Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sắp xếp và bài trí tủ lạnh giúp gia chủ tài vượng

Tủ lạnh không chỉ dùng để chứa và bảo quản đồ ăn mà nếu bài trí tủ lạnh hợp phong thủy sẽ giúp gia đình bạn đón tài lộc vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sắp xếp vị trí tủ lạnh hợp với phong thủy

Theo phong thủy, cách bài trí tủ lạnh tốt nhất chính là trong nhà bếp, giúp dung hòa hai mệnh là Kim (mệnh của tủ lạnh) và mệnh Hỏa (tượng trưng cho nhà bếp). Tuy nhiên, tủ lạnh cũng cần tránh xa bếp lửa, vì hỏa từ bếp phát ra sẽ kị với mệnh của tủ lạnh, khiến không khí gia đình căng thẳng, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn.

Tránh đặt tủ lạnh trong phòng ngủ, vì nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, tính cách thay đổi thất thường, tư duy tiêu cực và có những hành động không kiểm soát, khó hiểu.

Kê tủ lạnh hợp phong thủy sẽ giúp gia chủ thêm thịnh vượng.

Không nên đặt tủ lạnh đối diện với cửa bếp bởi những luồng khí ra vào sẽ đụng độ nhau, ảnh hưởng đến sự giàu sang, thậm chí là làm ăn thất bát.

Người mệnh Thủy, muốn công việc thuận lợi nên đặt tủ lạnh trong văn phòng làm việc. Muốn sự nghiệp thăng tiến và tài lộc hanh thông, trong tủ lạnh nên chứa nhiều nước đá, nước, bia.

Còn những người mệnh Mộc, không nên kê tủ lạnh ở gần mà nên kê ở chỗ khuất trong nhà.

2. Màu sắc của tủ lạnh cũng quyết định tài khí của gia chủ

Lựa chọn màu tủ lạnh cũng rất quan trọng mà ít khi các gia đình để ý. Màu tủ lạnh phù hợp sẽ tránh xung khắc với người mệnh Kim, và cũng có tác dụng hỗ trợ họ.

Màu sắc tủ lạnh hợp với gia chủ để thêm vận may.

Những người hợp với mệnh Kim nên chọn màu trắng, vàng, nâu để thêm vận may. Còn những người kị mệnh Kim, nên chọn tủ lạnh có màu đỏ, xanh lá cây, tím.

3. Không để bất cứ đồ vật gì lên nóc tủ lạnh

Nhiều gia đình đã vô tư để các thiết bị điện từ (máy xay sinh tố, lò vi sóng…) hoặc những đồ vật khác lên nóc tủ lạnh nhằm tận dụng tối đa không gian. Tuy nhiên, đây là cách làm sai lầm khiến cho tài vượng của gia đình giảm sút.

Không để bất cứ vật gì lên nóc tụ lạnh để giúp tụ tài.

4. Nhìn bên trong tủ lạnh đoán biết tài lộc của gia đình

Phong thủy gọi tủ lạnh là tài khố (tức là kho của). Số lượng đồ ăn, thức uống được lưu trữ trong tủ lạnh sẽ đánh giá tài lộc của gia đình bạn đến đâu. Do đó, chúng ta nên thường xuyên để thức ăn đầy trong tủ lạnh. Bởi thức ăn nhiều sẽ cho gia chủ biết cuộc sống đủ đầy, không cần phải lo lắng về cơm ăn áo mặc.

Đồ ăn chất đầy trong tủ lạnh là biểu hiện của sự đủ đầy.

Ngược lại, tủ lạnh “nghèo nàn” thức ăn, nhiều chỗ trống là biểu hiện của hao hụt về mặt tài chính, gia đình đang gặp khó khăn.

5. Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ cho tủ lạnh

Nhìn từ góc độ phong thủy, tủ lạnh có liên quan mật thiết đến sự giàu sang của gia chủ. Vì vậy, việc loại bỏ thức ăn ôi thiu, lau chùi sạch sẽ cho tủ lạnh là đánh dấu sự khởi sắc, tài lộc sinh sôi của gia đình.

Theo Hạ Vũ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắp xếp và bài trí tủ lạnh giúp gia chủ tài vượng

24 sơn hướng trong phong thủy –

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn

Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nên không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mỗi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ trên la bàn.

Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch qúa nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mỗi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mỗi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn – Khôn – Cấn – Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:

– Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
– Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
– Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
– Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
– Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
– Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
– Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
– Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI

Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.

Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;

Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mỗi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mỗi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn.

La kinh 24 son do so vietnam

Tọa độ của 24 hướng trên la bàn

Chính Hướng và Kiêm Hướng

Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướng và kiêm Hướng? Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mỗi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ. Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.

Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 dịp khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát mà thôi.

Tam nguyên long

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.

snhng

Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:

– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.

Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).

Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mỗi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa, Thiên và Nhân, theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.

– Thí dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng ẤT 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 24 sơn hướng trong phong thủy –

Xem tướng tay: Sắc thái bàn tay

Khi quan sát bàn tay chúng ta không quên lưu ý đến sắc thái. Nhận định về sắc thái của bàn tay một người, chúng ta có thể tìm hiểu đại cương về cá tánh và có thể cả bệnh lý của người ấy. Bácsĩ Josef Ranald đã phân ra bốn loại sắc thái ở bàn tay.
Xem tướng tay: Sắc thái bàn tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


- Sắc thái ở bàn tay nóng nảy:- Tính chất bàn tay: Nhỏ, dài, tam giác, có chu vi khác thường, nhiều nếp nhăn và nhiều chỉ,ngón mềm mỏng, nhọn và ngón út ngắn, tay thô. Đường ngang trên có dạng như dâythừng.

- Cá tánh: Nóng nảy, dục tốc, tự cao, nhiều tưởng tượng, tính bất thường.

II. Sắc thái ở bàn tay lãnh đạm:

- Tính chất bàn tay: Lòng bàn tay mềm, dày, ẩm ướt, ngón ngắn không đều, ít chỉ tay, rộng trắng nhạt. Móng tay rộng, lưng bàn tay có lấm chấm tàn nhang.

- Cá tánh: Người trầm mặc, lạnh lùng, kiên nhẫn, đa tình, chuộng lý luận.

III. Sắc thái ở bàn tay hờn giận:

- Tính chất bàn tay: Vuông hay chữ nhật, có vẻ ốm nhưng thật ra nhiều thịt, nóng ấm, lòng bàn trũng, chỉ tay rõ nét, sậm màu, ngón dài, đầu ngón bè ra. Đường ngang dưới dài và thẳng, ngón cái dài.

- Cá tánh: Tự ái cao, nhiều tham ng, tự kiêu. Sức khỏe: yểu tướng.

IV. Sắc thái ở bàn tay ương ngạnh:

- Tính chất bàn tay: Rộng, ngắn, dày, nóng ướt, màu hồng, lưng bàn tay có nhiều lông, ngón cái ngắn. Gò kim tinh cứng. Chỉ tay đậm, màu hồng nhưng ít chỉ.

- Cá tánh: Ngang ngạnh, không ưa sự bình thản dễ nổi giận, có tư tưởng cao siêu. Không nể nang ai hay lý sự.

Nguồn: Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tay: Sắc thái bàn tay

Chọn ngày tốt, tránh ngày xấu cho người tuổi Dậu

Tuổi Quý Dậu (1933, 1993): Ngày, giờ nên tránh: Quý Dậu, Quý Mão, Kỷ Dậu. Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Mão.
Chọn ngày tốt, tránh ngày xấu cho người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chon ngay tot, tranh ngay xau cho nguoi tuoi Dau hinh anh
Tuổi Dậu






Tuổi Quý Dậu (1933, 1993)

- Ngày, giờ nên tránh: Quý Dậu, Quý Mão, Kỷ Dậu

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Mão

Tuổi Ất Dậu (1945, 2005)

- Ngày, giờ nên tránh: Ất Dậu, Ất Mão, Tân Dậu

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Mão

Tuổi Đinh Dậu (1957)

- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Dậu, Đinh Mão, Quý Dậu

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Mão

Tuổi Kỷ Dậu (1969)

- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Ất Dậu

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Mão

Tuổi Tân Dậu (1981)

- Ngày, giờ nên tránh: Tân Dậu, Tân Mão, Đinh Dậu

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Mão.

Theo Đời người qua 12 con giáp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn ngày tốt, tránh ngày xấu cho người tuổi Dậu

Xem tướng mông, tướng rốn và nhũ hoa của phụ nữ –

Rún sâu là giàu có, rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si. Xem rún Sách nói rún cần phải sâu, rún sâu là giàu có, nhứt là rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rún sâu là giàu có, rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si.

quynh-thu-3-200x300

Xem rún

Sách nói rún cần phải sâu, rún sâu là giàu có, nhứt là rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si.

Rún sâu có phước có lộc, rún cạn chịu nạn chịu nghèo. Rún rộng vành lớn lỗ là danh tiếng lẫy lừng. Rún nhỏ mà bọc hẹp là đau khổ.

Rún cần trên nhỏ dưới lớn, đại kỵ trên lớn dưới nhỏ. Đàn ông lồi rún là nghèo mà thọ vấn. Đàn bà lồi rún là ngu đần và ương ngạnh.

Phần xem cho phụ nữ :

Xem rún và mông

Rún và mông rất quan hệ đến cả cuộc đời. Mông của đàn bà là nền tảng của đời người. Đàn bà thiếu mông thì lúc thanh xuân bạc phước về đường tình, mà của cải ruộng vườn cũng tiêu tan.

Khi trở về già hoặc trung niên mà mỏng lép thì chồng con chết, hoặc ly tán cô độc đến già, ốm mà thiếu thịt bàn toạ thì mọi việc đều thất bại. Mập mà thiếu thịt mông thì cũng cô độc bần hàn, chỉ có cách đi làm thuê mướn.

“Ngực lép mông beo chịu nghèo suốt kiếp”. Đàn bà ngục lép mông beo, lưng cong lại càng hung ác, và cả ghen nữa.

Phụ nữ mà lỗ rún cạn hẹp bàn mông nhọn vêu ra, eo lưng teo nhỏ, thì rất xấu, nếu nhan sắc tướng diện không đẹp thì chỉ ở mướn làm thuê, còn như khá hơn nhan sắc dễ coi. Hoặc có nhiều tướng tốt khác chế hoá bù trừ thì đến làm hầu thiếp, vợ lẽ là cùng.

Nhược bằng lỗ rún trắng bệch thì thật là cô độc đến trọn đời.

Vì vậy phụ nữ bất kỳ beo gầy mập ốm, đều phải cần có mông lớn eo lớn, lỗ rún sâu là tốt. Lỗ rún mà có ít sợi lông, nhứt định sanh con quí tử.

Bạn có thể xem thêm bài tổng hợp: ” xem tướng số online, xem tử vi tướng số ” để tìm hiểu nhiều hơn về các kiểu xem tướng cho con người

Xem nhũ hoa

Nhũ hoa của phụ nữ là căn bản của hậu duệ, tức là cái nguồn gốc để lưu lại đời đời về sau. Nhũ hoa toàn diện cần rộng lớn, tròn trịa, chắc chắn, không nên xẹp lép, nhão xệ và móp méo. Quầng nhũ hoa cần phải đen, hoặc đỏ, rất kỵ trắng bệch xanh sậm.

Đầu nhũ hoa phải lộ ra khỏi toàn diện và nhô lên trên thì dễ nuôi con. Đầu xệ gục xuống như gãy, nuôi con hơi khó, tuy nói khó song vẫn có thể nuôi được, hơn là những người có bộ nhũ hoa dù lớn, cứng chắc đến đâu mà quầng sắc trắng bệch lại không có núm, hoặc cái núm cở đầu chiếc đủa thì nhất định không thể có con.

Tệ hơn nữa là như thế mà quanh quầng nhũ hoa lại mọc khối lông, thì sức dâm đảng đến quá mức độ, có khi phải ngã luôn xuống vũng bùn lầy.

Đầu nhũ hoa tròn cứng, sanh con học giỏi làm nên, đầu nhũ hoa hơi có dạng vuông cũng sanh con quí, nhũ hoa trắng xẹp, đầu nhũ hoa không có núm, không thể sanh nuôi con được, đầu nhũ hoa nứt nẻ hoặc có nhiều tia như có gai, cũng không nuôi con được mà lại dâm đảng không biết chán.

