Những điều cần nhớ khi lập bàn thờ Phật tại gia
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Có bao giờ bạn tự hỏi: niềm vui nào lớn nhất trong đời? Thành công, giàu sang hay có được điều mình mong muốn. Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng khi có được thứ này chúng ta lại muốn có được thứ khác. Quá trình đuổi bắt cứ kéo dài suốt năm này qua năm khác, chúng ta không dễ gì nhận ra, niềm vui lớn nhất trong đời gần gũi và thân thương biết chừng nào.
Ngay từ lúc mới sinh ra, được sống trong vòng tay của cha mẹ chúng ta hạnh phúc và cảm thấy bình yên. Mỗi ngày là một ngày vui, lúc đó, cha mẹ tuyệt vời nhất. Thế rồi, lớn lên, chúng ta muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của mẹ cha. Muốn tự do bay lượn, chê đấng sinh thành giờ đây lạc hậu, không có những suy nghĩ tân tiến, hợp thời. Để rồi xa cách cha mẹ hơn, nhưng bạn ơi, niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là:
Trải qua những năm tháng tuổi trẻ bồng bột và ích kỷ, chúng ta trở về với những toan tính của cuộc đời. Không còn tự do bay nhảy, không còn những suy nghĩ ấu trĩ và ngông cuồng. Giờ đây chúng ta có cả một gia đình cần gánh vác. Lúc ấy mới chợt nhận ra rằng, được sống cùng cha mẹ là một niềm hạnh phúc to lớn.
Không chỉ dựa dẫm vào đôi vai gầy yếu của mẹ cha mỗi khi bước chân ta trên đường đời rệu rã, không chỉ được ăn bát cơm mẹ nấu, được cùng cha đàm đạo mỗi lúc chiều tà. Quãng thời gian đó yên bình và hạnh phúc biết bao. Không phải chỉ có cười thật to, hét thật lớn thì mới được gọi là niềm vui. Đôi lúc niềm vui bình dị và nhẹ nhàng biết bao, nhưng nó sẽ ngấm sâu vào ký ức của ta, an ủi vỗ về ta mỗi khi mệt mỏi và đau đớn trong cuộc đời.
Niềm vui này sẽ chẳng có niềm vui nào có thể sánh được. Đó là cảm giác thỏa mãn bởi vì chúng ta đã làm được điều mà mình thích. Không ít người không làm được việc mình thích, không dám theo đuổi ước mơ và hoài bão của bản thân. Chán nản, thất vọng để rồi họ nhận ra cuộc sống của mình thật nhàm chán, thật buồn bã.
Chỉ khi chúng ta được làm công việc mình thích, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui đến từ những điều bình dị, những điều tưởng chừng như vốn có của cuộc sống nhưng không phải lúc nào cũng cảm nhận được. Thế nên, nếu bạn cho rằng công việc chỉ là một công cụ để nuôi sống bản thân thì bạn hãy suy nghĩ lại đi nhé. Bởi vì chỉ khi yêu thích công việc của mình chúng ta mới làm tốt nó được. Được làm công việc mình thích là niềm vui lớn nhất trong đời.
Bất kỳ ai trong chúng ta đều muốn có được hạnh phúc trong cuộc sống vì vậy chúng ta mới trao đi tình yêu của mình. Có người lấy được người mình yêu, tin tưởng để làm chỗ dựa suốt đời cho mình, có người lại quyết định kết hôn trong lúc nóng vội. Rất nhiều người đã nếm quả đắng vì vội vàng trong tình yêu.
Một trong những niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là lấy được người mình yêu và yêu mình. Khi sống cùng nhau, những bất đồng, những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, nếu không có một tình yêu lớn dành cho nhau, ít khi chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận lẫn nhau được. Lấy được người mình yêu là niềm vui lớn nhất trong đời. Lớn hơn rất nhiều những niềm vui do tình cảm tạo ra trước đó. Thế nên, hãy trân trọng cuộc sống gia đình và trân trọng người bạn đã lựa chọn.
Đây là niềm vui rất lớn bởi hàng ngày chúng ta đều cố gắng tìm kiếm nó nhưng ít người nắm giữ được nó. Có người lo lắng cho những việc không đâu để rồi cáu gắt với người thân và con cái của mình, làm mất đi một ngày đẹp đẽ. Bạn ơi, hãy đối diện với cuộc sống mỗi ngày, dẫu khó chịu bao nhiêu cũng đừng đổ lỗi lên đầu người khác. Hãy tìm cách chế ngự sự giận dữ của mình và bao dung với người bên cạnh, để mỗi ngày với bạn trọn vẹn hơn. Có thể bạn không nhận ra, nhưng mỗi sớm mai thức dậy, tâm trạng bạn thoải mái bạn sẽ có một ngày ngập tràn niềm vui.
Vậy nên, hãy mỉm cười khi ánh bình minh chiếu qua cửa sổ, bởi vì ít nhất thì chúng ta vẫn còn một ngày để làm những điều mình muốn. Hãy sống trọn vẹn từng ngày một với công việc, gia đình, con cái và những niềm đam mê nho nhỏ của bản thân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)

Bàn trang điểm là nơi phụ nữ “làm dáng”, phải để như thế nào mới phù hợp với phong thủy?
(1) Gương trang điểm không được hướng ra cửa, vì khi bưốc vào phòng dễ bị hình ảnh trong gương phản chiếu làm cho khiếp sợ.
(2) Gương trang điểm không được chiếu vào đầu giường, nếu không dễ gặp ác mộng hay tinh thần giảm sút.
Một số bàn trang điểm thiết kế ở phần gương có hai cánh cửa để trang trí, khi không dùng đến gương có thể đóng lại, khi cần dùng lại mở ra. Sử dụng loại gương này thì để đầu cũng không sợ xung môn hay chiếu vào đầu giường.

(1) Bình phong và tường che
Trong Cố Cung của thòi xưa, mỗi một vườn, mỗi một cung đều có xây tường che, chỉ khác ở chỗ có tường thì xây bằng gạch, có tường thì xây bằng gỗ, có tường thì lại xây bằng đá cẩm thạch. Đó là vì tưòng che có tác dụng ngăn chia không gian giữa trong và ngoài, giữa chung với riêng, che chắn tầm nhìn và gió mạnh. Ví dụ nếu không có tường che thì không khí sẽ tự do lưu thông, có tường che, không khí phải đi vòng qua tường che. Chú ý là khí phải đi theo hình chữ S, do không khí đi qua với tốc độ chậm hơn mà không bị phân tán nên phù hợp với nguyên lí “khúc tắc hữu tình” (uốn cong nhưng lại có tình). Tưòng che ngoài việc có tác dụng khiến không khí lưu thông theo hình chữ S thì còn có tác dụng giảm tốc độ lưu thông của không khí để có thể phù hợp với tốc độ lưu thông khí huyết của con người, khiến tốc độ lưu thông của không khí và của khí huyết tương đương nhau, con người sẽ có cảm giác thoải mái, điểu này đều có lợi cho sức khỏe và sự nghiệp. Hai tác dụng nói trên, là dấu hiệu của luồng khí. Tác dụng của tương che chính là khiến cho các loại khí phù hợp với nhau.
Về bình phong, bình là che chắn, phong là sự lưu thông của không khí, bình phong là dụng cụ chắn gió trong nhà, tác dụng giống tường che, là loại tường che hoạt động, có thể tháo rời ra và di chuyển tương đối dễ dàng.
(2) Bùa chú
Theo thuyết phong thủy, bùa chú được coi là một cách cứu chữa. Điều này được tranh luận rất nhiều, nguyên nhân chủ yếu là do nghiên cứu về nó còn quá ít. Bùa chú không phải là môt lĩnh vực đơn giản, điều này không chỉ bởi nó là một lĩnh vực rất phát triển nhưng lại chưa có sự nghiên cứu của con người kn vì bùa chú vừa bao hàm rất nhiều nội dung văn hóa vừa bao hàm nhiều khiếm khuyết đáng tiếc.
(3) Rùa
Giả sử bạn nhìn thấy trước cửa sổ của phòng bmiih có một góc nhọn chĩa thắng vào nhà bạn, hoặc tòa nhà đối diện có người treo những vật như bát quái, ba chạc, bạn có thể nuôi rùa ở cửa sổ (vài con cũng được) để hóa giải. Nếu bạn không thích nuôi rùa sống, bạn cũng có thể đặt vài con rùa trang trí màu đỏ hoặc lam trưốc cửa sổ.
(4) Gương
Trong phong thủy, một tấm gương có thể có tác dụng rất lớn.
Nếu treo một chiếc gương trong phòng có thể khiến con người có cảm giác như không gian rộng hơn. Ngoài ra, tác dụng khúc xạ, phản xạ của gương có thể thường xuyên đưa ánh sáng vào phòng, làm tăng năng lượng trong phòng. Việc chiếu những cảnh vật phản ánh sự phồn vinh, giàu có sung túc từ bên ngoài vào trong phòng cũng có tác dụng đưa tài vận vào nhà.
Dùng gương còn có thể chặn đứng tà khí xông thẳng vào nhà để gây ảnh hưởng bất lợi. Những công trình nằm ở điểm cuổi trên đường thẳng hoặc nằm ở điểm giao nhau của đường hình chữ T – những vị trí này được gọi là lộ xung, là những nơi tà khí tấn công trực tiếp vào – rất kỵ để ở. Nhưng nếu ở ngoài cửa lớn ngôi nhà hướng thẳng về phía đương treo một chiếc gương phong thủy thì có thể xua đuổi được tà khí, làm giảm những ảnh hưởng bất lợi. Biện pháp này có thể áp dụng cho cả căn phòng nằm ở cuối cầu thang.
Thường thì gương phong thủy dùng trong phòng càng lớn càng tốt, nhưng khi đặt gương thì phải chú ý một số” vị trí. Một là gương không được đặt ở cửa lớn ngôi nhà (trừ khi là với trường hợp ngoại lệ đã nói ở trên), vì nó có thể đưa vận rủi vào nhà, như vậy không có lợi cho ngưòi ở. Hai là không được đặt gương đốì diện với giường ngủ, vì điều này không có lợi cho sức khỏe của người ngủ trên giường. Nếu do hạn chế về diện tích, việc tránh đặt gương hướng thẳng vào giường là rất khó thì chỉ cần chú ý khi nằm xuống và khi dậy gương không chiếu được vào người là được.
(5) Các công cụ khác
Tiến đại đồng (ra vào bình an): đặt trên cổng, dùng đế đối phó với tà khí khi mở cửa nhìn thấy cầu thang hoặc cầu thang máy; đặt ở phía bên phải, dùng dây màu vàng hoặc màu kim xâu lại rồi _ reo lên (tuyêt đối không đươc dùng dây màu đỏ vì máu đỏ thuộc hỏa, khắc kim); có thể tránh con gái trong nhà hay cãi nhau, để hai đồng tiền dưới gối có thể giữ quan hệ vợ chồng hòa thuận.
Kim nguyên bảo (dùng một đôi): đặt một đôi kim nguyên bảo trên cửa sổ lớn nhất trong nhà hoặc sân thượng, một chiếc đặt bên trái, một chiếc đặt bên phải, cửa sổ càng lớn thì tài khí càng thịnh; đặt ở góc chéo đi từ cửa vào nhà, đây là nơi giữ gió tập trung khí, cũng là vị trí tài lộc.
Tiền hoa mai: dùng để thăng quan tiến chức, chống kẻ tiểu nhân làm hại.
Su tử đá: phá giải nhiều loại tà, tăng cường uy thế hoặc dương khí của chủ nhà, giúp phát tài. Sư tử bằng đồng và bằng đá có tác dụng như nhau, đồng thuộc Kim khắc chế Mộc, nếu trong nhà có người thuộc hành Thủy thì càng cát.
Cột thạch anh: điều chỉnh từ trường, tăng cường tư duy, có tác dụng đến giấc ngủ, tăng cưòng trí nhớ.
Chuông gió kỳ lân: chuyên dùng cho nhà hoặc cửa hàng không thể đặt dụng cụ làm phép, có tác dụng trừ tà, dẫn tài khí vào nhà.
Cừu bằng đồng: đẩy lui bệnh tật giảm thiểu tai họa, tăng tiền tài, có lợi cho sức khỏe.
Voi bằng đồng: ngân hàng, khách sạn thường đặt con vật này. Nhà ở gần sông nước cũng có thể dùng.
Đồng hồ la bàn bát quái: đồ vật này có tác dụng trừ tà rất lớn, là đồ trang trí có ý nghĩa mang tài phúc đến cho gia chủ và tạo ra nhiều kỳ duyên mối, có nhiều tác dụng mà không có hại gì.
Gương phẳng bát quái, gương lồi bát quái.
Cốc hoa sen: hút hoại khí
Tháp Văn Xương: có lợi cho việc học hành, thành công trong sự nghiệp.
Hổ lô bằng đồng: đẩy lùi bệnh tật, tăng cưòng tình cảm vợ chồng.
Hồ lô bằng gỗ: đặt ở đầu giưòng, Thiên Y, Diên Niên, Sinh Khí, Phục Vị đều có hiệu quả không ngờ.
Chùa Vạn Niên còn có tên gọi khác là chùa Vạn Tuế. Đây là một ngôi chùa nằm ở phía Tây, Hồ Tây, Hà Nội. Chùa được bộ Văn Hóa – Thông tin xếp hạng là di tích nghệ thuật quốc gia năm 1996.
Chùa Vạn Niên được xây dựng và năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) sau khi vua Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long, tên gọi ban đầu là chùa Vạn Tuệ sau đổi là chùa Vạn Niên. Đây được coi là ngôi chùa thiêng liêng của đất Thăng Long – Hà Nội, có nhiều điều bí ẩn, thú vị được sử sách còn ghi.
Chùa được tạo bởi công trình nghệ thuật bằng gỗ, với các hoa văn họa tiết vừa bản địa vừa tiếp nhận văn hóa phương Đông. Các nếp nhà được xây dựng hướng Đông, theo bố cục mặt bằng gồm tam quan, chùa chính điện Mẫu (thờ chùa Liễu Hạnh), nhà Tăng, nhà phụ. Bao quanh kiến trúc là vườn cây cổ thụ. Trên nóc chùa có ba chữ triện đắp nối “Vạn Niên Tự”. Hiện chùa còn lưu giữu rất nhiều di vật cổ quý.
Chùa Vạn Niên thờ Phật và Bà Chúa Liễu Hạnh. Qua hơn 1.000 năm lịch sử, với bao thăng trầm và biến cố, ngôi chùa đã nhiều lần được trùng tu. Chùa Vạn Niên có phong cách kiến trúc thời Nguyễn, bao gồm: Tam quan, tiền đường, nhà Tổ, nhà khách, lầu Quan Âm… Câu đối ở hàng cột nhà bái đường đã nói rõ: “Cổ tự trùng tu tân cảnh sắc/Vạn Niên kiến tạo cựu quy mô” (Chùa cổ trùng tu cảnh sắc mới/Vạn Niên sửa chữa quy mô xưa).
Chùa Vạn Niên đang ngày một khang trang và được nhiều Phật tử gần xa biết đến. Tuy có nhiều đổi mới nhưng chùa vẫn giữ được nét đẹp cổ kính và độc đáo về văn hóa kiến trúc giữa lòng thủ đô hiện đại và phát triển. Chùa còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi đem lại sự an lạc về tinh thần và giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho các thế hệ.
![]() |
![]() |
![]() |
Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?
| ► Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
Trở thành Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất được sử sách công nhận, những gì Võ Tắc Thiên đã làm thực sự là một đòn đau giáng vào cái thể chế phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ cố hữu ở xứ sở hàng tỷ dân. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Võ Tắc Thiên đối với Hồng Kông không chỉ là khi bà còn sống.
Nhiều người tin rằng, ngay cả khi đã chết, Võ Tắc Thiên vẫn có những ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh quốc gia. Chẳng nói đâu xa, nhiều người tin rằng ngay Càn Lăng – nơi Võ Tắc Thiên lựa chọn làm nơi chôn cất của mình – cũng đã hàm chứa không ít những bí mật…
Chính nhờ ngôi mộ xây ở nơi này của các Vua đời Đường, mà Võ Mị Nương có thể lên ngôi hoàng đế, và vì lẽ đó bà cũng yêu cầu hợp tác cùng chồng.
Lăng mộ của bà hàng nghìn năm sau cũng vẫn là những dấu hỏi lớn đối với hậu thế không chỉ vì nó là lăng mộ duy nhất của các hoàng đế nhà Đường chưa bị khai quật mà ngay cả những gì lộ thiên hiển hiện trước mắt người đời cũng chứa đầy bí mật.
1. Tháng 2 năm 705, Võ hậu ốm nặng không còn lo việc triều chính được nữa. Nhân cơ hội đó, tể tướng Trương Giản Tri dẫn đầu các quan văn võ trong triều, thực hiện cuộc chính biến, xông vào hậu cung, bắt giết hai anh em Trương Xương Tông – những kẻ đang được Võ hậu vô cùng sủng ái – rồi buộc Võ hậu phải hạ chiếu nhường ngôi lại cho thái tử Lý Hiển.
Lý Hiển lên ngôi một lần nữa, sử gọi là Đường Trung Tông, Võ hậu lui xuống làm thái thượng hoàng rồi qua đời vào tháng 11 năm đó.
Khi lâm chung, Võ hậu yêu cầu Lý Hiển dùng thụy hiệu cho bà là hoàng hậu chứ không phải hoàng đế, do vậy bà không có miếu hiệu như những vị hoàng đế khác. Võ hậu cũng yêu cầu chôn mình ở Càn Lăng cùng với chồng mình là Đường Cao Tông Lý Trị, đồng thời dựng trên mộ bà một tấm bia trống (gọi là Vô tự bia) với ý rằng, công tội của bà sẽ do đời sau phán xét.
Cho tới nay, người ta vẫn chưa thể lý giải vì sao một người phụ nữ đầy tham vọng như Võ Tắc Thiên – người đã dám phá bỏ cả một vương triều lừng lẫy, tự lập nên vương triều của dòng họ mình – đến phút cuối cùng lại quay về thân phận một người vợ, yêu cầu hợp táng cùng chồng là Cao Tông.
Tuy nhiên, các nhà phong thủy thì tin rằng, một trong những nguyên nhân khiến Võ Tắc Thiên lựa chọn Càn Lăng làm nơi chôn cất của mình chính là vì địa thế phong thủy cực kỳ đắc địa của khu lăng mộ này.
Càn Lăng được xây dựng trên đỉnh núi Lương Sơn, nằm cách huyện thành Thiên Càn 6km về phía Bắc.
Nơi đây cách Tây An – kinh đô thời Đường – khoảng 160 dặm, tạo thành thế hô ứng với các dãy núi Cửu Tông, Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Khác với vị trí Chiêu Lăng do chính Lý Thế Dân – ông vua nổi tiếng triều Đường – tự lựa chọn, người ta nói rằng, vị trí của Càn Lăng được lựa chọn một cách cực kỳ chuyên nghiệp.
Người lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng chính là thái sử lệnh Lý Thuần Phong – vị quan chịu trách nhiệm về âm dương và thiên văn của triều đại nhà Đường.
Thời nhà Đường, nhân tài rất nhiều, trong xã hội hay chốn cung đình đều không thiếu vắng những người tài năng. Lý Thuần Phong là một trong những nhân tài loại đó. Sử chép, họ Lý là một trong những nhà thiên văn và số học cổ đại có tiếng của Hồng Kông.
Ông ta cũng là người để lại không ít những tác phẩm mà ngày nay giới nghiên cứu phong thủy và thiên văn cổ đại Hồng Kông coi là sách giáo khoa gối đầu giường.
Cùng thời với Lý Thuần Phong lúc bấy giờ còn có một người khác tài danh không kém, gọi là Viên Thiên Canh. Giống như họ Lý, họ Viên là một tay cao thủ về việc âm dương bói toán.
Viên chính là người đã giúp Lý Thế Dân lựa chọn vị trí xây dựng Chiêu Lăng. Người đương thời tin rằng Viên là một “thần nhân”, bởi lẽ gần như không có việc gì Viên dự đoán mà xảy ra sai lệch.
Nói theo lối hiện đại, vào thời bấy giờ, Lý Thuần Phong và Viên Thiên Canh được coi là những đại trí thức, những nhân vật quyền uy bậc nhất về học thuật trong triều Đường.
Lý Trị vốn là con trai thứ 9 của Lý Thế Dân, do Hoàng hậu Trưởng Tôn sinh ra. Năm 649, khi Lý Thừa Càn bị phế, Lý Trị lên ngôi, trở thành Đường Cao Tông Hoàng đế. Sau khi lên ngôi không lâu, theo thông lệ cũ của nhà Đường, Lý Trị phái Lý Thuần Phong và Viên Thiên Canh thay mình đi tìm một nơi đất tốt để xây dựng mộ phần.
Theo những gì sử sách còn ghi lại thì họ Viên và họ Lý đã đi tới không ít nơi song vẫn chưa tìm được vị trí ưng ý. Mãi tới một hôm, sau khi Viên Thiên Canh tới Quan Trung, quan sát thiên tượng vào giờ Tý, mới phát hiện trên dãy núi xuất hiện một luồng khí màu tím xông thẳng lên sao Bắc Đẩu.
Khí màu tím xuất hiện trong quan niệm phong thủy chính là điềm lành. Lần theo luồng khí màu tím này, Viên Thiên Canh đã tìm được vị trí xây dựng Càn Lăng ngày nay. Lúc bấy giờ, để đánh dấu, Viên Thiên Canh đã chôn xuống dưới đất một đồng tiền bằng đồng.
Một điều trùng hợp là sau đó, Lý Thuần Phong cũng tìm tới nơi đây. Tuy nhiên, khác với Viên Thiên Canh, họ Lý lựa chọn Lương Sơn do những phân tích kỹ càng về địa thế phong thủy của ngọn núi này.
Sau khi nghiên cứu địa thế ngọn Lương Sơn, Lý Thuần Phong phát hiện ra rằng, hai đỉnh phía Đông và Tây của Lương Sơn nằm ở thế đối diện nhau, vì vậy nếu nhìn từ xa thì ngọn Lương Sơn trông giống như cặp vú của người phụ nữ.
Nếu nhìn rộng hơn nữa thì toàn bộ khu vực Lương Sơn giống như một người phụ nữ quý tộc đang say giấc nồng. Sau khi dùng các mảnh đá sắp xếp thành sơ đồ bát quái để tính toán, Lý Thuần Phong cũng xác định vị trí đặt lăng mộ ngay đúng chỗ mà Viên Thiên Canh đã lựa chọn.
Sau khi nhận được tin báo của họ Lý và họ Viên, Lý Trị lập tức cử người cậu của mình là Trưởng Tôn Vô Kỵ tới xem xét một lần nữa rồi mới đưa ra quyết định. Sử chép, khi tới nơi, Trưởng Tôn Vô Kỵ không khỏi kinh ngạc khi đầu của cây cọc sắt mà Lý Thuần Phong đóng xuống đất để đánh dấu chọc đúng vào ô vuông bên trong có đồng tiền mà Viên Thiên Canh đã chôn.
2. Do Lương Sơn – nơi xây dựng Càn Lăng – có địa thế rất giống với bộ ngực của người phụ nữ nên người dân địa phương nơi đây còn gọi núi Lương Sơn là Nãi Đầu Sơn. Ngọn núi này nhìn gần thì rất kỳ vĩ nhưng nhìn xa lại rất thấp. Viên Thiên Canh cho rằng, nơi đây âm khí nặng hơn, vì vậy nếu như không tính toán cẩn thận thì long mạch nhà họ Lý sẽ bị một người phụ nữ làm cho tổn hại.
Lý do mà Viên Thiên Canh đưa ra dường như rất hợp lý. Ngọn Lương Sơn nằm ở phía Tây của núi Cửu Tông, trong khi đó, long mạch của nhà Đường thì nằm ở phía Đông Cửu Tông. Vì vậy, Viên cho rằng, Chiêu Lăng – nơi chôn cất Lý Thế Dân – chính là phần đầu của long mạch triều Đường. Theo quan niệm truyền thống về phong thủy thì vị trí xây dựng lăng mộ cho Lý Trị phải nằm dưới phần đầu rồng này.
Như vậy, vị trí mộ lý tưởng nhất phải thuộc các dãy núi Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Tuy nhiên, nay lại có một người phụ nữ ngồi ở trên đầu của những người đàn ông dòng họ Lý.
Xét về địa thế thì cả hai mặt Lương Sơn đều có nước vây quanh, là nơi tàng phong tụ khí, đích thực là một vị trí đắc địa về phong thủy. Các nhà phong thủy đương thời đều thừa nhận điều này. Người ta nói rằng, dãy Lương Sơn vốn là phần dư âm của long mạch từ thời Chu, vì vậy những người dân bình thường chọn đất này làm nơi mai táng thì có thể đảm bảo ba đời giàu sang, phú quý.
Tuy nhiên, đối với triều đại nhà Đường, ba đời e là quá ngắn ngủi. Hơn nữa, đại thế phong thủy của Lương Sơn lại không hô ứng với phong thủy của Chiêu Lăng vốn đã được Lý Thế Dân lựa chọn. Sự không hô ứng này khiến vương khí bị đứt đoạn, e là chỉ sau ba đời sẽ bị cản trở.
Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Thuần Phong đều nói đây là mảnh đất tốt, ngàn năm có một, trong khi đó Viên Thiên Canh thì lại kiên quyết khẳng định rằng nơi này không thích hợp. Đứng trước hai ý kiến hoàn toàn trái ngược, Lý Trị lúc bấy giờ cũng không biết quyết định ra sao. Khi đó, Võ Tắc Thiên mới là Chiêu nghi, nghe được chuyện này mừng lắm. Viên Thiên Canh từng dự đoán rằng, triều đại nhà Đường sẽ bị một người phụ nữ họ Võ xâm phạm.
Lý Thế Dân cũng vì lý do này mà giết không ít người họ Võ. Hơn nữa, khi trước, họ Viên khi xem tướng mạo của Võ Tắc Thiên đã nói rằng: “Nếu như không phải là nữ giới thì nhất định sẽ là chủ thiên hạ”. Như vậy, địa thế phong thủy của Lương Sơn chẳng phải là ứng với những gì Viên Thiên Canh đã dự đoán hay sao? Nghĩ vậy, Võ Tắc Thiên đã tìm mọi cách khuyên Lý Trị không nên do dự, nghe theo lời của cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ.
Lý Trị vốn là người nhu nhược nên chẳng mấy chốc đã bị Võ Tắc Thiên thuyết phục, việc lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng được quyết định. Người ta nói rằng, Viên Thiên Canh sau khi biết chuyện đã thở dài mà than rằng: “Người thay nhà Đường không ai khác chính là Võ Chiêu nghi”. Lời nói của Viên sau này quả nhiên ứng nghiệm.
Mặc dù không nghe theo lời của Viên Thiên Canh, tuy nhiên những ý kiến của một bậc đại sư như Viên cũng khiến Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Trị cảm thấy lo lắng. Vì vậy, sau khi lăng mộ được xây xong, Lý Trị muốn tìm một cái tên thật cẩn thận để lấy lại cân bằng với những khuyết điểm trong địa thế phong thủy của lăng mộ.
Lúc bấy giờ, có vị đại thần kiến nghị đặt tên lăng là “Thừa Lăng”, lấy ý kế thừa long mạch của Chiêu Lăng. Tuy nhiên, Trưởng Tôn Vô Kỵ lại căn cứ theo vị trí của Lương Sơn là nằm về phía Tây Bắc, theo Dịch lý thì nó thuộc cung Càn, vì vậy kiến nghị đặt tên là Càn Lăng.
Viên Thiên Canh chẳng nói là Lương Sơn âm khí quá nặng hay sao? Như vậy, đặt tên là Càn Lăng càng hợp lý vì Càn chính là thuộc dương, ở trên, Khôn ở dưới, thuộc âm, cả hai kết hợp lại là “Âm dương tương hợp định càn khôn”. Lý Trị nghe Trưởng Tôn Vô Kỵ giải thích vô cùng xuôi tai, vì vậy quyết định đặt tên lăng là Càn Lăng.

Tuy nhiên, việc đặt một cái tên đầy dương khí cho lăng mộ cũng không giúp Lý Trị và triều đại nhà Đường thoát khỏi lời nguyền. Đúng như dự đoán, sau khi Lý Trị qua đời, Võ Tắc Thiên bắt đầu từng bước thâu tóm quyền lực trong triều đình.
Tới tháng 9 năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức lên ngôi hoàng đế, trở thành Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Hồng Kông.
Các nhà phong thủy cho rằng, chính địa thế phong thủy của Càn Lăng đã giúp Võ Tắc Thiên làm nên sự nghiệp lẫy lừng như vậy và chính vì thế nên đến cuối đời, Võ Tắc Thiên đã quyết định được chôn cất tại Càn Lăng chứ không phải vì muốn hợp táng với Đường Cao Tông Lý Trị.
Có rất nhiều bí ấn xung quanh mộ của Võ Tắc Thiên, như những bức tượng không đầu; việc NASA nhìn thấy khu lăng mộ họ Võ từ vũ trụ; bia mộ không khắc chữ cùng với những bí ẩn về vật liệu xây dưng.
Việc lăng mộ được nhìn thấy từ không gian là điều khiến cả thế giới kinh ngạc: ngày 26/7/1971, trên con tàu Apolo nhìn xuống trái đất, nhà du hành vũ trụ Mỹ – Ednin đã nhìn thấy Kim tự tháp châu Phi, Trường thành Hồng Kông và đột nhiên ông phát hiện tại Hồng Kông, ở 107.38 độ kinh đông và 34 độ vĩ bắc, có 9 đốm đen nhỏ dàn hàng ngang theo hình chữ nhất (-) đốm đen cuối cùng ở phía tây là rõ nhất, đây chính là Càn Lăng.
Bọn trộm mộ thường nhòm ngó đào bới của cải của những lăng mộ; những triều đại mới nổi lên, muốn trả thù triệt “long mạch” của triều đại cũ; các nhà khảo cổ khai quật để nghiên cứu… Thế nhưng lăng mộ của nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên thì người ta đào không nổi.
Khi qua đời, thế hệ sau của Võ Tắc Thiên có rất nhiều nữ nhi làm khuynh đảo các triều đại, mang trong mình ý muốn làm hoàng đế như Thái Bình công chúa con gái bà, Thượng Quan Uyển Nhi, và người đàn bà đã khép lại trang sử của chế độ phong kiến Hồng Kông là Từ Hy Thái Hậu. Nhiều người cho rằng khi được chôn tại Càn Lăng, vị hoàng hậu họ Võ này vẫn tiếp tục thao túng và điều hành đất nước theo cách nào đó.
Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp
Những người thuộc cung hoàng đạo Sư Tử là những người sinh ra trong khoảng thời gian từ 22/7 đến 23/8.
Sư Tử là những người có tinh thần tự do thuộc nhóm Lửa và họ nổi bật giữa các chòm sao khác vì đức tính tốt của mình trong vai trò của một người bạn. Chắc chắn bạn sẽ không bao giờ có cảm giác thất vọng khi có một cô bạn/anh bạn thuộc cung hoàng đạo Sư Tử.
![]() |
![]() |
Thiên Trù: háo ăn, háo nhậu, thích ăn ngon, thường mời bạn bè đánh chén, lấy ăn nhậu làm lạc thú ở đời. Thiên Trù bao hàm vị giác, khứu giác bén nhạy và bao tử tốt. Sự thích ăn và hảo ăn đưa đến hậu quả là có lộc để ăn, được người biếu xén, mời ăn, mời nhậu.
Hóa Lộc: Hóa Lộc đi cùng với Thiên Trù có nghĩa là sành ăn, biết thưởng thức món ăn ngon. Kẻ ăn trở nên sành điệu hơn.
Tấu Thư: có nghĩa tinh vi, tế nhị trong mọi cảm giác, cảm xúc, ngôn ngữ, thái độ. Nếu đi chung với Thiên Trù thì đồng nghĩa với Hóa Lộc, tiên niệm sự tế nhị của ẩm thực, có khứu giác linh mẫn, phân biệt được một cách tinh vi các loại rượu ngon, kén ăn nhậu.
Lực Sỹ: sức khỏe tốt, ăn nhiều.
Thiên Tướng: chỉ sự thích ăn ngon mặc đẹp thông thường.
Tang Môn, Bạch Hổ hãm địa (ở Dần, Mão, Tỵ và Ngọ): đối với nam giới, chỉ nết xấu của thói nhậu, hay say sưa vì nhậu quá nhiều. Nếu Tang Hổ ở Mệnh hẳn là đệ tử của Lưu Linh.
Hậu quả của việc ăn nhậu:
Thiên Trù: càng về già, có bệnh về ăn nhậu như đau bao tử, đau gan, đau ruột. Nếu có hung, sát tinh đi kèm thì bệnh lý càng chắc chắn và nặng.
Thiên Đồng hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ và Dậu ): chỉ sự trục trặc trong bộ phận tiêu hóa nếu ở vị trí hãm địa và nhất là đi chung với Thiên Trù. Thiên Đồng chỉ bệnh chuyền lao, tức là hết bao tử bị bệnh thì đến gan, mật hay ruột. Nếu gặp hung tinh và nếu đóng ở cung Tật thì bệnh tương đối khó chữa.
Đại Hao, Tiểu Hao: chỉ bệnh về bộ máy tiêu hóa, đặc biệt là sự trúng thực, thổ tả, tiêu chảy đồng thời chỉ một loại bệnh kinh niên. Đi với Thiên Trù chỉ việc dùng tiền vào ăn nhậu, ít khi dành dụm được.
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
Đây là điển cố thứ Tám trong quẻ Quan Âm, mang tên Bùi Độ Hoàn Đới (còn gọi là quẻ Bùi Độ Trả Đai). Quẻ Quan Âm Bùi Độ Hoàn Đới có bắt nguồn như sau:
Điển cố “Bùi Độ trả đai” bắt nguồn từ vở tạp kịch “Bùi Độ hoàn đới” của Quan Hán Khanh đời Nguyên, vở kịch này viết về câu chuyện Bùi Độ đời Đường nhặt được của rơi mà không lấy, cứu mạng người khác, cuối cùng thi đỗ Trạng nguyên.
Bùi Độ (765 – 839) khi chưa làm quan, do cha mẹ đều mất, gia cảnh bần hàn, lại không muốn theo chồng của dì là Vương Viên ra ngoài buôn bán, chỉ có cách nương náu trong miếu sơn thần, may có vị trưởng lão trong miếu cho ăn cơm chay mà sống qua ngày. Từng có một đạo sĩ xem tướng cho Bùi Độ, đoán rằng mệnh của Bùi Độ sẽ bị chết bất ngờ. Lúc này, có quan Thái thú họ Hàn do làm quan thanh liêm, nên bị quốc cữu (bố vợ của vua) là Phó Bân vu oan, giam vào ngục, Hàn phu nhân và con gái là Quỳnh Anh khổ cực xoay sở tiền bạc để cứu Hàn Thái thú, may được Thái phỏng sứ của triều dinh là Lý Bang Ngạn tặng cho đai ngọc giúp đỡ.
Khi Quỳnh Anh đi qua miếu sơn thần, không may làm rơi mất đai ngọc, Bùi Độ vô tình nhặt được. Mẹ con họ Hàn đang hết sức tuyệt vọng, thì Bùi Độ đem đai ngọc trả lại, nhờ đó ba người trong nhà Hàn Thái thú đều được cứu. Đúng lúc Bùi Độ tiễn mẹ con họ Hàn ra cổng, thì miếu sơn thần sụp đổ, Bùi Độ thoát được cái chết bất ngờ chỉ trong gang tấc. Sau đó Bùi Độ lên kinh ứng thí, thi đỗ Trạng nguyên, lại cùng Hàn Quỳnh Anh kết duyên vợ chồng.
Câu chuyện “Bùi Độ trả đai”, nếu nói theo cách hiện đại, đã phản ánh được tinh thần “nhặt được của rơi trả người đánh mất”; theo cách nói ngày xưa, là đã tích được âm đức. Vào lúc Bùi Độ lâm chung, còn có một sự tích “trả đai” khác.
Khi Tiết độ sứ Hoài Tây là Ngô Nguyên Tề làm loạn, triều đình phái quân đội đi đánh dẹp, qua nhiều năm vẫn chưa dẹp yên. Các đại thần cảm thấy chi phí cho quân đội tiêu hao quá lớn, kiến nghị bãi binh. Hoàng đế Hiến Tông trong lòng lo lắng, nhưng không còn cách nào khác. Lúc đó, Bùi Độ dũng cảm bước lên, xin được đích thân đốc chiến. Hoàng đế cảm kích mà hỏi: “Khanh thực sự nguyện vì trẫm mà liều mình dấn thân vào nguy hiểm ư?” Bùi Độ cảm động rơi lệ, dập đầu mà đáp: “Thần thề không đội trời chung với giặc!”
Khi dấy binh, Bùi Độ nói với vua Hiến Tông rằng: “Chủ lo thần nhục, vì nghĩa liều thân, nếu chưa lấy được đầu giặc, thần chẳng quay về!” Nhà vua cảm động đến rơi nước mắt, đích thân đưa tiễn Bùi Độ, đến cửa Thông Hóa Môn, vào lúc chia tay, nhà vua tháo chiếc đai “thông thiên tê” ở thắt lưng tặng cho Bùi Độ, để thể hiện ý khích lệ.Chiếc đai “thông thiên tê” của vua Hiến Tông được làm bằng sừng tê giác và ngọc quý, không chỉ rất quý báu vô cùng, mà còn có ý nghĩa rất lớn. Chiếc đai ấy đã cùng Bùi Độ tung hoành ngang dọc, tiêu diệt được quân phản loạn Ngô Nguyên Tế, đi cùng Bùi Độ trong suốt con đường chinh chiến lập công.
Bùi Độ về già lâm trọng bệnh, lại nhớ đến chiếc đai “thông thiên tê”. Hoàng đế Hiến Tông, người ban tặng chiếc đai cho ông, sớm đã băng hà, vị vua hiện tại là hoàng đế Văn Tông, Bùi Độ quyết định mang chiếc đai vua ban trả lại cho hoàng đế Văn Tông, ông nằm trên giường bệnh, lệnh cho tùy tùng viết bản tấu. Do tùy tùng không tìm được câu từ thích hợp, khiến Bùi Độ không hài lòng, bèn sai con cháu ghi lại lời nói của mình: “Bảo vật trong cung này là do tiên đế ban tặng cho thần, thần giờ đây đã gần đất xa trời, vừa không dám mang chôn theo xuống đất, lại không thể để vật đó trong nhà, vì e sẽ lưu lạc trong dân gian, nên thần gói lại, xin trả về hoàng thượng”. Lời nói vừa dứt chưa được bao lâu thì ông qua đời.
Bản tấu này của Bùi Độ lời lẽ khéo léo hợp tình, khiến người đời càng thêm kính phục nhân cách của ông.
1. Mũi dọc dừa, cao, thẳng, không quá to, không quá nhỏ
Chủ nhân của chiếc mũi này thường là người có tính tình nhân hậu, chan hòa, biết cách đối nhân xử thế. Họ có năng khiếu nghệ thuật, nếu biết cách rèn giũa và tập luyện nhất định sẽ tỏa sáng trong tương lai.
2. Mũi nhiều nếp ngang dọc, thân mũi cao gầy, lỗ mũi hẹp, đầu mũi nhọn
Những người sở hữu chiếc mũi như thế thường có tính tình không hiền lành, trái lại còn rất đanh đá. Họ tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, thường nghĩ về bản thân trước khi bận tâm tới quyền lợi của người khác.
3. Mũi đầy đặn, cánh mũi rộng đều từ trên xuống dưới
Những người này có tính tình không mấy nổi bật, dễ bảo, dễ kết bạn nhưng nhiều khi ba phải và không quyết đoán, không thể hiện chính kiến của bản thân.
![]() |
4. Mũi đầy đặn, cao và rộng nhưng hơi ngắn
Đây là chiếc mũi của những người có tính tình thực tế, thậm chí đôi khi hơi thực dụng, coi trọng vật chất hơn tình cảm, tham vọng và ưa quyền lực. Họ cũng là người ăn to nói lớn, có khả năng lãnh đạo và tiếng nói rất có trọng lượng trong tập thể.
5. Mũi đầy đặn, cân đối, lỗ mũi to vừa phải
Chiếc mũi này nói rằng chủ nhân là người rất thông minh, có tài về nhiều lĩnh vực, tính tình lại trung thực, thẳng thắn nên được nhiều người yêu mến.
6. Mũi thẳng nhưng hẹp ở phiá trên, đầu mũi to, lỗ mũi lộ rõ
Thường là người có tính tình phóng khoáng, cởi mở, thích giao lưu kết bạn, chân thành, nhiệt tình và rất hay giúp đỡ mọi người xung quanh nên được nhiều người yêu mến.
7. Mũi cân đối, lỗ mũi rộng
Những người sở hữu chiếc mũi như vậy thường rất thông minh, trí tuệ sáng suốt nổi bật. Nếu đem tài năng sử dụng đúng việc, đúng lúc thì sẽ đạt được những kết quả vô cùng tốt đẹp, rực rỡ.
Fon Fon
![]() |
Ngắm bàn tay, đoán tính cách Bàn tay cũng là một bộ phận được các nhà nhân tướng học rất lưu ý khi đánh giá một con người. |
Bạn cần xem xét rất nhiều yếu tố trước khi quyết định chọn một tấm thảm cho không gian của mình, việc này đỏi hỏi sự kĩ lưỡng, nhưng cũng rất đang để bõ thời gian quan tâm.
Vị trí và mục đích
Trước tiên, bạn phải xác định được vị trí trải thảm và mục đích của việc đó là gì ?! Hai yếu tố này đóng vai trò rất quan trọng đối với loại thảm mà bạn cần sử dụng.
Chất liệu
Có rất nhiều loại thảm được dệt từ nhiều loại chất liệu khác nhau, từ sợi tự nhiên, len sợi, sợi tổng hợp, len pha... Bạn cần xem xét kĩ không gian của bạn sẽ hợp với loại thảm nào? Ngoài ra, bạn cũng có thể lựa chọn chất liệu dựa trên sở thích của bản thân và gia đình, ví dụ, nếu thích cảm giác ấm áp và em ái cho đôi chân khi đi trong nhà, bạn có thể chọn loại thảm len được dệt từ lông cừu, chúng khá đắt tiền nhưng là một khoản đầu tư rất xứng đáng.
Kích thước
Sau khi xem xét kĩ các yếu tố trên, bạn đã có thể xác định được kích thước tấm thảm mà mình sẽ mua. Ngoài ra, bạn cũng nên suy nghĩ đến những ý tưởng, cảm hứng mà bạn muốn truyền đạt trong không gian của gia đình mình để quyết định kích thước của tấm thảm. Nếu bạn muốn che đi một số khuyết điểm của không gian, một tấm thảm lớn và ấn tượng là một lựa chọn tốt, hoặc nếu bạn muốn một chút cảm giác ấm áp cho căn phòng, một tấm thảm nhỏ nơi đặt bàn cà phê chính là những gì bạn cần.
Màu sắc
Đây cũng là một yếu tố không thể bỏ qua khi lựa chọn thảm. Tùy vào những đồ nội thất có sẵn, cũng như màu tường mà bạn chọn cho không gian của mình một tấm thảm phù hợp nhất.
Hành: ThủyLoại: Quyền TinhĐặc Tính: Uy quyền, tôn vinh, lanh lợi, cơ mưuTên gọi tắt thường gặp: Quyền
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Vị Trí Ở Các Cung
Đắc địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Tại đây, Hóa Quyền sáng lạng, biểu dương cho thực quyền, đa quyền hay có uy tín thật sự, được nhiều người nể trọng, biết tiếng, phục tùng.
Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi. Tại đây, Hóa Quyền bị che lấp, ví như người ít quyền, hư quyền hoặc có quyền nhưng ở trong bóng tối, hoặc có thể có quyền tước hàm hay quyền tước sau khi chết (truy tặng).
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì có oai phong, có tướng lạ.
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì thông minh, có tài chỉ huy, được nhiều người kính nễ, tùng phục, cương quyết, tháo vát, có quyền hành hoặc có thế lực. Người nữ thì nhờ vào thế lực của chồng mà có danh quyền.
Công Danh Tài Lộc
Hóa Quyền đặc biệt là sao quyền, sao uy, có nghĩa là có oai phong, được nhiều người kính nể, sợ sệt, tùng phục; có quan chức lớn, có uy quyền hiển hách, được thượng cấp tin nhiệm, trọng vọng. Tóm lại, đây là người có quyền hành hoặc có thế lực.
Đây không hẳn chỉ là võ quyền mà còn có ý nghĩa văn quyền (quyền của quan văn), giáo quyền (quyền lực của thầy tu, giáo sĩ). Tùy theo cách làm quan, Hóa Quyền sẽ có ý nghĩa võ, văn hay giáo quyền.
Cho dù không đi vào đường quan chức, người có Hóa Quyền thủ Mệnh cũng có thế lực thực tế, được kiêng nể vì uy tín, vì nhân đức, vì khoa bảng, vì tiền bạc, vì tài năng...
Phúc Thọ Tai Họa
Hóa Quyền là sao trung lập về mặt cứu giải, cho nên:
Chính ấn nguyên nhân vốn là nhật chủ khác phái chi sinh, ngoài hàm nghĩa vi" Có thể khiến ta sinh trưởng, mà cùng ta quan hệ tốt đẹp chính là", ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Tư tưởng bảo thủ, chính thống, nội hướng, không trương cuồng, chửng chạc, thủ thường, hỉ tĩnh không thích động, nhân từ, ái tâm, không màng danh lợi, nhẫn nại, khoan dung, tôn nghiêm, trọng danh tiết, có thao thủ, không thiện dâng tặng nghênh, trọng cảm tình, hiến dâng, ái tâm, có tu dưỡng, có tông giáo trái tim, hiền lành, nhẫn nại nhục phụ trọng, cần khẩn nại lao, giảm xóc, điều tế, rất nặng, không có ý kiến, bình an mà có phúc khí.
Nếu như chính ấn quá nặng, cũng biểu hiện vi phụ mặt đích tâm tính: Ỷlại tính chất cường, có nọa tính chất, tùy theo đại chảy, không có chủ kiến, khuyết thiếu tâm tình lực, khuyết thiếu cảm xúc lực, khuyết thiếu lưu loát tính chất, thấy đủ, thừ người ra, do nhu do dự, lĩnh ngộ năng lực xui xẻo, không độc lập tiến lấy tinh thần, tại không có áp lực( Quan sát chủ áp lực) đích dưới tình huống, dễ chảy vu lười biếng.
Như mạng trung chính ấn hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Công vụ thành viên, giáo sư, văn hóa người, tông giáo, từ việc thiện nghiệp, y tá chờ.
Thiên ấn vừa là cùng nhật chủ đồng tính chi sinh, vốn là không tình nguyện đích sinh," Sinh ta mà khiển trách ta", nhân tiện giống như theo mẹ kế sinh hoạt tại cùng nhau giống nhau, nhật chủ đích tâm tính sẽ trở nên phi thường mẫn cảm, ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Có tự hỏi lực cùng lực lĩnh ngộ, mẫn cảm, linh hoạt, cơ trí, tâm nhãn nhiều, khôn khéo, có mưu lược, đầu óc hảo, sáng ý, phát minh, không thương học tập giáo khóa thư, không theo đại chảy, nghiêm túc, cô độc, có tông giáo trái tim.
Nếu như thiên ấn quá nặng, cũng biểu hiện vi phụ mặt đích tâm tính: Ích kỷ, lười biếng, lãnh đạm, phúc bạc, khủng hoảng, ngốc đầu ngốc não, không thông nhân tình, vô phúc hưởng thụ.
Như mạng trung thiên ấn hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Kỹ thuật tính chất đích chức vụ, thầy thuốc, nghệ nhân, ngũ thuật nghiệp, tông giáo, cố vấn sư, luật sư, phóng viên, biên tập, tình báo thành viên, trinh sát thành viên, xếp đặt sư, kỹ thuật nhân viên chờ.
Chính ấn, thiên ấn cộng đều loại tượng: Nghề nghiệp, chức vụ, chức gọi, quyền lực, ấn chương, chứng kiện, khế ước, trí lực, trí năng, tri thức, vinh dự, thưởng cho, hậu thuẫn, học thuật( Chính ấn vi chính thống học thuật, thiên ấn vi không phải chính thống học thuật), học vị, sự nghiệp, đơn vị, công việc trận viện, trụ trạch, quần áo, xe, chỗ dựa, mình bảo vệ, y dược; nhân vật vi sư phụ, cha mẹ, trưởng bối; vu người đích thân thể vi: Đầu, tóc, da tay, tứ chi.
Chính quan vốn là cùng nhật chủ khác phái chi khắc, hữu tình chi khắc, ngoài hàm nghĩa vi: Ước thúc lực, khuyên nhủ lực cùng áp chế lực, ngoài tính chất xác thật, có ước thân rời xa thiện khả năng, là người dựng thân chi vốn. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Chính thống, thủ pháp, chính đạo, quy củ, truyền thống, cao quý, văn nhã, trung hiếu, tự chế, thuận theo, trách nhiệm cảm giác, tinh thần trọng nghĩa, lương tri cảm giác, khách quan, lý tính chất, khắc bản, nghiêm túc, chính quy giáo dục, học nghiệp, gia giáo, tánh tình, trách nhiệm.
Như mạng trung chính quan quá mức, cũng biểu hiện vi phụ mặt đích tâm tính, như nhát gan sợ sự tình, mực thủ thành quy, vâng vâng này này, tự ti cảm giác.
Như mạng trung chính quan hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Công vụ thành viên, quan văn, giáo sư, pháp quan, công chức chờ.
Thất sát vốn là cùng nhật chủ khác phái chi khắc, vô tình chi khắc, ngoài hàm nghĩa vi: Đả kích, áp chế, bạo lực, quyền uy, ngoài tính chất cương hùng, có phản nghịch xưng bá chi tính chất, tu chế hóa lại vừa khống chế. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Dã tâm, tâm trí, thông tuệ, dục vọng, quyền uy, chí khí, cố gắng, xông kính, khí phách, chuyên chế, bạo lực, độc đoán, bá đạo, phỉ khí, áp bách, đả kích, thật mạnh, xung động, kích thích, oán hận, cừu hận, ác độc, khống chế, quy luật, nghiêm khắc, nghĩa khí, động tra lực, cảm động lực, cảm giác triệu lực, cơ cảnh, nhanh nhẹn, đa nghi, hồi hộp, tính cách thâm Trầm, tính tình dữ dằn, đi ác như cừu.
Mệnh trung thất sát vi hung thần, có chế hóa thì biểu hiện ngoài cát đích một mặt, không có chế hóa thì biểu hiện ngoài hung đích mặt.
Như mạng trung thất sát hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Cảnh sát, pháp quan, kỉ kiểm, đốc tra, quân chức, chấp pháp ngành chi quan viên, chính trị gia, mưu lược nhà, luật sư, giáo sư, thầy thuốc chờ.
Như mạng trung thất sát không có chế hóa, thì không thể vi công chức, có khả năng đi hướng phá hư đích một mặt, như cường đạo, nhu nhược người, người bệnh.
Chính quan cùng thất sát cộng đều loại tượng: Chức vụ, quan chức, quyền lực, danh vọng, quản lý, pháp quy, quan tòa, pháp sân, lao ngục, kị hận, quan hại, tài phú; nhân vật vi: Thủ trưởng, sư phụ, trưởng bối, phụ thân, trượng phu hoặc tình nhân( Nữ mệnh), con gái( Nam mệnh), địch nhân, tiểu nhân, ác nhân, đạo tặc; vu cơ thể người vi: Thần kinh, ngoại thương, tật bệnh.
Chính tài vi nhật chủ khác phái viện khắc người, ngoài hàm nghĩa vi: Ta thân thể viện khống chế hoặc hạn chế, thêm cùng ta quan hệ thân mật, tài cán vì ta viện hưởng dụng vật hoặc là người, mà cho ta viện trân ái. Hễ là đang lúc đích, danh chính ngôn thuận đích chịu ta chi phối đích tiền tài, tài vật hoặc mọi người lấy chính tài đến định vị. Chính tài thêm có chuyên một tính chất, nam mệnh hôn nhân trung đích thê tử cũng lấy chính tài định vị. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Bình thường mà không tư không phải phần, tự đủ, đang lúc, lễ kiệm, bảo thủ, trọng tình cảm, trân ái, chuyên một, cố chấp, tài văn chương, giao tiếp năng lực.
Như mạng trung chính tài quá nặng, cũng biểu hiện vi phụ mặt đích tâm tính, như suy tính hơn thật, keo kiệt, không tư tiến lấy, hảo dật ác lao, không thương học tập.
Như mạng trung chính tài hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Công lương giai tầng, giáo sư chờ.
Thiên tài vi nhật chủ đồng tính viện khắc người, ngoài hàm nghĩa vi: Ta có khả năng khống chế đích bất cứgì cụ thể vật hoặc sự kiện, nhưng không cố chấp ở này chuyện này hoặc vật thượng. Thiên tài chi tài vốn là hết thảy không phải công lươngđoạt được, như luồng phiếu, lễ kim, tặng cho, chịu hối, cá độ, đầu cơ, mượn thải, người đại lý, sinh ý, mưu doanh, phi pháp chi tài, tiền tài bất nghĩa chờ. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Bất chính làm đích không phải phần chi nghĩ muốn, ngoài ý muốn, đầu cơ, đa tình, lãng mạn, dục vọng, sắc, phong lưu, đào hoa, khẳng khái, hào phóng, nhẹ tài, giao tiếp, thủ đoạn, kĩ nghệ, ngụy trang.
Mệnh trung thiên tài hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Người làm ăn, xí nghiệp nhà, phục vụ nghiệp, chứng khoán nghiệp, cố vấn nghiệp, luật sư, diễn thuyết nhà chờ.
Chính tài cùng thiên tài cộng đều loại tượng: Tiền tài, tài vật, phòng sản, gia nghiệp, hết thảy đáng giá vật, dục vọng, tình dục, hưởng thụ, bản lãnh; nhân vật vi: Thuộc hạ, người hầu, phụ thân, con mình, thê tử hoặc tình nhân( Nam mệnh); vu cơ thể người vi: Hết thảy phân bố vật cùng sắp xếp tiết vật, ẩm thực, máu, hô hấp.
Chính thiên tài không nhắc tới kì tài đích nơi phát ra đích lệch chính.
Như: Mậu kỷ quý kỷ
Thân mùi tị mùi
Muốn xem tỉ kiếp tố công không, tị thân hợp tỏ vẻ rồi tài đích nơi phát ra. Chính thiên tài tỏ vẻ người đối với tiền tài đích tâm tính.
Ất kỷ canh ất( HongKong một đệ tử tạo)
Mão mão thìn dậu
Lấy được tất cả đều là lệch đích tài( Cứ việc nguyên cục đều là chính tài). Tài hư thấu là chỉ tài hoa, biểu sẽ đến sự tình, hội gặp gỡ, có thể nói. Tài vẻ mặt cảm giác, nam nữ thông dụng. Năm tháng gặp vượng đích người, nhất là nữ đích, nhất định rất sớm chuế học, quyết: Tài đa tâm loạn. Kể cả đại vận gặp thượng cũng là. Tài hoàn lại tỏ vẻ cô gái đích huyết khí, tức nguyệt kinh.
Tỉ kiên vi cùng nhật chủ giống nhau người, ngoài hàm nghĩa vi: Đại biểu ta đi hành sử quyền lực, cũng tỏ vẻ ta đích hợp tác người. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Tự tôn, tự tin, mình ý thức, tự chủ năng lực, chủ quan tính chất, chủ động tính chất, độc lập tính chất, cá tính, quyết đoán, tỉnh táo, thân vi, bận rộn, kiên trì, tư tâm, hợp tác, hợp tác.
Tỉ kiên qua vượng, cũng dễ dàng chính hướng phản mặt, như cá tính cố chấp, cương phức tự dụng, ngang ngạnh, ngạo mạn, tự cho là vốn là.
Mệnh trung tỉ kiên hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Động vận thành viên, huấn luyện viên thành viên, thể lực lao động người, người đại lý nghiệp, người làm ăn, tài xế, người giang hồ chờ.
Kiếp tài vi cùng nhật chủ khác phái giống nhau người, ngoài hàm nghĩa vi trợ giúp ta, nhưng có đại giới, bởi vì kiếp tài nên phân đoạt ta chi tài, lấy tranh đoạt vi ngoài mục tiêu. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Can đảm, cường hãn, công kích tính chất, không thông cảm, đầu cơ, sao làm, vận tác, mạo hiểm, xuy ngưu, tranh cường háo thắng, vội vàng, xung động, không hợp tác, ghen ghét, xâm hại, cướp đoạt, giữ lấy.
Mệnh trung kiếp tài vi hung thần, như có công dụng, có thể trợ giúp ta phải tài; như vô công dụng, phản trí ta phá tài gặp tai.
Mệnh trung kiếp tài hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Vận động thành viên, võ người, quân nhân, khoán thương, luồng dân, tư bản vận doanh thương, đánh cuộc đồ, tên lừa gạt, trộm thiết kẻ trộm chờ.
Tỉ kiên cùng kiếp tài cộng đều loại tượng: Hợp tác, cạnh tranh, làm, cơ giới, quải trượng, cạnh kĩ, vận động; nhân vật vi: Huynh đệ, tỷ muội, bằng hữu, đồng bọn, đối thủ; vu cơ thể người vi: Tay chân, tứ chi.
Thực thần vi nhật chủ đồng tính sinh người, sinh mà hữu tình cùng nhật chủ, ngoài hàm nghĩa cho ta đích nỗ lực hoặc ta đích tinh thần thế giới, hễ là cùng ta đích tinh thần cùng tình cảm liên quan gì đó cũng tại thực thần đích phạm trù, chỉ là thực thần biểu hiện ôn hòa mà bình đàm. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Thiện lương, ôn hòa, dày nói, nội hướng, văn nhã, hàm dưỡng, thấy đủ, đại độ, chính nghĩa, thương cảm, tài hoa, học tập, hiểu được, khẩu tài, tư tưởng, cảnh giới, tính tình, thưởng thức, lãng mạn, sức cuốn hút, thuyết phục lực, danh tiếng, hiến dâng, ái tâm, hưởng thụ, vui sướng, lạc quan, tự do, chơi đùa nhạc, ăn uống, phục vụ.
Thực thần vốn là cát thần, tại mệnh cục trung một bực như nhau đều cũng có dụng đích, không sợ qua vượng, chỉ sợ chịu khắc.
Mệnh trung thực thần hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Học giả, sư phụ, thầy thuốc, cố vấn sư, tông giáo nhà, tư tưởng nhà, luật sư, phóng viên, quan viên, tác giả, mĩ thực nhà, diễn thuyết nhà, người chủ trì, âm nhạc nhà, diễn nghệ nhân chờ
Thương quan vi nhật chủ khác phái tương sinh, sinh mà vô tình cùng nhật chủ, ngoài hàm nghĩa vi mình đích theo đuổi cùng kiều dù cho, đồng dạng vốn là tinh thần đích sản vật, nhưng lại nguyên nhân quá phận chấp vu mình biểu hiện mà trở nên không thực tế, có điểm vi khác thường quy. Ngoài tâm tính hàm nghĩa vi:
Sức tưởng tượng, biểu hiện lực, phản loạn tinh thần, phán nói cách kinh, kỹ thuật, nghệ thuật, tuyệt sống, thông dĩnh, sáng ý, khai thác, mới mẻ cảm giác, không thương học tập giáo khóa thư, gây sự, không thích câu thúc, không phục quản thúc, háo thắng, sinh động, phú biến hóa, nhát gan, bất an vu hiện trạng, khuyếch đại, chủ quan, dũng cảm, tình cảm mãnh liệt, phong lưu, háo sắc, nhiều lời, kiêu ngạo, mình tiêu bảng, làm náo động.
Như mạng trung thương quan rất vượng, hoặc khởi phá hư tác dụng, thì dễ dàng tẩu cực đoan, biểu hiện cá tính phóng đãng, không tu vừa phúc, bén nhọn không tốt, đố kị hiền đố có thể, ngạo mạn vô lễ, quỷ kế đa đoan, đầu cơ mưu lợi, không tuân thủ quy củ, thậm chí phá hư pháp luật cùng phá hư luân lý đạo đức, có phạm tội ý thức.
Mệnh trung thương quan hữu dụng, thì có thể tiến hành đích nghề nghiệp có: Nghệ thuật gia, đại sư, xếp đặt sư, diễn viên, luật sư, kỉ kiểm nhân viên, phản tham quan viên, thực quyền quan viên, kỹ thuật người, người làm ăn, đạo du, tác giả chờ.
Thực thần cùng thương quan cộng đều loại tượng: Tinh thần cuộc sống, dục vọng, chơi đùa nhạc, tư tưởng, văn chương, ngôn ngữ, tác phẩm, nghệ thuật phẩm, tài phú, đóa hoa, cảnh trí; nhân vật vi: Tổ bối đích nữ tính, mẫu thân( Thực thần), con gái, tiểu hài tử, đệ tử, vãn bối; vu cơ thể người vi: Miệng, đầu lưỡi, sinh sản khí, nữ tính vú, tinh tử, kinh huyết.
Thương lệch, thực chính. Thương biểu tưởng tượng phong phú, không bị ước thúc, đối với cảm tình không chuyên một. Thực biểu chuyên một, chuyên chú, dụng tình, vi nỗ lực hình đích, thương vốn là chơi đùa nhạc hình đích.
Lục thân: Nam mệnh lấy sát vi nhân, quan vi nữ; nữ lấy thương vi nhân, thực vi nữ. Đây là cơ bản nguyên tắc, nhưng là có biến thông.
Thông biến cách chủ yếu là xem tài.
Sát+ tài= nhân, sát không có tài vi nữ.
Hại ngã tài sinh nữ.
Kỷ canh tân nhâm
Tị thìn mão thìn
Hại ngã thê cung tài tinh, tịnh sinh nữ, không sinh nhân. Nên nhân phải mượn phúc sinh tử, nguyên nhân ất tài tại thời thượng thìn mộ trung, cùng thê cung hại, cố phải mượn phúc sinh tử.
Có khi cũng xem đại vận, hành thương đại vận, thì sinh nhân.
Khôn: Đinh quý ất bính
Mùi sửu tị tử
Nguyên cục có thực ứng sinh nữ, nhưng sinh bính thìn vận, vi thương quan đại vận, cố sinh con mình. Này tạo tị sửu củng rồi thất sát, nhất định phạm tiểu nhân. Đinh tị vận hảo, tố môi thán sinh ý, vọt, vi tố mua bán đích.
Chính thiên tài vi phụ, quan sát vi phụ; thực, thương, lộc vi mẫu. Ấn vốn là cha mẹ tinh, [hai người/cái] cũng tỏ vẻ, nó vốn là [một người/cái] trạng thái.
Quý Đinh Đinh bính
Mão tị tị ngọ
Mão ngọ phá biểu cùng phụ duyên thiển, thìn vận phụ qua đời. Quý mão vốn là phụ, nguyệt thượng tị vi mẫu. Sinh tại giờ Thân, mẫu thân nên sửa giá.
Đinh nhâm đinh tân
Mùi tử tị hợi
Mẫu sớm tử. Hại ngã thực thần. Bính thìn năm(76 năm) mẫu qua đời. Bính nhâm xung giải hợp rồi, đồng thời, bính hư thấu rồi, bính vi tị, không sinh mùi rồi, biểu chính mình cùng mẫu không quan hệ buộc lại, cố mẫu tử. Tị mùi đồng biểu mẫu thân, nhâm tử vốn là phụ thân, phụ thân01 năm tử.
Khí dưỡng:
Quý tân kỷ
Mão dậu tị
Bính dần năm hoạn phụ, nguyên nhân bính tân hợp cố mẫu vô sự. Quý mão vi phụ, dậu là cái, tị vi phụ mẫu.
Khôn: Mậu tân đinh quý
Thân dậu mùi mão
Mão thân hợp, mão vi phụ, ngồi xuống mùi thực vi mẫu( Ngồi xuống thực vi mẫu), canh thìn năm phụ tử, nguyên nhân phụ ngồi thìn hại ấn, biểu phụ không phải phụ rồi, cố tử phụ. Thương, thực vi nữ tính thân nhân, như bà bà, nãi nãi chờ, đối với nam tử mà nói, có khi cũng làm tỷ muội xem, này muốn xem vị trí. Quan sát vi nam tính thân nhân.
Càn: Tân bính canh bính
Hợi thân thìn tử
Thương quan chủ nhát gan, vốn ngọ vận hảo, nhưng giáp ngọ [một người/cái] tượng, phá hủy. Ngọ vận cũng rất lưng, quý vận hảo, tị vận rất tốt. Xung hợi. Giáp canh xung, giáp vốn là hợi tới rồi, vốn là thứ tốt, bị xung, phá hủy. Thìn vận mộ hợi thủy vốn là hảo.( Thìn tử hợp) thìn vận phải chú ý lao ngục, không nghiêm trọng, kim thấy thủy trầm vi lao ngục. Thìn vận chịu liên quan đến, không có việc gì rồi. Thìn vận không gặp thân dậu năm. Tị vận bắt đầu phát tài.
Càn: Nhâm đinh quý nhâm
Dần mùi hợi nhâm
Niên thượng thương quan mang tài, nhập mùi sẽ không sản xuất rồi, mua hán, sau đó đem mà bán.04.05 tài chính chu chuyển không linh. Bính tuất năm nên thải khoản, nhâm ngọ năm mua mà. Bát tự không có tuất hình, tài khố sẽ không khai. Nhâm tử vận cũng có thể, giáp dần vận thân thể không được. Thủy bị thương quan cấp tiết đi. Dần hợi hợp, máu bất hảo, huyết trù rồi.
Chính ấn thiên ấn chính tài thiên tài chính quan thất sát tỉ kiên kiếp tài thương quan thực thần chức năng đỡ nhật chủ tiết quan sát ngự thương quan phá hư thực thần sinh quan sát tiết thương thực chế kiêu ấn phá hư chính ấn háo tài sinh ấn chế nhật chủ phá hư kiếp tài giúp nhật chủ nhiệm quan sát đoạt tài trợ giúp thương thực tiết nhật chủ sinh tài địch sát tổn hại quan công dụng ta khí nguyên mà che chở ta người ta chi dưỡng mệnh chi nguyên cùng giữ lấy vật ta đích thân phận cùng địa vị, cũng làm quan hại cho ta dụng thì có thể giúp ta, trợ giúp ta, làm hại thì đoạt ta chi tài cho ta đích tinh thần theo đuổi, có khi cũng có thể thu hoạch công danh, ích lợi lục thân mẫu thân phụ thân mẹ kế tổ phụ ngoại thích thê tử phụ thân phụ thân thiếp phụ thân nữ nhi phụ thân con mình huynh đệ tỷ muội huynh đệ tỷ muội con mình tổ mẫu công bà nữ nhi mẫu thân bà ngoại nhân vật trưởng bối
Sư trưởng thuộc hạ
Người hầu lãnh đạo
Sư phụ bằng hữu
Đồng bọn đệ tử
Vãn bối sự vật văn hóa
Địa vị
Quyền ấn tiền tài
Phụ nữ
Tài vật quan chức
Quan phỉ
Tật bệnh hợp tác
Cạnh tranh
Trợ giúp tinh thần
Hưởng nhạc tác phẩm thân thể bộ lông, da tay máu huyết, hô hấp ngoại thương, tật bệnh tay chân, tứ chi khẩu, lưỡi, khiếu trận viện trường học, bệnh viện, học thuật cơ cấu kinh doanh trận viện, ngân hàng, giao dịch viện chính phủ cơ cấu, pháp sân, ngục giam cạnh kĩ trận, sân thể dục trò tiêu khiển trận viện, hưu nhàn trận viện, nhà xí
Nhâm quý tân kỷ
Dần sửu hợi hợi
Thương quan tố mẫu thân, mẫu thân ly dị sửa giá. Tùy theo mẫu. Nước lửa âm dương xứng đôi. Hợi có thể đại biểu quý. Phụ thân vi dần tài, hợp rồi hợi. Rơi không vong, mẫu thân tin phật dạy.
Nước lửa âm dương xứng đôi: Bính ngọ, đinh tị, quý hợi, nhâm tử.
Xem nữ nhân đích trình tự: Tòng nhật chi bắt đầu tính, lại nhìn thời chi, thời can, lại nhìn nguyệt chi, nguyệt can. Cuối cùng xem niên chi, niên can. Mộ khố xung nhân tiện hơn nhiều.
⑦⑤ nhật③
⑥④ ①②
Dương vi trái, âm vi hữu.
Cao thầy thuốc: Bính bính bính đinh
Thân thân thìn dậu
Chân trái, chân thọt. Tỉ kiên phục ngâm, tha cho. Thân kim sức nặng.
Tài tinh hư thấu tại thời thượng vi ái trang phục, thời thượng, hại kim mang ngân.
Thời thượng thấu ấn, ấn tinh thời thượng hư thấu, theo đuổi trào lưu.
Mặc cửa chú ý xe bị đạo.
"Tôi đã không về quê trong gần một năm. Tết âm lịch là ngày quan trọng nhất để đoàn tụ gia đình. Tôi rất mong được ăn các món do mẹ nấu", CRI dẫn lời Wang Yong, một thanh niên trẻ làm việc ở Bắc Kinh, nói. Wang kịp trở về quê nhà ở thành phố Thụy Kim, tỉnh Giang Tây một ngày trước đêm giao thừa.
Tại huyện La Bắc, thành phố Hạc Cương, tỉnh Hắc Long Giang, người dân chào đón năm mới với pháo hoa và treo lồng đèn đỏ trước cửa nhà. Đây cũng là khu vực phải hứng chịu lũ lụt vào mùa thu vừa qua. Nhà Chen Xiangyu vẫn chuẩn bị được hai con gà và 5 kg cá đón tết.
"Dù phải chịu ảnh hưởng từ trận lũ lụt nhưng với sự hỗ trợ của chính quyền, chúng tôi vẫn có thể đón ngày lễ lớn nhất trong năm như mọi năm", mẹ của Chen nói.
Nhiều người trẻ tuổi ở Trung Quốc sử dụng một ứng dụng điện thoại thông minh để gửi lời chúc mừng năm mới tới bạn bè. Họ gửi hồng bao điện tử tới người thân, người nhận có thể rút tiền mặt bằng cách kết nối thẻ tín dụng của họ với ứng dụng này.
"Giá trị những hồng bao này không quá lớn, chỉ 5 đến 10 nhân dân tệ", Li Zhen, một nhân viên văn phòng ở Bắc Kinh nói. "Nhưng đó là một cách thú vị để kết nối với những người bạn và mang cho họ niềm vui".
Tại Đài Loan, nhà lãnh đạo Mã Anh Cửu cũng có bài phát biểu hàng năm tới người dân trên hòn đảo này, Focus Taiwan cho hay. Nhà lãnh đạo họ Mã cho biết ước mơ của ông cũng giống như bao người dân khác, mong muốn xã hội Đài Loan phát triển hơn, công bằng hơn và hòa hợp hơn bao giờ hết.
Ông Mã còn kêu gọi mọi người cùng cố gắng, coi năm con ngựa là thời điểm để đưa nền kinh tế Đài Loan phát triển với tốc độ tối đa.
Tại các thành phố lớn của Việt Nam, pháo hoa được bắn lên trong sự háo hức của hàng chục nghìn người đi đón xuân mới. Các chùa chiền đón khách đến cầu an lạc rất đông. Thời tiết các miền của Việt Nam Tết năm nay tốt, thuận tiện cho người du xuân.
Tại Philippines, Manila Standard Today cho biết người gốc Hoa và người Philippines đổ về quận Binondo ở thủ đô Manila mua thực phẩm cho bữa ăn truyền thống trong gia đình hoặc mua bùa theo lời phán của thầy bói. Thị trưởng Manila, ông Joseph Estrada, tổ chức bữa tối tại một nhà hàng nổi tiếng và đón năm mới cùng các quan chức chủ chốt của thành phố.
Khu vực Chinatown tại đây còn có sự hiện diện của hơn 10 đội múa rồng và 100 người múa sư tử. Theo ông Isko Moreno, phó thị trưởng Manila, thành phố quyết định chọn quận Binondo làm nơi tổ chức bữa tiệc đón năm mới vì nơi đây có cộng đồng người Philippines gốc Hoa và người gốc Hoa đông nhất. Tổng thống Philippines Benigno Aquino trước đó đã có bài phát biểu chúc mừng năm mới tới cộng đồng người gốc Hoa.
Tại Singapore, Thủ tướng Lý Hiển Long kêu gọi các cặp đôi trẻ tuổi "phi nước đại" trong năm ngựa bằng việc có thêm em bé, tăng tỷ lệ sinh cho quốc đảo. Trong thông điệp năm mới, ông Lý cho biết quốc đảo thịnh vượng cần "có đủ trẻ em để hình thành thế hệ tiếp theo", trong bối cảnh Singapore đang lo ngại về làn sóng nhập cư.
"Bất chấp nỗ lực thúc đẩy hôn nhân và khuyến khích làm cha mẹ, tỷ lệ sinh ở đất nước chúng ta vẫn rất thấp", ông Lý nói. "Chúng ta cần cố gắng hơn. Tôi hy vọng sẽ có sự cải thiện vào năm con ngựa".
Nguyễn Tâm
(Vn Express)
Có 2 loại hoa tay là: lưu vân và xoáy nước, mỗi kiểu có đặc điểm quý nhân phù trợ khác nhau. Chắc mọi người đang rất tò mò xem hoa tay của mình nói lên điều dì? Hãy cùng đọc bài viết xem tướng quý nhân phù trợ qua hoa tay để biết mình có được quý nhân phù trợ không nhé!
Nội dung
Đây là người tự tin, nhưng cũng rất cứng đầu, tính độc lập cao, hay phải đối mặt với những biến đổi lớn trong cuộc sống. Cho nên bình thường, những người này cần chú ý tu dưỡng bản thân, đến tuổi trung niên có thể thành công và danh tiếng.
Đây là người chính trực, có đôi bàn tay khéo léo linh hoạt, giỏi các nghề thủ công mỹ nghệ, nhưng vì không giỏi xã giao nên mối quan hệ xã hội không quá rộng, và họ cũng không thích hợp cộng tác với người khác hay làm việc nhóm.
Là người có tài hùng biện và giỏi các công việc liên quan đến ăn nói, được sự chỉ dẫn của các bậc tiền bối. Họ sẽ không chú trọng lợi ích trước mắt mà thường có tầm nhìn xa hơn nữa.

Người sở hữu bàn tay như vậy thì thời niên thiếu khó khăn, nhưng nếu họ có thể chịu đựng vất vả mà tiến lên thì đến tuổi trung niên, họ sẽ có quý nhân phù trợ và giàu có.
Chỉ cần người này sửa được tính hay lo lắng và hướng nội của mình, nỗ lực gấp đôi để rèn luyện bản thân, thì tương lai sẽ được quý nhân phù trợ, trong sự nghiệp sẽ đạt đến đỉnh cao.
Họ sở hữu tài năng lớn, đầu óc thông minh nhanh nhẹn. Chỉ cần nỗ lực, họ sẽ được cấp trên đề bạt hoặc đạt thành công lớn. Tuy tính cách của họ có phần nóng tính và dễ nổi sung nhưng lại là người rất hào phóng.
Người này có sức sống mạnh mẽ, họ mang tâm cao chí lớn, dù giai đoạn thiếu niên và trung niên vận khí không tồi nhưng thường khi về già họ mới thành công rực rỡ.
Kiểu người này khoan hồng đại lượng, nhân duyên tốt, giỏi giao tiếp, hòa đồng, bởi vậy họ sẽ gặp được nhiều người giúp đỡ thành công.
Là người giỏi giao tiếp, ứng biến tốt, cho nên họ thường được lòng cấp trên và được cấp trên đề bạt, tiếp theo là được mọi người xung quanh giúp đỡ, ngay cả khi về già vận khí vẫn rất tốt.
A - Lỗ đen, lỗ trắng và sự hình thành của chúng
1 - Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần (?) khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành.
2 - Lỗ đen là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó (Chân Trời Sự Kiện, tức ranh giới mà mọi vật, kể cả ánh sáng không thể thắng được lực hấp dẫn của Lỗ Đen để có thể quay trở lại vũ trụ).
3 - Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Chúng có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn.
4 – Cũng giống như những Lỗ Đen chỉ được hình thành từ những Mặt Trời chết (chúng không còn cháy) có khối lượng đủ lớn thì một Lỗ Trắng (phun ra vật chất) cũng chỉ được tạo ra khi một Lỗ Đen lớn tới mức độ M. Lỗ Đen có khả năng lớn tới mức M được gọi là Lỗ Đen M (có thể nó phải hút nhiều hơn số lượng các Lỗ Đen đang khống chế khoảng 170 tỷ Thiên Hà mà hiện nay chúng ta đã phát hiện trong Vũ Trụ).
B - Hệ mặt trời, thiên hà và siêu thiên hà
1 - Một hệ mặt trời thường chỉ có một mặt trời và các vệ tinh bay xung quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau (như hệ mặt trời của chúng ta có 8 hành tinh).
2 – Các mặt trời (tức hệ mặt trời) trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám được gọi là các thiên hà (như hệ mặt trời của chúng ta nằm trong thiên hà Miky Way - còn gọi là Ngân Hà - có khoảng 300 tỷ mặi trời).
3 - Các kính thiên văn hiện đại ngày nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ. Trong đó các thiên hà cũng quần tụ gần nhau tạo thành những đám có số lượng khác nhau (khoảng vài chục hay vài trăm và thậm trí tới vài nghìn) và người ta đã gọi chúng là các siêu thiên hà.
4 - Tại tâm của mỗi thiên hà hay mỗi siêu thiên hà có một lỗ đen siêu lớn, cùng với thời gian nó dần tiêu diệt (hút) các mặt trời và các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều (?) và cướp lấy khối lượng của chúng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
| Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Tứ hóa |
| Tả phụ | Bắc đẩu trợ tinh | Dương thổ | Trợ lực | Thi hành thiện lệnh | Nhâm: khoa |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tả Phù là dương thổ, là trợ tinh thứ nhất trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là trợ lực, là sao phò tá rất đắc lực của đế tinh Tử Vi, chủ về thi hành thiện lệnh, có hàm ý hài hòa tròn trịa. Làm việc thiết thực, trung hậu, lương thiện, có sức dung chứa nghịch cảnh, hết lòng với chức trách phò tá, độ lượng, không bao giờ ép buộc người khác.
Tả Phù là một sao có khả năng phò tá thiết thực nhất trong lục cát tinh và cũng là sao có ít khuyết điểm nhất. Nó không những đóng vai trò là đại thần phò tá cho đế tinh Tử Vi, mà còn khiến sao Tử Vi tiếp nhận sự phò tá của Tả Phù trong tâm trạng thoải mái và nhẹ nhàng. Sao Tả Phù cũng có thể làm tăng thêm cường khí thế và biểu hiện của những chính tinh khác, nhưng bản thân Tả Phù khó tránh vất vả, khó hưởng phúc thanh nhàn. Do Tả Phù có tài phò tá, nên khi độc tọa, nó chỉ có thể trợ giúp cho các sao ở cung vị tam phương tứ chính mà nó hội chiếu, chứ bản thân không có biểu hiện gì xuất sắc. Sao Tả Phù độc tọa mà phải đối phó với Kình Dương, Hỏa Tinh, và Liêm Trinh lạc hãm thì e rằng sức mạnh không đủ.
Sao Tả Phù nhập cung miếu vượng, nếu gặp Tử Vi, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Hóa Lộc tam hợp hội chiếu, chủ về văn võ hiển quý. Nếu lại gặp tứ sát tinh Kình, Đà, Hỏa, Linh và sao Hóa Kị xung phá, tuy phú quý nhưng không được lâu dài.
Do sao Tả Phù trọng tình cảm nhưng lại khá cô độc, vì vậy không nên nhập cung phu thê hoặc cung tử tức. Nếu sao tả Phù nhập cung phu thê lại gặp cát tinh, mà cung mệnh và cung phúc đức đều có cát tinh, thì chủ về hôn nhân hài hòa tốt đẹp. Nếu sao Tả Phù nhập cung phu thê lại gặp sát tinh đồng cung, thì cần thận trọng trong việc lựa chọn bạn đời; nếu các sao trong cung mệnh và cung phúc đức không phải là cát tinh, thì dễ bị người thứ ba xem vào, khiến hôn nhân gặp nhiều sóng gió, dễ phải qua hai lần kết hôn.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Abstract: Lấy Chủ mệnh an vào vị trí của sao chủ thân, gọi đó là sao treo.
Lúc trước có nghe nói về vụ treo sao này và được biết nó phát nguồn từ dòng Tử Vi Phúc Tông.
3 điểm quan trọng nhất của Tử Vi dòng Phúc Tông là: Trục, Vòng Tràng Sinh bay, và đỉnh cao nhất, thủ pháp tột đỉnh của Tử Vi Phúc Tông là Treo Sao”.
Vừa rồi qua người quen, được đệ tử “ruột” của Giáo Sư Trần Quốc Vượng xét cho lá số và sau đó có xem qua. Trong lúc xem thì có nói cung Tài đắc Song Lộc, trong khi Tài tại Ngọ mà Hóa Lộc tại Dần, Lộc Tồn tại Hợi nên hỏi lại thì được nói đó là do treo con sao Lộc Tồn nên Tài đắc được Song Lộc.
| Tỵ | Ngọ Tài Bạch
Văn xương |
Mùi | Thân |
| Thìn | Dậu | ||
| Mão | Tuất | ||
| Dần Hóa Lộc | Sửu | Tý | Hợi Lộc Tồn |
Chủ mệnh và chủ thân của người tuổi Tuất là Lộc Tồn và Văn Xương. Lấy Chủ mệnh an vào vị trí của sao chủ thân.
Không biết sao treo nó có tác dụng thế nào, ảnh hưởng ra sao, phối hợp vào luận số thế nào, và cái quan trọng nhất là cái nguyên tắc để chọn con sao nào để treo.
“Treo sao là trong toàn bộ lá số tìm ra được nhiều nhất là 3 sao chủ đạo đại diện cho mệnh số của đương sự.
Trong Lá Số có 3 sao quan trọng đại diện cho đương số:
1-Sao Chủ
2-sao huyệt của sao chủ thể, còn gọi là sao rung. Khi hạn chạm tới nó là xảy ra ngay một việc gì đó,
3-sao đắc thất của chủ thể, quyết định được hay mất của hạn đó”
Chỉ có bấy nhiêu “Treo, Rung, Bay” thì có gì đáng ngạc nhiên đâu.
Bạn chỉ cần lấy sao chủ mệnh và chủ thân rồi treo nó vào lá số của bạn thì thành “sao treo” liền chứ gì. Thí dụ như lá số Nhâm Tuất ở trên: Chủ mệnh và chủ thân của người tuổi Tuất là Lộc Tồn và Văn Xương —-> Vậy thì bạn lấy Lộc Tồn an vào sao Văn Xương cố định trong cung tài bạch của lá số này là thành “Sao Treo” liền chứ gì.
Xét thấy dùng sao Chủ Mệnh/Chủ Thân cũng phù hợp với trường hợp trên, nhưng nó không đơn giản vậy chứ???Theo đệ tử của cố GS Vượng nói rằng Lộc Tồn và Hóa Lộc đều CHIẾU vào cung an Thân. Hỏi “Lộc Tồn ở Hợi mà sao chiếu về cung an Thân tại Ngọ được”, thì được trả lời là nó nhị hợp vào Quan. Rồi hỏi tiếp “nếu vậy thì Mệnh, Thê cũng có Lộc Tồn rồi”, rồi thì mới đề cập về vụ sao treo và có giải thích sơ về nó nhưng người nghe tuy cũng có hiểu biết chút chút về Tử Vi mà không hiểu gì luôn và sau đó có nói là nó không chiếu lung tung kiểu vậy được.
Như vậy không biết có liên quan gì đến sau Chủ Mệnh, Chủ Thân không nữa. Nếu chỉ đơn giản dùng sao Chủ Mệnh và Chủ Thân thì đâu có gì lạ và cũng đâu có gì cao siêu, có khó khăn gì đâu mà việc định sao treo lại “phức tạp” và cần phải trải qua sự tích lũy lâu dài.
Cứ theo cách luận của sách Đẩu Số Đàn Vi* mà suy diễn thì mệnh chủ thân chủ cũng có thể coi là hai “sao treo”. Theo sách này mệnh chủ thân chủ đều dựa vào năm sinh, như sinh năm Tí thì Tham là mệnh chủ, Linh là thân chủ. Hễ một trong hai sao này hoặc Lộc Tồn ở vào vị trí Thiên Không (trước Thái Tuế) thì -bất luận mệnh ở đâu- đều hết sức nguy hiểm. Sách ấy có hẳn 4 câu thơ Hán Việt như sau:
Giá tiền nhất vị thị Thiên Không
Thân mệnh nguyên lai bất khả phùng
NHỊ CHỦ** Lộc Tồn nhược trị thử
Diêm Vương bất phạ nễ anh hùng.
*Soạn giả Quán Vân Chủ Nhân Trương Bổn San, hai tập. Tập 1 xuất bản 1928, tập 2 xuất bản 1935.
**Sách Đẩu Số Đàn Vi giải thích rõ ràng rằng “Nhị Chủ” là hai sao Mệnh Chủ và Thân Chủ.
Trong “Tử Vi Tinh Điển” của ông Vũ Tài Lục sưu khảo có nói về 4 câu thơ trên, nguyên văn như sau:
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư có ghi một câu ở mục Thái Vi phú chú giải: “Không vong định yêu đắc dụng Thiên Không tối vi khẩn yếu” nghĩa là tác dụng không vong mạnh hơn hết là Thiên Không. Nhưng trong Bí kinh lại ghi mấy câu:
“Giá tiền nhất vị thị Thiên Không
Thân Mệnh nguyên thị bất khả phùng
Nhị chủ Lộc Tồn nhược phùng thủ
Diêm Vương bất phạ, hưu anh hùng”
Nghĩa là: Trước Thái Tuế một cung là Thiên Không. Thân với Mệnh không nên gặp nó. Tử Vi, Thiên Phủ hay Lộc Tồn mà gặp Thiên Không thì kể như đi vào đất chết.
câu “Nhị Chủ Lộc Tồn nhược phùng thủ (hoặc trị thử)” theo cách giải của ông Vũ Tài Lục thấy hợp lý hơn vì Tử Vi là chủ tinh của hệ Bắc Đẩu và Thiên Phủ là chủ tinh của hệ Nam Đẩu. Hơn nữa trong câu trên, “Nhị Chủ Lộc Tồn”, nó đi liền với nhau nên càng có ý nói “Tử Vi Thiên Phủ Lộc Tồn …” hơn là “Mệnh chủ Thân chủ Lộc Tồn …”
Sách vở có nói Phủ phùng Không thì không hay, Lộc Tồn là sao Lộc nên gặp Không cũng không tốt … nhưng tại sao Phủ và Lộc Tồn kỵ Không (Thiên Không)??? Không biết có phải vì câu “Không vong định yêu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu”??? Nếu vậy thì Thiên Không cũng là Không Vong???
Cần ghi rõ là quyển Đẩu Số Đàn Vi ra làm hai lần. Phần đầu năm 1928, phần 2 năm 1935. Là một trong những “bí kíp” cận đại nhưng khá cũ của làng tử vi thế giới.Bốn câu này được tin là bắt nguồn từ Đẩu Số Đàn Vi (trong có ghi chú rõ “nhị chủ” là Mệnh Chủ và Thân Chủ), rồi sau đó tam sao thất bản, tôi đã đọc qua 3 bản khác nhau. Những gì tôi trích là từ ngay Đẩu Số Đàn Vi, còn về quan điểm thì dĩ nhiên mỗi người một ý, cứ việc giữ lấy.
Chữ Hán ngày xưa viết không chấm, không phẩy (giờ thì đã cải cách, thêm chấm, phẩy rồi) nên “Nhị chủ Lộc Tồn” hoặc “Nhị chủ, Lộc Tồn” cái nào đúng chỉ có cách đoán mà thôi.
Còn Tử Vi ngộ Thiên Không tôi chưa thấy sách nào nói là tối kỵ cả. Vả nói thế thì mâu thuẫn với cách “Tử Vi cư Ngọ vô Hình, Kỵ; Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”, bởi tuổi Đinh Tỵ, Kỷ Tỵ thì Tử Vi cư Ngọ sẽ gặp Thiên Không.
các câu Phú trong Tử Vi nó không có tính tuyệt đối, nếu hội càng nhiều thì càng rõ nét hơn. Ngược lại nếu bị vài cái xấu hội lại thì giảm đi. Cũng như câu phú bác đưa ra “Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”. Nếu Tử Vi cư Ngọ thì …
– Giáp: đắc Khoa Lộc + Lộc Tồn (Tuớng Ấn ==>> Lưỡng Tướng) + Quyền cư Thân (Phúc)
– Đinh: Tử Vi Lộc Tồn đồng cung (Tướng Ấn ==>> Lưỡng Tướng)
– Kỷ: Tử Vi Lộc Tồn đồng cung (Tướng Ấn ==>> Lưỡng Tướng) + Lộc Quyền
Nếu vậy, theo câu Phú trên, dù Tử Vi có bị Tuần hay không (3 tuổi – Giáp Thân, Đinh Hợi, Kỷ Sửu thì Tử Vi bị Tuần), cũng vẫn “vị chí công khanh”. Cho nên dù Tử Vi hội Thiên Không có xấu hay không, nhưng đắc được mấy cách trên cũng rất đẹp rồi.
Theo nguyên tắc, 3 tuổi Giáp Thân, Đinh Hợi, Kỷ Sửu thì Tử Vi gặp Tuần nên phải luận giảm đi một phần. Còn Tử Vi gặp Thiên Không có giảm tốt hay không thì không rõ …
Cũng như được biết thì Tử Vi miếu vượng mà bị Tuần Triệt thì giảm uy lực, nhưng trong câu Phú thì không đề cập tới. Cũng một thể ấy, nên 2 tuổi Đinh Tỵ / Kỷ Tỵ – Tử Vi gặp Thiên Không có xấu không thì cũng có thể ngoài sự đề cập của câu Phú vì các câu Phú thì đơn giản, ngắn gọn nên có giới hạn của nó khi đề cập đến vấn đề. Cho nên PL không nghĩ rằng, (nếu phải) nó không có mâu thuẫn với câu Phú trên.
** Về cách trên thì thấy tuổi Giáp có phần tốt hơn tuổi Kỷ, Kỷ tốt hơn Đinh. chọn Giáp tốt hơn vì nam giới, nam giới mà tuổi Giáp thì là Dương Nam, vậy để đắc được vòng Thái Tuế (cũng có nghĩa là không bị Thiên Không) và thuận lý Âm Dương. Còn 2 tuổi Đinh Kỷ là tuổi Âm, vậy không đắc được vòng Thái Tuế, lại phạm Thiên Không.
Sao Treo, có nhiều quan niệm về sao Treo khác nhau, nhưng có thể nói nôm na là sao chủ quan một tiêu chí hay một việc xác định nào đó. Sao treo không phải là sao chủ, cũng không phải là sao nòng cột. Nhưng muốn xác định nó, cũng có nhiều phương pháp, một trong các phương pháp hay dùng từ xưa đến nay là dùng cảm ứng nhân định.
Quan niệm về sao treo, theo như tôi được biết thì phổ biến từ thời nhà Trần ở nước ta, nhưng xa hơn nữa, theo những gì Tôi được truyền lại thì ngay Hy Di Trần Đoàn khi giải đoán cũng đã dùng phương pháp sao Treo rồi, và những giải đoán của ông ta, ngày nay còn ghi lại, nhưng không nói ông đã dùng phwuơng pháp luận đoán cụ thể nào, mà chỉ phân tích sơ qua cách cục ứng, thì chính xác đến diệu kỳ, thậm chí chính xác và hiểu sự việc còn rõ hơn cả người trong cuộc.
Lần hồi, qua nghiên cứu, Tôi mới thấy rằng, việc tồn tại sao Treo, chỉ là hệ quả tất yếu – một trong những hệ quả tất yếu – của các quy tắc lập thành lá số và an sao trên địa bàn mà thôi. Thậm chí, đáng tiếc, trong hệ luận này, lại có thể bác lý luận về cái gọi là sao nòng cột.
Thực ra, lý luận về sao nòng cột cũng có thể thấy được sự bất cập của nó một cách trực tiếp, mà không cần đến hệ lý luận cấu trúc lá số. Thật vậy, theo đúng định nghĩa, sao nòng cột là sao có hành cùng với hành của bản mệnh. Chúng ta thấy rằng, Tử vi có 14 chính tinh, hành của chúng phân bố không đều nhau, thêm nữa, theo quan niệm coi Tử vi là đế toà, khi Tử vi ở ngôi miếu địa, không bị xung sát, nếu là nòng cột thì người mạng Thổ mới được hưởng, vậy thì rõ ràng mạng Thổ được ưu tiên tuyệt đối, đã thế lại còn hưởng thêm cả Thiên phủ. Do việc phân bố hành không đều, nên có hành như hành Hoả rất thiệt thòi. Điều này là phi thực tế, cũng là phi lý khi chúng ta biết rằng, trên căn bản nền tảng của Tử vi, không có sự ưu tiên cho bất cứ hành nào.
Thế nhưng, lý thuyết về nòng cột lại được thấy khá đúng trong luận đoán, và đặc biệt là trong vấn đề về sinh giờ Kim sà thì khá đúng đắn. Đây là một lý do thực tế, người ta cứ chấp nhận lý thuyết này mà dẫu có nghi ngờ cũng ít chịu khó đào bới, rồi dần cho nó thành phương pháp, để khi luận đoán là cứ dùng nó để tìm sao và cách cục ứng hợp với tiêu chí, đặc biệt là khi nghiệm lý. Chỉ đến khi, nếu chúng ta dùng thường lý phân tích để tìm cho ra bản chất của biến cố, sau đó mới nghiệm lý thì mới thấy bất cập.
Sao treo, nền tảng lý thuyết của nó bao trùm cả lý thuyết về sao nòng cột, nó có những bổ sung xác đáng, khắc phục được những bất cập của sao nòng cột gây ra. Nhưng tìm sao treo, lại không phải xuất phát từ sao nòng cột, mà phải xuất phát từ những nguyên tắc cấu trúc an sao và cấu trúc của địa bàn lá số.
Trong ví dụ của đại gia lâm nạn này, sao Treo là Phục binh. Thân cư Thê, sao Treo sẽ ngự trên hai cung, một là toạ Thân, hai là ở Thê. Sao Phục binh, vốn là Tiểu nhân. Phù Thịnh chứ không phù Suy, nên có tính a dua, khi mạnh thì theo, khi bại thì phản, nên nó rất nhạy cảm với Vận. Thê lại xung chiếu với Quan, nên Phục binh trực chiếu, là mối lo trong tim gan của sụ nghiệp.
Phục binh tại Thân, hội Đào Riêu cho thấy người này chẳng chung thuỷ chút nào, hay vụng trộm, nếu ở xã hội nam nữ không bình quyền, việc năm thê bảy thiếp là đương nhiên thì Phục Đào Riêu không đáng để bị lên án, nhưng cái khó là Mệnh chủ có Thất sát cương quá, thì khó chịu về sự ăn vụng của mình, nên chỉ muốn trêu ngươi với vợ, tuy là úp úp mở mở, nhưng chỉ là che đậy thiên hạ, chứ với vợ thì ông ta đâu có ngán. Nhưng Phục binh thì vẫn là Phục binh, bởi thế, mãi năm 1994 ông ta mới bỏ DNNN, và vẫn là ĐVCS, nên không thể bồ nhí hoành tráng được, tình trạng vẫn là vụng trộm, và cái vụng trộm mà lại ngông ngênh, nửa ăn vụng, nửa phô trương thì tránh sao khỏi tan vỡ hạnh phúc, và sao Treo này lại cho thấy tình trạng khó xử, tính vụng trộm của số đào hoa này.
Thê cung có Phục binh, lại dính thêm Cô Quả thì vợ đau khổ lắm, đêm trong đèn mắt mở trừng trừng “nhìn” ông chồng hú hý với cái “con mất dạy nào đó” mà đau khổ, thì còn thiết gì nữa, đau quá thì hoá thù, dù là ân nghĩa đi nữa. Thì cái tiểu nhân của Phục binh làm sao bỏ qua mà tha cho ông này, nó như bó rơm khô, chỉ cần mồi lửa nhỏ là bùng cháy dữ dội, vì thế, chỉ đợi khi nhập vận, có điều kiện là bùng cháy, – đó chính là ý nghĩa của sao Treo.
Thê cung người này có Quan Phúc, đã được ông trời mách bảo, đã dính Phục binh, thì ăn vụng là đương nhiên, nhưng phải biết chùi mép, phải thương lấy vợ, phải chịu nhún, nếu phải thiệt thòi thì cũng phải chấp nhận, không thì đến khi to chuyện, vỡ lở, vẫn phải chịu nhún, thua thiệt với vợ, chứ có thoát đâu. Nay thì ôi thôi!vẫn phải nhún với bà ta, mà sự nghiệp cơ đồ cũng vẫn bị thâp phần nguy nan – Phục trực chiếu Quan là vậy đó.
Trong Tử vi, người xưa đưa vào các hệ sao có tính chất cứu giải, nhưng muốn nắm được nó, phải hiểu tường tận lý của an sao và lý của cấu trúc lá số, rằng phải hiểu thế nào là Bản mệnh, tại sao người ta không ghi là Mệnh mà lại phải ghi là Hành của Bản mệnh, rồi Cục nữa, phải hiểu Cục chi phối về cái gì với Mệnh, hành của bản Mệnh chi phối lên chuyển vận của sao hay cách cục thông qua cái gì, phải “bắt” được sao treo, mới thấy hết được những cứu giải, cứu ra sao, cứu vào đâu của Mệnh. Rồi từ đó, mới thấy cái Đạo nó ngấm vào đời sống của chúng ta được chiếu trên Tử vi như thế nào?.
Đại vận và LN đại vận này, sao Treo của đại gia nọ chính là Liêm trinh, có thế mới dính đến luật pháp, công quyền, và cái đó mới là đáng sợ, chính Phục binh châm ngòi cho Liêm trinh phát nổ. Đáng tiếc, nó lại nằm ngay trong vận, nên cứu giải không thể trông chờ trực tiếp ở vận, mà phải trông vào cái lý hoàn Không ở Mệnh của ông ta. Biết được thì gỡ qua nạn này chẳng khó gì, chỉ ngại nạn sau mà thôi, qua đại vận này, ông ta mới giác ngộ, thật cũng là muộn mằn.
Sao treo chính là sao có thể thay đổi cục diện hoặc tương quan lực lượng trong một lá số tử vi, vì trong một lá số ở các cung bao giờ cũng có những thế lực đối kháng với nhau, mạnh thì được, yếu thua, giữa các thế lực này luôn có nhưng sao có thể làm thay đổi tương quan lực lượng, biến lá số thành bài toán mở, đó là sao treo. Cũng giống như đi tìm dụng thần trong tử bình.
Thế nào gọi là “ăn”? Chính yếu “ăn ” là được hưởng, thí dụ mệnh Mộc có Thái Âm cư Thê tức đuơng số ăn vào thê, được lợi về vợ. Nếu lại là người mạng Hỏa lại bị khổ sở vì Thái Âm hành Thủy. Một lá sô quen biết, mạng Hỏa cung Quan có Thái Duơng lu mờ bởi Tuần Triệt, bên kia có Thái Âm sáng chiếu qua làm anh ta khó chịu thêm thôi (tự ái đàn ông mà). Người ngoài cho rằng Âm sáng thì vợ giỏi khôn ngoan hiền thục: đúng vậy, nhưng xét về mặt “ăn” thì không vui chút nào, có vẽ hưởng bề ngoài nhưng bề trong khổ sở! Điều này được các tiền bối trong miền Nam phẩm bình trong các bài xa xưa!
Còn 1 nghĩa của chữ Ăn, đó là kiếm cho được một sao hay cách bộ nào đó làm nồng cốt cho mình lỡ khi trong tam hợp mệnh không có những sao cùng hành hay trợ sinh cho mệnh. Đó là lí thuyết định sao ăn vào, tức ứng vào mệnh. Dĩ nhiên các cụ VN biết thừa sao bản mệnh nằm trấn ngay cung mạng sẽ làm chủ nhân của người đó, không thể chối cãi được nhưng có làm lợi cho người đó hay không thì phải xét về ngũ hành. Người Hỏa gặp Cự Môn rất lao đao, khó lòng phú quí, có khi khổ sở! Đâu khác gì Mộc mạng cư Dần Mão trúng Thiên Hình, trước khi làm thẩm phán luật sư e rằng cũng bị tai bay vạ gió hỏi thăm mình rồi.
Vì vậy đừng ngạc nhiên khi thấy một số cụ ngày trước (trong đó có Thiên Lương) cho rằng khi tam hợp mệnh không có sao chánh cùng hành / trợ sinh với mệnh thì cho là VCD. Chúng ta phải hiểu rằng các cụ đó có ý phê lá số kém, không so được với tiêu chuẫn đề ra là kiếm cho được sao đồng hành! Dĩ nhiên kiếm được sao đồng hành nhưng lại là hãm và lại là sát tinh thì cụ cũng biết đó là sự oan nghiệt áp đặt cho đuơng số, là những gì độc hại vô bờ bến!
(Nguồn: Sưu tầm)