Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài –

Đã bao giờ bạn nằm ngủ mơ thấy ông thần tài (ông địa) chưa? Hôm nay chúng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài (ông địa) là gì? Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa) Người hỏi: Trần Lan Vi Email: lanvi_bb@***.com Câu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã bao giờ bạn nằm ngủ mơ thấy ông thần tài (ông địa) chưa? Hôm nay chúng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài (ông địa) là gì?

Nội dung

  • 1 Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa)
    • 1.1 Chiêm bao mơ thấy bàn thờ ông Thần tài hoặc mơ thấy mình thắp nhang cho thần tài
    • 1.2 Ngủ nằm mơ thấy ông thần tài cười với mình
  • 2 Mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu
  • 3 Mơ thấy được ông Thần tài cho tiền là điềm báo gì
  • 4 Mơ thấy Thần tài gõ cửa
  • 5 Mơ thấy thần tài hay ông địa là đánh đề con số gì?
  • 6 Trong mơ nhìn thấy ông Thần tài nói chuyện với người lạ
  • 7 Mơ thấy thần tài cho của
  • 8 Mơ thấy mình thắp nhang cho ông địa
  • 9 Nằm mơ thấy mình bầy nhiều hoa quả lên bàn thờ ông Địa và đèn cầy đã được thắp sáng
    • 9.1 Chiêm bao mơ thấy tượng ông Địa (Thần Tài) bị vỡ
  • 10 Ngủ nằm mơ thấy bát nhang của ông Địa, Thần tài bị xoay dịch hoặc đổi chỗ hoặc bi mang đi chỗ khác hoặc bát hương bị biến mất.

Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa)

Người hỏi: Trần Lan Vi

Email: [email protected]***.com

Câu hỏi: Chào AloGam.com, có một giấc mơ mà mình đã nằm mơ thấy 3 lần, đó là mình mơ thấy nói chuyện với ông thần tài, không hiểu đây là điềm báo gì?

Giải đáp: Chào Vi, giấc mơ này ngụ ý như một lời nhắc nhở bạn cần phải rèn luyện tính tự lập và phải tự tin hơn trong giao tiếm để có thể tạo dựng những mối quan hệ bên ngoài một cách tốt hơn. Điều này sẽ có thể giúp bạn có thêm được nhiều cơ hội thành công hơn trong công việc

Chiêm bao mơ thấy bàn thờ ông Thần tài hoặc mơ thấy mình thắp nhang cho thần tài

Là điềm báo tốt, giấc mơ ngụ ý kế hoạch mà bạn đang theo đuổi sẽ gặt hái được nhiều thành công.

Ngủ nằm mơ thấy ông thần tài cười với mình

Giấc mơ này là điềm báo lành, nó ngụ ý cho thấy bạn sẽ gặp nhiều may mắn và thuận lợi trong công việc trong thời gian tới.

Mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu

Người hỏi: Nguyễn Minh Thành

Email: [email protected]***com.vn

Câu hỏi: Mình nằm mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu. Mình cảm thấy hơi lo không biết đây có phải điềm báo gì không?

Trả lời: Chào Thành, giấc mộng này của bạn là điềm báo không được tốt. Giấc mơ dường như đang muốn báo cho bạn biết trước về sự trở ngại liên quan đến việc kinh doanh buôn bán hoặc nhà cửa đất đai trong khoảng thời gian tới. Nhìn chung khi mơ thấy giấc mơ này bạn cần chú ý thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến tiền bạc trong khoảng thời gian này.

Mơ thấy được ông Thần tài cho tiền là điềm báo gì

Đây là một giấc mơ thiêng và hàm ý báo hiệu trước cho bạn biết sẽ có một bước ngoặt lớn trong công việc và tình cảm cảu bạn khiến cuộc đời bạn sang một trang mới thành công hơn.

Mơ thấy Thần tài gõ cửa

Giấc chiêm bao này là điềm báo tốt lành, sắp có một tin vui nào đó đến với bạn có thể là từ công việc hoặc chuyện tình cảm.

Mơ thấy thần tài hay ông địa là đánh đề con số gì?

Các con số liên quan đến giấc mơ thấy ông thần tài hay ông địa là: 36 – 39 – 79 – 10

Trong mơ nhìn thấy ông Thần tài nói chuyện với người lạ

Là điềm báo khuyên bạn nên bắt đầu triển khai kế hoạch phát triển sự nghiệp mà đã ấp ủ bấy lâu, nếu bạn kiên trì theo đuổi thì chắc chắn thành công sẽ đến.

Mơ thấy thần tài cho của

Theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ này cho thấy bạn đang muốn chính tỏ cho mọi người thấy mình là người thực sự có năng lực kiếm được nhiều tiền. Giấc mơ chỉ rằng bạn muốn chứng tỏ cho mọi người rằng, bạn là người thực sự có năng lực.

Mơ thấy mình thắp nhang cho ông địa

Giấc mộng này là điềm báo gia đình sẽ được thịnh vượng.

Nằm mơ thấy mình bầy nhiều hoa quả lên bàn thờ ông Địa và đèn cầy đã được thắp sáng

Đây là điềm báo trong thời gian tới bạn sẽ có quý nhân giúp đỡ để đạt được những kế hoạch đã đặt ra trong công việc.

Chiêm bao mơ thấy tượng ông Địa (Thần Tài) bị vỡ

Đây là một giấc mơ xấu, nó hàm ý cảnh báo bạn trong khoảng thời gian này sẽ có thể gặp nhiều điều không may mắn khiến bạn bị hao tổn tiền bạc. Cũng có thể sẽ có những chuyện rắc rối xảy ra trong công việc khiến bạn phải bận lòng suy nghĩ

Ngủ nằm mơ thấy bát nhang của ông Địa, Thần tài bị xoay dịch hoặc đổi chỗ hoặc bi mang đi chỗ khác hoặc bát hương bị biến mất.

Đây cũng là những giấc mơ mang lại điềm báo không lành. Điềm báo liên quan đến những giấc mơ này là sự cảnh báo về sự hao tổn tiền bạc, sự trở ngại trong công việc làm ăn kinh doanh hoặc gia đi có tranh cãi khiến mọi người trở nên căng thẳng với nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài –

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Sao Bác Sĩ là cát tinh, có nghĩa là thông minh, hay suy xét kín đáo, chủ sự thông đạt thâm thúy, ngôn ngữ hoạt bát, khoan hòa, nhân hậu...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Hành: Thủy

Loại: Cát Tinh

Đặc Tính: Văn chương, học hành, thi cử

Ý Nghĩa Của Sao Bác Sĩ:

Sao Bác Sĩ là cát tinh, có nghĩa là thông minh, hay suy xét kín đáo, chủ sự thông đạt thâm thúy, ngôn ngữ hoạt bát, khoan hòa, nhân hậu, lợi ích cho việc thi cử học hành, giải trừ bệnh tật.

Về các điểm này, Bác Sĩ có đặc tính tương tự như Hóa Khoa, chủ về học và hạnh đồng thời cứu giải bệnh tật. Nhưng Bác Sĩ không mạnh bằng vào Hóa Khoa.

Ý Nghĩa sao Bác Sĩ Và Các Sao Khác:

Bác Sĩ gặp Hóa Khoa: Có học, có hạnh.

Bác Sĩ gặp Âm Dương, Xương Khúc: Có khoa danh làm nên.

Luận thêm về sao Bác Sĩ:

Vì cách an Sao có sự trùng hợp trong Tử Vi cho nên có nhửng sao luôn luôn đi kèm nhau như hình với bóng .Chẳng hạn như cung có Phượng Các thì tất nhiên phài có Giải Thần hoặc ngược lại .Có Quan Phù là phải có Long Trì hoặc có Long Trì thì phải có Quan Phù ,có Hư tất có Phá hoặc có Phá tât có Hư . 

Lộc Tồn với Bác Sĩ cũng nằm trong định luật ấy .Có sao bác Sĩ tất có Lộc Tồn hoặc có Lộc Tồn tất có Bác Sĩ . 

Trong chúng ta,ai cũng đều biết là vòng Bác Sĩ (hoặc Lộc Tồn )được an theo Thiên Can của năm sinh,nối đuôi là 11 sao theo thứ tự :..Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư ............ 

Có 2 giả thuyết để chúng ta chấp nhận: 

-Giả thuyết thứ nhất, nếu sao Bác Sĩ được chính danh đứng đầu trong vòng sao của mình thì đương nhiên phải chấp nhận Lộc Tồn là 1 sao đơn được an theo hàng Can của năm sinh như các sao Khôi, Việt, Lưu Hà, Thiên Trù, Lưu Niên Văn Tinh ......Một khi đã là sao đơn thì không có chuyện khởi thuận hoặc khởi nghịch của Lộc Tồn .Vô hình chung,ta khẳng định rằng Kình Dương luôn luôn an trước Lộc Tồn 1 cung và Đà La luôn luôn an sau Lộc Tồn 1 cung với câu thiệu:"Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương" . 

-Giả thuyết thứ 2, Nếu Lộc Tồn được chính danh đứng đầu trong vòng sao của mình thì chúng ta phải chấp nhận sự khởi thuận và khởi nghịch của Lộc Tồn và cũng phải chấp nhận là Kình Dương luôn luôn đi kèm Lực Sĩ, vì có khởi thuận hoặc khởi nghịc đi chăng nữa thì Lực sĩ cũng luôn luôn đi trước Lộc Tồn . 

Sao Lộc Tồn được chính danh hay Bác Sĩ được chính danh cũng tùy theo kiến thức, nhận xét của chúng ta .Mong rằng mọi người hãy cùng nhau góp sức để làm sáng tỏ vấn đềvà cũng là để thống nhất cách an Kình Đà


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Nhị, lộc cùng nguyên thân ứng kì

Bát tự trung mỗ chữ tại lưu niên( Đại vận) trungxuất hiện hoặc thấy ngoài lộc thần cùng nguyên thân, thì này năm(Vận) nên phát sinh cùng đáng chữ có liên quan chuyện tình, lưu niên(Đại vận) trung đáng chữ sinh ra cái dạng gì đích tác dụng, nhân tiệngiống như nguyên cục trung đáng chữ phát sinh đích tác dụng giốngnhau. Cái này kêu là này chữ tại lưu niên( Đại vận) đích ứng kì.(Chú: Thấy lộc đại biểu nguyên thân, thấy nguyên thần đại biểu lộc,này điều có ưu tiên tính chất).
Nhị, lộc  cùng nguyên thân ứng kì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khôn: Mậu nhâm giáp bính

Thân tuất tử dần

Này tạo lấy tử vi phu cung, thân vi phu tinh, thân tử hợp cục, vốn là phu đến phu cung ý. Kết hôn thời gian ứng tại nhâm thân năm, này năm vốn là phu tinh thân xuất hiện, củng nhập phu cung đích ứng kì. Làm đại vận đến kỷ mùi vận đích mùi vận thời, mùi mặc tử, thân sinh tử, phu cung bị hại, trượng phu nhân tiện không cách nào sinh. Hôn nhân làm xuất hiện vấn đề, ứng kì làm tại bính tử năm, tử năm thời phu cung tử thủy tại lưu niên xuất hiện thấy hại.

Nhàn chú: Thiên can giáp ất bính mậu đinh kỷ canh tân

           Dần mão  tị   ngọ  thân dậu 

thìn thú sửu mùi bốn khố không nguyên thân

Khôn: Canh tân tân quý

Dần tị dậu tị

Này tạo lộc thần bị lưỡng tị hỏa khắc phá hư, thực thần quý thủy tại cục trung rất trọng yếu, hành bính tử vận chi tử vận, tương đương với quý rơi vào địa chi, nguyên lai quý chịu thiên can canh tân chi sinh, đến địa chi sẽ không pháp chịu sinh rồi( Dậu kim tự thân chịu khắc, không cách nào sinh tử thủy), bị tị tuyệt, dần tiết, đến nhâm ngọ năm, một xung tử thủy, thực thần bị phá hư, mệnh chủ bị kẻ bắt cóc sát hại.( Chú: Hại ngã thực thần, tử không có ở đây gối đầu thượng, xung hại đồng luận)

Khôn: Tân ất quý mậu

Hợi mùi hợi ngọ

Hành kỷ hợi vận, kỷ vi ngọ chi nguyên thân, ngọ trung chi kỷ hợp phu cung hợi trung giáp, làm phu xem, bây giờ đại vận trung hư thấu, liền bất lợi hôn nhân, phu hữu danh vô thật rồi, phu không để ý nhà nháo ly hôn.

Càn: Đinh giáp mậu giáp

Dậu thìn thìn dần

Đại vận: Quý mão  nhâm dần  tân sửu canh tử kỷ hợi

Này tạo mậu thổ trường sinh tại dần, sát làm tài xem. Bởi vì không có ấn, có ấn đương quyền xem. Phía trước tam trụ cũng phế đi.(. Người này vốn là Tân Gia Pha người, hành tử vận dẫn ra thìn trung chi thủy sinh trợ giúp dần mộc, phát tài, đinh sửu năm phát đích lớn nhất, một năm giàu to rồi1000 vạn, thừa số sửu kết hợp hợp động tử thủy,( Nếu là thiên địa hợp, thì vi hợp bán), này năm chính trực kim tan ra gió lốc, hắn đem USD đổi thành mã đến tây á tệ, mua rồi đại lượng đích thổ địa, kim tan ra gió lốc một qua, tức phát; đến kỷ vận hợp bán giáp mộc bất lợi, kiếp hợp tài, phá tài chi tượng, hợp rồi [hai người/cái] giáp, giảm bớt một nửa. Này vận phá một nửa đích gia sản. Này vận trung nhất hung chi năm phần vốn là giáp thân năm, này năm giáp hư thấu, chẳng khác dần mộc hư rồi, bị kỷ hợp bán, là chỉ người khác đoạt rồi hắn đích tài, mà dần thân xung phá mộc cây, đem bát tự sở dụng gì đó toàn bộ phá hủy. Nguyên nhân đầu tư sai lầm, tổn hại tài nghiêm trọng, vẫn bồi đến bính tuất năm, tổn thất700 vạn. Hợi vận luận cát, phỏng chừng đến lúc đó khẳng định phát tài, nguyên nhân hợi vận kỷ thổ không vận động rồi, vi thể rồi, tỏ vẻ cùng người hợp tác rồi, không có nghĩa là phá tài. Thìn dậu hợp không làm công, tỏ vẻ hôn nhân phá hủy, phu thê cung song hiện, hợp rồi thương quan, hợp nhất hạ nhiều một lần, cố có4 lần hôn nhân, đồng thời, thổ nhật chính cùng chi đồng, tổn hại tài thương thê. Cũng cũng làm dậu làm tổ sản( Thương làm tài, mang ấn), hợp rồi tỉ kiên, tỏ vẻ huynh đem tổ sản đích một hơn phân nửa toàn bộ cầm đi, chính mình chỉ lấy một ít bộ phận. Loại này tổ hợp vốn là một cỗ một cỗ đến tài, cố bất thiện vu kinh doanh xí nghiệp, không có đảng, trông nom không được người. Môn hộ tố công, một bực như nhau là làm mậu dịch, người không thể hơn nhiều. Cũng có thể tố sao làm.( Chú: Mậu nhật chủ kiến giáp dần thời đích tổ hợp luận cát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần, cho nên lúc này giáp không thể mậu, khác tổ hợp thì không phải, như mậu nhật chủ kiến ất giờ Mẹo, luận hung. Mậu nhật chủ xứng giáp dần thời, chỉ cần hành thủy vận trợ giúp khởi dần mộc nhân tiện phát tài, trái lại, nếu phá hủy dần mộc thì phá tài.)

Nhàn chú: Mậu sợ chính quan không sợ thất sát, nguyên nhân mậu trường sinh tại dần. Bính tử năm phát tài, đinh sửu năm lấy200 vạn USD mua mà, tiện nghi, kim tan ra gió lốc sau khi lên chức giá trị mấy lần, phát đại tài.

Càn: Ất ất mậu giáp  giáp quý nhâm tân canh

Tị dậu tử dần  thân mùi ngọ tị thìn

Vốn là một ức vạn phú ông, có [hai người/cái] triệu tư sản, tài thống quan rồi. Tẩu ngọ vận phát. Tân tị vận đích tân vận còn có thể, nhưng tị vận mặc dần, khẳng định bất hảo. Ngọ vận xung tử, hợp dần, tố công lớn rồi. Dần sinh rồi ngọ, sao làm, thêm xung tử, phát tài, tòng tố công thượng giải thích. Tố luồng phiếu lập nghiệp đích, [một người/cái] đại hộ, theo trang kiếm tiền. Dậu nguyên thần bị chế cũng không được chế, ngọ vận vốn là tỉ kiếp cùng quan sát tới lấy tài.( Chú: Tư liệu thượng không có)

Nhàn chú: Ngọ vận cho mượn khứ 4000 vạn, hỏi có thể trở về không? Ngọ tăng mạnh rồi kỷ đích lực lượng chế dậu, tử, thêm ngọ là dần trung vật. Dụng ngọ( Kỷ thổ) tỉ kiếp tố công, sao luồng!