Tóm lại nhũ hoa lớn, quầng đen, núm lộ và nhô lên thì sanh và nuôi con rất tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mông, tướng rốn và nhũ hoa của phụ nữ –

Bộ sao ÂN QUANG - THIÊN QUÝ

Ân Quang Ân Quang thuộc Mộc (VVT cho rằng thuộc Hỏa), Thiên Quí thuộc Thổ (có người cho là Thủy). Đây là hai sao phúc tinh, quí tinh, chủ sự nhân hậu, từ thiện, may mắn, gặp thời, đem lại sự tốt lành, có tính chất cứu khổn phò nguy, giải trừ bệnh tật tai họa, đem lại phúc thọ, chế hóa được tính dâm đãng hoa nguyệt của Đào Hồng, gặp sao hung cũng không có hại. Hai sao này biểu hiện sự giúp đỡ của đấng linh thiêng, khác với Tả Hữu là sự giúp đỡ của người đời.
Bộ sao ÂN QUANG - THIÊN QUÝ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai sao này được an căn cứ vào Xương Khúc, Ân Quang được an căn cứ vào vị trí Văn Xương, Thiên Quí được an căn cứ vào vị trí của Văn Khúc. Hai sao này xung chiếu với nhau ở Thìn Tuất, đồng cung với nhau ở Sửu Mùi, tam hợp chiếu với nhau ở Mão Dậu Tỵ Hợi, và đứng riêng lẻ với nhau không thành bộ ở Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Thổ là Sửu Mùi mới có cách giáp Quang giáp Quí. Sách vở chỉ nói Ân Quang Thiên Quí miếu địa tại hai cung Sửu Mùi nhưng theo kinh nghiệm thì tại Tứ Mộ hai sao này rất mạnh mẽ và có tác dụng cứu giải ngay cả các hung tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp đóng đồng cung. Nếu không gặp hung thì sao này lại chủ về may mắn. Có người còn cho rằng hai sao này vượng ở Sửu Mùi, đắc tại Mão Dậu.

Tọa thủ tại tất cả các cung đều mang lại sự tốt lành, phúc thọ cho cung đó.

Tọa thủ tại Thân Mệnh thì:

Tâm hồn phúc thiện, ăn hiền ở lành, có thiện tâm, nhân hậu, hay giúp người. Thông minh, ôn hòa, vui vẻ. Trọng ân nghĩa. Đối xử có tình có nghĩa, có trước có sau, không lọc lừa bội phản. Cư xử tình nghĩa đối với bạn bè người dưới quyền, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng. Thường được người ưa quí chuộng cho dù không làm lớn.

Tại Sửu Mùi thì đắc cách nhất, chủ về đại khoa, gặp cát tinh thì học giỏi, công danh hiển đạt. Hưởng ân huệ trời ban, hay gặp may mắn, gặp khó khăn thì có người giúp đỡ. Thông thường có tín ngưỡng hoặc tin vào đấng thiêng liêng.

Có người cho rằng Ân Quang thì hưởng về mặt vật chất, Thiên Quí hưởng về mặt tinh thần. Ân Quang tại Mệnh thì dễ làm thầy giáo, thầy lang, Thiên Quí tại Mệnh thì làm công chức. Kết hợp vói các sao Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa rất hợp cách và tăng thêm sự tốt đẹp sáng sủa cho các sao này. Nếu Xương Khúc là bộ sao phù trì mạnh mẽ cho Nhật Nguyệt thì Quang Quí cũng phù trì cho Nhật Nguyệt hợp hơn các sao khác.

Các bộ sao kết hợp

Quang Quí, Thai Cáo: gọi là tứ vinh (vinh hiển): dễ hiển đạt.
Thai Phụ, Quang Quí thì sớm có công danh, trai thì hiển đạt, gái thì lấy chồng làm lớn.
Quang Quí, Thiên Phúc, Quyền, Lộc: làm lớn.
Quang, Quí, Hỉ Sửu Mùi: công thành danh toại, được người giúp.
Quang, Quí, Tả Hữu, Thanh Long, Khôi Việt, Hoa Cái, Hồng Loan: thượng cách, chức vị lớn.
Quang, Quí gặp Tứ Sát: phúc lộc kém đi.
Quí Ân Thanh Việt Cái Hồng. Trai cận cửu trùng, nữ tác cung phi.

Phối

Lấy vợ chồng quí. Vợ chồng ân ái hòa thuận.

Tử Tức
Thương con. Con sang quí. Có con hiếu đễ với cha mẹ và được cha mẹ thương yêu. Có thể lập con nuôi dể làm phúc.

Bào

Đối xử với anh chị em có tình nghĩa. Anh chị em hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau, nhất là khi đồng cung và không gặp hung tinh hoặc Tuế Đà Kỵ. Có khả năng có anh chị em kết nghĩa, chị em nuôi.

Tài Bạch
Nghèo túng thì có người giúp đỡ, thường gặp may mắn về tiền bạc. Có thể được hưởng di sản. Hay giúp đỡ người nghèo.

Phụ Mẫu
Đối xử tốt với cha mẹ. Được cha mẹ thương yêu. Có bố mẹ nuôi hoặc đỡ đầu.

Thiên Di
Ra xã hội hay gặp hên may, được người giúp đỡ. Có bạn hữu tốt. Giải rất nhiều tai họa.

Điền
Có khả năng hưởng thừa tự của người trong họ hoặc có người hiến nhà hiến đất cho ở, giúp đỡ về chỗ ở.

Quan Lộc
Được người trên giúp đỡ che chở. Hay giúp đỡ đồng nghiệp, lấy chí thành mà đãi người. Gặp may mắn trong quan trường nghề nghiệp.
Quang Quí Cơ Lương ờ Thin Tuất: đại quí, làm nên
Quang Quí, Khôi Việt ờ Sửu Mùi: đại quí, làm nên
Quang Quí Thiên Tướng: đại quí, làm nên to
Quang Quí Tả Hữu, Thiên Lương cư Ngọ: văn võ toàn tài (Thiên Lương tại chỗ khác cũng tốt).


Đối xử có nghĩa với bạn bè, được người dưới quyền phò tá, có tôi tớ đắc lực trung thành. Có bạn bè tốt, quí mến, giúp đỡ tận tình.

Tật Ách
Đau ốm gặp thầy giỏi, thuốc hay. Ít bệnh tật tai họa.

Phúc Đức
Được thần linh che chở. Thọ, giòng họ đoàn kết, giúp đỡ nhau. Có người để mả cho, khi chết được người hiến đất.

Hạn
Giải rất lớn tai họa xảy ra. Mưu cầu công danh có lợi, thi đỗ, nhất là tại Sửu Mùi. Quí Ân Sửu Mùi hạn cầu. Đường mây gặp bước cao sâu cửu trùng.

 Giải họa của Quang Quí

Quang Quí giải họa rất mạnh mẽ khi thủ tại cung đó và đi đủ bộ, nhất là tại Thìn Tuất Sửu Mùi càng mạnh mẽ. Đơn thủ hoặc có cả bộ chiếu không sao thủ thì hiệu lực yếu đi nhiều. Còn cách giáp Quang giáp Quí thì hầu như không có tác động giải họa mấy khi trong cung có hung tinh hãm địa thủ. Không Kiếp có tác dụng giải họa gây ra bơi các sát tinh hạng nặng như Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Riêu, nhưng không có hiệu lực mấy khi giải cách hai đời chồng hoặc vợ gây ra do các yếu tố không phải do hung tinh tác họa như cách Tả Hữu tại Phu Thê thì không giải hết được và vẫn có khả năng hai đời. Quang Quí cũng không giải mạnh được chuyện thị phi do Tuế Đà Kỵ gây ra. Tại vị trí Sửu Mùi thì nó có khả năng giải được hung tinh tọa thủ tại cung nhị hợp là Tí và Ngọ. Tại Thìn Tuất gặp Không hay Kiếp đồng cung hoặc hợp chiếu thì Quang Quí tại đây giải hầu hết tai họa, không phải lo ngại về tai họa vì tai họa không đáng kể. Trường hợp này có Kình Đà hãm địa cùng chiếu về cũng không sao. Nếu có Không Hoặc Kiếp mà thêm Hinh Riêu cả bộ thì cũng giảm rất nhiều tai họa nhưng cũng không hết. Quang Quí tam hợp thủ tại cung thì Không Kiếp hãm địa cả bộ chiếu thủ cũng không đáng ngại vì tai họa không đáng kể. Quang Quí thủ có đủ bộ giải được cả bộ Kình Đà hãm chiếu về, hoặc Kình hoặc Đà hãm tọa thủ, giải đươc Kình Dương hãm địa tại Tí Ngọ Mão Dậu.

Ân Quang-Thiên Quí đồng cung giải được Hình Riêu Không Kiếp đủ bộ thủ chiếu.

Quang Quí đơn thủ không giải họa mạnh được, không giải được Kình cư Ngọ có Hình Riêu tam hợp. Quang Quí đồng cung, vừa nhị hợp vừa giáp thì giải họa rất nhiều cho cung này, giải được Không hoặc Kiếp tọa thủ. Quang Quí đơn thủ gặp Không, Kiếp hãm đồng cung thì giải nhiều nhưng không hết tai họa .

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bộ sao ÂN QUANG - THIÊN QUÝ

Tướng mặt làm quan chi tiết qua Ngũ tinh

Ngũ tinh Tai trái Kim, tai phải Mộc, miệng Thủy, bộ vị trên giữa 2 lông mày Hỏa, Chuẩn đầu Thổ. Người có tướng mặt làm quan, phú quý thì Ngũ tinh có đặc điểm như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ tinh là chỉ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tai trái là Kim tinh, tai phải là Mộc tinh, miệng là Thủy tinh, bộ vị trên giữa 2 lông mày là Hỏa tinh, Chuẩn đầu là Thổ tinh. Người có tướng mặt làm quan, phú quý thì Ngũ tinh có đặc điểm như thế nào?

tuongmatlamquanngutinh

Vành tai rõ ràng, có thể được phú quý dài lâu

Tai có vành rõ ràng, to nhỏ cân xứng, tựa như cánh cửa rộng thoáng, đoan trang, nổi cao, phân biệt rõ ràng cùng hướng về lông mày, hình dạng không nhọn, da thịt bóng hồng, sắc trắng như bạc, quá mắt, như thế là tướng quý, chủ phú quý.

Nếu người có tai lật ngược, không đoan chính mà lại hẹp, hoặc lớn nhỏ khác nhau, như thế là tướng xấu. Người như thế không chỉ không có học thức mà tiền tài, phúc đức cũng bị tổn thương.

Sách xưa chép rằng: 2 sao Kim, Mộc, tức tai trái và tai phải có luân có quách, lỗ tai có thể nhét vừa được ngón tay út, người đó thông minh.

Nếu tai có nghiêng ngược, người đó cả đời gian khổ, dù có cơ hội làm quan cũng chỉ làm quan nhỏ.

Miệng hướng lên trên có thể làm quan đến tam công

Thủy tinh là miệng, được gọi là nội học đường. Hai môi bóng hồng, miệng vuông, môi đoan chính, người có tướng như thế tài năng lớn, lại có thể được hưởng phúc lộc.

Người có răng môi thô lộ, khóe miệng rủ thấp, lộ sắc vàng là người bần tiện.

Miệng vuông đoan chính tựa hình chữ “tứ” lại có môi bóng hồng như bôi son, khóe miệng hơi hướng lên trên, răng trắng tinh khiết chỉnh tề, Nhân trung lộ rõ, người đó thông minh, có học vấn uyên thâm, có thể làm quan đến hàng tam công.

Ngược lại, người có miệng dài không vuông ngay ngắn, môi mỏng, khóe miệng rủ xuống thấp, người như thế nghèo hèn, cuộc sống bần khốn. Nếu miệng lại có nét không hài hòa chủ về thích làm điều thị phi, gian trá, có thể sẽ gặp phải họa miệng lưỡi.

Trán rộng bằng thoáng, chẳng lo chuyện cơm ăn áo mặc

Nếu trán của một người rộng bằng thoáng, đầy đặn tươi sáng, người đó không chỉ có cha mẹ phú quý mà bản thân cũng thông minh, nhiều tài năng, có được quan lộc, chẳng lo chuyện cơm áo, con cái thành tựu, cả đời tài lộc song toàn. Nếu lại được thêm Hỏa tinh tốt, như thế đã tốt lại càng tốt, tuổi thọ cao.

Ngược lại, trán của một người nhọn lại có nếp nhăn thì năng lực bình thường, chẳng làm nên được chuyện gì to tát, chỉ có thể là dân thường, anh em cũng chẳng có quyển thế, không nhận được sự trợ giúp của ai. Gia đình cũng chẳng có quyền, không được phú quý, nhân định cũng chẳng thịnh vượng.

Sách xưa chép rằng: Trán bằng rộng ngay ngắn, tươi sáng, không có đường vân, khí sắc nhuận sáng là tướng tốt. Nếu trán bằng tựa như hình chữ “xuyên”, người có tướng như thế sớm đỗ đạt chôn quan trường.

Người mà trán có nhiều nếp nhăn chủ phạm nhiều tội. Nếu trán lại có thếm 2 đường vân sắc đỏ xâm nhập vào hai bên trái phải của mắt, như thế là tướng hung họa. Người này làm nhiều điều độc ác, cuối cùng phải ly tán xa quê.

Mũi tựa bút dài đoan chính, phúc lộc thọ đều được toàn mỹ

Thổ tinh là mũi, mũi mà thẳng tựa cây bút đoan chính, lỗ mũi to mà không lộ ra ngoài, chóp mũi đầy đặn, có thịt, không có sự khiếm khuyết, người như thế có cả quan vận, tài vận và thọ vận.

Ngược lại, nếu mũi không được đoan chính, lỗ mũi lộ ra ngoài (mũi hướng lên trời), mũi nhọn mà nổi cao, người đó không chỉ tổ tiên không để lại gia nghiệp gì mà bản tính cũng không tốt, cả đời lao đao vất vả. Đó là hình tướng nghèo hèn.

Sách xưa chép rằng: Mũi đoan chính, lỗ mũi tròn, mũi bằng, tề chỉnh tựa như ống trúc, người có tướng mặt như thế nhất định sẽ làm quan đến tam công. Cánh mũi trái phải đầy đặn, sáng trong là người thông minh, hiển đạt.

Nếu chóp mũi nhọn, mỏng, gia đình người này không được hạnh phúc, cũng chẳng có con cháu kế thừa hương hỏa, có thể sẽ phải sống cô quả cả đời, đến khi về già cũng chẳng có ai để nhờ cậy.

Nếu mũi tựa như mỏ chim ưng hay tựa hình móc câu là người âm mưu gian trá, chỉ nghĩ cách hại người, cần phải đề phòng khi kết giao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt làm quan chi tiết qua Ngũ tinh

Mơ thấy mình được khen: Đừng vội mừng

Trong cuộc sống hiện thực, nếu bạn được khen, điều đó thật đáng mừng. Nhưng nếu trong giấc mơ, bạn cũng mơ thấy mình được khen thì nên cảnh
Mơ thấy mình được khen: Đừng vội mừng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

giác, dự báo tương lai đôi khi không được như mình mong muốn.


Giải mã giấc mơ thấy mình được khen:

Mo thay minh duoc khen Dung voi mung hinh anh
Ảnh minh họa

 
  Mơ thấy có bạn bè hoặc trưởng bối khen ngợi mình là ngụ ý sắp chuyển vận tốt, nhưng chú ý không sẽ bị lừa.

 
Mơ thấy được vợ khen là ngụ ý vợ có hành vi không trung thành với bạn.

 
Mơ thấy nhân viên khen ngợi mình là ám chỉ cục diện công việc hoặc chuyện làm ăn gặp khó khăn, rơi vào rắc tối khiến bản thân mất đi sự tự tin, khả năng thuyết phục, cũng như năng lực làm việc.

 
Mơ thấy người lạ khen ngợi bản thân là cuộc sống gần đây khó tránh sự xúc động nhất thời mà phát sinh xung đột.

 
Mơ thấy đối thủ khen ngợi mình là ngụ ý bạn sắp đầu hàng đối thủ.

 
Vợ nếu mơ thấy mình được người khác khen ngợi là ngụ ý bạn đang có điều bất mãn với chồng.


Mơ đi shopping, cẩn thận ví tiền
Trong giấc mơ, bạn thấy mình đi shopping điên cuồng, thì khi tỉnh dậy hãy quan tâm hơn tới cách xài tiền cũng như tình hình tài chính của mình nhé.
Học sinh mơ thấy mình được người khác khen ngợi thì cần đề phòng thành tích thi cử, gần đây nên nỗ lực học tập.

 
Mơ thấy mình khen ngợi vợ, bạn bè hoặc người thân là ngụ ý cuộc sống hạnh phúc.

 
Mơ thấy mình khen ngợi đối thủ là ám chỉ đối thủ chuẩn bị tấn công bạn, bạn nên thận trọng.

 
Mơ thấy mình khen ngợi người khác là sắp phải lo lắng về trắc trở và hoạn nạn.

 
Người làm công ăn lương mơ thấy mình khen ngợi thượng cấp  dự báo sẽ được đề bạt hoặc được tăng lương hoặc được thưởng.

 
=> Tra cứu: Lịch âm, Lịch âm 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Lichngaytot.com
Mơ thấy đánh nhau là điềm báo tốt lành
Trong cuộc sống thường ngày, đánh nhau bị coi là hành vi xấu. Đôi khi, chỉ vì một chút nóng giận, không làm chủ được bản thân mà mọi người sẵn sàng thượng cẳng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình được khen: Đừng vội mừng

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 âm lịch gồm có Hội Trấn Đông tổ chức tại 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

1. Hội Trấn Đông -  Đền Bạch Mã

Thời gian: tổ chức từ ngày 19 tới ngày 20 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Long đỗ - vị thần gốc của Hà Nội cổ.

Nội dung: Đền Bạch Mã là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Mở đầu lễ hội là những nghi thức thông thường như:ca trù, hát văn, ngâm thơ... Ngoài ra còn có trương trình riêng: nói về lịch sữ của đền Bạch Mã.

2. Hội Xã Dương Liễu

Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn tướng quân Lý Phục Man - vị tướng tài có nhiều công lao phò vua, giúp nước dưới thời Lý (người dân phong cho bà là Thành Hoàng Làng).

Nội dung: Từ sáng sớm, người dân trong xã và khu vực lân cận đã háo hức tập trung tại sân Đình chờ xem hội. Đình làng Dương Liễu hôm nay được trang hoàng rực rỡ với rất nhiều cờ, hoa, kiệu, lọng... Từ các cụ cao niên, thanh niên đến các em thiếu nhi tham gia lễ rước đều mặc trang phục lễ cổ, nhằm tái hiện khung cảnh và không khí lễ hội thuở xưa.

Theo sử sách để lại, cách đây 1.500 năm, tại ngôi Quán thờ (nay là Đình làng Dương Liễu), Tướng công Lý Phục Man trên đường đi đánh giặc đã tổ chức “nghiềm quân” tại Quán. Đoàn quân dưới lá cờ do Tướng công chỉ huy sau đó đã đánh thắng giặc ngoại xâm dưới thời nhà Lý. Nhớ công lao to lớn của vị tướng tài, người dân nơi đây phong tướng là Thành Hoàng làng. Từ đó, cứ mỗi dịp đầu xuân, người dân làng Dương Liễu lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Tướng công Lý Phục Man- vị Thành Hoàng làng và đội quân tinh nhuệ đã có công xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.

Cứ 5 năm mộ lần người dân Dương Liễu lại tổ chức hội chính. Ngày đầu tiên của hội chính là lễ dâng hương của đại biểu khách thập phương và các cụ phụ lão, nhân dân trong làng. Đoàn nhạc lễ theo suốt chương trình lễ hội, từ rước Văn, rước Nghinh tới rước Hoàng cung. Phần Lễ luôn thu hút nhân dân và khách thập phương đông nhất, vì yếu tố tâm linh của người dân đất Việt cầu mong một năm mới nhiều tài, lộc, sức khỏe, an lành…

Phần hấp dẫn nhất trong lễ hội chính là hoạt cảnh “nghiềm quân” của gần 500 trai làng. Từ sân Đình làng, 500 chàng trai tráng kiện, ăn mặc rực rỡ, đầu quấn khăn đỏ, miệng ngậm còi, tay cầm cờ diễu hành quanh làng, và cuối cùng tập trung “nghiềm quân” ở sân bóng của xã. Đây chính là phần tái hiện lại cảnh luyện quân, bài binh bố trận và tài thao lược chiến đấu của Tướng công Lý Phục Man đang thời giúp nước. 

Trong suốt 3 ngày hội, dân trong làng và các xã lân cận tạm gác việc đồng áng, làm nghề, mặc quần áo mới, rực rỡ với mâm oản quả, hoa tươi đi lễ và xem hội. Sau phần “nghiềm quân” là một chuỗi các hoạt động như hát thờ (vào đêm đầu tiên của lễ hội), hát chèo đò (vào đêm thứ hai của lễ hội), các hoạt động vui chơi như: Cờ tướng, kéo co, chọi gà, bắt dê, bắt vịt, trồng cây chuối…

Đêm hội là một trong những cảnh sắc đẹp và đáng nhớ nhất của hội. Khắp các ngả đường thôn xóm là những đèn lồng đỏ trang trí rực rỡ làm lộng lẫy cho đêm hội...

Lễ hội kết thúc sau lễ rước Hoàn cung và văn nghệ, để rồi hứa hẹn những mùa lễ hội đáng nhớ khác.

Lễ hội truyền thống xã Dương Liễu là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, tưởng nhớ và tôn vinh truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Quẻ Quan Âm: Tần Bại Cầm Tam Tướng

Quẻ Quan Âm thứ 74 Quân Tần Bại Cầm Tam Tướng đoán rằng tiến thoái lưỡng nan. Hẫy bỏ mặc tất cả, cúi đầu mà đi, thành hay bại đều ở trong đó.
Quẻ Quan Âm: Tần Bại Cầm Tam Tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 74 được xây dựng trên điển cố: Tần bại cầm tam tướng hay quân Tần thất bại, ba vị tướng bị bắt.

Quẻ hạ thuộc cung Tỵ. Hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng khó. Bốn phương tám hướng đều thấy bế tắc. Mọi sự cứ thận trọng và an bài cho số mệnh của mình.

Thử quái tự hộc đều long chi tượng. Phàm sự đa hư thiểu thực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Quân Tần Bại Cầm Tam Tướng

Mùa đông năm Tần Mục Công thứ 32 (tức năm 628 tr. CN), Tấn Văn Công băng hà. Lúc này, Khởi Tử từ nước Trịnh sai người gửi thư về nước Tần, nói rằng: “Người nước Trịnh đã trao chìa khóa cửa phía bắc cho tôi, nếu như lặng lẽ cử quân đội đến, sẽ có thể có được nước Trịnh.” Tần Mục Công hỏi ý kiến Kiến Thúc và Bách Lý Hề, hai người đáp rằng: “Vượt chặng đường mấy nghìn dặm đi qua mấy nước để tập kích người khác, rất ít khi thành công. Hành động của quân ta, nước Trịnh chắc chắn sẽ biết, không thể đi được!” Tần Mục Công nói: “Ta đã quyết định rồi, hai ngươi không cần nói nữa.” Bèn sai con trai của Bách Lý Hề là Mạnh Minh Thị, con trai của Kiến Thúc là Tây Khất Thuật và Bạch Ất Bính, ba người đem quân xuất phát.

Mùa xuân năm sau, quân Tần tiến về phía đông, Bách Lý Hề và Kiến Thúc khóc tiễn đội quân, Tần Mục Công rất tức giận: “Ta xuất quân, các ngươi lại khóc lóc với bộ mặt đưa đám làm ảnh hưởng đến sĩ khí của quân ta, thế là thế nào?” Hai người đáp: “Chúng thần thực không muốn làm mất sĩ khí. Chỉ là chúng thần tuổi đã già rồi, con trai phải xuất chinh, sợ rằng sau này không gặp lại được nữa!” Hai người nói với con trai của mình rằng: “Quân đội chắc chắn sẽ thất bại, người nước Tấn sẽ chặn đánh ở núi Hào Sơn!”

Đại quân nước Tần muốn lặng lẽ đánh úp nước Trịnh, nhưng nước Tấn sớm đã nhận được tin báo. Đại tướng nước Tấn là Tiên Chẩn cho rằng, đây là cơ hội tốt để đánh nước Tần, khuyên Tấn Tương Công mới lên ngôi cho chặn đánh ờ núi Hào Sơn. Tấn Tương công đích thân chỉ huy quân đội đến núi Hào Sơn.

Quân của Mạnh Minh Thị vừa đến núi Hào Sơn, đã rơi vào trận mai phục, bị đông đảo quân Tấn vây bủa, quân Tấn phục hai bên ném thuốc súng mồi lửa vào quân Tần, còn phía sau lưng nghe tiếng quân Tấn hô hào dậy đất. Quân Tần lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, dẫm đạp lên nhau, sĩ tốt người thì chết, người thì đầu hàng, chết và bị thương vô số, cuối cùng ba đại tướng là Mạnh Minh Thị, Tây Khất Thuật và Bạch Ất Bính đều bị bắt sống.

Tấn Tương Công đắc thắng trở về triều, Văn Doanh (phu nhân của Tấn Văn Công) cầu xin Tấn Tương Công thả ba vị tướng soái của nước Tần trở về, nói rằng: “Họ đúng là đã làm li gián mối quan hệ giữa hai quốc quân của hai nước Tần Tấn. Nếu như Tần Mục Công có được ba người này, có ăn thịt của họ cũng chưa hả giận, sao phải mất công trị tội họ? Hãy để họ trờ về nước Tần, cho vua nước Tần tự trừng phạt họ, được chăng?” Tấn Tương Công nghe mẹ nói có lý, liền cho thả ba người ra.

Ba người về tới nước Tần, Tần Mục Công biết tin toàn quân bị tiêu diệt, đã mặc tang phục, đích thân ra ngoài thành đón họ.

Ba người quỳ dưới đất chịu tội, Tần Mục Công nói: “Đây là sai lầm của ta, đã không nghe theo lời khuyên của cha các ngươi, hại các ngươi phải chịu bại trận, sao có thể trách các ngươi được? Ta cũng không thể vì phạm lỗi lầm nhỏ, mà xóa bỏ công lao to lớn của một người!” Ba người cảm động đến rơi nước mắt, từ đó về sau, họ chăm chỉ luyện tập binh mã, một lòng một dạ muốn báo thù cho nước Tần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Tần Bại Cầm Tam Tướng

Người có mệnh Nhất Bạch Tham Lang tinh thích hợp làm nghề gì? –

Nhất Bạch đại diện cho tư duy, nghiên cứu, lưu thông, thích hợp làm nghề: nghiên cứu triết học, tôn giáo, kinh tế, lịch sử, bảo hiểm, ngân hàng, ngoại giao, nhân viên bán hàng, in ấn, dầu khí, giáo viên, lính cứu hoả...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhất Bạch đại diện cho tư duy, nghiên cứu, lưu thông, thích hợp làm nghề: nghiên cứu triết học, tôn giáo, kinh tế, lịch sử, bảo hiểm, ngân hàng, ngoại giao, nhân viên bán hàng, in ấn, dầu khí, giáo viên, lính cứu hoả…

p3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người có mệnh Nhất Bạch Tham Lang tinh thích hợp làm nghề gì? –

Mơ thấy sâu –

Sâu bọ thường gợi lên sự phá hoại, những điều xấu trong ý nghĩ của mọi người. Tuy nhiên, mơ thấy sâu bọ lại thường là điềm tốt dự báo bạn sẽ sớm vượt qua được thời kỳ vất vả và có được cuộc sống yên ổn, sung túc. Mơ thấy sâu bọ bò lên mình là điềm bá
Mơ thấy sâu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sâu –

Bày cách bố trí phòng thờ đúng chuẩn

Phòng thờ đại diện cho đời sống tâm linh trong ngôi nhà. Bài trí phòng thờ tốt không chỉ làm gia chủ yên lòng mà còn mang tới nhiều may mắn cho gia đình.
Bày cách bố trí phòng thờ đúng chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bay cach bo tri phong tho dung chuan hinh anh
 
Nếu gia đình có điều kiện nên có phòng thờ riêng cho thanh tịnh, còn không cần lưu ý một số điểm dưới đây.
 
Không nên đặt không gian thờ ở chính giữa nhà, đối diện với cửa. Vừa làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ khi người qua kẻ lại, vừa đón nhiều sát khí từ ngoài của bay vào. Hơn thế nữa, khi cúng khấn mà lưng quay về phía cửa sẽ có cảm giác bất an, không tập trung.
 
Vị trí nơi thờ nên đặt ở chỗ kín đáo mà thoáng đãng, có thể chọn gần giếng trời hoặc khoảng thông tầng.
 
Nếu có phòng thờ riêng thì nên bố trí ở tầng cao nhất của ngôi nhà, vừa rộng rãi thoáng đãng, vừa yên tĩnh, tiện việc cúng lễ.
 
Phòng thờ của gia đình phải được bố trí trang nghiêm mà ấm cúng, tránh cảm giác lạnh lẽo. Điều này chủ yếu dựa vào ánh sáng đèn của phòng thờ. Nếu phòng thờ có diện tích nhỏ thì chỉ nên treo đèn nhỏ, tránh treo các loại đèn chùm lớn. Phòng thờ có diện tích lớn thì bố trí nhiều đèn dọc theo bên tường và trên ban thờ. 
 
Đèn bố trí trong phòng thờ có ánh sáng dịu, không quá chói gắt nhưng cũng không quá mờ tối. Không đặt đèn chiếu thẳng vào vị trí ngồi hành lễ. Nếu sơn tường màu sáng thì có thể giảm bớt số bóng đèn. Nếu phòng thờ có treo tranh thì bố trí bóng đèn hai bên.
 
Phòng thờ nhất thiết phải có cửa sổ, nếu có thêm cửa lối ra ban công thì càng tốt. Bởi khí âm trong phòng thờ nhiều, cần phải có dương khí để cân bằng. Hơn nữa, việc thắp nhang trong phòng thờ cũng khiến không khí bị ô nhiễm, cần phải thông thoáng, lưu chuyển không khí để điều hòa. 
 
Cửa sổ của phòng thờ nên ở mé so với ban thờ, không chiếu thẳng vào ban thờ, không mở cửa sổ liên tục. Khi nào lau chùi, dọn dẹp thì mới mở ra một lát rồi đóng lại.
 
Có thể đặt cây xanh trong phòng thờ để thanh lọc không khí. Nên đặt các loại cây cành lá tươi tốt nhưng dáng thấp nhỏ.
ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày cách bố trí phòng thờ đúng chuẩn

Sao Thái Tuế

Hành: Hỏa Loại: Phù Tinh, Hình Tinh Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén Tên gọi tắt thường gặp: Tuế Sao chủ của vòn...
Sao Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Phù Tinh, Hình TinhĐặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bénTên gọi tắt thường gặp: Tuế
Sao chủ của vòng sao Thái Tuế gồm 12 sao theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.
Công Danh Tài Lộc
Có lợi về công danh cho những nghề nghiệp cần dùng đến khoa ngôn ngữ như trạng sư, giáo sư, chính trị gia.
Phúc Thọ Tai Họa

  • Hay bị nói xấu, chỉ trích, công kích, cãi vã, bút chiến.
  • Hay bị kiện cáo.
Sao Thái Tuế bao giờ cũng hội chiếu với Quan Phù, chỉ sự báo oán vì mích lòng, kiện thưa vì lời nói chạm tự ái. Đây là hậu quả của tính nhiều chuyện, tính chỉ trích, nói xấu, gieo thù oán.
Thái Tuế nếu gặp Sát tinh: Tổn thọ, tổn danh, tổn tài hay bị kiện cáo, báo thù, tai nạn. Tóm lại, Thái Tuế là sao chủ về lời nói và những hậu quả tốt xấu do ngôn ngữ mà có.
Những Bộ Sao Tốt
Thái Tuế, Xương Khúc, Khôi Việt: năm sao này kết thành bộ văn tinh rất đẹp cho việc học hành, thi cử, làm quan.
Những Bộ Sao Xấu
  • Thái Tuế, Hoa Cái hay Thái Tuế , Hóa Kỵ: Ăn nói kiêu kỳ, mất cảm tình.
  • Thái Tuế, Đào, Hồng: Bị phụ tình, cô độc, thất tình.
  • Thái Tuế, Thiên Hình: Bị tai bay vạ gió, có thể bị kiện, bị tù.
  • Thái Tuế, Đà La, Hóa Kỵ: Người quê kệch, ngu độn; gây ngăn trở công việc hại đến quyền thế, tài lộc.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phụ Mẫu
Trong nhà thiếu hòa khí hay có sự tranh chấp. Cha mẹ và con không hợp tánh nhau. Nếu Thái Tuế gặp thêm nhiều Sát Tinh, nhất là Đà, Kỵ xâm phạm, cha mẹ xa cách nhau. Gia đình ly tán. Ngoài ra, cha mẹ thường hay gặp tai họa, đáng lo ngại nhất là mắc kiện cáo.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phúc Đức
Không được hưởng phúc, trong họ thiếu hoà khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Điền Trạch
Thái Tuế nếu gặp các sao tốt như Tam Thai, Bát Tọa, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì nhà cửa vững vàng. Đi với các sao xấu như Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Đại Hao, Tiểu Hao, lận đận về nhà cửa, xích mích, bị lừa.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Quan Lộc
Thường làm các nghề chủ về dùng lời nói, lý luận, hoặc nghề có liên quan đến pháp luật như nghề luật sư, giáo sư, thẩm phán, trưởng tòa. Nếu làm chính trị, thiên về đối lập, hay chỉ trích và bị chỉ trích trong nghề nghiệp.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Nô Bộc
Ra ngoài có nhiều tham vọng, ưa thích chơi với người có chức cao quyền rộng, hay kén chọn bạn bè. Người làm nghề nhà giáo có cách này, nếu có nhiều sao tốt, thì học trò của mình sau này công danh rực rỡ, làm nổi tiếng cho thầy.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Thiên Di
Thái Tuế ở cung Thiên Di thì hay bị miệng tiếng khẩu thiệt trong việc giao thiệp, hay bị kiện cáo, cãi vã với người ngoài.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tật Ách
Hay bị chuyện thị phi, kiện cáo, tù tội, đánh đập, mổ xẻ, tai nạn dọc đường.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tài Bạch
Đi với sao tốt thì dễ kiếm tiền, nói ra tiền. Đi với sao xấu như Đà La, Hóa Kỵ, Địa Không, Địa Kiếp thì hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Tử Tức
Con cái không hợp tính cha mẹ.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng bất hòa, hay cãi vã, lắm lời, có thể ly dị, ly hôn, nếu gặp sao xấu, trừ phi vợ hay chồng hành nghề luật sư, thẩm phán.
  • Nương tựa nhau, dính dấp nhau nhiều vì quyền lợi, danh tiếng, địa vị, dư luận, ảnh hưởng bên ngoài rất nặng vào đời sống riêng tư.
Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Huynh Đệ
Anh chị em trong gia đình tuy có sự khắc khẩu, khác chí hướng, nhưng vẫn có sự giúp đỡ qua lại, trong anh chị em có người cô độc, đau bệnh.
Thái Tuế Khi Vào Các Hạn
  • Có cãi vã, đôi chối trong năm đó, có đi dạy học.
  • Bị thất tình, cô độc.
  • Nên cần cẩn thận khi lập gia đình.
  • Hạn gặp sao Thái Tuế thì hay sinh ra quan tụng, khẩu thiệt, ở Cung Mệnh thì thời vận gian truân vất vả.
  • Gặp sao Đà La, Kiếp Sát, là hạn ra ngoài lắm tai nạn, nguy hại đến tính mạng.
  • Ở Cung Dần hoặc Cung Dậu mà gặp sao Thái Tuế, Thiên Hình, Kình Dương thì hay gặp chuyện thị phi, tai bay vạ gió, khẩu thiệt, tai tiếng, tù tội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thái Tuế

Sự tích Đức Quan Thế Âm Bồ Tát

Quán Âm Bồ Tát hay còn được gọi bằng những danh hiệu như: Quan Âm Phật, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán Thế Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện lẫn lộn ở cõi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Bồ Tát, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v...

 Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu.

 Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. 

Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài.

 Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v...

 Hiện nay đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).

Truyện 1: Quan Âm Thị Kính

Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì không thể nào đặng”. Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao.

 Vâng lệnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình.

 Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: "Cha mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi". Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.

 Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về.

 Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào.

 Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng.

 Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha.

 Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.

 Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm.

quan thế âm bồ tát

 Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.

 Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi.

 Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình.

 Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc.

 Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.

 Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn.

 Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa.

 Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.

 Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?”

 Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử  rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.”

 Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa.

 Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.

 Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình.

 Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục.

Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành.

 Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.

Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu.

Truyện 2: Quan Âm Nam Hải

 Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.

 Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.

 Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).

 Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.

Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.

 Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền. 

 Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.

 Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.

 Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.

quan âm bồ tát

 Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.

 Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.

 Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.

 Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.

 Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.

 Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.

 Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.

 Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.

 Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.

 Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.

 Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.

 Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.

 Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích Đức Quan Thế Âm Bồ Tát

Những lời chúc valentine ngọt ngào

Trong ngày lễ tình nhân hãy dành những lời chúc valentine ngọt ngào nhất dành tặng người mà bạn yêu nhất, chọn lời chúc valentine hay nhất tặng người tình
Những lời chúc valentine ngọt ngào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùa valentine đến rồi, hãy dành cho người yêu của bạn những lời chúc valentine ngọt ngào nhất, lãng mạn nhất vào ngày lễ tình nhân.

Trong tình yêu, một món quà không bằng một lời nói, một lời nói không bằng một cảm xúc. Hãy mang đến cho người bạn yêu một cảm xúc ngọt ngào qua lời chúc valentine hay nhất và ý nghĩa nhất. Hãy thể hiện tình yêu của bạn, tấm lòng của bạn, tâm hồn của bạn để người ấy biết rằng, bạn yêu người ấy biết dường nào.

Sau đây là những lời chúc valentine ngọt ngào hay nhất và đầy ý nghĩa, tuy chưa đủ để thể hiện hết tình yêu của bạn với người ấy nhưng nó đủ để cho người ấy biết cảm xúc của bạn về người ấy. Nào, hãy trao lời chúc ngày valentine tới một ai đó ngay bây giờ

Những lời chúc valentine ngọt ngào và hay dành cho bạn gái

Anh yêu những điều em làm, lời em nói. Yêu cách em trở thành một phần cuộc sống của anh mỗi ngày. Valentine ấm áp, Hạnh phúc trọn vẹn, em nhé!

—–

Tặng niềm vui để em ngọt ngào, tặng nụ cười để em rạng rỡ, tặng trái tim anh nóng cháy để em mãi là người yêu của anh. Chúc em hạnh phúc trong dịp Valentine này!

—–

Không có ánh mặt trời, làm sao có cầu vồng sau cơn mưa. Em là ánh mặt trời, khiến cuộc đời anh thêm rạng rỡ. Chúc em mãi tỏa sáng trong trái tim anh. Valentine ấm áp nhé em!

Anh sẽ là dòng sông, để em là biển rộng. Anh sẽ là gió lộng, để em là mây bay. Hãy để anh luôn được ở bên em trong cuộc đời này! Gửi em Valentine đầy yêu thương.

Cảm ơn em đã đến bên anh, cho anh biết thế nào là sự ngọt ngào, hạnh phúc của tình yêu. Lễ tình nhân ngọt ngào em nhé.

Tối qua anh đi ngủ với một nụ cười vì anh biết anh sẽ mơ thấy em… Và sáng nay anh thức dậy cũng với một nụ cười vì anh biết em không là một giấc mơ.

“Châu Âu ngủ, Châu Á cũng đang ngủ, Châu Mỹ đang tối dần, chỉ có đôi mắt đẹp nhất trên thế giới này đang đọc tin nhắn của anh. Happy Valentine Day!”.

“Nếu có bản án dành cho anh vì đã yêu em thì anh xin đứng trước toà và nhận bản án chung thân được bên em suốt đời…”

Nếu anh không bao giờ gặp em, anh sẽ không thích em. Nếu anh không thích em, anh sẽ không yêu em. Nếu anh không yêu em, anh sẽ không nhớ em. Nhưng anh đã làm, đang làm và sẽ làm đó là mãi yêu em và yêu em thật nhiều. Hôn em…

“Chào quý cô. Đây là tổng đài tin nhắn. Ấn phím 1 để có 1 lời khen. Phím 2 cho một lời chúc tốt đẹp. Phím 3 cho 1 nụ hôn. Phím 4 cho 1 cuộc hẹn. Nếu muốn tất cả hãy bấm số của tôi nhé”

Anh xin Chúa một bông hồng và ngài đã cho anh cả một vườn hoa, anh xin Chúa một giọt nước, ngài cho anh cả một đại dương, anh xin Chúa cho anh một thiên thần và ngài tặng em cho anh.

Một ngày anh có thể không gọi điện và nhắn tin cho em lúc thức dậy và trước khi đi ngủ, nhưng hãy tin rằng không ngày nào là không mở đầu và kết thúc với ý nghĩ về em.

Em bị triệu đến tòa án vì đã bước vào ước mơ của anh, đánh cắp trái tim anh, và cướp đi mọi cảm xúc trong anh. Em bị kết án ở bên anh mãi mãi. Em có gì biện hộ không?

Những lời chúc valentine hay nhất và lãng mạn dành cho bạn trai

Em xin lỗi anh hôm nay em bị hạn chế nhắn tin cho anh rồi… Hôm nay khám bệnh, bác sĩ bảo em phải hạn chế với những gì ngọt ngọt… mà anh lại ngọt ngào số một. Em đang liều mạng với tin nhắn này đấy. Happy Valentine-Day.

Em mong rằng em sẽ nhận được món quà rất lớn từ anh – Đó chính là tình yêu của anh, có được không anh?

Trong mắt anh, em nhìn thấy ngày mai… Trong vòng tay của anh, em tìm thấy tình yêu. Yêu anh hôm nay và mãi mãi.

Lần đầu tiên em nhìn thấy anh, em đã thấy tình yêu… Lần đầu tiên anh chạm vào em, em đã cảm nhận được tình yêu. Và sau những khoảng thời gian đó, anh vẫn là người duy nhất em yêu.

Theo khoảng cách, em đang ở xa anh. Bởi ý nghĩ, em đang rất gần anh. Còn về tình cảm thì trái tim em đã ở trong anh rồi.

Cảm ơn anh đã cho em những kỉ niệm tuyệt vời của ngày hôm qua, hạnh phúc ngập tràn của ngày hôm nay, và lời hứa ngọt ngào của tất cả những ngày sau đó!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc valentine ngọt ngào

Có nên để các cửa đối diện với nhau không? –

Theo phong thủy thì cửa là miệng nạp khí nên nếu để các cửa đối diện nhau sẽ hình thành thế đôi xung, dòng khí đôi lưu lớn, mạnh, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của gia chủ bởi vậy khi thiết kế nhà ở cần tránh: - Cửa trước đối diện với cửa sau vì như vậ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy thì cửa là miệng nạp khí nên nếu để các cửa đối diện nhau sẽ hình thành thế đôi xung, dòng khí đôi lưu lớn, mạnh, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của gia chủ bởi vậy khi thiết kế nhà ở cần tránh:

92-03

–  Cửa trước đối diện với cửa sau vì như vậy sinh khí trong nhà sẽ bị tiêu tán hết, dễ gây phản gió làm người trong nhà bị ốm yếu, gây tổn hại tới sức khỏe. Khắc phục bằng cách trổ cửa sau so le với cửa trước, để khí lưu thông trong nhà từ trước ra sau dích dắc theo hình chữ S”, như vậy khí tụ trong nhà sẽ lâu hơn.

–    Cửa ra vào đối diện với cửa buồng ngủ. Buồng ngủ là nơi nghỉ ngơi thư dãn, cần phải yên tĩnh, kín đáo, còn cửa chính là nơi ra vào của người trong nhà và khách tới chơi, nếu để hai cửa đối diện sẽ ảnh hưởng tới không gian yên tĩnh và người đang nghỉ ngơi. Nếu không thể bố trí lại hai cửa thì lấy vị trí giường nằm làm gốc, kê giường vào một góc khuất, sao cho từ cửa ra vào không thể nhìn ngay thấy giường. Ngoài ra, có thể thay đổi hướng mở cánh cửa, ví dụ bản lề cánh cửa ở bên trái thì đem chuyển sang bên phải hoặc cánh cửa mở vào thì đổi thành mở ra từ phía ngoài.

–   Cửa ra vào đôi diện với cửa gian bếp Nếu để hai cửa này đối diện với nhau thì tài khí lọt hết do cửa ra vào là miệng nạp khí, còn gian bếp thiên về âm khí vì lấy Hoả làm chủ. Khắc phục bằng cách kê lại vị trí lò bếp cho hướng sang phía khác.

–   Cửa ra vào đối diện với cửa buồng vệ sinh vì như vậy sinh khí vào cửa chính sẽ xộc thẳng vào nơi uế khí, âm khí nặng nề, tạo nên sự đối xung giữa hai luồng khí. Để giảm bớt hoặc triệt tiêu thế đối xung này chỉ cần xê dịch hướng cửa buồng vệ sinh là được.

–   Cửa buồng ngủ đối diện với cửa ra vào gian bếp. Buồng ngủ là nơi nghỉ ngơi, phải có không gian yên tĩnh, an toàn, không bị phiền nhiễu bởi nước và lửa. Do vậy, khi đun nấu, hơi nóng, khói bụi sẽ xộc thẳng vào buồng ngủ gây ô nhiễm không khí buồng ngủ, khiến chủ nhà khó chịu, đồng thời nước lửa trong gian bếp đều tiềm ẩn mối nguy hiểm. Đặc biệt là khả năng sự cố rò rỉ khí gas và cả khí than bếp, than tổ ong. Vì vậy, cần bố trí hai cửa này thật xa, để tăng độ an toàn.

–   Cửa bếp đối diện với cửa buồng vệ sinh. Bếp là nơi đun nấu, chế biến đồ ăn thức uống, mà buồng vệ sinh là nơi nuôi dưỡng vi khuẩn và không khí bẩn, nếu để hai cửa này đối diện nhau sẽ ảnh hưởng tới vệ sinh, tổn hại tới sức khỏe.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên để các cửa đối diện với nhau không? –

7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Năm mới 2016 bắt đầu bằng một kỳ nghỉ kéo dài 09 ngày. Dù bạn sẽ nghỉ ngơi, đi du lịch hay làm việc trong ngày này thì hãy nhớ dành thời gian để làm 07 điều tiễn năm cũ và đón năm mới sắp đến nhé!
7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhìn lại 1 năm qua mình đã làm được những gì. Cái gì nằm trong kế hoạch vẫn chưa làm được thì mau mau hoàn thành, còn nhắm không thể làm kịp thì cho qua.
Đừng chỉ nhìn vào thành công, hãy đối mặt với những thất bại để có thể rút kinh nghiệm cho một năm mới hoàn hảo hơn.

2. Cho qua những chuyện buồn, những cảm xúc tiêu cực hãy tiễn đi hết. Bạn có thể tự thưởng cho mình một chuyến đi chơi xa vào cuối năm để giải tỏa hết tất cả những tiêu cực trong năm qua. Còn bao nhiêu ngày phép, xõa hết đi nào. Bạn không thể tự dằn vặt bản thân mình hoài với những điều chưa tốt, những chuyện buồn trong năm cũ.

3. Chấm dứt hết tất cả các khoản nợ. Chẳng ai muốn năm mới lại thiếu nợ người khác đúng không nè và cũng đừng trở thành 1 con nợ “xuyên thời gian” cả 2 năm như vậy. Nó hơi kì, hơi dai. Năm sau có mượn tiền chắc không còn ai dám cho mượn.

4. Cũng đừng để nợ ai một lời xin lỗi. Có một vài mối quan hệ bị rạn nứt, ngay cả khi bạn không phải là người có lỗi, hãy cho cả 2 một cơ hội khác để cải thiện bằng cách xin lỗi trước. Đảm bảo một năm mới của bạn sẽ vui vẻ và ý nghĩa hơn rất nhiều. Hoặc ít nhất, bạn cũng cảm thấy nhẹ lòng vì bản thân đã dám làm 1 điều gì đó cho người khác.


5. Và tất nhiên, hãy dũng cảm đi đòi nợ. Thời gian cuối năm là lúc bạn cần nhiều tiền nhất để mua sắm, để chi trả rất nhiều khoản, nếu ai đó đang nợ, hãy khéo léo đòi lại vì quyền lợi của mình. Chẳng hạn như 1 status ngắn trên Facebook.


6. Thay áo cho không gian sống. Năm mới, cái gì cũng phải mới. Hãy làm 1 chút gì đó để không gian sống trở nên mới hơn, đẹp hơn. Thay drap giường, giặt sạch rèm cửa, lau chùi tất cả ngóc ngách trong nhà,…Bạn sẽ cảm thấy tràn đầy năng lượng khi không gian sống thay áo mới cho mà coi.

7. Tút tát nhan sắc bản thân. Hãy để bản thân lung linh tỏa sáng trong dịp Tết. Cả 1 năm rồi, bạn đã dành ra bao nhiêu thời gian để chăm chút cho bản thân? Tạn dụng dịp này mà làm mới bản thân luôn nào. Đừng ngại tốn kém 1 chút, mua sắm thêm quần áo mới, chỗ nào xấu thì đi cải thiện ngay, ý mình là tóc tai chẳng hạn

Webtretho.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều nhất định phải làm trước khi kết thúc năm cũ

Bảng tính ngày xuất hành tốt nhất –

Hai và Tám 2 - Lưu Niên Ba và Chín 3 - Tốc Hỷ * Tư và Mười 4 - Xích Khẩu Giêng và Bảy 1 - Đai An * Sáu và Chạp 6 - Không Vong Năm và Mười một 5 - Tiểu Cát * * Quy tắc tính: - Bắt đầu tính từ ngày mồng một (âm lịch), ở ô số 1, qua ô số 2, cứ thế các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xuat-hanh-2014

Hai và Tám

2 – Lưu Niên

Ba và Chín

3 – Tốc Hỷ *

Tư và Mười

4 – Xích Khẩu

Giêng và Bảy

1 – Đai An *

Sáu và Chạp

6 – Không Vong

Năm và Mười một

5 – Tiểu Cát *

* Quy tắc tính:

– Bắt đầu tính từ ngày mồng một (âm lịch), ở ô số 1, qua ô số 2, cứ thế các ngày tiếp theo lần lượt tính theo chiều kim đồng hồ. Ngày nào rơi vào một trong các ô có những chữ: Đại An – Tốc Hỷ – Tiểu Cát (các ô có sao) là ngày tốt cho xuất hành. Ví dụ: Ngày mồng một của tháng Giêng và tháng Bảy ở ô số 1 Đại An; mồng hai ở ô số 2 Lưu Niên; mồng ba ở ô số 3 Tốc Hỷ; cứ thế mà tính để chọn ngày xuất hành.
– Không dùng những ngày rơi vào các ô Lưu Niên – Xích Khẩu – Không Vong.

Thơ vịnh ngày xuất hành:

Đại An đi gặp quý nhân
Có cơn chu cấp, có phần tiễn đưa
Gặp thời không nắng, không mưa
Bình an vô sự rất vừa ý ta.

Tốc Hỷ gặp bạn cùng đường,
Thành đôi tri kỷ củng thường xảy ra.
Gặp tài, gặp lộc đến ta
Cầu chi củng được thật là vui thay.

Tiểu Cát gặp hội Thanh Long
Muốn tài, muốn chức còn mong điều gì.
Cầu gì được nấy chả nghi,
Bình an vô sự một khi đi đường.

Lưu niên gặp chuyện hất thường
Bạn thời không gặp, nửa đường lại nguy.
Bằng không lưu lạc một khi,
Nhiều đường trắc trở, nhiều khi nhọc nhằn.

Xích khẩu là chuyện chẳng lành,
Xảy ra tranh cãi lại phiền thị phi,
Lai còn mất của môt khi,
Nếu không gặp họa, phân ly là thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính ngày xuất hành tốt nhất –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1975 Ất Mão –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1975: Gia chủ tuổi Ất Mão 1975 có Quẻ mệnh: Đoài Kim - Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Tây Bắc, thuộc Tây Tứ Trạch Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1975:

nha-bep-hop-phong-thuy

Gia chủ tuổi Ất Mão 1975 có Quẻ mệnh: Đoài Kim – Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Tây Bắc, thuộc Tây Tứ Trạch

Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);

Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1975 Ất Mão –

Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Người tuổi Thân sinh sinh giờ Tý hay bị tiểu nhân quấy rối, sự nghiệp tuy có phát đạt nhưng chức vị bị khắc chế nên khó thăng tiến.
Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Sinh giờ Tý (23-1h):
Thân mệnh Kim sinh Tý mệnh Thủy. Người sinh giờ này hay bị tiểu nhân quấy rối, sự nghiệp tuy có phát đạt nhưng chức vị bị khắc chế nên khó thăng tiến.

(Hình minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Sửu mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người sinh vào giờ này cuộc đời thuận buồm xuôi gió, mọi sự tốt đẹp, uy danh lừng lẫy.

Sinh giờ Dần (3-5h): Thân mệnh Kim khắc chế Dần mệnh Thổ. Người sinh giờ này có số làm quan lớn nhưng vận mệnh trôi nổi, hữu danh vô thực.

Sinh giờ Mão (5-7h): Thân mệnh Kim khắc chế Mão mệnh Mộc. Nhờ sao Tử Vi chiếu mệnh nên cuộc đời tuy có lúc thất bại nhưng cũng vượt qua gian khổ. Người này có số may mắn, gặp hung hóa cát.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Thìn mệnh Thổ sinh Thân Mệnh Kim. Người sinh vào giờ này tài năng nổi trội, mọi việc đều tốt đẹp. Tuy nhiên, một điều không may là bị sao Thiên Tuế chiếu mệnh nên dễ bị phá tài.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Tỵ mệnh Hỏa khắc chế Thân mệnh Kim. Người sinh giờ này số được quý nhân phù trợ trong sự nghiệp. Đôi khi, họ gặp chuyện cãi cọ rắc rối nhưng nhờ sao Thiên Đức chiếu mệnh nên điều xấu được hóa giải.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Ngọ mệnh Hỏa khắc chế Thân mệnh Kim. Người sinh vào giờ này ít may mắn, cả đời phải âu lo.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Mùi mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người này trong đời dễ mắc bệnh tật, nhân duyên khó được thuận hòa, êm ấm.

Sinh giờ Thân (15-17h): Tuổi Thân sinh giờ này là người nghĩa hiệp nhưng dễ bị tổn thương, trong đời có nhiều niềm vui. Tuy nhiên, cần cẩn trọng trong việc kết giao bạn bè để tránh phải lao tâm, suy nghĩ.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Thân mệnh Kim sánh với Dậu mệnh Kim. Người sinh giờ này cuộc đời nhiều u ám, dễ trở thành kẻ chơi bời, phá phách.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Tuất mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người sinh giờ này cuộc đời gặp nhiều khó khăn, ưu phiền.

Sinh giờ Hợi (21-23h): Thân mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Người này có số trắc trở, bị tiểu nhân quấy phá, dễ gặp chuyện kiện tụng, sự nghiệp đôi lúc bị thất bại. May nhờ được sao Thái Dương chiếu mệnh nên vận xấu được hóa giải.

Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà

 

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Kiêng kỵ đầu năm, nên hay không?

Cái Tết bắt đầu cho một năm mới nên những điều kiêng kỵ đều là những điều không được phạm phải trong ngày Tết để cả năm được thuận buồm xuôi gió.
Kiêng kỵ đầu năm, nên hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Cháu cứ thế mà làm theo chứ đừng có coi thường, về nhà chồng ở quê có nhiều phong tục càng phải chú ý đấy!"

Ngày chuẩn bị đi lấy chồng cũng chỉ cách Tết Nguyên đán chừng 1 tháng, bà nội đã viết sẵn ra sổ đủ mọi điều kiêng kỵ ngày Tết căn dặn tôi để khi về nhà chồng đỡ bị bỡ ngỡ.

Những lời “các cụ dặn”

Theo như danh sách ở cuốn sổ bà nội viết ra thì phải kiêng không biết bao nhiêu điều. Trong số đó, điểm mặt một số điều kiêng kỵ mà người Việt Nam ta ai cũng biết. Đầu tiên, đó là chuyện kiêng quét nhà, hót rác đổ ra ngoài.

 
Nhà chồng ở quê nhưng cũng có “cán bộ” chuyên đi thu gom rác. Từ những ngày 29, 30 Tết, ông trưởng thôn đã thông báo “Ngày mùng ba mới bắt đầu đi thu rác. Các gia đình không được vứt rác ra ngoài đường làm mất vệ sinh và mỹ quan ba ngày Tết”. Thế là không kiêng cũng cứ phải kiêng bởi có ai gom ra đâu mà đổ.

Chuyện kiêng kỵ thứ hai cũng không kém phần quan trọng ấy là không được nói những từ không hay, thiếu sự may mắn, kiểu như “chết rồi” hay “tiêu rồi”. Miệng lúc nào cũng phải tươi cười, vợ chồng không được cãi cọ, giận dỗi nhau.

Dân gian có câu “Mồng năm, mười bốn, hăm ba. Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn”. Vì thế, phải kiêng xuất hành vào ngày mồng năm bởi ngày mồng năm tháng giêng âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.

Đặc biệt, bà nội dặn tôi rất kỹ kiêng nấu những món ăn có các loại thực phẩm chế biến từ thịt chó, cá mè, thịt vịt... vì nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ rất đen, kém may mắn. Bên cạnh đó, trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén…

Có kiêng có lành



Tác dụng ngay là chuyện kiêng đổ rác, nhờ đó mà nhà cửa cũng như đường làng ngõ xóm sạch sẽ hẳn suốt mấy ngày Tết.

Rồi cái chuyện kiêng cữ lời ăn tiếng nói, tôi thấy hiệu quả nhất. Mấy ngày Tết, vợ chồng tôi ít tranh luận hẳn. Đi đâu, vợ chồng cũng rủ nhau đi cho có đôi có cặp, nhường nhịn nhau nhiều hơn. Gia đình lúc nào cũng đầy ắp tiếng nói cười, thế nên ba ngày Tết thật vui!

Từ trong sâu thẳm người ta tin rằng Tết đến sẽ mang theo những may mắn, tài lộc cho mọi nhà. Nhà nào được nhiều tài lộc dịp Tết sẽ được may mắn trong cả năm. Nhà nào gặp điều xúi quẩy, không kiêng kỵ được trong mấy ngày Tết thì cả năm sẽ bị vận hạn đeo đẳng. Cũng bởi vậy mà việc kiêng kỵ trong những ngày Tết được hầu hết các gia đình Việt Nam đặt lên hàng đầu.

Cái Tết đã cận kề và tôi lại nhớ những điều kiêng kỵ mà bà nội căn dặn trước khi đi lấy chồng. Nhất định, Tết này tôi sẽ cùng gia đình sẽ kiêng những điều “các cụ dặn” để cả năm gia đình thật may mắn.

(Theo Laodong.com.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ đầu năm, nên hay không?

Giải mộng về hiện tượng ngủ mơ thấy rắn

Ngủ mơ thấy rắn thì có tốt không? Người phụ nữ mà ngủ mơ thấy rắn thì hên hay xui, giải mã điềm báo về giấc chiêm bao này như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của nhiều nước thì rắn rất là linh thiên và quyền lực, biểu tượng cho sức mạnh thiên nhiên, rắn còn là biểu tượng cho một vị thần của Hy Lạp.

Theo các nhà nghiên cứu thì rắn còn biểu tượng cho vua chúa, là sự bảo vệ quyền lực, về của cải và cả bí mật. Với hiện tượng lột xác, đây là biểu tượng cho sự thay đổi, đối mới cho sự thay đổi những tính cách, quan điểm của bản thân theo hướng tích cực.

Giải mộng về hiện tượng ngủ mơ thấy rắn

Xem thêm: Giải mã giấc mơ về giới tính thai nhi

Dưới đây là những điềm báo, điềm về hiện tượng ngủ mơ thấy rắn mà các tiền nhân xưa đã chiêm nghiệm là ghi lại được Phong thủy số tổng hợp dưới đây:

Giải mã điềm báo mơ thấy rắn

Phụ nữ mơ thấy rắn: Bạn nên cẩn thận sức khỏe cho mình và con cái.

Phụ nữ ngủ mơ thấy rắn chui vào lòng: Bạn sắp có bầu.

Đàn ông mơ thấy rắn: Bạn có ham muốn về tình dục

Người làm ăn, kinh doanh mơ thấy rắn: việc làm ăn của bạn sẽ thuận lợi và phát đạt.

Ngủ mơ thấy rắn bò vào nhà:  Đây là điềm báo báo hiệu bạn được may mắn, nhặt được của rơi.

Ngủ mơ thấy rắn bò vào nhà bếp: Đây là điềm báo gia đình bạn sắp đón tiếp một vị khách có quyền tước.

Ngủ mơ thấy rắn đang lao mình trên mặt nước: Điềm báo rằng bạn có thể lên được vị trí cao hơn trong công việc.

Ngủ mơ thấy có cả đàn rắn bò theo mình: Điềm báo bạn có nhiều tham vọng đen tối.

Ngủ mơ thấy rắn cắn người khác: Điềm báo bạn sẽ gặp được may mắn, sắp tới có nhiều tài lộc.

Ngủ mơ thấy rắn màu lục hay rắn màu xám: Đây là điềm báo thể hiện sự tốt lành.

Ngủ mơ thấy rắn màu đỏ hoặc màu đen: Bạn nên cẩn thận với giều tiếng xấu, hoặc bị người khác nói xấu, bôi nhọ.

Ngủ mơ thấy rắn màu vàng hoặc màu trắng: Báo hiệu sắp tới bạn có chuyện lôi thôi, có liên quan tới pháp luật.

Ngủ mơ thấy một đôi rắn: Nên cẩn thận chuyện vợ chồng, tránh to tiếng, cãi vã.

Nếu ngủ mơ thấy rắn thì nên chọn số nào thì may mắn:

Nếu mơ thấy rắn cắn nên chọn số 14, 59, 95

Nếu mơ thấy rắn cắn chân nên chọn số 57

Nếu mơ thấy rắn cắn người  nên chọn số 43, 73

Nếu ngủ mơ thấy rắn 2 đầu nên chọn số 15, 51

Nếu ngủ mơ thấy rắn nằm trên đất chọn số 38, 78

Nếu ngủ mơ thấy con rắn đuổi nên chọn số 69

Nếu ngủ mơ thấy con rắn quấn lên người thì nên chọn số 49, 97

Nếu ngủ mơ thấy con rắn quấn lấy chân thì nên chọn số 96

Nếu ngủ mơ thấy con rết nên chọn số 00, 20, 28, 40, 82

Xem thêm: Giải mã các điềm báo về hiện tượng nháy mắt trái, giật mặt phải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mộng về hiện tượng ngủ mơ thấy rắn

Đôi bàn chân trong giấc mơ

Đôi chân có vai trò cực kỳ quan trọng, nó giúp con người đứng vững và có thể di chuyển được từ vị trí này sang vị trí khác. Nếu bạn mơ thấy bàn chân mình đang
Đôi bàn chân trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được chăm sóc thì điều đó co nghĩa là chân bạn đang có vấn đề và cần phải chữa trị ngay lập tức.

 

Doi ban chan trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy mình đang rửa chân, điều này cho biết bạn là người khiêm tốn, luôn tận tâm với công việc.
 

Đôi chân còn thể hiện tâm trạng của mỗi người, có thể là vui vẻ hoặc tức giận. Khi giậm chân mạnh xuống đất cho thấy bạn đang tức giận một việc gì đó. Còn bước đi nhẹ nhàng, khoan thai có thể là bạn đang vui vẻ, bằng lòng với cuộc sống thực tại.
 

Mơ thấy gót chân của mình là điềm báo sức khỏe của bạn đang dần hồi phục quãng thời gian làm việc mệt mỏi kéo dài.
 

Mơ thấy mình đi chân không, điều này mang ý nghĩa là bạn đang có một sức khỏe dồi dào và một tinh thần vô cùng thoải mái. Ngòai ra, điều này còn dự báo bạn sẵp tham gia vào một cung đường khám phá những vùng đất mới mẻ, điều này vô cùng thú vị đấy.
 

Hơn thế nữa, mơ thấy mình đi chân trần còn ám chỉ bạn là người lạc quan, không lo lắng, ưu phiền. Ít khi bạn để những cảm giác chán chường xâm chiếm tâm hồn mình. Bạn thích được làm việc thật thoải mái, không bị gò bó theo quy củ. Giấc mơ này cũng dự báo công việc sắp tới của bạn sẽ diễn ra cực kỳ thuận lợi và suôn sẻ.


Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đôi bàn chân trong giấc mơ

Tìm hiểu về 12 con giáp

Nước ta hiện nay đang tồn tại hai loại lịch : trong khi du lịch đang có xu hướng lan rộng thì âm lịch vẫn tiếp tục khẳng định vị trí và sức mạnh của nó trong đời sống tâm linh của dân tộc. Âm lịch gắn liền với tế tự, lễ hội, với sinh hoạt ma chay, cưới gả, dựng nhà, dựng cửa ... Và cứ mỗi lần tết Nguyên Ðán về, người ta lại nghênh đón một con vật mới và lưu luyến tiễn đưa con vật biểu trưng của năm củ đã đi về quá khứ với lời hẹn gặp lại sau 12 năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc chọn các con vật làm biểu tượng đứng đầu mỗi năm - tức là 12 con giáp - phải chăng là một sự ngẫu hứng, tuỳ tiện hay là nó tuân theo một quy luật nhất định nào đó ?

Trước hết, ta phải thừa nhận dân tộc nào cũng có quan niệm, cũng có cảm thức về thời gian, nhưng không phải nước nào cũng làm được lịch, cũng có chuẩn mực về lịch. Lịch Pháp gắn liền với thiên văn, với chiêm tinh học, là sản phẩm quan trọng mà các nền văn minh tối cổ như Trung Hoa, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp đạt được. Có thể nói rằng chính vẻ đẹp hùng vĩ của bầu trời ban đêm góp phần quan trọng cho tư thế của con người mãi mãi đứng thẳng, giúp con người hoàn thiện dần để trở thành Con Người viết hoa. Ngưỡng mộ vẻ đẹp của bầu trời sao còn thúc đẩy con người vươn tới khát vọng chinh phục vũ trụ, một khát vọng mang tính chất định mệnh của nhân loại. Về điều này, các huyền thoại xưa về Ica, về chiếc thảm bay, về Hậu Nghệ xạ nhật, Nữ Oa vá trời, Phù đổng thiên vương về trời sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm, Chử Ðồng Tử và Tiên Dung trở về thượng giới. Thật vô cùng đẹp đẽ và mang tinh thần nhân văn. Mười hai con giáp, về nhiều mặt cũng mang vẻ đẹp đó.

Thứ hai, nước ta không có lịch (Sau này các triều đại ta có làm lịch khác với lịch Trung Quốc, nhưng vẫn từ cách nhìn chung. Tuy nhiên, vấn đề này còn để ngỏ để chờ nghiên cứu thêm các tài liệu thời cổ sử). Âm lịch mà chúng ta sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc và được hoàn thiện, bổ sung bởi thực tiễn kinh nghiệm sản xuất,kinh nghiệm thiên văn của dân tộc ta. Nói chung việc giao thoa văn hoá giữa các nền văn minh bao giờ cũng xảy ra với những thành tựu về nhiều lãnh vực. Dân tộc này vay mượn của dân tộc khác những sản phẩm hoàn thiện hơn, mang tính thực tiễn cao hơn. Nhấn mạnh điều này để thấy rằng muốn hiểu được mười hai con giáp thì phải trở về với cội nguồn Trung Hoa của nó, trở về với triết học Trung Hoa cổ xưa, đặc biệt là thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

Thứ ba, các cách gọi, cách định danh ngoài ý nghĩa biểu tượng cụ thể, chúng còn mang sức mạnh khái quát rất lớn. Chúng trở thành các "ký hiệu thông tinh" để chứa các nội dung thông tin theo một cách mã hoá thông tin nào đó, vì thế, giải thích việc mười hai con giáp không tách rời việc giải mã này.

o0o

Âm Dương Ngũ Hành gắn liền với tư duy Dịch lý là nền tảng để xây dựng các quan điểm trong đó có thiên văn. Người xưa xuất phát từ quan sát thực tiễn để định dạng sự vật :

Âm là thái âm tức là Mặt trăng

Dương là Thái dương tức là Mặt trời

Ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ

Là năm hành tinh mà người cổ đại sớm nhận biết được cuả hệ mặt trời. Bên cạnh đó, quan niệm Trời = cha, Ðất= mẹ và quan niệm về một vũ trụ hài hoà cũng đóng vai trò quan trọng đối với người xưa. Và như vậy Trời = thiên là dương, Ðất = địa là âm, thượng giới và hạ giới được phân định, trật tự của vũ trụ được xác lập và trật tự xã hội cũng theo đó được hình thành. Trong xã hội có quan hệ vua - tôi, quân tử - tiện dân, có nội trị - ngoại giao, trong - ngoài, trên - dưới, trước - sau, phải - trái, đúng - sai, thật- giả. Tất cả đều được quy tụ vào phạm trù âm dương, được quy vào các phẩm chất ngũ hành. Tuy nhiên, sự phân chia âm - dương không phải thùân tuý máy móc mà nó xuất phát từ nguyên lý của dịch học: "Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ lượng, tứ lượng sinh bát quái". Nghĩa là trong sự xếp đặt đó đã bao hàm một sự vận động biện chứng, đặc biệt là quan niệm trong "âm có dương, trong dương có âm " trở thành nguyên tắc cấu trúc sự vật. Do đó, khát vọng về một cuộc sống hiền hòa, một xã hội ổn định, một trạng thái cân bằng là giấc mộng đẹp và là đích hướng tới, của người xưa. Vậy thì quan niệm âm dương ngũ hành có liên quan gì đến mười hai con giáp.

Theo sự phân tích của người xưa, mưòi hai con vật được tuyển chọn, bao gồm cả vật nuôi lẫn thú vật hoang dã, vừa có thật vừa tưởng tượng, đều đáp ứng nguyên tắc âm dương, chẵn lẽ. Ở đây cũng cần nói thêm về dương cơ, âm ngẫu, cơ là số lẽ, ngẫu là số chẵn. Các con vật được chọn đều có phẩm chất chẵn lẽ mang đặc trưng loài của chúng, thể hịên qua số ngón chân của chúng. Cụ thể là :

= con chuột = 5 ngón = lẻ = dương.
Sửu = con trâu (trong thiên văn Trung Quốc nghĩa là ngưu = con bò ) = 2 ngón = chẵn = âm
Ngọ = con ngựa = một ngón = lẻ = dương
Mùi = con dê = hai ngón = chẵn = âm
Thân = con khỉ = năm ngón = lẻ = dương
Dậu = con gà = bốn ngón = chẵn = âm
Tuất = con chó = năm ngón = lẻ = dương
Hợi = con lợn = bốn ngón = chẵn = âm

Như vậy, số ngón tối đa là 5, tối thiểu là 1, còn lại là 2 và 4. Tuyệt nhiên không có số 3.

Số 3 được đưa vào hệ tam tài : Thiên - Ðịa - Nhân, hệ tọa độ quan trọng mà người xưa xác nhập được nhằm khẳng định vai trò của nó trong vũ trụ. Con người luôn có ý thức dùng kích thước vũ trụ để đo bản thân. Vì thế, người Hy Lạp cổ mới mãn nguyện về việc "con người sánh tựa thần linh", và họ sáng tạo ra thế giới điêu khắc có một không hai để ca ngợi vẻ đẹp này. Con người không hề ích kỷ khi cố gắng hoàn thiện bức tranh vũ trụ. Họ đưa các con vật thực vừa huyền thoại tạo ra sự đúng lúc cho thế giới nhân quần, nhưng đồng thời đó cũng là những con vật mà họ thuần hoá hoặc những con vật họ thường gặp và thường gây những nguy hiểm cho họ.

Như vậy, tiêu chuẩn số chẵn lẻ của ngón chân đã gíup các loài vật được chọn làm 12 con giáp. Nhưng số ngón chẵn lẻ cũng như cái tên chuột, mèo, rồng, rắn của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ. Con người lại phải gán cho chúng các phương vị :

Tý = Bắc Ngọ = Nam

Mão = Ðông Dậu = Tây

Và hàng đêm khi quan sát sao Bắc Ðẩu, người ta thấy cái đuôi của nó cứ quay đều đặn trên tinh cầu theo một vòng tròn, duy có điều nó giống kim đồng hồ quay ngược. Vòng tròn đó được chia theo phương vị 12 cung và 12 con giáp được trấn giữ 12 phương vị này.

Chuyện vẫn chưa hết. Trong những phát hiện quan trọng của thời tối cổ có việc phát hiện ra đường hoàng đạo -đường dịch chuyển của mặt trời. Vòng Hoàng đạo được chia làm phù hợp với mười hai tháng của năm. Và 12 con giáp lại được trấn giữ 12 cung Hoàng đạo này. Tuy nhiên con số 12 được người xưa chọn không phải là một con số tuỳ tiện mà là một con số hoàn toàn khoa học, và để hiểu được diều đó thì không đơn giản chút nào.

Có liên quan 12 cung Hoàng đạo cần phải kể đến Ngũ Hành: năm hành tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ, trong chu kỳ vận hành của sao Mộc mà người phương Tây đặt tên là Juypiter được người xưa ghi nhận bởi tính đặc hiệt của nó. Sao Mộc vận hành xung quanh Mặt Trời trọn 12 năm. Mỗi năm nó xuất hiện một phương vị nhất định. Nơi do trong12 con giáp đang trấn giữ. Tên gọi của nó cũng từ đó mà ra vì thế sao Mộc được gọi là ssao Tuế (sao năm) và vì nó là hành tinh lớn nhất trong hệ Mặt Trời và của các hành tinh mà người xưa quan sát được nên nó còn gọi là sao Thái Tuế. Vùng sao Thái Tuế là một mã thông tin quan trọng của phép tính tính tử vi.

Liên quan đến việc chọn mười hai con giáp là những quan sát, những nhận xét về cuộc sống của những loài vật này.Vào những khoảng giờ nhất định, các loài vật -ta chỉ giới hạn trong mười hai con giáp -chịu sự tác động qua lại của các lực vũ trụ đã có các biểu hiện trạng thái sống khác nhau. Cái trạng thái xấu nhất cho sự sống còn của chúng được biểu hiện bằng các khoảng thời gian (giờ, ngày, tháng, năm ) và được gọi theo tên của chúng. Cụ thể :

Tên giờ: Ảnh hưởng xấu tới:
Chuột
Sửu Trâu
Dần Hổ
Mão Thỏ
Thìn Rồng
Tỵ Rắn
Ngọ Ngựa
Mùi
Thân Khỉ
Dậu
Tuất Chó
Hợi Lợn

Chúng ta thử kiểm nghiệm điều này vì các con vật này không xa lạ với chúng ta. Tất nhiên trừ con rồng huyền thoại.

Cũng có thể do quan sát đời sống của các loài vật mà người đi đến chỗ thống kê đặc điểm sinh học của chúng, từ đó khái quát thành mười hai con giáp. Ðặc biệt người xưa chú ý tới các thời điểm có vấn đề của con vật :

Tháng Tý = tháng mười một : loài chuột hay bị bệnh và chết. Thực tế còn cho thấy đây là tháng bắt đầu lạnh nhiều, đồng ruộng vào vụ cày bừa, chuột không có ăn và không chống nổi rét nên dễ chết.

Tháng Sửu = tháng mười hai, tháng chạp : tháng rét đậm với đại hàn, tiểu hàn cây cỏ tàn lụi. Ăn không đủ mà còn phải kéo cày nữa nên loài trâu sinh bệnh mà chết.

Tháng Dần = tháng giêng : thức ăn của hổ là các loài thú khác. Tháng này các loài ăn cỏ như hươu nai đi kiếm ăn vì cỏ tranh đã nhú mầm. Hổ cũng đi tìm mồi, dẩm phải các mầm cỏ tranh nhọn cứng mà bị thương và kéo theo cái đói nên dễ bệnh.

Tháng Mão = tháng hai : Mão là con mèo, nhưng trong thiên văn cổ Trung Quốc thì biểu tượng của tháng này là con thỏ. Tiết này là tiết kinh trập (sâu nở) và cùng với sâu là chất độc do sâu thải ra, thỏ ăn vào tất phải chết.

Tháng Thìn =tháng ba : Rồng là một con vật của huyền thoại, nhưng khi được xác định (cho dù chỉ là tưởng tượng ) thì tất yếu nó cũng có đời sống riêng, kể cả ốm đâu, bệnh tật và cái chết nhưng tháng này Rồng có bị bệnh không thì không ai biết. Nhưng nếu trở lại cội nguồn huyền thoại thì có thể hiểu được phần này. Rồng là một con vật được giao phó làm mưa, đi liền với sấm sét. Cha ông ta có câu tục ngữ : tháng ba sấm chạy, phải chăng vì trách nhiệm nặng nề này mà con rồng dễ bị gặp những điều không may ?

Tháng Tỵ =tháng tư : Sau thời kỳ ngủ tránh rét và liền sau đó là mưa xuân ấm áp, thức ăn dồi dào, rắn phải lớn lên bằng cách lột xác. Trong thời kỳ lột xác, rắn yếu nhất và là miếng mồi ngon cho các con vật khác.

Tháng Ngọ = tháng năm : Mùa hè nóng nực, lại là thời kỳ thu hoạch mùa màng nên ngựa phải làm việc nhiều, dễ mắc bệnh mà chết.

Tháng Mùi=tháng sáu: Loài sơn dương dễ mắc bệnh vì thức ăn không còn ngon lành nữa : lá cây già cứng, mưa nhiều và thất thường nên khả năng mắc bệnh.

Tháng dậu=tháng tám: đầu tháng lụt lội, cúi tháng gió heo may, gà vừa đói vừa rét, ôn dịch phát sinh và gà chết.

Tháng tuất=tháng chín : tháng này chó hay bị mắc bệnh. Kinh nghiệm dân gian Nghệ Tĩnh cho thấy tháng này trùng hợp với mùa mưa, chó rất hay chết. Ðặc biệt nếu chó đẻ vào tháng này thì chó nuôi rất khôn.

Tháng hợi=tháng mười : gió đông bắc về mang theo các mầm bệnh. Lễ hội mở ra, trâu, bò,lợn,khỉ bị giết nhưng điều kiện vệ sinh không tốt nên lợn được các khoảng thức ăn thừa thì tất nhiên rất dễ nhiễm bệnh và chết.

Tất cả nhận xét trên đây đều cho thấy sự quan sát tỉ mỉ của người xưa cũng như sự quan tâm tới môi trường, tới thiên nhiên của họ. Quan sát và tưởng tượng là hai phẩm chất quí giá của con người. Quan sát để rút ra các bài học kinh nghiệm bổ ích. Tưởng tượng để cuộc đời cao đẹp hơn. Bạn hãy tự kiểm nghiệm về bản thân mình, biết đâu những ghi nhận hàng ngày của bạn liên quan đến tuổi tác của bạn, phối hợp với nhịp sinh học của bản thân lại trở nên hữu ích và vô cùng cho chính bạn.

Câu chuyện mười hai con giáp sẽ thiếu sót nếu không đề cập đến can chi. Can chi là hệ đếm số 60,nó phối hợp các hệ đếm cơ số 2, 10, 12 và một hệ đếm liên quan tới nhiều nền văn minh cổ. Người Babilon cách đây 3000 năm với hệ đếm 60 đã chính xác một năm có 360 ngày. Với hệ đếm 60 hệ can chi dẫn đến các tiện lợi cho phép tính thời gian vì 60 là bộ số của nhiều số như :

Số 3 =số tháng trong một quí

Số 6=số tháng trong nửa năm

Số 10=số ngày trong một tuần trăng (âm lịch)

Số 12=số tháng của một năm - số năm của một con giáp- số giờ trong một ngày (giờ âm lịch)

Số 15=số ngày trong một tiết

Số 30=số ngày của một tháng.

Hệ đếm này xuất hiện từ lâu, được ghi lại trong giáp cốt văn.

Can có nghĩa là thân cây có gốc ở Trời (nên gọi là Thiên can). Người ta dùng ngũ vận để tính Thiên can : tức là 2 x 5=10 Thiên can. Bản thân Thiên can cũng có âm dương :

Dương can : Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.

Âm can : Ất, Ðinh, Kỷ, Tân, Quí.

Chi có nghĩa là cành trúc bị lìa khỏi thân, là cành nơi mặt đất (nên gọi là Ðịa chi). Ðịa chi được tính theo lục khí là 2 x 6=12. Ðịa chi cũng có âm dương.

Dương chi : Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.

Âm chi : Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.

Ngyên tắc phối hợp can chi là dương hợp dương, âm hợp âm, thiên can là cha (cũng có nghĩa là dương ), đứng trước địa chi (có nghĩa là âm) đứng sau.

Ta có:

Giáp Tý......................

.....................Ất Sửu

Bính Dần...............

....................Ðinh Mão.

Cứ thế tiếp tục mãi. Song thiên vì can thiên có 10, Ðịa chi có 12, nên một vòng can chi là 60. Số 60 được gọi là lục thập hoa giáp, Nguyên tắc dương kết hợp với dương,âm kết hợp với âm là bất di bất dịch, vì vậy không bao giờ có Giáp sửu, Mậu dần cả, nguyên tắc kết hợp này cho phép từ dương tạo ra dương, từ âm tạo ra âm, trong 60 ngày thì có 30 ngày âm, 30 ngày dương tạo ra nhịp vận động của thời gian, tạo ra sự thăng giáng.

Cách gọi can chi trước tiên là để chỉ ngày, sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó, nó được dùng gọi giờ, tháng và năm. Như vậy can chi trở thành đơn vị thời gian âm lịch. Nếu có điều kiện để kiệm thì các nhận xét về bệnh tật của các con giáp đã nêu ở trên, cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này.

Ðể hiểu rõ hơn trước hết ta tìm hiểu ý nghĩa của can chi. Nguồn gốc của can chi đều từ cây :

Thiên can:

1. Giáp=cây cỏ đội đất nẩy mầm,dương cốt âm bì.

2. Ất =cây cỏ mới mọc yếu ớt, cong gập.

3. Bính=là cán, như mặt trời sáng chói, mọi vật đều sáng rõ.

4. Ðinh=cây cỏ trưởng thành mạnh mẽ, như người lớn đã trưởng thành "tráng đinh".

5. Mậu=rậm rạp,nghĩa là cây cỏ phát triển rậm rạp

6. Ky=là ghi chép. Các con vật từ cong (Ất) nay đã thẳng dậy, nên ghi chép lại.

7. Canh=thay đổi, lúc này là mùa thu, mùa hái lượm, thu cất,tất cả hẹn mùa sau.

8.  Tân=là mới muôn vật thay đổi, hoa quả mới thành. Tân cũng có thể là hợp chất của kim loại, là vị cay, quả chuyển vị, vật thành có vị.

9.  Nhâm=là thai nghén, dương khí tiềm ẩn trong đất, mọi vật đang kỳ thụ thai.

10. Quí=là đỏ, mọi vật mang mầm thai đang ẩn tàng, bản thân thai mầm đang từng bước chuyển hoá.

Ðịa chi :

1.=là mầm cây, là hạt giống cây cỏ đang hút nước trong đất để nẩy mầm, là hiện tương hạt trương nước để khởi đầu một mầm dương.

2.Sửu=mầm nảy trong đất, trạng thái cong queo, đang chờ đội đất để mọc lên.

3.Dần=phát triển,từ chỗ uốn gấp, mầm đón ánh sáng để đội đất vươn lên.

4.Mão= rậm tốt, mặt trời từ phương đông toả sáng rực rỡ giúp muôn loài sinh trưởng tươi tốt

5.Thìn =chấn động,dương khí tràn về, muôn vật thoả sức phát triển.

6.Tỵ=vươn dậy và phát triển sung mãn, âm khí đã hết, thuần dương.

7.Ngọ=muôn vật đã trưởng thành đầy đủ, dương khí đầy đặn, mùa gặt hái đã về.Âm khí đã bắt đầu hình thành.

8.Mùi = là vị, quả đã chín và có vị ngọt.

9.Thân = thân thể, vật đã trưởng thành

10.Dậu = co lại phát triển bên ngoài ngừng.

11.Tuất = diệt cành khô lá úa héo cây cỏ úa tàn sinh khí không còn.

12.  Hợi = bóp chết, âm khí tràn ngập, mọi vật chìm trong chết chóc.

Dùng can chi để đặt tên các năm thì gọi là "can chi ký niên" và cứ 60 lại quay lại quay lại vòng tròn. Vòng này là vòng Giáp Tý. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì đến năm 1983, đã diễn ra 77 vòng Giáp Tý. Năm 1984 năm Giáp Tý là vòng xoay thứ 78. Dùng can chi để ghi tháng gọi là "can chi ký nguyệt" can chi để ghi ngày thì gọi là "can chi ký nhật". Tên can chi của tháng gọi là nguyệt kiến, tên can chi của ngày gọi là nguyệt sóc.

Ngoài việc phân chia can chi thành âm dương, người ta còn chia can chi theo ngũ hành, cụ thể :


Từ đó cũng có can chi xung hợp. Cụ thể:

1.Những thiên can hợp nhau:

Giáp hợp Kỷ,  Ất hợp Canh

Bính hợp Tân, Ðinh hợp Nhâm

Mậu hợp Quý

2.Những thiên can xung nhau :

Giáp xung Mậu, Ất xung Kỷ

Bính xung Canh, Ðinh xuân Tân

Mậu xung Nhâm, Kỷ xung Quý

Canh xung Giáp, Tân xung Ất

Nhâm xung Bính, Quý xung Ðinh

3. Ðịa chi:


Thiên can Ðịa chi còn được đặt trong quan hệ với cấu trúc cơ thể, là cách mã hoá các vùng, các bệnh tật, được xem xét trong tương quan với màu sắt, phương vị. Từ đó, chức năng mà mười hai con giáp đảm nhiệm không phải nhẹ nhàng. Và cũng do đó hiểu được mười hai con giáp giúp cho sự nhận diện cuộc sống đơn giản hơn, tức là tìm ra cốt lõi của nó, tìm cách cân bằng và đảm bảo sự hài hoà trong cuộc sống. 

  1. 1) Mười hai con giáp
  2. 2) Việc chọn mười hai con giáp ở các nước
  3. 3) Quan niệm về tính cách con người theo các tuổi:
    Bên Nhật
    Phương Tây
  4. 4) Tại sao có chuyện "Cầm tinh" 12 con vật ?
  5. 5) Vì sao người xưa đều cầm tinh các con vật ?
  6. 6) Chuyện lấy tên các con vật đặt tên cho năm

Lược trích từ sách "12 con giáp"


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về 12 con giáp

Nguyên tắc sắp xếp đồ gia dụng trong nhà ở –

Chú ý tính thực dụng của đồ gia dụng Khi mua đồ gia dụng không nên chỉ chú trọng kiểu dáng mà không xem hiệu quả sử dụng. Vì thế, khi mua đồ gia dụng cần phải xem xét đến nhu cầu sinh hoạt thực tế của gia đình minh. Thận trọng khi chọn màu đồ gia dụn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chú ý tính thực dụng của đồ gia dụng
Khi mua đồ gia dụng không nên chỉ chú trọng kiểu dáng mà không xem hiệu quả sử dụng. Vì thế, khi mua đồ gia dụng cần phải xem xét đến nhu cầu sinh hoạt thực tế của gia đình minh.

2445f5d85f2ad89dae57e7f0b6c5aa6a-1

Thận trọng khi chọn màu đồ gia dụng

Đồ gia dụng gam màu nhạt thích hợp với những căn phòng nhỏ hoặc những căn phòng hướng Bắc có điều kiện ánh sáng không được tốt, những căn phòng có ánh sáng tốt có thể chọn đồ gia dụng gam màu sẫm, biểu hiện không khí cổ kính, trang nhã.

Không nên coi thường đối tượng sử dụng

Người lớn tuổi không thích chạy theo mốt mà mua những chiếc tủ cao, lớn, tuy tủ cao tiết kiệm được không gian nhưng trèo cao để lấy đồ thì không thuận tiện.

Nên nhìn xa một chút

Những đôi vợ chồng mới cưới đi mua đồ gia dụng không những chọn kiểu dáng mới mà, mà còn chú trọng đến cuộc sống sau khi sinh con. Ví dụ, lắp cửa gương kính vào chiếc tủ thấp có thể trở thành mục tiêu công kích của trẻ nhỏ. vì thế tốt nhất nên chọn cửa gỗ.

Cần chú ý đặc điểm môi trường

Ở gần nơi có ống khói của nhà máy, bụi bẩn tương đối nhiều, kiểu dáng đồ gia dụng nên đơn giản, nếu không lúc lau chùi bạn sẽ phải mất một lượng lớn thời gian quý báu. Hơn nữa, trong những căn phòng tương đối ấm ướt không nên dùng những đồ gia dụng có bọc góc.
Cần giữ lại một khoáng trống
Đồ gia dụng trong phòng chiếm khoáng 45% diện tích là thích hợp nhất, nên để một khoáng trống để còn đặt các đồ dùng sinh hoạt khác như thiết bị điện và giá treo mũ, áo…
Chú ý kích thước đồ gia dụng
Kích thước đồ gia dụng phẳng hay lập diện cần phải ăn khớp với độ cao, diện tích căn phòng để phòng tránh đồ gia dụng mua về rồi lại không đặt được trong phòng hoặc phá vỡ bố cục bề mặt mà mình đã nghĩ từ trước.
Chú ý khi phối hợp quy cách, màu sắc đồ gia dụng
Ngoài những đồ gia dụng đồng bộ, trong nhà chúng ta còn phải phối trí các đồ gia dụng khác như bàn ghế ăn, bàn trà… Vì thế, đầu tiên cần tìm hiểu cách phối trí màu sắc, kiểu dáng và quy cách của dơn chiếc một, để tránh sau này khó phối hợp.
Đồ gia dụng có dễ dàng chuyển vào trong phòng không

Mẫu chốt là đường chéo dài nhất của đồ gia dụng không được lớn hơn lối đi hoặc đường chéo lớn nhất của góc ngoặt cầu thang. Đương nhiên, khi thiết kế nhà mọi người cũng đã nghiên cứu kích thước kiến trúc ngôi nhà, nhưng một số người ở trong những ngôi nhà kiểu cũ thì nên chú ý đến nhân tố này.
Thận trọng khi mua đồ gia dụng thịnh hành

Kiểu dáng đồ gia dụng càng thịnh hành thì càng dễ lỗi mốt, ngược lại, khả năng cảm nhiễm của đồ gia dụng truyền thống thì rất lâu bền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc sắp xếp đồ gia dụng trong nhà ở –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd