuyệt vời, đặc điểm này khiến người ta khâm phục họ. Nhưng năng lượng của họ có thể sẽ biến thành mầm họa, khi họ không phân biệt được thiện ác đúng sai của những việc đó, sẽ bị người lợi dụng nhược điểm này để hãm hại, không thể tự thoát ra.
Một người tuổi Hợi thành thực, thuần phác hết lòng yêu quí những người mình cảm mến và không bao giờ che đậy tình cảm ấy. Nếu như yêu không thành, người chịu tổn thương luôn là người tuổi Hợi.
Nhược điểm chủ yếu của họ là không nói được đến nửa chữ “không” với người thân, bạn bè của mình. Trong rất nhiều chuyện họ luôn ép người khác phải có thái độ trung dung giống họ để giải quyết rắc rối. Họ không phân biệt rạch ròi đâu đúng đâu sai, nhưng khi sự việc kết thúc không suôn sẻ, họ sẵn sàng đứng ra nhận trách nhiệm.
Trong suốt cuộc đời, ít nhất họ cũng gặp một lần phá sản, nhưng cuối cùng cũng được bù đắp trở lại, nhờ đó càng khôn ngoan, dũng cảm hơn trước. Người tuổi Hợi tin tưởng quan niệm số mệnh, khi trắng tay, họ sẽ vô cùng oán ghét thế giới, buông thả bản thân, từ đó chìm vào vực thẳm trầm luân. Nguyên nhân khiến họ rơi vào hoàn cảnh khủng hoảng là do họ quá khẳng khái. Khi họ đưa ra yêu cầu, người khác không sao đáp ứng được, hoặc không ai đủ khả năng giúp đỡ người đó, nhưng họ chịu không đối diện với hiện thực, mà chán nản, thất vọng đến cực độ.
Người tuổi Hợi có trình độ tu dưỡng văn hóa nhất định, nhưng họ không thuộc vào lớp người thật cao trong xã hội. Họ ưa thích thưởng thức giá trị bề ngoài của sự vật mà thiếu kiến thức sâu sắc.
Người tuổi Hợi luôn thích được vui vẻ và thường cho phép mình được hưởng thụ nhiều hơn mức giới hạn. Họ ăn, uống và hút thuốc quá nhiều và điều đó dẫn tới bệnh tật. Khi họ đã phát triển thói quen sống không tốt thì họ tăng cân và không khỏe mạnh nữa. Hiển nhiên là họ có thể được lợi từ việc sống một lối sống lành mạnh hơn.
Tốt bụng, không đòi hỏi nhiều, vì thế họ có rất ít kẻ thù, và rất nhiều bạn. Họ có tài nấu nướng và thường thích tổ chức tiệc tùng. Người tuổi Hợi thường là người luôn có tình cảm nồng ấm, đầy yêu thương, họ là những người của hôn nhân gia đình.
Biết thông cảm và quan tâm là hai đặc điểm khiến người tuổi Hợi thành người bạn đời tuyệt vời. Đồng thời, họ cũng là người ngây thơ, ngọt ngào, nhút nhát và bảo thủ, và là kiểu người lãng mạn. Họ là người tận tâm, nhưng nếu họ chọn nhầm người thì việc đó có thể dẫn tới đau khổ và nỗi buồn, vì người tuổi Hợi rất chung thủy với người mình yêu mến. Nếu thật sự có đổ vỡ thì họ cũng sẽ hồi phục được và sẽ rút ra được bài học kinh nghiệm. Nhưng trên hết, họ là người cho, và người bạn đời của họ không nên lạm dụng điều đó, vì họ có thể nổi giận và bỏ đi.
Người tuổi Hợi đa phần phẩm hạnh đoan chính, tâm hồn thuần khiết, thành khẩn, thẳng thắn, lòng dạ hiền lương, lương thiện, vì thế mọi người đều vui thích khi ở bên họ. Người sinh năm Hợi thường chân thật trong chuyện tình cảm, ít khi có ý nghĩ đen tối hãm hại người khác. Nếu bạn yêu một người tuổi Hợi, anh ta sẽ không bao giờ lừa dối hay đùa giỡn bạn mà rất chân thành. Tuy nhiên, đôi khi người tuổi Hợi tạo cho người khác cảm giác sai lầm rằng anh ta ngốc nghếch, ngớ ngẩn, nên thường bị lừa gạt và đùa bỡn, trêu chọc. Người tuổi Hợi rất lạc quan, yêu đời, tuyệt đối sẽ không làm điều gì dại dột vì tình.
Sự đắm tình và nét đáng yêu của người tuổi Hợi sẽ giúp bạn có được những bước tiến dài trên đường tình duyên, bạn sẽ cảm nhận được tình cảm suôn sẻ, ngọt ngào. Người bạn đời của bạn dường như càng lúc càng thấu hiểu con người bạn, bạn sẽ cảm thấy nỗi vui sướng bội phần trong tình yêu. Hơn nữa họ sẽ không vì chút xíu chuyện vặt mà nổ ra cuộc đấu khẩu, điều này sẽ mang đến thật nhiều niềm vui, tình cảm khó mà rạn nứt hay nhạt phai.
Người tuổi Hợi thuộc mẫu thiên về vật chất, họ rất biết cách hưởng thụ cuộc sống. Đôi khi lại là kẻ ham mê, đắm chìm trong nhan sắc. Nói chung, người tuổi Hợi ít khi chủ động bắt quen người khác, nếu anh ta hồ hởi trò chuyện với ai, hẳn anh ta đã có cảm tình với người đó rồi.
Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không biết cách chinh phục người con gái mà mình đem lòng yêu mến. Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nhược điểm chính của họ là không thể hiện thái độ rõ ràng trong tình yêu. Điều này thường khiến các cô gái cảm thấy mình không được tôn trọng. Tính cách nam giới tuổi Hợi gần giống nữ giới tuổi này, cũng là một người ôn hòa, lương thiện nhưng có một ưu điểm trội hơn họ, đó là đầu óc tỉnh táo và kiên nghị. Quan điểm về tình yêu của họ thiếu hẳn sự chủ động, song đầy ắp mộng ước. Họ thường mong có được một mối tình nồng nàn, cháy bỏng nhưng trên con đường kiếm tìm thường cảm thấy cô độc, lạnh lẽo.
Tuy họ có rất nhiều ưu điểm, song không hẳn là không có khuyết điểm. Điểm thiếu sót chính là ở chỗ Nam giới tuổi Hợi luôn có thái độ đòi hỏi sự khẳng định, chắc chắn trong tình yêu – chính bởi vì có lẽ họ thường xuyên bị lừa gạt và đùa giỡn nên phải áp dụng biện pháp tự bảo vệ đó. Họ quan niệm về gia đình khá cứng nhắc, đòi hỏi vợ con phải có thái độ chung thủy, không thờ hai chủ, tuyệt đối không được “bắt cá hai tay”, điều đáng tiếc là, những khi ấy họ thường không biết biểu đạt, khuôn mặt lạnh lùng, vô cảm, có thể khiến vợ con hiểu lầm.
Nữ giới tuổi Hợi thường có tính cách ôn hòa, lương thiện, tình cảm phong phú. Họ cũng rất coi trọng tình yêu. Với đối tượng mà mình thích, nữ giới tuổi Hợi thường không mạnh dạn bày tỏ tình cảm một cách trực tiếp nhưng lại biết cách ra hiệu ngầm hoặc cố tình tạo cho đối phương cơ hội được tiếp cận mình. Khi yêu, họ sẽ hết lòng vun đắp cho tình yêu. Tuy nhiên, một số cô gái tuổi Hợi có nhược điểm là khá thẳng tính và bướng bỉnh. Có điều họ lại thường không bộc lộ những tính cách này trước mặt người khác. Mềm yếu và cảm tính khi giải quyết công việc cũng là một nhược điểm của họ.
Trong mắt người khác phái, người nữ tuổi Hợi là một người tình đáng yêu hoặc một cô vợ bé bỏng dịu dàng, khiến phái mạnh rất muốn che chở, bao bọc, bởi vậy họ được rất nhiều chàng trai theo đuổi. Tình yêu giúp họ sau khi lập gia đình có thể trở thành một bà mẹ tốt. Họ không thích chủ động, mà thích được người khác quan tâm, và là người ủng hộ hôn nhân kiểu cũ. Khi họ đã kết hôn, chồng họ rất yên tâm về gia đinh, vì họ rất đảm đang, coi sóc việc nhà đâu ra đấy, quả đúng là một người vợ hiền đích thực.
Người tuổi Hợi không có nhiều tham vọng lắm đến mức phải đạp đổ người khác để tiến lên. Họ cố gắng để được thành công nhưng không muốn người khác phải trả giá. Họ là người chậm chạp nhưng trung thành với công việc và sẽ làm tốt việc của mình. Họ là người tỉ mỉ và là người có thể trông cậy được – đây là một đặc điểm hữu ích nếu xét về mặt quản lý.
Dễ thích nghi, kiên nhẫn, nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc là điều dễ nhận thấy ở họ vì thế lĩnh vực nghệ thuật như ca múa, viết văn, hội họa... sẽ là mảnh đất để họ khẳng định và phát huy tài năng. Đặc biệt, những người này có thể trở thành những nhà thiết kế thời trang xuất sắc, những thợ thủ công giỏi, vì những người này thường thích những mẫu thời trang xinh xắn. Sự kiên nhẫn và chu đáo cũng giúp họ thành công trong những ngành như dạy học, y dươc.
Người tuổi Hợi khá điềm đạm, không thích cuộc sống bon chen. Do đó, những nghề nghiệp mang tính chất cạnh tranh đều không phù hợp với họ. Ngược lại, những ngành nghề phục vụ lợi ích cộng đồng sẽ tạo cho họ môi trường làm việc thích hợp và sự hứng thú cao. Người tuổi Hợi thường rất ham học hỏi và luôn cố gắng hết mình trên con đường học tập. Điều này có thể giúp họ rất nhiều trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu.
Người tuổi Hợi được đánh giá là rất “mát tay”, vì vậy các nghề như thú ý, chăn nuôi hoặc ngành lâm nghiệp cũng rất phù hợp với họ. Đây là những công việc giúp họ có được cuộc sống bình lặng như mong muốn. Nếu với nguời tuổi Tuất, quản lý tài chính được coi là sở trường thì với người tuổi Hợi có thể coi đó là sở đoản. Việc giao phó tiền tệ vào tay họ chẳng khác nào đang chơi trò mạo hiểm. Lời khuyên dành cho những người này là không nên theo đuổi ngành nghề kinh doanh, thương mại hoặc bất cứ công việc gì có liên quan đến tài chính, ngân hàng.
Điểm nổi bật của doanh nhân tuổi Hợi là tính cách ôn hòa. Điều này cũng thể hiện trong công việc kinh doanh của họ. Họ không thích tham gia vào môi trường làm ăn có tính cạnh tranh khốc liệt. Tuy không thích sự gò bó trong công việc nhưng họ cũng ngại khi phải đối mặt với những kế hoạch làm ăn có tính mạo hiểm. Trong kinh doanh, doanh nhân tuổi Hợi thường duy trì các mối quan hệ một cách hài hòa. Họ cũng sẵn sàng giúp đỡ bạn hàng khi gặp khó khăn.
Người tuổi Hợi trung thành và giỏi giao tiếp, điều này đã mang lại cho cuộc đời họ nhiều điều tốt đẹp. Họ thường làm việc rất chăm chỉ, nhưng nhiều khi lại làm qua loa, đại khái. Vì vậy, lời khuyên dành cho những người này là nên tìm người có tính cẩn thận, biết suy nghĩ thấu đáo để hợp tác trong công việc. Trong lĩnh vực kinh doanh, họ nên xem xét kỹ càng trước khi mạnh dạn đầu tư vào dự án nào đó. Vì chỉ cần bất cẩn một chút là họ sẽ bị thua lỗ lớn.
Nếu người tuổi Hợi biết cách xử lý tình huống tốt và vượt qua được những thử thách thì nhất định họ sẽ trở nên giàu có. Đến một lúc nào đó, họ sẽ có được một khoản thu dồi dào. Nếu muốn đầu tư cho việc kinh doanh thì lời khuyên dành cho họ là nên bỏ tiền vào lĩnh vực bất động sản hoặc chứng khoán. Người tuổi Hợi có bản lĩnh, không ngại khó khăn gian khổ, luôn dũng cảm đương đầu với mọi thử thách, cám dỗ. Điều này giúp họ đạt được nhiều thành công khi theo trong sự nghiệp.
Tuổi thơ của người tuổi Hợi rất bình lặng, không lo không nghĩ, nhưng đến thời kỳ thanh niên và trung niên sẽ có những thăng trầm nhỏ, chẳng hạn như phiền muộn về tình yêu – hôn nhân khiến bạn khó lòng ứng phó được. Tuy nhiên với tính cách cả thẹn và thận trọng, dù gặp bất cứ chuyện gì bạn cũng muốn giải quyết một mình. Cái tính cách quá kín đáo này trong nhiều trường hợp bắt buộc phải nói ra thì chỉ hại nhiều lợi ít mà thôi.
Dĩ nhiên tuổi già của bạn khá hạnh phúc, cuộc sống cũng rất yên ả. Do bạn luôn trọng trách nhiệm và trung thành với gia đình, nên những sóng gió trong tình yêu, hôn nhân thời trẻ đã qua đi từ lâu, bạn sẽ cảm thấy mọi việc thật mãn nguyện biết bao.
Người tuổi Hợi vốn có tài vận trời ban, bạn phải nỗ lực nắm bắt, có thể bằng sự cần cù, cố gắng của bản thân, cả đời bạn sẽ được sung túc, dư dả. Thế nhưng, nói đi rồi nói lại, dù bạn không có đủ tài vận hễ vung tay là giơ được ngàn vàng, song nhờ vào lòng tin và sự nỗ lực, tiền của sẽ đến, bạn không chỉ dựa vào những cố gắng của bản thân mà còn nhận được ân huệ người khác không sao tưởng tượng nổi. Bởi vậy nhất định bạn phải chú ý đến mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh. Nói chung, người sinh năm Hợi đều có tài lộ trời ban.
Nếu như bạn đang kinh doanh, buôn bán, tốt nhất hãy mạnh dạn một chút, chọn đúng thời cơ rồi thì phải mạnh dạn đầu tư, dĩ nhiên cũng cần thận trọng lựa chọn. Nếu hơi sơ sẩy tiền tài sẽ bay hết. Chỉ cần qua vài cửa ải khó khăn, việc kinh doanh sẽ ngày càng tiến triển tốt.
Thông thường, người tuổi Hợi không giỏi quản lý tài vụ, đặc biệt là không biết đặt kế hoạch phát triển trong lĩnh vực thương mại – buôn bán. Dù bản thân có lòng tin, nhưng hay thất bại. Về điểm này, bạn nên nhận thức một cách tỉnh táo. Ngoài ra, do luôn trọng nghĩa khí, nên thường mất nhiều tài sản vì bạn bè và người thân, nên bạn cũng cần chú tâm đến điều này.
Tiết Đầu xuân, vạn vật sinh sôi nảy nở, thông minh hiền lành, hoạt bát lanh lợi, được mọi người tôn trọng, đường lợi lộc hanh thông, có hạnh phúc tự nhiên trời ban, danh lợi vẹn cả đôi đường, có thể thành đại nghiệp, vinh tiến rạng rỡ, hạnh phúc vô tận.
Tiết Kinh trập, có thể thành đại công, đại linh nhân kiệt, danh gia vọng tộc, môn đệ nhà hiếm quí, bản tính thông minh có trí tuệ, thái độ chuyên quyền, tôn nghiêm, tinh lực suy mãn, hướng điều tốt lành đến hết đời.
Tiết Thanh minh, sức khỏe dồi dào, khí chất kiên cường, thậm chí khó hòa hợp, chí khí cao thượng, được mọi người kính phục.
Tiết Lập hạ, bản tính thông minh, nhanh nhạy, chức vị quyền quí cao sang, tuy gặp chút ít khó khăn, song vẫn tròn chí lớn, sự nghiệp như ý, nhiệt thành trung hậu, số mệnh vô cùng tốt lành.
Tiết Mang chủng, tính tình ôn nhu, có chút tài năng, song không có quyền lực. Sẽ rất thành công ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, kỹ thuật, muốn theo nghiệp lớn, song không mạnh dạn theo đuổi, cả đời bình lặng, được hưởng phúc về già.
Tiết Tiểu thử, tính tình lười biếng, thiếu thực lực, mọi chuyện đều nhu nhược, không quyết đoán, hành sự bất thành, không có tinh thần cầu tiến, phúc họa vô thường, thăng trầm bất định.
Tiết Lập thu, ăn mặc dồi dào, tính tình độc lập, không thích dây dưa chuyện người, mọi việc đều thuận buồm xuôi gió, thế lực cường thịnh, ra vào tự do, tốt lành hanh thông, nếu biết dưỡng tâm nhu đức phẩm hạnh, ắt có ngày thành công.
Tiết Bạch lộ, quyền uy có sẵn, có thể làm lãnh tụ, sự nghiệp toại nguyện, được mọi người kính phục, nhưng phải khó khăn, dần dần thăng tiến, giống như leo từng nấc thang, ắt có ngày độc chiếm bảng vàng, uy phong lẫm liệt.
Tiết Hàn lộ, thức ăn dồi dào, thân hình đầy đặn, hưởng lộc trời ban, được mọi người mến mộ, nhàn rỗi thảnh thơi, tiêu dao tự tại, nhẫn nại kiên trì, sẽ được vinh hoa phú quí.
Tiết Lập đông, an hưởng hạnh phúc trời ban, con người đoan chính thuần hậu, được mọi người mến mộ, tuy xuất thân hàn vi, nhưng tự lập, phấn đấu thì có thể thay đổi số phận, phú quí thành công, về già càng được hưng vượng.
Sinh tháng mười một
Tiết Đại tuyết, dung mạo tươi tỉnh, ngũ quan hài hòa, thân hình đầy đặn, trung hiếu, lễ nghĩa, cố chấp khó thay đổi, ăn mặc cả đời không hết, hưởng phúc tự nhiên, danh lợi vẹn toàn, suốt đời không ưu tư sầu não.
Tiết Tiểu hàn, tuy có lộc trời ban nhưng không có quyền lực, thân hình béo tốt, cử động bất tiện, dữ nhiều lành ít, phải phòng họa cả bên trong lẫn bên ngoài, không có tài năng, uổng chí bình sinh.
So với những người cùng sinh tiêu, người tuổi Hợi mệnh Hỏa thẳng thắn và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, điều này đôi khi khiến họ trở nên thiếu linh hoạt trong cách nhìn nhận và xử lý công việc. Họ là người tự tin, chính trực. Họ cũng thích giúp đỡ người khác và ngược lại, họ cũng được nhiều người yêu mến và nhiệt tình giúp đỡ khi gặp khó khăn. Họ thường xác định mục tiêu rõ ràng và theo đuổi đến cùng để hoàn thành mục tiêu đó.
Tuy nhiên, cũng có một số người tuổi Hợi mệnh Hỏa thiếu kiên nhẫn và nôn nóng. Khi tiến hành công việc vì muốn nhanh chóng có được thành công nên có khi họ phải đối mặt với không ít vấn đề bất lợi do chính mình gây ra. Bình thường người tuổi Hợi mệnh Hỏa tỏ ra khá trầm tĩnh nhưng khi cần bộc lộ chính kiến, họ sẽ tranh luận rất nhiệt tình. Họ coi trọng gia đình, coi trọng luân thường đạo lý. Tuy nhiên, trong tình yêu, một số người tỏ ra khá cố chấp. Cho dù đơn phương theo đuổi ai đó họ cũng sẽ cố gắng đến cùng.
Người này thường hay thay đổi tâm tính. Nếu có quý nhân phù trợ, họ có thể kiên nhẫn giải quyết mọi khó khăn trong hoàn cảnh bất lợi. Nếu không có quý nhân phù trợ, cuộc sống của họ sẽ trải qua nhiều thăng trầm và ít bạn bè. Một số người tuổi Hợi mệnh Thổ thường rơi vào trạng thái tâm lí mâu thuẫn do chính bản thân tạo ra. Đó là mâu thuẫn giữa sự tự tin, quyết đoán nhất thời và tính hay do dự, lo lắng của họ. Chính vì vậy, họ hay xét lại vấn đề và cảm thấy lúng túng, thậm chí là khổ sở. Họ có lòng tự tôn cao, dễ gây cho người khác sự hiểu lầm không đáng có. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, hai bên sẽ hiểu và thông cảm với nhau nhiều hơn và tình cảm sẽ trở nên rất tốt đẹp.
Trong quá trình phát triển sự nghiệp, họ rất biết cách học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Họ đối xử chân thành với mọi người nên vấn đề tạo dựng được các mối quan hệ tốt, thuận lợi cho công việc trở nên khá dễ dàng. Nếu sử dụng kinh nghiệm của người đi trước một cách có hiệu quả thì sự nghiệp của họ sẽ còn phát triển thuận lợi hơn nữa. Họ rất coi trọng gia đình và sẽ luôn cố gắng để làm tròn bổn phận của mình. Họ cũng không quá nhiệt tình khi tham gia vào các hoạt động xã hội vì những hoạt động này ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân của họ
Người này thường rất khiêm tốn, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, biết cảm thông, bao dung với người khác. Họ luôn lạc quan và rộng mở tấm lòng trong cuộc sống của mình. Vì vậy, tuy cuộc sống còn nhiều ưu phiền, trắc trở nhưng họ vẫn luôn an tâm, lạc quan tiến tới. Họ cũng thường khoan dung với chính bản thân mình.
Người tuổi Hợi mệnh Mộc rất chuyên tâm vào công việc nhưng đôi khi cũng bỏ cuộc giữa chừng, nhất là khi công việc gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở thì sự không kiên định của họ lại càng được thể hiện rõ nét hơn. Họ thích hành hiệp trượng nghĩa và cũng thích được nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến. Họ luôn tỏ ra nghị lực, đối xử thân thiện và hết lòng vì bạn bè. Người này cũng không tiếc công sức khi tham gia các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng. Đây là người biết cách lập kế hoạch cũng như xác định bước đi tiếp theo của mình là gì, luôn suy tính kỹ càng trước khi quyết định hành động.
Họ có những kiến giải rất độc đáo cũng như tính toán kỹ về mặt lợi nhuận khi quyết định đầu tư vào công việc nào đó. Tình cảm của họ rất trong sáng. Tuy nhiên, họ không thể nhận biết rõ ràng nếu trót làm tổn thương đến bạn bè nên thường bị liên lụy một cách vô thức. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì người này có thể gặp được rất nhiều cơ hội tốt và có địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ trở thành những người dễ thay đổi, không giữ được tiết khí ban đầu của mình. Họ chỉ có thể tạo dựng được sự nghiệp nhỏ nhưng phải trải qua nhiều gian khổ.
Người này thường có chí lớn và luôn lạc quan. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì rất có thể họ sẽ có con đường công danh hiển đạt, có địa vị cao, có khả năng giúp đỡ mọi người, được nhiều người trọng vọng, yêu mến. Tuy nhiên, nếu không được sao tốt tương trợ, họ lại thường phạm phải những sai lầm không đáng có chốn quan trường, thường xuyên lừa gạt mọi người. Tuy mọi việc tương đối thuận lợi nhưng lại không thu được nhiều lợi nhuận.
Họ là những người không câu nệ hình thức. Họ cũng có ý thức độc lập và sẽ không thay đổi quan điểm của mình vì ý kiến đánh giá của những người khác. Đôi khi, họ tỏ ra rất dũng cảm và có thể làm được nhiều việc lớn, khiến cho mọi người rất ngạc nhiên. Họ có tính cách hào phóng, thường khẳng khái giúp đỡ mọi người nếu việc đó nằm trong khả năng của mình. Đây là người có ý chí rất kiên định. Một khi đã xác định được mục tiêu, họ sẽ phấn đầu hết mình để thực hiện nó.
Tuy nhiên, đôi khi họ cũng khá nóng vội nên có thể dẫn đến thất bại. Người tuổi Hợi mệnh Kim thường không suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động. Tuy nhiên, sự ngoan cố đôi lúc có thể giúp họ giành được thành công. Họ thích tự lực cánh sinh nhưng lại thiếu linh hoạt trong cuộc sống.
Họ thường thích hưởng thụ cuộc sống tự do tự tại ở nơi bình yên, vắng vẻ. Đây là người luôn khiêm tốn, cẩn trọng và có tấm lòng rộng mở. Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ tài hoa hơn người, thường làm nhiều việc nghĩa và được thăng quan tiến chức nhanh chóng. Nếu không có sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ vẫn có thể được hưởng cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng cũng phải chịu đựng nhiều nỗi ưu phiền; hoặc tuy là quan chức nhưng vì quản lý thường không yên ổn; hoặc sẽ thuộc dạng "đục nước béo cò", tuy có một số lợi nhuận ngoài ý muốn nhưng cũng tồn tại khá nhiều điều nguy hiểm và khi biết sai thì cũng đã quá muộn. Họ là những người linh hoạt, có khả năng giao tiếp xã hội tốt.
Họ cũng có trực giác nhạy bén và nếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư thì sẽ thu được nhiều nguồn lợi lớn. Người này rất có đầu óc kinh doanh nhưng lại khá tiêu cực và bị động trong việc quản lý tài sản. Trừ khi người khác có đầy đủ lý do và thuyết phục được họ một cách tuyệt đối, nếu không họ sẽ không bao giờ chịu mở hầu bao của mình. Đường tài vận của họ khá hanh thông, thường nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà thu được nhiều tiền tài. Về cơ bản, họ là người coi trọng tình cảm, một số người dễ mắc vào lưới tình. Họ có thể dốc hết tâm sức vì người mà mình thực sự yêu thương.
Tuổi Tí thích là trung tâm của sự chú ý trước đám đông và đối xử với người mình yêu quý bằng sự nhiệt thành và độc đáo. Còn tuổi Hợi luôn đặt bạn bè và gia đình là yếu tố quan trọng hàng đầu, nên Hợi trở thành thành viên rất tích cực trong đám đông. Điểm yếu của tuổi Hợi là quá lạc quan và lý tưởng hóa người khác. Chính vì vậy, đôi khi con giáp này không nhìn thấy một số tính xấu của tuổi Tí: sự tham lam và có lúc hơi mưu mẹo một chút.
Nhưng điều đó cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến mối quan hệ của hai người vì Chuột thông minh, dí dỏm và đặc biệt kiếm tiền rất tốt. Đây mới chính là điểm mà tuổi Hợi mong đợi. Hơn thế nữa, tuổi Hợi rất thích xài đồ hiệu và tuổi Tí rất “khoái” đặc điểm này. Bởi vậy nên cả hai này khá hòa hợp. Hai “hành tinh” này cãi cọ khi tuổi Tí “sống nhanh” không còn đủ kiên nhẫn với tuổi Hợi lúc nào cũng thích ngủ muộn và chậm trễ.
Trong kinh doanh, Tí và Hợi phải điều chỉnh thì mới có thể tiếp tục mối quan hệ. Tí nhanh nhạy và thiên hướng kiếm tiền tốt, biết cách tận dụng người khác để làm giàu. Hợi yêu sự giàu có nhưng trong mắt của tuổi Tí, Hợi lười hơn so với những gì Tí mong đợi. Điều này khiến Tí thỉnh thoảng nặng lời. Mặc khác, tuổi Hợi khá kiên định lập trường, khi đã đưa ra quyết định, khó lòng thay đổi. Tính cách này có 2 mặt đối với mối quan hệ của hai người, phụ thuộc vào hành động mà tuổi Hợi làm có trùng khớp với điều mà tuổi Tí muốn hay không.
Sửu và Hợi kết hợp khá ăn ý, đặc biệt khi họ là một cặp uyên ương. Họ có thể ở bên nhau cả ngày, quanh quẩn với chiếc giường, buồng tắm, tầm quất cho nhau, cùng ăn uống và tận hưởng cuộc sống. Không phải vì hai con giáp này lười biếng mà họ rất hợp nhau ở những khoản trên. Trên thực tế, tuổi Sửu sống thực tế và rất nghiêm túc; còn tuổi Hợi thì luôn đề ra các mục tiêu cho mình. Tuổi Sửu luôn có xu hướng tạo cho ngôi nhà của mình không khí hài hòa và yên tĩnh, đây cũng chính là điều mà tuổi Hợi mong đợi. Biết rằng Sửu thường ngại ngùng, nhút nhát nên Hợi thường tìm cách kéo Sửu đi cùng mình trong các cuộc vui để Sửu mở mang và năng động hơn. Bên cạnh đó, Hợi cũng rất vui khi được ở nhà cùng Sửu vì Sửu vốn thích quanh quẩn trong nhà hơn là các hoạt động xã hội.
Nếu là đối tác làm ăn, họ sẽ kết hợp khá thành công. Tuổi Hợi làm việc rất chăm chỉ vì lý tưởng của mình. Đây là điều mà tuổi Sửu đánh giá rất cao. Người tuổi Hợi vốn khá cầu toàn nhưng cũng đánh giá rất cao khả năng của tuổi Sửu. Hợi thường có xu hướng nhìn vào điểm tốt của những người khác và thấy được rằng tuổi Sửu rất trung thực, đáng tin cậy và có năng lực. Bởi vậy, Hợi rất hài lòng. Sửu không bao giờ lợi dụng những gì Hợi có, nhất là tính cách dễ bị mắc lừa của Hợi như các con giáp khác có thể làm. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi cả hai “hành tinh” này đều bướng bỉnh, không ai chịu nhường ai. Tuổi Hợi thích làm theo cách của mình còn tuổi Sửu rất khó thay đổi ý định khi đã có niềm tin.
Dần và Hợi có thể trở thành một cặp ăn ý nếu cả hai cùng ứng xử linh hoạt và tin tưởng lẫn nhau. Tuổi Hợi dễ tính, rộng lượng và thường đánh giá người khác qua những điểm tích cực. Điều này khiến mối quan hệ của hai người thêm nhẹ nhàng và thoải mái. Dần lịch sự và luôn sống lạc quan. Tuy nhiên, có một số những tình huống khiến hai con giáp này chuyển từ thái độ tích cực thành tiêu cực. Với người tuổi Dần, những người muốn sở hữu và hạn chế sự tự do Dần đều khiến mối quan hệ giữa hai người trở nên xa lạ mà thôi. Tự do và quyền tự chủ là yếu tố hết sức quan trọng với Dần. Còn Hợi thích được sự hỗ trợ của người khác và muốn hướng về gia đình nhưng đôi khi không tìm thấy điều đó ở Dần.
Nếu mối quan hệ giữa Dần và Hợi là tình cảm lứa đôi, hai tuổi này cần tạo không gian riêng cho nhau để làm theo những điều mỗi người mong muốn. Hợi phải nhường nhịn Dần và ngược lại Dần cần hỗ trợ Hợi càng nhiều càng tốt. Nếu Dần cảm thấy bản thân mình không bị ràng buộc và hạn chế tự do bởi Hợi thì mối quan hệ của họ sẽ có chiều hướng phát triển tích cực. Khi là đối tác kinh doanh, Dần và Hợi sẽ tạo thành một tập thể vững vàng với điều kiện cả hai cùng đi chung một con đường. Hợi khá chăm chỉ và sự nỗ lực của Hợi sẽ tạo tiền đề thật tốt để Dần phát triển ý tưởng sáng tạo trong kinh doanh.
Mão và Hợi sẽ tạo thành mối quan hệ khá hài hòa. Tuổi Hợi cảm thấy thoải mái và sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ người mình yêu quý. Điều này rất cần cho Mão bởi tuổi Mão vốn cần sự hỗ trợ từ bạn bè, người thân khi gặp rắc rối để giữ được cân bằng cho cuộc sống. Bởi vậy, hai con giáp này hỗ trợ rất đắc lực cho nhau và tạo thành một cặp bài trùng ăn ý. Bên cạnh đó, có thể kể đến một số tính cách khác nữa để thấy hai tuổi Mão và Hợi hợp nhau. Hợi vốn rộng lượng và thường chỉ nhìn vào những điểm tốt của người khác. Trong khi đó, Mão khi làm bạn với ai thường rất thấu hiểu và cảm thông. Bởi vậy, hai tuổi này thường bỏ qua được lỗi lầm của nhau và cùng sống chan hòa.
Những điểm yếu của Mão như nhút nhát, bị động và thường đưa ra ý kiến chủ quan… thường vượt quá sự chịu đựng của một số con giáp. Nhưng riêng với Hợi thì những tính cách đó chẳng có ảnh hưởng gì tới mối quan hệ của hai người. Bù lại, tuổi Mão cảm thấy rất hạnh phúc vì có Hợi bảo vệ và che chở. Bởi thế nên Mão luôn trung thành và hết lòng vì Hợi. Khi là hai người yêu nhau, Mão và Hợi sẽ là một cặp trời sinh. Ngôi nhà chung của họ sẽ đầy ắp tiếng cười và không khí ấm cúng. Nếu là đối tác làm ăn, Hợi sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến và Mão sẽ gửi trọn niềm tin đối cho Hợi. Hợi sẽ lắng nghe sáng kiến của Mão và hai con giáp cùng nhau xây dựng một đế chế phát triển bền vững.
Thìn và Hợi là những người bạn, người tình tuyệt vời. Tuổi Thìn dũng cảm, thích sống độc lập và tin tưởng vào tình yêu. Còn tuổi Hợi rất nhẹ nhàng và sống tình cảm. Với Hợi, chẳng có gì quan trọng hơn gia đình và bạn bè. Hợi rất quan tâm tới chuyện ăn uống, chuyện tình cảm và công việc gia đình. Mặc dù, Thìn không hứng thú lắm với việc quanh quẩn bên gia đình nhưng hai con giáp này biết cách tạo sức hút để luôn quấn quýt bên nhau.
Tuy hai “hành tinh” này đem đến cho nhau những cảm giác thật tuyệt vời trong tình yêu nhưng họ vẫn cần để cho nhau có khoảng trời riêng. Tuổi Hợi cần để cho Thìn chạy theo những sở thích của riêng mình và chớ mong đợi rằng Thìn sẽ dành nhiều thời gian cho gia đình. Tuy nhiên, khoảng thời gian mà Thìn ở nhà sẽ rất “chất lượng” vì Thìn dành hết cả tâm huyết và quên cả những thú vui của mình.
Nếu hai con giáp này sống chung trong một ngôi nhà, Thìn rất thích không khí thoải mái mà Hợi mang lại. Đôi khi, Thìn phải kìm chế sự bực tức vì cảm thấy tuổi Hợi hơi lười.Trên thực tế, Hợi không hề lười khi tin vào mục tiêu của mình. Nếu hai con giáp là các đối tác làm ăn, Thìn với năng lượng dồi dào và đầy ý tưởng sáng tạo sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến, thúc đẩy quá trình kinh doanh liên tục đi lên.
Thìn vốn là con giáp ưa mạo hiểm và thường gặp may mắn. Còn Hợi thì rất vui vẻ thực hiện mục tiêu chung của hai người dưới sự lãnh đạo của Thìn bởi Hợi vốn thích thú “chăm sóc” những người hoặc công việc mà mình yêu thích. Cả hai “hành tinh” đều rất trung thành và tin tưởng lẫn nhau.
Mâu thuẫn nằm ở chỗ giữa Tị và Hợi thiếu những cuộc hội thoại mang tính chất xây dựng. Tuổi Tị thường hay sống bằng trực giác hơn là dựa vào lô gíc của sự việc. Bởi vậy nên con giáp này thường hay đưa ra ý kiến chủ quan và hay nói vòng vo mà không đi thẳng vào vấn đề. Còn Hợi thì nhút nhát nhưng khá rộng lượng trong các mối quan hệ. Nhưng khi có hiềm khích xảy ra, ngôn từ của Hợi khá thâm hiểm. Khi là một cặp yêu nhau, hai “hành tinh” có quan điểm chung về bạn bè thân, về cuộc sống gia đình. Đây là điều mà cả Tị và Hợi đều rất quan tâm.
Bên cạnh đó, cả hai con giáp này đều làm việc rất chăm chỉ khi cần. Nhưng cả hai đều thích nghỉ ngơi trong điều kiện thoải mái và xa xỉ. Tị rất cuốn hút và hấp dẫn, còn Hợi sẽ là một người tình lý tưởng. Do đó, họ kết hợp với nhau khá ăn ý. Trong tình yêu, Tị hay ghen vì thường cảm thấy bất an nhưng Hợi thì có quan niệm rất trung thành với người mình yêu. Tuy nhiên, đôi khi Hợi giữ những bí mật riêng cho mình, điều này luôn làm cho Tị nghi ngờ.
Nếu Tị và Hợp cùng hợp tác làm ăn với nhau, Tị thông minh, nhanh nhẹn sẽ đóng vai trò làm “tiền tuyến” và là trung tâm của sự chú ý. Điều này rất hợp với ý của Hợp vì tuổi này vốn thích hợp với công việc của “hậu phương”. Nơi làm việc của Tị và Hợi sẽ được trang trí theo kiểu cổ điển. Những bữa ăn cùng nhau của hai người tại các nhà hàng sẽ rất thường xuyên và trang trọng.
Hai tuổi này có thể là một cặp hoàn hảo trong thời gian đầu của mối quan hệ, họ dường như khá cuốn hút nhau. Ngọ nổi bật trước đám đông bởi sự hài hước, dí dỏm và thông minh, điều này làm Hợi mê mẩn. Hơn thế nữa, tuổi Ngựa còn rất hấp dẫn tuổi Hợi bởi sự hào phóng, sự rộng lượng và xử lý tình huống nhanh. Hợi khá dễ tính và chiều Ngọ nên mối quan hệ của hai người rất ổn thỏa.
Tuy nhiên, nếu mối quan hệ của họ càng kéo dài, thì càng nảy sinh nhiều vấn đề, đòi hỏi cả hai người phải cùng nỗ lực. Nếu là một cặp đôi, hai “hành tinh” này sẽ gặp rất nhiều trục trặc, đặc biệt khi sống cùng nhau. Hợi thích sự bình lặng, thích cuộc sống diễn ra đều đều và ngại di chuyển nhiều. Vì vậy, Hợi khá nhàm chán trong con mắt của Ngọ. Ngọ thích bay nhảy, nhanh nhẹn và thích khám phá. Ngựa tán tỉnh và ga lăng khi mới yêu.
Tuy nhiên, Ngựa lại rất nhanh chán và mất hứng trước cuộc sống phẳng lặng của Hợi. Tuổi Hợi sống khá tình cảm với bạn bè và gia đình, đặc biệt rất tận tụy với người mình yêu. Nhưng khi Ngọ có ý định rời bỏ mình, Hợi sẽ tìm cách để níu kéo. Ở Hợi còn có tính thù dai, nếu bị tổn thương nhiều Hợi sẽ tìm cách trả đũa.
Trong kinh doanh, cả hai tuổi này đều rất chăm chỉ nhưng họ phải tìm công việc hấp dẫn cho cả hai người thì mới duy trì được lâu. Ngọ chỉ đạo công việc rất tốt nhờ khả năng quản lý và bao quát công việc, còn Hợi sẽ đảm nhiệm các việc cần sự tỉ mỉ, cẩn thận. Nói chung, Hợi sẽ rất tích cực là hậu phương vững chắc của Ngọ. Tuổi Hợi đánh giá rất cao sự thông minh, nhanh nhẹn và quyết đoán trong công việc của Ngọ.
Mùi và Hợi có nhiều điểm chung nên tình yêu của họ rất êm dịu, ngọt ngào. Họ luôn tạo cho nhau cảm giác thoải mái. Hợi là người ham chơi, nên thích những cuộc vui chè chén, đắm chìm trong tình yêu, và nghỉ ngơi thư giãn. Mùi không phải là người quá coi trọng vật chất - họ sống trong sự giàu có về tâm hồn. Nhưng đặc biệt, trong tình yêu Mùi cũng có nhiều ham muốn về thể xác. Trong mối quan hệ giữa hai người, Hợi luôn ngưỡng mộ trí tuệ và sự thông minh của Mùi.
Mùi sẽ yêu sự hào phóng, chung thủy và đáng tin cậy của Hợi. Hợi và Mùi sẽ tạo thành một cuộc hôn nhân hạnh phúc, vì cả hai đều giàu tình cảm. Thực tế, Mùi cần nhiều tình cảm và luôn muốn được Hợi tôn trọng. Điều này sẽ giúp duy trì sự thăng bằng trong tình cảm cho Mùi. Hợi là chỗ dựa vững chãi của Mùi. Mặc dù Mùi có thể đứng một mình và xoay sở tốt mọi việc, nhưng có Hợi, Mùi sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều. Hợi cực kỳ hào phóng và nhiệt tình giúp đỡ người mình yêu vì họ cho rằng mối quan hệ tốt đẹp với người yêu là quan trọng hơn tất cả.
Trong làm ăn kinh doanh, Mùi và Hợi có thể hợp tác và xây dựng được một công ty có tiếng tăm và uy tín. Họ sẽ thành công nếu họ biết chọn lĩnh vực phù hợp với khả năng và đầu óc tinh tế của Mùi. Nhìn chung Mùi khá may mắn nên luôn có được nhưng thành công bất ngờ trong kinh doanh. Tuy nhiên, Mùi không được thực tế cho lắm vì thế nên vấn đề tài chính thường do Hợi làm chủ. Hợi là người chăm chỉ trong công việc và dễ dàng làm theo sự chỉ dẫn của người khác. Bởi vậy, Mùi sẽ là người đứng đằng sau và nắm quyền lực của công ty.
Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau. Cả hai đều là mẫu người vui vẻ, có suy nghĩ tiến bộ và khá nhạy cảm. Nhưng Thân có chút chơi bời hơn Hợi. Hợi thích những đồ ăn ngon, thích tán tỉnh. Những việc rất đơn giản như được ngủ trong một chiếc giường thoải mái, hay được đi tắm hơi cũng dễ làm cho Hợi cảm thấy vui vẻ. Còn Thân, Thân không thích ở nhà mà thích đến những bữa tiệc lớn, vui nhộn nơi họ có thể tự do vui đùa. Hợi quan niệm gia đình và những người bạn thân là những thứ quan trọng nhất với họ trong cuộc sống, trong khi Thân thường đặt sự sự vui vẻ lên hàng đầu.
Khi yêu nhau Thân có thể sẽ tốn thời gian để thuyết phục Hợi đi chơi đó đây. Thân là người có nhiều ham muốn về “chuyện ấy” nhưng không hẳn muốn trải qua hàng giờ trên giường ngủ. Thân đôi lúc sẽ cảm thấy chán việc cố gắng thay đổi Hợi và muốn ra ngoài chơi cho thoải mái. Hợi sẽ phải chấp nhận điều đó vì Thân không phải là người linh hoạt. Tốt nhất trong tình yêu, Hợi nên rộng lượng và chấp nhận nếu muốn làm người bạn đời được vui vẻ. Tuy nhiên đặc điểm này cũng dễ khiến Hợi trở thành người dễ bảo. Thân chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ đối xử tệ bạc với Hợi nhưng có lẽ đó do Thân không để ý đến chuyện đó.
Trong làm ăn kinh doanh, nếu biết kết hợp sức mạnh của cả hai, Thân và Hợi kết sẽ xây dựng được một sự nghiệp vững chắc và thịnh vượng. Thân thích lãnh đạo và thường là người đại diện cho công ty đi giao thiệp với khách hàng, thuyết phục mọi người vì có kinh nghiệm và khá bạo dạn. Hợi là người làm việc chăm chỉ theo sự chỉ dẫn của người khác nhưng sẽ cần biết cách để giúp Thân tránh khỏi những rủi ro không đáng có.
Trong con mắt của Dậu, Hợi là mẫu người chỉ thích hưởng thụ. Dậu ghét cay ghét đắng sự bừa bãi và với Dậu điều gì trên mức cần thiết đều tạo nên sự thừa thãi hoặc bừa bộn. Hợi lại là con giáp khá dễ tính và ít để ý tới những điều trên. Bởi vậy, Dậu sẽ là người chịu trách nhiệm thu dọn mọi thứ và giữ chúng nằm trong trật tự để giữ mối quan hệ hài hòa với người tuổi Hợi thích sự xa xỉ.
Nếu Dậu và Hợi yêu nhau, mâu thuẫn giữa hai con giáp này có xảy ra hay không phụ thuộc chính vào cách ứng xử của Hợi. Khi hai hành tinh này sống cùng nhau thì chuyện cãi vã xảy ra thường như cơm bữa. Hợi thích sự tiện nghi, thoải mái như thưởng thức món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy” và ngủ trên chiếc giường thật êm… Ngược lại, Dậu thích những điều thực tế, thích sự hoàn hảo và không chịu được sự lười biếng.Thực chất, Hợi không hề lười biếng mà trái lại, Hợi rất chăm chỉ nhưng trong con mắt của Dậu, người tuổi Hợi vẫn rất lười nhác. Điểm giữ được mối liên hệ giữa hai con giáp này là sự hy sinh trong tình yêu. Dậu rất trung thành khi yêu và Hợi thì thường rộng lượng và yêu hết mình.
Có thể nói, khi là đối tác kinh doanh, Dậu và Hợi sẽ thành công hơn ở các mối quan hệ khác bởi họ sẽ tận dụng rất tốt những điểm mạnh của mình. Tuổi Dậu sẽ đảm nhiệm các công việc tỉ mỉ hoặc liên quan đến tài chính. Hợi vốn chăm chỉ và định hướng tốt nên rất phù hợp với việc tiến hành các kế hoạch mà Dậu đã lập. Bên cạnh đó, Hợi sẽ đảm nhiệm cả những nhiệm vụ liên quan đến khách hàng bởi ở lĩnh vực này, Hợi có khả năng làm tốt hơn Dậu.
Tuất và Hợi có thể trở thành một cặp bài trùng vì những ý tưởng tốt đẹp mà họ dành cho nhau. Tuất đôi khi giận hờn và cần thời gian một mình để lấy lại tinh thần. May mắn là Hợi khá nhạy bén và tế nhị nên Hợi để Tuất hài lòng. Bởi vậy, chuyện này không gây nhiều phiền toái tới mối quan hệ của hai người. Người tuổi Hợi đôi khi để Tuất lấn tới nhưng Tuất thì lại không hề như vậy bởi con giáp này khá trung thực, thẳng thắn. Khi là một cặp uyên ương, Tuất và Hợi sẽ kết hợp rất ăn ý với nhau. Tuổi Hợi vốn thích sự tiện nghi, thích hưởng thụ cuộc sống một chút, chẳng hạn như thưởng thức những món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy”, ngâm mình trong bồn tắm…
Trong khi đó thì Tuất có năng lượng cơ thể dồi dào và thích những điều mạo hiểm hơn Hợi. Hai con giáp này sẽ bổ sung và hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày. Điều thú vị hơn nữa là cả Tuất và Hợi đều đặt yếu tố gia đình ở một vị trí rất quan trọng. Họ rất hợp nhau ở điểm này. Có một số vấn đề mà mối quan hệ của hai “hành tinh” này gặp phải nhưng Hợi tốt tính và Tuất có tài ngoại giao sẽ biết cách kết hợp với nhau để vượt qua sóng gió. Tuất rất biết cách bảo vệ người yêu mình và điều này được Hợi đánh giá rất cao. Vậy nên, mối quan hệ của họ ngày càng nồng thắm và bền chặt.
Nếu hai con giáp này là đối tác làm ăn, Tuất với năng lượng dồi dào và tài ngoại giao sẽ đóng vai trò là người tiền tuyến. Hợi chăm chỉ làm việc và làm việc có kế hoạch sẽ trở thành cánh tay phải đắc lực của Tuất. Tuất cũng rất chăm chỉ, đặc biệt với những công việc yêu thích. Tính thích ổn định của Hợi và tính trung thực của Tuất sẽ giúp công ty chung của họ phát triển tốt. Bởi vậy, hai con giáp này sẽ kết hợp rất tốt trong chuyện làm ăn.
Hợi và Hợi có thể nói là một cặp trời sinh vì cả hai đều yêu gia đình và thích cuộc sống tiện nghi. Tuổi Hợi thích thưởng thức những món ăn ngon, đam mê “chuyện ấy” và thích nằm trong bồn tắm thật lâu để xả stress… Họ sẽ rất thích thú khi ở bên nhau. Hai người cùng con giáp này sẽ kết hợp ăn ý nhất khi họ là những người yêu nhau, là thành viên trong gia đình hoặc là bạn bè. Nếu là một cặp uyên ương, mối quan hệ giữa hai người cùng tuổi Hợi sẽ tuyệt vời nhất khi họ ở nhà vì ở đây, người này sẽ làm cho người kia cảm nhận được những điều tuyệt vời nhất.
Trong ngôi nhà chung, họ sẽ tạo điều kiện thoải mái nhất cho nhau, chẳng hạn như những món thật ngon và nơi nằm thật lý tưởng. Đồ dùng trong nhà tắm như sữa rửa mặt, sữa tắm, nước hoa… sẽ là những món quà làm Hợi rất hài lòng. Khi yêu, người tuổi Hợi dễ tính hơn nhiều và thường nhường nhịn để giữ không khí chan hòa. Điều tồn tại duy nhất trong mối quan hệ giữa hai người cùng “hành tinh” này là họ dành quá nhiều thời gian cho những hoạt động khác mà quên việc nói chuyện với nhau và thể hiện bản thân. Do đó, đôi khi giữa người cùng con giáp này xảy ra sự hiểu lầm. Mặc dù khá dễ tính nhưng khi cáu giận, hành động của họ khá gay gắt và đáng sợ.
Nếu hai người tuổi Hợi là các đối tác kinh doanh thì họ nên chọn ngành nghề nào mà cả hai cùng có niềm tin. Nếu không, họ sẽ phải làm việc rất vất vả. Tuổi Hợi không lười biếng. Hợi không phải là con giáp lười biếng, họ có khả năng nỗ lực rất nhiều với điều kiện họ phải tin vào việc đang làm. Văn phòng nơi hai người cùng con giáp này làm việc sẽ khá tiện nghi, thậm chí được lắp cả bồn tắm hơi. Khách đến công ty sẽ được phục vụ rất tận tình và chu đáo.
Xem thêm:
Tình yêu hôn nhân của người tuổi Hợi với các tuổi khác
Tử vi Lục thập hoa giáp
Xem tử vi năm mới
Tên gọi Aquamarine bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là nước biển. Người Latin cổ đại tin rằng Aquamarine là viên đá của thần biển, những ngư dân khi ra khơi đánh cá thường mang bên mình trang sức được làm từ loại đá này để được bình yên trước những con sóng dữ. Chúng là viên đá của tháng tư, người châu Âu cho rằng những viên đá này mang đến yêu thương chân thành và hạnh phúc suốt đời cho các cặp đôi yêu nhau. Bài viết sau đây Tìm hiểu về đá Aquamarine.
Tên gọi đá “Aquamarine,” loại đá của tháng 3, bắt nguồn từ chữ Latin “aqua” – nước, và “mare” – biển vì màu của loại đá này nhìn như màu xanh trong của nước biển. Aquamarine phải chăng là lời nhắc nhở con người đừng bao giờ quên đi biển cả tươi đẹp?
Nội dung
Đá Aquamarine là khoáng vật nằm trong nhóm Beryl có màu sắc xanh lá cây hoặc xanh lam đậm. Trong đó, loại màu xanh lá cây phổ biến hơn, giá trị thương mại thấp hơn so với loại có màu xanh lam đậm. Việc xử lý bằng nhiệt độ cao có thể thay đổi màu sắc của đá từ xanh lá cây sang xanh lam đậm. Vì vậy, hãy cẩn trọng khi mua những viên màu xanh lam đậm vì rất có thể chúng được xử lý nhiệt để tăng độ đậm của màu sắc
Aquamarine thường có màu xanh nhạt, nhưng nếu xanh càng đậm thì càng có giá trị. Đá kích thước nhỏ ít khi có màu đậm, nghĩa là đá càng lớn thì màu càng đậm.
Các sắc độ của Aquamarine rất rộng, có thể có màu trắng xanh nhạt, xanh nhạt pha chút sắc vàng , xanh lục nhẹ. Tuy nhiên hiếm và đắt hơn cả là màu xanh dương đậm.
Aquamarine là một loại đá cứng và bền, tuy nhiên chúng vẫn có thể bị nứt ở bên trong nếu bị va đập mạnh. Và cũng không may là loại đá này có thể bị mất màu nếu như tiếp xúc lâu ngày với ánh sáng mạnh.
Rất nhiều người nhầm tưởng đá Topaz xanh và ngọc bích là Aquamarine, tuy nhiên Aquamarine có giá cao hơn nhiều so với 2 loại đá trên.
Aquamarine được biết đến từ khoảng năm 300 trước CN, khi các loại bùa làm bằng đá aquamarine được khảm trên chiếc xe ngựa của thần Poseidon. Nó cũng được tìm thấy trong lăng mộ của người Ai Cập cổ, một loại đá khác để người chết có thể an toàn đi qua thế giới khác.
Khiên ngực của vua Solomon cũng được cho rằng có khảm đá Aquamarine. Hai ngàn năm trước, tương truyền vua Nero đã dùng đá aquamarine làm kính mắt và người ta tin rằng đá aquamarine co thể chữa lành bệnh. Thời trung cổ, đá aquamarine được xem như là thuốc giải độc, nó cũng được dùng để tiên đoán tương lai.
Hiện nay, nơi xuất hiện nhiều Aquamarine là Brazin, Zambia, Mozambic, Angola, Nigeria, Madagasca.
Tại một vài quốc gia như Mexico, Mỹ cũng xuất hiện các mỏ Aquamarine với trữ lượng không lớn lắm.
Truyền thuyết kễ rằng những viên đá xanh quyết rũ này được cất giữ trong rương báu của các nàng tiên cá đã bị sóng đánh trôi giạt vào bờ. Vì vậy mà Aquamarine được xem là đá quí của thủy thủ, nó gắn liền với những chuyến hải hành an toàn, thuận lợi, chống lại nguy hiểm và quái vật biển. Aquamarine giúp đem lại sự bình an cho các đôi uyên ương.Vì năng lượng của nó bảo đảm cho một cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc nên Aquamarine đã trở thành một món quà cưới quý giá.
Về mặt sức khỏe, loại đá này được cho là một trong những bác sĩ mát tay giúp giàm trừ các căn bênh liên quan đến thần kinh. Những người sử dụng Aquamarine làm đồ trang trí sẽ tăng cường khả năng cân bằng với thiên nhiên, cuộc sống, cởi mở hơn với ban bè, cũng như sẽ gặp may mắn trong tình yêu.
Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Hình thương, tai nguy, hung họa, mổ xẻ
Nếu sao Kiếp Sát có sao Thất Sát đồng cung thì được gọi là cách Lưỡng Sát Trùng Phùng. Trường hợp này chỉ có thể xuất hiện một trong 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Nếu sao Kiếp Sát có sao Lưu Hà đồng cung, hoặc ở cung xung chiếu hay hợp chiếu, được gọi là cách Hà Sát đồng cung, hoặc xung chiếu hay hợp chiếu.
Nếu một trong 8 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đứng giữa 2 cung, mỗi cung một bên, trong mỗi cung này lần lượt cùng lúc có sao Lưu Hà và Kiếp Sát đóng riêng từng cung, một trong 8 cung trên có cách giáp Hà Sát.
Trường hợp lá số mẫu Cung Phụ Mẫu tại Mão có Lưu Hà tại Phúc Đức, Kiếp Sát tại Mệnh, thì Cung Phụ Mẫu ở giữa có cách giáp Hà Sát.
Ý Nghĩa Kiếp Sát Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Kiếp Sát ở Mệnh là người tính nóng nảy, hay làm sự bất bình, nếu gặp sao tốt thì giảm mất tốt đi, gặp sao xấu thì xấu lắm.
Công Danh Tài Lộc
Giống như sao Thiên Hình, Kiếp Sát chỉ sự mổ xẻ, châm chích. Do đó, nếu đi với bộ sao y sĩ (Tướng, Y) thì là bác sỹ châm cứu hay giải phẫu, thường trị liệu rất táo bạo.
Ý Nghĩa Kiếp Sát Và Một Số Sao Khác
Đi với sao hung, Kiếp Sát tác họa rất mạnh và nhanh chóng.
Hoàng: Ra ngoài gặp quý nhân phù trợ, danh lợi vẹn toàn, tiền đồ rộng mở, có số xuất ngoại, trung niên thành công.
Hoạt: Phúc lộc song toàn, cả đời hưởng phúc, trung niên an nhàn, hưng vượng.
Học: Đa tài, có năng lực, trung niên vất vả, cuối đời nhàn hạ.
![]() |
Tên chữ H |
Hợi: Thanh tú, lanh lợi, ra ngoài dễ gặp phúc, được tài, trung niên vất vả, cuối đời phát tài, phát lộc, gia cảnh tốt.
Hôn: Nên kết hôn và sinh con muộn, trung niên sống bình dị, cuối đời hưng vượng.
Hồng: Phúc lộc song toàn, có 2 con sẽ cát tường, hưng vượng, trung niên vất vả.
Hủ: Có tài, khó gặp tri kỷ, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời yên ổn.
Hứa: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, đa tài, trung niên bôn ba, cuối đời phát tài, phát lộc.
Huân: Khắc cha mẹ, cuộc đời thanh nhàn, phúc lộc song hành.
Huệ: Thanh tú, lanh lợi, công danh vẹn toàn, con cháu hưng vượng, đôi khi sầu muộn.
Hưng: Anh minh, đa tài, trung niên cát tường, cẩn thận đường tình duyên, cuối đời hưng vượng.
Hùng: Hiểu biết sâu rộng, trí dũng song toàn, trung niên cát tường, cuối đời phú quý.
Huống: Bôn ba vất vả, lắm bệnh, đoản thọ, trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời hưởng phúc từ con cháu.
Hương: Hay ưu tư, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Hưởng: Con cháu hưng vượng, đa tài, nhanh trí, trung niên thành đạt, cuối đời vất vả.
Hựu: Có số làm quan, cả đời phúc lộc song toàn, vinh hoa phú quý.
Hữu: Công chính, liêm minh hay giúp đỡ mọi người, gia cảnh tốt, hướng theo nghề xây dựng sẽ dễ thành công, danh lợi song toàn.
Huy: Đa tài, đức hạnh, ôn hòa, cần kiệm, trung niên thành đạt, có số xuất ngoại, danh lợi song toàn, phú quý cát tường.
Huyền: Thanh nhàn, cần kiệm, công danh thành đạt, sống hưng vượng, phú quý.
Huyện: Toàn tài, quan lộ rộng, thành công, hưng vượng.
Huỳnh: Bản tính thông minh, cần kiệm, lương thiện, cả đời cát tường.
Hy: Đa tài, lanh lợi song không gặp vận, trung niên có thể gặp tai họa, nên kết hôn muộn, cuối đời cát tường.
Theo Tên hay thời vận tốt
![]() |
![]() |
![]() |
Dịch dĩ đạo âm dương
"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".
Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".
Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".
Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".
Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".
Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.
Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".
Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".
Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".
Dịch chi thất tặc
Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.
Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.
Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.
Dịch khí tòng hạ sinh
Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.
Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".
Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".
Bàng thông
Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.
Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.
Trích dẫn
Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.
Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.
Cho nên nói tình dã
Thành Ký tế định
Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.
CHI CHÍNH
"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.
Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.
Tam biến thụ thượng
Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.
Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.
Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".
Phản quái
Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.
Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.
Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".
Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.
Tuân Sảng
Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".
Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.
Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".
Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:
1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).
2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".
3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".
Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.
THẬP NHỊ TÍCH QUÁI
Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.
Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.
Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.
Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".
Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".
Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".
TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ
Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.
Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.
Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.
Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.
Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.
Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.
Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.
Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).
Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.
Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".
Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:
Càn vận hành theo chiều trái:
- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất
- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.
- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ
- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn
- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần
- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.
Khôn vận hành theo chiều phải:
- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị
- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão
- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu
- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi
- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu
- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi
Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.
Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".
THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG
Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.
Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.
Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.
Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.
THẾ - ỨNG
Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".
"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.
Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".
Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.
Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.
Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".
Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.
PHI – PHỤC
Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.
Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".
Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:
1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.
2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.
3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.
4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.
Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".
Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".
Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".
Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.
DU HỒN
Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"
Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".
QUY HỒN
Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.
Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.
Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".
Thế quái khởi Nguyệt lệ
Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.
Khởi Nguyệt lệ:
- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.
- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.
- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.
- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.
- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.
- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.
- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.
- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.
Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".
Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.
- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc
- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh
- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.
- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân
- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.
- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá
- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.
- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly
- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn
- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy
- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế
- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội
- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển
- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di
- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm
- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.
Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.
Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ
Nguồn:
- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang
- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.
THUYẾT VỀ DỊCH SỐ
Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.
Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.
Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.
Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.
THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH
Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".
Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".
Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".
Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).
Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.
Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.
Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".
Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".
Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".
Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".
Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.
Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".
Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.
Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.
Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.
Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.
Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.
Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:
......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị
Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan
Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam
.....................(nhị hợp vi nhất)
Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.
Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.
Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.
Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.
Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.
SỐ ĐẠI DIỄN
Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".
Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)
Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".
Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)
Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.
Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.
Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.
Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.
Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.
Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).
Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.
Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.
Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.
Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".
THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP
Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.
Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.
Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.
Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.
Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).
Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".
Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".
Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".
Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".
Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.
Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:
1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.
2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.
3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).
4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.
5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.
6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.
7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.
Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.
Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".
Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".
Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".
"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".
ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO
Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).
Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".
Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.
Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.
Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".
Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".
Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".
Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.
Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".
Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.
Thuyết của Nhất Hạnh nói:
Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.
Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.
Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.
Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.
Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.
Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.
Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".
Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.
Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".
Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.
Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.
Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.
Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.
Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".
THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI
HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ
Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.
Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.
Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.
Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.
Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)
Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.
Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.
THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”
Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.
Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.
Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!
Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.
"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.
Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.
Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".
"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.
Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".
Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".
Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.
So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".
Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.
Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".
Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".
Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).
"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).
Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!
Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".
"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.
Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.
Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".
Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”
THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI
Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.
Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.
Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.
Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.
Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:
- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]
- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]
- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]
- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]
- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]
- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]
- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]
- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]
- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]
- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]
- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]
- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]
18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm
12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương
10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm
20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương
Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.
Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".
Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.
TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG
Thuyết quái viết: Thiên địa định vị
...........CÀN.........................KHÔN
........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy
........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa
........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim
........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy
........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa
........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim
- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4
- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5
- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6
- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1
- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2
- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3
Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí
............CẤN............................ĐOÀI
...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy
...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa
...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ
...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy
...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa
...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ
- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2
- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3
- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4
- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5
- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6
- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1
Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc
...............CHẤN..............................TỐN
..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc
..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim
..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ
..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc
..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim
..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ
- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2
- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3
- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4
- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5
- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6
- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1
Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ
..............KHẢM..........................LY
.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc
.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa
.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ
.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc
.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa
.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ
- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2
- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3
- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4
- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5
- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6
- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1
Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.
Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:
Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.
Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.
Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp
(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).
Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!
Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).
Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).
Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).
Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.
Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.
Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??
Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.
(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)
Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.
Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.
Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.
Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.
Cổ nhân nói:
Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).
Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).
Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).
Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".
Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".
Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".
(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)
Thiền Viện Tịnh Chiếu tọa lạc tại ấp Hải Điền, Thị Trấn Long Hải, huyện Long Đất, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu – Một không gian êm đềm và tĩnh mịch với âm thanh líu lo của tiếng chim hót như vọng về từ xa xăm, những vườn cây xanh mát đang xào xạc trong buổi sớm mai. Đặt chân đến đây, tự nhiên bạn sẽ cảm thấy cõi lòng mình như dịu lại, bình an… tâm hồn trở nên cởi mở và tan hòa vào khung cảnh thiên nhiên cô tịch.
Thiền Viện Tịch Chiếu là nơi có kiến trúc giống Thiền viện Thường Chiếu của Hoà Thượng Thích Thanh Từ, được nằm nơi địa thế khá lý tưởng, lại là một trong những danh lam đẹp của khu du lịch Long hải.
Năm 1973, Thiền Viện Tịch Chiếu, nguyên là hai Tịnh Thất nhỏ: Tịnh Thất Quan Âm của hai bà Trần Thị Tư (Tịnh Ngọc), Trần Thị Bảy (Tịnh Bửu), và Tịnh Thất của Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang xây dựng, khi ấy có tên là Quan Âm Viện.
Năm 1988, hai Phật tử Tịnh Ngọc và Tịnh Bửu cúng dường hai Tịnh Thất và gần nữa mẫu đất cho Hoà Thượng Thích Thanh Từ. Hoà Thượng chỉ định hai đệ tử là Thích Nữ Hạnh Thanh và Thích Nữ Diệu Tánh về hai Tịnh Thất này. Hai Sư Cô Hạnh Thanh và Diệu Tánh xin sát nhập hai Tịnh Thất này thành Thiền Viện Tịch Chiếu.
Năm 1993, hai Sư Cô xây dựng lại thành Thiền Viện mới như tình trạng hiện nay. Nơi Thiền Viện này, hai Sư Cô đã tạo được gần hai chục Thiền Sinh cho Ni Giới.
Thiền Viện Tịch Chiếu gồm Chánh Điện, Nhà Tổ,Trai Đường và phòng của Ni chúng. Sân trước chùa trang trí với nhiều loại cây cảnh quí như tùng bách, trắc bá diệp, thiên tuế… và các loại hoa đẹp. Vườn hoa nhỏ nhưng chăm sóc công phu, mỹ thuật và mang nét Thiền Vị. Chánh điện xây theo hình vuông, cạnh 11m, nóc hai tầng mái ngói theo kiểu chùa xưa, tường đúc và xây gạch với nhiều khung cửa kiếng, kiến trúc đơn giản nhưng kiên cố và khang trang. Chánh điện thờ Phật Thích Ca, đơn giản nhưng trang nghiêm. Sau Chánh Điện là Nhà Tổ, cách một sân lộ thiên nhỏ.
Giữa sân là hòn Non Bộ với ý nghĩa biểu trưng của hội Linh Sơn với sự tích “Niêm Hoa Vi Tiếu” (Giơ cành hoa, mĩm cười): Trong Pháp Hội trên núi Linh Thứu (Ấn Độ), Đức Phật Thích Ca không nói lời nào, chỉ cầm cành hoa giơ lên ! Tăng chúng không hiểu gì, tất cả đều im lặng, chỉ có một mình Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp nhìn cành hoa, miệng mĩm cười. Đức Phật nói: Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn, Bất Lập Văn Tự, Giáo Ngoại biệt truyền, giao phó cho Ma Ha Ca Diếp. Đây là sự tích của việc ” Truyền Tâm Ấn” trong Thiền Tông.
Non Bộ còn trang trí có tượng Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Di Lạc, nhắc cho người xem hạnh Từ Bi – Hỷ Xả của chư Phật, Bồ Tát. Hòn Non Bộ tuy nhỏ, nhưng trang trí mỹ thuật, nói lên ý nghĩa Phật Pháp thâm sâu, tăng thêm ” Thiền Vị” cho khách hành hương khi viếng Thiền Viện Tịch Chiếu.
Có những nốt ruồi mọc trên mặt, có những nốt ruồi mọc trên cơ thể ở những vị trí khác nhau, cùng với nhiều cách xét đoán khác nhau. Và hầu hết trong tất cả chúng to thì ai ai cũng có nốt ruồi, kẻ nhiều người ít, chứ không hẳn là hoàn toàn không có. Tuy nhiên, tùy theo vị trí của mỗi nốt ruồi mọc ra mà người ta mới có thể định tướng được. Có những nốt ruồi mọc một cách tự nhiên trên thân thể, trên khuôn mặt mà không có liên quan gì tới tướng pháp cả. Nhưng cũng có những nốt ruồi tối ưu quan trọng. Dưới đây Phongthuyso.vn giới thiệu một số nốt ruồi trên mặt và cơ thể có ảnh hưởng lớn tới tương lai của bạn:
Nếu người nào đó có nốt ruồi đóng ở chính giữa trán, người ấy có số thọ ngoài bảy mươi, lại là người có đức có thiên lộc tấn (tức là được hưởng lộc trời cho, không nghèo khổ) bổn mạng có quý nhân hỗ trợ nhiều khi tai nạn thấy chết trước mắt rồi cũng tan biến đi, tai qua nạn khỏi, còn nếu là đàn bà thì may mắn về đường tình duyên cuộc đời được thỏa mãn vinh hoa phú quý tột định giàu sang.
Nếu người nào có nốt ruồi ở trên trán phía bên trái thì số người ấy phải xa quê hương, tha phương lập nghiệp hoặc cuộc sống phiêu bạt, vợ chồng có cưới hỏi cũng không ở trọn đời trọn kiếp với nhau được. Tuy có của cải nhưng nhưng mà đời sống cứ phải khổ cực tâm trí, phải lo nghĩ nhiều, tâm tư lúc nào cũng bị xao động. Tóm lại những người có nốt ruồi ở phía bên trái của trái thì đời sống không được thong dong.
Với nốt ruồi ở trên trán phía trái của đuôi chân mày thì người đó có số đa sầu đa cảm, lo âu về chuyện tình duyên, phần đông thường gặp cảnh bẽ bàng và ngang trái, cuộc đời gian nan, chịu lắm truân chuyên buồn cho số kiếp.
Nếu người nào đó có nốt ruồi ở chính giữa hai đầu nối chân mày hay còn gọi là ấn đường thì người đó có số phải ly hương xa cha mẹ, anh em không thuận hòa, cuộc sống hầu như cô độc, về tình duyên cũng lận đận phải bị một đôi ba lần tan rã rồi mới hiệp lại, tâm trí lúc nào cũng rối loạn, tính toán một đường làm hai ngã.
Nếu người nào đó có nốt ruồi ở dưới mí mắt, dù là bên phải hay bên trái thì đều có số long đong, có cuộc sống đau khổ âm thầm, tâm sự lúc nào cũng buồn phiền có thể nói là một nỗi buồn mệnh mông, thương vay khóc mướn, tình duyên dang dở thân phận đa đoan, cuộc sống rày đây mai đó chứ không yên ổn được một chỗ.
Nếu có nốt ruồi ở bên trái cằm, nơi góc miệng thì người đó có số đào hoa, có duyên ngầm, nói năng duyên dáng, làm cho người đối diện phải say mê đắm đuối, tính cách lúc nào cũng sôi nổi, vui vẻ đời sống lúc nào cũng cảm thấy vui nhiều buồn ít.
Với người có nốt ruồi ở gò má, hoặc cách gò mà hai 3 phân thì dù là bên phải hay bên trái, hoặc ngang với sống mũi thì đa số đều bị chết sớm (yểu tử) hay có thể bị tại nạn mà chết bất đắc kỳ tử. Ngược lại, trong gia đình thì những người đó là đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, ngoài xã hội là người khó gây cảm tình với mọi người, bị xem là người lạnh lung, khó hòa đồng và không thân thiện.
Với những người có nốt ruồi ở khóe miệng thì dù là bên phải hay bên trái đều có số sát thê hoặc sát phu, duyên nợ vợ chồng hợp tan, tan hợp. Thêm đó lại là người đa mang trụy lạc đưa đến một cuộc đời hoàn toàn hư hỏng.
Nếu người nào có nốt ruồi ở phía trên cách nhũ hoa khoảng 1 cm thì người đó có số tốt về đường con cái, nhưng lại khổ về đường vợ chồng, tình duyên lúc đầu mặn nồng về sau mang nhiều buồn tủi, phiền muộn.
Nếu người nào có nốt ruồi tại âm hộ thì là con người ham mây mưa, có nhu cầu tình dục lớn, nếu là đàn bà thì có tới 3 đời chồng.
Với những người có nốt ruồi cách rốn khoảng 1 cm thì đây là người có số bần hàn đời sống chật vật không mấy no đủ và tình duyên rất bình thường.
Đừng bỏ qua :Cát - hung nốt ruồi trên khuôn mặt
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Chùa Thiền Quang nằm tại phố Trần Bình Trọng, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, chùa được Sư cụ Thích Đàm Tường trụ trì. Đây được xem như một trong những nét văn hóa của người dân Hà Nội.
Thiền Quang là tên một ngôi chùa ở thôn Thiền Quang do dân làng Pháp Hoa góp tiền dựng năm 1860.
Chùa hiện còn giữ được nhiều di vật, tượng cổ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 có giá trị. Trong chùa hiện có một tấm bia khắc năm 1882 kể về lai lịch chùa. Năm 1989, chùa được bộ Văn Hóa và Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh. Cụm ba ngôi chùa là Thiền Quang, Quang Hoa và Pháp Hoa nằm cạnh nhau, ở số nhà 31-33.
Đây cũng là một trong số những địa danh tâm linh tại Hà Nội dành cho các phật tử thập phương đến cúng bái đặc biệt vào dịp lễ đầu xuân năm mới.
Xem nhân tướng, tính cách của con gái có lông mày xếch hay đàn ông lông mày xếch thì có làm sao? Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu bạn cách xem tướng đàn ông lông mày xếch hoặc phụ nữ lông mày xếch.
Theo tổng quyết của Ma Y (Luận về mi) thì:
Mi là lọng che mắt. Là nghi biểu của khuôn mặt Chủ sự hiền ngu của con người
(Chữ Hiền ở đây không phải là hiền lành mà chữ hiền này chỉ những người thông minh tài cao đức rộng mà chỉ các bậc cao nhân, hiền tài mới đạt được).
Nên khi xem tướng pháp con người, người ta sẽ chủ ý tới hình dáng cũng như độ đậm nhạt của lông mày.
Lông mày mọc xếch lên Thiên thương (chạy lên phía Thái dương) được xem như là người tài hoa, được mọi người quý trọng, tôn kính. Những người này thường sẽ thành công hơn trong lĩnh vực về nghệ thuật hoặc thẩm mỹ.
Không những thế, những người có lông mày xếch thường là người đào hoa, đa tình. Nhất là với phụ nữ hoặc đàn ông lông mày xếch thường dễ đổ vỡ hôn nhân, do ngoài tình.
Khi xét tổng thể khuôn mặt, nếu người có lông mày xếch kêt hợp với đôi mắt láo liên, môi dày thì người đó thường là kẻ lừa gạt, trộm cướp hay làm ăn phi pháp.
Nhưng ưu điểm của người có lông mày xếch là những người thông minh, có tham vọng lớn họ có khá nhiều bạn và và cũng không ít những kẻ ghen ghét, đố kỵ.
Lông mày xếch thường không tốt bằng mắt xếch. Nhất là đối với đàn ông lông mày xếch lại càng không tốt.
Trên đây là những ý nghĩa chung về người có lông mày xếch cũng như đàn ông lông mày xếch. Để tìm hiểu thêm những thông tin thú vị khác. Bạn có thể tham khảo thêm tại:
+ Tổng quan về tướng mũi của mỗi người
+ Mắt rồng, mắt phượng mày ngài là như thế nào?
+ Hình dáng đôi mắt nói gì về con người bạn.
![]() |
![]() |
► ## cung cấp thông tin Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Mở đầu là thuỷ tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh.
Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.
Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ, đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sau. Còn phần trên gia phả hoàn chỉnh hay sơ sài, các cụ còn giành lại cho ta được bao nhiêu biết bấy nhiêu, ai dám sáng tác thêm? Tuy nhiên, nếu tìm được quốc sử, hoặc trong gia phả, thần phả khác những tư liệu liên quan thì có thể cước chú kỹ, giúp đời sau thêm sáng tỏ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)