Càn: Ất kỷ giáp canh  mậu đinh bính ất giáp

Tị mão tuất ngọ  dần sửu tử hợi thú

Này tạo nguyên cục thành hỏa cùng táo thổ xu thế, thời thượng canh kim vi tối kỵ, nguyên cục không có chế. Hành tử vận, hỏa thổ có công, phát tài mấy ngàn vạn. Ất hợi vận ất canh hợp, vi tỉ kiếp hợp quan đoạt tài ý, tất có người muốn xâm chiếm ngoài tài sản. Quả nhiên này bước vận đích giáp thân năm, ất dậu năm khởi tài sản quan tòa. Thân năm canh kim đến vị, ất năm ất canh hợp đến vị, vốn là vi ứng kì.( Chú: Nhập mộ vốn là năng lượng đích tập trung cùng thăng hoa, nhưng giáp tuất nhật chủ khẳng định khống chế không được tuất thổ. May mắn mão tuất hợp, giáp kỷ hợp, rất rõ ràng vốn là cùng người hợp tác, kinh doanh phòng địa sản. Canh không có chế vốn là tối kỵ thần, nên khắc nhật chủ à. Ất canh xa hợp, canh nhân tiện động rồi, động rồi sẽ khắc giáp, hình thành rồi ất canh liên hợp khắc nhật chủ chi tượng, này hợp lại là xấu rồi. Trên thực tế cũng là cùng hắn hợp hỏa đích người cùng công nhà liên thủ đối phó hắn, nguyên nhân hắn hẹp hòi, giáp kỷ hợp rồi tài mà. Canh tử vận, xung ngọ, ngọ hỏa tố công rồi, quá. Ất hợi vận, ất mộc một thấu, sẽ không tốt lắm. [ba người/cái] quan tòa ứng kì: Canh thìn năm, ất canh hợp, vốn là nguyên nhân gây ra năm, giáp thân năm, chính mình ngồi canh đến vị, tố tụng, ất dậu năm, canh lâm đế vượng, xung hợp, hai năm quan tòa. Bính tuất năm trân khắc canh thân kim, ứng có thể thắng tố. Lão bà nhiều, tị ngọ tuất kỷ đều là. Đại lão bà năm ngoái( Ất dậu năm) đã chết, tuất vi đại lão bà, nguyên nhân ngồi thê cung được chính vị rồi, tị không phải đại lão bà, điểm này phải chú ý. Dậu tuất hại, bệnh tim tái phát mà chết. Bản thân thì vi cao huyết áp, giáp vi đầu, hỏa vượng nên hướng trên đầu tẩu, cố vi cao huyết áp, cao huyết chi ... bệnh.)

Nhàn chú: Hỏa nhập thú khố, mão thú hợp tố công, tố phòng địa sản đích. Giáp thú vi xi măng đồng, dựa vào mão thú hợp, kiếp tài hợp tài, làm cho phòng sản, ức vạn phú ông! Hợp hỏa, mão vi người khác! Tị ngọ nhập mộ không nhiều lắm dụng, mão thú hợp vốn là khắc. Tẩu tử vận hảo, thú vi lão tử, ngọ vi nhân, ngọ chế rồi tử thủy, thực thương có công, vốn đồ vô dụng, bây giờ hữu dụng rồi. Con mình giúp lão tử đem sự tình cấp làm! Đến ất vận, ất đến( Kiếp tài vi ấn, hợp bọn người) ất canh hợp, canh làm quan phương, canh thìn năm khởi quan tòa, giáp thân năm đánh, ất dậu năm cũng đánh, bính thú xem có thể thắng hay không.( Hợp bọn người đem luồng chuyển cho người khác, đến chỉnh hắn) canh vi lớn nhất đích bệnh! Ất dậu năm tang thê, thú vi đại lão bà, tị vi tiểu lão bà! Hỏa thổ rất vượng rồi, mão thú hợp chính là khống chế thú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhị, lộc cùng nguyên thân ứng kì

Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè? - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè?, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè?, tu vi Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè?, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè?

1. Bạn đang ngày càng không muốn trò chuyện với bạn bè?

Sai – Câu 3

Đúng – Câu 2

2. Bạn chưa từng nghĩ có một ngày mình sẽ lợi dụng bạn bè?

Đúng – Câu 3

Sai – Câu 4

3. Ở cùng với bạn bè, bạn rất sôi nổi?

Sai – Câu 5

Đúng – Câu 4

4. Khi xảy ra mâu thuẫn với bạn bè, bạn cảm thấy rất đau lòng?

Sai – Câu 6

Đúng – Câu 5

5. Khi gặp khó khăn, bạn sẽ tìm bạn bè giúp đỡ?

Đúng – Câu 6

Sai – Câu 7

6. Bạn có vì tiền mà phản bội lại bạn bè không?

Không – Câu 8

Có – Câu 7

7. Bạn có nghĩ rằng tiền bạc là thứ bạn cần nhất không?

Không – Câu 9

Có – Câu 8

8. Bạn có nghĩ rằng không có tiền cũng đồng nghĩa với việc không có bạn bè?

Đúng – Câu 9

Sai – Câu 10

9. Bạn có thích cùng bạn bè đi mua sắm không?

Có – Câu 10

Không – Câu 11

10. Hiện giờ, bạn đang yêu?

Đúng – Câu 11

Sai – Câu 12

11. Bạn có nguyện cho bạn bè khó khăn mượn toàn bộ số tiền để dành của bạn không?

Không – Đáp án A

Có – Đáp án B

12. Bạn có cảm thấy bạn bè càng ngày càng không còn quan trọng như hồi trước?

Đúng – Đáp án C

Sai – Đáp án D

Kết quả:

A. Bạn coi trọng tiền
Bạn thiếu cảm giác an toàn, luôn cảm thấy tình cảm trên đời mười phần đều là giả dối, khi vật chất đặt trước mặt thì tình cảm đều trở nên lu mờ. Đối với bạn bè, bạn không sẵn sàng cho đi quá nhiều, cũng thiếu sự nhạy cảm để trải nghiệm tình bạn đáng quý xem boi ngay sinh. Nếu không có bạn bè tốt nào vì bạn mà trao ra nhiều điều khiến bạn cảm nhận tình bạn, hẳn bạn có khả năng vì tiền mà phản bội bạn bè, thậm chí bạn còn đắc ý, cho rằng bạn bè của mình quá ngốc.

B. Bạn coi trọng tình bạn
Theo quan điểm của bạn, bạn bè đáng quý hơn tiền bạc, không có tiền thì có thể nỗ lực kiếm tiền, nhưng mất đi tình bạn thì khó có thêm lần nữa. Bạn cho rằng chỉ vì lợi ích mà đi làm bạn bè, sau đó lợi dụng đối phương thì không phải là tình bạn thật sự. Trong tim bạn, tình bạn là tình nghĩa đáng quý và không gì có thể so sánh, bạn bè có thể khiến cho cuộc sống của bạn thêm màu sắc, không còn cảm thấy cô đơn.

C. Bạn ngày càng coi trọng tiền
Bạn cảm thấy  bạn bè không còn quan trọng như thời học sinh, theo độ tuổi ngày càng trưởng thành, trải nghiệm xã hội phong phú, bạn cảm nhận trọng tâm của mình đã nghiêng về phía gia đình, sự nghiệp. Bạn bè càng ngày càng ít liên lạc, vơi dần sự quan tâm hay nguyện trao ra nhiều thứ. Bạn cũng bắt đầu ích kỷ, vì bản thân mà suy nghĩ nhiều hơn, nắm bắt cơ hội kiếm tiền, dẫu sao thực hiện mục tiêu của bản thân còn quan trọng hơn là việc có bạn bè.

D. Tình bạn và tiền đều coi trọng như nhau
Bạn coi trọng vật chất, không có tiền thì bạn không biết sẽ sống thế nào nên rất coi trọng tiền bạc. Nếu cần thiết phải phản bội bạn bè để kiếm tiền sẽ khiến nội tâm của bạn đấu tranh dữ dội, bởi bạn cũng rất coi trọng tình bạn. Nếu sức mê hoặc của đồng tiền đủ lớn, bạn có thể phản bội lại bạn bè của mình, vì bạn cho rằng sau khi có tiền, có thể giúp đỡ được bạn bè, cuộc sống của mình cũng tốt hơn, vậy sao lại không cơ chứ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói bạn coi trọng tiền hay bạn bè? - Xem bói - Xem Tử Vi

Đặc tính của sao Thiên Cơ

Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí, làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Thiên Cơ

Đặc tính của sao Thiên Cơ

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Cơ trong lá số Tử Vi

Tên sao Đẩu Phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Tứ hóa
Thiên cơ Nam đẩu thứ 3 Âm mộc Thiện Huynh đệ, trí tuệ Ất: Lộc, Bính: Quyền - Đinh: Khoa - Mậu:kị

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Cơ là âm mộc, là sao thứ 3 thuộc chòm sao Nam Đẩu, chủ về trí tuệ, tư tưởng, anh em, hệ thần kinh, hóa khí là thiện, Hóa Kị là hung (chủ về tổn thương thần kinh, u não), làm chủ cung huynh đệ.

Đặc trưng của sao Thiên Cơ là đa tài đa nghệ, có tính "động" ở đây không phải là những biến động trong cuộc đời mà là động não, hoạt động, thường phải bôn ba lao lực, vì vậy phản ứng khá nhanh nhạy, giỏi vận động, liên lạc, giao thiệp, vạch kế hoạch và phân tích, xử sự có lý lẽ, điềm tĩnh mà có khí phách. Có lợi khi người làm công việc như phục vụ kỹ thuật chuyên môn, truyền bá phần nhiều là phần thiết kế, vạch kế hoạch chứ không phải thực thi, thực hành, vì thiếu tính ổn định, nên tối kị theo nghề kinh doanh hay tự sáng lập sự nghiệp.

Sao Thiên Cơ còn có tên là sao Thiên Tú, định số trong mệnh là phò tá vua mà hành sự, giải hung hiểm của nghịch cảnh. Nếu gặp cát tinh lại đắc địa thì mọi việc đều tốt đẹp, chăm đi lễ Phật, có hứng thú đặc biệt với tôn giáo hoặc mệnh lí, kính trọng người thân, phù hợp làm tăng đạo ở núi rừng, không có lòng ác độc bất nhân, có khả năng tùy cơ ứng biến, có tầm nhìn xa, làm việc có phương pháp. Nữ mệnh nếu gặp sao Thiên Cơ, phần nhiều chủ về phúc thọ, gặp cát sẽ cát, gặp hung sẽ hung; nếu gặp sao Thiên Lương thì bản thân sẽ có biệt tài về một lãnh vực nào đó.

Sao Thiên Cơ không có năng lực khống chế hóa giải sát tinh, vì e rằng trí tuệ của Thiên Cơ sẽ giúp kẻ ác. Sao Thiên Cơ cũng rất sợ gặp sao Hóa Kị,  trong hạn nếu gặp hung sát hội chiếu hoặc Hóa Kị, nếu không được cát tinh cứu ứng, nên đề phòng tai ách, tốt nhất là nên thận trọng phòng thủ mà không nên hành động.

Bốn sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương nếu hội tụ tại ba cung mệnh, quan, tài, là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" rất thích hợp với sự nghiệp tôn giáo, văn hóa, truyền bá. Nếu sao Thiên Cơ và sao Cự Môn cùng ở cung mệnh tại Mão, Dậu là cách cục "Cự cơ đồng lâm" có thể là người đứng đầu trong lãnh vực khoa học công nghệ cao. Nếu sao Thiên Cơ, Thiên lương cùng ở tại cung Thìn và cung Tuất, hoặc tại cung Thiên Di chiếu về cung Mệnh, là cách cục "Thiện ấm triều cương", chủ về phúc thọ gồm đủ. Nếu sao Thiên Cơ và Sao Cự Môn cùng thủ mệnh tại cung Dậu, lại đồng cung với Hóa Kị ở tam phương tứ chính, là cách cục "Cự Cơ hóa Dậu", chủ về bôn ba vất vả, gặp nhiều thất bại, nếu là nữ mệnh thì khó tránh lênh đênh phiêu bạt.

Ca quyết:

Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh

Tố sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh

Sở vi tối hiếu thiện, diệc khả tác quần anh

Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm

Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình

Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh

Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng

Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn

Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh

Thìn Tuất Tý Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh

Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân

Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh

Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh

Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh

Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh

Nghĩa là:

Thiên Cơ chủ cung huynh đệ, là chính diệu nam Đẩu

Làm việc có thao lược, bản tính cực thông minh

Hành vi rất lương thiện, mà cũng là hơn người

Gặp cát tinh sẽ hưởng phúc; nhập cách vào hàn lâm

Đồng cung với Cự Môn, quan võ trấn biên cương

Nhưng cũng cần gặp Hóa Quyền, Thất Sát; mới lập được công danh

Đồng cung với Thiên Lương, số định làm đạo sĩ, sư tăng

Mệnh nữ gặp sao ấy, tính khéo dễ đa tình

Thiên Đồng cùng Xương, Khúc; tụ hội vây chiếu chủ vinh hoa

Cung Thìn, Tuất, Tí, Ngọ; nhập miếu có công danh

Nếu tại Thìn, Dần, Mão; Thất Sát cùng Phá QUân

Dễ nạn tai bất trắc; Dương, Đà cùng Hỏa, Linh

Nếu như gặp hung sát; gặp họa ách tai ương

Vũ ám hợp Liêm, Phá; hai mắt chẳng được tinh

Hai hạn gặp sao đó; việc thay đổi khôn lường   

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Cơ

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Lễ Hội Xã Mãn Trù diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 7 âm lịch hàng năm tại xã Mãn Trù, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Lễ Hội Xã Mãn Trù

Thời gian: tổ chức vào ngày 2 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã Mãn Trù, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bảy vị đại vương (Hải, Lĩnh, Long, Lôi, Lương, Nhạo, Sơn) thời Hùng Vương, có công dẹp loạn ở Hưng Hóa.

Nội dung: Phần tế lễ diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm. Lễ vật dâng cúng có trâu, dê, lợn. Ngoài ra còn có các hoạt động vui chơi ca hát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 2 tháng 7 âm lịch - Lễ Hội Xã Mãn Trù

Tuổi Nhâm Thân 1992 hợp làm ăn với tuổi nào

Tuổi Nhâm Thân hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn sinh năm 1992 tuổi Nhâm Thân thì hợp làm ăn với những tuổi nào? Dưới đây là những thông tin về những ngành nghề hợp và tuổi hợp làm ăn cho tuổi Nhâm Thân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Nhâm Thân hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn sinh năm 1992 tuổi Nhâm Thân thì hợp làm ăn với những tuổi nào? Dưới đây là những thông tin về những ngành nghề hợp và tuổi hợp làm ăn cho tuổi Nhâm Thân.

Tuổi Nhâm Thân 1992 hợp làm ăn với tuổi nào

Xem thêm những bài viết liên quan

+ Tuổi Tân Mùi hợp với tuổi nào trong làm ăn?

+ Tuổi Canh Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào?

+ Tuổi Kỵ Tỵ hợp làm ăn với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Nhâm Thân

Tuổi Nhâm Thân, sinh năm 1992, năm con Khỉ, cung mệnh Khôn, mạng cốt tinh Kim.

Tính cách của người Nhâm Thân: Là người thông minh, nhạy bén, hoạt bát, hoàn cảnh nào cũng thích ứng. Tính tình cương trực, không chịu thua kém người.Tâm tính hiền lành, ôn hòa, gặp khó khăn gì cũng giải quyết dễ dàng. Nhiều hoài bão lớn, nhưng không thực hiện được. Đã thông minh, lại có tài, tính tình cương trực bất kể ai, vì thế cũng có người quý trọng, có người ghen ghét. Nhờ tài đức, hiền lương mà được nhiều người yêu mến.

Nghề thích hợp với tuổi Nhâm Thân: Nên chọn những nghề làm ăn buôn bán liên quan đến Thổ như mua bán đất đai, nhà cửa, đồ gốm sứ, gạch ngói, .. và nghề Thủy những nghề liên quan đến sông nước, thủy hải sản thì cực kỳ phát đạt. Nếu làm những nghề liên quan đến kim khí, điện tử, gỗ tre nứa,... thì sẽ khó khăn, vất vả.

Tuổi Nhâm Thân hợp làm ăn với tuổi nào?

Tuổi Nhâm Thân hợp làm ăn với tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc mệnh Thổ) thì thuận lí, cực kỳ tốt.

Tuổi Nhâm Thân kết hợp làm ăn với những người thuộc mệnh Thủy ( gồm các tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu) thường là bạn bè thì có thể làm ăn được. Nếu không thì người tuổi Nhâm Thân phải là cấp dưới hoặc trợ lí của những người mệnh Thủy thì mới thuận buồm xuôi gió.

Khi kết hợp với những người có mệnh Kim ( gồm các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi) tuy cùng hành nhưng ở đây Kim khắc Kim nên bất lợi. Người tuổi Nhâm Thân không nên kết hợp với những người tuổi này.

Khi kết hợp làm ăn với những người có mệnh Mộc gồm các tuổi  Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu thì có điều kiện để phát triển, tiến lên.

Tuổi Nhâm Thân không hợp làm ăn với tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi thuộc hành Hỏa, thì công việc không thuận lợi, gặp kẻ tiểu nhân hãm hại.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Nhâm Thân:

Màu hợp tuổi Nhâm Thân: Hợp với màu vàng, trắng, ánh kim. Tránh màu đỏ, tím.

Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Nhâm Thân: Đối với nam giới, hướng đặt bàn làm việc nhìn hướng Đông - Nam, đối với nữ giới đặt bàn làm việc nhìn hướng Tây - Nam.

Xem thêm tử vi 2017 cho tuổi Nhâm Thân tại Phongthuyso.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Nhâm Thân 1992 hợp làm ăn với tuổi nào

Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở bài này tôi sử dụng một số qui luật trong Chu Dịch để phát hiện sự tồn tại của 3 giác quan mà khoa học ngày nay vẫn chưa rõ.

Năng lực Ngoại Cảm chỉ những trường hợp xảy ra ở những cá nhân có khả năng cảm nhận sự việc, hiện tượng không bằng năng lực của 5 giác quan thông thường. Liệu ngoài các chức năng mà chúng ta đã biết rõ về 5 giác quan còn có chức năng nào khác chưa biết ? Hoặc có tồn tại giác quan khác ? Hiện nay, các ý kiến nghiêng về hướng thứ hai. Giác quan chưa biết ấy được gọi chung là giác quan thứ sáu. Được gọi chung là bởi cho đến nay vẫn chưa xác định được bao nhiêu giác quan chúng ta chưa biết đến…..Chúng là những giác quan nào ? Bao nhiêu giác quan ? Chúng mang những chức năng gì ? Cơ chế hoạt động ra sao ? Cơ quan của các giác quan này nằm ở đâu ?

Chu Dịch bằng lối đi riêng đã phát hiện cơ thể con người có 8 giác quan. Tôi trình bày như sau:
Chu Dịch có 8 quẻ ghi nhận 8 hình thái vận động thuần nhất: Thuần Chấn, Thuần Tốn, Thuần Ly, Thuần Khôn, Thuần Đoài, Thuần Càn, Thuần Khảm, Thuần Cấn.
Mỗi hình thái thuần nhất mang cấu trúc đặc biệt: Là 2 đồ hình cơ bản giống nhau và chồng lên nhau.
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _


8 hình thái này là 8 hình thái thuần nhất của Chu Dịch.
Ta xét hình thái thuần nhất trong phạm trù giác quan. Có 8 hình thái thuần nhất thuần nhất tương ứng có 8 giác quan. Chu Dịch mô tả 5 giác quan đã biết & 3 giác quan chưa biết như sau :

5 giác quan đã biết :
1. Thuần Ly: Quẻ mô tả vật chất sáng. Để cảm nhận vật chất sáng có cơ quan thụ cảm vật chất sáng, Thị giác.
2. Thuần Chấn: Quẻ mô tả vật chất lan toả. Để cảm nhận vật chất lan toả có cơ quan thụ cảm vật chất lan toả, Khứu giác.
3. Thuần Tốn: Quẻ mô tả vật chất chuyển động. Để cảm nhận vật chất chuyển động có cơ quan thụ cảm vật chất chuyển động, Xúc giác.
4. Thuần Cấn: Quẻ mô tả vật chất ngưng tụ. Để cảm nhận vật chất ngưng tụ có cơ quan thụ cảm vật chất ngưng tụ, Vị giác.
5. Thuần Đoài: Quẻ mô tả vật chất gây tiếng động. Để cảm nhận vật chất gây tiếng động có cơ quan thụ cảm vật chất gây tiếng động, Thính giác
3 giác quan chưa biết :

6. Thuần Càn: Quẻ mô tả vật chất khởi sinh. Để cảm nhận vật chất khởi sinh có cơ quan thụ cảm sự khởi sinh. Tôi gọi tên Khởi giác.
7. Thuần Khôn: Quẻ mô tả vật chất sao chép. Để cảm nhận vật chất sao chép có cơ quan thụ cảm vật chất sao chép. Tôi gọi tên Tái tạo giác.
8. Thuần Khảm: Quẻ mô tả vật chất tối. Để cảm nhận vật chất tối có cơ quan thụ cảm vật chất tối. Tôi gọi tên Liễm giác

Tôi đã xác định tính thụ cảm Ý thức – Vô thức của ba giác quan 6,7,8 như thế nào ?

Xem xét qui luật vận động thụ cảm trong cặp phạm trù thụ cảm Ý thức – Vô thức:
* Thuần Ly, Thuần Tốn, Thuần Đoài, Thuần Cấn, Thuần Chấn các hào từ mô tả hình thái vận động có điểm chung là: Vận động thụ cảm bên ngoài, vận động bề nổi _ Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, các giác quan là hoạt động thụ cảm Ý thức.
* Thuần Khôn vận động thụ cảm sao chép kín đáo ngay ở hào 1 cho đến hào 5. Chỉ xuất hiện ở hào 6 & 7 dưới hình thức sử dụng. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Tái tạo giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Khảm vận động thụ cảm “Bị nhốt” từ hào 1 đến hào 6. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Liễm giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Càn vận động thụ cảm khởi động đi đầu từ hào 2 đến hào 7, chỉ có hào 1 là chìm bât bất động (Ở ẩn) Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, giác quan Khởi giác hoạt động thụ cảm Ý thức.
Và xác định chức năng của 3 giác quan 6,7,8
Tôi xem xét chức năng các giác quan qua Thoán từ, Hào từ & mối liên hệ giữa các hình thái:
* Thuần Khôn là hình thái Sao chép. Nó vận động theo qui luật Sao chép các sự vật & hiện tượng. Tái tạo giác hoạt động theo qui luật vận động của hình thái Thuần Khôn, tức là, Tái tạo giác hoạt động thụ cảm sao chép các sự vật & hiện tượng.
* Thuần Càn là hình thái Đầu tiên. Nó vận động theo qui luật Đầu tiên của các sự vật & hiện tượng như sau:

Hào 1 : vận động tích luỹ.
Hào 2,3 & 4 : vận động tiếp thu.
Hào 5,6 : vận động phóng xuất.
Hào 7 : vận động thoát dương.

Khởi giác hoạt động thụ cảm theo qui luật vận động của hình thái Thuần Càn, tức là, Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất “Cái” đầu tiên của sự vật & hiện tượng. “Cái” đầu tiên ấy trong hoạt động trí não khi giao tiếp chính là suy nghĩ. Vậy: Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
Vận động tích luỹ nằm trong hoạt động thụ cảm phóng xuất.
Còn Thoát dương ?
Hào thứ 7 được biểu thị: toàn bộ 6 hào dương biến sang 6 hào âm, nên tôi gọi đây là sự vận động thoát dương. Tức là sự vận động thoát dương của suy nghĩ. Thoát dương như thế nào?

Ta xem lời hào 7: “Đang ở một không gian khác. Trong không gian ấy, họ nhìn thấy ta, nhưng ta thì không nhìn thấy họ”
Vậy ta có: Khi hoạt động của giác quan này đạt đến độ thoát dương sẽ “Nhìn” thấy sự vật & hiện tượng ở một không gian khác.
* Thuần Khảm là hình thái “Nhốt” . Nó vận động theo qui luật “Nhốt” sự vật & hiện tượng. Để biết giác quan này nhốt cái gì ta xem xét mối liên hệ giữa 2 hình thái: Thuần Khảm & Thuần Ly.

Thuần Khảm là hình thái ngược của hình thái Thuần Ly. Thuần Ly mô tả sự vật & hiện tượng sáng, ngược lại, Thuần Khảm mô tả sự vật & hiện tượng tối.
Ta xem xét sự vật & hiện tượng trong cặp phạm trù: Năng lượng sáng & Năng lượng tối.

Thị giác (Thuần Ly) tiếp nhận & phản chiếu ánh sáng từ vật thể phát hoặc phản chiếu năng lượng sáng. Ngược lại, Liễm giác tiếp nhận rồi nhốt luôn năng lượng tối.
Vậy ta có: Liễm giác hoạt động thụ cảm bằng việc hấp thu năng lượng tối.

LỜI BÀN
1. Bằng Chu Dịch tôi xác định được sự tồn tại một dạng vật chất đặc biệt, vật chất tối cùng với nó là năng lượng tối. Ở thế kỷ trước, Einstein đã đưa ra giả thuyết về vật chất tối & năng lượng tối để giải thích cho các tính toán mà các phương trình vũ trụ phải được thoả mãn. Gần đây bằng các phương tiện đo đạc, giới khoa học đã xác nhận sự tồn tại của dạng vật chất này ở cấp độ thiên văn. Lổ đen mà tôi có giới thiệu trong bài Chu Dịch với thiên văn là một dạng vật chất tối…. Theo cái cách mô tả của Thuần Khảm thì qui trình hấp thụ thức ăn trong cơ thể con người chính là qui trình vận động “Tối” tạo ra năng lượng tối. Nếu sự phỏng định này là đúng thì cần phải xem xét lại các khái niệm về sinh hoá học cơ thể.

2. Chức năng của Khởi giác do Chu Dịch cung cấp đã cho ta một ý niệm về một không gian khác, khác với không gian mà loài người chúng ta đang tồn tại. Viện hàn lâm Quốc gia Mỹ đưa ra "11 câu hỏi cuối cùng" về vũ trụ, làm định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Các câu hỏi này được những nhà khoa học hàng đầu của ba trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ phác thảo ra: Cơ quan hàng không vũ trụ, Bộ Năng lượng và Quỹ khoa học Quốc gia. Ở câu hỏi thứ 9: “Có tồn tại một hệ không gian - thời gian khác không?” Câu hỏi này được đặt ra một cách nghiêm túc xuất phát từ những thực tế nghiên cứu trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực Trường Sinh Học, Cận Tâm Lý…. Có một số người có khả năng nói chuyện với những người đã chết không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam chúng ta khi truy tìm hài cốt liệt sỹ, mà còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Và Chu Dịch còn cung cấp cho chúng ta 1 chi tiết khá lý thú: Họ, những người tồn tại trong 1 hệ không gian - thời gian khác nhìn thấy chúng ta tương đối rõ, chúng ta thì không. Đối với chúng ta, họ vô hình.

3. Có những hiện tượng được ghi nhận là khá kỳ lạ và rất khó lý giải như một bà lão người Thổ Nhĩ Kỳ sau cú vấp té chỉ nói tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, như những người thân và người trong làng cùng xác nhận rằng suốt đời bà ấy chưa hề bước chân ra khỏi làng để đi đâu xa, và bà ấy không hề có quan hệ bà con với ai là người Hy Lạp. Hay gần đây nhất một người đàn ông ở Đồng Tháp sau ca mổ đã dùng giọng chuần của người Hà Nội để nói chuyện với mọi người (!?) Trong khi anh ta và cha anh ấy chưa từng một lần ra Bắc (Tin VNexpress) Chỉ có cơ quan thụ cảm Tái Tạo giác do Chu Dịch cung cấp mới có thể giải thích được những trường hợp như thế.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Thiền Viện Huệ Chiếu - Vũng Tàu

Thiền viện Huệ Chiếu thức chất là nông trại Kim Liên tọa lạc tại thị xã Phú Mỹ, Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, do Sư bà thượng Tịnh hạ Khiết,
Thiền Viện Huệ Chiếu - Vũng Tàu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiền viện Huệ Chiếu thức chất là nông trại Kim Liên tọa lạc tại thị xã Phú Mỹ, Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, do Sư bà thượng Tịnh hạ Khiết, viện chủ chùa Kim Liên ở quận 4 Thành phố HCM thành lập năm 1975. Sau đó giao cho đệ tử lớn là Ni sư Khiết Minh quản lý. Cuối năm 1979, Ni sư vì hâm mộ pháp tu thiền, nên đã hiến cúng toàn bộ cơ sở đất đai cho Hòa thượng thượng Thanh hạ Từ, viện chủ thiền viện Chơn Không Vũng Tàu, để thành lập Thiền Viện Huệ Chiếu ở khu Đại Tòng Lâm.

Cuối năm 1985, cảm thấy sức khỏe kém và nhất là muốn nhập thất để tiến tu, nên Ni sư Kiết Minh thỉnh cầu Hòa thượng cho người về thay mình. Hòa Thượng cử Sư cô Thuần Trí, đang ở thiền viện Bát Nhã, thuộc thiền viện Chơn Không về làm trụ trì. Số chúng lúc đó là 18 vị.

Ni sư Kiết Minh được nhập thất theo sở nguyện, nhưng chỉ được vài tháng thì Sư bà viên tịch nên Ni sư phải về lại chùa Kim Liên gánh vác Phật sự. Trong thời gian 3 năm từ 1986 đến 1988, số chúng tăng gần 40 vị.Thiền viện được sửa sang lại khang trang. Kinh tế tự túc vẫn là làm rẫy đậu, ép dầu và trồng một ít lúa.

Năm 1989 Hòa thượng cử Sư cô Hạnh Nhã đang ở thiền viện Viên Chiếu về làm trụ trì. Thời gian này, cơ sở vật chất được trùng tu xây dựng thêm, kinh tế tự túc chuyển sang nghề may y phục cho Tăng Ni và Phật Tử. Cuộc sống đỡ nhọc nhằn, ni chúng có thêm thời gian tu học. Ni chúng lúc ấy đã lên gần 60 vị.

Đầu năm 1995, theo lời thỉnh của Sư cô Hạnh Nhã, Hòa thượng ân sư lại chỉ định Sư cô Thuần Trí đang ở Hương Vân Đà Lạt về làm trụ trì cho đến nay. Đến năm 1999, được sự chấp thuận của Hòa Thượng, chánh điện được trùng tu. Quang cảnh ngày một tươi mát. Kinh tế tự tục vẫn là nghề may, thời gian tu học được tăng thêm dưới sự chỉ dạy của quí thầy giáo thọ ở thiền viện Viên Chiếu và Huệ Chiếu. Số chúng lên gần 90 vị.

nhà khách
Nhà Khách Ni

Đặc biệt Thiền viện Huệ Chiếu có rất đông các vị miền Bắc vào tu. Cuối năm 2007, Sư cô Hạnh Nhã ra miền Bắc, xây dựng thiền viện Giác Tâm (chùa Cái Bầu) thuộc tỉnh Quảng Ninh để chúng miền Bắc có chỗ nương tu. Một số chúng lớn cũng ra lãnh chùa tại miền bắc. Một số đang phụ xây dựng thiền viện mới. Thiền Viện Huệ Chiếu có phần khiêm tốn về diện tích, cơ sở vật chất và công việc giảng dạy cho Ni chúng cũng như cho Phật tử. Nhưng đó là do phước duyên của mỗi nơi. Ni chúng Huệ Chiếu chỉ biết âm thầm siêng tu, gắng học, tận tâm khi làm. Nhờ đó cũng cảm nhận đôi chút bình an trong cuộc sống.

Thiền Viện Huệ Chiếu chỉ mong làm một đóa hoa nhỏ, góp phần vào vườn hoa Phật giáo Việt Nam, ngày thêm rực rỡ ngát hương để làm đẹp cho đời. Cũng là tự chuyển hóa mình và làm lợi lạc tha nhân, hầu báo đáp bốn ân sâu nặng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiền Viện Huệ Chiếu - Vũng Tàu

Con gà là số mấy & mơ thấy con gà số bao nhiêu? Mơ thấy con gà mua vé số mấy? Mơ thấy con gà mua Vietlott số mấy?

Vạn Sự gửi tới quý thính giả bài: Con gà là số mấy & mơ thấy con gà số bao nhiêu? Mơ thấy con gà mua vé số mấy? Mơ thấy con gà mua Vietlott số mấy?

Bạn muốn giải mã giấc mơ Con gà là số mấy & mơ thấy con gà số bao nhiêu? Bạn sẽ tìm hiểu về Con gà là số mấy? Cùng giải mã giấc mơ thấy con gà và thấy đàn gà là số bao nhiêu, bắt gà số mấy, đánh số con gì nằm mơ.

Con gà là số mấy & mơ thấy con gà số bao nhiêu? Mơ thấy con gà mua vé số mấy? Mơ thấy con gà mua Vietlott số mấy?

Xem thêm: Con gà là số mấy & mơ thấy con gà số bao nhiêu? Mơ thấy con gà mua vé số mấy? Mơ thấy con gà mua...

Xem tướng phụ nữ giàu sang có hôn nhân tốt đẹp

Thuật xem bói cho rằng xem tướng phụ nữ mà thấy đôi môi đầy đặn, khuôn mặt cân đối ... thì đó là tướng phụ nữ giàu sang nhờ có quý nhân và có hôn nhân tốt
Xem tướng phụ nữ giàu sang có hôn nhân tốt đẹp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuật xem bói cho rằng xem tướng phụ nữ mà thấy đôi môi đầy đặn, khuôn mặt vuông vức, cằm tròn đầy, mũi cân đối, lông mày thanh tú và nhân trung rõ ràng thì đó là tướng người phụ nữ giàu sang bởi có quý nhân phù trợ, có hôn nhân tốt đẹp bởi lấy được người chồng hết mực thương yêu và chăm sóc.

Không cần đạt hết được những chỉ tiêu đó, bạn chỉ cần nắm được một vài yếu tốt liệt kê dưới đây cũng là may mắn được hưởng rất nhiều điều tốt mà có biết bao người phụ nữ khác ước ao. Hãy cùng Xem Bói Tướng tìm hiểu những dấu hiệu qua việc xem bói các dấu hiệu này.

1. Đôi môi đầy đặn, hồng hào

Trong nhân tướng học, môi trên môi dưới đầy đặn, không khuyết hãm, sắc môi hồng hào là biểu hiện của quý tướng. Quý cô sở hữu nét tướng mặt này thường có tính cách điềm đạm, không dễ nổi nóng hay tức giận vô cớ, đi tới đâu cũng gặp được quý nhân phù trợ, giúp đỡ vượt qua mọi cơn hoạn nạn.

Bên cạnh đó, cô nàng này cũng rất dễ được gả vào nhà giàu có, quyền lực. Bản thân luôn nỗ lực không ngừng để vượt khó, làm giàu trở thành người phụ nữ giàu sang. Khi lấy chồng lại trở thành “quân sư”, giúp sự nghiệp của ông xã thăng cấp mạnh mẽ.

Ngoài ra, nếu cộng thêm đặc điểm hàm răng đều đặn, trắng sáng chứng tỏ mối quan hệ vợ chồng luôn đằm thắm, hạnh phúc, đời sống tình cảm dạt dào, đa sắc.

2. Khuôn mặt vuông vức, trán bằng

Nếu mang trên mình đặc điểm về khuôn mặt vuông vức, vầng trán sáng bóng nhưng đầy đặn, bằng phẳng, không lồi lõm, bạn hoàn toàn có thể tự tin sau này sẽ được người chồng hết mực yêu thương, chăm sóc. Đồng thời, bạn đóng vai trò trọng yếu, góp phần tạo ra thành công trong sự nghiệp và thúc vượng tài lộc cho nửa kia.

Hơn thế, bản thân bạn dễ dàng gặt hái được thành công trong cuộc sống, danh lợi song toàn, được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ.

3. Dáng đầu tròn, đỉnh đầu không nhô quá cao

Chủ nhân của nét tướng này có tài vận khá vượng, gặp nhiều may mắn và cơ hội kiếm tiền trong cuộc sống. Nếu chủ động nắm bắt và không ngừng nỗ lực, ắt biến thành người phụ nữ giàu sang, hưởng vinh hoa phú quý, không phải lo tiền bạc vật chất.

Ngoài ra, nữ giới có số vượng phu ích tử, trợ lực rất nhiều cho tài vận và công danh, sự nghiệp cho chồng. Được người này “nâng khăn sửa túi”, cuộc đời bạn là những chuỗi ngày tràn ngập niềm vui, hạnh phúc.

4. Cằm đầy đặn, không khuyết hãm

Nếu có tướng mặt mà cằm đầy đặn, nhiều thịt, không tật sẹo khuyết hãm, bạn có thể mong ước về cuộc sống sung túc, đủ đầy.

Sách tướng có ghi: “Địa các tròn đầy, vượng phu hưng gia”. Cằm còn gọi là Địa các. Cằm tròn đầy là dấu hiệu của số vượng phu, giúp gia trạch hưng vượng.

Những cô nàng có tướng cằm như vậy thường là “vợ hiền, dâu thảo, mẹ đảm” trong gia đình. Hơn thế, họ luôn hiểu chuyện, suy nghĩ thấu đáo, biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để suy nghĩ. Chính vì thế gia vận trong ấm ngoài êm, ai nấy đều tin tưởng và yêu mến họ.

5. Mũi cân đối

Chúng ta đều biết rằng mũi là một bộ phận rất quan trọng trên mặt. Vì vậy, đầu tiên, một diện mạo phụ nữ tốt là không có mũi quá nhỏ hoặc quá to, phải đầy đặn và lỗ mũi không quá lộ. Nếu một người phụ nữ có mặt nhỏ nhưng mũi lại to hơn so với mức độ trung bình của gương mặt đó thì điều này chỉ ra rằng đây là một người có số giàu có nhưng không được phép lấy chồng cũng là người có tiền.

Nếu khuôn mặt nhìn trung bình nhưng mũi cao và trông mũi cân đối với khuôn mặt thì đó là người sẽ kết hôn với những người giàu có và mạnh mẽ.

6. Lông mày thanh tú

Là người có đường lông mày rõ nét, sáng; sợi không quá thô hay quá đen, khoảng cách đều nhau. Người phụ nữ có lông mày thanh tú thường được lộc về đường tài vận, sức khỏe tốt, hay gặp may mắn, có cơ hội lấy được người chồng có gia thế mà thành người phụ nữ giàu sang quyền quý.

7. Nhân Trung dài, rõ ràng và sâu

Đó là người phụ nữ có khả năng sinh sản tốt, có quý tướng sinh được con tài giỏi. Đứa trẻ có người mẹ như vậy thường rất hiếu đạo, thông minh, nhiều phúc lộc, trong tương lai sẽ gặt hái nhiều thành công.

Nhân trung dài và đẹp còn là biểu hiện cho trường thọ (nhân trung trong tướng học còn được ví là “Thọ đường”); vừa thông minh lại sống lâu, chồng giàu sang hiển đạt, con hiếu đạo vẹn tròn. Người phụ nữ có khuôn mặt như vậy thật là có phúc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ giàu sang có hôn nhân tốt đẹp

Những tên hay dành cho các bé trai –

Dưới đây là những gợi ý nho nhỏ để gia đình bạn có thể chọn cho quý tử nhà mình một cái tên đầy ý nghĩa An Cơ An Khang Ân Lai An Nam An Nguyên An Ninh An Tâm Ân Thiện An Tường Anh Ðức Anh Dũng Anh Duy Anh Hoàng Anh Khải Anh Khoa Anh Khôi Anh Minh Anh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những gợi ý nho nhỏ để gia đình bạn có thể chọn cho quý tử nhà mình một cái tên đầy ý nghĩa

mu-len-cho-be-trai-03

An Cơ

An Khang

Ân Lai

An Nam

An Nguyên

An Ninh

An Tâm

Ân Thiện

An Tường

Anh Ðức

Anh Dũng

Anh Duy

Anh Hoàng

Anh Khải

Anh Khoa

Anh Khôi

Anh Minh

Anh Quân

Anh Quốc

Anh Sơn

Anh Tài

Anh Thái

Anh Tú

Anh Tuấn

Anh Tùng

Anh Việt

Anh Vũ

Bá Cường

Bá Kỳ

Bá Lộc

Bá Long

Bá Phước

Bá Thành

Bá Thiện

Bá Thịnh

Bá Thúc

Bá Trúc

Bá Tùng

Bách Du

Bách Nhân

Bằng Sơn

Bảo An

Bảo Bảo

Bảo Chấn

Bảo Ðịnh

Bảo Duy

Bảo Giang

Bảo Hiển

Bảo Hoa

Bảo Hoàng

Bảo Huy

Bảo Huynh

Bảo Huỳnh

Bảo Khánh

Bảo Lâm

Bảo Long

Bảo Pháp

Bảo Quốc

Bảo Sơn

Bảo Thạch

Bảo Thái

Bảo Tín

Bảo Toàn

Bích Nhã

Bình An

Bình Dân

Bình Ðạt

Bình Ðịnh

Bình Dương

Bình Hòa

Bình Minh

Bình Nguyên

Bình Quân

Bình Thuận

Bình Yên

Bửu Chưởng

Bửu Diệp

Bữu Toại

Cảnh Tuấn

Cao Kỳ

Cao Minh

Cao Nghiệp

Cao Nguyên

Cao Nhân

Cao Phong

Cao Sĩ

Cao Sơn

Cao Sỹ

Cao Thọ

Cao Tiến

Cát Tường

Cát Uy

Chấn Hùng

Chấn Hưng

Chấn Phong

Chánh Việt

Chế Phương

Chí Anh

Chí Bảo

Chí Công

Chí Dũng

Chí Giang

Chí Hiếu

Chí Khang

Chí Khiêm

Chí Kiên

Chí Nam

Chí Sơn

Chí Thanh

Chí Thành

Chiến Thắng

Chiêu Minh

Chiêu Phong

Chiêu Quân

Chính Tâm

Chính Thuận

Chính Trực

Chuẩn Khoa

Chung Thủy

Công Án

Công Ân

Công Bằng

Công Giang

Công Hải

Công Hào

Công Hậu

Công Hiếu

Công Hoán

Công Lập

Công Lộc

Công Luận

Công Luật

Công Lý

Công Phụng

Công Sinh

Công Sơn

Công Thành

Công Tráng

Công Tuấn

Cường Dũng

Cương Nghị

Cương Quyết

Cường Thịnh

Ðắc Cường

Ðắc Di

Ðắc Lộ

Ðắc Lực

Ðắc Thái

Ðắc Thành

Ðắc Trọng

Ðại Dương

Ðại Hành

Ðại Ngọc

Ðại Thống

Dân Hiệp

Dân Khánh

Ðan Quế

Ðan Tâm

Ðăng An

Ðăng Ðạt

Ðăng Khánh

Ðăng Khoa

Đăng Khương

Ðăng Minh

Đăng Quang

Danh Nhân

Danh Sơn

Danh Thành

Danh Văn

Ðạt Dũng

Ðạt Hòa

Ðình Chiểu

Ðình Chương

Ðình Cường

Ðình Diệu

Ðình Ðôn

Ðình Dương

Ðình Hảo

Ðình Hợp

Ðình Kim

Ðinh Lộc

Ðình Lộc

Ðình Luận

Ðịnh Lực

Ðình Nam

Ðình Ngân

Ðình Nguyên

Ðình Nhân

Ðình Phú

Ðình Phúc

Ðình Quảng

Ðình Sang

Ðịnh Siêu

Ðình Thắng

Ðình Thiện

Ðình Toàn

Ðình Trung

Ðình Tuấn

Ðoàn Tụ

Ðồng Bằng

Ðông Dương

Ðông Hải

Ðồng Khánh

Ðông Nguyên

Ðông Phong

Ðông Phương

Ðông Quân

Ðông Sơn

Ðức Ân

Ðức Anh

Ðức Bằng

Ðức Bảo

Ðức Bình

Ðức Chính

Ðức Duy

Ðức Giang

Ðức Hải

Ðức Hạnh

Đức Hòa

Ðức Hòa

Ðức Huy

Ðức Khải

Ðức Khang

Ðức Khiêm

Ðức Kiên

Ðức Long

Ðức Mạnh

Ðức Minh

Ðức Nhân

Ðức Phi

Ðức Phong

Ðức Phú

Ðức Quang

Ðức Quảng

Ðức Quyền

Ðức Siêu

Ðức Sinh

Ðức Tài

Ðức Tâm

Ðức Thắng

Ðức Thành

Ðức Thọ

Ðức Toàn

Ðức Toản

Ðức Trí

Ðức Trung

Ðức Tuấn

Ðức Tuệ

Ðức Tường

Dũng Trí

Dũng Việt

Dương Anh

Dương Khánh

Duy An

Duy Bảo

Duy Cẩn

Duy Cường

Duy Hải

Duy Hiền

Duy Hiếu

Duy Hoàng

Duy Hùng

Duy Khang

Duy Khánh

Duy Khiêm

Duy Kính

Duy Luận

Duy Mạnh

Duy Minh

Duy Ngôn

Duy Nhượng

Duy Quang

Duy Tâm

Duy Tân

Duy Thạch

Duy Thắng

Duy Thanh

Duy Thành

Duy Thông

Duy Tiếp

Duy Tuyền

Gia Ân

Gia Anh

Gia Bạch

Gia Bảo

Gia Bình

Gia Cần

Gia Cẩn

Gia Cảnh

Gia Ðạo

Gia Ðức

Gia Hiệp

Gia Hòa

Gia Hoàng

Gia Huấn

Gia Hùng

Gia Hưng

Gia Huy

Gia Khánh

Gia Khiêm

Gia Kiên

Gia Kiệt

Gia Lập

Gia Minh

Gia Nghị

Gia Phong

Gia Phúc

Gia Phước

Gia Thiện

Gia Thịnh

Gia Uy

Gia Vinh

Giang Lam

Giang Nam

Giang Sơn

Giang Thiên

Hà Hải

Hải Bằng

Hải Bình

Hải Ðăng

Hải Dương

Hải Giang

Hải Hà

Hải Long

Hải Lý

Hải Nam

Hải Nguyên

Hải Phong

Hải Quân

Hải Sơn

Hải Thụy

Hán Lâm

Hạnh Tường

Hào Nghiệp

Hạo Nhiên

Hiền Minh

Hiệp Dinh

Hiệp Hà

Hiệp Hào

Hiệp Hiền

Hiệp Hòa

Hiệp Vũ

Hiếu Dụng

Hiếu Học

Hiểu Lam

Hiếu Liêm

Hiếu Nghĩa

Hiếu Phong

Hiếu Thông

Hồ Bắc

Hồ Nam

Hòa Bình

Hòa Giang

Hòa Hiệp

Hòa Hợp

Hòa Lạc

Hòa Thái

Hoài Bắc

Hoài Nam

Hoài Phong

Hoài Thanh

Hoài Tín

Hoài Trung

Hoài Việt

Hoài Vỹ

Hoàn Kiếm

Hoàn Vũ

Hoàng Ân

Hoàng Duệ

Hoàng Dũng

Hoàng Giang

Hoàng Hải

Hoàng Hiệp

Hoàng Khải

Hoàng Khang

Hoàng Khôi

Hoàng Lâm

Hoàng Linh

Hoàng Long

Hoàng Minh

Hoàng Mỹ

Hoàng Nam

Hoàng Ngôn

Hoàng Phát

Hoàng Quân

Hoàng Thái

Hoàng Việt

Hoàng Xuân

Hồng Ðăng

Hồng Đức

Hồng Giang

Hồng Lân

Hồng Liêm

Hồng Lĩnh

Hồng Minh

Hồng Nhật

Hồng Nhuận

Hồng Phát

Hồng Quang

Hồng Quý

Hồng Sơn

Hồng Thịnh

Hồng Thụy

Hồng Việt

Hồng Vinh

Huân Võ

Hùng Anh

Hùng Cường

Hưng Ðạo

Hùng Dũng

Hùng Ngọc

Hùng Phong

Hùng Sơn

Hùng Thịnh

Hùng Tường

Hướng Bình

Hướng Dương

Hướng Thiện

Hướng Tiền

Hữu Bào

Hữu Bảo

Hữu Bình

Hữu Canh

Hữu Cảnh

Hữu Châu

Hữu Chiến

Hữu Cương

Hữu Cường

Hữu Ðạt

Hữu Ðịnh

Hữu Hạnh

Hữu Hiệp

Hữu Hoàng

Hữu Hùng

Hữu Khang

Hữu Khanh

Hữu Khoát

Hữu Khôi

Hữu Long

Hữu Lương

Hữu Minh

Hữu Nam

Hữu Nghị

Hữu Nghĩa

Hữu Phước

Hữu Tài

Hữu Tâm

Hữu Tân

Hữu Thắng

Hữu Thiện

Hữu Thọ

Hữu Thống

Hữu Thực

Hữu Toàn

Hữu Trác

Hữu Trí

Hữu Trung

Hữu Từ

Hữu Tường

Hữu Vĩnh

Hữu Vượng

Huy Anh

Huy Chiểu

Huy Hà

Huy Hoàng

Huy Kha

Huy Khánh

Huy Khiêm

Huy Lĩnh

Huy Phong

Huy Quang

Huy Thành

Huy Thông

Huy Trân

Huy Tuấn

Huy Tường

Huy Việt

Huy Vũ

Khắc Anh

Khắc Công

Khắc Dũng

Khắc Duy

Khắc Kỷ

Khắc Minh

Khắc Ninh

Khắc Thành

Khắc Triệu

Khắc Trọng

Khắc Tuấn

Khắc Việt

Khắc Vũ

Khải Ca

Khải Hòa

Khai Minh

Khải Tâm

Khải Tuấn

Khang Kiện

Khánh An

Khánh Bình

Khánh Ðan

Khánh Duy

Khánh Giang

Khánh Hải

Khánh Hòa

Khánh Hoàn

Khánh Hoàng

Khánh Hội

Khánh Huy

Khánh Minh

Khánh Nam

Khánh Văn

Khoa Trưởng

Khôi Nguyên

Khởi Phong

Khôi Vĩ

Khương Duy

Khuyến Học

Kiên Bình

Kiến Bình

Kiên Cường

Kiến Ðức

Kiên Giang

Kiên Lâm

Kiên Trung

Kiến Văn

Kiệt Võ

Kim Ðan

Kim Hoàng

Kim Long

Kim Phú

Kim Sơn

Kim Thịnh

Kim Thông

Kim Toàn

Kim Vượng

Kỳ Võ

Lạc Nhân

Lạc Phúc

Lâm Ðồng

Lâm Dũng

Lam Giang

Lam Phương

Lâm Trường

Lâm Tường

Lâm Viên

Lâm Vũ

Lập Nghiệp

Lập Thành

Liên Kiệt

Long Giang

Long Quân

Long Vịnh

Lương Quyền

Lương Tài

Lương Thiện

Lương Tuyền

Mạnh Cương

Mạnh Cường

Mạnh Ðình

Mạnh Dũng

Mạnh Hùng

Mạnh Nghiêm

Mạnh Quỳnh

Mạnh Tấn

Mạnh Thắng

Mạnh Thiện

Mạnh Trình

Mạnh Trường

Mạnh Tuấn

Mạnh Tường

Minh Ân

Minh Anh

Minh Cảnh

Minh Dân

Minh Ðan

Minh Danh

Minh Ðạt

Minh Ðức

Minh Dũng

Minh Giang

Minh Hải

Minh Hào

Minh Hiên

Minh Hiếu

Minh Hòa

Minh Hoàng

Minh Huấn

Minh Hùng

Minh Hưng

Minh Huy

Minh Hỷ

Minh Khang

Minh Khánh

Minh Khiếu

Minh Khôi

Minh Kiệt

Minh Kỳ

Minh Lý

Minh Mẫn

Minh Nghĩa

Minh Nhân

Minh Nhật

Minh Nhu

Minh Quân

Minh Quang

Minh Quốc

Minh Sơn

Minh Tân

Minh Thạc

Minh Thái

Minh Thắng

Minh Thiện

Minh Thông

Minh Thuận

Minh Tiến

Minh Toàn

Minh Trí

Minh Triết

Minh Triệu

Minh Trung

Minh Tú

Minh Tuấn

Minh Vu

Minh Vũ

Minh Vương

Mộng Giác

Mộng Hoàn

Mộng Lâm

Mộng Long

Nam An

Nam Dương

Nam Hải

Nam Hưng

Nam Lộc

Nam Nhật

Nam Ninh

Nam Phi

Nam Phương

Nam Sơn

Nam Thanh

Nam Thông

Nam Tú

Nam Việt

Nghị Lực

Nghị Quyền

Nghĩa Dũng

Nghĩa Hòa

Ngọc Ẩn

Ngọc Cảnh

Ngọc Cường

Ngọc Danh

Ngọc Ðoàn

Ngọc Dũng

Ngọc Hải

Ngọc Hiển

Ngọc Huy

Ngọc Khang

Ngọc Khôi

Ngọc Khương

Ngọc Lai

Ngọc Lân

Ngọc Minh

Ngọc Ngạn

Ngọc Quang

Ngọc Sơn

Ngọc Thạch

Ngọc Thiện

Ngọc Thọ

Ngọc Thuận

Ngọc Tiển

Ngọc Trụ

Ngọc Tuấn

Nguyên Bảo

Nguyên Bổng

Nguyên Ðan

Nguyên Giang

Nguyên Giáp

Nguyễn Hải An

Nguyên Hạnh

Nguyên Khang

Nguyên Khôi

Nguyên Lộc

Nguyên Nhân

Nguyên Phong

Nguyên Sử

Nguyên Văn

Nhân Nguyên

Nhân Sâm

Nhân Từ

Nhân Văn

Nhật Bảo Long

Nhật Dũng

Nhật Duy

Nhật Hòa

Nhật Hoàng

Nhật Hồng

Nhật Hùng

Nhật Huy

Nhật Khương

Nhật Minh

Nhật Nam

Nhật Quân

Nhật Quang

Nhật Quốc

Nhật Tấn

Nhật Thịnh

Nhất Tiến

Nhật Tiến

Như Khang

Niệm Nhiên

Phi Cường

Phi Ðiệp

Phi Hải

Phi Hoàng

Phi Hùng

Phi Long

Phi Nhạn

Phong Châu

Phong Dinh

Phong Ðộ

Phú Ân

Phú Bình

Phú Hải

Phú Hiệp

Phú Hùng

Phú Hưng

Phú Thịnh

Phú Thọ

Phú Thời

Phúc Cường

Phúc Ðiền

Phúc Duy

Phúc Hòa

Phúc Hưng

Phúc Khang

Phúc Lâm

Phục Lễ

Phúc Nguyên

Phúc Sinh

Phúc Tâm

Phúc Thịnh

Phụng Việt

Phước An

Phước Lộc

Phước Nguyên

Phước Nhân

Phước Sơn

Phước Thiện

Phượng Long

Phương Nam

Phương Phi

Phương Thể

Phương Trạch

Phương Triều

Quân Dương

Quang Anh

Quang Bửu

Quảng Ðại

Quang Danh

Quang Ðạt

Quảng Ðạt

Quang Ðức

Quang Dũng

Quang Dương

Quang Hà

Quang Hải

Quang Hòa

Quang Hùng

Quang Hưng

Quang Hữu

Quang Huy

Quang Khải

Quang Khanh

Quang Lâm

Quang Lân

Quang Linh

Quang Lộc

Quang Minh

Quang Nhân

Quang Nhật

Quang Ninh

Quang Sáng

Quang Tài

Quang Thạch

Quang Thái

Quang Thắng

Quang Thiên

Quang Thịnh

Quảng Thông

Quang Thuận

Quang Triều

Quang Triệu

Quang Trọng

Quang Trung

Quang Trường

Quang Tú

Quang Tuấn

Quang Vinh

Quang Vũ

Quang Xuân

Quốc Anh

Quốc Bảo

Quốc Bình

Quốc Ðại

Quốc Ðiền

Quốc Hải

Quốc Hạnh

Quốc Hiền

Quốc Hiển

Quốc Hòa

Quốc Hoài

Quốc Hoàng

Quốc Hùng

Quốc Hưng

Quốc Huy

Quốc Khánh

Quốc Mạnh

Quốc Minh

Quốc Mỹ

Quốc Phong

Quốc Phương

Quốc Quân

Quốc Quang

Quốc Quý

Quốc Thắng

Quốc Thành

Quốc Thiện

Quốc Thịnh

Quốc Thông

Quốc Tiến

Quốc Toản

Quốc Trụ

Quốc Trung

Quốc Trường

Quốc Tuấn

Quốc Văn

Quốc Việt

Quốc Vinh

Quốc Vũ

Quý Khánh

Quý Vĩnh

Quyết Thắng

Sĩ Hoàng

Sơn Dương

Sơn Giang

Sơn Hà

Sơn Hải

Sơn Lâm

Sơn Quân

Sơn Quyền

Sơn Trang

Sơn Tùng

Song Lam

Sỹ Ðan

Sỹ Hoàng

Sỹ Phú

Sỹ Thực

Tạ Hiền

Tài Ðức

Tài Nguyên

Tâm Thiện

Tân Bình

Tân Ðịnh

Tấn Dũng

Tấn Khang

Tấn Lợi

Tân Long

Tấn Nam

Tấn Phát

Tân Phước

Tấn Sinh

Tấn Tài

Tân Thành

Tấn Thành

Tấn Trình

Tấn Trương

Tất Bình

Tất Hiếu

Tất Hòa

Thạch Sơn

Thạch Tùng

Thái Bình

Thái Ðức

Thái Dương

Thái Duy

Thái Hòa

Thái Minh

Thái Nguyên

Thái San

Thái Sang

Thái Sơn

Thái Tân

Thái Tổ

Thắng Cảnh

Thắng Lợi

Thăng Long

Thành An

Thành Ân

Thành Châu

Thành Công

Thành Danh

Thanh Ðạo

Thành Ðạt

Thành Ðệ

Thanh Ðoàn

Thành Doanh

Thanh Hải

Thanh Hào

Thanh Hậu

Thành Hòa

Thanh Huy

Thành Khiêm

Thanh Kiên

Thanh Liêm

Thành Lợi

Thanh Long

Thành Long

Thanh Minh

Thành Nguyên

Thành Nhân

Thanh Phi

Thanh Phong

Thành Phương

Thanh Quang

Thành Sang

Thanh Sơn

Thanh Thế

Thanh Thiên

Thành Thiện

Thanh Thuận

Thành Tín

Thanh Tịnh

Thanh Toàn

Thanh Toản

Thanh Trung

Thành Trung

Thanh Tú

Thanh Tuấn

Thanh Tùng

Thanh Việt

Thanh Vinh

Thành Vinh

Thanh Vũ

Thành Ý

Thất Cương

Thất Dũng

Thất Thọ

Thế An

Thế Anh

Thế Bình

Thế Dân

Thế Doanh

Thế Dũng

Thế Duyệt

Thế Huấn

Thế Hùng

Thế Lâm

Thế Lực

Thế Minh

Thế Năng

Thế Phúc

Thế Phương

Thế Quyền

Thế Sơn

Thế Trung

Thế Tường

Thế Vinh

Thiên An

Thiên Ân

Thiện Ân

Thiên Bửu

Thiên Ðức

Thiện Ðức

Thiện Dũng

Thiện Giang

Thiên Hưng

Thiện Khiêm

Thiên Lạc

Thiện Luân

Thiên Lương

Thiện Lương

Thiên Mạnh

Thiện Minh

Thiện Ngôn

Thiên Phú

Thiện Phước

Thiện Sinh

Thiện Tâm

Thiện Thanh

Thiện Tính

Thiên Trí

Thiếu Anh

Thiệu Bảo

Thiếu Cường

Thịnh Cường

Thời Nhiệm

Thông Ðạt

Thông Minh

Thống Nhất

Thông Tuệ

Thụ Nhân

Thu Sinh

Thuận Anh

Thuận Hòa

Thuận Phong

Thuận Phương

Thuận Thành

Thuận Toàn

Thượng Cường

Thượng Khang

Thường Kiệt

Thượng Liệt

Thượng Năng

Thượng Nghị

Thượng Thuật

Thường Xuân

Thụy Du

Thụy Long

Thụy Miên

Thụy Vũ

Tích Ðức

Tích Thiện

Tiến Ðức

Tiến Dũng

Tiền Giang

Tiến Hiệp

Tiến Hoạt

Tiến Võ

Tiểu Bảo

Toàn Thắng

Tôn Lễ

Trí Dũng

Trí Hào

Trí Hùng

Trí Hữu

Trí Liên

Trí Minh

Trí Thắng

Trí Tịnh

Triển Sinh

Triệu Thái

Triều Thành

Trọng Chính

Trọng Dũng

Trọng Duy

Trọng Hà

Trọng Hiếu

Trọng Hùng

Trọng Khánh

Trọng Kiên

Trọng Nghĩa

Trọng Nhân

Trọng Tấn

Trọng Trí

Trọng Tường

Trọng Việt

Trọng Vinh

Trúc Cương

Trúc Sinh

Trung Anh

Trung Chính

Trung Chuyên

Trung Ðức

Trung Dũng

Trung Hải

Trung Hiếu

Trung Kiên

Trung Lực

Trung Nghĩa

Trung Nguyên

Trung Nhân

Trung Thành

Trung Thực

Trung Việt

Trường An

Trường Chinh

Trường Giang

Trường Hiệp

Trường Kỳ

Trường Liên

Trường Long

Trường Nam

Trường Nhân

Trường Phát

Trường Phu

Trường Phúc

Trường Sa

Trường Sinh

Trường Sơn

Trường Thành

Trường Vinh

Trường Vũ

Từ Ðông

Tuấn Anh

Tuấn Châu

Tuấn Chương

Tuấn Ðức

Tuấn Dũng

Tuấn Hải

Tuấn Hoàng

Tuấn Hùng

Tuấn Khải

Tuấn Khanh

Tuấn Khoan

Tuấn Kiệt

Tuấn Linh

Tuấn Long

Tuấn Minh

Tuấn Ngọc

Tuấn Sĩ

Tuấn Sỹ

Tuấn Tài

Tuấn Thành

Tuấn Trung

Tuấn Tú

Tuấn Việt

Tùng Anh

Tùng Châu

Tùng Lâm

Tùng Linh

Tùng Minh

Tùng Quang

Tường Anh

Tường Lâm

Tường Lân

Tường Lĩnh

Tường Minh

Tường Nguyên

Tường Phát

Tường Vinh

Tuyền Lâm

Uy Phong

Uy Vũ

Vạn Hạnh

Vạn Lý

Văn Minh

Vân Sơn

Vạn Thắng

Vạn Thông

Văn Tuyển

Viễn Cảnh

Viễn Ðông

Viễn Phương

Viễn Thông

Việt An

Việt Anh

Việt Chính

Việt Cương

Việt Cường

Việt Dũng

Việt Dương

Việt Duy

Việt Hải

Việt Hoàng

Việt Hồng

Việt Hùng

Việt Huy

Việt Khải

Việt Khang

Việt Khoa

Việt Khôi

Việt Long

Việt Ngọc

Viết Nhân

Việt Nhân

Việt Phong

Việt Phương

Việt Quốc

Việt Quyết

Viết Sơn

Việt Sơn

Viết Tân

Việt Thái

Việt Thắng

Việt Thanh

Việt Thông

Việt Thương

Việt Tiến

Việt Võ

Vĩnh Ân

Vinh Diệu

Vĩnh Hải

Vĩnh Hưng

Vĩnh Long

Vĩnh Luân

Vinh Quốc

Vĩnh Thọ

Vĩnh Thụy

Vĩnh Toàn

Vũ Anh

Vũ Minh

Vương Gia

Vương Triều

Vương Triệu

Vương Việt

Xuân An

Xuân Bình

Xuân Cao

Xuân Cung

Xuân Hàm

Xuân Hãn

Xuân Hiếu

Xuân Hòa

Xuân Huy

Xuân Khoa

Xuân Kiên

Xuân Lạc

Xuân Lộc

Xuân Minh

Xuân Nam

Xuân Ninh

Xuân Phúc

Xuân Quân

Xuân Quý

Xuân Sơn

Xuân Thái

Xuân Thiện

Xuân Thuyết

Xuân Trung

Xuân Trường

Xuân Tường

Xuân Vũ

Yên Bằng

Yên Bình

Yên Sơn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tên hay dành cho các bé trai –

Mơ thấy tranh chấp: An toàn bộc lộ tình cảm bản thân –

Mơ thấy cảnh tranh chấp, chứng tỏ người nằm mơ có khả năng bộc lộ tình cảm bản thân một cách an toàn, có thể là một vài việc quấy rối phá bĩnh, hay một vài chuyện tình cảm mạo hiểm nào đấy. Nếu phân tích trên phương diện tâm lý, người nằm mơ có thể đ
Mơ thấy tranh chấp: An toàn bộc lộ tình cảm bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tranh chấp: An toàn bộc lộ tình cảm bản thân –

Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn, tu vi Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn

Sự kết hợp giữa nhân tướng học, phong thủy và những nghiên cứu thiên văn khác đã đưa ra những nguyên tắc của việc phân tích lòng bàn tay bao gồm 5 yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Biết rõ 5 yếu tố này sẽ giúp bạn hiểu rõ bản thân và vận mệnh của mình để từ đó tìm ra nghề nghiệp phù hợp với mình, dễ đạt thành công hơn.
Tu dang ban tay phan ngay ra nghe chuan hinh anh
Ảnh minh họa

 
Bàn tay mảnh
 
Đây là bàn tay thuộc yếu tố Mộc, sự nghiệp sẽ phát triển nếu bạn làm việc trong môi trường có liên quan tới yếu tố Nước. Những ngành nghề liên quan đến Thủy như ngân hàng, tài chính, sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu, thương mại, bảo hiểm, ngư nghiệp và những công việc liên quan đến vận chuyển, đi lại và thương thuyết sẽ mang lại nhiều cơ hội thành công đến với bạn.
 
Bàn tay vuông
Bàn tay có hình dáng như vậy thuộc yếu tố Kim. Bạn nên làm các công việc có liên quan mật thiết với Thổ như kiến trúc sư, kĩ sư hay bất cứ công việc nào liên quan tới lĩnh vực bất động sản. Những công ngành kinh doanh vật liệu xây dựng, kiến trúc cầu đường như các nhà máy sản xuất xi măng, ngói, gạch ốp cũng đều mang yếu tố Thổ.
 
Bàn tay dày
Bàn tay dày thuộc nhóm Thổ. Nếu bạn có bàn tay này, hãy tìm các công việc thuộc yếu tố Hỏa. Kinh doanh nhà hàng và lĩnh vực giải trí sẽ rất tốt cho bạn. Diễn xuất, quảng cáo, công nghiệp thực phẩm và điện mang yếu tố Hỏa cũng rất hợp với những người có bàn tay dày.

Tu dang ban tay phan ngay ra nghe chuan hinh anh 2
Ảnh minh họa
 
Bàn tay thon dài
 
Đây là bàn tay thuộc yếu tố Hỏa thể hiện bạn là người thành công trong các công việc có liên quan tới yếu tố Mộc. Những công việc có tính chất nông nghiệp như chăm sóc vườn, trồng cây, hoặc kinh doanh nội thất, xuất bản, dệt may, viết lách…. sẽ tăng nguồn khí của bàn tay Hỏa, mang đến nhiều cơ hội thành công hơn. Bàn tay nhiều thịt
Bàn tay này mang yếu tố Thủy. Nếu bạn có kiểu bàn tay này, bạn sẽ phát triển sự nghiệp thành công nếu làm các công việc mang yếu tố Kim. Những công việc đó bao gồm việc kinh doanh máy tính, điện tử, cơ khí và kinh doanh công nghệ cao. Bạn có khả năng tìm kiếm những tiến bộ, phát triển trong ngành công nghệ thông tin, pháp luật, mỏ cũng như các ngành công nghiệp tự động hóa. Làm việc trong môi trường nhà máy cũng là lựa chọn tốt cho bạn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Từ dáng bàn tay phán ngay ra nghề chuẩn - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Hành: Hỏa

Loại: Phù Tinh, Hình Tinh

Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén

Tên gọi tắt thường gặp: Tuế

Sao chủ của vòng sao Thái Tuế gồm 12 sao theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.

Công Danh Tài Lộc:

Có lợi về công danh cho những nghề nghiệp cần dùng đến khoa ngôn ngữ như trạng sư, giáo sư, chính trị gia.

Phúc Thọ Tai Họa:

Hay bị nói xấu, chỉ trích, công kích, cãi vã, bút chiến.

Hay bị kiện cáo.

Sao Thái Tuế bao giờ cũng hội chiếu với Quan Phù, chỉ sự báo oán vì mích lòng, kiện thưa vì lời nói chạm tự ái. Đây là hậu quả của tính nhiều chuyện, tính chỉ trích, nói xấu, gieo thù oán.

Thái Tuế nếu gặp Sát tinh: Tổn thọ, tổn danh, tổn tài hay bị kiện cáo, báo thù, tai nạn. Tóm lại, Thái Tuế là sao chủ về lời nói và những hậu quả tốt xấu do ngôn ngữ mà có.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng sao Thái Tuế:

Thái Tuế, Xương Khúc, Khôi Việt: năm sao này kết thành bộ văn tinh rất đẹp cho việc học hành, thi cử, làm quan.

Những Bộ Sao xấu khi đi cùng sao Thái Tuế:

Sao Thái Tuế, Hoa Cái hay Thái Tuế , Hóa Kỵ: Ăn nói kiêu kỳ, mất cảm tình.

Sao Thái Tuế, Đào, Hồng: Bị phụ tình, cô độc, thất tình.

Sao Thái Tuế, Thiên Hình: Bị tai bay vạ gió, có thể bị kiện, bị tù.

Sao Thái Tuế, Đà La, Hóa Kỵ: Người quê kệch, ngu độn; gây ngăn trở công việc hại đến quyền thế, tài lộc. 

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phụ Mẫu:

Trong nhà thiếu hòa khí hay có sự tranh chấp. Cha mẹ và con không hợp tánh nhau. Nếu sao Thái Tuế gặp thêm nhiều Sát Tinh, nhất là Đà, Kỵ xâm phạm, cha mẹ xa cách nhau. Gia đình ly tán. Ngoài ra, cha mẹ thường hay gặp tai họa, đáng lo ngại nhất là mắc kiện cáo.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phúc Đức:

Không được hưởng phúc, trong họ thiếu hoà khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Điền Trạch:

Sao Thái Tuế nếu gặp các sao tốt như Tam Thai, Bát Tọa, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì nhà cửa vững vàng. Đi với các sao xấu như Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Đại Hao, Tiểu Hao, lận đận về nhà cửa, xích mích, bị lừa.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Quan Lộc:

Thường làm các nghề chủ về dùng lời nói, lý luận, hoặc nghề có liên quan đến pháp luật như nghề luật sư, giáo sư, thẩm phán, trưởng tòa. Nếu làm chính trị, thiên về đối lập, hay chỉ trích và bị chỉ trích trong nghề nghiệp.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Nô Bộc:

Ra ngoài có nhiều tham vọng, ưa thích chơi với người có chức cao quyền rộng, hay kén chọn bạn bè. Người làm nghề nhà giáo có cách này, nếu có nhiều sao tốt, thì học trò của mình sau này công danh rực rỡ, làm nổi tiếng cho thầy.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Thiên Di:

Thái Tuế ở cung Thiên Di thì hay bị miệng tiếng khẩu thiệt trong việc giao thiệp, hay bị kiện cáo, cãi vã với người ngoài.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tật Ách:

Hay bị chuyện thị phi, kiện cáo, tù tội, đánh đập, mổ xẻ, tai nạn dọc đường.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tài Bạch:

Đi với sao tốt thì dễ kiếm tiền, nói ra tiền. Đi với sao xấu như Đà La, Hóa Kỵ, Địa Không, Địa Kiếp thì hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tử Tức:

Con cái không hợp tính cha mẹ.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng bất hòa, hay cãi vã, lắm lời, có thể ly dị, ly hôn, nếu gặp sao xấu, trừ phi vợ hay chồng hành nghề luật sư, thẩm phán.

Nương tựa nhau, dính dấp nhau nhiều vì quyền lợi, danh tiếng, địa vị, dư luận, ảnh hưởng bên ngoài rất nặng vào đời sống riêng tư.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em trong gia đình tuy có sự khắc khẩu, khác chí hướng, nhưng vẫn có sự giúp đỡ qua lại, trong anh chị em có người cô độc, đau bệnh.

Thái Tuế Khi Vào Các Hạn:

Có cãi vã, đôi chối trong năm đó, có đi dạy học.

Bị thất tình, cô độc.

Nên cần cẩn thận khi lập gia đình.

Hạn gặp sao Thái Tuế thì hay sinh ra quan tụng, khẩu thiệt, ở Cung Mệnh thì thời vận gian truân vất vả.

Gặp sao Đà La, Kiếp Sát, là hạn ra ngoài lắm tai nạn, nguy hại đến tính mạng.

Ở Cung Dần hoặc Cung Dậu mà gặp sao Thái Tuế, Thiên Hình, Kình Dương thì hay gặp chuyện thị phi, tai bay vạ gió, khẩu thiệt, tai tiếng, tù tội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?

Phật giáo lấy thuyết nhân quả là cội nguồn của mọi đạo lý. Nhiều người thắc mắc, nếu sống thiện, sống lành vậy bao giờ mới được hưởng phúc báo?
Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo luôn nhấn mạnh tới nhân quả báo ứng, lấy thuyết nhân quả là cội nguồn của mọi thuyết pháp, đạo lý. Nhưng nhiều người thắc mắc, nếu sống thiện, sống lành vậy bao giờ mới được hưởng phúc báo? Xin trích ý trong “Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện kinh huyền” để trả lời cho câu hỏi này.


► Xem thêm: Những câu nói hay về cuộc sống  và những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm

Song thien, song lanh, bao gio moi duoc huong phuc bao hinh anh
 
“Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện kinh huyền” là kinh nguyện của Địa Tạng Bồ Tát, vị Bồ tát được coi như Thần Đất, có tấm lòng rộng mở, trí đức sáng ngời, hướng chúng đệ tử tới con đường tu tập chân chính, che chở nhân sinh khỏi khổ ải yêu ma, tai chướng. Trong quyển kinh có nhắc nhiều tới hưởng phúc báo, luật nhân quả, thiện giả thiện báo, ác giả ác báo, đúng như đạo lý của Phật giáo.   Ngày hôm nay chúng ta nhìn thấy người đại phú đại quý trên thế gian, đều là kiếp trước đoạn ác tu thiện, nhận được phúc báo, hiện tại đang hưởng phúc. Người đang hưởng phúc báo mà biết tu lành, khiêm cung thì tiếp tục có phúc, người vì hưởng phúc mà u mê, hồ đồ thì hết phúc đã tu kết thêm nghiệp báo, sau này phải gánh chịu.   Vì thế, Phật pháp luôn nhắc nhở, duy trì độ cao cảnh giác, phúc hưởng có thì, tạo phúc mới bền lâu. Người tạo nghiệp khi phúc hết thì nghiệp đến, không thể dài lâu được. Kiếp trước tu nhân tích đức, có thiện căn mà kiếp này vì phú quý mà gieo ác nghiệp thì đến khi hưởng thọ hết phúc chẳng được bao lâu sẽ lại quay về chịu tội.   Phật hiệu thường xuyên dạy chúng đệ tử, tam thế oán, đệ nhất sinh tu phúc, đệ nhị sinh hưởng phúc, đệ tam sinh sa đọa. Hưởng phúc mà không biết tu phúc, vì lẽ đó phúc không thể hưởng.

Song thien, song lanh, bao gio moi duoc huong phuc bao hinh anh
 
Lúc nào có thể hưởng phúc? Đến chừng nào không mê muội, mức độ thấp nhất là được La Hán quả chứng, có thể hưởng phúc. Pháp thân đại sĩ hưởng đại phúc báo, tiến tới Thế Giới Cực Lạc. Lúc mà ta có thể hưởng phúc tốt nhất chính là lúc ta đang tiếp tục tạo phúc, vì cái phúc ấy là cái phúc lâu dài, bền vững, không bao giờ vơi cạn.   Phúc báo đến khi phúc duyên đủ đầy, chưa chắc giàu có nhà cao cửa rộng đã là phúc. Bình an, mạnh khỏe, hạnh phúc cũng là phúc. Phúc là không mê, phúc là tạo thêm phúc, lúc ấy hưởng vô tận, vừa hưởng vừa xây, đời đời tốt lành. 

Ý nghĩa đích thực của việc bái Phật Những phương pháp hoá sát kinh điển, phúc trạch hanh thông Mở rộng tâm hồn, điều hạnh phúc sẽ ghé thăm
  Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?

Mơ thấy hoa quả: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P1)

Quả thơm ngọt, tươi ngon là biểu tượng cho hạnh phúc và sự giàu có. Giấc mơ thấy hoa quả không chỉ mang ý nghĩa này mà còn dự báo nhiều điềm phức tạp. Mơ thấy
Mơ thấy hoa quả: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quả thơm ngọt, tươi ngon là biểu tượng cho hạnh phúc và sự giàu có. Giấc mơ thấy quả không chỉ mang ý nghĩa này mà còn dự báo nhiều điềm phức tạp. Mơ thấy quả khô héo trên cây là tín hiệu báo rằng bạn sắp được sở hữu một tài sản lớn. 


► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát theo tâm linh

Cam
Kham pha y nghia cac loai qua trong giac mo hinh anh
Mơ thấy cam là hòan cảnh đang biến đổi, dù có hơi chậm

Cam là một trong những loại trái cây có chứa tinh dầu mang mùi thơm, chứa nhiều vitamin C, rất mát và bổ dưỡng cho cơ thể.

Việc nhìn thấy những trái cam trong mơ, biểu thị một sự cải thiện chậm nhưng vững chắc về hoàn cảnh của bạn.

Mơ thấy mình ăn cam hoặc uống nước cam ép báo hiệu chuyện tình yêu ngắn ngủi nhưng đáng nhớ sắp diễn ra.

Mơ thấy hoa cam, dự báo về một đám cưới đang đến gần.
 

Chanh

Thấy một trái chanh trong mơ, biểu thị cái gì đó có phẩm chất tầm thường.

Ăn chanh hoặc uống nước chanh trong mơ, được cho là bạn có nhu cầu thanh lọc và chữa bệnh.

Thấy những trái chanh nhăn nheo trong mơ, báo trước bạn và người yêu hoặc vợ (chồng) bạn sẽ đến việc chia cách/ly hôn cay đắng.

Thấy một trái chanh lá cam trong mơ, ám chỉ  rằng bạn sẽ trải qua giai đoạn khó khăn tạm thời, nhưng bạn sẽ vượt lên và sẽ giàu sang, thịnh vượng.
 

Cherry

Thấy những trái cherry trong mơ, biểu tượng cho tính thật thà, lương thiện hoặc tính ngọt ngào và vận may.
 

Chà là

Mơ thấy những quả chà là căng mọng trên cây, nghĩa là trong vài ngày tới bạn sẽ có những cơ hội vui vẻ. Hãy tận dụng thời gian này để thư giãn và tìm sự bình an trong tâm hồn.

Mơ thấy bạn đang ăn những quả chà là đồng nghĩa với sự đau khổ. Bạn chưa bao giờ hạnh phúc với những gì bạn có. Bạn luôn băn khoăn trước những cái mà bạn mong muốn và cố đạt được nó.
 

Dâu

Kham pha y nghia cac loai qua trong giac mo hinh anh 2
Thật tuyệt nếu nằm mơ thấy mình ăn dâu tây 

Trong giấc mơ, bạn nhìn thấy hoặc đang ngồi thưởng thức những trái dâu tây chín đỏ căng mọng thật là ngon miệng thì còn gì tuyệt bằng. Đáng chú ý, những trái dâu thơm ngon này còn tượng trưng cho những ham muốn thể xác và những cám dỗ từ cuộc sống có ảnh hưởng trực tiếp tới bạn.

Giấc mơ về dâu tây thường có liên quan đến giới tính và sinh hoạt tình dục của phái nữ. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa là những mục tiêu của bạn sẽ sớm được thực hiện trong tương lai gần.

Nếu trong giấc mơ, bạn đang ăn những quả dâu tằm chín đen mọng, ngọt lịm thì sao? Gặp giấc mơ này thì bạn nên thận trọng bởi nó báo trước những khó khăn mà bạn có thể gặp phải.

Nếu nhìn thấy những quả dâu tằm thì bạn cần chú ý đến sức khỏe của mình bởi bệnh tật là nguyên nhân chính khiến bạn bị thất bại trong công việc.

Mơ thấy đang bẻ lá dâu thường là điềm báo công cuộc làm ăn của bạn sẽ gặp nhiều thuận lợi. Nếu nam giới mơ thấy mình nô đùa với một cô gái trên cánh đồng trồng dâu, đây là điềm báo anh chàng sẽ cưới được người vợ đảm đang.

(còn nữa)
Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hoa quả: Khám phá ý nghĩa các loại quả trong giấc mơ (P1)

Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn, tu vi Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn

Ngón tay ngắn hơn lòng bàn tay là người ưa dục lạc, thô lỗ, tính thấp hèn, nóng, ít suy nghĩ. Ngón tay trơn tru là người hành động theo linh cảm, hứng thú, nhạy cảm , nghệ sĩ tính, tính toán mau.

– Ngón tay dài bằng lòng bàn tay: Trí thức, khôn ngoan, có óc phân tích, dể cảm động, nóng tính. Tay nhà cai trị giỏi, giám đốc…

– Ngón tay dài hơn lòng bàn tay: Trí tuệ, óc nghệ sĩ, kiên nhẫn, tỷ mỷ, kín đáo, nhút nhát.

– Ngón tay có gút: Hành động cân nhắc. Có gút gần móng tay: Hay hoài nghi và tìm nguyên nhân sự việc, nếu gút này to: Ưa tìm hiểu, ưa tranh luận, hay tự mãn nếu hạ được người đối thoại. Có gút gần lòng xem boi bàn tay: Kỹ lưỡng, trật tự, hay cân nhắc, có trật tự bản thân, nếu gút này to: Ưa hoạt động thuơng mại.

– Ngón tay quá dịu: Tính yếu ớt, nhiều tình cảm.

– Ngón tay dễ uốn: Tính dễ thích nghi, hay đổi ý, hào phóng.

– Ngón tay quá cứng: Độc đoán, thiển kiến, hẹp hòi, hay nghi ngờ.

– Các ngón tay hở: Kém thông minh, ích kỷ.

– Các ngón tay kín: Tính cẩn thận, lý luận, cần kiệm.

– Các ngón tay hở ở chân, kín phía trên: Hào phóng (tình cảm hay tiền bạc hay tư tưởng), không kín đáo, có óc tự do. (Trường hợp ngón tay không gò, thấy lổ hở dù có hay không gút: Nghèo, thậm chí vất vả mới đủ ăn).

– Ngón tay trỏ cong quẹo: Bịnh liên quan về gan.

– Ngón tay giữa cong quẹo: Bịnh ở liên quan đến ruột tỳ, tai, gân cốt.

– Ngón áp út cong quẹo: Bịnh liên quan hệ thần kinh, tim, thận, mắt.

– Ngón tay út cong quẹo: Bịnh liên quan bộ phận sinh dục, bài tiết, hay hệ thần kinh.

– Các ngón tay đều cong quẹo: Thiếu ngay thẳng, hay lầm lạc.

– Ngón tay trỏ méo: Hành động bất chấp luân lý và trật tự xã hội.

– Ngón tay giữa méo: Câu chấp, độc tài, thiếu tình cảm.

– Ngón tay áp út méo và cong vừa: Rộng rãi, cong quá là thiếu lương tâm.

– Ngón tay út cong quẹo ít: Khéo léo trong nghề, cong nhiều: Bất lương, gian dối.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ –

Những con giáp này rất tự tin trước đám đông. Đôi khi, sự tự tin trở nên thái quá khiến họ nghĩ mình là 'trung tâm của vũ trụ'. Vậy 3 con giáp luôn coi mình là trung tâm vũ trụ đó là những con giáp nào? Cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé! Ba c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con giáp này rất tự tin trước đám đông. Đôi khi, sự tự tin trở nên thái quá khiến họ nghĩ mình là ‘trung tâm của vũ trụ’. Vậy 3 con giáp luôn coi mình là trung tâm vũ trụ đó là những con giáp nào? Cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ
    • 1.1 Tuổi Thìn
    • 1.2 Tuổi Dần
    • 1.3 Tuổi Tỵ

Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ

Tuổi Thìn

Luôn xem nặng về danh tiếng của bản thân, người tuổi Thìn lúc nào cũng đặt mình ở vị trí cao hơn so với người khác. Thêm bản tính mạnh mẽ, có phần hơi ích kỷ, họ không chịu lắng nghe lời khuyên từ mọi người.

Thin-8648-1412651453

Họ thường coi mình là trung tâm vũ trụ. Về lâu dài, tính cách này không có lợi cho con đường công danh vì họ khó nhận được tình cảm chân thành của đối tác.

Tuổi Dần

Tương tự với tính cách của tuổi Thìn, người tuổi Dần cũng mạnh mẽ, thích danh tiếng và rất mong mỏi được làm lãnh đạo. Thông qua cách nói chuyện mạnh dạn, họ như muốn chứng tỏ về uy lực và khả năng tiềm ẩn của mình.

Dan-1223-1412651453

Con giáp này muốn tạo dựng tầm ảnh hưởng lớn đến người khác, nên trong suy nghĩ, họ chính là trung tâm của sự chú ý. Con người và cảnh vật xung quanh chỉ là đối tượng “phụ họa” cho họ mà thôi.

Tuổi Tỵ

Ấn tượng đầu tiên khi tiếp xúc với người tuổi Tỵ là cảm giác bí ẩn, khơi gợi sự hiếu kỳ và muốn khám phá. Họ rất biết cách “tận dụng” những mối quan hệ khéo léo để đem lại sự thuận lợi và danh tiếng cho mình mà không ảnh hưởng tới ai.

Ty-1796-1412651453

Với tính tham vọng của tuổi Tỵ, họ rất coi trọng lợi ích bản thân. Do vậy, những lời nói, hành động của người khác không khiến họ phải quá lưu tâm. Con giáp này chỉ cần biết đến chính kiến của riêng mình và một mực bảo vệ nó. Thậm chí, họ luôn nghĩ chỉ mình mới là tâm điểm của đám đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ –

Tùy bút Bông hồng cài áo của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Lễ “Bông Hồng cài áo” được tổ chức vào mùa Vu Lan để tưởng nhớ công ơn của Mẹ, được bắt nguồn từ tùy bút "Bông hồng cài áo" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cứ đến mùa Vu lan, hầu hết người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều được dự lễ “Bông Hồng cài áo”, để tưởng nhớ công ơn của Mẹ, dù còn hiện tiền hay không còn lưu dấu. Nghi lễ này bắt nguồn từ tùy bút "Bông hồng cài áo" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Xin được đăng ở đây Tùy bút này để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm.

bong-hong-cai-ao

"Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi.

Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến:

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời !
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta.

Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra .

Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ ( Mother"s Day ) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương.

Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh.

Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!" Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận.

Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con.

Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa! Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: Đời ta không còn gì cả.

Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ. Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác".

Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cắt ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó.

Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau. Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: "Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!". Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết -- tôi không giảng luân lý đạo đức -- rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: "Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương". Để chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ.

Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ. Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi."


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tùy bút Bông hồng cài áo của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Chu dịch và Kinh dịch

Tác giả: Lương Trâm - Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng. - Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm:8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng. Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển, còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay sử dụng:

Quẻ năm hào:

Ví dụ: quẻ Giá sắc

Nội dung: Dịch nghĩa:
Thả thủ quân tử phận.              Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.          Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn             Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên            Làm lành vậy mới yên

Quẻ sáu hào:

Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)

Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán: Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ

Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.

Hai loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.

1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành:

a - Sự hình thành Âm dương:
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.



Hình Lưỡng Nghi


Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “cầu lửa”.

Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.

Ví dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm

Hình Tứ Tượng

Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”

b- Ngũ hành:
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.

Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.

c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:

Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên: Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái

2/ Hà đồ – Lạc thư:

Hà đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng.

a - Hà đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.

Hình Hà Đồ

b - Lạc thư: Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5.

Hình Lạc Thư

Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái:

1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí)

Bốn mùa

Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương, cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.

Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí:



- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6

Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau:

- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.

2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng)

Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo.

Ví dụ: Địa Bát Quái


Hậu Thiên bát quái

Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy

So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy

Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :

- Cấn: Tiết lập xuân,
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí

Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết: “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn."

Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau:

- Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.

Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau:

Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.

Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....

Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.

Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu?

Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.

Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.

Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.

Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.

Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng.

Ở Trung Hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.

“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường sử dụng.

Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.

Để giải thích, Chu Hy viết: “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”

Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả, bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.

Như vậy đã có một số người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng :
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu dịch và Kinh dịch

Ghi chép các lời khuyên ứng xử của Phan Tử Ngư

Một bài viết hay ghi chép lại các lời khuyên của Phan Tử Ngư. Mời các bạn cùng tham khảo.
Ghi chép các lời khuyên ứng xử của Phan Tử Ngư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Một người đàn ông có thể thành công ngoài có mẹ hiền, còn phải có một người vợ đảm. Nhà có vợ hiền thục đảm đang tốt hơn so với nhà có nhiều tiền. Nhà có nhiều tiền có thể phá hết, nhưng nhà có vợ hiền tất cuộc sống luôn được êm ấm hạnh phúc.

Chính vì vậy, hoa mẫu đơn tuy đẹp nhưng cần có lá xanh làm nền mới có thể tôn lên vẻ đẹp.

Đáng tiếc là tài phú trong thiên hạ dễ cầu, vợ hiền khó kiếm. Đương nhiên, nữ giới cũng oán thán vì sao thiên hạ lại khó tìm được người chồng tốt. Nguyên nhân có thể do ngũ trụ (ngũ trụ = tứ trụ + trụ thai nguyên) của chúng ta không đẹp hoặc kiếp trước chúng ta từng tạo nghiệp chướng.

2. Lưới mở một bên

Người xưa khi đánh cá để nước mở một bên, khiến cho cá nhỏ vẫn có thể thoát ra, không tận diệt cá. Như vậy còn cá mới sinh ra cá, lần sau có cá để đánh, còn cá là còn có thể đánh bắt.

Làm người cũng cần phải để lại cơ hội cho người khác, khiến cho họ cảm kích mình, sau này có cơ hội sẽ báo đáp.

Do đó làm người tất cần có tấm lòng khoan dung độ lượng, chớ nên có tâm địa hẹp hòi. Cần phải hiểu rằng biển cả do trăm sông đổ về mà thành, bạn không thu nạp trăm sông đó, hỏi có thể thành biển được không?

3. Bạn để lại những gì?

Đời người có sinh có tử, chết không đáng sợ chỉ là sau khi chết bạn để lại những gì? Để người đời sau nhớ đến, kính trọng, ca tụng, hay là bị chửi mắng, chê cười?

Hổ chết để lại da, vậy con người khi qua đời để lại điều gì?

Người chết thường để lại tiền của cho con cái. Nhưng nếu bạn có con cái lương thiện giỏi giang, chúng sẽ tự mình vươn lên kiếm tiền. Nếu bạn có con cái vô dụng, chúng sẽ phá tan tiền tài bạn để lại, thậm chí hại đến cả bản thân chúng.

Người phương Tây sau khi chết không để lại tiền cho con cái mà đem quyên góp từ thiện. Dụng ý của họ đó là cổ vũ khích lệ con cái tự mình nỗ lực phấn đấu, độc lập không dựa dẫm.

(Bát tự luận đoán tuần hoàn - Phan Tử Ngư)

---

Kể ông Phan Tử Ngư này cũng kỳ. Mỗi khi diễn giải về các phương pháp giải tử vi, các lá số mẫu ông ấy luôn có các bài viết diễn giải cách ứng xử, các đạo lý sống, rồi các kinh nghiệm giữ gì, bảo vệ sức khỏe ..

Có thể ai đó ham chiêu thì không vừa ý với cách này. Nhưng cái mà độc đáo của tử vi chính là lời khuyên ứng xử, lời khuyên cải vận cho người xem số. Để giúp họ sống hướng thiện, cải đổi cái xấu, thúc đẩy cái tốt - xu cát tị hung. Đó mới là tử vi đỉnh cao.

Đạo ứng xử, lời khuyên ứng xử dùng cho cả đời. Chỉ xem một lần mà cải vận cả đời thì mới giỏi. Còn nhăm nhăm xem hạn để tránh thì hình như hơi "xoàng" quá. Mình cảm thấy vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ghi chép các lời khuyên ứng xử của Phan Tử Ngư

Những quan niệm phổ biến về Tử vi

Với đại đa số công chúng, Tử vi giống như một thứ đặc quyền chỉ dành cho một số ít người trong xã hội. Nói đến Tử vi thường thì người ta liên tưởng ngay đến những người lớn tuổi, biết chữ Hán, biết lễ nghĩa Nho giáo . Liên tưởng đó là có cơ sở.
Những quan niệm phổ biến về Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi giống như một môn toán thống kê (thống kê thể hiện ở sự tích luỹ và tổng kết những trường hợp, sự việc để đưa ra kết luận) và những tính chất của các sao trong Tửvi chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định luợng rõ ràng: ví dụ khi sao Thai - Toạ đóng cung Điền trạch thì tiên đoán trước hình ảnh nhà cửa cao rộng nhưng cao bao nhiêu, rộng thế nào thì khó mà xác định được; Thiên mã là di chuyển nhưng di chuyển thế nào, bao xa thì cũng rất khó xác định. Nên bắt buộc người xem Tửvi phải nghiên cứu, tổng hợp được nhiều lá số, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm mới có thể đưa ra những giải đoán chính xác - mà kinh nghiệm thường đi liền với tuổi tác. Kính trọng người già cũng là một truyền thống văn hoá của người Việt. Không bị giới hạn đối tượng và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của nhiều thế hệ nên tính đúng của Đạo Học thường khá cao.


Một lý do khác không kém phần quan trọng là do trước đây tài liệu bằng chữ quốc ngữ không nhiều. Với tâm lý vọng cổ của đại đa số những người nghiên cứu về văn hoá phương Đông, tôn trọng cổ nhân, tin tưởng tri thức của cổ nhân, thích được đọc sách cổ để hiểu sâu hơn về Tử vi. Nhưng phần lớn sách vở đó được viết bằng chữ Hán, để hiểu được, người nghiên cứu phải học chữ Hán. Biết chữ Hán còn đồng nghĩa với việc có thể đọc được nhiều tài liệu khác viết về Kinh Dịch, Tứ Trụ, Độn Giáp, Lục Hào, Tướng Pháp, Phong Thuỷ, Y học…..và đặc biệt là sách vở của Nho giáo. Từ đó ít nhiều do bị ảnh hưởng tư tưởng của Nho giáo nên những ông thầy Tử vi thường mang dáng dấp của một nhà Nho phong kiến. Những môn khoa học cổ phương Đông có chung nền tảng từ thuyết Âm - dương ngũ hành, vì vậy có sự tương đồng, liên quan với nhau nên họ thường thông thạo cả Nho, Y, Lý, Số làm cho mọi người càng thêm kính phục. Tuy nhiên có một vấn đề đáng quan tâm ở đây là có sự pha trộn kiến thức không hợp lý giữa các môn lý số. Việc tìm hiểu nhiều sẽ giúp cho người nghiên cứu có sự nhìn nhận khái quát hơn trong việc lý giải Tử vi nhưng cũng dễ dẫn đến tình trạng sử dụng kiến thức của nhiều môn khác để lý giải lá số Tửvi một cách gượng ép.

Vì biết nhiều môn nên khi dùng Tử vi mà không lý giải được nguyên nhân của sự việc, những người này không chuyên nhất theo đuổi khám phá những quy luật của Tửvi mà dễ dàng sử dụng Kinh Dịch, Tứ trụ hay Kỳ môn độn giáp để phụ đoán. Xuất phát từ mục đích khác nhau nên mỗi hệ thống khác nhau đều có cấu tạo khác nhau vì vậy chúng không dễ dàng trộn lẫn. Người có kiến thức uyên thâm thì sẽ thấy sự bất hợp lý và tìm được sự lý giải đúng, người khác thì sẽ cho rằng Tử vi có kỳ cách không rõ ràng hoặc là sẽ lý giải một cách chủ quan. Nhiều khi những người này giải đoán đúng không phải là do dùng Tử vi mà do sử dụng Bói Dịch, Tứ trụ, Độn Giáp hoặc là do cảm nhận chủ quan của cá nhân. Quan điểm sử dụng các quẻ Kinh Dịch áp vào lá số Tửvi để giải đoán là một sai lầm. Đây là hệ quả của việc coi Kinh Dich là “Quần thư chi thủ” (Quyển sách đứng đầu, bao trùm kiến thức của tất cả sách vở).

Tuy cùng xuất phát từ triết lý Âm dương nhưng Bát quái và Ngũ hành được hình thành từ hai hình thức tư duy khác nhau, tư duy tổng hợp biện chứng coi trọng mối quan hệ của các hiện tượng sự vật (ngũ hành) còn tư duy phân tích lí tính coi trọng các yếu tố của hiện tượng sự vật (bát quái). Nhưng tại sao nó lại vẫn có sự hợp lý. Hợp lý bởi vì chúng cùng phản ánh những điều tất yếu, mà đã là tất yếu thì tất nhiên là phải đúng. Giống như “mặt trăng”“moon”, cả hai đều phản ánh đúng một sự vật. Nhưng hình thức biểu diễn của tiếng Anh “moon” là ngôn ngữ biến hình còn “mặt trăng” của tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Khi áp dụng các quẻ Kinh Dịch để luận giải Tửvi là không hợp lý, vì hình thành trên nền tảng tư duy hoàn toàn khác nhau nên trong hệ thống tư duy của Tửvi chúng không tạo ra sự thống nhất - các sao trong lá số Tửvi không bao giờ được xem xét một cách độc lập như quẻ Dịch để xác định tính chất của nó mà luôn luôn được định hình trong mối quan hệ tổng hợp với nhau.

Nếu sử dụng phương pháp này thì khó có thể lý giải chi tiết lá số Tử vi theo một hệ thống hoàn chỉnh. Chính sự đa phương tiện trong nghiên cứu là một nguyên nhân làm cho Tửvi trở nên khó hiểu. Hệ quả của những lý giải gượng ép làm sản sinh ra hàng loạt những câu phú vô nghĩa, không phản ánh đúng sự thật. Người tìm hiểu về Tử vi dễ bị lầm lạc khi nhận ra là cùng một sự việc Nhan Hồi chết yểu nhưng có đến cả chục câu phú đoán tồn tại:


Nhan Hồi yểu chiết, Văn xương hãm ư Thiên thương
(Đẩu số cốt tuỷ phú giải)


Nhan Hồi yểu tử do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh thủ mệnh.
(Thái Vân Trình)


Kỵ tinh Xương Khúc đồng hương
Nhan hồi số ấy nghĩ thương anh tài
Sát (Thất sát) lâm tuyệt địa hội Dương - Đà Nhan hồi yểu chiết
(Thái Thứ Lang)


Nhan Hồi chết vì cách nào đây? hay là việc cho rằng cách này chỉ áp dụng với tuổi này, tuổi kia như:- “ Xương - Khúc sinh nhân Kỷ Tân Nhâm hạn Thìn - Tuất đáo đầu hà” người tuổi Kỷ, tuổi Tân, tuổi Nhâm mệnh có Văn xương, Văn khúc hạn đến cung Thìn, Tuất thì chết vì sông nước.
Sát Kình ở tại Ngọ cung,
Tai ương thảm khốc chờ trong cuộc đời.
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế,
Bậc anh hùng địa vị thênh thang.
(Tửvi thực hành - dịch lý huyền cơ)


Mệnh ở cung Ngọ có Thất Sát, Kình Dương thì trong cuộc đời phải gặp tai ương thảm khốc, có sách còn chú giải là chết chém. Nhưng nếu người tuổi Giáp, tuổi Kỷ thì lại là bậc anh hùng có địa vị lớn.
Liêm: Mùi Sửu cùng vì Thất Sát,
Tuy cang kiên nhưng chắc chết đường;
Nhưng mà Kỷ, Ât sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen.
(Tửvi thực hành - dịch lý huyền cơ)


Mệnh ở cung Sửu, cung Mùi có Liêm trinh, Thất Sát tính khí kiên cường nhưng phải chết đường. Nhưng người tuổi Kỷ, tuổi Ât thì lại là anh hùng trí dũng song toàn.


Hoặc như việc đưa cả những kinh nghiệm của tín ngưỡng dân gian và những tổng kết của môn Tứ trụ vào Tử vi để giải đoán như: trẻ em sinh giờ “quan sát”, giờ “kim xà thiết toả” hay bị yểu chiết; mệnh Mộc sinh vào mùa xuân, mệnh Hoả sinh vào mùa Hạ, mệnh Kim sinh vào mùa thu, mệnh Thuỷ sinh vào mùa đông thì vượng; tuổi Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu mà sinh giờ Thìn Tuất, Sửu, Mùi thì rất độc; tuổi Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi sinh giờ Tí, Ngọ, Mão, Dậu, Tỵ Hợi, Thân thì khắc mẹ…


Những người đưa ra cách lý giải này đã thực sự không hiểu rằng tuy các môn khoa học cổ cùng được xây dựng trên một nền móng là thuyết Âm dương - ngũ hành nhưng vì để đạt được những mục đích khác nhau nên chúng phải có sự biến đổi cho phù hợp với hệ thống. Tửvi cũng hình thành từ lý thuyết âm - dương Ngũ hành nhưng những chi tiết biểu diễn này đã vượt qua cả sự định tính của Âm - Dương ngũ hành mà đã đạt đến lý tính, tức là dùng Lý để suy - Những tính chất Âm - dương ngũ hành của các thông số đầu vào là can - chi năm, tháng, ngày, giờ sinh khi qua hệ thống Tửvi đã được xử lý biến đổi thành hơn 100 sao có tính chất riêng không còn phụ thuộc vào tính chất của ngũ hành ban đầu, không phân biệt vào việc cá nhân sinh vào năm nào, giờ nào mà chỉ phụ thuộc vào kết cấu của các cung, các sao trong lá số - ví dụ dựa vào quy luật sinh khắc của Âm - Dương Ngũ hành để xác định vị trí của sao Thiên mã, nhưng Thiên mã trên lá số Tửvi không còn là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ mà là xe, là ngựa, là sự di chuyển… .

Nên khi không lý giải được tại sao cùng vào hạn Khoa - Quyền - Lộc có người thăng quan phát tài, có người thì lại gặp tai nạn rủi ro nên họ đã gán ghép cho đó là tại tính chất của ngũ hành Kim phạt Mộc, Hoả luyện Kim, hay Kim sinh Thuỷ…..thấy người được thăng chức có Hoá Quyền ở cung Thân, Dậu nên cho rằng Hoá Quyền có tính chất ngũ hành kim ở Thân, Dậu là lợi địa, còn cũng gặp hạn Hoá Quyền nhưng bị mất chức tai nạn nên cho rằng Hoá Quyền ở cung Tỵ, Ngọ là thất lợi vì hoả luyện kim. Nhưng cũng Hoá Quyền ở người khác nó lại là Mộc, hoặc có sách cho sao Linh Tinh có tính chất ngũ hành là Kim, sách khác lại cho là tính Hoả.

“Mỗi sao có một hành riêng. Hành này góp phần tăng cường hay chế giảm ý nghĩa của sao. Một sao có hành tương hợp với cung toạ thủ thì đắc địa, tương khắc thì hãm địa. Đắc địa, sao sẽ mạnh nghĩa hơn. Hãm địa, ý nghĩa bị kém đi hoặc mất hẳn. Giữa hai sao cũng vậy, nếu gặp tương sinh về ngũ hành thì hai sao cùng đắc thế, ý nghĩa sao này phụ trợ cho ý nghĩa sao kia: nếu gặp tương khắc thì hai sao tương nghịch, ý nghĩa sao này làm giảm thiểu ý nghĩa sao kia. Thành thử sức mạnh của một sao không hoàn toàn phụ thuộc sao đó, mà còn lệ thuộc vào quy luật sinh khắc ngũ hành với cung và sao khác. Nhờ quy luật sinh khắc ngũ hành trong các sao, khoa Tửvi đã đẩy mạnh sự phân tích đến trình độ hết sức khúc chiết, đề cao sự tương quan giữa các yếu tố nhỏ, diễn xuất được những uẩn khúc vi tế hơn nữa của các yếu tố nhỏ ” (Tửvi tổng hợp - Nguyễn Phát Lộc)


….Cứ như vậy, mỗi người một kiểu lớp sau tiếp nối lớp trước và khi gặp sự khó khăn trong lý giải thì cho đó là “kỳ cách” (Cách cục kỳ lạ không lý giải được) hoặc sẽ lại ghép cho các sao một tính chất ngũ hành khác để cho phù hợp với sự lý giải có tính chủ quan của mình. Hoặc sáng tạo ra phương pháp Tự Hoá, hay như trường phái Thiên Lương cho rằng tuổi Nhâm có Hoá kỵ an cùng Tả phù, thậm chí như tác giả của cuốn sách “Tửvi thực hành” - Dịch lý huyền cơ - còn cho rằng “khoa Tửvi chỉ nhằm sắp đặt các vị tinh tú bao quanh thái dương trong một hệ luân chuyển của thời gian và không gian để tìm ra cái ảnh hưởng vận chuyển của nó đối tác động đến một con người” - Tử vi là sự tích hợp của nhiều môn chứ không hoàn toàn chỉ dựa trên Thiên văn học, có nhà thiên văn nào chỉ ra được trên bầu trời sao Hoá khoa, Hoá lộc, Hoá quyền và sao nào là của ông vua còn sao nào là của thường dân, tất cả chỉ mang tính biểu tượng. Hệ thống nào ít nhiều cũng có lỗi, nhưng lỗi hệ thống không phải nằm ở sự lý giải có tính chủ quan như vậy. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chính tác giả của “Tử vi tổng hợp”.

Nguyễn Phát Lộc cũng đã đề cập đến sự mâu thuẫn khi áp ngũ hành cho các sao “trong một cung , ít ra cũng phải có 6, 7 sao thuộc 5 hành khác nhau, tác động lẫn nhau và tác động với hành cung, tạo thành một liên hệ phản xạ chằng chịt, khiến cho nhiều người bị lạc vào mê hồn trận, kiểu như Bát quái trận đồ của Khổng Minh vậy. Ngũ hành tương sinh theo một vòng kín, không có khởi điểm: Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, rồi Thuỷ trở lại sinh Mộc. Cái vòng đó cũng không có dứt điểm. Nó giống như một lối nói bình dân cho rằng “kỳ nhông là ông kỳ đà, kỳ đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông”, rốt cuộc không biết con nào làm chúa. Cái vòng sinh khắc của ngũ hành cũng luẩn quẩn như vậy. Nó làm cho Tử vi khó đoán”.


Tư tưởng cho rằng Tử vi không thể đoán số cho người tu hành cũng là một sai lầm. Con người được hình thành từ vật chất, mà vật chất thì phải tuân theo những quy luật vận hành của vật chất. Nhà tu hành cũng là người, cũng được tạo nên từ xương, từ thịt, cũng phải ăn để sống nên cũng không thể thoát khỏi những quy luật sinh, lão bệnh, tử. Vạn vật trên Trái đất này đều phải chịu sự tác động của những quy luật vận hành trong trời - đất như nắng nóng - mưa lạnh, ban ngày thuỷ triều xuống - ban đêm thuỷ triều lên, nhảy lên cao phải rơi xuống thấp… Những quy luật đó đã được con người xây dựng thành học thuyết Âm - dương ngũ hành - “thiên địa vạn vật nhất thể, vũ trụ làm sao con người làm vậy, con người là một tiểu vũ trụ, từ đó suy ra rằng các mô hình nhận thức đúng với vũ trụ cũng sẽ đúng cho lĩnh vực con người”.

Tử vi được xây dựng từ nền tảng học thuyết Âm dương - Ngũ hành để lý giải cuộc sống con người, nên chỉ trừ khi thoát ra khỏi quỹ đạo của Trái Đất, thoát ra khỏi sự tác động của các quy luật vận hành của Trái Đất nhà tu hành mới thoát ra khỏi tầm kiểm soát của Tử vi.


Bây giờ ít người xem Tử vi còn thông thạo cả Nho, Y, Lý, Số, nhưng vì cuộc sống mưu sinh họ thường phục vụ kèm theo việc cúng bái, viết sớ, bày đặt chuyện dâng sao giải hạn hoặc cầu phúc, cắt tiền duyên, di cung hoán số một cách thái quá….tuyên truyền mê tín dị đoan hòng trục lợi nên càng làm cho Tử vi trở nên thần bí, khó hiểu trong con mắt của nhiều người.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những quan niệm phổ biến về Tử vi

Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc

Khi chọn màu sơn theo phong thủy cho từng căn phòng trong nhà thì gia chủ nên thận trọng, màu sơn không chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ của tổng thể ngôi nhà
Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi chọn màu sơn cho từng căn phòng trong nhà thì gia chủ nên thận trọng, màu sơn không chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ của tổng thể ngôi nhà mà còn ảnh hưởng tới vận trình của người sống trong đó.



Chọn màu sơn theo phong thủy cho phòng ngủ


Theo phong thủy nhà ở, phòng ngủ nên sơn những màu sáng như màu trắng, màu be hay những gam màu hơi trầm một chút bởi đây là nơi nghỉ ngơi, thư giãn. Nếu sử dụng những gam màu quá nóng thì bạn sẽ không có cảm giác được nghỉ ngơi mà thay vào đó là sự năng động, điều này đôi chút ảnh hưởng tới sức khỏe của bạn. Tuy nhiên, nếu chọn màu quá tối và u ám thì rất có thể nó sẽ khiến bạn mắc bệnh trầm cảm.
 
Đối với các cặp vợ chồng thì tránh sơn phòng ngủ màu hồng bởi màu hồng ẩn chứa sự xuất hiện của người thứ 3.  

Chọn màu sơn cho phòng khách


Chon mau son theo phong thuy de gia dinh hanh phuc hinh anh

Nên chọn màu sơn sáng cho phòng khách


Phòng khách cũng nên sơn những màu sáng như màu sữa, trắng kem hay màu ngà voi… bởi những màu này mang lại cảm giác thoải mái, dễ chịu và đẹp mắt.
 
Tuyệt đối đừng sử dụng màu xanh sẫm cho phòng khách của mình bởi lẽ nó sẽ khiến sức khỏe, hôn nhân, cũng như các mối quan hệ và sự nghiệp của bạn gặp nhiều rủi ro. Cũng nên tránh màu đỏ, bởi nó có thể khiến cho gia chủ trở nên nóng tình hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.  

Chọn màu sơm cho phòng tắm

Màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và sạch sẽ, chính vì vậy nó được dùng để trung hòa với phần năng lượng tiêu cực trong nhà vệ sinh. Bạn cũng có thể dùng màu xanh da trời nhạt để tạo ra sự tươi sáng, mang lại một cảm giác nhẹ nhàng hơn. 
 
Theo phong thủy học, nhà vệ sinh đại diện cho Thủy, vì thế tốt nhất là không nên dùng màu đỏ hay màu tím sẫm vì nó gây ra sự xung khắc giữa Thủy và Hỏa. Ngoài ra, cũng nên tránh màu đen và những gam màu tối.

Nên xem: Phòng tắm hợp phong thủy để tránh thất thoát tiền bạc
 

Chọn màu sơn cho nhà bếp

  Màu be, màu yến mạch hay màu kha-ki cũng là những gam màu rất tuyệt nếu sử dụng trong phòng bếp, vì nó mang đến sự ổn định và mang lại một không gian hài hòa cho căn nhà của bạn.
 
Màu đỏ tượng trưng cho hình ảnh ngọn lửa có thể làm mất cân bằng các yếu tố ngũ hành trong không gian bếp nhà bạn, nên tốt nhất là tránh sơn màu này.
 

Màu sơn phòng của trẻ


Chon mau son theo phong thuy de gia dinh hanh phuc hinh anh 2

Chọn màu xanh lá cây để thúc đẩy sự phát triển của con trẻ


Màu sắc được sử dụng trong phòng của trẻ sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển tính cách của chúng, vì thế tốt nhất là hãy dùng những màu sáng như màu xanh da trời và xanh lá cây để thúc đẩy sự phát triển của chúng trong một không gian thanh bình. 
 
Tránh sử dụng những màu đỏ sẫm, tím hoặc đen trong phòng, bởi chúng có thể gây ra những kích thích tiêu cực cho con trẻ.   Tuy nhiên, mọi việc vẫn tùy thuộc vào quyết định cuối cùng của bạn. Bạn hoàn toàn có thể chọn những gam màu bạn yêu thích và mang lại cho bạn cảm giác dễ chịu. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo thêm bài viết: Chọn màu sơn thuận ngũ hành cho phòng ngủ của trẻ để có sự lựa chọn hợp lý:   
► Tham khảo thêm: Mệnh Thủy hợp màu gì, mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc

Những bức tranh không nên treo ở văn phòng –

Treo tranh và thư họa trong văn phòng có thể làm tăng tính nghệ thuật và vẻ đẹp đầy thi vị cho cuộc sống. Tuy nhiên, khi treo tranh cũng cần am hiểu một chút về tranh và phong thủy để việc treo tranh không trở thành ‘mối họa’ cho văn phòng của bạn. T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Treo tranh và thư họa trong văn phòng có thể làm tăng tính nghệ thuật và vẻ đẹp đầy thi vị cho cuộc sống. Tuy nhiên, khi treo tranh cũng cần am hiểu một chút về tranh và phong thủy để việc treo tranh không trở thành ‘mối họa’ cho văn phòng của bạn.

Theo phong thủy, có một số loại tranh không nên treo dưới đây:

1. Không nên mua và treo những bức tranh có màu sắc sặc sỡ, màu đậm hoặc có quá nhiều màu đen. Treo những bức tranh này có thể sẽ khiến người làm việc có cảm giác nặng nề, làm suy giảm ý chí, trở nên bi quan và thiếu tinh thần làm việc.

1

2. Không nên treo bức tranh có quá nhiều màu đỏ, vì nó sẽ khiến cho nhân viên trong công ty dễ bị tổn thương hoặc có tính nôn nóng, nóng nảy.

tranh-van-phong

3. Không nên treo quá nhiều tranh trừu tượng trong văn phòng, treo loại tranh này sẽ làm cho tâm lý của nhân viên dễ bị mất cân bằng và dễ bị nhức đầu hay các bệnh liên quan đến thần kinh.

3 (1)

4. Không nên treo những bức tranh có khung cảnh buồn bã, ảm đạm như tranh mặt trời lặn, tranh biển lặng lẽ… Treo những bức tranh này sẽ làm cho nhân viên không có chí tiến thủ, phấn đấu vươn lên.

4 (1)

5. Không nên treo những bức tranh vẽ cảnh thác nước vì nó sẽ dễ làm mất đi vận khí của công ty.

5 (1)

6. Không nên treo những bức tranh có hình các con thú hung dữ. Treo loại tranh này có thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên trong văn phòng.

6 (1)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bức tranh không nên treo ở văn phòng –

Những hình xăm dễ thương đẹp cho con gái –

Cùng với bùng nổ của truyền thông, khi Anjelina Jolie, Megan Fox, Brad Pitt, David Beckham sở hữu vài hình xăm giới trẻ Việt cũng không còn là một hình ảnh bị kỳ thị như chục năm về trước. Thay vào đó chúng đã trở thành một thứ thứ trang sức thời thư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ợng cho cơ thể .

Bên cạnh những hình xăm táo bạo hay chọn những chỗ hiểm để khoe hình xăm thì nhiều bạn gái chọn cho mình những hình xăm dễ thương cực cute.

hinh-xam-de-thuong-cho-con-gai5

Một cánh bướm nhỏ xinh ở vai, cổ tay thường được các bạn gái lựa chọn. Lý do nhiều người chọn xăm hình con bướm bởi ngoài vẻ đẹp mong manh, nó còn là biểu tượng của sự tái sinh.

hinh-xam-de-thuong-cho-con-gai

Hình xăm cánh thiên thần sẽ làm bạn nữ trông thật quyến rũ khi diện đồ lót bikini đi biển.

hinh-xam-de-thuong-cho-con-gai4

Theo giới xăm hình, sao là biểu tượng của tinh thần, ánh sáng. Sao 5 cánh tượng trưng cho ánh sáng hiển hiện từ trung tâm. Sao 6 cánh là biểu hiệu của đạo Do Thái, là tinh thần hòa quyện với vật chất. Sao 7 cánh được coi là sự hài hòa của thế giới, dải cầu vồng 7 màu… Trong khi đó, cỏ 4 lá là biểu tượng của sự may mắn , những hình xăm dễ thương này rất được các cô gái yêu thích .

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những hình xăm dễ thương đẹp cho con gái –

Sao Địa Không

Hành: Hỏa Loại: Sát Tinh Đặc Tính: Trở ngại, thất bại, bần hàn, tai nạn, tác hại, gian xảo, kích động Tên gọi tắt thường gặp: Không ...
Sao Địa Không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Sát TinhĐặc Tính: Trở ngại, thất bại, bần hàn, tai nạn, tác hại, gian xảo, kích độngTên gọi tắt thường gặp: Không
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Địa Không và Địa Kiếp. Phân loại theo tính chất là Sát Tinh, Hung Tinh.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Khi đóng trong cung không có chính tinh gọi là cách hung hoặc sát tinh độc thủ.
Khi có sao Địa Kiếp trong cùng một Cung Tỵ hoặc Cung Hợi gọi là cách Không Kiếp đồng cung Tỵ Hợi.
Khi một trong các Cung Tý, Cung Tuất, Cung Thìn, Cung Ngọ có sao Địa Không thì tại Cung Hợi hoặc Cung Tỵ thuộc cách giáp Không Kiếp.
Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc Địa: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
  • Hãm Địa: Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Địa Không ở Mệnh thì thân hình thô xấu, da kém vẻ tươi nhuận.
Tính Tình
  • Địa Không đắc địa: Có mưu trí, thâm trầm và lợi hại, rất can đảm, táo bạo, dám nói, dám làm, kín đáo, bí mật, hay giấu diếm, hay suy xét, mưu trí cao thâm, thủ đoạn. Những đặc tính này đúng cho cả phái nam và nữ.
  • Địa Không hãm địa: Ích kỷ, tự kỷ ám thị, suy tật xấu của người từ tật xấu của mình, xảo quyệt, gian tà, biển lận, tham lam.
Công Danh Tài Lộc
Sao Địa Không cho dù đắc địa cũng không bảo đảm trọn vẹn và lâu dài công danh và tài lộc. Sự nghiệp sẽ hoạch phát nhưng hoạch phá nghĩa là tiến đạt rất nhanh chóng song tàn lụi cũng lẹ. Uy quyền và tiền bạc phải gặp nhiều thăng trầm, lúc thịnh lúc suy; nếu có phú quý lớn thì hoặc không hưởng được lâu, hoặc phải có lần phá sản, lụn bại.
Nếu hãm địa, nhất định phải cực kỳ nghèo khổ, vất vả, không có sự nghiệp và sinh kế để nuôi thân. Sao Địa Không giáp Mệnh cũng liên lụy ít nhiều đến bản thân, công danh, tài lộc như phải vất vả, tha phương lập nghiệp, bị mưu hại, trộm cắp.
Phúc Thọ Tai Họa
Đắc địa: Cuộc đời phải vất vả cực nhọc, tuy tai họa tiềm tàng, nhưng không mấy hung hiểm. Dù sao, phải chịu nhiều cảnh thăng trầm, khi vinh, khi nhục. Nếu gặp phải sát tinh, thì sự phá hoại dễ dàng phát tác mau chóng.
Hãm địa: Địa Không ví như một nghiệp chướng bám vào vận mệnh con người, có ảnh hưởng đa diện và nặng nề, cụ thể như:
  • Bị tật nguyền vĩnh viễn, bệnh nặng.
  • Hung họa nhiều và nặng nề.
  • Nghèo khổ, cô độc, vô sản, phải đi xa làm ăn.
  • Yểu mạng.
Những Bộ Sao Tốt
Địa Không đắc địa gặp Thiên Tướng, Thiên Mã, Hóa Khoa: Những sao này thủ Mệnh là người tài giỏi, lập được sự nghiệp lừng lẫy trong cảnh loạn ly.
Địa Không đắc địa với phi thường cách: Phi thường cách hoặc gồm Tử Phủ, Vũ, Tướng đắc địa, hoặc gồm Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa, được sự hội tụ của cát tinh đắc địa như Tả, Hữu, Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc và của sát tinh đắc địa như Kình, Đà, Không, Kiếp, Hình, Hổ. Đây là cách nguyên thủ, đế vương, hội đủ tài đức và vận hội, có cả lương thần và hảo tướng trợ giúp, xây dựng chế độ, để danh tiếng lừng lẫy cho hậu thế.
Những Bộ Sao Xấu
  • Địa Không với Thiên Hình, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh: Nếu cùng đắc địa cả thì phú quý được một thời. Nếu cùng hãm địa cả thì rất nguy hiểm tính mạng, sự nghiệp, tài danh, suốt đời gặp nhiều chuyện đau lòng. Dù đắc hay hãm địa, cả trai lẫn gái đều khắc vợ, sát phu.
  • Địa Không, Thiên Cơ (hay Hỏa): Bị hỏa tai như cháy nhà, phỏng lửa.
  • Địa Không, Tham Lang đồng cung: Bị thủy tai (chết đuối, bị giết dưới nước), nếu không cũng chật vật lang thang độ nhật, dễ sa vào đường tù tội.
  • Địa Không (Kiếp) Phục Binh, Thiên Hình, Hóa Kỵ: Gian phi, trộm cướp, du đãng.
  • Địa Không, Trực Phù, Thiên Khốc, Điếu Khách, Cự Môn, Nhật: Cách này biểu hiện cho tai họa, tang khó, đau buồn liên tiếp và chung thân bất hạnh.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ mất sớm, chết sớm, chết thảm, bị hình tù, ly cách.
  • Không nhờ vả được cha mẹ mà có khi phải gánh nợ di truyền của cha mẹ để lại.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phúc Đức
  • Sao Địa Không đắc địa, thì hưởng lộc một thời.
  • Sao Địa Không hãm địa, chủ sự bất hạnh lớn về nhiều phương diện, giòng họ sa sút, lụn bại, vô lại, cường đạo, sự nghiệp tan tành, tuổi thọ bị chiết giảm, đau ốm triền miên vì một bệnh nan y.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Điền Trạch
  • Địa Không đắc địa, có điền sản một dạo, nhưng phải mua đi bán lại luôn.
  • Địa Không hãm địa, vô sản, bị sang đoạt, bị phá sản, bị tai họa về điền sản (cháy nhà, nhà sập ...) hoặc sang đoạt, tạo điền sản bằng phương tiện táo bạo, ám muội.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh thấp kém, làm ăn rất chật vật.
  • Bị khinh ghét, dèm pha, không thăng tiến.
  • Bị mất chức ít nhất một lần.
Nếu đắc địa, có bộc phát được một thời nhưng sau cũng tàn lụi, hoặc phải lên voi xuống chó.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Nô Bộc
  • Tôi tớ phản chủ, hại chủ, giết chủ.
  • Bạn bè xấu, tham lận, lường gạt.
  • Nhân tình ám hại, bêu xấu, bòn của.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài làm ăn vất vả, phải bon chen, đôi khi có sựï gây gỗ, bực mình.
  • Công danh vất vả, làm ăn lúc được lúc không, làm nghề cực nhọc.
  • Tình cảm bạc bẽo, có số ly hương, đi xa, mồ côi, nếu không thì gia đạo cũng ly tán, xa cách.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tật Ách
Sát tinh này có rất nhiều đặc tính bệnh lý, hầu hết là rất nặng. Nó gây thương tàn cho bộ phận cơ thể đi kèm, dù sao đó chỉ xung chiếu hay bàng chiếu. Cuộc đời hay gặp tai nạn, trắc trở, bệnh khó chữa, có ám tật.
  • Địa Không, Thiên Đồng: Ruột dư phải mổ, hay bệnh thận phải mổ, bệnh mật có sạn.
  • Địa Không, Đế Vượng: Gãy xương sống, sái xương sống.
  • Địa Không, Hỷ Thần: Bệnh trĩ kinh niên hay bệnh mụn nhọt lớn ở mông.
  • Địa Không, Phá Toái: Đau yết hầu, ung thư cổ họng.
  • Địa Không, Thai: Bào thai chết trong bụng mẹ, mẹ cố ý phá thai.
  • Địa Không, Hóa Kỵ: Ngộ độc bị phục độc.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tài Bạch
  • Địa Không nếu đắc địa: thì hoạch phát nhanh chóng một thời, nhưng về sau phá sản cũng rất nhanh. Thường thường kiếm tiền bằng những phương cách táo bạo (buôn lậu, ăn cướp, sang đoạt) và ám muội (đầu cơ, oa trữ, buôn bán đồ quốc cấm).
  • Địa Không nếu hãm địa: Vô sản, bần nông.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tử Tức
  • Không con, hiếm muộn, ít con, phải ở xa con cái.
  • Sát con rất nhiều.
  • Con du đãng, đĩ điếm không nhờ vả được mà còn phải bị di lụy.
  • Con phá sản nghiệp cha mẹ.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phu Thê
Có những ý nghĩa sau:
  • Sát phu, sát thê, góa bụa bất ngờ.
  • Có thể không có gia đình.
  • Nếu có gia đình thì sát hay phải xa cách nhau lâu dài vì tai nạn xảy ra cho một trong hai người.
  • Phải hai, ba lần lập gia đình, lần nào cũng nhanh chóng.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Huynh Đệ
Có những ý nghĩa sau:
  • Không có anh chị em hoặc anh chị em ly tán.
  • Có anh chị em dị bào, có người đau ốm bệnh tật, có tật nguyền, hoặc đoản thọ, chết yểu.
  • Không nhờ vả được anh chị em mà còn phải bị liên lụy vì họ (vì Địa Không bấy giờ giáp Mệnh).
Địa Không Khi Vào Các Hạn
Nếu đắc địa, sẽ bộc phát tài danh mau lẹ, nhưng phải làm bệnh nặng về phổi, mụn nhọt, hoặc phải đi xa.
  • Nếu hãm địa, rất nhiều tai nguy về mọi mặt:
  • Bị bệnh nặng về vật chất và tinh thần (lo buồn).
  • Bị mất chức, đổi chỗ vì kỷ luật.
  • Bị hao tài, mắc lừa, mất của, thất tình.
  • Bị kiện cáo.
  • Bị chết nếu gốc nhị Hạn xấu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Địa Không

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd