Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Trả lời mẫu 2

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
Trả lời mẫu 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
(CHO PHẦN ĐẶT CÂU HỎI "Chu Dịch hỏi đáp")

Vì lí do riêng tư, nên Tên họ trong các bài viết dưới đây đã được Ban Quản Trị thay đổi.

Câu Hỏi 11: Xin cho biết công việc làm năm 2006 có thuận tiện hay không ? Nghề nghiệp kỷ sư. Xin cám ơn.

LUẬN GIẢI:
Vận Khí Tổng Kết Năm Bính Tuất:
Công Việc:                  Có biến động xấu. Qua khỏi.
Tháng xảy ra:              Tháng 3, 7 & 9. Lưu ý hai tháng: Tháng 3 & 9.
Ba Ngày Lưu ý Trong Ba Tháng 3, 7,& 9:
Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn.
Ngày Nguy Hiểm Trong Năm:
Có: Ngày Nhâm Tuất (Không tiến hành các nhu cầu về tình cảm, việc lớn, việc quan trọng)
Tình Cảm:                   Tốt với bạn bè, người thân.
Sức Khỏe:                   Tốt.
Tai Nạn:                      Không có.
Giải theo quẻ dịch:
Hô hào các bạn đề phòng.
Lo lắng răn sợ vì kẻ kia muốn nhận chìm thuyền của ta..

Giải thích:
Xảy ra sự việc tranh chấp, cáo giác, đố kỵ.
Sự tranh chấp khởi sự ngấm ngầm mang tính mưu mô, gài bẫy.
Bản thân ta có điểm yếu, họ nắm được và đánh vào điểm yếu ấy.
Họ đánh. Ta chống đỡ được. Có hao tổn cho ta.
Lo lắng, răn sợ cho ta và báo động đến bạn bè, thân quen biết mà phòng bị.

Kết luận:
Trong năm 2006, công việc có những diễn tiến xấu xảy ra trong ba tháng: tháng 3, tháng 7 và tháng 9. Ở các ngày Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn trong ba tháng ấy. Riêng ngày Nhâm Thìn cần phải lưu ý cho cả năm Bính Tuất.

Diễn tiến xấu xảy ra do sự ganh ghét, đố kỵ nơi ta làm việc mà ngấm ngầm cáo giác lên trên.

Các diễn biến như: Cất nhắc lên cao, đặc biệt được ưu ái không xảy ra trong năm nay.

Câu hỏi 12: tôi sinh ngày 10/10/1985 7h 45p sáng. tôi quen 1 ng sinh 24/01/1984 7h15p sáng tôi muốn biết ng đó có thương tôi thật lòng hay ko và chúng tôi có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc hay ko? cám ơn

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:

Tiểu quá 1 + Thuần Chấn 3: bay xa có họa lớn.
Bản mệnh vận khí: Lữ + Tấn 3: Được nhiều người tin.
Bản mệnh ngày sinh: Quải + Quải (5): Hai lần quyết liệt.
Vận khí năm Bính Tuất 2006: Li 1 + Tấn 3: Nhiều người theo.

Giải thích:
“Yêu nhau lắm, cắn nhau đau” Câu này đúng với trường hợp cô Lan Anh.
Không có tình yêu đơn phương trong cuộc tình này, tuy nhiên, ở hai người là quá giống nhau.
Nên khi tính đến chuyện xa hơn sẽ là bất hạnh cho cả hai người.
Năm nay, năm Bính Tuất 2006, cô Lan Anh được yêu, được yêu nhiều, và có nhiều người mang lòng yêu thương cô Lan Anh.

Cô Lan Anh từ nơi bản thân mang sự quyến rũ, hấp dẫn không cưỡng được với những chàng trai biết đến cô. Điều này khiến cho đời sống tình cảm nơi cô Lan Anh thật sôi động.
Có một điểm “Đen” nơi bản mệnh có liên quan đến sự sôi động nói trên:
Nhẹ thì tan nát một mối tình sâu đậm. Nặng là trải qua hai đời chồng.

Kết luận:
Người bạn trai đó yêu cô Lan Anh thật lòng.
Nhưng khi đến với nhau thì sau đó sẽ là nổi bất hạnh lớn của hai người.
Cô Lan Anh cần phải định trước cho các bước đi sắp đến, cùng với một tâm ý sẵn sàng cho những điều đáng tiếc sẽ xảy ra ở mối tình này…
Sự tan vỡ của một mối tình sâu đậm trong cuộc đời tình ái là tốt hơn,
hay chấp nhận sự hiện diện của hai người đàn ông trong cuộc đời đàn bà sau này ?
Khi chọn chấp nhận sự tan vỡ, người cô Lan Anh lấy làm chồng sau này, chỉ có một.


Câu hỏi 13: Tôi tên Hùng Minh, sẽ nhận công việc làm tại công ty mới. Xin cho biết công việc làm mới có khả quan, lâu bền hay không? (ghi chú:hiện tại là Quality Engineer, việc mới là Quality Engineering Manager)

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Con heo tuy gầy yếu nhưng có ngày nó nhảy nhót lung tung.
Hòa thuận mà gây chấn động. Có nguy cơ. Cứ tránh lên gò cao, rồi sẽ được.
Nhún nhường vì mắc nhiều lỗi.
Vì hớ hênh mà ta bị hại. Tin kẻ tiểu nhân sẽ tiêu mòn.

Giải thích:
Anh Hùng Minh với công việc mới sẽ mắc khá nhiều lỗi trong thời gian đầu.
Để giảm thiểu khả năng bị tổn hại do chỉ trích, khi bước qua công ty mới, anh cần:
Khiêm tốn, nhã nhặn với đồng nghiệp lẫn nhân viên dưới quyền, và
né tránh các cô gái trẻ.

Kết luận:
Việc làm nơi công ty mới là khả quan và khá ổn định.
Anh Hùng Minh cần chú ý hai điều ở giai đoạn mới về:
Khiêm tốn & né tránh các cô gái trẻ.

Câu hỏi 14: Tôi đang làm chủ một cửa tiệm giặt ủi (dry cleaners), và tiệm do người em bên vợ trông coi. Xin cho biết tiệm có thể phát triển hơn trong thời gian tới hay không? Nếu không, tôi dự dịnh sẽ bán. Vậy có bán dược dễ dàng không?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Mắc lối và phải sửa lỗi nhiều lần mà được phần khiêm tốn.
Giải tán đi thì vui vẻ nhưng có phần hao mòn.

Giải thích:
Thu nhập cửa tiệm dry cleaners trong thời gian tới
mang tính khiêm tốn và có nhiều lúc cần phải bù đắp vào.
Khi cô Mỹ Linh bán đi vào thời điểm hiện nay,
thì sẽ bán được, nhưng giá sang nhượng sẽ rất thấp.
Cô hãy đợi đến đầu tháng 6, tháng 9, hoặc tháng 12 thì rao giá.
Giá bán sẽ tốt hơn.

Kết luận:
Thu nhập từ dry cleaners khống mấy khả quan, thậm chí rất khiêm tốn.
Khi cô bán, hãy chọn đầu tháng 6, tháng 9, tháng 12 âm lịch thì rao bán.

Câu hỏi 15: Làm nghề Địa ốc có được không ?

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Khôn 4: biết giữ của cải.
Phệ hạp 4: biết quan sát, nhận xét, phân tích tốt.
Tiết 4: biết tiết kiệm.
Tụng 2: hiểu biết luật lệ tốt.
Cổ 5 + Tiểu súc: tích trữ nhà cũ, được khen.

Giải thích:
Cô Lan Khanh có đầy đủ những đức tính để có thể
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc.
Nên mua bán nhà đã qua sử dụng.

Kết luận:
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc sẽ đem lại lợi nhuận tốt.
Cô Lan Khanh hãy gói gọn hoạt động mua bán của mình
trong phạm vi nhà đất đã qua sử dụng.

Câu hỏi 16: Hãng tôi sẻ có 1 cải tổ (restructuring), tức là sẻ có người bị đuổi. Tôi là trong nhửng người mới được nhận vô. Tôi muốn biết mình sẻ mất việt hay không. Tôi muốn biết hướng trước để lo, vì không có ai để nương tựa về vấn đề tài trợ. Xin giúp dùm gấp.

Giải theo quẻ dịch:
Khuê 4: Ở thời cô độc, nếu tìm được người chí thành thì nên theo.
Giải thích:
Cô Lê Hồng Loan sẽ bị mất việc.

Kết luận:
Trong cuộc cải tổ của Hãng sắp tới,
Cô Lê Hồng Loan có trong danh sách cải tổ.
Cô Lê Hồng Loan sẽ không còn làm nơi hãng này nữa.

Câu hỏi 17: Tôi tên là Nguyễn Minh Hoàng sinh ngày 30/01/1985 vào lúc 11h45. Tôi xin được hỏi về con đường học vấn của cả đời tôi. Khi nào tôi sẽ tốt nghiệp.

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:
Khuê (4): Chống đối mà cô lập.
Sư (6): Thắng trận vẻ vang.

Mậu Tí (2008): Sơn Lôi Di (2) + Hỏa Trạch Khuê (4).

Giải thích:
Mong muốn điều chi, theo đuổi sẽ đạt được.
Con đường học vấn kéo dài.
Tính cách thẳng và mạnh mẽ như con nhà lính, nên đi theo đường binh nghiệp, công pháp, tư pháp là thích hợp hơn cả.
Sự nghiệp rất tốt.
Định luật bù trừ được thể hiện rất rõ trong trường hợp này, tình cảm thể hiện hơi thô, khô lạnh.

Kết luận:
Tốt nghiệp là điều chắc chắn.
Không dừng ở tốt nghiệp đại học, Nguyễn Minh Hoàng muốn rằng sẽ đi xa hơn nữa.
Việc đi xa hơn nữa trên con đường học vấn, Nguyễn Minh Hoàng thực hiện được.
Năm Mậu Tí (2008) sẽ tốt nghiệp.

Câu hỏi 18: Tu thang 7 den thang 12, 2006 nay toi co len chuc hay thay doi viec lam khong? Neu co, thi thang nao?

Trả lời:
Năm Bính Tuất, cô Tiểu Lan lên chức.
Tháng 7 âm lịch (Bính Thân) , cô Tiểu Lan sẽ nhận quyết định.

Lưu ý: Năm nay nhuần hai tháng 7 âm lịch.


Câu hỏi 19: tôi đang bán nhà và sẽ mua căn nhà khác vậy tôi muốn biết khi nào tôi có thể bán và mua được nhà và công việc làm của tôi có gì thay đổi tốt xấu thế nào

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Trạch hỏa cách + Gia nhân: Muốn thay đổi nhà cửa.
Gia nhân + Cách: Đổi được nhà.
Gia nhân 1: Phòng ngừa ngay từ khi có nhà.
Phong Hỏa Gia Nhân (4): làm giàu thịnh cho nhà.

Giải thích:
Anh Phạm Quốc Kha sẽ bán được nhà trong năm nay.
Tuy nhiên, việc mua bán nhà hiện nay anh Quốc Kha nên tính toán kỹ.
Do là nếu bán được thì phải đến tháng 9 dương lịch, anh mới mua được nhà mới.
Công việc làm sau này chỉ có tốt lên.

Kết luận:
Công việc làm anh Phạm Quốc Kha không có điều chi phải lo lắng.
Việc nhà cửa, nên tính toán sao cho việc di chuyển không bị: Bán đã xong mà nhà mua chưa đến.

Câu hỏi 20: khỏang giữa tháng 7 này tui muốn về Vn, liệu viêc thi cử có suông sẻ, đậu để về được k, cái khả năng tui về Vn thang 7 tới có thể được k?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Ly: sáng + Minh Di: tối mù mù.
Vị tế: chưa xong.

Giải thích:
Sẽ vượt qua được kỳ thi cử.
Tuy nhiên, chưa thể về Việt Nam vào tháng 7ss.

Kết luận:
Kỳ thi không quá khó khăn.
Cô Lan Anh rồi sẽ qua.
Tuy nhiên, ý định về Việt Nam trong tháng 7 của cô Lan Anh là chưa thể.

Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI ("Chu Dịch hỏi đáp")


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời mẫu 2

Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trai bên trái, gái bên phải

Theo ông Luyện Văn Dũng – một người am hiểu về phong tục cúng giỗ ở Yên Mỹ, Hưng Yên, một bàn thờ thường đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn. Ba bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì ở giữa là bàn thờ thổ công, hội đồng gia tiên, còn hai bên thì đặt bát hương thờ bà tổ cô và bát hương thờ ông mãnh theo quan niệm “trai bên trái, gái bên phải”. Ảnh đặt cũng sắp xếp theo “trai bên trái, gái bên phải” và theo cấp bậc, mỗi bát hương để cách nhau khoảng 10cm. Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2 bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên bàn thờ là không đúng cách sẽ không tổ hợp được sức mạnh tâm linh. Ngoài ra, không thể để thờ hai họ nội và ngoại cùng bát hương bởi quan niệm trần sao âm vậy.

Tuy nhiên, theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu Phát triển Khoa học Việt Nam - Đông Nam Á) tùy thuộc vào hoàn cảnh từng nhà mà đặt bàn thờ cũng như lập các bát hương, chứ không nên quá máy móc. “Điều quan trọng là cái tâm thành kính. Nhiều người cho rằng, không nên thờ chung họ nội và ngoại trong một bàn thờ nhưng theo tôi điều đó không sao cả bởi bàn thờ giống như một lịch sử của một dòng họ là để tưởng niệm, biết ơn với những người quá cố đã sinh thành, nuôi dưỡng mình. Hơn nữa, việc đặt vị trí bàn thờ là điều quan trọng rồi nhưng điều quan trọng hơn cả là bạn phải luôn giữ cho bàn thờ phải luôn sạch sẽ, thường xuyên thắp hương để tưởng nhớ về tổ tiên và người đã khuất, bàn thờ thần tài cầu may”, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nói.

Về vị trí đặt bàn thờ, ông Luyện Văn Dũng cho biết, theo tập tục của dân gian thì ban thờ gia tiên thường được đặt giữa gian nhà hướng ra mặt tiền. Tuy nhiên, việc đặt bàn thờ có một nguyên tắc là hướng về cái đẹp và tùy theo tuổi của gia chủ. Mỗi gia đình tùy theo hoàn cảnh rộng, hẹp, nhiều tầng hay nhiều phòng mà chọn chỗ đặt bàn thờ cho thích hợp nhưng phải hướng về cái đẹp: Thiên y, Sinh khí, Phúc đức hoặc Phục vị, chứ không được đặt bàn thờ hướng về cái xấu: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Họa hại, Lục sát.


Bàn thờ cần phải đặt theo đúng hướng phù hợp với vận khí của gia chủ. Ảnh: T.L

Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên. Với một gia đình riêng có nhiều tầng thì tầng trên cùng của tòa nhà đặt phòng thờ là hợp lý nhất. Nó không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.

Nếu không có không gian làm phòng thờ riêng có thể bố trí trong phòng khách, không nên bố trí tại phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp. Việc đặt ban thờ ở tầng 1 cũng không sao, tuy nhiên cần tránh tầng trên không được kê giường ngủ, phòng vệ sinh… bởi nó sẽ làm giảm tính tôn nghiêm của không gian trang trọng này.

“Có phòng thờ riêng là tốt nhất bởi bàn thờ thuộc tĩnh không hợp với sự phô trương. Điều đó cũng sẽ tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ tổ tiên, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, dễ có gió thổi làm động bát hương”, ông Luyện Văn Dũng cho hay.

Đồng quan điểm về vấn đề này, chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng, về mặt nghi lễ, bàn thờ cần đặt ở nơi cao ráo, trang trọng nhất; còn về phong thủy bàn thờ cần đảm bảo thêm yếu tố vượng khí tức cần thoáng khí, rộng rãi. Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt bàn thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.

Tượng Phật có được đặt cùng bàn thờ gia tiên?

Theo ông Luyện Văn Dũng, việc đặt bàn thờ Phật cũng cần lưu ý nếu không sẽ không mang lại may mắn cho gia chủ. Nơi đặt bàn thờ Phật cần tránh: Không hướng ra nhà vệ sinh, không hướng ra cửa phòng, không hướng ra bàn ăn bởi vì Phật ưa thanh tịnh, giới sát tinh. Cúng Phật chỉ dùng hoa quả tươi, không được cúng tam sinh (một con ngan, một thủ lợn, một con gà hoặc cá là những thứ chỉ nhà trình đồng mở phủ mới cúng) như gia thần và gia tiên. Vì vậy, bàn thờ Phật phải đặt riêng, có thể là trước bàn thờ gia tiên và cao hơn bàn thờ gia tiên. Tranh, tượng Phật chỉ để khi có bàn thờ Phật, không nên để cùng với gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.

Khi lau rửa, có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Bởi người xưa quan niệm như vậy là bất kính.

Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trên bàn thờ bắt buộc phải có bát hương, chân đèn, nước. Đồ bày trên bàn thờ quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, nước sạch. Bàn thờ bé chỉ nên đặt một bình hoa, không nhất thiết là hoa gì nhưng thường là cúc biểu hiện dương khí, hoa sen, hoa hồng, loa kèn… Không nên để quá nhiều hoa nhựa, bởi theo quan niệm đó là sự giả dối. Bàn thờ phải thoáng sạch, bình hoa, đĩa quả, đèn/nến đặt hai bên, chính giữa đặt chén nước để bát hương thần linh thoáng. Nước của bình hoa cũng chú ý nên thay thường xuyên. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh để từ tháng này qua tháng khác.

Giấy công đức không đặt lên bàn thờ

Trước quan niệm của nhiều người cho rằng, giấy công đức chùa khi về nên để lên bàn thờ để báo cáo tổ tiên, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho hay, giấy công đức là ghi nhận sự đóng góp của người đã làm việc công đức cho chùa. Vì lẽ ấy mà nhà chùa ghi nhận việc cúng dường đó bằng một tờ giấy công đức. Không nên để lên bàn thờ vì nó là thứ không liên quan đến thờ cúng. Nếu nhiều quá thì hóa đi rồi bỏ cũng được. Quan trọng là tâm mình hoan hỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

SAO HOA CÁI TRONG TỬ VI

SAO HOA CÁI (Kim) *** 1. Ý nghĩa tính tình của HOA CÁI trong tử vi : Hoa Cái được gọi là đài các tinh, có nghĩa: - ...
SAO HOA CÁI TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


SAO HOA CÁI (Kim)

***



1. Ý nghĩa tính tình của HOA CÁI trong tử vi :

Hoa Cái được gọi là đài các tinh, có nghĩa:

- sự chưng diện, xa hoa, lộng lẫy để có bề ngoài đài các, sang trọng, quyến rũ. Người có Hoa Cái hay làm dáng, làm đẹp, ham phô trương vẻ đẹp, thích được người khác để ý và yêu đương, có những hành động thu hút tình yêu kẻ khác ...

- sự kiểu cách trong bộ điệu, từ cái nhìn, cái liếc cho đến tướng đi, đứng, ngồi, nằm; trong ngôn ngữ, từ cách nói văn chương bóng bẩy, duyên dáng, dí dỏm cho đến giọng nói sửa miệng, sửa giọng, lắm khi không tự nhiên hay lố bịch.

- sự ham chuộng các loại thời trang, đua đòi nếp sống tiến bộ văn minh Âu Mỹ, từ lối ăn mặc, làm tóc, sinh hoạt, kết bạn cho đến việc đa phu, đa thê kiểu như các minh tinh màn bạc.

- sự khao khát tình ái, một lối ái tình tiểu tư sản hay mới lạ với những nhân vật danh tiếng, với sinh hoạt phù phiếm, xa hoa. Từ đó, Hoa Cái có nhiều ý nghĩa dâm đãng, âm thầm hay công khai.





2. Ý nghĩa công danh, phúc thọ:

Hoa Cái chủ phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời khi đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ (thành bộ Tứ Linh), chủ về công danh, chức vị, uy quyền





3. Ý nghĩa của sao hoa cái  và một số sao khác:



- Cái, Mộc, Riêu: se sua, chưng diện; dâm đãng, có thể làm điếm hạng sang



- Cái, Tướng, Khúc, Mộc, Đào: đàn bà dâm đãng theo lối sang, thích các mối tình vương giả, mới lạ, với các nhân vật nổi tiếng; người chuyên quyến rũ kẻ khác, làm cho người khác chết mê chết mệt vì yêu đương.



- Cái, Tấu Thư: người thanh cao, lịch lãm, có gu về ăn mặc, có năng khiếu về trình diện; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.



- Tiền Cái, Hậu Mã: Mệnh giáp Hoa Cái phía trước, Thiên Mã phía sau: chủ về phú quý, sang trọng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO HOA CÁI TRONG TỬ VI

Chọn màu sơn văn phòng theo hướng phong thủy

Lựa chọn màu sơn hợp phong thủy văn phòng sẽ tăng vượng khí và năng suất làm việc.
Chọn màu sơn văn phòng theo hướng phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc là một trong những yếu tố tạo ấn tượng thị giác, từ đó có tác dụng kích thích tinh thần tập trung trong công việc. Lựa chọn màu sơn hợp phong thủy văn phòng sẽ tăng vượng khí và năng suất làm việc.

 

Theo quan điểm phong thủy văn phòng, việc lựa chọn hướng của văn phòng căn cứ chủ yếu vào hướng cửa sổ. Nếu cửa sổ quay hướng Bắc thì văn phòng này quay hướng Bắc, các hướng khác tương tự.
 
Các hướng chính Đông, chính Tây, chính Nam, chính Bắc gọi là tứ chính. Còn hướng Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc được gọi là tứ ngẫu. Căn cứ vào hướng của văn phòng mà có cách lựa chọn và sử dụng màu sơn hợp lí theo đúng phong thủy. Thông thường có hai cách lựa chọn chính dưới đây:
 
1. Chọn màu sơn văn phòng theo tứ chính
 
- Hướng Đông: Theo ngũ hành, hướng Đông thuộc hành Mộc, là nơi Mộc khí vượng. Do đó, nếu hướng văn phòng là chính Đông, có thể chọn màu sơn văn phòng là màu vàng, cam làm chủ đạo. Những màu này là đặc trưng của hành Thổ, trong ngũ hành Thổ được tạo ra từ Mộc. Ngoài ra, có thể tô điểm bằng gam màu xanh lá của hành Mộc.   - Hướng Tây: Hướng Tây trong ngũ hành thuộc hành Kim, là nơi Kim khí vượng. Kim khắc Mộc sinh tài. Do đó, có thể sơn tường bằng màu xanh lá, đặc trưng của hành Mộc để thu hút vượng khí. Ngoài ra, hướng Tây bị ánh sáng chiếu mạnh sẽ gây hại cho mắt, gam màu xanh nhẹ nhàng lại có thể bảo vệ tốt cho mắt.   - Hướng Nam: Trong ngũ hành, hướng Nam thuộc hành Hỏa, là nơi Hỏa khí vượng. Nếu muốn văn phòng hút nhiều vượng khí, có thể sử dụng các loại màu sắc thuộc hành Kim như trắng, các sắc sáng. Bởi hướng Nam tuy mát mẻ nhưng lại là nơi Hỏa vượng, dùng gam màu lạnh có thể giảm nóng hiệu quả.   - Hướng Bắc: Hướng Bắc thuộc hành Thủy trong ngũ hành, là nơi Thủy khí vượng. Thủy khắc Hỏa sinh tài. Do đó, có thể dùng các gam màu đỏ, tím, hồng thuộc hành Hỏa để trang trí văn phòng nhằm tăng tài khí. 

Chon mau son van phong theo huong phong thuy hinh anh
Ảnh minh họa

2. Chọn màu sơn văn phòng theo tứ ngẫu
 
- Hướng Đông Nam: Nếu văn phòng có hướng Đông Nam thường không đón nhận nhiều ánh nắng mặt trời, do đó cần phải bài trí sao cho phải sáng sủa. Có thể sử dụng màu trắng hoặc ghi làm chủ đạo cho văn phòng. Nếu dùng các gam màu tối quá nửa diện tích sẽ giảm độ tỉnh táo, sáng suốt trong công việc của nhân viên, đặc biệt là nam giới.
 
- Hướng Đông Bắc: Văn phòng hướng này có thể sử dụng sơn tường màu vàng hoặc màu gỗ.
 
- Hướng Tây Nam: Có thể chọn màu trắng, vàng đất hay cà phê để trang trí cho văn phòng.

Chon mau son van phong theo huong phong thuy hinh anh 2
Ảnh minh họa

- Hướng Tây Bắc: Văn phòng hướng này cần phải có không gian rộng, nên sử dụng gam màu xanh và trang trí nhiều hoa cỏ để tạo cảm giác thoáng đãng, thư giãn.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu sơn văn phòng theo hướng phong thủy

Nét tướng dễ thất vọng trong tình yêu ở nữ giới

Con gái mắt ướt, lông mày mỏng thường dễ thất vọng chuyện tình cảm.
Nét tướng dễ thất vọng trong tình yêu ở nữ giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đầu to và cổ mảnh mai

0-5782-1407830154.jpg

Phái nữ có tướng này thường trông bơ phờ, không thích trò chuyện và rất hướng nội. Họ gặp khó khăn trong việc thể hiện và kiểm soát tình cảm của bản thân. Dù trải qua nhiều đau đớn trong tình yêu, họ vẫn không dễ dàng bỏ cuộc và cứ như vậy đắm chìm từ nỗi thất vọng này sang nỗi thất vọng khác.

2. Trán cao

Angelina-1-2587-1407830154.jpg

Phái nữ trán cao thông minh, thường là con người của sự nghiệp. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng họ không cần hạnh phúc. Vẻ ngoài của họ lạnh lùng, nhưng trái tim họ luôn ấm áp và chứa chan những xúc cảm mãnh liệt. Họ không cần một nửa còn lại quá tài giỏi, chỉ cần tính cách hai người hợp nhau là đủ.

Dù vậy, đối phương sẽ thấy mình kém cỏi trước những người này, do đó quan hệ tình yêu dễ gặp trục trặc. Phái nữ tướng này thường mạnh mẽ hơn, nhưng dù gì họ vẫn là phái yếu, và họ cũng dễ chán nản, thất vọng khi bị tổn thương trong tình yêu.

3. Mắt ướt và lông mày mỏng

Make-Up-Trend-For-Summer-20111-4965-1407

Người có lông mày mỏng thường không quyết đoán, không có khả năng xoay xở khi gặp khó khăn và dễ hoảng sợ. Kèm theo đôi mắt ướt, phái nữ tướng này thường nhạy cảm, sống theo cảm xúc và trung thành. Họ nhất quyết theo đuổi tình yêu đến cùng, dù có bị đối phương đối xử tệ bạc.

Họ không đủ quyết đoán để tự chọn hướng đi cho mình trong chuyện tình cảm và rất dễ khóc. Phái nữ có tướng này thường dễ thất vọng chuyện tình cảm, tuy nhiên họ sẵn sàng chấp nhận tổn thương để ở bên người họ yêu.

Hạnh Yunnie


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét tướng dễ thất vọng trong tình yêu ở nữ giới

Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ (1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như vá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1259142371-374988

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ

(1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như ván sàn gỗ, nền nhà bằng nhựa, thảm trải nền nhà, tấm gỗ trang trí, thảm treo tường. Phải tránh tối đa sử dụng với số lượng lớn vật liệu cứng như kính, đá cấm thạch, đồng thời chọn lựa những chất liệu hút ẩm như thảm lông, rèm cửa, thảm treo tường.

(2) Rèm cửa phòng ngủ nếu có điều kiện tốt nhất nên làm hai tầng, một tầng dày một chút để tránh ban đêm bị tiếng vang bên ngoài quấy nhiễu; một tầng là vải mỏng nửa trong suốt, dùng vào ban ngày, có tác dụng điều tiết ánh sáng,

(3) Độ lớn nhỏ của không gian phải phù hợp, Trần nhà cách sàn nhà không dưới 2.5m, diện tích phòng ngủ không được nhỏ hơn 12m2, lớn hơn thì càng tốt, nhưng phòng cũng không nên quá rộng không gian quá rộng sẽ khiến con người cảm thấy trống rỗng và mất đi cảm giác gần gũi.

Những điều kiêng ky trọng bố trí phòng ngủ 

Phòng ngủ là nơi con ngưòi nghỉ ngơi và thường xuyên sử dụng, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc sống gia đình. Khi bố trí phòng ngủ phải chú ý các điểm sau.

(1) Kỵ tạo cho con người cảm giác ức chế. Khi bố trí phòng ngủ, diện tích kê đồ không được quá lớn nên tận dụng không gian một cách tối đa, tạo cho chủ nhân không gian hoạt động đầy đủ, không nên vừa vào phòng đã có cảm giác ức chế, ngột ngạt đến nỗi không thể thở nổi.

(2) Kỵ thiếu tính thẩm mỹ. Về hình khối, thông qua sự phối hợp của các vật dụng đem đến cho chúng ta cảm nhận về một cái đẹp theo trực quan, vừa sử dụng dễ dàng, gọn gàng ngăn nắp, lại vừa có phong cách đơn giản, thống nhất, sáng sủa.

(3) Kỵ dùng nguyên liệu quá cầu kỳ. Theo nguyên tắc đơn giản, nhẹ nhàng, màu sắc trong phòng nên đơn giản (nên dùng gam màu ấm, thường dùng màu trung gian như màu phối hợp giữa các màu như da cam, đỏ, lục), cố gắng tránh treo đèn treo lớn đầu giường; đèn tường, đèn bàn phải đẹp, ánh sáng cũng phải đẹp.

Tóm lại, bố trí phòng ngủ tuyệt đối tránh màu sắc lòe loẹt, kỳ quái sặc sỡ, tránh phá vỡ không khí an nhàn.

Màu sắc hài hòa

(1) Phối hợp giữa màu sắc và ánh sáng: cùng một màu, trong điều kiện sáng tối khác nhau sẽ có hiệu quả rất khác biệt. Căn cứ nguyên lý này, hướng của căn phòng không giống nhau thì màu sắc trong phòng cũng thay đổi theo. Nếu cửa hướng Nam thì căn phòng thường có đầy đủ ánh sáng, màu sắc dễ thành màu ấm tự nhiên, do đó tường, trần nên chọn màu hơi lạnh, mùa đông không có cảm giác lạnh lẽo, mùả hè cũng không có cảm giác nóng bức. Cửa hướng Bắc thì ngược lại, màu trong phòng có thể ấm một chút.

(2) Phối hợp hài hòa màu sắc: phối hợp hài hòa màu của tường, nền, cửa và đồ dùng có thể làm tăng màu sắc trong phòng, giàu tính nghệ thuật. Nếu tường phòng ngủ dùng giấy dán tường màu xanh lá cây nhạt phối hợp với thảm trải nền màu trám và đồ dùng trên giường màu nhạt, đồ dùng trong nhà màu dưa muối có thể thể hiện cái đẹp trầm lắng. Phòng khách có thể dùng thảm màu hồng phối hợp với sofa trắng, rèm cửa màu xám vừa phải; dùng giấy dán tưòng màu xanh da trời nhạt kết hợp với đồ dùng màu vàng nhạt có thể thể hiện được bầu không khí phong phú, nồng nhiệt, trong sự yên tĩnh lộ ra sức sống mãnh liệt.

Cách đánh giá chất lượng ván lát sàn

Ván lát sàn tốt nhất nên dùng liễu thủy khúc, gỗ cây dó, giáng hương… Khi lựa chọn nên chú ý chất liệu, màu sắc phải thống nhất, kích cỡ hoàn toàn như nhau, độ dày tương đương, không có vết nấm mốc, mọt. Tốt nhất là xử lý định hình bằng sấy khô, chống biến dạng co lại do ngậm quá nhiều nước.

Cách đánh giá chất lượng gia công ván sàn

(1) Việc lát các loại nguyên liệu lên mặt sàn nên tiến hành sau khi hoàn thành cơ bản việc trang trí nhà và tường. Khi lát gỗ, ghép ván sàn thì phòng nên khô ráo, tránh thi công khi không khí ẩm ướt.

(2) Khi lát sàn bằng gỗ, hàm lượng nước trong ván sàn không được lớn hơn 18%. Trên nền xi măng lát một sàn gỗ thì khoảng cách không được lớn hơn 35cm. Đưòng kính thanh ván không được lớn hơn 12cm. Sàn gỗ phải được lắp ghép chắc chắn, bằng phằng.

(3) Lát nền (dính vào nhau) phải chắc chắn, không phát ra âm thanh, không lỏng lẻo, không bị rỗng bên trong.

(4) Mặt sàn gỗ phải được bào nhẵn, đánh bóng, không có vết bào, vỏ bào, vết xước. Nếu đánh véc ni thi hoa văn trên gỗ phải rõ.

(5) Nếu ghép tấm công nghiệp thì chỗ khe nối phải đồng đều, độ rộng khe nối phải bằng nhau, bề mặt sạch sẽ, không có hiện tượng keo dán tràn ra.

(6) Ván ốp chân tưòng phải khít với ván lát nền. Đường trên ván ốp phải thẳng hàng, dán chặt vào mặt tường, không có khe hở.

(7) Ván lát sàn nên lát theo đường thẳng từ ngoài cửa vào trong. Khe giữa các ván ghép phải khít vào nhau, màu sắc tương đương nhau, trên bốn bức tường phải để lại khoảng phát sinh lcm. Ván gỗ nên dùng đinh ghép ván sàn chuyên dụng để cố định.

(8) Ván sàn sau khi lát xong phải đánh bóng rồi mối quét sơn. Ván sàn phải được đánh phẳng lì, độ lệch trong 2m từ mặt sàn phải nhỏ hơn một chút hoặc bằng 5mm, không được có rãnh lõm xuống hay vết cạo. Tại vị trí góc tường dùng máy mài nhỏ để mài.

(9) Khi lau dọn phải chờ cho dầu khô hoàn toàn mối được tiến hành.

Cách chọn lựa đèn

(1) Căn cứ vào diện tích lớn nhỏ của căn phòng để chọn đèn: Đèn sáng thích hợp với phòng lớn. Phòng nhỏ hẹp phải chọn đèn có ánh sáng dịu, vì đèn có ánh sáng dịu có thể làm nổi bật không khí của toàn bộ căn phòng, khiến cho mắt bị đánh lừa mà không chú ý đến sự nhỏ hẹp của căn phòng.

(2) Căn cứ vào chức năng của căn phòng để chọn lựa đèn: Nếu là phòng đọc sách thì nên tạo một môi trường đọc sách ấm cúng. Do đó lựa chọn đèn nên căn cứ vào yêu cầu đọc sách, ánh sáng thích hợp, ổn định thì mắt mới không bị mỏi.

(3) Căn cứ vào mùa để chọn đèn: Để thích ứng với mùa và môi trường khác nhau có thể lắp đặt hai loại đèn có ánh sáng khác nhau. Ví dụ: ánh sáng trắng hơi lạnh, có thể khiến con người cảm thấy mát mẻ; ánh sáng lam, lục có thể khiến con người cảm thấy yên tĩnh, thư thái; ánh sáng vàng hay cam hơi nóng, có thể khiến con người cảm thấy ấm áp. Đèn có ánh sáng lam, lục thích hợp cho mùa hè, ánh sáng vàng, cam thích hợp cho mùa đông.

(4) Căn cứ vào yêu cầu sử dụng để chọn đèn: Nếu để trang điểm, ánh sáng nên chiếu từ hai bên thì mặt người trang điểm nhìn mới rõ. Nếu ánh sáng chiếu từ trên xuống thì phía dưới mắt lại bị tối. Khi xem vô tuyến, ánh sáng yếu từ hai bên hay phía trên vô tuyến hắt lên tường, xuống nền hay lên trần có thể bảo vệ thị lực, cũng có thể tránh nhiễu màn hình vô tuyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Tử vi Bính thân Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Sơn hạ Hỏa Bính Thân là khỉ trên núi, tính cách thông minh, nhanh nhẹn, tài cán hơn người, Sơn hạ Hỏa rực rỡ trong cây cỏ ánh sáng nơi lạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơn hạ Hỏa Bính Thân là khỉ trên núi, tính cách thông minh, nhanh nhẹn. Người này biết trước biết sau, biết tiên lượng, tài cán hơn người, tính tình khảng khái. Sơn hạ Hỏa rực rỡ trong cây cỏ, ánh sáng nơi rừng lạnh. Nếu sinh vào mùa thu là được quý cách, có thể làm quan lớn. Mệnh này là Hỏa ưa Thủy, như: Gặp Địa chi Hợi, Tý hoặc nạp âm Thủy, lại ở vào các tháng Thân, Dậu.

Sơn hạ Hỏa thích có núi và cây, như được gió tăng thêm sự sáng, là mệnh cách  quý, như: Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc là gió, Quý Sửu Tang đố Mộc, canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc đều là cát lợi. Nhưng cần tránh trường hợp có gió quá nhiều sẽ tản mát khí, không còn được cát lợi.

Bính Thân Mệnh này gặp được Giáp Thân, Ất Dậu Tịnh tuyền Thủy, Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, lại có Mộc đến tương trợ chủ về có thể làm quan lớn, danh vị hiển hách. Cần tránh gặp Đại hải Thủy nhưng nếu có núi lại là quý cách. Lúc đó dù có gặp Giáp Dần Đại hải Thủy cũng trở nên cát lợi.

Nếu không có Hỏa, không có núi, lại thêm Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa chủ về yểu thọ. Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy là mưa tụ, không nên gặp Bính Thân. Nếu mệnh này có sơn Thủy tương trợ thì có thể hóa giải được.

Các trụ khác có Kim, lấy sự thanh tú làm cát lợi. Ât Sửu Hải trung Kim chủ về sang quý. Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, có gió, nếu được thêm sơn Thủy tương trợ chủ về sang quý. Nếu không có chỉ là hư danh mà thôi.

Bính lộc tại Tỵ, Địa chi khác không thể có Dần, Thân, lộc gặp hình, chủ về một đời thiếu thốn tiền bạc, nên cần kiệm trong chi tiêu.

Thân mã tại Dần, Địa chi khác không thể gặp Tỵ, Thân, là Mã phạm hình. Người này không nên kinh doanh, có thể mất ở nơi đất khách quê ngưòỉ.

Bính Thân Không vong tại Thìn, Tỵ. Địa chi khác không nên có Thìn, Tỵ. Địa chi khác cần tránh có Dần, Tỵ, vì đó là phạm hình. 

Địa chi khác nên gặp Hợi, được quý nhân. Tuy nhiên khi gặp Hợi thường có tổn thương về ngũ quan trên cơ thể. Làm việc nên chủ động, tích cực, biểu hiện được khả năng làm việc cao.

Vào các năm Thân, Dần mệnh Bính thân trong nhà thường không được yên ổn. Tuy bản thân không bị tổn thương nhưng người trong nhà khó tránh khỏi họa.

Bính thân thì bạn đời không nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Nên chọn người sinh năm Canh, Tân.

Các trụ khác có Hỏa, thưòng xảy ra nhiều biến động lớn, chủ về trước nghèo sau giàu. Nhật chi có Thìn, khắc thương vợ hoặc chồng. Thời chi có Thìn nên hiến thân cho tôn giáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Bính thân Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Hai câu chuyện truyền thụ bí quyết để có được mảnh đất phong thủy tốt

Phong thủy tốt giúp thay đổi vận mệnh hoặc vận may. Người xưa coi trọng việc hài cốt của tổ tiên chôn ở vùng đất phong thủy tốt đểđời sau nhận được lợi ích
Hai câu chuyện truyền thụ bí quyết để có được mảnh đất phong thủy tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy tốt có thể giúp thay đổi vận mệnh hoặc kéo dài vận may. Người xưa rất coi trọng việc đem hài cốt của tổ tiên chôn ở vùng đất phong thủy tốt, điều này có thể khiến đời sau nhận được lợi ích.

Dòng họ Tôn thành Vương nhờ tâm thiện lương được Thần chỉ điểm

Nhận gian có lưu truyền một câu chuyện như thế này, vào thời Hậu Hán, có người tên Tôn Chung, sống ở một nơi gọi là Dương Bình sơn, gần phủ Hàng Châu. Ông mất cha từ nhỏ, gia cảnh bần hàn, cùng với mẹ nương tựa vào nhau, sống bằng nghề trồng dưa hấu.

Một ngày kia, bỗng có ba thiếu niên tướng mạo kì lạ, đến trước quầy dưa của ông xin dưa ăn. Tôn Chung nhìn ba thiếu niên phong trần mệt mỏi, liền cho mỗi người bọn họ một miếng dưa hấu. Ba người liền ăn ngay mà không chút khách sáo, ăn xong rồi dường như vẫn thấy chưa đủ, liền xin Tôn Chung thêm nữa. Tôn Chung cũng không chút do dự, lại cho mỗi người bọn họ một miếng.

Ba người ăn xong, nói: “Tiểu tử, lòng dạ cậu thật tốt, chúng tôi là những vị Thần cai quản số mệnh, bởi đức hạnh hiếu thuận của cậu đã cảm động lòng trời, vì vậy Thiên Đế sai ba người chúng tôi đến đây khảo nghiệm cái tâm của cậu, thật không ngờ cậu không chỉ hiếu thuận với mẫu thân, mà còn tâm đầy thiện lương, vậy nên chúng tôi sẽ điểm hóa cho cậu”.

Tôn Chung nghe xong rất lấy làm kinh ngạc, một người trong đó chỉ tay về một khóm cây dưới chân núi nói: “Tiểu tử, ngọn núi này có phong thủy rất tốt, non nước bao quanh, chân long hội tụ, vững chãi chắc chắn, cậu đem di cốt của cha dời đến chỗ này, không lâu sẽ được làm thiên tử vậy”.

Một người khác nói tiếp: “Cậu hãy đi một trăm bước đến dưới chân núi, rồi quay đầu lại nhìn chúng tôi, nơi mà chân cậu đứng lại chính là mộ huyệt may mắn có thể chôn cất”.

Tôn Chung bán tín bán nghi, dưới sự hối thúc của ba người, đành phải làm theo, ông đi khoảng 70 bước, liền ngoảnh đầu lại nhìn ba người kia. Ba thiếu niên cùng than lên: “Cậu ngoảnh đầu lại sớm quá, sau khi hạ táng chỉ có thể được phong Vương mà thôi”.

Nói xong, ba thiếu niên liền biến thành ba con hạc trắng bay lẩn vào trong mây. Lúc này, Tôn Chung mới giật mình tỉnh ngộ, ngẩng đầu lên trời mà bái lạy, trong miệng niệm rằng: “Tạ ơn chỉ điểm của Thiên Đế và chư Thần”.

Ông ghi nhớ mảnh đất này, chọn ngày lành rời hài cốt của cha đến, không lâu sau ông liền dẫn mẹ rời khỏi nhà để đi làm ăn buôn bán.

Mấy năm sau, nhờ làm ăn chăm chỉ, Tôn Chung phát đại tài, lấy vợ sinh con. Một ngày nọ trở về quê nhà tế mộ, ông nhìn thấy trên mộ phần xuất hiện khói mây ngũ sắc, xông thẳng lên trời. Ông biết đây là điềm lành, liền cầu phúc cho Tôn gia, thế là càng hành thiện tích đức. Về sau con trai của Tôn Chung là Tôn Kiên đã làm Vương nước Ngô, phong Tôn Chung là Võ Hoàng đế, con trai của Tôn Kiên là Tôn Quyền, cháu trai là Tôn Lương đều làm Ngô Vương.

Có thể thấy được rằng hiếu thuận và thiện lương có thể cảm động Thần linh, nhờ thế mà có được chỉ điểm, hưởng trọn âm phúc. Những điều này dù cho bạn có dùng đến trăm phương ngàn kế cũng chẳng thể có được.

Người tính không bằng trời tính

Trước đây, có một vị Đạo sĩ, tinh thông phong thủy thuật số, ông vân du khắp nơi.

Một ngày nọ, trời rất nóng nực, ông đói khát không sao chịu được. Đi một quãng đường rất xa, khó khăn lắm mới gặp được một hộ gia đình, ông vội vàng đi vào, nhìn thấy một phụ nữ quê đang cho heo ăn. Ông đi đến, chắp tay nói: “Bà có thể cho tôi một ít nước uống được chăng?”.

Người phụ nữ thấy ông phong trần mệt mỏi, mồ hôi đầm đìa, cười nói: “Không vấn đề gì, không vấn đề gì”. Bà liền xoay tay lại dùng gầu múc nước đầy, rồi thuận tay bỏ vài hạt cám nuôi heo vào trong nước uống đó.

Nhìn thấy bà bỏ cám, trong lòng Đạo sĩ rất không vui, nghĩ rằng: “Mình chẳng qua chỉ là xin một chén nước uống thôi, sao lại xem mình là heo chứ, người đàn bà này thật là đáng ghét”, nhưng thật sự là khát quá rồi, không thể chấp nhất được nên ông tiếp lấy cái gầu, chỉ hận là không thể một ngụm uống hết cho được, vì những hạt cám đó cứ bồng bềnh như thể muốn chui vào miệng, vậy nên ông đành phải vừa thổi vừa uống. Sau khi uống xong, trong lòng Đạo sĩ nghĩ, ta phải giáo huấn người đàn bà này mới được, thế là liền nói với người phụ nữ rằng: “Tôi biết xem phong thủy, bà có muốn tôi xem giúp không?”.

Người đàn bà nghe xong, mặt mày rạng rỡ nói rằng: “Thật không dám giấu ông, chúng tôi đang chuẩn bị xây nhà, vậy thì phiền ông xem phong thủy giúp tôi vậy”.

Đạo sĩ quan sát xung quanh một lượt, ông phát hiện di chỉ một ngôi chùa đổ nát, thế là liền chỉ vào ngay nơi này nói với người phụ nữ rằng: “Đây là một mảnh đất quý, ngôi nhà được xây nơi này, đảm bảo ngày tháng về sau của gia đình sẽ càng ngày càng hưng thịnh”.

Người phụ nữ nghe xong mặt mày rạng rỡ, hết lòng cảm tạ Đạo sĩ, nhưng bà đâu biết được đây là mảnh đất đại hung, bởi vì ngôi miếu này là nơi cô hồn dạ quỷ cư trú, người Đạo sĩ chọn ra mảnh đất này chính là để giáo huấn bà mà thôi.

10 năm sau, trong một lần tình cờ, người Đạo sĩ lại đến nơi này, điều khiến ông kinh ngạc nhất chính là, vận may trong nhà người phụ nữ không những không suy bại, trái lại còn sống rất hạnh phúc vui vẻ, ngày một khấm khá, ông rất lấy làm lạ.

Người phụ nữ mời ông đến nhà thịnh tình tiếp đãi. Trong bữa tiệc, bà không ngừng nói lời cảm tạ người Đạo sĩ, còn cho biết nhà bà không những sống rất tốt, mà còn sinh được thêm hai đứa con trai. Vừa nói bà vừa gọi hai đứa con trai đến, một đứa tên là Đại Phán Quan, đứa còn lại tên là Tiểu Phán Quan.

Sau khi nghe thấy tên của hai người con trai, vị Đạo sĩ đã hiểu thông suốt tại sao người trong nhà này lại được sống những tháng ngày tốt lành đến vậy, bởi vì Phán Quan chính là khắc tinh của ma quỷ trên mảnh đất đại hung này, từ đó biến nó trở thành mảnh đất đại phúc. Cuối cùng, ông không nhịn nổi đã hỏi vấn đề thắt chặt trong lòng hơn 10 năm nay. Ông hỏi người phụ nữ: “Ban đầu tại sao lại muốn bỏ cám vào trong nước uống của tôi?”

Người phụ nữ cười nói: “Bởi lúc ấy nhìn thấy ông mồ hôi nhễ nhại, lo rằng ông uống quá nhanh sẽ tổn thương đến tim phổi, vì vậy tôi đã bỏ vài hạt cám vào trong, như vậy ông sẽ không còn uống vội vã nữa”.

Người Đạo sĩ hổ thẹn, nói: “Một niệm thiện tâm, quỷ thần còn khó đụng vào được, huống là con người”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hai câu chuyện truyền thụ bí quyết để có được mảnh đất phong thủy tốt

Kiêng kỵ bàn sách xông cửa –

Hiện tượng: Bàn sách đặt ngay vị trí chính đối cửa ra vào, phong thủy gọi là bàn sách xông cửa, dễ làm cho người học bài và làm việc không chuyên tâm, tinh thần bất an. Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải tốt nhất là điều chỉnh vị trí bàn sách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Bàn sách đặt ngay vị trí chính đối cửa ra vào, phong thủy gọi là bàn sách xông cửa, dễ làm cho người học bài và làm việc không chuyên tâm, tinh thần bất an.

anh3

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải tốt nhất là điều chỉnh vị trí bàn sách. Nếu tạm thời không thể điều chỉnh được thì dưới đệm ghế ngồi có thể đặt một chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để ổn định khí trường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ bàn sách xông cửa –

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Cha mẹ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ. Bổn phận của con cái là không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn.

Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh Nguyên thủy và Đại thừa, “Đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sinh và thế hệ được sinh ra.

  • Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp..vv. thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách.
  • Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chính (chính mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, xin trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Thiện Sinh – Trung A Hàm. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Bắc phương.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình.

 cha mẹ
Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sinh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau

Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Kinh Thiện Sinh đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Thương yêu con cái:

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sinh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và lòng yêu thương chân chính. Đó chính là thể hiện tinh thần từ bi của Phật tử. Các bậc cha mẹ phải luôn luôn quan tâm, yêu thương con cái hết mực.

Bởi vì con cái mình mà không thể yêu thương được, thì làm sao có thể yêu thương những người khác. Lòng yêu thương con cái của các bậc làm cha mẹ được thể hiện rất rõ ở văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mẹ già trăm tuổi thương con tám mươi”, chính là thể hiện sự yêu thương con cái hết mực vậy.

Ngoài ra, yêu thương con cái là phải luôn dạy con cái không làm các điều ác, phải tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chiều con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi.

Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội. Đồng thời thể hiện sự yêu thương mù quáng, không đúng tinh thần của đạo Phật.

Cung cấp cho con cái không thiếu thốn:

Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn. Không thiếu thốn ở đây phải thể hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng, điều kinh tế của mình để lo cho con cái đầy đủ từ miếng cơm, manh áo..vv, các phương tiện để học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải luôn quan tâm chăm sóc, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn để động viên con cái có động lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tâm lý. Do đó con cái cảm thấy xa lạ với chính cha mẹ của mình..vv. dẫn đến khủng hoảng tâm lý mà sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy các bậc cha mẹ không chỉ lo cho con cái về mặt vật chất, mà phải luôn quan tâm về mặt tâm lý tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái:

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó.

Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lổng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ.

Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái:

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương.

Đạo Phật không khuyến khích một tập tục “bắt đâu ngồi đó” như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống “phụ vi tử cương” của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chính và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm “xứng đáng” không có nghĩa là “môn đăng hộ đối” như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình.

Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tính tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh “đồng sàng dị mộng” vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v…

Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần “môn đăng hộ đối” về vật chất nhưng lại không thích hợp về tính tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái:

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

  • Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình.
  • Gia tài đó hẳn không phải là “một nước Việt buồn” mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã.
  • Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao.
  • Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Tuệ Năng. Đức Phật Thích Ca đã không trao chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho ngài A Nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca Diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ “con ông cháu cha” sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Bổn phận của con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục.

cha mẹ
Người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với cha mẹ, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội.

Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ:

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sinh thành ra mình theo Đức Phật là phải biết làm tăng thêm của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt những năm vị thành niên.

Cần lưu ý ở đây rằng: Tăng thêm của cải là để biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa suông. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con ” Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ” mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được. Bởi nếu không có của cải thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch “báo đời” cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác cáng đáng việc nhà để trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau.

Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, cáng đáng việc nhà để cho cha mẹ có thời gian thư nhàn lúc tuổi xế chiều, không để cha mẹ phải vất vả vì công việc gia đình. Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó bằng hành động cụ thể, đúng chính pháp và phù hợp với đạo lý và luật pháp của xã hội hiện hành.

Dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn:

Các bậc làm cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả của con cái. Khi còn trẻ cha mẹ đã hết mình lo cho con cái, nhưng khi về già, không còn sức lao động, không làm ra của cải vật chất nhưng cũng không ai muốn ngửa tay xin con cái.

Cho nên phận làm con cái luôn phải biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi. Đây cũng là thể hiện tính tự giác, luôn biết quan tâm đến tâm tư tình cảm của cha mẹ. Tiếc rằng xã hội ngày nay, nhiều người làm con cái sống trong cảnh dư thừa vật chất, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, đói rét. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: “Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn của xã hội, lời dạy trên của Đức Phật thật vô cùng ý nghĩa đối với những người làm con cái mà chưa tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ:

Đây chính là bổn phận của người làm con khi tiến hành bất cứ một công việc gì cũng phải hỏi cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn danh dự và không đi ngược với truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập “cha truyền con nối” một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi.

  1. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập.
  2. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu “con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa” cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.
  3. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó.

Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

Tất cả những vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ:

Phận làm con phải luôn tự giác dâng nhưng tài sản, vật chất của mình cho cha mẹ, mà không giấu diếm giữ làm của riêng. Đây chính là thể hiện tinh thần tập thể của một gia đình, nhằm bảo vệ và làm tăng tiến tài sản thừa tự.

Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam Bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật Pháp Tăng. Trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Tóm lại, qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sinh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Đồng thời bổn phận của con cái không chỉ là chăm lo cho cha mẹ về mặt vật chất, mà phải luôn săn sóc cha mẹ về mặt tinh thần, không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Bốn, thể lực lấy tài

Thể lực lấy tài phân lưỡng loại: Một loại vốn là một bực như nhau thể lực lao độngngười, bọn họ không có văn hóa tri thức, dựa vào khổ cực lao độngkiếm tiền duy sinh, tại Trung Quốc chiếm tám triệu đích nông dân cùngdân công cũng ở này nhất giai tầng.
Bốn, thể lực lấy tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một khác loại vốn là thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, bọn họ mặc dù cũng là tiêu hao thể lực, nhưng thu vào pha phong, có chút danh tinh tuổi thu vào thậm chí có thể thượng triệu nguyên. Nói chung, thể lực lấy tài tố công chi thần xác nhận tỉ kiên, kiếp tài cùng lộc thần, đương nhiên bất đồng đích nghề nghiệp bát tự không có cùng đích tổ hợp, hiệu suất cùng tố công phương thức đều có viện bất đồng.

Càn: Ất ất mậu ất

Sửu dậu dần mão

Cái này bát tự quan tinh không có chế hóa mà khắc thân, liền tri vốn là không có quan mệnh. Quan vô dụng, ngồi sát hữu dụng, vốn là tỏ vẻ chính mình đích công việc. Dần sửu ám hợp tố công, nhưng tố công hiệu suất rất thấp. Dụng kiếp tài sửu thổ hợp quan tinh tỏ vẻ rồi người này đích công việc tính chất vốn là vi thể lực lao động người; sửu vi ẩm thấp không ánh sáng chỗ, thêm vi vàng đá chi khố, loại tượng vi môi chỗ trú, cố hắn là một môi thợ mỏ người. Quý vận mậu hợp tài, quý đến từ sửu, này vận thải môi kiếm tiền. Mùi vận xung sửu, liền không hề hạ chỗ trú rồi.

Càn: Nhâm quý kỷ bính

Tử sửu dậu dần

Này tạo vốn là một khai sơn công nhân. Nhật chủ vô công xem nhật chi, nhật ngồi thực thần, dậu sửu bán hợp, hợp thành thực thần cục, nhưng chúng ta xem thực thần tại cục trung vô công, bát tự hàn ẩm ướt quá mức, viện muốn chính là thời thượng bính hỏa cùng dần mộc địch hàn, mà không phải thực thần. Dần sửu ám hợp, kiếp tài tố công vốn là vi thể lực lao động người, hiệu suất quá nhỏ, kiếm tiền không nhiều lắm, phi thường khổ cực. Chủ vị dần mộc ám hợp sửu thổ có thể coi là khai sơn.

Càn: Nhâm nhâm bính giáp 

Tử tử thân ngọ 

quý giáp ất bính đinh mậu

sửu dần mão thìn tị ngọ

Này tạo kim thủy thành xu thế, nhưng mộc hỏa tại chủ vị, mà có giáp mộc hóa thủy, không thể đi mộc hỏa mà chỉ có dụng mộc hỏa. Chỉ có thể dựa vào giáp mộc hóa sát vi công, bát tự hiệu suất phi thường thấp. Dụng kiếp tài thiên ấn, vốn là thân thể lực lao động đích. Thực tế vốn là một thợ mộc.

Nhàn chú: Hồng chữ bính giáp ngọ ngay cả thể, nhất định phải dụng, không thể bị phá hư! Giáp vi tử mộc, hóa thiên can chi nhâm thủy sát, tỉ kiếp ngọ xung tử thủy quan tinh, vi tố nhà đều đích, mộc công! Nơi này quan nhiều tài ít, tài thống quan, quan sát chế vô cùng cũng làm tài xem! Ta giác này bát tự hành vận không sai, đoạn đường phía nam vận!

Càn: Ất ất quý quý

Dậu dậu mùi hợi

Này tạo có kim thủy xu thế, ấn tinh vô công, duy nhất tố công chi thần vi hợi thủy, củng hợp mùi thổ khắc ngoài hỏa thổ. Chúng ta ở trên một chương trung nói qua, hợi mùi hợp chế thổ hiệu suất giác thấp, cho nên thuộc về tỉ kiếp tố công mà hiệu suất thấp đích bát tự, vốn là thể lực lao động người. Thực tế vốn là một chiều nào mà làm việc đích nông dân. Nhàn chú: Hợi vi trong nước ngậm mộc, mùi trung có gốc, vi trồng trọt chi tượng. Cũng có thể tố kiến trúc giúp công( Mùi)

Càn: Tân bính tân bính

Mão thân tị thân

Này tạo niên thượng tài tinh sinh chủ vị đích quan, tỏ vẻ có công việc, buôn bán tiền lương mà sống. Quan hợp kiếp tài vi chế kiếp tài, nhưng tương đối vu kiếp tài đến nói, quan tinh không đủ vượng, không có khí thế, chế kiếp chi hiệu suất rất thấp, tố công không lớn. Kiếp tài tham dự tố công, cho nên vốn là thể lực lao động người, thêm có công việc, cố vốn là một công nhân.

Khôn: Nhâm tân đinh ất 

Tử hợi sửu tị 

canh kỷ mậu đinh bính ất giáp

thú dậu thân mùi ngọ tị thìn

Này tạo cùng thượng tạo có tương tự chỗ, tài nhiều thân nhược, thêm thiên ấn cùng kiếp tài tinh tại chủ vị, không thể không dụng chi. Phú ốc bần người, thân thể lực sống duy sinh, thực tế vốn là một khách sạn người bán hàng. Nhàn chú: Đinh ất tị ngay cả thể nhất định phải dụng! Trung lúc tuổi già vận cũng không tệ lắm!

Thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, nghệ nhân, bọn họ mặc dù thuộc về thể lực lấy tài người, nhưng bọn hắn phần lớn có dưới đặc điểm:

1, những người này tỉ kiếp tố công hiệu suất cũng dường như cao.

2, một bực như nhau đều có thương thực tinh cũng phối hợp tố công, nguyên nhân thương thực tinh đại biểu kỹ thuật hoặc nghệ thuật.

3, rất nhiều nghệ nhân có thể nổi danh, còn có bính đinh hỏa tố công, hoặc thất sát hư thấu vu can tố công, này đó cũng tỏ vẻ danh khí.

Khôn: Giáp tân ất quý

Dần mùi hợi mùi

Này tạo tỉ kiếp đông đảo, lưỡng mùi thổ tài tinh củng đến chủ vị, nhưng củng thành lộc cục, lưỡng tài tướng củng, hiệu suất giác cao. Bát tự không gặp thương thực, chỉ có tỉ kiếp tố công, tỉ kiếp chủ cạnh tranh, cho nên vốn là một vận động thành viên, sau khi tố tennis huấn luyện viên.

Càn: Bính ất tân đinh

Thìn mùi mùi dậu

Này tạo tân kim nhật chủ, bính đinh hư thấu, quan sát hư dễ dàng thành danh người. Thìn thổ mộ mùi, mùi vốn là tài chi khố, nói rõ hắn thu vào rất cao. Thìn hợp lộc, lộc vi thân thể, hợp đến niên thượng có thể tỏ vẻ đủ, cho nên hắn là một bóng đá danh tinh, vì nước nhà đội dốc sức.

Càn: Nhâm bính ất mậu

Tử ngọ dậu dần

Này tạo vốn là Pháp quốc nổi tiếng bóng tinh tề đạt nội(zinedinezidane), chúng ta nhìn hắn vốn là như thế nào tố công đích. Mộc hỏa có xu thế, ý tại chế kim thủy, thời thượng kiếp tài khứ trường sinh thương quan, kiếp tài tỏ vẻ vốn là thể năng cạnh tranh, thương quan tỏ vẻ nghệ thuật, cho nên bóng đá vốn là rất cao đích thể năng cạnh tranh nghệ thuật, tại hắn mệnh trung biểu đạt đích hết sức rõ ràng. Nhàn chú: Ta xem mộc hỏa vượng rồi giữ thủy ấn tinh cấp chế rồi là thật, dậu kim có chế ý, nhưng chế bất hảo, làm tài xem! Niên thượng ấn vi thân thể cũng chủ cước, tỉ kiếp chế rồi năm ấn càng biểu cước rồi, cước có công, vốn là đá bóng đá đích rồi!

Khôn: Tân đinh canh nhâm

Dậu dậu tử ngọ

Này tạo vốn là một vị nữ tử võ thuật cả nước quán quân, chúng ta xem nàng có kim thủy đích xu thế, chế ngọ hỏa quan tinh, dương nhận thương quan tố công. Dương nhận chủ đao thương, thương quan chủ kỹ năng, quan chủ vinh dự, cục trung lưỡng dương nhận, cố võ thuật thiện khiến song kiếm,2000 năm tại võ thuật trận đấu trung đoạt quan, nhất cử thành danh. Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế khứ quan, nguyệt lệnh quan tinh hư thấu, chủ danh khí, quốc nội danh khí. Dương nhận vi đao thương, sinh tử thủy chế ngọ!

Càn: Ất đinh bính mậu

Hợi hợi thìn tuất

Này tạo quan sát đông đảo, nhập vu chủ vị thìn mộ, vốn có thể làm quan; đã thấy bát tự nhật chủ hỏa cùng táo thổ thành đảng, thìn tuất xung, cùng sát khố không cùng, nói rõ chính mình không thể làm quan. Chế quan sát bất lực, quan sát làm tài phú xem, dụng thực thần cùng kiếp tài tố công. Thực thần người dựa vào khẩu tài cùng đầu óc, kiếp tài thêm tỏ vẻ thể lực, hợp cùng một chỗ, quyết định ngoài nghề nghiệp. Hắn là [một người/cái] nổi tiếng bình thư diễn viên, sở dĩ nổi danh, nguyên nhân bính đinh hỏa thấu can chi cố.

Khôn: Canh kỷ tân quý

Tử mão dậu tị

Này tạo nhật chủ ngồi lộc, kim thủy lược có khí thế, chế mộc hỏa có công, hiệu suất rất cao. Lộc thần cùng thực thần tố công, xác nhận một nghệ nhân. Thực tế vốn là một diễn viên, diễn qua rất nhiều ảnh thị kịch, thâm chịu người xem yêu thích.

Khôn: Bính quý tân quý

Dần tị dậu tị

nhâm tân canh kỷ mậu

thìn mão dần sửu tử

Nước Mỹ nổi tiếng diễn viên, tình cảm danh tinh mã lệ liên• mộng lộ, chúng ta xem cùng tiền tạo có tương tự chỗ: Tân kim nhật chủ ngồi chi lộc thần, thiên can thấu thực thần quý thủy chế quan, tố công chi thần cũng là lộc cùng thực thần, chỉ là nguyên nhân bát tự mộc hỏa xu thế đại cùng kim thủy xu thế, thế cho nên kim bị hỏa khắc, hành canh dần vận, kim lâm tuyệt mà hỏa chịu sinh trợ giúp, chết vào bỏ mạng. Nhàn chú: Ngay cả thể đồ vật không thể bị chế

Khôn: Bính bính giáp bính

Ngọ thân thìn dần

Này tạo mộc hỏa có xu thế, lộc cùng thực thần tố công, thực thần chế sát, còn có nhất định chức vụ. Bính hỏa tố công, danh khí rất lớn. Vốn là một nổi tiếng ca thủ, mà tại trong quân có giác cao đích quân hàm. Vì sao vốn là ca thủ, nguyên nhân kim chủ thanh âm, hỏa khắc kim, thanh âm hảo.

Càn: Giáp giáp đinh nhâm

Ngọ tuất dậu dần

Nổi tiếng kinh kịch biểu diễn nghệ thuật gia Mai lan phương tạo. Mộc hỏa có xu thế, đinh hỏa vì danh khí, cho nên vốn là danh nhân. Lộc thần hội vượng chế kim, công rất lớn. Hỏa khắc kim, táo tử hảo, lại nhìn nhật thời tướng hợp, nhâm thủy vi màu, tại môn hộ thượng, môn hộ chủ mặt, đinh nhâm hợp, trên mặt đồ màu, cho nên vốn là xướng làm trò đích.

Càn: Đinh tân tân tân

Hợi hợi sửu mão

Này tạo vi nhật vốn nổi tiếng sao ca nhạc sâm tiến một. Tỉ kiên đông đảo, sinh trợ giúp thương quan, đinh hợi tự hợp, thương quan hợp sát tố công. Sát tinh hư thấu chủ danh khí, thương quan chủ nghệ thuật, cho nên vốn là một danh nhân. Hành đinh mùi, bính ngọ vận, quan sát đến vị, hỏa thêm khắc kim, cho nên lấy diễn xướng nổi danh.

Năm, công lương lấy tài

Chúng ta đích xã hội trung, công lương lấy tài đích người chiếm đại đa số, bọn họ có cố định đích công việc, thu vào ổn định, thu vào biến hóa nhỏ lại, cho nên dự trắc bọn họ đích tài vận, chỉ cần phân tích tài vận đích xu thế có thể rồi. Còn có chính là phân tích có thể hay không thất nghiệp, có không có tiền lương ngoại thu vào. Công lương lấy tài đích mệnh cục tố công loại hình đa số lấy thực thương tinh, ấn tinh, quan sát tinh, tài tinh tố công, nhưng ngoài hiệu suất phổ biến không tính cao. Nơi này thực thương tinh tỏ vẻ kỹ năng, ấn tinh tỏ vẻ đơn vị, quan sát tinh tỏ vẻ bị quản lý, tài tinh tỏ vẻ thu vào.

Khôn: Bính quý đinh mậu 

Ngọ tị hợi thân 

nhâm tân canh kỷ mậu đinh

thìn mão dần sửu tử hợi

Này tạo không một phương xu thế, kim thủy cùng hỏa thế tương đương. Lại nhìn có không có khác đích công: Nguyệt lệnh quý thủy sát tinh hư thấu, bị mậu thổ thương quan hợp chế, nơi này thương quan vi kỹ năng, sát tinh vi công việc hoặc chức vụ, tỏ vẻ nàng có kỹ thuật mà có công việc, vốn là một công lươngtộc. Mậu thổ lộc tại tị, tị vi kiếp tài tinh, tỏ vẻ nàng tại tố một loại có kỹ thuật đích thể lực lao động, thực tế người này vốn là y tá trường. Thân kim tài tinh vi tiền lương. Dần vận dần tị thân tam hình phá hư thân, nguyên đơn vị tiền lương rất thấp, từ chức. Kỷ sửu vận đổi lại [một người/cái] tân đơn vị, thu vào trung bình.

Nhàn chú: Kim thủy cùng hỏa thế tương đương, tị thân quý tị tự hợp, ngọ hợi ám hợp; mậu vi thương quan vi kỹ thuật, tại môn hộ vi vi cánh cửa mặt cầu tài! Mậu thân mang tượng, đều là tài. Tị= mậu cũng vi kiếp, tố nửa kỹ thuật nửa thể lực đích sống, vốn là y tá trường, hợp sát có điểm quyền! Tẩu dần vận, dần mặc tị, mà dần tị thân hình( Tam toàn bộ tài luận hình), hình phá hủy tị hỏa, mà quý tị tự hợp rồi, đổi lại tượng, quý vi công việc, đâu công tác! Dần vi ấn vi đơn vị, đơn vị phá sản rồi! Kỷ sửu vận chi kỷ vận, đã tới đinh đến đổi lại công việc đơn vị rồi! Nguyên cục thân hợi hại, hôn khẳng định bất hảo! Nhị hôn chi mệnh! Hợi vi đệ nhất phu, dần vận dần hợi hợp, ấn hợp rồi, làm kết hôn chứng, làm không được ly hôn chứng! Giáp thân năm bắt đầu cách,( Lão công hữu tình người, tị xung hợi) tị thân hợp dẫn động rồi tị hỏa, thân mặc hợi, tỉ kiếp xung phu cung! Bính thú năm làm ly hôn chứng( Lưu niên không có tài sinh hợi) đóng tài cánh cửa! Giáp thân năm nháo, bính thú năm cách, bởi vì thân dậu có tài sinh quan cách không được!

Càn: Nhâm đinh quý ất 

Tử mùi hợi mão 

mậu kỷ canh tân nhâm quý

thân dậu thú hợi tử sửu

Này tạo hợi mão mùi hợp thành thực thần cục, thủy mộc thành xu thế, chế cục trung mùi thổ vi công, nhưng loại này chế pháp hiệu suất giác thấp, chế quan chích tỏ vẻ có công việc, không nhắc tới kì làm quan. Thực thần tinh vi ngoài tiền lương thu vào, mà đinh hỏa tài tinh có thể tỏ vẻ tiền lương ngoại thu vào. Nhâm ngọ năm, đinh nhâm hợp, này năm được tiền lương ngoại thu vào hai vạn nguyên.

Khôn: Mậu quý quý nhâm 

Thân hợi mùi tý  

nhâm tân canh kỷ mậu đinh

 tuất dậu thân mùi ngọ tị

Này tạo có kim thủy xu thế chế sát tinh mùi thổ, hợi mùi củng thực thần, vốn là thực thần cùng sát tinh tố công, nhưng tố công chi hiệu suất không cao, cho nên vốn là một công lươngtộc. Thân vận hại hợi, bất lợi hợi mùi chi củng, cho nên công việc không thuận trái tim, thu vào cũng không cao. Đến kỷ mùi vận, hợi mùi củng đến vị, có tiểu chức, thu vào chuyển biến tốt đẹp.

Khôn: Bính tân bính canh

Ngọ mão tuất tử

Đây là sơ cấp lớp học nói đích tử phụ lệ, này tạo ngồi chi thực thần( Kỹ năng) hợp ấn( Đơn vị), biểu có đơn vị, ấn tinh thượng thấu tài tinh, bính tân hợp, biểu tiền lương( Nguyên nhân vốn là in lại chi tài).( Chú: Quan thống tài rồi) thực thần vi kỹ năng hoặc ý nghĩ, ấn vi đơn vị, tài đó là tiền lương, cho nên vốn là [một người/cái] công lươngtộc. Bản thân đích thu vào lấy tân kim xem, thu vào bình thường. Bát tự có hỏa thổ xu thế, chế thời thượng tử thủy có công, hành đinh hợi vận, đinh hợi tự hợp, hợi làm tài xem, đinh đến từ ngọ, tuất vốn là chính mình ngồi xuống, lão công phát tài, trăm vạn phú ông. Hợi thủy xuất hiện bị chế hóa, này hợi thủy sát tinh làm tài xem, này vận giàu to rồi đại tài. Đinh vốn là tòng phu cung đi ra đích, cho nên vốn là phu giàu to rồi đại tài. Đinh hợi vận chế rồi cố phát tài, này vận chủ yếu là tượng hảo, ngọ hợi ám hợp, hợi sinh mão. Nguyên cục canh tử mang tượng, tử làm tài xem, tài rất lớn, thủy cũng làm tài nhìn, cho nên hợi cũng là tài, mậu tử vận, tử ngọ xung, quan xung lộc không được tài, phải nghĩ biện pháp hợp trụ, như thế tài xung lộc, thì có thể được tài, nguyên nhân tài là tới lui tới mê hoặc, ra vào đích.

Khôn: Canh kỷ ất canh

Thân mão dậu thìn

Này tạo chủ vị chiếm tài quan, ất canh hợp, hợp quan mang tài, quan vi công việc, tài vi tiền lương, cố vốn là một công lươngtộc. Hoặc hỏi, bát tự có thổ kim xu thế chế mão mộc, vì sao không phải đại phú quý chi mệnh? Nguyên nhân mão mộc lộc thần ở chỗ này vốn là phụ nữ đích thân thể, dụng này tố công đương nhiên không thể đại phú, nhưng này tạo tiền lương ngoại còn có khác thu vào, giáp thân năm, mão thân hợp đến vị, [một người/cái] nam đích thích nàng, cho hắn hai mươi vạn nguyên mua phòng.

( Hôn nhân bất hảo, mão lộc thêm xung thêm hợp. Nhật chủ hợp quan, bị quản lý, có đang lúc nghề nghiệp, quan hạ ngồi tài, tránh tiền lương. Mão lộc ngồi tài, có phạm nam nhân lấy tài chi nghĩa, giáp thân năm một nam tử thích nàng, cấp nàng20 vạn nguyên mua một bộ phòng ở, cái này nam tử cùng nàng hảo sau lúc, đáng nam tử đích lão bà sẽ chết rồi, mão thân hợp, thân làm nam nhân, mão làm nam nhân đích lão bà, nguyên nhân mão dậu vọt, cố nam tử đích thê tử đã chết. Nàng bản thân vốn là trường học đồ thư quản lý thành viên.) nhàn chú: Lộc không ngay cả không sợ chế! Lộc hợp tài quan thực thương đều là đào hoa! Giáp thân năm cùng nguyệt kỷ mão thiên địa hợp, mão vi chính mình thân thể cũng vi đào hoa tiền thê, vốn là năm đem nọ vậy lão bà cũng khắc đã chết, thân thể cũng cấp chơi! Hợp thời thượng quan ngồi ấn khố vi trường học thư viện!

Khôn: Mậu nhâm mậu nhâm

Thân tuất ngọ tuất

Này tạo có hỏa cùng táo thổ xu thế, chế cục trung thân kim thực thần, đáng tiếc chỉ là khắc chế mà thôi, khắc chế hiệu suất không cao. Thực thần chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, ý tứ vốn là chính mình đích kỹ năng chăn đơn vị viện trọng dụng, cho nên vốn là một công lươngtộc. Bây giờ hành mậu ngọ vận, công việc thu vào ổn định. Thiên can hư thấu tài tinh vô công, không có tiền lương ngoại thu vào.

( Thực chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, hiệu suất rất thấp, chỉ có thể có đơn vị tránh tiền lương, mậu ngọ vận thu vào một bực như nhau, tuy có xu thế nhưng công quá nhỏ, lưỡng nhâm hư thấu vô dụng, chích biểu có thể nói hội nói.) ngồi phòng làm việc, xí nghiệp làm việc!

Khôn: Đinh nhâm canh nhâm 

Mùi dần tử ngọ 

quý giáp ất bính đinh mậu kỷ

mão thìn tị ngọ mùi thân dậu

Mới nhìn này tạo, vốn là hỏa không có xu thế chế cục trung thương thực, quan khứ thực thương. Vốn loại này chế đích năng lượng cùng hiệu suất cũng dường như cao, nhưng chúng ta phát hiện cái này tử thủy không phải bị hỏa thổ chế khứ đích, mà là bị dần mộc tiết rồi( Nhâm dần trụ tài mang thực thần tượng, cũng là tỏ vẻ thực thần sinh tài đích ý tứ), thành sinh dụng tố công, cho nên hiệu suất sẽ không tính cao rồi. Thực thương sinh tài, tài tinh nhập ấn mộ tại tân vị, vốn là thay người khác tố trí lực phục vụ đích, cho nên cũng là một công lươngtộc, chỉ là thu vào giác cao. Hành tị vận, hại ngã dần mộc, thu vào không cao, nguyên lai công việc đích đơn vị phá sản; hành bính ngọ vận, bị sính đến tư doanh xí nghiệp, thu vào rất cao.

( Kim thủy thương quan hỉ gặp quan. Quan chế rồi thương, hảo. Quan chủ đơn vị, thương chủ kỹ năng, đơn vị nhìn trúng ngươi đích kỹ năng, nhưng này tạo đích hiệu suất dường như cao, thu vào là tốt rồi. Ất tị vận, hại dần tài, đơn vị phá sản rồi, hại phản rồi. Bính ngọ vận bị sính đến tư xí tố đăng ký hội kế sư, tiền lương rất cao,4,5 ngàn nguyên. Thực sinh tài, tài nhập mộ, tố trướng đích.)

Càn: Nhâm canh nhâm đinh

Dần tuất ngọ mùi

tân nhâm quý giáp ất

hợi tử sửu dần mão

Này tạo hỏa thổ có xu thế, nhưng lại chỉ có xu thế mà không có công lớn, cho nên vốn là [một người/cái] bình thường bát tự. Cục trung mùi tuất hình, chế tuất trung tân kim ấn tinh có tiểu công. Tài tinh chế ấn, khắc ở nguyệt lệnh tỏ vẻ công việc đơn vị, canh ấn thấu can không có chế, nói rõ hắn đích công việc đơn vị không được tốt lắm. Hành quý sửu vận chi sửu vận, sửu mùi tuất tam hình phá hủy mùi tuất hình, ấn tinh không cách nào chế không thể làm công, cho nên đơn vị phá sản, chính mình hạ tốp. Đến giáp dần đại vận, hội khởi hỏa cục, chế ấn thành công, thêm bên ngoài vừa tìm được công việc, công lươngđộ nhật.

Khôn: Ất giáp đinh tân 

Mão thân hợi hợi       

đại vận: Ất bính đinh mậu kỷ

dậu tuất hợi tử sửu

Này tạo không có xu thế, ngồi chi quan tinh sinh ấn, ấn sinh thân, quan ấn có công, tỏ vẻ bản thân có công việc, quan đầu mang tài, vốn là công lươngtộc. Niên thượng chi ấn hợp quan, vốn là lúc ban đầu tại quốc có xí nghiệp công việc; nguyệt thượng chi ấn ngồi thân mặc quan tinh, tỏ vẻ cái này quốc có xí nghiệp đích công việc không thể lâu dài, nên đổi lại khác công việc, nhưng giáp ấn hư, thân thêm mặc chủ vị, nói rõ viện đổi lại đích công việc không yên định, không thể lâu dài. Trung niên vận hạn lại thấy quan tinh hợi thủy, nói rõ còn có thể tại [một người/cái] thu vào ổn định đích quốc có xí nghiệp công việc. Thực tế bính vận giáp tuất năm đến một nhà quốc có xí nghiệp, tuất vận, nguyên nhân tuất thổ hợp bán ấn, khắc phá hư quan tinh, quốc có xí nghiệp tiền lương quá ít, cho nên cách chức bên ngoài làm công, hàng năm đổi lại một lần công việc. Đến đinh hợi vận công việc ổn định, thu vào biến cao.

Khôn: Ất kỷ đinh canh  

Mão sửu sửu tuất  

Canh tân nhâm quý giáp ất

Dần mão thìn tị ngọ mùi

Này tạo niên can chi ấn tinh, tỏ vẻ công việc đơn vị, ất canh hợp, canh tài tỏ vẻ tiền lương. Canh kim hư thấu, tỏ vẻ đơn vị tiền lương không cao; ngồi chi thực thần sửu thổ vượng tướng, lâm phu cung mà vốn là tài khố, sửu lại bị hình khai, nói rõ trượng phu thu vào giác nhiều. Hành thìn vận hại ngã ấn tinh, nguyên nhân đơn vị tiền lương không cao mà từ chức, do lão công nuôi sống. Nàng bản thân xem ất mão, ấn chủ đơn vị, ấn xa, tài hư, hiệu suất thấp, kết hôn sau khi mão thìn một hại, không làm rồi, nguyên nhân tiền lương rất thấp mà từ chức.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bốn, thể lực lấy tài

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Cung mệnh có sao Tuần thì tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm. Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp, sinh bất phùng thời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Loại: Ám tinh

Đặc Tính: Sự trắc trở, dai dẳng, xoay trở bao giờ cũng chậm chạp.

Là một Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Tuần Trung Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Mệnh:

Tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm.

Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp.

Sinh bất phùng thời.

Nếu vô chính diệu có Tứ hay Tam Không thì làm nên danh phận nhưng không bền, tuổi niên thiếu vất vả.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mất sớm, nhất là nếu Nhật, Nguyệt lạc hãm hay bị Không Kiếp chiếu. Cần cân nhắc với hai sao Nhật, Nguyệt và cung Phụ mẫu có Tuần, Triệt.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Phúc Đức:

Phúc đức bị trục trặc trên phương diện nào đó.

Triệt, Dương: Dòng họ thất tự, phải lập con nuôi.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Quan Lộc:

Công danh lận đận, khó nhọc mới làm nên.

Phải chịu vất vả trong một thời gian.

Thiên Tướng, Triệt, Tuần: Có thể bị bãi chức, hay bị tai nạn trong công vụ.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Nô Bộc:

Tuần ở cung này có nghĩa tôi tớ thay đổi, ra vào luôn, không ai ở lâu dài.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Tật Ách:

Rất cần có sao Tuần, Triệt tại cung Tật Ách vì nhờ hai sao này mà bệnh, tật và họa sẽ tiêu tán hay giảm thiểu đi rất nhiều. Sức khỏe và may mắn sẽ được bảo đảm nhiều hơn.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Điền Trạch, Tài Bạch:

Sao Tuần ở hai cung Điền Trạch, Tài Bạch có thể có nhiều nghĩa:

Không có tài sản, hoặc chỉ có trong một giai đoạn nào đó.

Làm ra của nhưng phải chật vật.

Không được hưởng di sản tổ phụ.

Không có của để lại cho con.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Tử Tức:

Sát con, nhất là con đầu lòng.

Sinh con đầu lòng khó khăn, khó nuôi.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Phu Thê:

Sao Tuần ở cung này tiên quyết nói lên sự trắc trở hôn nhân, nhất là sự thất bại của mối tình đầu.

Lấy người khác làng, khác tỉnh mới tốt, nhưng nhân duyên phải gặp khó khăn.

Tuần gặp Mã: Vợ chồng bỏ nhau rất dễ dàng.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em xung khắc hoặc ít anh chị em.

Anh cả, chị cả mất sớm.

Sao Tuần Khi Vào Các Hạn

Nếu gặp sao sáng sủa thì hạn lại mờ ám, mưu sự trắc trở, thất bại.

Nếu gặp sao xấu xa thì hạn được sáng sủa, dù có gặp trắc trở ban đầu.

Đặc biệt cung Hạn gặp Tuần rất đáng lưu ý vì sao này có hiệu lực mạnh ở các đại, tiểu hạn.

Tóm lại, Sao Tuần là sao hết sức quan trọng, chi phối các cung, các sao, biến tốt thành tương đối xấu, biến xấu thành tương đối tốt, Hiệu lực nghịch đảo đó có thể làm lạc hướng luận đoán nếu sự cân nhắc không tinh vị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Tướng người không có con –

Dựa vào một số đặc điểm trong tướng mạo của người phụ nữ, khi chọn vợ cho mình, các quý ông có thể nhận ra tướng người phụ nữ khó có con. Tướng người phụ nữ hiếm con hoặc không có con thể hiện qua các đặc điểm khuôn mặt và thân hình như sau: - Tóc th
Tướng người không có con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người không có con –

Tử vi Nhâm Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

NHÂM DẦN: KIM BẠC KIM Tử vi Nhâm Dần là con hổ từng trải qua khó khăn, là người dũng cảm, tướng mạo uy nghi, can đảm mạnh mẽ, học rộng biết nhiều, có chí khí. Phàm những người thành tựu lừng lẫy đại đa số là ngưồi sinh năm Nhâm Dần. Kim bạc Kim mạ và

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHÂM DẦN: KIM BẠC KIM

Tử vi Nhâm Dần là con hổ từng trải qua khó khăn, là người dũng cảm, tướng mạo uy nghi, can đảm mạnh mẽ, học rộng biết nhiều, có chí khí. Phàm những người thành tựu lừng lẫy đại đa số là ngưồi sinh năm Nhâm Dần.

Kim bạc Kim mạ vàng mâm chén, tăng độ sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác. Kim này .rất nhỏ, nếu không có Mộc tất không có chỗ nương tựa. Mộc lấy Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc làm thượng cát, có chúng không nên gặp Hỏa, gặp Hỏa cỉm về yểu thọ.

Giáp Tuất, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa; Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa có Thủy trợ giúp cũng cát lợi. Duy kỵ Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa, chủ về mệnh yểu vong.

anh-dai-dien107-490x294

Nhật trụ, thời trụ gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, mệnh nữ chủ về xinh đẹp, mệnh nam chủ về anh tuấn, hơn nữa sự nghiệp có thành tựu. Nhưng nguyệt trụ có Mộc mớí luận. Các trụ khác gặp Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy, chủ về phiêu dạt. Gặp Nhâm Thìn, Quý Hợi Đại hải Thủy mà không có Mộc làm nền tảng chủ hung tai.

Kim gặp Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim; Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim có thể trang sức, trợ giúp tạo ra sự thay đổi.

Các Kim khác có Hỏa bổ cứu cũng cát lợi, không có Hỏa chủ về điềm hung.

Các trụ khác có Mậu Dần, Kỷ Mão Thành dầu Thổ, chủ về ăn nhờ ở đậu; gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ còn có thể an thân.

Nếu như các trụ khác có Mộc, có thể phú quý; lại có Phúc đăng Hỏa càng thêm hiển hách, gọi là Côn sơn phiến ngọc cách.

Nhâm lộc tại Hợi, các Địa chi của trụ khác ưa Hợi.

Nhâm quý tại Mão, các Địa chi của trụ khác ưa Mão.

Các Địa chi của trụ khác có Thân, phạm hình phạm xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi đất khách.

Các Địa chi của trụ khác có Tỵ, đề phòng trúng gió, bệnh tiểu đưòng.

Mệnh này trời sinh nên học triết học, mệnh lý, thuật sô”, giáo viên, nghệ thuật, có tài ăn nói, thông minh, tướng mạo thanh tú.

Tốt nhất không nên làm công việc liên quan đến tài chính như kế toán, nhân viên tài vụ…

Nên sớm xa quê hương, đi nơi khác sẽ càng có cơ hội phát triển, tương lai sẽ có 1 ngày áo gấm vinh quy.

Nguyệt can có Giáp, hoặc các can khác có Giáp, chủ về giàu có.

Nguyệt can có Quý, chức quan nhỏ, tiền ít, mệnh nữ lấy chồng nghèo khó. Nguyệt chi hoặc nhật chi tàng Kiếp tài, luận tương tự.

Gặp năm Dần, năm Thân, trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân không bị thương hại thì ngưòi nhà cũng khó tránh điềm hung.

Tử vi Nhâm Dần bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.

Nhâm Dần Không vong ỏ Thìn, Tỵ, các Địa chi của trụ khác không ưa gặp Thìn, Tỵ.

Người sinh năm Dần, Hợi là Kiếp sát. Nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, con cháu nghèo khổ, không thể đứng tên để mua bất động sản.

Các Địa chi của trụ khác có Tuất, nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, nên hiến thân cho tôn giáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Ảnh hưởng của tranh đến tình cảm con người –

Những bức tranh màu sắc quá đậm hoặc màu đen thì không nên mua. Những loại tranh này khi nhìn sẽ khiến cho người ta có cảm giác trầm mặc, hơn nữa còn khiến người ta tiêu giảm ý chí, bi quan và không còn tinh thần làm việc. Hay những loại tranh vẽ hìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những bức tranh màu sắc quá đậm hoặc màu đen thì không nên mua. Những loại tranh này khi nhìn sẽ khiến cho người ta có cảm giác trầm mặc, hơn nữa còn khiến người ta tiêu giảm ý chí, bi quan và không còn tinh thần làm việc.

Hay những loại tranh vẽ hình ảnh mặt trời lặn cũng không nên treo, vì những loại hình vẽ đó sẽ khiến cho người ta giảm đi khả năng làm mọi việc.

tranh-bu-treo-tng

Những loại tranh ảnh hưởng đến sức khỏe con người

Những bức tranh vẽ những loại thú dữ hung ác cùng không nên treo, nếu không sẽ làm giảm thiểu sức khỏe của mọi người trong nhà.

Cuối cùng là không được treo những hức tranh có quá nhiều màu đỏ, bời vì nó sẽ khiến người ta dễ bị tổn thương và tăng thêm bạo khí trong người.

Những loại trang sức ảnh hưởng đến vận khí

Không nên treo những bức tranh trừu tượng vượt quá hai bức trong nhà, bới lẽ những loại tranh này khiến người ta khi làm việc dễ truy cầu hư vinh, không phủ hợp với thực tế.

Không nên treo những loại tranh về thác nước, bời lẽ những loại tranh này khiến cho vận khí của chủ nhà bị phản trở lại.

Hòn đá

Nếu bạn ở nơi không có núi bên ngoài, thì có thể tự đặt tại nơi mình ở những hòn đá tượng trưng cho “núi”. Nếu muôn có vượng canh “núi sau lưng”, cách đơn giản nhất là có thế đặt một hòn đá hoặc dựng giả sơn ở đằng sau ngôi nhà bạn. Hiện nay đang thuộc vận 8, đưa hòn đá hoặc núi gia đó đặt ở vượng đinh ở mặt phía Đông Bắc. Mà đá cũng có tác dụng ngản chận thất thoát tiền tài, hạ nguyên bát vận, mặt phía Đông Bắc nhìn ra biển, sông, hố là tượng trưng cho phá sản, có thế ở vị trí tương đương đặt tám hòn đá màu trắng để ngăn nước thất thoát tiền tài đi.

Nước

Người xưa thường nói: “Sơn quản nhân dinh thủy quản tài”, nếu như nơi ở của bạn phía ngoài không nhìn ra cảnh nước, lại muốn tăng tài thì đặt một cốc nước lã cũng được, nhưng kỵ nhất dùng nước đẵ được trưng cất. Phương pháp tốt nhất đó là đặt một cốc nước lã ở bên cạnh cửa chính, khi mở cửa chính những lưu khí được sinh ra dẫn thủy khí (tài khí) vào trong nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ảnh hưởng của tranh đến tình cảm con người –

Nằm lòng những nguyên tắc treo tranh phong thủy văn phòng

Treo tranh phong thủy văn phòng hợp lí sẽ mang lại nguồn vượng khí hưng thịnh và tài lộc dồi dào cho tất cả mọi người.
Nằm lòng những nguyên tắc treo tranh phong thủy văn phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Treo tranh phong thủy văn phòng hợp lí sẽ mang lại nguồn vượng khí hưng thịnh và tài lộc dồi dào cho tất cả mọi người.

 
1. Màu sắc tranh không được quá đậm hoặc đen

 
Khi chọn mua tranh treo ở phòng làm việc, bạn nên chọn loại có màu sắc tươi sáng, không quá đậm hoặc đen. Theo quan điểm phong thủy văn phòng, những loại tranh có màu sắc quá đậm sẽ mang lại cảm giác trầm mặc, bí bách, dễ tạo tâm lí ức chế, ý chí bị hao mòn, tinh thần bi quan, làm việc gì cũng cảm thấy trúc trắc, trở ngại.   Bên cạnh đó, tuy màu đỏ biểu trưng cho sự may mắn, thịnh vượng, nhưng nếu treo tranh có quá nhiều sắc đỏ rực rỡ sẽ không tốt cho toàn bộ văn phòng. Nhân viên hoặc lãnh đạo đều không tránh được họa ngoại thương (sát thương ngoài da). Hơn thế, tính khí nhân viên bất ổn và trở nên thô bạo hơn, toàn công ty rơi vào tình trạng lục đục nội bộ.   2. Không được treo tranh mặt trời lặn hoặc cảnh vật tiêu điều

treo tranh phong thuy van phong hinh anh
Ảnh minh họa

Những bức tranh có cảnh mặt trời lặn hoặc cảnh vật tiêu điều, hoang vắng mang lại cảm giác ưu phiền, giảm bớt tinh thần và khí thế làm việc. Theo quan điểm treo tranh phong thủy, các bức tranh này u ám, không có sinh khí, ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ làm việc của mọi nhân viên trong văn phòng, từ đó làm giảm hiệu quả công việc.
  3. Kị treo tranh mãnh thú
 
Những bức tranh có vẽ các loại động vật ăn thịt hung bạo, dữ tợn sẽ mang lại hoàng loạt những điều xui xẻo như sức khỏe giảm sút, công ty bị họa kiện tụng…Tất cả những điều đó đều cản trở bước đường phát triển và thành công của doanh nghiệp hoặc cơ quan đoàn thể.   4. Treo tranh theo từng vị chí, chức vụ công việc
 
Nếu là phòng của lãnh đạo cấp cao, nên treo tranh phong thủy Phú quý mãn đường với hình ảnh hoa mẫu đơn và chim công quấn quít bên nhau ở phía Đông. Từ xa xưa, hoa mẫu đơn tượng trưng cho sự phú quý và sự nghiệp phát triển như vũ bão. Chim công cũng mang ý nghĩa về sự giàu sang, danh tiếng.    Nếu là phòng của Bộ phận bán hàng, có thể treo các bức tranh sơn thủy hữu tình ở phía chính Tây. Những bức tranh này tượng trưng cho thành tích đạt được không ngừng tăng vọt, mang lại nguồn tài chính vững chắc cho công ty.   Bộ phần Truyền thông của công ty sẽ rất thích hợp treo tranh Thanh Long đằng phi với đầu rồng quay vào phía trong. Việc làm này nhằm mục đích thu hút quý nhân phù trợ cho mọi hoạt động của công ty cũng như làm tăng nguồn thu nhập lớn.   Ngoài ra, phòng Tài vụ và phòng Thiết kế có thể treo các loại tranh như Kim nguyên bảo, Nhất phàm phong thuận…để tăng khí thế và tinh thần làm việc, đồng thời mong muốn mọi việc đều thuận lợi, phát đạt, thu về nguồn vốn dồi dào.   An Khánh (Theo ZY)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm lòng những nguyên tắc treo tranh phong thủy văn phòng

Phong thủy quán cafe –

Phong thủy được ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều không gian khác nhau, trong đó có không gian tại các quán cafe. Để công việc kinh doanh luôn đắt khách, bạn hãy tham khảo và áp dụng những kinh nghiệm phong thủy dưới đây để kinh doanh cafe nhé!  

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy được ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều không gian khác nhau, trong đó có không gian tại các quán cafe. Để công việc kinh doanh luôn đắt khách, bạn hãy tham khảo và áp dụng những kinh nghiệm phong thủy dưới đây để kinh doanh cafe nhé!

phong-thuy-quan-cafe1

 

Điều quan trọng đầu tiên đối với quán cafe là ở việc lựa chọn địa điểm. Người kinh doanh cần tìm hiểu rõ xem địa điểm quán cafe có phù hợp cho mình kinh doanh hay không. Tiếp đó, phải lưu ý về tầm nhìn để tránh các xung xạ để tạo cát khí thu hút khách hàng bởi hầu hết địa điểm quán cafe đều là mặt đường.

Những vị trí tối kỵ đối với quán cafe là: có các tòa nhà quá lớn ở bên cạnh, cửa hàng bị đường đâm vào nhà, con đường bên tay phải hay đường rẽ cua có góc cong lượn vào nhà hàng, hay mặt tiền quán cafe có những hệ thống thiết bị dưới mặt đất, có những cột điện…

Thế “tọa sơn nghênh thủy” được hiểu là có đường trước mặt và có điểm tựa ở phía sau thường được nhiều người lựa chọn. Điểm tựa ở đây có thể là nhà cao ở phía sau hoặc có hòn non bộ tự tạo. Đây được coi là thế đẹp trong phong thủy cho quán cafe.

uong-cafe-khong-tra-tien.0JPG

Một số lỗi về phong thủy quán cafe thường gặp như: quầy thu ngân có đường đi đâm vào két, để két nhìn ra cửa; hệ thống cửa để thông nhau liên tục; sử dụng gương không hợp lý, đối diện cửa chính, phản sáng; không gian quán cafe không tạo được sự ấm cúng; quán cafe không có phong cách riêng; lỗi về hệ thống cửa (cửa mở rộng về phía sau); ban thờ thần tài để ở góc khuất, đặt lên bể nước, bể phốt mà không biết.

Bàn thờ thần tài được coi là chuẩn phong thủy khi không để ở gầm xà, chân cầu thang, nơi là dòng hút khí ở đường đi, trên bể phốt, bể ngầm. Nên đặt ban thờ thần tài ở vị trí thu hút được nhiều khí nhất, dễ nhìn thấy nhất. Bài trí bàn thờ thần tài nên có thần Di Lặc ở phía trên và 2 thần tài (thần thổ địa, thần phúc lộc) ở phía dưới. Như vậy sẽ là “thần quản thần”, nguồn lợi quán cafe sẽ luôn mang tính thiện.

Phía ngoài cùng của thần tài nên đặt 3 đến 5 chén nước gọi là thế “minh đường tụ thủy”. Nếu để bàn thờ lên tầng 2 thì phải lấy một ít đất ở dưới tầng 1, cho vào 1 gói nhỏ, cho vào ghế để 2 tượng thần tài và thổ địa ngồi lên đó.

uong-cafe-khong-tra-tien.1jpg

Phong thủy quán cafe tốt là biết cách bố trí kích hoạt được dương khí tốt đó là sử dụng các gam màu rực rỡ, tươi sáng, không mang tính âm. Ánh sáng cũng cần đặc biệt chú ý, đó là phải sử dụng cả khoảng sáng và khoảng tối nhưng phía mặt tiền luôn phải là ánh sáng rực rỡ, chào mời, tạo điểm nhấn. Nên xen thêm các tiểu cảnh như cây cối, dòng nước chảy… sẽ tạo cảm giác thư thái cho khách hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy quán cafe –

Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Dậu

Năm Dậu là các năm: 1933, 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005...
Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

-
- Dậu là con giáp thứ 10 trong vòng tử vi.
- Dậu thuộc hành Kim.
- Giờ Dậu vào khoảng 17 - 19h.
- Người sinh trong khoảng giờ này được xem là sinh vào giờ Dậu.
- Hướng của la bàn của Dậu là ở giữa 247,5 độ và 277,5 độ.
- Dậu nằm ở hướng Tây.
- Khu vực thuộc Dậu chiếm 1 góc 30 độ, được xem là rất may mắn cho người tuổi Dậu.

Gà phong thủy

Một số năm Dậu được liệt kê ở trên. Nếu bạn sinh tháng 1, bạn có thể không phải tuổi Dậu, mà là tuổi Thân. Để chắc chắn, bạn hãy kiểm tra năm sinh theo âm lịch.

Để cung cấp năng lượng cho vận may chủ về tình yêu và các mối quan hệ, có nhiều biểu tượng mà người tuổi Dậu có thể áp dụng như:

- Đặt hình ảnh con gà ở khu vực Dậu trong nhà. Để tăng cường năng lượng cho khu vực này, hãy trưng bày biểu tượng con gà làm bằng đất sét hay gốm sứ.

- Bên cạnh đó, bạn cũng có thể kích hoạt khu vực này với các vật thể thuộc hành Kim, vì Kim là hành tố cơ bản của Dậu. Vì vậy, chuông và chuông gió bằng kim loại rất thích hợp để treo ở đây. Tuy nhiên, điều này sẽ mang lại vận rủi nếu như khu vực hướng Tây bị ảnh hưởng xấu do có toilet hoặc nhà bếp ở đó.

- Tuổi Dậu còn có 2 khu vực khác rất tốt là khu vực Tỵ và Sửu. Hướng của Tỵ là Nam Đông Nam và hướng của Sửu là Bắc Đông Bắc.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Dậu

Những con giáp gặp 'kiếp giàu sang' trong tháng 3

Thu nhập chính và thu nhập phụ đều tăng, ra đường lại có quý nhân phù trợ. Có những con giáp trong tháng này luôn luôn được 'tiền đè chết người'.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa thường nói: “Tiền bạc là vật ngoài thân. Con người sinh ra không mang theo đến, khi mất cũng không mang đi được”. Và người ta cũng thường hay nói : “Có tiền mua tiên cũng được”. Có tiền hay không có tiền là một bức tranh muôn màu muôn vẻ,. Có người thì cố gắng tiết kiệm, tích cóp, người thì trở thành “phá gia chi tử”, nhưng sức mạnh của nó trong xã hội hiện tại thì là điều ta không thể phủ nhận. Vậy trong tháng 3 này, con giáp nào sẽ cực kỳ dồi dào tiền của đây?

Hạng ba: Tuổi Ngọ

Tháng 3 là tháng mà cả thu nhập chính và thu nhập phụ của tuổi Ngọ đều rất tốt. Họ là người dám cống hiến hết mình, bất kỳ ai cũng nhìn thấy được sự nỗ lực không ngừng nghỉ của họ. Tháng 3 này, tài vận của tuổi Ngọ thực sự đi đến đỉnh điểm. Ngày tháng đủ đầy càng ngày càng nhiều và cuộc sống cũng ngày càng hạnh phúc hơn.

 nhung con giap gap 'kiep giau sang' trong thang 3 - 1

Hạng nhì: Tuổi Tý

Tháng 3 là tháng tuổi Tý gặp được quý nhân, tổng thể tài vận tốt. Họ dám đương đầu với những khó khăn, thách thức trong công việc. Không có gì là tuổi Tý không thể làm được, chỉ có những điều không thể tượng tượng được mà thôi. Những ngày tháng huy hoàng đang trải dài ra trước mắt, và cuộc sống của người tuổi Tý cũng không thoát khỏi được “kiếp giàu sang”.

 nhung con giap gap 'kiep giau sang' trong thang 3 - 2

Hạng nhất: Tuổi Hợi

Tuổi Hợi sinh ra vốn làm việc gì cũng không khoa trương thanh thế. Họ cũng không tự cao, tự đại, có khó khăn đều dũng cảm vượt qua. Tương lai thì tuổi Hợi là người có phúc lớn, dĩ nhiên tài vận cũng không thể tuột khỏi tay họ. Chỉ cần tuổi Hợi nỗ lực thì ắt thành công. Tài vận trong tháng 3 được ví như “diều gặp gió”. Tuổi Hợi hãy đợi để thu tiền về nhé!

 nhung con giap gap 'kiep giau sang' trong thang 3 - 3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp gặp 'kiếp giàu sang' trong tháng 3

5 chòm sao nam hiền lành dễ cải tạo

Những chòm sao nam hiền lành dưới đây rất dễ “cải tạo”, khi yêu tuyệt đối nghe lời bạn gái. Đáng yêu ghê!
5 chòm sao nam hiền lành dễ cải tạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


hien
 
Kim Ngưu
 
Chòm sao nam hiền lành và thường nhường nhịn người yêu tất nhiên là có Kim Ngưu rồi, hễ có điều gì trong khả năng mà người thương muốn thì chàng đều cố gắng đáp ứng. Kim Ngưu nghĩ rất đơn giản rằng, tình yêu là chia sẻ và thấu hiểu, không cần giữ cái “tôi” quá lớn mà quan trọng là hạnh phúc bên nhau. Điều gì cần thay đổi chàng ấy đều thay đổi.
 
Cự Giải
 
Chòm sao nam hiền lành Cự Giải nuông chiều bạn gái nên chỉ cần nghe đôi lời mè nheo là ngoan ngoãn “đầu hàng” ngay. Chàng ấy muốn làm đối phương vui lòng nên nếu không phải là điều gì quá to tát đều dễ dàng chấp nhận, thay đổi một chút bản thân để cả hai cùng vui vẻ.
 
Thiên Bình
 
Thiên Bình là chàng trai thiếu quyết đoán, dễ do dự nên chỉ cần người yêu đưa ra lý lẽ chính đáng là chàng ấy sẽ nghe theo. Trong mọi việc, Thiên Bình đều tham khảo ý kiến đối phương và bạn gái có thể khéo léo hướng chàng ấy theo ý muốn của mình, tất nhiên là trong chừng mực nhất định.
 
Song Ngư
 
Chòm sao nam hiền lành và tâm lý như Song Ngư đương nhiên cảm thấy nghe theo bạn gái không phải chuyện gì xấu. Yêu nhau là khiến cho nhau hạnh phúc. Nếu chỉ chút thay đổi nhỏ mà người thương vui vẻ thì tội gì không làm. Hơn nữa, ý chí của chàng Song Ngư cũng không thật mạnh mẽ, nên ít có quan điểm riêng.  
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất

Top 3 chòm sao nam nóng tính ghét bị xen vào công việc Phản ứng của 12 sao nam khi nhận được lời tỏ tình từ người mình không yêu? Top 3 chòm sao nam không ai yêu dù rất đẹp trai
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 chòm sao nam hiền lành dễ cải tạo

Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Tài lộc bất ngờ ai chẳng muốn có, nhưng bạn đã biết hết các dấu hiệu khi mà vận trình vượng phát, tài lộc sắp đến với mình hay chưa?
Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy cùng tìm hiểu để biết được những dấu hiệu đó là gì và đừng để vận may bị xua tan mất nhé.   Trước khi đón tài lộc bất ngờ từ trên trời rơi xuống hay vận may sắp đến, chắc chắn các bạn sẽ thấy mình gặp phải một vài hiện tượng kì lạ. Có thể bạn không biết hoặc không chú ý đến, nhưng đó chính là những dấu hiệu cho thấy tài lộc sắp đến nhà.


3 diem bao tai loc bat ngo sap den
 
  Vậy những dấu hiệu đó là gì? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn 3 dấu hiệu cho thấy bạn sắp có tin vui về tài lộc bất ngờ đến nhé.  

1. Có chó lạ, chó hoang chạy vào nhà

  Dân gian quan niệm rằng “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”, nếu bỗng dưng có chú chó lạ không biết từ đâu tới chạy vào nhà bạn thì xin chúc mừng, bạn sắp đón Thần Tài đến nhà rồi đó.

tai loc bat ngo khi cho chay vao nha
 
  Chó chạy vào nhà là dấu hiệu cho thấy vận trình sắp tới của chủ nhà vô cùng vượng phát, tài lộc dồi dào, không lâu nữa sẽ bất ngờ có khoản thu lớn hoặc con đường sự nghiệp hanh thông rộng mở.    Chó là biểu tượng vượng tài, đặc biệt nếu chó chạy lạc vào nhà bạn mà nhất định không chịu rời đi thì càng thể hiện điềm báo may mắn về tài lộc. Song bạn hãy nhớ kĩ điều này, khi chú chó lạc vào nhà mình, đừng bao giờ đuổi chúng đi hay dã man hơn là bắt để giết thịt, đó là điềm đại hung. Khi ấy, bạn tốt nhất đừng nên làm tổn thương đến chú chó mà hãy đối xử với nó thật tốt như đang đón Thần Tài đến nhà mình nhé.  

2. Chim vào nhà làm tổ


chim vao nha lam to
 
“Đất lành chim đậu”, nhà có chim làm tổ là dấu hiệu tốt lành, nếu là chim én thì càng đại cát đại lợi. Nhà có phúc lành thì mới giữ được chân những chú chim, khiến chúng muốn ở lại sinh sống lâu dài. Chim vào nhà bạn làm tổ chứng tỏ vận khí của bạn đang cực kì vượng, sắp tới chắc chắn sẽ có một khoản thu cực kì lớn.   Nếu những chú chim không chỉ đơn giản vào nhà bạn làm tổ mà còn sinh ra một bầy chim non thì chắc chắn chủ nhà sẽ đón những điều vô cùng tốt lành trong thời gian sắp tới. Đó có thể là vận trình tài lộc bất ngờ, may mắn cực kì về tiền bạc trong làm ăn, kinh doanh, cũng có thể báo hiệu chủ nhà sắp đón tin vui, có thêm quý tử, nhà có thêm người.

Bạn đã biết 6 loài động vật gặp là rước hên vào người chưa?
 

3. Bỗng nhiên rất có duyên với trẻ nhỏ

  Bạn vốn không phải là người được các bé yêu thích, không mấy khi có duyên với trẻ nhỏ. Nhưng bỗng nhiên một hôm bạn phát hiện ra dạo này các bé tự dưng rất thích quấn lấy mình chơi đùa, cười nói vui vẻ hay bạn đang đi đường thì nhìn ra xung quanh thấy rất nhiều rất nhiều em bé, dường như bạn đi đến đâu cũng gặp các thiên thần nhỏ vậy. Nếu quả thực có hiện tượng đó xảy ra thì quả là điều tốt lành, bởi nó là điềm báo vận trình sắp tới của bạn đang tăng tiến vượt bậc, tài lộc ùn ùn kéo tới không gì có thể ngăn cản được.

co duyen voi em be la diem bao tai loc den
 
  Trẻ em là những thiên thần có tâm hồn vô cùng thuần khiết, chúng như những trang giấy trắng, chưa hề biết đến thiện ác tốt xấu trên đời, chỉ làm theo cảm xúc của mình mà thôi. Nếu các bé thích chơi đùa với bạn, thích đến bên bạn thì chắc chắn bạn đang có vận may vô cùng lớn, vận trình vượng phát tới không ngờ.    Ngoài ra, việc chơi đùa với các bé cũng có thể giúp cho bạn thoải mái hơn về tinh thần, lấy lại sức lực cho mình sau những giờ phút căng thẳng cạnh tranh ngoài xã hội. Hãy trân trọng từng cơ hội được ở bên các bé, yêu thương các bé thật nhiều, nó không chỉ tốt cho tâm trạng của bạn mà còn thúc đẩy vận trình của bạn càng thêm thịnh vượng hơn nữa đó.
Thiên Thiên

Biết vận tài lộc tốt xấu qua hình dáng bàn chân Nhà kém phú quý vì phạm 5 lỗi phong thủy nhà bếp nghiêm trọng Tiền về như nước khi đặt bảo vật phong thủy ở đây Ánh sáng trong phong thủy: Sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn sắp đón tài lộc bất ngờ khi gặp 3 dấu hiệu này

Mơ thấy chồng bệnh nặng: Đời sống hôn nhân không hạnh phúc –

Trong mơ, anh chồng mắc bệnh nặng nằm liệt giường, nhưng chị vợ vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Khi kể lại giấc mơ của mình, chị vợ còn ngạc nhiên không thể hiểu được con người mình trong mơ. Giấc mơ này thực chất là biểu hiện của đời s
Mơ thấy chồng bệnh nặng: Đời sống hôn nhân không hạnh phúc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chồng bệnh nặng: Đời sống hôn nhân không hạnh phúc –

Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Ngọ theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Nhâm Ngọ là ngựa chinh chiến, cá tính cương cường nóng nảy, tâm tính lương thiện, có phong thái của bậc quân tử.
Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Ngọ theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Nham Ngo theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ở trong vườn, lá liễu mảnh mai, cành liễu buông rủ. Mộc nhu hòa, cành nhỏ mềm. Mộc có thể sinh Hỏa, nhưng Hỏa nhiều là tượng thiêu rụi. 
 
Trong tử vi Nhâm Ngọ Mộc tự tử, hồn bay mà thần khí linh tú. Người bẩm thụ được nó có đức sáng vượt trội, là người nhân nghĩa, dũng mãnh, lập được công trạng, chủ về trường thọ.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Nhâm Ngọ ưa Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ. Không ưa Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ. Nếu như có Đinh Hợi Ốc thượng Thổ, Đinh Nhâm hợp hóa là tượng cát lợi.
 
Thủy gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy; Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, Đinh Sửu Giản hạ Thủy đều cát lợi, sẽ có thành tựu.
 
Mộc này tự có Hỏa, không nên gặp Hỏa khác, phạm phải chủ về thương hại đến tuổi thọ. Ngũ trụ không ưa gặp Bính Ngọ, Đinh Mùi, chủ về đại hung, e khó tránh họa hỏa hoạn.
 
Nhưng gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa chủ cát lợi, vì Đinh lộc tại Ngọ, Nhâm quý tại Mão. Nếu như gặp Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, lại có Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ làm nền tảng, chủ về sang quý.
 
Gặp Kim không tốt, duy Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim trợ giúp có thể thành công. Sinh vào 3 tháng mùa xuân, thời trụ đắc Kim, ví dụ như Tân Hợi Thoa xuyến Kim, Ất Sửu Hải trung Kim, Quý Mão Kim bạc Kim, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, chủ cát lợi, gọi là Dương liễu đà Kim cách.
 
Ưa gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, chủ phú quý, trước nghèo sau giàu, hơn nữa chủ về sang quý, có thành tựu, mệnh tốt. Cũng ưa Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, làm chỗ dựa thành rừng, chủ cát lợi. Không ưa có Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, chủ nghèo hèn, phú quý không được dài lâu.  Nếu như gặp Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc thì sinh vào mùa xuân và mùa hạ là quý cách, không luận là nghèo hèn, gọi là Hoa hồng liễu lục cách.
 
Nhâm Ngọ không vong tại Thân, Dậu, Địa chi của các trụ khác không ưa gặp Thân, Dậu. Nếu như nhật trụ gặp Thân, Dậu, chủ về bạn đời mất trước. Thai trụ gặp Thân, Dậu, là người ngu muội, cả đời phiêu dạt, cuối cùng tay trắng vẫn hoàn trắng tay.
 
Nhâm quý tại Mão, Địa chi của các trụ khác gặp Mão, chủ cát lợi.
 
Nhâm lộc tại Hợi, cát lợi nhưng trong cát ẩn tàng hung họa. Vì người sinh năm Ngọ có Hợi phạm Kiếp sát. Nếu như tọa nhật trụ, bạn đời mất trước. Nếu như tọa thời trụ, không được con cái hiếu thuận phụng dưỡng, chủ về con cháu nghèo khổ, ngu dốt.
 
Ngọ mã tại Thân, khi đi máy bay nên mua bảo hiểm du lịch.
 
Nếu như gặp 2 Hợi, cả đời nghèo khổ, là người cố chấp bảo thủ, làm việc không đến nơi đến chốn.
 
Địa chi của các trụ khác có Ngọ, là người cố chấp bảo thủ, tầm nhìn nông cạn,  vợ chồng duyên bạc.
 
Địa chi của các trụ khác có Dần, mã bị hình bị xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi  đất khách.
 
Nhật chi có Tuất, chủ về khắc chết 2 hoặc trên 2 bạn đời. Nhật chi có Tuất, nên theo tôn giáo.
 
Nhật chi có Thìn, chủ về phá tướng.
 
Người tuổi Nhâm Ngọ gặp năm Ngọ, năm Tý, phạm Phục ngâm, Phản ngâm, trong nhà không yên. Nếu không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.
 
Người sinh năm Nhâm Ngọ chọn bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.

Theo Tử vi toàn tập
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Ngọ theo Lục Thập Hoa Giáp

Cửa hàng không đuợc truớc cao sau thấp –

Thế đất trước cửa hàng cao mà đằng sau thấp, hoặc là kiến trúc trước mặt cửa hàng xây cao còn đằng sau xây thấp, phong thủy gọi là trước cao sau thấp hoặc là "Thoái long cách". Lựa chọn cửa hàng như trên sẽ bất lợi trong kinh doanh, tài vận dần dần t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thế đất trước cửa hàng cao mà đằng sau thấp, hoặc là kiến trúc trước mặt cửa hàng xây cao còn đằng sau xây thấp, phong thủy gọi là trước cao sau thấp hoặc là “Thoái long cách”.

cua-hang

Lựa chọn cửa hàng như trên sẽ bất lợi trong kinh doanh, tài vận dần dần tiêu tan. Nếu như kinh doanh ở cửa hàng này, có thể dùng 36 đồng tiến cổ treo ờ giữa hoặc sau cửa hàng để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa hàng không đuợc truớc cao sau thấp –

Ba hồn bảy vía là gì?

Có khi chúng ta nghe cụm từ ba hồn bảy vía có khi là ba hồn chín vía, vậy điều này khác nhau như thế nào và từ đâu có khái niệm này, tất cả sẽ được hé mở.
Ba hồn bảy vía là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có khi chúng ta nghe cụm từ ba hồn bảy vía có khi là ba hồn chín vía, vậy điều này khác nhau như thế nào và từ đâu có khái niệm này, tất cả sẽ được hé mở trong bài viết sau.
Nhiều người cho rằng chết là hết, thế nhưng hoàn toàn không phải. Khi bạn mất đi, linh hồn của bạn vẫn tồn tại ở một tầng không gian khác. Theo các chuyên gia về tâm linh, cơ thể con người được chia ra làm thể hồn, thể vía và thể xác. Còn trong dân gian, ta thường hay nói “ba hồn bảy vía”.

Phật giáo quan niệm rằng, sau khi chết, người ta đích thực chỉ mất đi phần xác thịt tức là “thể phách”, còn linh hồn, phần “tinh anh” thì mãi trường tồn, lại đi qua kiếp luân hồi để tái tạo sự sống ở kiếp sau. Đi sang kiếp sau, linh hồn ấy vẫn mang đầy đủ nợ nghiệp và phúc báo ở kiếp trước.

Bởi vậy, nếu muốn có được phúc báo thì phải biết gây thiện, tránh ác, tu sửa tâm tính, sống thanh bạch, trung thực ở ngay trong đời này.

Vậy ba hồn bảy vía là gì? Theo quan niệm có nguồn gốc từ Đạo giáo nói ba hồn bảy vía vì họ cho rằng con người sống được là nhờ “tam hồn thất phách” này điều chỉnh mọi hoạt động và tư duy.

Theo kinh sách của Lão Tử, hồn là cái linh, thuộc vào phần khí của con người, phách (vía) là cái linh, phụ thuộc vào phần hình của con người. Hồn là phần khinh thanh (nhẹ) phách là phần trọng trọc (nặng). Vì vậy, khi nguời ta chết, hồn bay về trời, còn phách thì tiêu xuống đất theo thể xác. Hồn thì tồn tại mãi mãi, phách và xác thì sẽ tiêu tan. 

Ba hon bay via la gi
 

Ba hồn là gì?

  Vụ Thành Tử trong “Thái Vi Linh Thư” viết : “Người ta có ba hồn lần lượt là Sảng Linh, Thai Quang, và U Tinh. Ba hồn này chính là 3 bộ phận tổ hợp thành thần khí của con người. Người ta mất đi một hồn hoặc hai hồn thì vẫn còn có thể sống sót. Nhưng nếu đã mất đi ba hồn thì sẽ trở thành một cái xác không hồn, sống đời thực vật.   Người ta sở dĩ nói năng, đi lại, sinh hoạt được là nhờ linh hồn trú ngụ ở thể xác. Khi chết đi, linh hồn rời bỏ thân xác thịt. Thể xác nát vữa, còn linh hồn thì bất tử. 
 
Trước đây, căn cứ để đánh giá một người còn sống hay đã chết là kiểm tra xem tim còn đập hay không hoặc còn thở hay không. Tuy nhiên sau đó có rất nhiều trường hợp lạ kỳ xảy ra, tim không đập, cũng không còn hơi thở nhưng sau đó vẫn có thể sống lại mạnh khỏe. Vậy nên, sau này người ta cho rằng chỉ khi não bộ con người bị chết thì người ấy mới được xem là đã tử vong.   Thế nhưng có rất nhiều bệnh nhân đã bị chết não, trở thành người thực vật lại được các bác sĩ Trung y cứu sống. Bởi vậy con người hiện đại quả thực không biết làm cách nào để phán đoán một người còn sống hay đã chết. Có khi dù thân xác vẫn sống, vẫn có thể cử động, vẫn có thể ăn uống nhưng thực sự người ta đã chết rồi.
 

Thai Quang

  Thai Quang là một trong ba hồn quan trọng nhất của con người. Nếu một sinh mệnh không còn Thai Quang thì người đó quả thật đã chết. Có câu chuyện kể rằng, một thầy thuốc Trung y khám bệnh cho vị giám đốc nọ. Sau khi bắt mạch và thăm khám liền nói: “Ông hãy về nhà chuẩn bị hậu sự đi thôi“. Vị giám đốc nọ nghe thấy hầm hầm tức giận nói: “Ông bị điên à. Nếu y thuật của ông cao siêu đến vậy hãy nói thử xem tôi chết vào ngày nào?“.    Sau khi thầy thuốc phán ngày tháng cụ thể, vị giám đốc liền nói: “Tới ngày đó tôi sẽ làm mấy bàn tiệc tại tiệm cơm Vương Phủ Tỉnh mời ông ăn“. Hai cô con dâu của vị thầy thuốc cũng tốt nghiệp trường Trung y thấy cha nói vậy thì ngại ngần vội vàng giải thích: “Cha tôi già rồi nên phán đoán lẩm cẩm, ông đừng để ý lời ông ấy làm gì”.   Cho tới khi vị giám đốc nọ đứng dậy trả tiền đi về, thầy thuốc Trung y vẫn khẳng định: “Tôi không lấy tiền của người sắp chết”. Và quả nhiên, vị giám đốc thực sự đã không sống qua khỏi ngày mà thầy thuốc đoán trước. Các thầy thuốc Trung y cổ đại thường có kiến thức uyên thâm về cả nhân tướng học. Họ chỉ cần xem phần “Thần”, chính là Thai Quang, của người ta có còn hay không là biết được sinh tử.  

Sảng linh 

  Hồn thứ hai gọi là Sảng linh. Sảng linh quyết định trí lực, trí tuệ cũng như phản ứng nhanh chậm của con người. Sảng linh chính là một bộ phận của hồn người. Trên thế giới có rất nhiều người sở hữu khả năng tính nhẩm siêu hạng. Lại có những những người có thể nói chính xác thứ của một ngày bất kỳ mà bạn yêu cầu. Điều này không dùng logic tính ra được, đó là một bản năng thiên phú. 

Vì thế Khổng Tử nói: “Sinh ra đã biết là đệ nhất, học rồi mới biết chỉ là đệ nhị”. Nhiều người bị thiểu năng trí tuệ, chính là Sảng linh đã bị mất. 
 

U tinh


Hồn thứ ba gọi là U tinh. Nó quyết định tính cách của một người, cũng quyết định việc trong tương lai họ sẽ yêu thương ai. Người ta thường nói “bị ai đó lấy mất hồn”, “tinh thần chán nản”, “hồn xiêu phách tán”… Hồn mà họ ám chỉ ở đây chính là U tinh.

Rất nhiều người sau khi thất tình đau khổ tột cùng, nhìn ai cũng không thấy thuận mắt, không muốn gắn bó nữa. Đó là bởi vì U tinh tiêu mất rồi, chính là đã hao tổn, kiệt quệ tinh thần.
  Vậy khi người ta đi ngủ, những hồn này sẽ ở vào trạng thái nào? Thai quang vốn dĩ chiếu sáng toàn thân nhưng lúc này ánh sáng bắt đầu giảm tối đi, người ta sẽ tiến vào giấc ngủ. Nhưng “phách” của họ vẫn hoạt động. Người xưa nói, gan tàng hồn, phổi tàng phách. Khi người ta chết, phách sẽ rời khỏi thân thể. Vậy phách từ đâu rời khỏi thân thể?

Trung y cho rằng thân thể có một cánh cửa, gọi là phách môn, nó là cửa mà phách sẽ rời khỏi thân thể người. Phách môn cũng chính là hậu môn. Bởi thế thời xưa khi cấp cứu người sắp chết thì việc đầu tiên là phải bịt hậu môn lại. 

Xem thêm: Vì sao con người có 3 hồn?  
Moi nguoi phai co du ba hon bay via
 

Bảy vía là gì?

  Đạo giáo quan niệm, thất phách (7 vía) của người ta bao gồm: Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế. Người Việt thì có cho rằng: Nam có 7 vía, nữ có 9 vía.

Thực ra, đàn ông và đàn bà đều có ba hồn phụ vào tam tiêu (tam tiêu là ba miền thượng tiêu là phần trên dạ dày, trung tiêu là miền giữa dạ dày và hạ tiêu là miền trên bàng quan), song chỗ khác nhau giữa đàn ông và đàn bà là: Đàn ông có ba hồn và bảy phách phụ vào thất khiếu (thất khiếu là bảy lỗ trên mặt: hai mắt, hai tay, hai mũi và miệng), còn đàn bà có ba hồn và chín phách phụ vào cửa khiếu là thất khiếu + lỗ sinh dục và hậu môn). Quan niệm về hồn vía ở trên, không ai khác, chính là do các bậc nho học truyền bá và ảnh huởng sâu rộng trong dân gian đến mức người ta chỉ còn biết cái ngọn của nó và tin theo, làm theo.
  Sách “Xuân vũ dật thưởng” chép rằng, khi mới sinh ra, người ta sống được 7 ngày gọi là Lạp (còn gọi là Cữ), lúc ấy mới có 1 vía. Sau 49 ngày thì đứa trẻ mới có đủ 7 vía thành người. Tiếp đó, sau 100 ngày thì đứa trẻ tròn 1 tuổi (nghĩa là cộng cả 9 tháng thai nhi trong bụng mẹ). Bé trai đủ 7 ngày, gái 9 ngày gọi là đầy Cữ.   Còn trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn cũng viết: “Tục nước ta sinh con được 3 ngày thì chỉ làm vài mâm cỗ cúng Thuần Dưỡng Bà. Đến ngày thứ 7, thứ 9, đầy 100 ngày thì làm lễ cáo gia tiên, yến tiệc linh đình”.    Sau khi người ta chết, cứ 7 ngày là 1 kỳ tang, mất đi 1 vía. Sau bảy lần cúng kỳ tang thì cúng tuần Chung thất, tức là hết vía (49 ngày). Sau 100 ngày là cúng Tốt khốc (thôi khóc). Theo quan niệm dân gian, sau 100 ngày, hồn vía người ta đã hoàn toàn thoát ly khỏi thân xác thịt, đã chết thực sự. Khi ấy, người nhà chỉ còn niệm tưởng thương nhớ người đã mất trong lòng mà không khóc nữa. Lễ cúng ngoài mâm cơm chay mặn thông thường, còn cần đèn nhang, bông trái, trà nước. Ngày giỗ đầu gọi là lễ Tiểu tường, giỗ thứ hai là lễ Đại tường. Từ đó về sau, người ta chỉ còn cúng người đã mất vào dịp giỗ và Tết.   Trong quan niệm của nhà Phật, vong hồn người chết phải qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày rồi mới được siêu thoát.
Sách Hoàng đế Nội kinh nói: “Hồn Phách đầy đủ mới thành hình người”.
 
Tiết Bạch Sinh chú: “Khí và hình thịnh thì hồn phách thịnh; Khí và hồn suy thì Hồn Phách suy. Hồn là sự rạng rỡ của Phách, Phách là gốc gác của hồn. Phách là âm chủ về tiếp nhận và cất trữ, nên Phách có thể ghi nhận sự việc. Hồn thì dương chủ về sử dụng, nên Hồn có động tác và phát huy. Cả hai Hồn và Phách không thể xa lìa nhau. Tinh tụ thì Phách tụ; Khí tụ thì Hồn tụ, tạo thành cơ thể con người. Đến khi tinh kiệt thì Phách giáng, khí tán thì Hồn rong chơi bên ngoài (thân thể) mà không biết nơi nào …”.   Chu Tử nói: “Không có Hồn thì Phách không thể tự tại, khiến người ta đa tư lự. Hồn nóng Phách lạnh, Hồn động Phách tĩnh”. 

Minh Minh

Người chết do tai nạn, linh hồn sẽ đi đâu về đâu? Có hay không việc linh hồn tái sinh?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba hồn bảy vía là gì?

Tướng phụ nữ chung thủy |

Ngày nay, khi xã hội hiện đại và phát triển hơn, người ta vẫn đánh giá cao những ưu điểm này của người phụ nữ. Muốn coi tướng người phụ nữ để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm quan trọng nhất là phải chú ý đến cặp mắt vì mắt thườ
Tướng phụ nữ chung thủy |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ chung thủy |

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd