Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những kiêng kị đối với cửa sổ –

Tránh làm lưới bảo vệ cửa sổ quá dày Hiện nay nhiều gia đình dùng lưói bảo vệ bên ngoài cửa sổ. Khi lưới bảo vệ quá dày sẽ gây nhiều bất lọi cho ngôi nhà cả về mặt thẩm mỹ, ảnh hưỏng đến tầm nhìn và ảnh hưởng xấu về mặt phong thủy. Trong phong thủy,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh làm lưới bảo vệ cửa sổ quá dày

Hiện nay nhiều gia đình dùng lưói bảo vệ bên ngoài cửa sổ. Khi lưới bảo vệ quá dày sẽ gây nhiều bất lọi cho ngôi nhà cả về mặt thẩm mỹ, ảnh hưỏng đến tầm nhìn và ảnh hưởng xấu về mặt phong thủy. Trong phong thủy, trường họp này gọi là “bế quan tỏa cảng”, khiến không khí trong nhà luôn tù túng, ngột ngạt và sẽ làm cho ngôi nhà bị vận khí xấu.

Tránh đặt cửa sổ ở nơi tài vị

av

Hướng quan trọng nhất trong phong thủy của phòng khách gọi là tài vị, nó liên quan đến sự hưng suy về tài vận, sự nghiệp, danh tiếng của cả gia đình, do đó bố cục và bài trí của tài vị không được bỏ qua. Vị trí đẹp nhất của tài vị là góc chéo của cửa vào phòng khách, điều này bao hàm 3 tình huống dưới đây:

Khi cửa nhà mở sang phía trái, tài vị sẽ ở đầu trên góc chéo bên phải; khi cửa nhà mở ở giữa, thì tài vị sẽ ở khoảng phía trên góc chéo.

Vị trí tài vị được xem là nơi để tích tụ tài vận trong nhà, nếu cửa sổ đặt ngay phía trên tài vị sẽ làm cho những vận khí tốt trong nhà cũng nhanh chóng bị cuốn đi.

Tránh mở cửa sổ vào trong

Trường hợp mở cửa sổ vào trong thường do cửa sổ sử dụng cánh cửa mở vào trong hoặc các loại cửa hướng vào bên trong nhà. Theo phong thủy, nếu sử dụng loại cửa này sẽ gây nhiều bất lợi cho đường công danh và sự nghiệp của mọi người trong nhà.

Tránh làm cửa cản sáng

Bạn không nên treo rèm quá dày, hoặc không nên đóng cửa sổ kín mít khiến không khí và ánh sáng không lọt vào phòng. Điều này cũng dễ khiến người sống trong nhà bị ốm đau, bệnh tật. Tuy nhiên, khi thiết kế cửa sổ, bạn cũng nên đảm bảo thiết kế cửa khi đóng được kín gió, đặc biệt là cửa phòng ngủ tránh cho người sử dụng phòng bị cảm lạnh.

Tránh làm quá nhiều cửa sổ

Không nên làm quá nhiều cửa sổ trong một căn phòng, nhất là phòng ngủ. Theo phong thủy, căn phòng làm nhiều cửa thì tài lộc trong nhà dễ tán. Nên làm cửa sổ có kích thuớc và số lượng hợp lý để mọi người luôn cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi sinh hoạt trong nhà. Cửa sổ, tương tự cửa chính, cũng có chức năng thu hút ánh sáng và không khí tự nhiên vào nhà, là thông đạo giao lưu giữa cuộc sống riêng tư của mọi thành viên trong gia đình với thế giới bên ngoài. Số lượng cửa sổ trong nhà nên vừa phải, không thừa cũng không thiếu để điều hòa tốt nhất không khí trong và ngoài nhà. Khi thiết kế cửa sổ cho bất kỳ không gian kiến trúc nào, kiến trúc sư cũng lấy sự đối lưu không khí làm trọng tâm.

Tránh bố cục các cửa sổ ngôi nhà tạo thành góc vuông

Nếu toàn thể bức tường bao quanh ngôi nhà có kết cấu lõm vào bên trong, đồng thời trên cả 2 mặt tường lõm vào ấy đều có cửa sổ thì bất luận 2 cửa sổ ấy thuộc cùng một căn phòng hay thuộc 2 căn phòng khác nhau đều là xấu. Nó khiến người ta có cảm giác rằng có thể đi từ phòng này sang phòng khác hoặc từ phòng này nhìn thấy tất cả những gì diễn ra trong căn phòng kia.

Mặc dù cửa sổ thường được xem là không mấy ảnh hưởng đến phong thủy ngôi nhà nhưng vì kiểu kiến trúc cửa sổ này cấu thành “ám độ trần thương” (lén lút vượt rào) nên bị coi là xấu. Nó ám chỉ việc dễ xuất hiện tình trạng ngoại tình của nam/nữ chủ nhân hoặc cả 2 người.

Cần lưu ý rằng, tình trạng khí trường xấu này chỉ xuất hiện khi cả 2 cửa sổ tạo thành góc vuông ấy đều thuộc cùng một ngôi nhà ở độc lập hoặc thuộc cùng một căn hộ trong chung cư. Ngược lại, nếu như 2 cửa sổ ấy thuộc 2 ngôi nhà khác chủ thì khí trường xấu ấy lại không xuất hiện.

Vẻ mặt khoa học có thể thấy, hình thức kết cấu cửa sổ tạo thành góc vuông là dạng kết cấu vừa mang tính ưu điểm, vừa mang tính
nhược điểm, thậm chí có phần nguy hiểm. Nó tạo điều kiện và kích thích trí tưởng tượng của 1 trong 2 người vượt quá giới hạn của lòng chung thủy và kích động sự mạo hiểm trong họ. Đặc biệt, nó càng có ảnh hưởng lớn đối với những ai vốn có tư tưởng tự do, không muốn bị ràng buộc bởi khuôn phép, quy ước xã hội. Đối với họ, các điều kiện này kích thích họ nảy sinh ý đồ “muốn thử những điều mới lạ”.

Cách hóa giải cơ bản nhất là bịt kín 1 trong 2 cửa sổ tạo thành góc vuông ấy bằng vật liệu xây dựng như xi măng hoặc gỗ.

Nhưng nếu việc bịt cánh cửa ấy khiến cho ánh sáng của toàn bộ không gian trong nhà bị ảnh hưởng lớn, hoặc trong thời gian trước mắt việc động thổ sửa chữa chưa được thuận lợi lắm, thì nên treo một bức hình Càn Khôn Thái Cực đồ để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kị đối với cửa sổ –

Mơ thấy bầu vú: Tìm kiếm sự quan tâm hay tình yêu thương –

Người ta thường mơ thấy giấc mơ với một bộ phận nào đó của cơ thể con người. Bầu vú của phái nữ tượng trưng cho nguồn dinh dưỡng và tình mẹ. Nếu nam giởi mơ thấy bầu vú, cho thấy trong tiềm ý thức họ đang tìm kiếm mẹ hiền hay đang khát khao được quan
Mơ thấy bầu vú: Tìm kiếm sự quan tâm hay tình yêu thương –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bầu vú: Tìm kiếm sự quan tâm hay tình yêu thương –

Tại sao con cái xa quê phải lập bàn thờ bái vọng?

Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngày giỗ, tết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. 
Bàn thờ bái vọng nghĩa là gì?

Ngày xưa, với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.

"Vọng bái ", nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. 


Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bài Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng v.v... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ chính xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà 35 phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền thờ vọng của núi Sòng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).

Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại, thì đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng làm lễ, cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ 2 thế trưởng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ở nhà người anh cả ở xa quê lại là bàn thờ vọng.

Phong tục rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, thì đó là mầm mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản được.

2. Cách lập bàn thờ vọng

Chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa có nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu thế kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận tiện mà vận dụng: Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải về quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén hương đang cháy giở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có nhà riêng, tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, thì phải đặt thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? 



Hướng về quê chính, để khi người gia trưởng thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ người quê miền Trung sống ở Hà Nội thì đặt bàn thờ vọng phía Nam căn phòng hay ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối đi. Đối với những gia đình ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ quá thì không còn chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hương đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao con cái xa quê phải lập bàn thờ bái vọng?

Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng cuối cùng cũng sẽ được sưởi ấm, đó là một cách tu thân đáng rèn luyện.
Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong một ngôi chùa cũ nát, tiểu hòa thượng chán nản thất vọng nói với lão hòa thượng: “Trong cái chùa nhỏ bé này chỉ có hai hòa thượng chúng ta, lúc con đi xuống núi hóa duyên, mọi người đều là nói những lời ác với chúng ta, còn thường xuyên gọi con là hòa thượng hoang. Họ cho chúng ta tiền hương khói càng ngày càng ít đến thê thảm”. Tiểu hòa thượng nói tiếp: “Hôm nay con đi khất thực, trời lạnh như vậy mà không có một ai mở cửa cho con, đến cơm bố thí cũng được ít. Chùa Bồ Đề chúng ta muốn thành một ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông vang xa không ngớt như Sư Phụ nói,con e là không thể”.

Lão hòa thượng khoác lên mình chiếc áo cà sa không nói lời nào, chỉ nhắm mắt lại lẳng lặng nghe, tiểu hòa thượng cứ nói và cằn nhằn liên miên… Cuối cùng lão hòa thượng mở mắt to hỏi: “Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?” Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói: “Con lạnh, hai chân con đều tê cóng cả rồi!” Lão hòa thượng nói: “Vậy chi bằng chúng ta đi ngủ sớm đi”.

Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn chui vào trong chăn ngủ. Một giờ sau, lão hòa thượng hỏi: “Bây giờ con có thấy ấm không?” Tiểu hòa thượng trả lời: “Đương nhiên là con thấy ấm rồi, giống như ngủ dưới ánh mặt trời vậy!” Lão hòa thượng nói: “Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh, thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp.

Con thử nói xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho chăn bông đây?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền nở một nụ cười nói: “Sư phụ, người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!” Lão hòa thượng hỏi: “Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp chăn bông làm gì?” Tiểu hòa thượng nghĩ nghĩ một lát rồi nói: “Mặc dù chăn bông không sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái”.

Trong bóng tối, lão hòa thượng hiểu ý cười cười: “Chúng ta là hòa thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm dưới chăn bông? Còn những chúng sinh kia chẳng phải họ là một cái chăn bông dày đó sao? Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm.

Lúc đó “cái chăn bông” dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta. Chúng ta ngủ trong “cái chăn bông” như vậy, chẳng phải rất ấm áp sao? Ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông chùa ngân vang không ngớt, còn có thể là trong mơ được sao?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra hết. Bắt đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi xuống núi hóa duyên.

Tiểu hòa thượng cũng vẫn gặp phải những lời ác như trước đây. Thế nhưng tiểu hòa thượng trước sau gì đều giữ vững thái độ nho nhã và lễ độ đối xử với mọi người. Mười năm sau… Chùa Bồ Đề đã trở thành ngôi chùa có diện tích hơn mười km, có rất nhiều hòa thượng, khách hành hương tới không ngớt.

Tiểu hòa thượng cũng đã trở thành vị sư trụ trì. Kỳ thực trên thế giới này, chúng ta đều là đang nằm trong chăn bông, người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta dụng tâm đi sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng ta. Ngủ…đắp… cả một đời, vậy mà hôm nay mới biết… Hóa ra mối quan hệ giữa người và chăn bông là như vậy, thật là có đạo lý phải không?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

BÈO LỤC BÌNH – TÁC DỤNG CẢI THIỆN NƯỚC Ô NHIỄM RẤT MẠNH MẼ

Cải thiện nước ô nhiễm trong Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, vấn đề môi trường là một vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu. Môi trường được xem là đối tượng nghiên cứu chính trong khoa học phong thủy. Cùng với lý khí (hệ thống lý luận âm dương, ngũ hành, dịch lý…), môi trường hình thể là một phần không thể tách rời.

Sau thời kỳ bùng nổ dân số, quá trình phát triển công nghiệp, hóa chất bảo vệ thực vật…Và hậu quả tất yếu của những quá trình này là ô nhiễm môi trường. Trong đó môi trường nước bị ô nhiễm nặng nề và gây ra những hậu quả đáng sợ nhất.

                                  Bảo vệ môi trường phong thủy

 

Phong thủy có những thuật ngữ như sau “Sơn hoàn thủy bão” tức là núi bao bọc, che chắn, bảo vệ, nước uốn lượn, quanh co hữu tình. Hoặc “Tọa sơn, kiến thủy” tức là dựa lưng vào thế núi vững chắc, quay mặt về phía nguồn nước, sông suối…Tuy nhiên, cũng có một yêu cầu tiên quyết, bắt buộc ở đây chính là vấn đề núi phải hùng vĩ, cây cối xanh tươi, chim muông quy tụ, nước thì nhất định phải trong, như vậy mới đảm bảo sức khỏe con người, đinh tài lưỡng đắc.

Trường hợp nhà gần nguồn nước bị ô nhiễm xảy ra rất nhiều những hệ lụy liên quan từ nó, ảnh hưởng xấu đến nhiều vấn đề, đặc biệt là sức khỏe con người. Nhà gần ao hồ ô nhiễm dễ gây bệnh sinh lý giới tính cho phụ nữ, tình trạng vi khuẩn tràn lan dễ bùng phát các dịch như đau mắt đỏ, đau mắt hột, bệnh tiêu hóa, bệnh da liễu… Và đứng về góc độc học thuật rất khó vượng đinh, phát tài. Điển hình như tại các phương vị có tổ hợp phi tinh 1 – 4 đáng lý ra sẽ xuất hiện anh tài, giỏi về văn chương, đỗ đạt khoa cử, hiển vinh…Thế nhưng nếu tại phương vị này địa hình không cát lợi, có nước bẩn thì nó đã bị phá cách biến dạng đi nhiều. Cụ thể như sau, nhà xuất hiện người có tài nhưng thi cử lận đận, công danh trì trệ, xuất hiện hủ nho, mọt sách, trí thức bảo thủ, tổ hợp nhất tứ còn có đặc điểm là đào hoa, ướt át, lãng mạn, nên tại phương vị ấy có nước bị ô nhiễm tất trong nhà ấy sẽ xuất hiện những chuyện đào hoa, trăng gió, thiếu đoan chính, đứng đắn…

Cách hóa giải sát khí, cải thiện môi trường:

Cải thiện môi trường, hóa giải sát khí, đem lại một môi trường trong lành, một trường khí cát lợi cho sức khỏe và vận thế sự nghiệp luôn là cái đích hướng tới của học thuật chân chính. Đối với những môi trường nước bị ô nhiễm như vậy phong thủy học gọi là thủy sát, uế khí sát. Có nhiều phương pháp để hóa giải bất lợi trên, nếu dụng tâm quan sát ắt sẽ có cách xử lý thỏa đáng. Những biện pháp thường được nhắc tới và áp dụng đó là che hình thông khí, nghĩa là trồng một hàng cây, tạo nên một bức chắn sinh học, hóa giải những sát khí do thủy sát gây ra.

Tuy nhiên, phương pháp này chưa triệt để, vì chưa loại trừ tận gốc nguy cơ. Chưa góp phần cải thiện môi trường. Những biện pháp công nghệ được đưa ra đó là sử dụng hóa chất như vôi bột, phèn chua, sử dụng vi sinh vật khử nước, thanh lọc tạp chất…Có một loại sinh vật mà không nhiều người quan tâm lắm, nhưng nó đem lại hiệu quả thật đáng ngạc nhiên đó là bèo lục bình. Muốn xử lý, mâu thuẫn phải tìm ra nguyên nhân mâu thuẫn, nước đó do đâu mà ô nhiễm, sau khi loại bỏ nguồn gây ô nhiễm thì thực hiện công cuộc cải thiện. Theo các nghiên cứu khoa học, bèo lục bình có khả năng lọc nước, phân giải rất nhiều các chất độc như kim loại nặng, khử các chất cyanua, phenol. “Thí nghiệm chứng tỏ rằng 1ha mặt nước thả bèo tây, trong 24 giờ nó hút được 34kg Na, 22kg Ca, 17 kg P, 4kg Mn, 2,1kg Phenol, 89g Hg, 104g Al, 297g kền, 321g Stronti,... Nó còn có khả năng hút và tích lũy kẽm rất mạnh. Thí nghiệm thả bèo tây trong một chậu nước bẩn chứa 10mg kẽm/1 lít, trong 38 ngày lượng kẽm tích lũy trong cơ thể nó cao hơn thực vật thông thường 133%.” (Thông số khoa học này được khai thác và trích dẫn tại Khoahoc.tv). Theo Blogtiengviet. Net của giáo sư Nguyễn Lân Dũng cũng chứng minh và khẳng định giá trị phân giải chất độc hại, cải thiện môi trường nước của loại thực vật này.

Căn cứ vào những điều trên chúng ta có thể thấy được rằng: “rẻ như bèo” nhưng thực ra không phải vậy. Tại những khu vực bị ô nhiễm nước có thể dùng nó cải tạo môi trường, thay đổi cảnh quan, khắc phục những bất lợi cho sức khỏe và vận thế của con người. Và một phương pháp bình thường giản dị, không mấy tốn kém tại những căn nhà, có đặc điểm như trên. Chân lý lớn lao thường là những điều giản dị. Khoa học phong thủy có những điều cần có sự uyên bác, minh mẫn thông tuệ, nắm được âm dương, ngũ hành, dịch lý, thiên thể, quá trình biến hóa sinh vượng…Thế nhưng có những điều vô cùng đơn giản, dễ hiểu, rất thiết thực với cuộc sống hiện tại. “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” (người nhân thích núi, người trí thích nước). Một cách đề xuất nho nhỏ như trên để cải thiện môi trường, hóa giải sát khí phong thủy, tuy nhỏ nhưng hiệu quả không chắc là nhỏ.

Hải Triều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: BÈO LỤC BÌNH – TÁC DỤNG CẢI THIỆN NƯỚC Ô NHIỄM RẤT MẠNH MẼ

Mệnh Đại Khê Thủy

Cổ thư biên: “Giáp Dần Ất Mão thì Dần là ranh giới Đông Bắc, Mão là chính đi về một hướng nên gọi bằng Đại Khê Thủy”.
Mệnh Đại Khê Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con. Bởi thế Đại Khê Thủy thủy khí lượng lớn, biến hóa đến mức gây sợ hãi, tuy không ngấm ngầm nhưng tâm cơ sâu rộng lan tràn ngập lụt.
Tuy nhiên lại không được xem như sông ngòi. Thác lũ khi gặp lòng sâu, hoặc hang hốc cũng chảy thành dòng, lấp đầy thành vũng. Bởi thế đôi khi bụng dạ hẹp hòi và tư tâm.

Người nạp âm Đại Khê Thủy nếu là một chiến lược gia tất có cái nhìn rộng rãi bao quát. Nếu Mệnh kém mà nạp âm Đại Khê Thủy lại trở nên con người mơ mộng ước vọng, hoài bão to tát mà thiếu khả năng hành động, vô dụng.
Giáp Dần Ất Mão hai chi đều thuộc Mộc, đều vững mạnh trước hung vận, nhưng Ất Mão ý nhị hơn, mềm dẻo hơn vì cả Ất lẫn Mão đều là âm Mộc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Đại Khê Thủy

Xem bói tử vi tuổi Dần

Xem bói tử vi tuổi Dần qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Dần, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Dần qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Dần, sự xung khắc của tuổi Dần với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của tuổi Mậu Dần, Bính Dần, Giáp Dần, Nhâm Dần và Canh Dần theo tháng sinh và giờ sinh.

Hổ là con vật đứng thứ ba trong mười hai con giáp. Con Hổ đại diện cho các tính cách như dũng cảm, thích ganh đua, và hay thay đổi. Họ sẽ đương đầu với bất kỳ khó khăn thử thách nào ở phía trước, đặc biệt là khi cần phải bảo vệ người mà mình yêu quý hoặc kính trọng.

xem bói tử vi tuổi Dần
1.Tính cách người tuổi Dần

Người tuổi Dần tượng trưng cho sự uy quyền và tính liều lĩnh, thích mạo hiểm, thích làm những việc động trời để khiến mọi người phải chú ý tới. Người tuổi Dần có tính tập trung cao, khi họ đã làm việc gì thì quên hết mọi thứ xung quanh, và luôn đem hết tất cả sức lực và tinh thần mà hành sự.

Thông minh, có tầm nhìn xa rộng, những chú Hổ học hỏi rất nhanh, có thể nắm bắt mọi thứ trong chớp mắt. Họ có thể dễ dàng chuyển từ công việc này sang công việc khác cùng lúc. Trong suốt cuộc đời mình, người tuổi Dần đổi việc rất nhiều. Họ thấy vui vẻ trong những vai trò khác nhau, và làm tốt nhất khi phải gánh trách nhiệm trên vai.

Quyết đoán và dũng cảm, người tuổi Dần chẳng bao giờ lùi bước trước thử thách. Nơi đâu có hiểm nguy khó vượt, Hổ sẽ lao vào. Khi người khác chùn chân, tìm lối khác, Hổ cũng vượt lên trên, đương đầu. Và khi không ai dám bảo vệ kẻ yếu, những người bị áp bức, chà đạp, bị chối bỏ, Hổ, với lòng quả cảm, không hề e dè hay sợ sệt, sẽ cầm chắc tay kiếm lao vào kẻ địch. Mang đầy tính nhân ái, Hổ, dù mạnh mẽ nhưng trái tim luôn nồng cháy, cởi mở, và chân thành. Theo tử vi Trung Hoa, có một người tuổi Dần trong nhà, gia đình bạn sẽ rất an toàn vì sẽ không xảy ra hỏa hoạn, trộm cắp vào ban đêm.

Những ai sinh vào năm Dần đều luôn đấu tranh cho quyền lợi của mình và những người mà họ yêu thương. Họ là những người khó đoán và chưa bao giờ được đánh giá một cách đúng mức cả. Họ thích nghi nhanh và luôn là người dẫn đầu trong mọi cuộc chơi. Đó là những người thẳng thắng, trung thực, công bằng, luôn thể hiện những mặt tốt đẹp của mình với những ai quen biết họ.

Tôn trọng truyền thống là một trong những nét tính cách đặc trưng của người tuổi Dần. Những ai thuộc cung Dần luôn tìm kiếm trải nghiệm những gì mới lạ. Họ có xu hướng khác biệt với đám đông và thích thiết kế nội thất trong nhà theo ý tưởng độc đáo, khiến người khác không thể bắt chước được.

Khi một ai đó làm trái ý hay gây hại cho người tuổi Dần thì người đó hãy cẩn thận, bởi người tuổi Dần có tính thù dai, lòng oán hận có thể khiến họ làm bất cứ việc gì, dùng bất kì thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Cuộc đời người tuổi Dần khá thăng trầm khi lên voi lúc xuống chó, bởi lúc nào họ cũng thấy bất mãn, không vừa ý với chính mình.

Hổ ở phương Đông là tượng trưng cho quyền lực, nhiệt tình và mạnh bạo. Anh ta là một nhân vật ưa kết bạn, thu hút sự chú ý của mọi người và rất khó nắm bắt. Anh ta được mọi người kính trọng, khiến mọi người sợ sệt như cọp vậy. Anh ta có thể giúp gia đình tránh được nhiều nạn lớn. Nếu bạn đã quen với tính cách mạnh mẽ của anh ta, với sức sống sôi nổi, sự thu hút nhờ thái độ lạc quan trước cuộc đời, anh ta sẽ khơi gợi những tình cảm trong lòng mọi người, khiến họ chẳng thể nào lạnh nhạt, cô đơn. Nói tóm lại, người tuổi Dần đầy sức thu hút, sẽ trở thành trung tâm chú ý của mọi người. Do anh ta sinh ra đã có tố chất không hề biết mệt mỏi và hơi lỗ mãng nên thường hành động rất nhanh. Anh ta là người đa nghi, hay dao động, nên dễ đưa ra những quyết định vội vàng. Anh ta rất khó tin tưởng người khác và không bao giờ chịu để ấm ức giấu trong lòng. Đồng thời anh ta lại là một người thành thật, giàu tình cảm và khảng khái, hơn nữa còn có khiếu hài hước tuyệt vời.

Người tuổi Dần rất nhân từ, anh ta yêu trẻ, động vật hay những thứ có thể khơi gợi trí tưởng tượng và sự chú ý. Hễ anh ta bị cuốn vào một chuyện nào đó, liền quên hết thảy. Anh ta làm việc bao giờ cũng một lòng một dạ, toàn tâm toàn ý, bạn cứ tin chắc rằng anh ta sẽ vận dụng 100% khả năng, có khi còn hơn thế để làm việc.

Người tuổi Dần có đời sống tình cảm rất phong phú, nên thời trẻ khá phóng túng, một số người sau này cũng sẽ thay đổi. Điều này có lẽ vì ngoài tính ham vui, anh ta còn là người thực tế, không ngại hiểm nguy. Anh ta tỏ ra khinh thường những chuyện mình không tán đồng, chế giễu và mỉa mai cái xã hội bị quan niệm truyền thống bó buộc chân tay. Anh ta luôn muốn thể hiện bản thân, điều này hình thành nên tính cách của anh ta. Nếu gặp được cơ hội tạo phản hoặc khiêu chiến với các phương thức truyền thống, anh ta sẵn sàng dồn toàn lực lượng tham gia. Nếu nói rằng đây là khuyết điểm, lẽ nào bạn sẽ bớt yêu mến anh ta chăng. Không, có đến tám chín phần mười mười sẽ khen ngợi điều đó. Có lẽ chúng ta cũng không tán đồng với sự thô bạo của anh ta, và giật mình lo sợ trước những hành động điên rồ, táo tợn của anh ta, nhưng chúng ta sẽ không quên cầu nguyện cho anh ta, coi thành công của anh ta cũng giống như của chính chúng ta. Khi người tuổi Dần đau buồn, anh ta cần sự cảm thông thực sự. Chớ nên suy đoán ai đúng ai sai theo tình theo lý. Khi an ủi anh ta cần phải nhỏ nhẹ, nếu sự việc chuyển biến tốt, anh ta sẽ báo đáp bạn gấp bội. Anh ta sẽ lắng nghe những lời nói đầy lí trí của bạn và sẽ nhớ như in từng câu từng chữ khuyên nhủ thiện ý. Nhưng đó không có nghĩa là anh ta sẽ tiếp nhận lời khuyên, hai việc đó hoàn toàn khác nhau.

Khi anh ta nổi giận, tốt nhất là trói tay anh ta lại đợi đến khi anh ta hét khô cổ bỏng họng, trút hết nỗi bực dọc với bạn, anh ta sẽ tự kiểm điểm lại mình. Khi ấy, anh ta sẽ cám ơn bạn, ôm lấy bạn, mặc cho bạn trút giận, để gương vỡ lại lành.

Tuy nhiên sau khi bạn đi rồi, anh ta sẽ lại làm đúng theo kế hoạch trước đó. Bất kể chán nản thế nào, gặp phải sự đả kích hay thất bại lớn đến đâu, người tuổi Dần cũng không bao giờ sờn lòng bỏ cuộc. Dù chỉ còn sót lại một đóm lửa nhỏ xíu, anh ta cũng dùng nó để nhóm lên ngọn lửa của số phận, cái tinh thần bất diệt ấy khiến anh ta sống lại, trở nên đáng yêu hơn.

Khi chịu áp lực, có thể anh ta sẽ có tính ỷ lại. Có điều hổ vẫn trứ danh với tư thế thống trị hết thảy muôn loài của mình. Một số người tuổi Dần tính cách ôn hòa, mẫn cảm, giàu lòng cảm thông, nhưng có một số lại ngoan cố, ích kỷ và không chịu nổi lý lẽ.

Nữ giới tuổi Dần có sức hấp dẫn mạnh. Họ linh lợi, có thiện ý, thanh lịch, cử chỉ và lời nói của họ đều được người khác yêu mến, tán thưởng. Người nữ tuổi Dần có năng lực biểu đạt cao, họ thích sáng tác, thích mặc đẹp. Cô ta có thể kết hợp cuộc sống xã hội và cuộc sống gia đình một cách tự nhiên. Hoạt bát, vô tư, ngọt ngào, những cử động của cô ta được mọi người đánh giá tốt. Xin chớ cười chế giễu cô ta, cô ta đã mài móng vuốt nhọn hoắt chính là để đề phòng bất trắc đấy.

Nữ tuổi Dần ưa tự do, thoải mái, thích theo thời trang, có khi tốn mấy tiếng đồng hồ để thử kiểu tóc mới, đồ mỹ phẩm hay quần áo. Cô ta thường cảm thấy đau lòng vì mình chẳng có bộ quần áo nào ra hồn, kỳ thực những bộ thời trang của cô ta nhiều như quần aó bảo hộ lao động vậy. Nếu như có vũ hội, lần nào cô ta cũng nhiệt tình tham dự. Cô ta vô cùng thích hợp khi ở bên trẻ con, biết kể những câu chuyện thú vị, bắt chước chú bê con, làm ma quỷ khiến mọi người bật cười. Cô ta sẽ vứt bỏ hết thảy mọi quy củ bó buộc các em bé, khiến chúng luôn yêu thích cô.

Giống như rồng và gà, bản tính của hổ rất ích kỷ. Nếu tâm tư của anh ta bị tổn thương thì tiền bạc, quyền lực và danh tiếng đối với anh ta chẳng là gì hết. Khi gặp thất bại, anh ta sẽ biến thành một kẻ nhỏ nhen nhất, xấu xa nhất mà bạn từng gặp, lòng phục thù sẽ khiến anh ta làm bất cứ chuyện gì. Sự lãnh đạm của bạn sẽ khiến anh ta bực tức, dù anh ta có thể nén nhịn trước sự việc lớn. Hãy ghi nhớ rằng: anh ta căm ghét bị người khác coi thường.

Hai khuyết điểm lớn của anh ta là thô bạo và do dự thiếu quyết đoán. Đây chính là một sự mâu thuẫn. Nếu anh ta biết cách hài hòa hai điểm đó, anh ta sẽ thành công.

Thế giới nội tâm của người tuổi Dần rất lãng mạn. Anh ta ham chơi, nhiệt tình, tình cảm sôi nổi, yêu hoặc kết hôn với anh ta sẽ rất thú vị, khi anh ta hoặc cô ta ghen thường tỏ thái độ chiếm hữu quá mức hoặc ưa cãi cọ.

Giai đọan đầu trong cuộc đời người tuổi Dần có lẽ là êm đềm nhất. Khi mới trưởng thành, anh ta học cách kiềm chế tính nóng nảy của mình, tuy nhiên tính cách này có thể sẽ hủy diệt anh ta thời kì thanh niên và trung niên, khi anh ta mải miết theo đuổi thành công và hoàn thành mơ ước của mình. Nếu biết vứt bỏ áp lực, thả lỏng mình, để được nhẹ nhõm thanh thản thì tuổi già của anh ta sẽ được bình lặng. Song điều đó rất khó khăn vì anh ta sẽ hối hận vì những việc đã làm, rồi cảm thấy dằn vặt giữa đau khổ và vui sướng, cho nên anh ta sẽ không làm như vậy.

Tóm lại, cuộc đời của người tuổi Dần khá thất thường, lúc ngập đầy tiếng cười, khi nước mắt ràn rụa, có khi cảm thấy vô cùng thất vọng. Chúng ta không cần thương hại anh ta, anh ta cũng không cần bạn làm vậy. Nếu cho phép anh ta sống trọn vẹn với cách anh ta đã chọn, thì cuộc sống sẽ đem nguồn hứng thú vô hạn. Anh ta là người lạc quan số một, và luôn đón đợi những thách thức mới.

Người tuổi Dần kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt, bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, thành thực, họ sẽ bù đắp được sự thô bạo, kiềm chế bớt tính nóng nảy và đem lại cảm giác ổn định và an toàn cho người tuổi Dần.

Người tuổi Dần hợp tác ăn ý với người tuổi Tuất. Vốn tính thực tế, thẳng thắn, người tuổi Tuất sẽ trung thực với người tuổi Dần, sẽ không chỉ kiềm chế mà còn giúp anh ta trở nên lí trí hơn.

Người tuổi Ngọ đầy sức hấp dẫn và thực tế cũng rất hợp với người tuổi Dần. Họ sôi nổi với cuộc sống và đều rất nồng nhiệt. Người tuổi Ngọ mẫn tiệp nhạy bén sẽ cảm nhận được nguy hiểm nhanh hơn bất cứ người tuổi Dần nào, vì thế mà người tuổi Dần sẽ có lợi nhờ vào phản ứng tinh tế và nhạy cảm của tuổi Ngọ.

Người tuổi Dần sống với người tuổi Tý, tuổi Mùi, tuổi Dậu hay một tuổi Dần khác sẽ không gặp phải khó khăn.

Tuy nhiên người tuổi Dần đừng bao giờ làm điều này: đó là khiêu chiến với người tuổi Sửu đầy quyền uy. Đây là một đối thủ nghiêm khắc, không biết thỏa hiệp, anh ta sẽ không cho phép người tuổi Dần làm bừa làm ẩu.

Đối nghịch với họ là người tuổi Thân, tuổi Thân nhanh nhẹn, tháo vát, thông minh, lắm mưu nhiều kế khiến người tuổi Dần khó lường được hậu quả, nên họ thường phải nếm mùi đau khổ khi đối đầu với người tuổi Thân. Người tuổi Thân là đối thủ không thể nắm bắt của người tuổi Dần, anh chàng láu táu, thông minh ấy sẽ suốt ngày trêu chọc hổ, còn hổ sẽ phát cáu lên. Kết quả vẫn là “gậy ông đập lưng ông”. Mặc dù người tuổi Dần sẽ học hỏi được nhiều điều từ anh chàng Khỉ quỷ kế đa mưu, nhưng Dần có thể sẽ đau đầu nhức óc khi phải đối phó với người tuổi Thân.

Cũng giống thế, người tuổi Tỵ không thích hợp khi liên minh với người tuổi Dần vì hai bên có một tính cách chung duy nhất là bản tính đa nghi. Nhưng người tuổi Tỵ ôn hòa, trầm tính, nhát gan, còn người tuổi Dần lại hay lớn tiếng chỉ trích người khác, họ không thích hợp.

2. Tình yêu của người tuổi Dần

Thông thường vận khí của tuổi Dần khá tốt, kể cả khi họ chẳng mấy tích cực theo đuổi người khác, thì vẫn có người thầm thương trộm nhớ. Hổ có một sức thu hút lạ lùng, khiến người ta theo sau một cách vô ý thức, nhưng trong tình yêu chỉ có tình cảm nhất thời nên thường thất bại.

Là một người yêu ghét rõ ràng, nên khi yêu, sự sôi nổi, lương thiện của Hổ chắc chắn sẽ khiến đối phương cảm động và nảy nở một mối tình lãng mạn. Với tính cách vui vẻ và dễ thương, những người tuổi Dần luôn có bè bạn xung quanh mình. Khi yêu nhau, họ luôn cháy bỏng và đam mê, nồng nàn và quyến rũ. Họ mang bên mình niềm hào hứng trước những gì khó khăn, nguy hiểm. Nồng hậu và rộng rãi, người tuổi Dần sẽ cảm thấy hạnh phúc nhất trong những tình cảm gần gũi và yêu thương, sẵn lòng tha thứ cho những lỗi lầm không đáng của người yêu.

Tuy là một người dũng mãnh, song tình cảm của người tuổi Dần khá mẫn tiệp và phong phú, vì vậy họ sẽ là một người tình thú vị. Nhưng đôi khi thường quá nhiệt tình, khiến người khác ngại ngần, còn bản thân mình lại say đắm quá mức.

Nữ giới tuổi Dần thích kiểu tình yêu lãng mạn, mối tình đắm say như Rômêô – Juliet trong tiểu thuyết, hơn nữa còn thích cất giữ mối tình của mình trong tâm, mãi mãi không phai. Nhưng do bản tính nhiệt tình, lòng chiếm hữu mạnh, khiến nửa kia của họ có cảm giác khó thích nghi, thậm chí còn có thể bực bội.

Nữ tuổi Dần thích sự sôi động, chán ghét cuộc sống gia đình đơn điệu nhạt nhẽo. Sau khi kết hôn, họ mong ước cùng chồng sống một cuộc sống sôi nổi, lãng mạn và mong chồng mình sẽ bảo vệ mình hệt như một người tình, có thể cho họ cảm giác âu yếm, vỗ về ngọt ngào nhất. Họ không chịu đựng được sự cô đơn, lặng lẽ, luôn ước ao về cuộc sống náo nhiệt, không ràng buộc. Hơn nữa, nữ tuổi Dần lại là một người chuyên chế, mọi việc trong nhà thường do chính họ đảm đương, nên người chồng có thể chuyên tâm công tác, chẳng phải bận lòng về chuyện gia đình.

Nam giới tuổi Dần có quan điểm về tình yêu khá mãnh liệt, thích chi phối người khác, ý thức về cái tôi khá mạnh. Họ không thể chấp nhận thất bại trên đường tình, và cũng không cố ý giấu giếm thói xấu của mình.

Thái độ về tình yêu của họ cũng mãnh liệt cũng mãnh liệt như một chú hổ, họ biết cách lấy lòng bạn gái, cũng chẳng quá tính toán khi rút ví, cho nên rất được các cô gái say mê. Nhưng phải chú ý một điểm rằng, nam giới tuổi Dần thích chi phối người khác, một cô gái có tính độc lập cao sẽ không thích hợp với họ lắm.

Người tuổi Dần có khuynh hướng đề cao bản thân nên họ tự quyết định hôn nhân của mình mà ít khi chịu lắng nghe ý kiến của người khác. Cuộc sống của họ sẽ chỉ hạnh phúc khi hai người biết cách nhẫn nhịn và có tinh thần xây dựng. Ngược lại, sự đổ vỡ trong hôn nhân sẽ khó tránh khỏi.

Trong cuộc sống gia đình, nam tuổi Dần có khuynh hướng đề cao cái tôi, muốn vợ làm mọi việc theo ý mình. Nhưng khi sống lâu với họ, sẽ phát hiện ra nội tâm của họ cực kỳ lương thiện. Đôi khi, dù giận dữ đùng đùng, nhưng chỉ cần dịu dàng lấy lòng họ một chút thì cơn giận tan biến rất nhanh. Tuy nhiên, cũng có một số nam giới tuổi Dần sau khi kết hôn có thể bị hấp dẫn và nảy sinh tình cảm với người phụ nữ khác. Họ cũng sẵn sàng, bất chấp tất cả cho tình yêu đó. Đó chính là điều mà người vợ của họ cần lưu ý trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Một điều đáng nhắc đến là tuy nam giới tuổi Dần có vẻ bề ngoài cương nghị nhưng nội tâm lại khá cô độc.

Tình yêu của người tuổi Dần nhóm máu A

Đa số những người tuổi Dần thường được nhiều người khác giới ngưỡng mộ, vây quanh. Vì thế, trong tình yêu họ còn có biệt danh là "kẻ phong lưu", nhiều người có ấn tượng không tốt về họ. Tuy nhiên, việc này không hoàn toàn đúng vì họ chỉ coi những người bạn khác giới như bạn bè bình thường của mình. Có thể trước mặt mọi người họ là người nhiệt tình vui vẻ nhưng với nhiều người khác giới lần đầu gặp gỡ thì họ lại rất lạnh lùng nghiêm túc. Họ luôn biết giữ khoảng cách nhất định với tất cả mọi người. Không bao giờ họ có những hành động hay cử chỉ thân mật quá mức với những người mới quen biết. Họ chỉ toàn tâm toàn ý chung tình với "một nửa" của mình cho dù có nhiều vệ tinh vây quanh. Người tuổi Dần thuộc nhóm máu A có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc bền lâu, đặc biệt là nữ giới. Với tính cách ôn hòa, trầm tính, biết sắp xếp công việc gia đình nên họ luôn mang lại không khí thoải mái và vui vẻ cho các thành viên. Những người này cũng rất biết cách dung hòa bản thân để hòa hợp với người bạn đời của mình. Họ sẵn sàng khoan dung và bỏ qua mọi chuyện nhằm giữ vững hạnh phúc, sự êm ấm trong gia đình.

Tình yêu của người tuổi Dần nhóm máu B

Người tuổi Dần thuộc nhóm máu B thường rất đa tình. Trái tim họ vẫn thường "loạn nhịp" khi đứng trước người khác giới. Đa số những người tuổi Dần thuộc nhóm máu B thường không coi trọng hình thức kết hôn. Họ cho rằng, việc hai người thực lòng yêu thương nhau và muốn gắn bó với nhau mới là điều quan trọng. Chính vì điều này nên khi tìm được "một nửa" của mình, họ rất bình tĩnh, cẩn trọng suy xét kỹ càng trước khi quyết định tiến xa hơn nữa. Vì tình yêu, họ sẵn sàng bỏ qua mọi lời khuyên của người thân hay những dư luận xã hội. Mặc dù đã có cuộc sống gia đình ổn định song một số người tuổi Dần vẫn có thể nảy sinh mối quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân. Do vậy, "nửa kia" của họ cần phải hết sức bình tĩnh, biết cảm thông tha thứ và bỏ qua lỗi lầm thì gia đình sẽ tránh khỏi sóng gió.

Tình yêu của người tuổi Dần nhóm máu AB

Những người này thường có cách thể hiện tình cảm rất mãnh liệt. Khi đã "để mắt" một ai đó, họ sẽ tìm mọi cách thể hiện để đối phương sớm nhận ra. Họ luôn muốn được ở bên người yêu và muốn được người đó quan tâm, chú ý đến mình. Khi đứng trước đối phương, họ sẵn sàng bộc lộ cảm xúc với người đó. Tuy nhiên, nhiều khi họ hành động theo cảm tính chủ quan mà không quan sát thái độ của "nửa kia". Vì vậy, khả năng thất tình của họ là rất lớn. Hôn nhân của người tuổi Dần thuộc nhóm máu AB ổn định hơn so với người tuổi Dần thuộc nhóm máu khác. Họ luôn biết cách cân bằng giữa gia đình và bạn bè để có được sự cảm giác thoải mái, vui vẻ. Nam giới tuổi Dần thuộc nhóm máu AB thường khá bảo thủ và độc đoán. Họ chỉ muốn người vợ nhất nhất nghe theo họ. Bản thân nữ giới thuộc nhóm máu này rất biết cách vun vén và chăm sóc gia đình. Họ có thể quán xuyến mọi công việc trong gia đình để chồng chuyên tâm với công vệc.

Tình yêu của người tuổi Dần nhóm máu O

Người tuổi Dần thuộc nhóm máu O thường bày tỏ tình cảm với người yêu của mình một cách thẳng thắn nhưng không kém phần nồng nàn, đắm say. Khi yêu, với họ thế giới như thể chỉ dành cho hai người. Khi hai người đã chính thức công khai mối quan hệ, những người này dành toàn tâm toàn ý chăm sóc thậm chí còn muốn kiểm soát "một nửa" của mình. Vì chuyện này mà đôi khi họ bỏ bê công việc, học hành. Tuy nhiên, nếu thấy đối phương có ý bỏ rơi mình hoặc thay lòng đổi dạ, họ cũng nhanh chóng giảm sự hào hứng và lòng nhiệt tình. Tình cảm của người tuổi Dần thuộc nhóm máu O cũng thường không ổn định. Đôi khi chỉ mới quen biết trong một thời gian ngắn, họ đã muốn trở nên thân thiết ngay với người đó. Xuất phát từ điều này mà cuộc hôn nhân của họ cũng diễn ra nhanh chóng trước sự ngạc nhiên của mọi người. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, chỉ cần có chút xích mích nhỏ mà đôi bên không chịu nhượng bộ thì họ lại nghĩ ngay đến việc ly hôn. Để duy trì cuộc sống gia đình yên ấm, những người tuổi Dần thuộc nhóm máu O nên chọn người bạn đời chín chắn, có suy nghĩ và hành động cẩn trọng trong mọi vấn đề.

4. Sự nghiệp của người tuổi Dần

Người sinh năm Dần có thời thơ ấu bình yên hạnh phúc. Tuy nhiên họ phải cực kì lưu ý thời thanh niên. Thời kỳ này vô cùng quan trọng. Giai đoạn này rất gay gắt, có nhiều vấn đề cùng xảy đến một lúc, nào là chuyện tình cảm, nào chuyện gia đình, tiền bạc, sự nghiệp… Đứng trước một lô vấn đề như vậy, phải đặc biệt cẩn thận, sắp xếp một cách lí trí. Bằng không suốt cuộc đời khó mà an lành, nhất là ảnh hưởng lớn đến tuổi già.

Nói tóm lại người tuổi Dần cả cuộc đời khá gian khổ và mạo hiểm, nhưng đây lại chính là điều vui thích. Có biết bao vấn đề cần họ đích thân giải quyết, người khác lại chẳng giúp được gì. Gặp khi cấp bách, họ luôn có thể xoay ngược tình thế, biến hung thành cát.

Thứ quan trọng nhất trong cuộc đời không phải là tiền bạc mà là những tín ngưỡng tinh thần, bởi vậy, họ thường không mấy để tâm đến mức độ kinh tế. Nhưng họ cũng không cần lo lắng về kinh tế. Vì có rất nhiều nguồn thu nhập, nó thường được quyết định bởi lý tưởng và mục tiêu họ đang theo đuổi.

Người tuổi Dần không tham dự vào thương trường. Vì họ vốn không có lòng ham mê phất lên làm giàu, cũng không phải là kẻ sùng bái đồng tiền, cho nên ngoài địa vị và danh dự, họ chẳng mong kiếm được nhiều tài lợi, chỉ mong rủng rỉnh túi là được.

Tuổi Dần thường quá chú trọng đến lý tưởng, luôn cho rằng cách mình kiếm được tài lợi là việc thực đáng kiêu hãnh, theo họ điều này vô cùng quan trọng, vừa không tổn hại sự hoàn thiện nhân cách, vừa có thể giúp cuộc sống hiện thực thoải mái, dễ chịu hơn.

Thông thường, họ không đưa ra những quyết định vội vàng cho những lựa chọn của mình mà vẫn có thể kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ. Dù có nguy hiểm, cũng kịp thời chuẩn bị trước, khá kín kẽ, có tác phong thẳng thắn, dám nói dám làm.

Người tuổi Dần luôn chiếm thế thượng phong và không ngừng tỏa sáng cho dù họ hoạt động ở bất kỳ lĩnh vực nào, kinh tế tài chính, chính trị hay văn hóa nghệ thuật. Người tuổi này luôn sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách, khó khăn vì vậy mà họ luôn tất bật hơn người khác. Những công việc lãnh đạo, quản lý như làm chủ công ty, nhà chính trị, cảnh sát... hoàn toàn có thể phù hợp với họ. Một trong những ưu điểm của người tuổi Dần trong công việc là tính chủ động, sáng tạo. Họ luôn có những phương án sáng suốt để tháo gỡ các tình huống phức tạp, mang lại hiệu quả tốt hơn trong công việc. Khi làm việc với những người tuổi này, bạn nên ưu ái cho họ một không gian riêng tư, thoáng đãng. Có vậy họ sẽ phát huy tối đa sở trường của mình, mang lại hiệu quả cao trong công việc. Ngược lại, nếu làm việc ở môi trường chật hẹp họ sẽ cảm thấy bức bối, khó chịu, ảnh hưởng tới chất lượng và tiến độ công việc.

5. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Dần và các tuổi khác

Tuổi Dần và Tuổi Tý

Khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp, mối quan hệ của cặp này cũng ổn định theo. Thế nhưng, một khi xảy ra mâu thuẫn, hãy coi chừng vì xung đột sẽ rất gay gắt. Tốt hơn hết là hai bên chỉ dừng lại ở tình cảm bạn bè. Cả hai cùng thích là trung tâm của vũ trụ, đều duyên dáng và rất cuốn hút. Trong các tình huống mang tính xã hội, hai “hành tinh” này ganh nhau ra mặt, ai cũng muốn mình được mọi người ca tụng, tán dương, đặc biệt là Hổ, người sở hữu sự dũng cảm và mong muốn quyền lực.

Nếu yêu nhau, đây là một cặp rất lạ - họ rất nhiệt tình với sở thích của người kia. Nhưng điều đó duy trì không được lâu. Hổ thấy mệt mỏi vì cách Chuột “tự nâng mình lên” hoặc các lời nói nửa đùa nửa thật của Chuột. Còn Chuột chán ngán bởi tâm trạng dao động và cách thể hiện quyền lực của Hổ. Tuy nhiên, điểm chung rất lớn của Tí và Dần là rất họ yêu rất nồng nàn và tận tâm với người mình yêu. Nếu có sơ sở vững chắc, Chuột và Hổ sẽ chung sống bên nhau trọn đời.

Khi nói về chuyện làm ăn giữa tuổi Tí và tuổi Dần, cả hai cần phân biệt rất rạch ròi xem ai đang là người đứng đầu. Và vị trí top luôn phải giao cho Hổ vì con người này thích mình ở luôn đứng đầu. Chuột hơi nhút nhát sẽ là hậu phương vững chắc cho Hổ ngoài chiến tuyến. Tuổi Tí nhanh nhẹn, tháo vát có thể đảm nhiệm vai trò rất tốt trong các buổi họp để gặp gỡ các khách hàng tiềm năng và các tổ chức thương mại khác. Chuột khi đã làm việc thì tâm huyết hết mình. Đa số những công việc nào giao cho Chuột đều được giải quyết đến nơi đến chốn.

Tuổi Dần và Tuổi Sửu

Sự kết hợp này quả là thảm họa. Khó có thể mà khắc phục. Cả hai đều có lối sống quá khác biệt nhau. Tuổi Dần có nét gì đó hoang dã và khó thuần; ngược lại, tuổi Sửu hiền lành và rất thuần tính. Thỉnh thoảng sự khác biệt này cũng làm cho tình cảm của cả hai trở nên thú vị, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Tuổi Hổ thích mạo hiểm trong khi tuổi Trâu lại sống khép mình và nội tâm; Hổ thích đi đó đây còn Trâu lại thích tích lũy và ổn định ngay từ đầu. Nhưng tệ hơn cả là cả hai con giáp này đều cho mình là đúng, chẳng bên nào chịu nhường nhịn và không tìm thấy điểm tốt của bên kia.

Nếu là đối tác kinh doanh, họ có thể kết hợp và tận dụng được những thế mạnh bên kia có nếu cả hai cùng cầu thị. Người cầm tinh con Hổ có thể học được rất nhiều điều bổ ích từ tuổi Trâu sâu sắc và chăm chỉ. Bên cạnh đó, tuổi Trâu có thể cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong công việc vì luôn có tuổi Hổ thông minh, táo bạo và thường đưa ra những ý tưởng mới. Sửu sẽ dạy Dần cách bình tĩnh và tập trung; ngược lại, Dần chỉ cho Sửu cách đưa ra ý tưởng và mở rộng kiến thức.

Tuổi Dần và Tuổi Dần

Yêu người cùng tuổi sẽ giúp bạn khơi nguồn sáng tạo và niềm đam mê. Thế nhưng, muốn giành quyền quyết định hay tỏ ra chiếm ưu thế trong mối quan hệ này sẽ là nguyên nhân dẫn đến nhiều mâu thuẫn. Trừ khi một trong hai người chịu nhường bước, nếu không thì cuộc tình này cũng sẽ kết thúc chóng vánh. Người cầm tinh con Hổ có sức hút khá lớn bởi vẻ sexy, độc đáo và trái tim khá nồng hậu, nên rất dễ cuốn hút người khác. Tuy nhiên, mối quan hệ càng lâu dài thì hai người có càng nhiều mâu thuẫn. Tuổi Hổ rất quan tâm tới người khác, sống can đảm nhưng có xu hướng thích nắm bắt quyền lực trong tay nên mâu thuẫn xảy ra từ đó nếu không ai chịu nhường ai.

Khi là cặp đôi, hai tuổi Dần có hợp nhau hay không còn tùy thuộc vào mức độ họ hiểu và nhường nhịn nhau. Bất đồng xảy ra khi một người cố gắng tìm cách để người kia phải làm theo ý mình. Mà tính của Hổ thì không thể để người khác “chỉnh” mình được. Tuổi Dần yêu thích tự do và quyền lực trong bất kỳ mối quan hệ nào. Vậy nên, trong tình yêu cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Tuổi Dần hiểu được mong muốn của người kia nhưng không thể để mình làm điều đó. Bởi vậy, chỉ khi một trong số họ biết nhún nhường thì hai người mới có thể sống hòa hợp được.

Trong công việc, hai người cùng con giáp này cũng cần nỗ lực không ngừng để giữ hòa khí và để cho công việc êm đẹp. Tuổi Dần vốn chăm chỉ và có hoài bão lớn. Nếu cả hai tuổi Dần đều có cùng một mục tiêu chung, họ sẽ phát đạt nhanh chóng bởi nguồn năng lượng trong họ rất dồi dào. Tuy nhiên, nếu họ không đi chung một con đường, sự nghiệp của họ rất khó thành bởi sự bất ổn định thường xuyên xảy ra.

Tuổi Dần và Tuổi Mão

Nhiều sự khác biệt đã tạo ra khoảng cách quá lớn khiến cho cả hai khó có thể hiểu nhau. “Mèo” sẽ phải chịu nằm yên dưới vuốt “Cọp”. Hổ cũng sẽ dễ dàng phát chán với việc thích cuộc sống an nhàn thanh tịnh của người tuổi Mèo. Tuổi Hổ can đảm, dũng cảm, thích tự do và quyền lực, khác xa so với Mèo nhút nhát và sống nội tâm. Hổ rất hấp dẫn, có sức hút lớn nhưng đam mê tự do. Ngược lại, Mèo lại thích sự bình yên, nhẹ nhàng và cần những sự quan tâm nho nhỏ. Xem ra những khác biệt lấn át hẳn những tính cách có thể dung hòa được mối quan hệ giữa hai người.

Nếu là hai người yêu nhau thì rất khó tránh khỏi những mâu thuẫn giữa hai “hành tinh” này. Mèo nghĩ rất nhiều đến người mình yêu và ít khi nói ra rằng bản thân mình không được đối xử tốt. Người tuổi Hồ vốn trung thực và nồng nhiệt và chẳng bao giờ có ý định đối xử ngược đãi với Mèo nhưng đôi khi chỉ là sự vô tình, Hổ làm Mèo tổn thương. Tuổi Mèo yêu hết mình và rất quan tâm đến sở thích và niềm vui của người mình yêu đôi khi thấy khó chịu với tính cách tự do và dễ thay đổi của tuổi Hổ.

Nếu hai con giáp này làm ở cùng một văn phòng hay công ty, họ cần phải tổ chức công việc và phân chia không gian rất rõ ràng. Trong kinh doanh, tuổi Dần luôn là người dẫn đầu và chịu trách nhiệm chính. Tuổi Mão vốn khá nhút nhát sẽ đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của tuổi Dần và sẽ cố gắng cống hiến sức lực và sự khéo léo của mình để công việc chung tốt hơn.

Tuổi Dần và Tuổi Thìn

Tình yêu nồng nàn mạnh mẽ. Cả hai đều bị cuốn hút bởi tính cách của nhau, khó có thể mà tách rời được. Tuy nhiên, rắc rối sẽ nảy sinh nếu bạn cố lấn át bản tính tự do của người tuổi Thìn. Mâu thuẫn nảy sinh giữa hai con giáp này là quyền lực. Tuổi Thìn thích chịu trách nhiệm làm hết mọi việc: con người, công việc… để khẳng định mình. Tuy nhiên, tuổi Dần lại thích quyền tự trị. Bởi vậy, giữa hai tuổi này thường xuyên xảy ra cãi vãi và tranh chấp.

Khi là một cặp uyên ương, Dần và Thìn sẽ tạo thành một cặp đôi rất năng động và hứa hẹn nhiều điều thú vị. Hổ đặt ra cho Rồng những thử thách khá lớn: Thìn cần biết cách để chế ngự trái tim dũng cảm và tính sở hữu của Dần. Với Thìn, những thử thách trên không phải quá lớn và Thìn hoàn toàn có thể làm được. Điều đáng nói là bên cạnh đó, Dần còn rất khâm phục tính cách hài hòa, không hề bốc đồng của Thìn bởi vậy nên mối quan hệ của họ có lúc rất đẹp và thú vị. Tuổi Thìn tuy mạnh mẽ nhưng rất cần một bờ vai để dựa. Điều đó khác hẳn với Dần lúc nào cũng đặt tự do lên hàng đầu. Những tính cách này khiến mối quan hệ của họ lúc giông bão, lúc êm đềm nhưng thực sự rất thú vị.

Khi là đối tác làm ăn, hai con giáp này rất khó hòa hợp bởi họ luôn tranh giành quyền lực với nhau. Ai cũng muốn làm việc theo cách riêng của mình và cho rằng, đó là cách tốt nhất. Tuổi Thìn phải lựa nhiều để có thể trở thành đối tác của Dần. Ngược lại, Dần cần phải học cách để chia sẻ và làm theo mục đích chung chứ không thể chỉ làm theo cách riêng của mình.

Tuổi Dần và Tuổi Tỵ

Không cùng chung lý tưởng, vì cả hai đều không có một điểm chung nào. Bạn khó có thể sống hạnh phúc nếu đã không hòa hợp. Sẽ là một cuộc tình bi đát, thế nên hãy tìm kiếm một đối tượng khác. Dần dũng cảm, thích tự do, suy nghĩ thoáng và đặc biệt rất thích làm theo ý mình. Vốn có năng khiếu lãnh đạo bẩm sinh, tuổi Dần có năng lực và cơ thể luôn dồi dào năng lượng. So với Dần, Tỵ có phần nhẹ nhàng hơn. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cả hai đều muốn hút người khác và làm theo những điều mình thích. Vì vậy, dần dần, họ rất khó tìm thấy điểm chung.

Hai “hành tinh” này nếu là đối tác kinh doanh thì tốt hơn là một cặp yêu nhau. Bởi sẽ có rất nhiều lý do tiềm ẩn để cặp đôi này nảy sinh mâu thuẫn. Rắn có tính sở hữu và rất hay ghen trong tình yêu. Rắn cần một bờ vai để dựa khi thấy buồn hoặc thích người yêu mình đưa đi đây đi đó. Tất cả những điểm trên đều rất khó tìm thấy trong con người Hổ bởi Hổ vốn là người thích tự do và thích làm theo cách riêng của mình.

Tuy vậy, họ lại cùng nhau làm ăn khá tốt. Tuổi Rắn vốn rất may mắn trong chuyện kiếm tiền nhờ khả năng đối ngoại và giao tiếp tốt. Bên cạnh đó, tuổi Hổ dũng cảm và tính tình khá thoáng sẽ biết cách để thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh phát triển mạnh mẽ. Vậy nhưng vấn đề mấu chốt là hai con giáp này cần hiểu và hỗ trợ cho nhau.

Tuổi Dần và Tuổi Ngọ

Một cặp tuyệt vời, tràn đầy hạnh phúc. Cùng có cái nhìn lạc quan về cuộc sống và tình yêu, rất tâm đầu ý hợp. Cả hai cùng ra sức xây dựng và vun đắp cho mối quan hệ tốt đẹp này. Tuổi Ngọ và Dần dường như là một cặp trời sinh, bởi họ có khá nhiều điểm tương đồng: cùng lạc quan, dí dỏm và đầy nhiệt năng. Khi đi với nhau, thì dù là bạn bè, người yêu, hay đối tác làm ăn, họ đều có thể hòa hợp viên mãn. Không chỉ thế, khi hai “hành tinh” này hút nhau, họ còn tạo nên một quỹ đạo lớn với các vệ tinh quay xung quanh - là cả nhóm bạn đa dạng.

Không nghi ngờ gì nữa, người tuổi Hổ sẽ lãnh đạo nhóm này, nhưng tuổi Ngựa sẽ chỉ phụ họa chứ không ăn theo, vì bản chất người tuổi Ngựa là độc lập. Khi chỉ có “hai mình”, sẽ không có ai là thủ lĩnh nữa, vì cả hai đều cùng quan điểm sống, cùng một tầm nhìn chung.

Sự yêu đời và tính sáng tạo giúp đôi uyên ương luôn có thể refresh mối quan hệ của họ. Tuổi Ngựa có xu hướng hãm phanh yêu nếu đối phương đòi ràng buộc, nhưng họ không phải lo sợ điều này ở tuổi Hổ. Cả hai đều nhất trí rằng mỗi người đều có khoảng trời riêng, có thể du hý nơi này nơi khác mà nhất thời không phải quan tâm đến nửa còn lại. Làm bạn tình, họ thực sự đưa nhau đến những miền đất hứa, nhưng có vẻ như cái suy nghĩ “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt” quá mạnh, nên đôi bên khó có thể kéo dài cuộc tình.

Về phương diện kinh doanh, Hổ và Ngựa có thể hợp tác tốt. Họ sẽ tạo nên một môi trường làm việc hứng thú, vui vẻ và năng động. Công việc sẽ tăng trưởng tốt nhờ vào những sáng kiến tốt đẹp và tư duy luôn đổi mới. Tất nhiên, trong công việc, người tuổi Hổ nên đóng vai trò chỉ đạo, và phải để mắt tới tuổi Ngựa vì họ rất dễ “nhảy việc”.

Tuổi Dần và Tuổi Mùi

Sự mạnh mẽ của bạn sẽ áp đảo khả năng làm chủ của người tuổi Mùi. Bản tính yếu đuối cần được che chở của người này sẽ nhanh chóng khiến bạn nhận ra mình đang lún sâu, không dễ gì từ bỏ mối quan hệ này. Dần bản chất dũng cảm, can đảm và có sức hút rất lớn có thể lấn át Mùi. Sớm hay muộn, Mùi sẽ đòi hỏi và yêu cầu Dần phải làm theo ý kiến của mình. Tuổi Dần vốn thích tự do bởi vậy nên không dễ dàng để mình bị trói buộc vào những khuôn phép mà tuổi Mùi đặt ra. Mùi vốn nhạy cảm, sáng tạo và đặc biệt mong muốn được an toàn trong tình yêu. Lúc đầu, Dần còn chiều chuộng nhưng bản tính của người cầm tinh con Hổ là đặt quyền độc lập, tự do lên trên hết. Vậy nên, nếu tuổi Mùi càng đòi hỏi và yêu cầu càng nhiều thì Dần càng tách khỏi mối quan hệ và có thể chẳng bao giờ trở lại.

Tuổi Dần dũng cảm, gan dạ và thích nắm quyền. Tuổi Mùi tuy thích hướng về ngôi nhà của mình và có phần nhút nhát hơn nhưng không vì thế mà không làm việc theo ý mình. Mùi cũng thích thể hiện mình trong công việc và đi theo con đường riêng mà không cần sự lãnh đạo của Dần.

Nếu hai “hành tinh” này là đồng nghiệp, Dần cần để không gian cho Mùi phát huy khả năng sáng tạo. Tuy trong con người Mùi có tính nghệ sỹ nhưng không vì thế mà không đảm nhiệm tốt được công việc kinh doanh. Trong công việc, Mùi không thích mạo hiểm, làm điều gì cũng phải chắc chắn. Dù gì thì Mùi vẫn may mắn vì được làm việc cùng Dần vì sự lạc quan, dũng cảm, hài hước của Dần là món quà tặng lớn đối với tuổi Mùi vốn bi quan và mẫn cảm.

Tuổi Dần và Tuổi Thân

Một cuộc tình không đáng để bạn theo đuổi. Bạn sẽ chỉ làm cả hai đau khổ đến chết. Những cuộc cãi vã nhỏ nhặt và kéo dài triền miên sẽ làm cuộc sống trở nên ngột ngạt bế tắc. Hổ và Khỉ khó có thể tìm thấy những điểm chung. Là hai con giáp đối nghịch nhau trong vòng Hoàng đạo, giữa họ thường xuyên có mâu thuẫn. Ban đầu, họ khá cuốn hút nhau bởi cả hai đều hài hước, dễ tính. Người tuổi Hổ dũng cảm, gan dạ và khá ga lăng khiến tuổi Thân rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, dần dần, tuổi Thân ngày càng tỏ rõ sự khoe khoang và thích cạnh tranh với tuổi Dần để được chú ý hoặc tranh giành vị trí dẫn đầu. Còn Dần thì luôn luôn coi mình mới xứng với vị trí chỉ huy. Bởi vậy, trong mắt của Dần, Thân khá nhỏ mọn và phù phiếm.

Khi là một cặp uyên ương, hai con giáp này tạo cho nhau không khí vui vẻ cũng có nhưng cũng rất hay cãi vã lẫn nhau. Tuổi Thân hay tò mò lại thích đàn đúm bạn bè. Đôi khi người tuổi Thân không để ý rằng: Dần thích tự do và muốn làm những việc riêng cho mình. Dần dần, Hổ thấy ngán ngẩm và muốn rời xa người yêu lúc nào cũng muốn sở hữu và gò bó mình. Cả hai đều chạy theo sở thích riêng của mình: Tuổi Thân muốn mình sống thật thoải mái còn tuổi Dần cần tự do. Bởi vậy, hai người này khó gắn kết chặt chẽ với nhau.

Trong công việc, hai “hành tinh” này cũng có nhiều việc cần bàn. Dần nghiêm khắc và yêu cầu Thân phải làm việc nhiều hơn trong khi đó, Thân thích chơi nhiều hơn làm. Hai con giáp này nhanh chóng chán nhau bởi Thân coi Dần là kẻ thích làm bề trên còn trong mắt Dần, Thân là mẫu người lông bông và ham chơi.

Tuổi Dần và Tuổi Dậu

Không hiểu rõ về nhau sẽ làm phát sinh những vấn đề nghiệm trọng. Thêm vào đó, sự lấn áp lạm quyền sẽ gây ra nhiều mâu thuẫn. Để mối quan hệ bền vững, cả hai đều cần nhún nhường một chút để chiều người kia. Khi cả hai đều tỏ ra mình là người quan trọng thì mâu thuẫn khó có thể tránh khỏi. Tuổi Dậu khá cầu toàn, điều này có thể coi là đòi hỏi khá lớn đối với tuổi Dần bởi người cầm tinh con Hổ không muốn tuân theo bất kỳ sự dạy bảo nào mà luôn làm theo cách riêng của mình. Dần vốn dễ tính; ban đầu cũng nghe theo những lời của Dậu nhưng dần dần Dậu ngày càng hay la mắng và chỉ bảo nên Dần tỏ ra không chịu nổi.

Nếu là một đôi uyên ương, hai con giáp này thường xuyên xảy ra khẩu chiến. Dần không chịu tuân theo những quy tắc mà Dậu đặt ra. Điều này làm người tuổi Gà vô cùng khó chịu và luôn nghĩ rằng: Người tuổi Hổ luộm thuộm và chỉ làm theo ý mình. Còn trong con mắt tuổi Hổ thì Gà thích chuyên quyền và hay “xía” vào chuyện của người khác. Trên thực tế, tuổi Hổ thích là người dẫn đầu; còn Gà thích được tôn trọng và muốn người khác làm theo ý kiến của mình. Hai tính cách đó khó có thể hòa hợp được.

Tuy nhiên, nếu Dần và Dậu là đối tác kinh doanh, họ sẽ kết hợp với nhau khá tốt. Trong lĩnh vực này, Dần đánh giá cao Dậu về những nỗ lực cải thiện công việc và năng lực làm việc khiến Dần không thể phàn nàn. Người tuổi Gà thì vui vẻ để tuổi Hổ đứng ở vị trí dẫn đầu và tình nguyện làm hậu phương vững chắc.

Tuổi Dần và Tuổi Tuất

Một cặp xứng đôi vừa lứa. Cả hai đều dành cho nhau những tình cảm sâu đậm thắm thiết. Có nhiều điểm chung, ngay cả những khác biệt của cả hai cũng sẽ bù đắp bổ sung cho nhau.

Dần và Tuất có khá nhiều điểm chung và người này luôn tìm cách làm cho người kia hài lòng. Hai hành tinh này trung thành và luôn thích bảo vệ nhau. Bởi vậy, nếu hai người có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhất là về mặt tình cảm thì cả hai đều thấy rất an tâm và hoàn toàn tin tưởng vào nhau. Thông thường, Dần thường muốn chạy khỏi những mối quan hệ có tính chất gò bó hoặc hạn chế tự do. Nhưng riêng đối với Tuất, sự ràng buộc giữa hai người là hoàn toàn hợp lý và thậm chí, Dần còn thích sự ràng buộc hết sức tế nhị đó. Dường như, Dần luôn ủng hộ Tuất trong các hoạt động trong đời sống thường ngày và Tuất thấy mình may mắn và hào hứng đón nhận được điều đó. Đôi khi tuổi Tuất hơi bi quan và không đặt niềm tin nhiều vào người khác. Tuy vậy, đối với Dần thì Tuất hoàn toàn khác, Tuất thấy mình vững vàng hơn khi được ở bên Dần.

Khi là một cặp uyên ương, hai con giáp này tạo được không khí vui vẻ cho nhau và sắp xếp thời gian hợp lý cho cả việc chung và việc riêng. Điều này là yếu tố hết sức quan trọng để tuổi Dần có thể giữ được cân bằng cho cuộc sống. Mặc dù, người tuổi Tuất có đôi lúc nhạy cảm và cần thời gian một mình; mặc dù cả hai đều thích làm theo ý mình nhưng cả hai đều trung thực và thành thật với nhau. Bởi vậy, Dần và Tuất rất tôn trọng nhau và mối quan hệ của họ khá bền vững.

Nếu là đối tác kinh doanh, hai con giáp này sẽ kết hợp khá ăn ý với nhau tạo thành một đế chế thịnh vượng và phát triển. Đó là sự kết hợp của sự thông minh, dũng cảm, sáng tạo của tuổi Dần và sự trung thành và đáng tin cậy của tuổi Tuất. Thỉnh thoảng, Tuất cũng góp những ý tưởng mới cho công việc chung của hai người, bởi vậy việc kinh doanh chung của hai hành tinh này khá thuận lợi. Điều mà Tuất thấy không hài lòng nhất ở Dần là: Đôi khi Dần nhanh chán và ít kiên trì hơn Tuất. Tuy nhiên, mọi bất đồng đều được giải quyết khá ổn thỏa.

Tuổi Dần và Tuổi Hợi

Dần và Hợi có thể trở thành một cặp ăn ý nếu cả hai cùng ứng xử linh hoạt và tin tưởng lẫn nhau. Tuổi Hợi dễ tính, rộng lượng và thường đánh giá người khác qua những điểm tích cực. Điều này khiến mối quan hệ của hai người thêm nhẹ nhàng và thoải mái. Dần lịch sự và luôn sống lạc quan. Tuy nhiên, có một số những tình huống khiến hai con giáp này chuyển từ thái độ tích cực thành tiêu cực. Với người tuổi Dần, những người muốn sở hữu và hạn chế sự tự do Dần đều khiến mối quan hệ giữa hai người trở nên xa lạ mà thôi. Tự do và quyền tự chủ là yếu tố hết sức quan trọng với Dần. Còn Hợi thích được sự hỗ trợ của người khác và muốn hướng về gia đình nhưng đôi khi không tìm thấy điều đó ở Dần.

Nếu mối quan hệ giữa Dần và Hợi là tình cảm lứa đôi, hai tuổi này cần tạo không gian riêng cho nhau để làm theo những điều mỗi người mong muốn. Hợi phải nhường nhịn Dần và ngược lại Dần cần hỗ trợ Hợi càng nhiều càng tốt. Nếu Dần cảm thấy bản thân mình không bị ràng buộc và hạn chế tự do bởi Hợi thì mối quan hệ của họ sẽ có chiều hướng phát triển tích cực.

Khi là đối tác kinh doanh, Dần và Hợi sẽ tạo thành một tập thể vững vàng với điều kiện cả hai cùng đi chung một con đường. Hợi khá chăm chỉ và sự nỗ lực của Hợi sẽ tạo tiền đề thật tốt để Dần phát triển ý tưởng sáng tạo trong kinh doanh.

6. Vận mệnh người tuổi Dần với tháng sinh

Sinh tháng Giêng

Tiết Đầu xuân, mọi thứ đổi mới, vùng vẫy tứ phương, danh vang bốn bể, gia vận hưng thịnh, cốt cách hiếm quí, ý chí kiên cường, được cả danh và lợi, không quỵ lụy ai, phú quý cát tường, con hiền cháu giỏi.

Sinh tháng ba

Tiết thanh minh, có ngày nở mày nở mặt, sẵn có uy quyền, mọi người kính trọng, có thể xung thiên lập đại công, địa vị cao, nhà cửa thì có khí tượng, mới song vẫn giữ được qui mô xưa kia của gia thế.

Sinh tháng tư

Tiết Lập hạ, trong trẻo ấm áp, vân du tứ hải, nhà cửa đông vui, gia đạo tốt tươi, là người có tướng làm quan, gia đình hòa mục,anh em thân thiết, con cái đỗ đạt hiền lương, ông bà vợ chồng sum vầy, nuôi kẻ dại thành người khôn, cả đời không phiền não, mọi việc thuận lợi.

Sinh tháng năm

Tiết Mang chủng, có cơ hội để làm, mình làm mình ăn, có thái độ tôn nghiêm, tiến thoái tự do, văn võ kiêm toàn, đảm lược hơn người, lập đại nghiệp, tính tình đôn hậu, bản chất cương cường, bất hòa với người, cứ phấn đấu tiến lên khắc có cơ hội thành công, khí thế quyền lực, bị người ta làm khó, tay trắng lập nghiệp, phú quí thành công.

Sinh tháng sáu

Tiết Tiểu thử, uống nước không có nguồn, khát cháy cổ, chỗ nào cũng khó khăn, khí lực có thừa, tài lực không đủ, là nạn trời tạo, có hoài bão song khó toại nguyện. Vất vả, mất mát nhiều, tuy có tài năng, song không đắc chí, hiệp nghĩa can trường, ít ai bằng, cả đời thiếu cơ hội tốt.

Sinh tháng bảy

Tiết Lập thu, hổ mùa thu đặc biệt lợi hại, tính khí cương cường, ý chí sắc bén, vất vả trèo non lội suối, dễ như trở bàn tay, nạn vào nơi nước sôi lửa bỏng, chẳng ngại ngần gì, có thể khắc phục mọi khó khăn, mọi việc đều có khả năng thành công.

Sinh tháng tám

Tiết Bạch lộ, có tài nhìn xa trông rộng, trước sau như một, hiển đạt bốn bể, một tay giữ vững thiên hạ, được người nể phục, uy chấn mọi người, vạn sự như ý, là phúc trời ban, thông minh lanh lợi hoạt bát, văn chương cái thế, danh vang tứ phương.

Sinh tháng chín

Tiết Hàn lộ, thiếu tính tự lập, dựa dẫm vào người khác, mọi chuyện trắc trở, mong mà không toại, biết trách ai, có lực không xuất, sẽ ăn sạt cả núi, công việc buông lơi, không gánh được trọng trách, bụng đầy kinh luân, sinh không gặp thời, chỉ mong bình an, ít mưu nghiệp lớn, chỉ trông đợi ở con cháu thôi.

Sinh tháng mười

Tiết Lập đông, số xa nhà vất vả gian truân, mưu cầu khá suôn sẻ, có chí song một thân một mình khó giữ, là người thông minh, nhanh nhạy, hiền lành nghĩa khí ôn hòa, thuận trời nghe mệnh, ai thành công khắc có ngày mãn nguyện.

Sinh tháng mười một

Tiết Đại tuyết, nơi nơi đều là địch, xuất hành gian nan, ưu sầu không thôi, có số sát thương bệnh tật, hình phạt đoản mệnh, gia vận phức tạp, trắc trở, tai họa bất ngờ, hiểm nguy chờ sẵn, phải luôn cẩn thận.

Sinh tháng mười hai

Tiết Tiểu hàn, lo âu dồn dập, lành ít dữ nhiều, gặp kẻ ám hại, có tránh cũng không được, cái ăn cái mặc không đều, đề phòng họa sát thân, rơi vào hàn cảnh khổ sở. Mọi việc khó thành, hành động không suôn sẻ đành an phận thủ thường, tránh ra ngoài, thận trọng cũng là điều may vậy.

7. Vận mệnh người tuổi Dần

Bính Dần - 1986: Hổ trong rừng (Lư trung hỏa)

Tính tình của họ có phần tự do, phóng túng, khả năng tự kiềm chế kém. Họ giống như một mũi tên đã được đặt sẵn vào cung: nếu để yên thì không sao nhưng chỉ cần bắn ra là sẽ khiến cho mọi người đều thấy kinh ngạc. Với sự nghiệp và công việc, họ luôn tràn đầy nhiệt huyết, thích khai phá những điều mới lạ và cũng luôn có tinh thần đổi mới. Khả năng lãnh đạo của họ cũng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, ý thức độc lập mạnh mẽ của họ thường khiến cho cấp trên cảm thấy đau đầu vì lo rằng sẽ khó kiểm soát, quản thúc được họ. Khi làm việc, người tuổi Dần mệnh Hỏa thường không có chừng mực, hay vội vàng, đôi khi thích theo đuổi sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài. Nếu biết kiềm chế hơn và cẩn trọng trong công việc, thành công sẽ đến với họ nhanh hơn. Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì người này tuy rất biết mình nhưng trợ lực lại không lớn, có chí mà việc khó thành, cuộc sống tầm thường bình lặng, khó phát huy được hết tài năng của mình.

Mậu Dần - 1998: Hổ quá sơn (Thành đầu thổ)

Đây là người điềm tĩnh, luôn có ý chí vươn lên mạnh mẽ. Họ không thường rất nghiêm túc trong công việc và cuộc sống. Người tuổi Dần mệnh Thổ rất ham mê công việc, luôn đề ra mục tiêu cho bản thân để phấn đấu. Sự nỗ lực hết mình trong công việc của họ đôi khi khiến người xung quanh phải ngạc nhiên. Họ coi trọng thực tế, có khả năng suy xét mọi việc rất tốt. Họ hiểu mình muốn gì nhưng lại không thích bày tỏ những suy nghĩ nội tâm. Họ không tin vào những lý luận theo kiểu suy diễn mà chỉ tin vào những gì mình tận mắt nhìn thấy. Đa số người tuổi Dần mệnh Thổ có kiến thức khá sâu rộng không chỉ về chuyên môn mà cả những lĩnh vực khác của đời sống. Họ luôn cân nhắc trong hành động, lời nói và biết cách xử lý các mối quan hệ 1 cách hài hòa. Họ biết rõ lúc nào cần tiến tới và lúc nào nên dừng lại hoặc thoái lui để phù hợp với thiên thời địa lợi. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ có thể nhận thấy thời cơ để hành động, biết cách phân phối thời gian, xử lý mọi việc nhanh chóng, tích cực tiến lên phía trước, biết tiếp thu những điều hay lẽ phải nên sẽ được hưởng phú quý. Ngược lại, những người không có sao tốt tương trợ trong cung mệnh lại thường thiếu ý chí và sự tự tin, khó tránh khỏi bất lợi, sự nghiệp khó thành công.

Canh Dần – 1950, 2010: Hổ xuất sơn (Tùng bách mộc)

Họ có cá tính mạnh mẽ, thường thích làm những việc "khác người" và lấy đó là niềm vui. Tính tích cực và vươn lên mạnh mẽ của Mộc cùng sự kiêu hãnh của tuổi Dần khiến cho người này luôn ghét sự bó buộc hoặc bị người khác chỉ đạo. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vì đại cục hoặc vì sự thành công của bản thân, rất có thể họ sẽ nhượng bộ. Người tuổi Dần mệnh Mộc biết cách hợp tác nhằm theo đuổi mục tiêu chung của tập thể. Sự dung hòa trong một chừng mực nhất định đem lại cho họ thuận lợi trong công việc. Vì vậy, họ còn được đánh giá là những cao thủ trong giao tiếp xã hội. Đây cũng là những người sống cao thượng và trọng danh dự. Nếu được sao tốt tương trợ, sự nghiệp của họ sẽ gặp nhiều thuận lợi, có thể tạo dựng thành công lớn nơi đất khách quê người. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ thường có suy nghĩ nông cạn, than thân trách phận, dễ nói ra những lời gây tổn thương cho người khác. Khi đó, cả sự nghiệp và tình duyên của họ đều không được như ý muốn, hoàn cảnh sống cũng trở nên khó khăn, thiếu thốn.

Nhâm Dần - 1962: Hổ quá lâm (Kim bạc kim)

Họ yêu thích sự tự do trong cuộc sống và sự tự chủ trong công việc. Họ không muốn bị người khác lãnh đạo hay sai bảo. Dám nghĩ dám làm là điểm nổi bật trong tính cách của người tuổi Dần mệnh Kim. Họ cũng luôn nhiệt tình giúp đỡ người thân, bạn bè. Những con người ngay thẳng và chính trực này thường khá linh hoạt, biết tùy cơ ứng biến trong mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, họ giống người tuổi Dần mệnh Hỏa ở tính cách nóng vội. Đây là điều mà cả hai nên học tập người tuổi Dần mệnh Thủy. Nếu khắc phục được nhược điểm này, thành công sẽ đến với họ dễ dàng hơn. Đa số người tuổi Dần mệnh Kim có hiểu biết rộng, có khả năng giải quyết công việc một cách hiệu quả và biết cách quản lý tài chính. Nếu được sao tốt tương trợ thì mọi việc với họ đều trở nên thuận lợi. Họ luôn ngay thẳng, chính trực, có đối sách kịp thời trước mọi nguy cơ, biết tùy cơ ứng biến. Tuy khó tạo dựng được sự nghiệp lớn nhưng họ cũng không phải lo lắng về tiền tài, việc kinh doanh sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì họ thường vì theo đuổi thiếu những thiếu thực tế mà không đạt được kết quả gì. Hơn nữa, họ cũng thường xuyên vướng vào những chuyện thị phi, ảnh hưởng sự nghiệp. Đôi khi, vì chạy theo sự tư lợi mà họ không thể sống an phận, thậm chí còn tự chuốc lấy nhiều rắc rối, thất bại.

Giáp Dần - 1974: Hổ đứng (Đại khê thủy)

Họ thường có vẻ ngoài hiền hòa nhưng nội tâm thì lại cứng rắn, cương nghị. Dù không nói ra nhưng họ không thích bị ngựời khác vượt qua hay nổi trội hơn mình. Chính vì vậy, họ thường lặng lẽ làm tốt mọi việc, dùng kết quả để chứng minh cho năng lực của mình. Họ cũng là người sống khá nội tâm. Họ thường rất tin tưởng vào thực lực của mình. Dù gặp phải khó khăn thử thách nào, họ cũng có thể làm việc theo đúng kế hoạch đã định và không vì một cản trở nhỏ mà làm hỏng việc. Có thể nói, họ là người bình tĩnh và luôn tỉnh táo. Những người này luôn thích tìm tòi, khám phá và suy xét chính xác về mọi việc. Họ khá giỏi trong việc nắm bắt suy nghĩ cũng như xu thế sẽ thịnh hành trong tương lai. Nếu được sao tốt tương trợ thì với tư duy nhanh nhạy và khả năng xuất chúng của mình, người tuổi Dần mệnh Thủy sẽ có được địa vị cao trong xã hội hoặc trở thành những doanh nhân thành đạt, được nhiều người kính trọng, ngưỡng mộ. Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì với tính cách cố chấp, tự tư tự lợi của mình, họ sẽ khó làm nên nghiệp lớn.

Xem thêm:

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Dần với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Dần

Đường chỉ tay tiết lộ độ dũng cảm của bạn

Bạn xòe lòng bàn tay trái và xem chúng thuộc A hay B nào?
Đường chỉ tay tiết lộ độ dũng cảm của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

duong-chi-tay-tiet-lo-do-dung-cam-cua-ban
A B

Mộc Trà (theo Buzz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường chỉ tay tiết lộ độ dũng cảm của bạn

Bài học cuộc sống: Sự nóng giận

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức.Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”
Bài học cuộc sống: Sự nóng giận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá.
Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.”

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức.

Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”

Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống.

“Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”

Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn.

Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường.

Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.”

Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn.

Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.

Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”

Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai.

“Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.

“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”

Theo Bài Học Cuộc Sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học cuộc sống: Sự nóng giận

Giải nghĩa sao Thiên đồng trong lá số Tử vi –

Trong tử vi thì Sao Thiên đồng chủ về phúc thọ, hóa khí là phúc, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa; lại chủ về mệnh giỏi văn chương, âm nhạc nhưng khả năng truyền đạt không tốt. Khi thiếu niên hoặc về già chủ về muôn sự cát lợi, được ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi thì Sao Thiên đồng chủ về phúc thọ, hóa khí là phúc, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa; lại chủ về mệnh giỏi văn chương, âm nhạc nhưng khả năng truyền đạt không tốt.

Khi thiếu niên hoặc về già chủ về muôn sự cát lợi, được cha mẹ yêu quý, che chở từ nhỏ, an hưởng tuổi già, con cái hiếu thuận, cuộc sông thoải mái.

sao-tu-vi-1387874084

Trong Lá số Tử vi, Thiên đồng ưa nhất gặp Thái âm ở chỗ Tý, là cách cục Thủy trừng quế ngạc, chủ về làm quan thanh liêm, có bất động, có cha mẹ mẫu mực, mệnh nữ nên làm vợ lẽ. Nếu Thiên đồng, Thái âm ở Ngọ thì mệnh nam đào hoa, mệnh nữ có cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.

Thiên đồng ưa tọa cung Điền trạch, có tiền tài.

Thiên đồng, Thiên lương tại Thân, Dần, mệnh nữ nên làm vợ lẽ.

Mệnh nữ có Thiên đồng tọa Mệnh rất đáng yêu, được chồng yêu chiều.

Thiên đồng và Đà la đồng cung dễ phát phì.

Thiên đồng và Dương nhẫn đồng cung dễ bị thương bên ngoài.

Thiên đồng tọa cung Mệnh, cung Thân trong lá số tử vi , dù nam hay nữ đều có khuyết điểm là quá tùy tiện, không biết phân biệt chính tà phải trái.

Ngưòi có Thiên đồng tọa thủ cung Mệnh nên mập không nên gầy, mập sẽ có phúc, gầy thì mệnh khổ; cũng không thể quá mập. Mệnh nữ có tư tưởng cam chịu, phó mặc cho sô” phận.

Thiên đồng ưa tọa cung Phúc đức, chủ về hưởng phúc.

Thiên đồng tọa cung Phu thê hoặc tổ hợp sao Thiên đồng như Thiên đồng, Thiên lương; Thiên đồng, Thái âm; Thiên đồng, Cự môn tọa cung Phu thê nên kết hôn muộn.

Trong tử vi Thiên đồng không ưa đồng cung vối Cự môn, dù tọa cung nào đều không cát lợi, chủ về nội tâm đau khổ, tinh thần dày vò, u uất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa sao Thiên đồng trong lá số Tử vi –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1947 Đinh Hợi –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1947: - Năm sinh dương lịch: 1947 - Năm sinh âm lịch: Đinh Hợi - Quẻ mệnh: Cấn Thổ - Ngũ hành: Ốc Thượng Thổ (Đất nóc nhà) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch h - Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1947:

Green-Kitchen-Design-with-White-Kitchen-Furniture-via-besthomedesigns_org

– Năm sinh dương lịch: 1947

– Năm sinh âm lịch: Đinh Hợi

– Quẻ mệnh: Cấn Thổ

– Ngũ hành: Ốc Thượng Thổ (Đất nóc nhà)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch h

– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);

– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);

Cửa của bếp nấu không được để thẳng với cửa chính của nhà, hoặc nhìn thẳng vào cửa phòng ngủ, người nằm ngủ sẽ gặp tai ương tật ách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1947 Đinh Hợi –

Top 5 con giáp dễ lên xe hoa trong năm 2015

Tình duyên của người tuổi Mão, Ngọ trong năm Mùi khá thuận lợi nên khả năng tổ chức đám cưới của con giáp này là rất lớn.
Top 5 con giáp dễ lên xe hoa trong năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Mão

mao-5412-1422580811.jpg

Tình duyên của người tuổi Mão trong năm Mùi khá thuận lợi. Đặc biệt, tình cảm đôi bên càng thêm gắn kết và sâu đậm đến mức có thể tiến tới hôn nhân bền vững. Dù đang FA hay đã có gấu, chuyện tình cảm của con giáp này khởi sắc ở ba tháng giữa năm 2015 và hứa hẹn sự “bùng nổ” bất ngờ về cuối năm.

Tuổi Ngọ

Mặc dù tình cảm đã sâu đậm, cả hai đều đang phấn đấu để ổn định kinh tế trước khi đi tới quyết định “sống chung một mái nhà” với nhau. Nửa kia của bạn là người biết vun vén, phấn đấu cho gia đình và hết mực yêu thương bạn. Tất cả phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn mà thôi. Dù sao, tỷ lệ kết hôn trong năm nay của bạn khá cao.

Tuổi Thân

than-9604-1422580811.jpg

Tình duyên của người tuổi Thân phát triển vô cùng thuận lợi, thậm chí đạt mức đỉnh điểm. Năm Mùi rất phù hợp cho việc kết hôn của con giáp này. Tuy nhiên, để có được “happy ending” ấy, đòi hỏi cả hai cùng phải nhường nhịn, dành nhiều thời gian để quan tâm đối phương hơn nữa.

Tuổi Dần

Năm nay, tình duyên của người tuổi Dần được ví như “sau cơn mưa trời lại sáng”. Mọi sóng gió sẽ qua đi, chỉ còn lại những cảm xúc ngọt ngào thăng hoa. Điều đó hứa hẹn một cái kết viên mãn, hạnh phúc cho con giáp này. 

Tuổi Hợi

hoi-4536-1422580811.jpg

Người tuổi Hợi ham chơi là vậy, nhưng khi đã “tập xác định” chuyện tình cảm, rất dễ dẫn đến hôn nhân bền vững. Đối với con giáp này, năm Mùi là “thời cơ chín muồi” để họ có thể nắm bắt hạnh phúc của đời mình. Tuy nhiên, tỷ lệ vẫn là 50-50. Kết quả cuối cùng ra sao vẫn còn phù thuộc vào quyết định của người tuổi Hợi.

Mr.Bull (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp dễ lên xe hoa trong năm 2015

Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Chúng ta đầu thai hay chuyển kiếp là do nhân duyên của mình mà thành nên luôn có mối quan hệ chặt chẽ với bố mẹ hay anh chị em trong nhà.
Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Không ít lần chúng ta từng thắc mắc vì sao mình sinh trong gia đình như thế này còn có những người may mắn hơn sinh ra trong gia đình giàu có, sung túc. Thậm chí có người sống trong nhung lụa suốt đời còn mình thì không?    Vậy, tại sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình? Theo như Phật đã giải thích, việc chúng ta đầu thai trong gia đình mình hay người kia đầu thai trong gia đình khác hoàn toàn không phải việc ngẫu nhiên. Tất cả là do nghiệp lực hay số phận đã được sắp đặt, có thể nói đó là điều không thể thay đổi, nếu muốn, bạn chỉ có thể thay đổi hành vi của mình trong cuộc sống hiện tại.    Nếu duyên phận của một đứa trẻ với gia đình nào đó chỉ rất ngắn, dường như chỉ đi lướt qua nhau thì việc đứa trẻ đó sống trên cõi đời này trong một thời gia ngắn cũng là điều giải thích được. Một đứa trẻ ngoan hay hư một phần là do cách giáo dục nhưng đa phần là do cộng nghiệp mà thành nên chúng đến kiếp này để đòi bạn trả nợ hay là hỗ trợ, che chở cho bạn.   Vì thế, chúng ta đầu thai trong gia đình nào là do bốn loại duyên phận với cha mẹ, anh em trong nhà. Duyên phận khác nhau thì tình huống chung sống giữa cha mẹ và con cái cũng khác nhau.   Dưới đây là 4 loại duyên phận của con cái. Là cha mẹ, bạn cần nhìn thấu suốt mối nhân duyên ràng buộc này. Chúng nhận bạn làm cha mẹ rốt cuộc là do cơ duyên gì, là thiện duyên hay là ác duyên?

Tham khảo: Làm sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào 
 

Vi sao chung ta dau thai lam con cua bo me minh
 

Đầu thai để đòi nợ

  Có những bậc phụ huynh rất đau đầu khi con cái phá phách, tiêu tốn quá nhiều tiền bạc, tài sản khiến họ phải nai lưng ra trả nợ hết lần này tới lần khác. Thậm chí khi chúng lập gia đình họ vẫn phải cưu mang cả gia đình của con. Thực ra đó là khi người con đó đang đòi lại nợ kiếp trước mà bố mẹ của họ đã nợ không kịp trả hết.

Nếu kiếp này bạn đã trả được hết nợ cho họ ở thời điểm nào thì lập tức họ rời đi nhưng nếu nợ càng nhiều thì chúng đeo bám bạn càng lâu. Vì thế, nếu một đứa trẻ không thể ở lâu bên bạn thì đừng quá buồn khổ, hãy nghĩ rằng vạn sự tùy duyên và duyên lành hay không thì họ chỉ được ở bên bạn chừng đó thời gian mà thôi. Khi đó, hãy cố gắng sống tốt và cầu chúc cho con của mình sớm siêu thoát sang cảnh giới tốt đẹp hơn, nếu được sinh ra làm người sẽ có cuộc sống ý nghĩa hơn.
 
Xem thêm: Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết

Đầu thai để trả nợ

  Bạn đã từng thấy có những người con vô cùng hiếu thuận dù bố mẹ có thế nào đi nữa họ vẫn hi sinh mọi thứ để chăm sóc, nuôi dưỡng đấng sinh thành. Họ sẵn sàng đi làm xa nhà để gửi tiền về cho bố mẹ mỗi tháng, điều đó có nghĩa là những đứa con này đầu thai để trả nợ. Nếu món nợ lớn, sau khi trưởng thành họ sẽ sẵn lòng cung cấp cho cha mẹ một cuộc sống sung túc, vui sướng tận hưởng tuổi già. Có khi bố mẹ sống dựa hoàn toàn vào sự chu cấp của con cái mà không hề nhận được một tiếng phàn nào của con.   Bên cạnh đó, nếu con nợ bố mẹ ít tiền thì khi trưởng thành họ cũng không cho đấng sinh thành nhiều tiền, chỉ là số tiền tiêu vặt hàng tháng và bố mẹ cũng không có nhu cầu đòi hỏi gì quá nhiều ở con cái.
 
Dau thai de tra no
 

Đầu thai để báo ơn

  Cũng như những đứa trẻ đầu thai để trả nợ, những người quay lại kiếp này để báo ơn bố mẹ cũng rất yêu thương, quan tâm tới đấng sinh thành. Từ nhỏ tới lớn, đứa trẻ đó rất dễ nuôi, vâng lời, chăm chỉ và dường như bạn không phải quan tâm gì nhiều nhưng tất cả chúng đề rất tình cảm, sống biết trước biết sau.

Những đứa trẻ muốn báo ơn bố mẹ hiện tại thường rất thông minh, ngoan ngoãn, làm tròn trách nhiệm, sẽ chăm sóc phụ huynh của mình tận tình vào những năm cuối đời.
  Vì thế, đang sống trong kiếp này bạn hãy thoải mái trong việc giúp đỡ, hỗ trợ người khác, kết thiện duyên rộng rãi. Cứ gieo phúc phận, niềm tin yêu rồi bạn sẽ nhận được điều tương xứng. Vì theo nhân quả, có thể đời này bạn chưa được báo đáp nhưng nhất định bạn sẽ được nhận quả ngọt theo một cách nào đó mà không thể đoán biết trước được. 

Tham khảo thêm: Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do nghiệp duyên

Dau thai de bao on
 
 

Đầu thai để báo oán

  Trước đây bạn đã từng gieo rắc những điều xấu khiến người đó oán hận, không thể tha thứ thì kiếp này họ đầu thai làm con bạn để làm hại bạn như là cách để trả thù.    Vì thế, nếu con bạn ngỗ ngược, không chịu nghe lời hay thậm chí bất hiếu thì cũng hãy hiểu rằng đó là lúc bạn đang bị báo oán. Có những gia đình thực sự đã bị khánh kiệt, khuynh gia bại sản, tan cửa nát nhà cũng chỉ vì con cái.    Có lẽ bạn sẽ cho rằng đây là kết quả của việc giáo dục trẻ nhỏ không tốt. Những đứa trẻ không biết vâng lời bây giờ quá nhiều. Lẽ nào chúng đều tới để báo oán hay sao?

Nhưng nếu bạn chỉ ngồi oán thán thì cũng chẳng ích gì, bạn nên hiểu rằng đó là những đứa trẻ tới báo oán. Vì thế, cố gắng chấp nhận sự thật và tập sống tốt hơn, cố gắng đứng lên từ những lỗi lầm và cố gắng không gieo thù chuốc oán thêm, thành tâm sám hối sẽ có cơ hội thanh đổi số phận.

Điều này bạn cần phải tự hỏi bản thân mình xem trong cuộc sống bạn vẫn đang gieo thêm nghiệp hay duyên lành. Liệu bạn có đang vui vẻ làm việc thiện, vui vẻ bố thí nhiều hơn hay thường nghĩ cách chiếm lợi của người khác nhiều hơn, đối với tiền bạc, bạn có kỳ kèo thêm bớt hay không?

Tham khảo: Hãy cho người thân của mình cơ hội để siêu thoát 
  Tóm lại, như Đức Phật đã chỉ ra rằng nếu không tồn tại mối nhân duyên nào thì ai đó không có con hay không thể mang thai. Hơn nữa, bạn có thể sinh ra con trai, con gái, hay sinh con một bề cũng được được số mệnh định đoạt. Đứa con mình mang nặng đẻ đau có trở thành đứa ngoan ngoãn, hiếu thảo không hoàn toàn do bố mẹ chúng quyết định mà phần lớn là do số mệnh, mọi việc đã được sắp đặt từ trước. 

Nếu sinh con ra không được như ý muốn thì cũng đừng buồn giận, chỉ là ta đang phải trả nghiệp cho kiếp trước hay cho những gì ta làm trong quá khứ mà thôi.
  Vận mệnh hay số mệnh được hiểu là thân phận, phúc họa, sang hèn, vinh nhục... là những điều thuộc về số phận. Điều bạn có thể thay đổi đó là hành vi hiện tại, vì đó là nhân để tạo ra quả về sau, có khi ở trong đời này hoặc sẽ tạo ra quả ở đời sau. Sinh con ra khó nhọc, nuôi nấng con còn khó nhọc hơn. Làm bậc cha mẹ, hãy nên tích đức cho con cái, đừng vì tham lam mà làm điều ác để lấy nhà cao cửa rộng cho con; cũng đừng vì ích kỷ, thù hằn cá nhân mà gây ác nghiệp, có thể kiếp sau quả báo mới tới, nhưng cũng có thể kiếp này đã tới ngay trong đời con.
Oán trách chính là một liều thuốc độc vì nó sẽ hủy hoại ý chí của bạn, ăn mòn ngọn lửa nhiệt tình trong tim bạn. Oán trách vận mệnh mình không bằng tự thay đổi vận mệnh của mình. Bản thân cuộc sống vốn không có gì là khổ cực, con người chỉ vì trong tâm chứa quá nhiều dục vọng ham muốn mới tự làm mình khổ đau. Oán trách cuộc sống không bằng tự cải thiện cuộc sống của bản thân mình.
  Cuối cùng, dù là duyên nghiệp như nào trong kiếp trước, thì trong đời này cha mẹ hãy là những tấm gương sáng cho con cái về tu dưỡng đạo đức, hơn nữa cần có trách nhiệm giáo huấn con cái về phương diện này. Chỉ như vậy mới có hy vọng hóa giải những nợ nần, ân oán mà bạn đã tích lại từ đời trước.   Minh Minh

Bảy cửa ải sau khi chết con người phải trải để đầu thai sang kiếp khác Kỳ lạ hiện tượng người đầu thai truyền kiếp có thật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có, được phúc đức bao bọc cả đời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi môi hồng hào, hàm răng trắng đều
 
Đa phần những cô nàng có nét tướng cách này đều được cánh mày râu săn đuổi nhiệt tình. Vì sao ư, vì tính cách họ dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.
 
Hơn thế, người này có ưu điểm rất lớn chính là tính cách dung hòa, điềm tĩnh, lại rất chu đáo, sau này sẽ là người vợ hiền, mẹ đảm, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp. Đây chính là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ được phúc khí bao bọc.
 

Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
2. Tướng mũi cao và thẳng
 
Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có.
 
Người này thông minh lanh lợi, dù không thành công trên con đường học hành nhưng cũng giỏi ở ngành nghề đã chọn. 
 
Sau khi kết hôn, người này được nhờ chồng, đồng thời cũng phò tá tốt cho chồng. Vậy nên họ luôn được chồng yêu mến, cưng chiều.
 
3. Tướng cằm đầy đặn
 
Ưu điểm dễ nhận thấy ở người này là tính cách lạc quan, yêu đời, dễ hòa hợp, thân thiện với mọi người xung quanh.
 
Sách tướng cổ có ghi: “Phong hạm trọng di, vượng phu hưng gia”, nghĩa là phụ nữ có cằm đầy đặn, nhất là hai cằm là quý tướng, giúp hưng vượng nhà chồng.    Có được người vợ luôn được bao bọc bởi phúc khí này nâng khăn sửa túi, gia đình trong ấm ngoài êm, kinh tế ngày càng phát triển dồi dào.
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
4. Chất tóc mềm mại
 
Chủ nhân của chất tóc mềm mại thường có tính cách điềm đạm, dịu dàng, suy nghĩ tích cực, cuộc sống an bình, thư thái. 
 
Trong gia đình, người phụ nữ này đóng vai trò cân đối hài hòa các mối quan hệ, chu toàn mọi việc trong nhà, bề trên người dưới đều ưng thuận.
 
5. Nhân trung sâu, rõ ràng
 
Đa phần phụ nữ có Nhân trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) sâu, rõ ràng đều có khả năng sinh con tốt, con cháu đề huề. Hơn thế, chúng còn thông minh, nhiều phúc đức, có hiếu với cha mẹ. 
 
6. Phần dái tai to bản và dày dặn
 
Người có kiểu tai này nhất định được hưởng số mệnh tốt, phúc đức bao bọc cả đời. Bản thân họ khoan dung, độ lượng, hết mực quan tâm, chăm sóc người xung quanh, nhìn chung nhân duyên tốt đẹp. 
 
Phúc khí ở người phụ nữ này cực lớn, cả nhà bạn sẽ tiếp nhận được phúc khí của cô ấy, hưởng thụ cuộc sống an nhàn, dư dả về vật chất. 
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
7. Khuôn mặt chữ “Điền”   Đặc điểm của khuôn mặt chữ “Điền” là trán hình vuông, khung xương quai hàm nhô ra, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu. 
 
Chủ nhân của tướng mặt này có tâm tính lương thiện, lối sống phóng khoáng, rộng lượng, đối xử tốt với bạn bè, sẵn lòng giúp đỡ người khác. Do đó, họ dễ lọt vào “mắt xanh” của những gia đình danh giá, được hưởng số mệnh phú quý.
 
8. Mắt to, ánh nhìn có thần sắc   Phụ nữ có kiểu mắt to, thần sắc tốt đều xinh đẹp, tâm  hồn ngây thơ, trong sáng, tính cách cởi mở, tốt bụng và rất lạc quan. Chính vì thế mà được phúc khí bao bọc, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Lấy được chồng giỏi giang, thương yêu hết mực cũng là một trong những điều may mắn ấy.  
Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Địa ngục là chốn đau khổ đọa đày mà không một ai muốn phải rơi vào sau khi chết. Những biểu hiện khi sắp chết sau báo hiệu địa ngục đang rộng cửa đón chờ.
Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa ngục là nơi con người trả nghiệp khi sống, là chốn đau khổ đọa đày mà không một ai muốn phải rơi vào sau khi chết. Những biểu hiện khi sắp chết sau báo hiệu địa ngục đang rộng cửa đón chờ.


Dau hieu bao truoc cua nguoi bi roi xuong dia nguc hinh anh
 
Biểu hiện khi sắp chết mà đưa hai tay quờ quạng trên hư không là quỷ địa ngục đang tới chuẩn bị dẫn xuống.
 
Có người trước khi chết, kêu gào la khóc, là đang cố báo cho người thân kêu cầu tránh khỏi kiếp địa ngục.
 
Có người trước khi chết, đi đại tiểu tiện ra ngoài mà không hay không biết.
 
Có người trước khi chết, hai mắt nhắm lại không dám mở ra là vì nhìn thấy quỷ địa ngục tới đón mà sợ hãi.
 
Có người trước khi chết, thường xoay mặt vào vách, hoặc úp mặt xuống giường.
 
Có người trước khi chết, cố nằm nghiêng mà ăn, mình mẩy, miệng mồm hôi hám.
 
Có người trước khi chết, hai chân run rẩy, sống mũi siêu vẹo, là thể hiện sự sợ hãi, biếng dáng đổi hình, sắp sa lầy vào chốn ngục sâu.
 
Có người trước khi chết, hai mắt đỏ ngầu, ấy là sắp biến thành quỷ dưới dịa ngục.
 
Có người trước khi chết, thân hình co rút lại, dần bị rút sự sống mà bước xuống địa ngục.
 
Khi đó, hơi lạnh từ trên đầu xuống đến bàn chân người bệnh, rồi hơi ấm trụ nơi bàn chân. Trường hợp đó, ta biết người này sẽ đọa vào cảnh giới địa ngục xấu ác.
 
Phải rơi vào địa ngục sau khi chết là do khi sống đã tạo nghiệp ác, chết rồi phải trả nghiệp ấy, phải bị trừng phạt. Vì vậy, hãy sống phúc đức, làm điều lành, tránh điều ác để khi sống thì vui vẻ, khi chết thì thanh thản với đời.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo Xuân giao

 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Những mẫu đồng hồ độc đáo cho nhà thêm ấn tượng

Chỉ cần một chút sáng tạo và khéo léo, bạn hoàn toàn có thể tự tay làm cho ngôi nhà của mình trở nên xinh xắn hơn với những mẫu đồng hồ “không đụng hàng”.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đồng hồ cảm hứng… tự do

Đối với chủ nhân yêu thích sự phóng khoáng, thoải mái thì kiểu đồng hồ bất quy tắc chính là sự lựa chọn thú vị và hợp lý hơn cả. Đúng như tên gọi của mình, chiếc đồng hồ không tuân theo bất cứ một quy tắc sắp xếp nào. Những con số tuy được gắn đúng múi giờ nhưng vị trí của nó thì lại có thể ở bất kỳ đâu, tùy theo... cảm hứng cá nhân.


Vị trí kim giờ ở bất cứ đâu.

Bạn có thể gắn con số vào những mảnh ghép hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn,… hoặc thậm chí không cần một khối nền nào cả. Tuy nhiên để tạo nên sự tương phản đẹp mắt, nếu chọn nền màu đen thì con số nên màu trắng và ngược lại. Ngoài ra, bạn cũng có thể dựa vào màu sơn của tường mà chọn màu sắc cho đồng hồ.


Tự chọn màu con số phù hợp với không gian sống.

Với cảm hứng tự do, rõ ràng kiểu đồng hồ này rất thích hợp để treo nơi phòng ngủ, khu vực thư giãn. Bạn cũng có thể đặt chúng ở nơi phòng khách để ghi dấu ấn riêng của mình.

  

Những mảnh gương điệu đà

Có thể nói, đồng hồ bằng gương là một ý tưởng tuyệt vời dành cho những cô nàng thích trang trítường. Kiểu đồng hồ này có rất nhiều ưu điểm, vừa thanh lịch, duyên dáng, vừa đánh lừa cảm giác cho không gian nhỏ trở nên rộng rãi hơn đôi chút.


Đồng hồ gương còn rất hữu ích cho trang trí tường.

Những trái tim nho nhỏ như tung bay từ một trái tim lớn, giống hệt như hàng chục cánh bướm xinh xinh chập chờn trong gió. Sự lãng mạn này tạo chiều sâu cho bức tường khiến khách đến chơi nhà không thể rời mắt…

  

Vì lý do phong thuỷ, gương thường ít được sử dụng trong phòng ngủ. Vì thế phòng khách sẽ là khu vực thích hợp để bạn “khoe” mẫu đồng hồ này. Sự phản chiếu ánh sáng cùng với hình ảnh các món nội thất ngay trong chiếc đồng hồ quả là rất thú vị đúng không nào?


Đồng hồ gương phù hợp với phòng khách.

Mộc mạc phong cách vintage

Nếu đồng hồ gương mang đến sự sang trọng thì đồng hồ gỗ lại mang đến cảm giác gần gũi và ấm áp. Những mẫu đồng hồ chất liệu này đã không còn xa lạ, thế nhưng nếu bạn có thể tự tạo cho mình một chiếc từ một khúc gỗ tròn đã bào sẵn thì còn gì tuyệt vời hơn?


Đồng hồ gỗ mộc mạc.

Ở phần mặt đồng hồ, bạn có thể sơn, dán một lớp màu trắng hoặc để nguyên trạng thái ban đầu để thể hiện rõ hơn phong cách vintage của mình. Giản dị và cuốn hút, mộc mạc và xinh xắn, mẫu đồng hồ này rất thích hợp cho văn phòng làm việc cá nhân của bạn.


Bạn có thể phủ sơn lên bề mặt đồng hồ.

Khi áp dụng ý tưởng này, chúng ta nên chuẩn bị thêm một vài phụ kiện như chậu cây xanh, những chiếc giỏ mây hay vật trang trí cùng chất liệu để thêm phần “tông xuyệt tông” nhé!

  

Đồng hồ tách trà

Tinh tế và đẹp mắt là những gì chúng ta có thể hình dung về mẫu đồng hồ làm từ những tách trà. Chúng có thể là chiếc tách cũ được tái sử dụng hoặc tách mới, có thể là khác loại hay cùng loại,… Nhưng dù thế nào đi nữa, chiếc đồng hồ này cũng ghi lại dấu ấn khó quên cho người ngắm.


Đồng hồ tách trà độc đáo.

Những gì bạn cần làm trước tiên là sưu tập đủ 12 chiếc tách và sau đó thì tha hồ thể hiện sự khéo léo của mình. Lưu ý, về màu sắc, kiểu dáng và kích cỡ của những chiếc tách trên đồng hồ cần có sự tương quan với không gian mà bạn cần trang trí.


Bạn có thể dùng những chiếc chén cọc cạnh...

Những chiếc tách trà là vật dụng quen thuộc trong mỗi gia đình và không quá kén chọn khu vực hiện diện. Vì thế mà ngoài phòng bếp, bạn hoàn toàn có thể trang trí chúng ở bức tường phòng khách, phòng làm việc để tăng thêm cảm hứng làm việc nữa đấy !


Hoặc những chiếc chén đồng bộ.

(Theo TTVN/Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những mẫu đồng hồ độc đáo cho nhà thêm ấn tượng

5 tip phong thủy bàn làm việc dẽ làm, dễ tăng tài

Bạn có năng lực, có kiến thức, trình độ chuyên môn vượt trội nhưng mãi vẫn lẹt đẹt trong sự nghiệp? Ấy là vì chưa vận dụng những bí quyết phong thủy bàn làm
5 tip phong thủy bàn làm việc dẽ làm, dễ tăng tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có năng lực, có kiến thức, trình độ chuyên môn vượt trội nhưng mãi vẫn lẹt đẹt trong sự nghiệp? Ấy là vì chưa biết vận dụng những bí quyết phong thủy bàn làm việc vượng tài dưới đây đấy.

  1. Thực vật hóa sát
5 tip phong thuy ban lam viec de lam, de tang tai hinh anh
 
Nếu bàn làm việc của bạn trước hoặc bên cạnh có nhà vệ sinh thì nên đặt bồn hoa hoặc cây xanh để hấp thụ uế khí, thanh lọc không khí, làm sạch không gian làm việc, ngăn chặn khí trường xấu. Điều này không chỉ tốt cho sức khỏe, giúp tinh thần minh mẫn, tỉnh táo mà còn có tác dụng thu hút sinh khí, cải thiện vận khí cho chủ nhân. Bí quyết phong thủy bàn làm việc này rất dễ làm lại hiệu quả cao.
  2. Bình phong chắn đại môn sát khí   Nếu bàn làm việc của bạn đối diện cửa chính, trừ phi từ trường bản thân cực kì mạnh mẽ, có thể ngăn trở sát khí từ cửa bay vào nếu không sau một thời gian, vận thế cùng trí tuệ liền đi xuống. Cần nhất lúc này là bình phong chắn sát khí, bảo vệ khí trường. Không cần quá lớn chỉ cần đặt một giá sách nhỏ phía trước hay những thứ đồ trang trí có kích thước vừa phải là được.   3. Đèn bàn hóa sát   Bàn làm việc bị xà nhà áp đỉnh là rất xấu, để khắc phục lỗi phong thủy bàn làm việc này, hãy đặt một chiếc đèn bàn xuống bên dưới vị trí xà nhà, có thể giảm bớt sát khí, soi rõ vận trình, phát triển sự nghiệp.
5 tip phong thuy ban lam viec de lam, de tang tai hinh anh
 
4. Treo tranh phong thủy   Tranh phong thủy vừa đẹp lại có tác dụng rất tốt, đặt trên bàn hoặc treo trên tường gần bàn làm việc thì vượng tài, vượng lộc. Nhưng có một số loại tranh không nên sử dụng là tranh màu trầm tối, tranh mãnh thú, tranh quái dị vì sẽ ảnh hưởng tới tâm trạng cũng như suy nghĩ của chủ nhân. Tốt nhất là nên chọn tranh màu sắc tươi sáng, nhã nhặn, đơn giản, tự nhiên, phóng khoáng.    5. Không bày thực vật thân leo   Thực vật được xem là có tác dụng phong thủy khá lành tính lại còn thanh lọc không khí, chắn sát, hóa giải điềm xấu, hấp thu năng lượng thiên địa mà truyền cho chủ nhân. Nhưng thực vật thân leo thì thuần âm, chúng hấp thu năng lượng của người ngồi gần nên đừng sử dụng.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Bài trí phong thủy văn phòng cho người tuổi Tý dễ phát tài Muốn công ty phát tài, nhanh tay bố trí văn phòng tổng giám đốc đủ 6 tiêu chuẩn Phong thủy phòng làm việc cho sếp nữ mau thành công Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 tip phong thủy bàn làm việc dẽ làm, dễ tăng tài

Chùa Vạn Niên - Hà Nội

Chùa Vạn Niên còn có tên gọi khác là chùa Vạn Tuế. Đây là một ngôi chùa nằm ở phía Tây, Hồ Tây, Hà Nội - di tích nghệ thuật quốc gia năm 1996.
Chùa Vạn Niên - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Vạn Niên còn có tên gọi khác là chùa Vạn Tuế. Đây là một ngôi chùa nằm ở phía Tây, Hồ Tây, Hà Nội. Chùa được bộ Văn Hóa – Thông tin xếp hạng là di tích nghệ thuật quốc gia năm 1996.

Chùa Vạn Niên được xây dựng và năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) sau khi vua Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long, tên gọi ban đầu là chùa Vạn Tuệ sau đổi là chùa Vạn Niên. Đây được coi là ngôi chùa thiêng liêng của đất Thăng Long – Hà Nội, có nhiều điều bí ẩn, thú vị được sử sách còn ghi.

Chùa được tạo bởi công trình nghệ thuật bằng gỗ, với các hoa văn họa tiết vừa bản địa vừa tiếp nhận văn hóa phương Đông. Các nếp nhà được xây dựng hướng Đông, theo bố cục mặt bằng gồm tam quan, chùa chính điện Mẫu (thờ chùa Liễu Hạnh), nhà Tăng, nhà phụ. Bao quanh kiến trúc là vườn cây cổ thụ. Trên nóc chùa có ba chữ triện đắp nối “Vạn Niên Tự”. Hiện chùa còn lưu giữu rất nhiều di vật cổ quý.

Chùa Vạn Niên thờ Phật và Bà Chúa Liễu Hạnh. Qua hơn 1.000 năm lịch sử, với bao thăng trầm và biến cố, ngôi chùa đã nhiều lần được trùng tu. Chùa Vạn Niên có phong cách kiến trúc thời Nguyễn, bao gồm: Tam quan, tiền đường, nhà Tổ, nhà khách, lầu Quan Âm… Câu đối ở hàng cột nhà bái đường đã nói rõ: “Cổ tự trùng tu tân cảnh sắc/Vạn Niên kiến tạo cựu quy mô” (Chùa cổ trùng tu cảnh sắc mới/Vạn Niên sửa chữa quy mô xưa).

Chùa Vạn Niên đang ngày một khang trang và được nhiều Phật tử gần xa biết đến. Tuy có nhiều đổi mới nhưng chùa vẫn giữ được nét đẹp cổ kính và độc đáo về văn hóa kiến trúc giữa lòng thủ đô hiện đại và phát triển. Chùa còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi đem lại sự an lạc về tinh thần và giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho các thế hệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Vạn Niên - Hà Nội

Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa, 12 con giáp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa, tu vi Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa, tu vi 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa

Người tuổi Tuất sinh ra đã mang trong mình tinh thần trượng nghĩa, coi trọng chữ tín và sự trung thành mang tính kỉ luật nghiêm túc. Bất kể giàu nghèo, sang hèn, khi đã hứa chắc chắn họ không bao giờ thất hứa.

Lời hứa là một dạng đặt cọc niềm tin. Và nếu như bạn thất hừa, từ đó về sau sẽ chẳng còn ai muốn kí gửi niềm tin vào bạn nữa. Chính vì nhận thấy giá trị lớn lao của lời hứa mà những con giáp này chưa bao giờ đánh mất chữ tín của mình.

Hạng 1: Người tuổi Tuất

Bestie-giu-loi-hua

Người tuổi Tuất sinh ra đã mang trong mình tinh thần trượng nghĩa, coi trọng chữ tín và sự trung thành mang tính kỉ luật nghiêm túc. Bất kể giàu nghèo, sang hèn, khi đã hứa chắc chắn họ không bao giờ thất hứa.

Chính bởi lẽ đó mà ai ai cũng tin tưởng giao phó trọng trách cho người tuổi Tuất mà không mảy may nghi ngờ bất cứ điều gì. Được bầu bạn, kết thân với con giáp này quả thực là diễm phúc không của riêng ai.

Hạng 2: Người tuổi Sửu

Một trong những nét đẹp về phẩm cách, tâm hồn người tuổi Sửu chính là sự chân thành và cần mẫn. Điều đó không ai phủ nhận và rất dễ để nhận thấy. Họ chân thành, nỗ lực tới mức một khi đã hứa hẹn với ai điều gì đó, chắc chắn sẽ cố gắng hết sức để hoàn thiện ở mức độ cao nhất. Họ xem như việc của chính mình.

Thậm chí, khi chưa làm tốt lời hứa của mình, họ còn cảm thấy vô cùng áy náy, tự trách năng lực bản thân không tốt. Sau mỗi lần như vậy, con giáp này lại tự nhủ cần không ngừng học hỏi để trau dồi kiến thức, hễ ai gặp khó khăn, trở ngại, họ sẽ chủ động đến “gỡ rối” giúp.

Hạng 3: Người tuổi Ngọ

Bản tính những chú Ngựa năng động, thích du hí đó đây, đi thật nhiều để trải nghiệm cuộc sống, khám phá điều mới lạ để thỏa mãn sự hiếu kỳ cũng như tinh thần ham học hỏi của bản thân.

Với những người xung quanh, dù quen thân đã lâu hay mới lần đầu gặp gỡ, con giáp này luôn tỏ thái độ nhiệt tình, tạo độ tin tưởng cao. Bạn hoàn toàn yên tâm khi nhờ cậy hoặc giao phó việc quan trọng cho họ. Tuy không thể chắc chắn 100% rằng việc đó sẽ thành công rực rỡ, nhưng chúng ta có thể chắc rằng, họ luôn giữ lời hứa.

Ngoài ra, người tuổi Ngọ vô tư, không màng lợi ích cá nhân. Thậm chí, họ còn lạc quan tới mức tin rằng mình sẽ không gặp phải người xấu và mọi sự đều chuyển biến tốt đẹp nếu như người với người sống để yêu nhau, tin tưởng lẫn nhau.

Hạng 4: Người tuổi Thân

Nhìn những chú Khỉ tinh ranh, thích chạy đôn chạy đáo, nhớ chỗ này quên chỗ kia ít có thể ngờ rằng họ cũng lọt top dẫn đầu trong danh sách những con giáp không bao giờ thất hứa.

Đừng bao giờ để vẻ bề ngoài của họ đánh lừa, bởi vốn dĩ họ rất thích bông đùa hài hước. Nhưng một khi đã đồng ý với ai đó việc gì, họ sẽ kiên trì tới cùng để hoàn thành việc đó, chứ không phải dạng “hứa thật nhiều, thất hứa cũng thật nhiều” đâu nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Xem tướng ngón tay kiểu Châu Âu –

Ngoài hình dạng chung, từng ngón tay có ý nghĩa khác nhau. Các tướng pháp Âu Châu và Mỹ cũng rất quan tâm như bác sỹ J.Renald và Ray Hyman cũng đã có nhiều nhận xét rất cụ thể: - Ngón tay cái - Le pouce (doigt de venus): Chỉ tính cách, tình cảm, lý t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài hình dạng chung, từng ngón tay có ý nghĩa khác nhau. Các tướng pháp Âu Châu và Mỹ cũng rất quan tâm như bác sỹ J.Renald và Ray Hyman cũng đã có nhiều nhận xét rất cụ thể:

chitay2

– Ngón tay cái – Le pouce (doigt de venus): Chỉ tính cách, tình cảm, lý trí. Các nhà dân tộc học rất lưu tâm nghiên cứu ngón cái với các bộ phận khác của bàn tay.

+ Nếu dài bình thường, cao bằng 1/3 đốt 1 của ngón trỏ và cả hai đôd bằng nhau: Chỉ sự cân bằng về tính cách (Force instinetive).
+ Nếu dài hơn bình thường: Chỉ sức sống dồi dào, có óc thực tế, có tài thu phục lòng người (connaicence de la vérité…).
+ Nếu rất dài: Chỉ tính nghiêm khắc, không vụ lợi, chính xác, nhu cầu quá nhiều, quyết tâm thực hiện bằng được với mọi giá những mong muốn của bản thân.

Các nhà nghiên cứu cho rằng những người không bình thường thì ngón cái dài bằng đốt một (1) ngón trỏ hoặc dài hơn. (Le pouce trop long…).
– Có ngón chánh bên ngón cái: Dấu hiệu không có nhân phẩm, không có lý trí, khó học, khó bắt chước.
+ Nếu ngón chét mọc cao: Thì bảo thủ và định kiến. Có nhiều tính xấu.
+ Ngón cái to thì khỏe mạnh. Nhỏ thì yếu.
+ Ngón cái rất to thì hiếu động, tàn ác.
+ Ngón cái cứng thì bướng bỉnh, thô bạo.
+ Ngón cái mềm thì tính tình hay thay đổi, nhút nhát, tầm thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngón tay kiểu Châu Âu –

Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu B

Bản thân những người này luôn khao khát có một tình yêu đẹp. Song vì một chút tự ti, xấu hổ nên họ không bao giờ thể hiện ra ngoài. Đôi lúc, họ tỏ vẻ lạnh lùng
Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu B

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhưng trong lòng họ lại thầm mong đối tượng mình có thể cảm nhận được tình cảm của mình. Đây cũng chính là mâu thuẫn trong tính cách của họ. 

Để có được "một nửa" như ý, mọi người nên "nhắm" vào những đối tượng có trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương thì mới có được tình yêu như ý. Theo đó, một người sâu sắc, một người cởi mở sẽ bổ sung cho nhau để cuộc sống luôn tươi mới và vui vẻ.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Cuộc sống, công việc dù có bận rộn song những người này vẫn không quên dành thời gian chăm lo, vun đắp cho tổ ấm của mình.

Những người phụ nữ tuổi Sửu thuộc nhóm máu B sau khi lập gia đình và có cuộc sống hạnh phúc, họ trở nên hiền thục và quyến rũ hơn.

Đối với nam giới, họ sẽ là người mang lại bầu không khí vui vẻ, thân mật cho mọi thành viên trong gia đình cũng như mọi  người xung quanh.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu B

Khi tiến hành bố trí phong thủy cần chú ý những điểm gì? –

Bố cục phong thuỷ thông thường dùng tài, đinh làm chủ. Một thứ nắm giữ tài vận sự nghiệp, một thứ làm chủ sinh mệnh, sức khoẻ. Thiếu một trong hai thứ đó cũng không thể được. Cho dù là gia đình hay công ty, trước khi tiến hành bố trí phong thuỷ, ng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục phong thuỷ thông thường dùng tài, đinh làm chủ. Một thứ nắm giữ tài vận sự nghiệp, một thứ làm chủ sinh mệnh, sức khoẻ. Thiếu một trong hai thứ đó cũng không thể được.

p18

Cho dù là gia đình hay công ty, trước khi tiến hành bố trí phong thuỷ, người ta cần phải chú ý tám điểm sau:

  1. Xác định hướng tọạ của căn nhà.
  2. Suy đoán bàn tinh có tương phối với căn nhà không.
  3. Tìm phương vị của Thủy
  4. Mở cửa ở vị trí “Tài thần vị” có thể tăng cường tài vận, sự nghiệp vận, thăng chức vận.
  5. Tìm vị trí Sơn.
  6. Nếu vị trí Sơn là “Đinh Thần vị” sẽ đại lợi nhân đinh, sức khoẻ và sống lâu.
  7. Căn cứ vào mục đích của bố cục để đặt thêm vật khai vận phong thuỷ.
  8. Chọn thời gian phù hợp đề đặt vật khai vận phong thuỷ tương quan.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi tiến hành bố trí phong thủy cần chú ý những điểm gì? –

Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Rất nhiều người lo lắng khi không biết nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? Nhiều người còn nghĩ theo quan niệm của dân gian " mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang" nên họ lo sợ giấc mơ thấy mèo sẽ mang lại điều không tốt lành. Tuy nhiên bạn đã giải
Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Cửa bếp hướng Cát tinh phát tài

Cổ nhân có khuyên nên đặt bếp “tựa hung hướng cát”, có nghĩa là nằm ở hướng dữ nhưng nhìn về phương lành.
Cửa bếp hướng Cát tinh phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cổ nhân có khuyên nên đặt bếp “tựa hung hướng cát”, có nghĩa là nằm ở hướng dữ nhưng nhìn về phương lành. Phong thủy bếp có liên quan chặt chẽ tới vận khí của ngôi nhà.

Cua bep huong Cat tinh phat tai hinh anh
 
Theo Bát trạch, bếp nên đặt ở một trong bốn phương vị xấu nhất là Tuyệt mạng, Ngũ quỷ, Họa hại và Lục sát của trạch mệnh gia chủ để chế ngự hung tinh ở đó gây ra.
 
Tuy nhiên, dù đặt bếp trên phương vị hung nhưng hướng  của miệng bếp (cửa lò, mặt trước bếp ga, miệng ông táo) vẫn hướng về cung cát mới có ý nghĩa tài lộc.
 
Để biết miệng bếp hướng về cung nào trong nhà thì dùng la bàn và bảng Bát trạch theo tuổi kiểm tra. Nếu ở thế tứ cát tinh thì tốt.
 
Cửa bếp quay về hướng Sinh khí, tài vận rất mạnh vào các năm Hợi, Mão, Mùi. Hàng năm tốt nhất vào các tháng 2, tháng 6, tháng 10.
 
Cửa bếp đặt về hướng Diên niên (Kim), tài vận cũng tốt, được của cải vào các năm Sửu, Thân, Tỵ, Dậu. Những tháng được của là 4, 7, 12.
 
Nếu cửa bếp đặt về hướng Thiên y (Thổ) tài vận cũng mạnh, nhất là vào các năm Tý, Thìn, Thân, hàng năm vào các tháng 3, 7, 11.
 
Nếu cửa bếp hướng về Phục vị thì tiểu cường tài vận, chỉ dư dật chút ít, phát hơn ở các năm Mão, Sửu, Hợi. Các tháng mạnh hơn trong năm là 2, 6, 10.
 
Ví dụ người có trạch Càn nên đặt bếp ở phương vị Đông (Ngũ quỷ), miệng bếp hướng về Tây gặp Sinh khí.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa bếp hướng Cát tinh phát tài

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

Họ tên của chúng ta không chỉ là dấu hiệu đại diện cho một cá nhân mà còn liên quan đến tiền đồ một đời người, vì thế ai cũng hy vọng mình có được một cái tên hay.
Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khổng Tử nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Tô Đông Pha nói: “Trên thế gian chỉ có tên là có thực không thể dối trá”. Nghiêm Hạ thì nói: “Một tên đã lập thì đi cùng năm tháng”. Các tiên hiền đều đã nêu ra được tầm quan trọng của họ tên đối với con người. Cổ ngữ lại có câu: “Cho con ngàn vàng không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng cho con một cái tên hay”, đủ thấy cái tên có tầm quan trọng như thế nào.

Mỗi cái tên đều gửi gắm một niềm hy vọng thành công trong sự nghiệp, tiền đồ rộng lớn, cuộc sống sung túc, mưu cầu thông minh, xinh đẹp, mạnh khỏe cát tường, ý chí kiên cường, lòng ôm chí lớn, tri thức uyên thâm, nội hàm văn hóa…của mỗi con người. Do đó, cái tên không đơn giản chỉ là dấu hiệu hay mã số của mỗi con người.

Họ tên là kết quả tổng hợp tinh túy của các ngành khoa học như tâm lý học, xã hội học, triết học, lịch sử, dân tục học, là dấu mốc biểu thị hình tượng, tố chất, phẩm vị của mỗi cá nhân. Một cái tên đẹp phù hợp với mình có thể đưa ra những ám thị, dẫn dụ về mặt tâm lý, giúp con người tự tin, hỗ trợ thành công trong công việc và sự nghiệp. Họ tên đi theo mỗi con người cả đời, ảnh hưởng suốt đời. Mệnh tốt, vận hay lại thêm một cái tên đẹp thì có thể giúp bạn luôn công thành danh toại, mọi việc như ý.

Chữ tượng hình Trung Quốc bắt nguồn từ “Vật” trong tự nhiên, bản thân nó đã có linh khí sinh mệnh. Khi chữ viết trở thành tên của người và tên công ty, nó thường được gửi gắm hy vọng của con người, lại có thể tàng ẩn những thông tin dẫn dụ của thiên địa vũ trụ đối với con người, công ty. Tên tựa hư mà thực, đã thực lại truyền thần. Hàng ngàn năm nay, Tính danh học lưu truyền không suy, được đông đảo quần chúng tin dùng, tự đã có cái lý của nó. Họ tên có thể ảnh hưởng đến vận mệnh, là uy lực của “Số” và “Âm”. Chữ viết tạo nên họ tên được cấu thành từ các chấm và nét vạch, là cái căn bản của “Số”. Nói cách khác, chữ viết có chứa số, chữ viết chính là số. Số là biểu hiện của Hồn. Cổ nhân có câu “số trời”, “số trời khó thoát”…, có thể thấy sự ảnh hưởng của “Số” đối với vận mệnh đời người.

Ngày trước, nhà cách mạng giai cấp vô sản Tôn Bính Văn, người Nghi Tân, Tứ Xuyên là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản thời kỳ đại cách mạng. Xét về số lý của họ tên, Địa cách số 13 là số thủ lĩnh, nhưng Nhân cách số 19 lại đại diện cho “gió mây che lấp mặt trời, vất vả liên miên, tuy có trí mưu nhưng vạn sự đứt gánh”, lại là “số gây tổn thọ”. Số lý tam tài ngầm chỉ “tuy có thể phát triển nhất thời, nhưng nền móng không vững, dễ sinh cấp biến cấp họa”. Sau này, ông bị bắt và sát hại, vừa hay ứng với số này. Qua đó có thể thấy, sự tốt xấu của họ tên mỗi cá nhân không đơn giản ảnh hưởng đến hình tượng, ở tầng sâu nó còn có thể phản ánh vận mệnh và sự nghiệp của mỗi con người.

Cho nên, một cái tên tuy đơn giản nhưng thực tế lại hàm chứa rất nhiều kiến thức. Ngày nay, các bậc phụ huynh đều bắt đầu quan tâm dần đến việc đặt tên cho con cái. Hy vọng các bậc cha mẹ trước hết có một cách nhìn toàn diện và rõ ràng đối với họ tên để từ đó chọn cho con mình một cái tên hay.

Theo dattenhay


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tầm quan trọng của việc đặt tên theo phong thủy

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ

Đặc điểm về tính cách của những người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ

    Người tuổi Tý rất bộc trực, thành thật nhưng cử chỉ lời nói của họ đều khiến chúng ta có cảm giác người đó rất chặt chẽ. Họ nỗ lực làm việc, sống tiết kiệm, họ không bao giờ cho ai cái gì trừ phi người đó họ thực sự quý mến. Giả như bạn có thể lấy được của người tuổi Tý một vật quý giá thì sự đánh giá của họ với bạn ít nhất phải tương đương với giá trị của vật đó.

   Về bề ngoài, người tuổi Tý luôn lộ vẻ trầm mặc, ít lời, nhưng số thực lại là trái ngược, họ rất dễ bị kích động, song họ lại có khả năng tự chủ rất cao.

   Người tuổi Tý thường là người phóng khoáng, vui vẻ, thích và giỏi giao thiệp. Họ thích kết bạn, thích hội hè, thích những nơi đông vui, náo nhiệt. Họ rất quý trọng những mối quan hệ với mình.

  Xem lá số tử vi trọn đời của bạn để xem tiên đoán về tương lai, cuộc đời của bạn.

Tính cách của người tuổi Tí

    Một ông chủ, lãnh đạo tuổi Tý luôn quan tâm đến nhân viên của mình, họ quan tâm xem nhân viên của mình có hăng say không, quan tâm xem nhân viên có ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý không. Khi nhân viên của bị ốm đau bệnh tật, họ ân cần thăm hỏi. Nhưng khi nói đến chuyện tăng lương hoặc giờ nghỉ cho nhân viên hoặc người làm công, thì một ông chủ tuổi Tý sẽ khéo léo tránh né, phớt lờ rồi quên luôn. Muốn ký hợp đồng với người tuổi Tý thì bạn phải bàn bạc, đàm phán nhiều lần mới có thể đi đến thỏa thuận. Dưới quyền một ông chủ tuổi Tý, nhân viên không thể trễ nải hay trốn việc được. Ông chủ tuổi Tý luôn năng động, luôn tìm ra được bất cứ việc làm vào bất cứ thời điểm nào cho nhân viên.

    Một người nữ tuổi Tý sẽ khiến bạn ngạc nhiên về tính chi ly, tiết kiệm, đôi lúc hà tiện của họ, nhưng nếu đó là vật thật sự cần thiết thì họ không hề tiếc tiền để mua. Bản tính người nữ tuổi Tý là luôn giữ sự kín đáo bí mật của mình, song họ lại là chuyên gia trong lĩnh vực tìm tòi bí mật của người khác. Họ sử dụng bí mật của người khác, để đưa người khác vào chỗ chết. Tóm lại họ không bỏ qua bất kỳ một cơ hội thăm dò tin tức nào dù chỉ là nhỏ nhất. Đối với mọi vấn đề họ luôn nắm bắt và hiểu biết khá sâu sắc, tinh tế.

    Vì người tuổi Tý rất chăm chỉ và tiết kiệm nên họ không ưa những kẻ lười biếng và hoang phí. Họ còn là người luôn kiềm chế không biểu lộ tình cảm ra ngoài, cho nên khi nào, bạn thấy họ nổi nóng hay vô lễ, thì hẳn là họ đang rất buồn bực.

    Người tuổi Tý thích phê phán, châm biếng người khác, đôi lúc họ lại quá nhiều lời, khi mua bán họ cò kè bớt một thêm hai.

    Người tuổi Tý có trí nhớ rất tốt, họ ghi nhớ từng con người, từng sự kiện xung quanh, họ thích đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi đó, đây cũng là một thú vui trong cuộc sống của họ. Do đó người tuổi Tý dễ trở thành nhà văn, nhà báo giỏi.

    Người tuổi Tý làm bất cứ nghề gì, việc gì họ cũng đều gặt hái được những thành công nhất định. Họ có khả năng khắc phục khó khăn, sáng tạo, tùy cơ ứng biến cao. Họ là người có trực giác bén nhạy, có tầm nhìn xa trông rộng, có năng khiếu kinh doanh buôn bán. Với người tuổi Tý khó khăn khiến họ càng trưởng thành.

    Trong bất kỳ tình huống nguy hiểm nào, người tuổi Tý cũng có một đường rút lui tối ưu. Họ là người thận trọng, thường chọn những phương án ít mạo hiểm nhất. Người tuổi Tý có một điểm yếu là quá tham công tiếc việc dẫn đến tình trạng suy nhược về sức khỏe. Tuy nhiên họ lại là người có năng lực dự đoán nguy hiểm, và họ biết dừng đúng lúc, trước khi tình trạng tồi tệ xảy ra.

    Người tuổi Tý luôn biết kính trên nhường dưới, họ luôn quan tâm chăm sóc trẻ nhỏ, và luôn tin tưởng những người ở trên mình. Một người con tuổi Tý luôn đáp ứng những mong muốn và khoan dung trước những sai lầm của cha mẹ.

    Một người mẹ tuổi Tý rất nuông chiều con của mình.

    Một người vợ tuổi Tý luôn quan tâm, giúp đỡ chồng trong mọi việc. Một người chồng tuổi Tý rất thích làm những việc giúp đỡ vợ con trong gia đình.

    Người tuổi Tý dễ bị người tuổi Sửu hấy dẫn, họ thấy người tuổi Sửu là chỗ dựa đáng tin cậy của mình. Họ thấy người tuổi Thìn hòa nhã, họ phát hiện ra người tuổi Tị còn đa nghi hơn chính họ và thấy người tuổi Tị có thể là người hợp tác tốt, người tuổi Tý luôn có xung đột với người tuổi Ngọ, bởi vì người tuổi Ngọ luôn cô độc. Người tuổi Tý không hợp với người tuổi Dậu vì người tuổi Dậu thiếu thực tế. Có thể tham khảo thêm mức độ tương hợp giữa hai bạn qua công cụ xem bói tình yêu của Phong thủy số.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd